Xuyên suốt chặng đường lịch sử lâu dài hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, có biết bao câu chuyện bí ẩn, biết bao điều uẩn khúc mà qua lớp bụi phủ dày của thời gian có thể khiến hậu thế sẽ không bao giờ lý giải được. Đi tìm câu trả lời cho những ẩn số thiên cổ ấy, xét đến cùng mà nói, chính là cách lưu truyền, gìn giữ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc vẹn toàn nhất.
Các vua Hùng trị vì bao nhiêu năm?
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, triều đại các vua Hùng ở Việt Nam bắt đầu khi vua Kinh Dương Vương lên ngôi năm Nhâm Tuất (2879 TCN). Triều đại này kéo dài đến năm Quý Mão (258 TCN) thì kết thúc với 18 đời vua Hùng nối nhau trị vì trong 2.622 năm. Tính trung bình, mỗi thời vua Hùng Vương kéo dài khoảng… 150 năm?
Trung bình, mỗi vị vua Hùng có thọ mệnh khoảng 150 tuổi. (Ảnh: Internet)
Nghe thì có vẻ hơi ‘hoang đường’, vì gần như 18 đời vua Hùng đều sống thọ khoảng 150 tuổi, trong khi con người ngày nay khó có thể đạt đến được độ tuổi như thế, ngay cả như quốc gia Monaco, với tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới cũng chỉ đến 90. Nhưng nếu chúng ta tra cứu lại lịch sử về những người đã từng sống ‘thọ nhất’, thì dù là con số 90, hay 150 năm không phải là hiếm, thậm chí còn thua xa các bậc tiền nhân đi trước.
Tuyển tập 12 quyển Vĩnh Thái Huyện Chí năm thứ 13 thời vua Càn Long nhà Đại Thanh đã được biên tập lại và xuất bản năm 1922 có ghi chép về người đàn ông tên là Trần Tuấn tự Khắc Minh, ngụ tại thôn Thang Tuyền, huyện Vĩnh Gia Sơn, tỉnh Phúc Kiến (nay là thôn Thang Trình, xã Ngộ Đông, huyện Vĩnh Thái). Người đàn ông này sinh năm 881 niên hiệu Hy Tông Trung nhà Đường (năm tân sửu) mất năm 1324 niên hiệu Thái Định Giáp Tử nhà Nguyên, hưởng thọ 443 tuổi.
Hình vẽ phác hoạ Trần Tuấn (Khắc Minh) nhà Thanh thọ 443 tuổi. (Ảnh: Internet)
Một trường hợp sống thọ đáng kinh ngạc khác là danh y Lý Khánh Nguyên sinh năm 1677, mất năm 1933, hưởng thọ 256 tuổi. Lý Khánh Nguyên là danh y nổi tiếng cuối đời nhà Minh đầu nhà Thanh. Năm 100 tuổi ông đã được nhà vua trao tặng giải thưởng đặc biệt cho những cống hiến trong y thuật. Năm 200 tuổi ông bắt đầu giảng dạy trong trường đại học. Rất nhiều học sĩ phương Tây nghe danh tiếng đến xin được gặp ông.
Danh y Lý Khánh Nguyên thọ 256 tuổi. (Ảnh: Internet)
Và còn nhiều cái tên khác nữa, quý vị có thể tra cứu lại trong lịch sử. Vậy nếu so tuổi với Trần Tuấn và Lý Khánh Nguyên, thì 18 vị vua Hùng của chúng ta có khi còn bị coi là “đoản thọ” cũng nên! Đó là còn chưa nói đến người xưa còn rèn luyện dưỡng sinh, tu tâm, tu đạo, đời sống thanh cao, không khí mát mẻ, cảnh vật thơ mộng, đạo đức cao thượng, ít dục vọng… môi trường sống rất tốt cho sức khoẻ, hoàn toàn có thể đạt đến được độ tuổi như trên.
Ai sát hại Vua Đinh Tiên Hoàng?
Sử sách chính thống của Việt Nam đều ghi rằng người giết chết Đinh Tiên Hoàng – vị vua sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt là hoạn quan Đỗ Thích. Sử chép rằng, viên quan này mơ thấy sao rơi vào miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết cả Đinh Tiên Hoàng và Thái tử Đinh Liễn.
Tuy vậy, nhà giáo Hoàng Đạo Thúy và một số nhà sử gia gần đây cho rằng, Đỗ Thích không phải là thủ phạm giết vua. Vì Đỗ Thích chỉ là một viên hoạn quan, chức nhỏ, sức mọn, không hề có uy tín hay vây cánh, dù có gan đến mấy cũng không thể liều lĩnh đến như vậy được. Một giả thuyết được đặt ra: Đỗ Thích chỉ là tấm bình phong che đậy cho thủ phạm thực sự, Lê Hoàn và Dương Vân Nga mới chính là thủ phạm.
Theo lý giải, việc Lê Hoàn làm Phó vương khi Đinh Toàn lên ngôi, cấm cố họ Đinh cùng với việc các trung thần chống đối có thể là biểu hiện cho thấy mưu đồ chiếm ngôi của Lê Hoàn. Hành động của Lê Hoàn nhiều khả năng đã có sự trợ giúp của Dương Vân Nga.
Nghi án lịch sử! (Ảnh: Internet)
Dương Vân Nga, có thể giữa bà và các hoàng hậu khác (Tiên Hoàng có những 5 hoàng hậu) đã xảy ra cuộc đua giữa họ về tương lai của ngôi thái tử. Do yếu thế trong cuộc cạnh tranh này, Dương Vân Nga đã chọn Lê Hoàn làm chỗ dựa.
Do vậy, dù động cơ có phần khác nhau, Dương hậu đã cùng Lê Hoàn tiến hành vụ ám sát chấn động lịch sử và dùng Đỗ Thích như một hình nhân thế mạng.
Lê Long Đĩnh có thật là vị vua tồi tệ nhất lịch sử?
Trong chính sử Việt Nam, Lê Long Đĩnh được mô tả là người bạo ngược, tính hay chém giết, ác bằng vua Kiệt, vua Trụ ngày xưa. Ông nổi danh vì những thú vui tàn ác như tra tấn tù binh bằng các cách thức man rợ: lấy mía để trên đầu nhà sư mà róc cho tóe máu…
Ông được kể là một ông vua ưa chém giết! (Ảnh minh hoạ: Internet)
Do sống dâm dục quá độ nên Lê Long Đĩnh mắc bệnh không ngồi được, đến buổi chầu thì cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là “Ngọa-triều”.
Hay hoang dâm vô độ! (Ảnh minh hoạ: Internet)
Tuy vậy giới sử học Việt Nam gần đây đã có những cách nhìn khác về vị vua tai tiếng này.
Nhiều nguồn sử liệu khẳng định, Lê Long Đĩnh là ông vua đầu tiên cử người đi lấy kinh Đại Tạng cho Phật giáo và sư Vạn Hạnh, thiền sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu cũng như các cao tăng khác thời đó đều được Lê Long Đĩnh rất trọng vọng…
Đại Tạng Kinh chữ Hán – bảo vật vô giá của Phật giáo và của văn hóa thế giới. Bộ sách đó, theo lịch sử Phật giáo, là một bộ sách vĩ đại được rất nhiều thế hệ các cao tăng Trung Hoa vượt qua biết bao gian truân khổ ải dày công thu thập, sưu tầm và dịch thuật suốt 1.000 năm, từ thế kỷ thứ nhất đến cuối thế kỷ thứ 10 (đời Tống Thái Tổ) mới in thành sách lần đầu tiên gồm 5.000 quyển (riêng việc khắc bản phải mất 12 năm).
Kho mộc bản Đại Tạng Kinh. (Ảnh: Internet)
Bộ sách đó không chỉ là tổng vựng các kinh sách Phật giáo mà còn hàm chứa rất nhiều lĩnh vực triết học, lịch sử, văn học, nghệ thuật, thiên văn, toán học, y dược… Một ông vua lần đầu tiên biết đem những di sản vĩ đại như vậy về nước để xây dựng, phát triển nền văn hóa dân tộc, liệu có thể gọi là hôn quân? Và một ông vua đã trực tiếp sai em mình đi xin kinh sách về cho Phật giáo, ông vua đó có thể nào “lấy mía để trên đầu nhà sư mà róc”?
Ngoài Kinh Đại Tạng ra, Lê Long Đĩnh còn xin nhà Tống cả “Cửu Kinh” gồm: Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu, Hiếu Kinh, Luận Ngữ, Mạnh Tử và Chu Lễ là 9 bộ sách vĩ đại nền tảng của văn minh Trung Hoa lần đầu tiên “nhập” vào nước ta, tất cả đều là do Lê Long Đĩnh cho người đi lấy về cùng một lần.
Cuốn Kinh Dịch, một trong “cửu kinh” đã được mang về nước ta thời vua Lê Long Đĩnh. (Ảnh: Internet)
Lê Long Đĩnh cũng là một ông vua biết chỉnh đốn triều chính. Một năm sau khi lên ngôi ông đã “Sửa đổi quan chế và triều phục của các quan văn võ và tăng đạo, theo đúng như nhà Tống” (theo Đại Việt sử ký toàn thư). “Vua (Lê Long Đĩnh) lại xin được đặt người coi việc tại chợ trao đổi hàng hóa ở Ung Châu, nhưng vua Tống chỉ cho mua bán ở chợ trao đổi hàng hóa tại Liêm Châu và trấn Như Hồng thôi“.
Thế kỷ thứ 11, không chỉ nước ta mà hầu khắp thế giới, kinh tế đều tự cấp tự túc. Phải có một “tư duy kinh tế” vượt xa thời đại mới biết “xin đặt người coi việc tại chợ trao đổi hàng hóa ở Ung Châu”, tức là sâu trong nội địa Trung Quốc, việc đó giống như việc đặt Văn phòng đại diện thương mại ở nước ngoài bây giờ. “Tư duy kinh tế” đó mãi mấy trăm năm sau mới được biết đến ở phương Tây. Một hôn quân có nghĩ ra được điều này không ?
Vậy có thật vua Lê Long Đĩnh là một hôn quân bạo ngược, hay là một vị vua anh minh tài giỏi trong lịch sử nước ta? (Ảnh minh hoạ: Internet)
Trước khi chết ở độ tuổi 24, Lê Long Đĩnh còn chăm lo việc đào kênh, mở mang đường sá và đến tận nơi xem xét rồi xuống chiếu đóng thuyền bè đi lại cho dân. Một ông vua suốt ngày ham mê tửu sắc không đi lại được đến mức phải “ngọa triều”, ông vua đó có thể làm được những chuyện ý nghĩa như vậy không?
“Không ngồi được” sao 6 lần cầm quân đánh giặc? – trong 4 năm làm vua, Lê Long Đĩnh đã 6 lần trực tiếp cầm quân ra trận, lần cuối cùng chỉ cách 2 tháng trước khi ông mất. Cầm quân đánh giặc liên miên như vậy phải có sức vóc, người “dâm dục quá độ, mắc bệnh không ngồi được” thử hỏi làm sao có thể đảm đương nổi việc này?
(Còn nữa)
Các vua Hùng trị vì bao nhiêu năm?
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, triều đại các vua Hùng ở Việt Nam bắt đầu khi vua Kinh Dương Vương lên ngôi năm Nhâm Tuất (2879 TCN). Triều đại này kéo dài đến năm Quý Mão (258 TCN) thì kết thúc với 18 đời vua Hùng nối nhau trị vì trong 2.622 năm. Tính trung bình, mỗi thời vua Hùng Vương kéo dài khoảng… 150 năm?
Trung bình, mỗi vị vua Hùng có thọ mệnh khoảng 150 tuổi. (Ảnh: Internet)
Nghe thì có vẻ hơi ‘hoang đường’, vì gần như 18 đời vua Hùng đều sống thọ khoảng 150 tuổi, trong khi con người ngày nay khó có thể đạt đến được độ tuổi như thế, ngay cả như quốc gia Monaco, với tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới cũng chỉ đến 90. Nhưng nếu chúng ta tra cứu lại lịch sử về những người đã từng sống ‘thọ nhất’, thì dù là con số 90, hay 150 năm không phải là hiếm, thậm chí còn thua xa các bậc tiền nhân đi trước.
Tuyển tập 12 quyển Vĩnh Thái Huyện Chí năm thứ 13 thời vua Càn Long nhà Đại Thanh đã được biên tập lại và xuất bản năm 1922 có ghi chép về người đàn ông tên là Trần Tuấn tự Khắc Minh, ngụ tại thôn Thang Tuyền, huyện Vĩnh Gia Sơn, tỉnh Phúc Kiến (nay là thôn Thang Trình, xã Ngộ Đông, huyện Vĩnh Thái). Người đàn ông này sinh năm 881 niên hiệu Hy Tông Trung nhà Đường (năm tân sửu) mất năm 1324 niên hiệu Thái Định Giáp Tử nhà Nguyên, hưởng thọ 443 tuổi.
Hình vẽ phác hoạ Trần Tuấn (Khắc Minh) nhà Thanh thọ 443 tuổi. (Ảnh: Internet)
Một trường hợp sống thọ đáng kinh ngạc khác là danh y Lý Khánh Nguyên sinh năm 1677, mất năm 1933, hưởng thọ 256 tuổi. Lý Khánh Nguyên là danh y nổi tiếng cuối đời nhà Minh đầu nhà Thanh. Năm 100 tuổi ông đã được nhà vua trao tặng giải thưởng đặc biệt cho những cống hiến trong y thuật. Năm 200 tuổi ông bắt đầu giảng dạy trong trường đại học. Rất nhiều học sĩ phương Tây nghe danh tiếng đến xin được gặp ông.
Danh y Lý Khánh Nguyên thọ 256 tuổi. (Ảnh: Internet)
Và còn nhiều cái tên khác nữa, quý vị có thể tra cứu lại trong lịch sử. Vậy nếu so tuổi với Trần Tuấn và Lý Khánh Nguyên, thì 18 vị vua Hùng của chúng ta có khi còn bị coi là “đoản thọ” cũng nên! Đó là còn chưa nói đến người xưa còn rèn luyện dưỡng sinh, tu tâm, tu đạo, đời sống thanh cao, không khí mát mẻ, cảnh vật thơ mộng, đạo đức cao thượng, ít dục vọng… môi trường sống rất tốt cho sức khoẻ, hoàn toàn có thể đạt đến được độ tuổi như trên.
Ai sát hại Vua Đinh Tiên Hoàng?
Sử sách chính thống của Việt Nam đều ghi rằng người giết chết Đinh Tiên Hoàng – vị vua sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt là hoạn quan Đỗ Thích. Sử chép rằng, viên quan này mơ thấy sao rơi vào miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết cả Đinh Tiên Hoàng và Thái tử Đinh Liễn.
Tuy vậy, nhà giáo Hoàng Đạo Thúy và một số nhà sử gia gần đây cho rằng, Đỗ Thích không phải là thủ phạm giết vua. Vì Đỗ Thích chỉ là một viên hoạn quan, chức nhỏ, sức mọn, không hề có uy tín hay vây cánh, dù có gan đến mấy cũng không thể liều lĩnh đến như vậy được. Một giả thuyết được đặt ra: Đỗ Thích chỉ là tấm bình phong che đậy cho thủ phạm thực sự, Lê Hoàn và Dương Vân Nga mới chính là thủ phạm.
Theo lý giải, việc Lê Hoàn làm Phó vương khi Đinh Toàn lên ngôi, cấm cố họ Đinh cùng với việc các trung thần chống đối có thể là biểu hiện cho thấy mưu đồ chiếm ngôi của Lê Hoàn. Hành động của Lê Hoàn nhiều khả năng đã có sự trợ giúp của Dương Vân Nga.
Nghi án lịch sử! (Ảnh: Internet)
Dương Vân Nga, có thể giữa bà và các hoàng hậu khác (Tiên Hoàng có những 5 hoàng hậu) đã xảy ra cuộc đua giữa họ về tương lai của ngôi thái tử. Do yếu thế trong cuộc cạnh tranh này, Dương Vân Nga đã chọn Lê Hoàn làm chỗ dựa.
Do vậy, dù động cơ có phần khác nhau, Dương hậu đã cùng Lê Hoàn tiến hành vụ ám sát chấn động lịch sử và dùng Đỗ Thích như một hình nhân thế mạng.
Lê Long Đĩnh có thật là vị vua tồi tệ nhất lịch sử?
Trong chính sử Việt Nam, Lê Long Đĩnh được mô tả là người bạo ngược, tính hay chém giết, ác bằng vua Kiệt, vua Trụ ngày xưa. Ông nổi danh vì những thú vui tàn ác như tra tấn tù binh bằng các cách thức man rợ: lấy mía để trên đầu nhà sư mà róc cho tóe máu…
Ông được kể là một ông vua ưa chém giết! (Ảnh minh hoạ: Internet)
Do sống dâm dục quá độ nên Lê Long Đĩnh mắc bệnh không ngồi được, đến buổi chầu thì cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là “Ngọa-triều”.
Hay hoang dâm vô độ! (Ảnh minh hoạ: Internet)
Tuy vậy giới sử học Việt Nam gần đây đã có những cách nhìn khác về vị vua tai tiếng này.
Nhiều nguồn sử liệu khẳng định, Lê Long Đĩnh là ông vua đầu tiên cử người đi lấy kinh Đại Tạng cho Phật giáo và sư Vạn Hạnh, thiền sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu cũng như các cao tăng khác thời đó đều được Lê Long Đĩnh rất trọng vọng…
Đại Tạng Kinh chữ Hán – bảo vật vô giá của Phật giáo và của văn hóa thế giới. Bộ sách đó, theo lịch sử Phật giáo, là một bộ sách vĩ đại được rất nhiều thế hệ các cao tăng Trung Hoa vượt qua biết bao gian truân khổ ải dày công thu thập, sưu tầm và dịch thuật suốt 1.000 năm, từ thế kỷ thứ nhất đến cuối thế kỷ thứ 10 (đời Tống Thái Tổ) mới in thành sách lần đầu tiên gồm 5.000 quyển (riêng việc khắc bản phải mất 12 năm).
Kho mộc bản Đại Tạng Kinh. (Ảnh: Internet)
Bộ sách đó không chỉ là tổng vựng các kinh sách Phật giáo mà còn hàm chứa rất nhiều lĩnh vực triết học, lịch sử, văn học, nghệ thuật, thiên văn, toán học, y dược… Một ông vua lần đầu tiên biết đem những di sản vĩ đại như vậy về nước để xây dựng, phát triển nền văn hóa dân tộc, liệu có thể gọi là hôn quân? Và một ông vua đã trực tiếp sai em mình đi xin kinh sách về cho Phật giáo, ông vua đó có thể nào “lấy mía để trên đầu nhà sư mà róc”?
Ngoài Kinh Đại Tạng ra, Lê Long Đĩnh còn xin nhà Tống cả “Cửu Kinh” gồm: Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu, Hiếu Kinh, Luận Ngữ, Mạnh Tử và Chu Lễ là 9 bộ sách vĩ đại nền tảng của văn minh Trung Hoa lần đầu tiên “nhập” vào nước ta, tất cả đều là do Lê Long Đĩnh cho người đi lấy về cùng một lần.
Cuốn Kinh Dịch, một trong “cửu kinh” đã được mang về nước ta thời vua Lê Long Đĩnh. (Ảnh: Internet)
Lê Long Đĩnh cũng là một ông vua biết chỉnh đốn triều chính. Một năm sau khi lên ngôi ông đã “Sửa đổi quan chế và triều phục của các quan văn võ và tăng đạo, theo đúng như nhà Tống” (theo Đại Việt sử ký toàn thư). “Vua (Lê Long Đĩnh) lại xin được đặt người coi việc tại chợ trao đổi hàng hóa ở Ung Châu, nhưng vua Tống chỉ cho mua bán ở chợ trao đổi hàng hóa tại Liêm Châu và trấn Như Hồng thôi“.
Thế kỷ thứ 11, không chỉ nước ta mà hầu khắp thế giới, kinh tế đều tự cấp tự túc. Phải có một “tư duy kinh tế” vượt xa thời đại mới biết “xin đặt người coi việc tại chợ trao đổi hàng hóa ở Ung Châu”, tức là sâu trong nội địa Trung Quốc, việc đó giống như việc đặt Văn phòng đại diện thương mại ở nước ngoài bây giờ. “Tư duy kinh tế” đó mãi mấy trăm năm sau mới được biết đến ở phương Tây. Một hôn quân có nghĩ ra được điều này không ?
Vậy có thật vua Lê Long Đĩnh là một hôn quân bạo ngược, hay là một vị vua anh minh tài giỏi trong lịch sử nước ta? (Ảnh minh hoạ: Internet)
Trước khi chết ở độ tuổi 24, Lê Long Đĩnh còn chăm lo việc đào kênh, mở mang đường sá và đến tận nơi xem xét rồi xuống chiếu đóng thuyền bè đi lại cho dân. Một ông vua suốt ngày ham mê tửu sắc không đi lại được đến mức phải “ngọa triều”, ông vua đó có thể làm được những chuyện ý nghĩa như vậy không?
“Không ngồi được” sao 6 lần cầm quân đánh giặc? – trong 4 năm làm vua, Lê Long Đĩnh đã 6 lần trực tiếp cầm quân ra trận, lần cuối cùng chỉ cách 2 tháng trước khi ông mất. Cầm quân đánh giặc liên miên như vậy phải có sức vóc, người “dâm dục quá độ, mắc bệnh không ngồi được” thử hỏi làm sao có thể đảm đương nổi việc này?
(Còn nữa)