10 bí ẩn chưa có lời giải trong lịch sử Việt Nam | VN-Zoom | Cộng đồng Chia Sẻ Kiến Thức Công Nghệ và Phần Mềm Máy Tính

Adblocker detected! Please consider reading this notice.

We've detected that you are using AdBlock Plus or some other adblocking software which is preventing the page from fully loading.

We need money to operate the site, and almost all of it comes from our online advertising.

If possible, please support us by clicking on the advertisements.

Please add vn-z.vn to your ad blocking whitelist or disable your adblocking software.

×

10 bí ẩn chưa có lời giải trong lịch sử Việt Nam

tranthanhkiet

Moderator
Thành viên BQT
Xuyên suốt chặng đường lịch sử lâu dài hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, có biết bao câu chuyện bí ẩn, biết bao điều uẩn khúc mà qua lớp bụi phủ dày của thời gian có thể khiến hậu thế sẽ không bao giờ lý giải được. Đi tìm câu trả lời cho những ẩn số thiên cổ ấy, xét đến cùng mà nói, chính là cách lưu truyền, gìn giữ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc vẹn toàn nhất.

Các vua Hùng trị vì bao nhiêu năm?


Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, triều đại các vua Hùng ở Việt Nam bắt đầu khi vua Kinh Dương Vương lên ngôi năm Nhâm Tuất (2879 TCN). Triều đại này kéo dài đến năm Quý Mão (258 TCN) thì kết thúc với 18 đời vua Hùng nối nhau trị vì trong 2.622 năm. Tính trung bình, mỗi thời vua Hùng Vương kéo dài khoảng… 150 năm?

an-so-1.jpg

Trung bình, mỗi vị vua Hùng có thọ mệnh khoảng 150 tuổi. (Ảnh: Internet)

Nghe thì có vẻ hơi ‘hoang đường’, vì gần như 18 đời vua Hùng đều sống thọ khoảng 150 tuổi, trong khi con người ngày nay khó có thể đạt đến được độ tuổi như thế, ngay cả như quốc gia Monaco, với tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới cũng chỉ đến 90. Nhưng nếu chúng ta tra cứu lại lịch sử về những người đã từng sống ‘thọ nhất’, thì dù là con số 90, hay 150 năm không phải là hiếm, thậm chí còn thua xa các bậc tiền nhân đi trước.

Tuyển tập 12 quyển Vĩnh Thái Huyện Chí năm thứ 13 thời vua Càn Long nhà Đại Thanh đã được biên tập lại và xuất bản năm 1922 có ghi chép về người đàn ông tên là Trần Tuấn tự Khắc Minh, ngụ tại thôn Thang Tuyền, huyện Vĩnh Gia Sơn, tỉnh Phúc Kiến (nay là thôn Thang Trình, xã Ngộ Đông, huyện Vĩnh Thái). Người đàn ông này sinh năm 881 niên hiệu Hy Tông Trung nhà Đường (năm tân sửu) mất năm 1324 niên hiệu Thái Định Giáp Tử nhà Nguyên, hưởng thọ 443 tuổi.

an-so-2.jpg

Hình vẽ phác hoạ Trần Tuấn (Khắc Minh) nhà Thanh thọ 443 tuổi. (Ảnh: Internet)​

Một trường hợp sống thọ đáng kinh ngạc khác là danh y Lý Khánh Nguyên sinh năm 1677, mất năm 1933, hưởng thọ 256 tuổi. Lý Khánh Nguyên là danh y nổi tiếng cuối đời nhà Minh đầu nhà Thanh. Năm 100 tuổi ông đã được nhà vua trao tặng giải thưởng đặc biệt cho những cống hiến trong y thuật. Năm 200 tuổi ông bắt đầu giảng dạy trong trường đại học. Rất nhiều học sĩ phương Tây nghe danh tiếng đến xin được gặp ông.

an-so-3.jpg

Danh y Lý Khánh Nguyên thọ 256 tuổi. (Ảnh: Internet)

Và còn nhiều cái tên khác nữa, quý vị có thể tra cứu lại trong lịch sử. Vậy nếu so tuổi với Trần Tuấn và Lý Khánh Nguyên, thì 18 vị vua Hùng của chúng ta có khi còn bị coi là “đoản thọ” cũng nên! Đó là còn chưa nói đến người xưa còn rèn luyện dưỡng sinh, tu tâm, tu đạo, đời sống thanh cao, không khí mát mẻ, cảnh vật thơ mộng, đạo đức cao thượng, ít dục vọng… môi trường sống rất tốt cho sức khoẻ, hoàn toàn có thể đạt đến được độ tuổi như trên.

Ai sát hại Vua Đinh Tiên Hoàng?

Sử sách chính thống của Việt Nam đều ghi rằng người giết chết Đinh Tiên Hoàng – vị vua sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt là hoạn quan Đỗ Thích. Sử chép rằng, viên quan này mơ thấy sao rơi vào miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết cả Đinh Tiên Hoàng và Thái tử Đinh Liễn.

Tuy vậy, nhà giáo Hoàng Đạo Thúy và một số nhà sử gia gần đây cho rằng, Đỗ Thích không phải là thủ phạm giết vua. Vì Đỗ Thích chỉ là một viên hoạn quan, chức nhỏ, sức mọn, không hề có uy tín hay vây cánh, dù có gan đến mấy cũng không thể liều lĩnh đến như vậy được. Một giả thuyết được đặt ra: Đỗ Thích chỉ là tấm bình phong che đậy cho thủ phạm thực sự, Lê Hoàn và Dương Vân Nga mới chính là thủ phạm.

Theo lý giải, việc Lê Hoàn làm Phó vương khi Đinh Toàn lên ngôi, cấm cố họ Đinh cùng với việc các trung thần chống đối có thể là biểu hiện cho thấy mưu đồ chiếm ngôi của Lê Hoàn. Hành động của Lê Hoàn nhiều khả năng đã có sự trợ giúp của Dương Vân Nga.

an-so-5.jpg

Nghi án lịch sử! (Ảnh: Internet)

Dương Vân Nga, có thể giữa bà và các hoàng hậu khác (Tiên Hoàng có những 5 hoàng hậu) đã xảy ra cuộc đua giữa họ về tương lai của ngôi thái tử. Do yếu thế trong cuộc cạnh tranh này, Dương Vân Nga đã chọn Lê Hoàn làm chỗ dựa.

Do vậy, dù động cơ có phần khác nhau, Dương hậu đã cùng Lê Hoàn tiến hành vụ ám sát chấn động lịch sử và dùng Đỗ Thích như một hình nhân thế mạng.

Lê Long Đĩnh có thật là vị vua tồi tệ nhất lịch sử?

Trong chính sử Việt Nam, Lê Long Đĩnh được mô tả là người bạo ngược, tính hay chém giết, ác bằng vua Kiệt, vua Trụ ngày xưa. Ông nổi danh vì những thú vui tàn ác như tra tấn tù binh bằng các cách thức man rợ: lấy mía để trên đầu nhà sư mà róc cho tóe máu…

an-so-6.jpg

Ông được kể là một ông vua ưa chém giết! (Ảnh minh hoạ: Internet)

Do sống dâm dục quá độ nên Lê Long Đĩnh mắc bệnh không ngồi được, đến buổi chầu thì cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là “Ngọa-triều”.

an-so-7.jpg

Hay hoang dâm vô độ! (Ảnh minh hoạ: Internet)

an-so-13.jpg

Tuy vậy giới sử học Việt Nam gần đây đã có những cách nhìn khác về vị vua tai tiếng này.

Nhiều nguồn sử liệu khẳng định, Lê Long Đĩnh là ông vua đầu tiên cử người đi lấy kinh Đại Tạng cho Phật giáo và sư Vạn Hạnh, thiền sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu cũng như các cao tăng khác thời đó đều được Lê Long Đĩnh rất trọng vọng…

Đại Tạng Kinh chữ Hán – bảo vật vô giá của Phật giáo và của văn hóa thế giới. Bộ sách đó, theo lịch sử Phật giáo, là một bộ sách vĩ đại được rất nhiều thế hệ các cao tăng Trung Hoa vượt qua biết bao gian truân khổ ải dày công thu thập, sưu tầm và dịch thuật suốt 1.000 năm, từ thế kỷ thứ nhất đến cuối thế kỷ thứ 10 (đời Tống Thái Tổ) mới in thành sách lần đầu tiên gồm 5.000 quyển (riêng việc khắc bản phải mất 12 năm).

an-so-8.jpg

Kho mộc bản Đại Tạng Kinh. (Ảnh: Internet)​

Bộ sách đó không chỉ là tổng vựng các kinh sách Phật giáo mà còn hàm chứa rất nhiều lĩnh vực triết học, lịch sử, văn học, nghệ thuật, thiên văn, toán học, y dược… Một ông vua lần đầu tiên biết đem những di sản vĩ đại như vậy về nước để xây dựng, phát triển nền văn hóa dân tộc, liệu có thể gọi là hôn quân? Và một ông vua đã trực tiếp sai em mình đi xin kinh sách về cho Phật giáo, ông vua đó có thể nào “lấy mía để trên đầu nhà sư mà róc”?

Ngoài Kinh Đại Tạng ra, Lê Long Đĩnh còn xin nhà Tống cả “Cửu Kinh” gồm: Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu, Hiếu Kinh, Luận Ngữ, Mạnh Tử và Chu Lễ là 9 bộ sách vĩ đại nền tảng của văn minh Trung Hoa lần đầu tiên “nhập” vào nước ta, tất cả đều là do Lê Long Đĩnh cho người đi lấy về cùng một lần.

an-so-9.jpg

Cuốn Kinh Dịch, một trong “cửu kinh” đã được mang về nước ta thời vua Lê Long Đĩnh. (Ảnh: Internet)

Lê Long Đĩnh cũng là một ông vua biết chỉnh đốn triều chính. Một năm sau khi lên ngôi ông đã “Sửa đổi quan chế và triều phục của các quan văn võ và tăng đạo, theo đúng như nhà Tống” (theo Đại Việt sử ký toàn thư). “Vua (Lê Long Đĩnh) lại xin được đặt người coi việc tại chợ trao đổi hàng hóa ở Ung Châu, nhưng vua Tống chỉ cho mua bán ở chợ trao đổi hàng hóa tại Liêm Châu và trấn Như Hồng thôi“.

Thế kỷ thứ 11, không chỉ nước ta mà hầu khắp thế giới, kinh tế đều tự cấp tự túc. Phải có một “tư duy kinh tế” vượt xa thời đại mới biết “xin đặt người coi việc tại chợ trao đổi hàng hóa ở Ung Châu”, tức là sâu trong nội địa Trung Quốc, việc đó giống như việc đặt Văn phòng đại diện thương mại ở nước ngoài bây giờ. “Tư duy kinh tế” đó mãi mấy trăm năm sau mới được biết đến ở phương Tây. Một hôn quân có nghĩ ra được điều này không ?

an-so-14.jpg

Vậy có thật vua Lê Long Đĩnh là một hôn quân bạo ngược, hay là một vị vua anh minh tài giỏi trong lịch sử nước ta? (Ảnh minh hoạ: Internet)

Trước khi chết ở độ tuổi 24, Lê Long Đĩnh còn chăm lo việc đào kênh, mở mang đường sá và đến tận nơi xem xét rồi xuống chiếu đóng thuyền bè đi lại cho dân. Một ông vua suốt ngày ham mê tửu sắc không đi lại được đến mức phải “ngọa triều”, ông vua đó có thể làm được những chuyện ý nghĩa như vậy không?

“Không ngồi được” sao 6 lần cầm quân đánh giặc? – trong 4 năm làm vua, Lê Long Đĩnh đã 6 lần trực tiếp cầm quân ra trận, lần cuối cùng chỉ cách 2 tháng trước khi ông mất. Cầm quân đánh giặc liên miên như vậy phải có sức vóc, người “dâm dục quá độ, mắc bệnh không ngồi được” thử hỏi làm sao có thể đảm đương nổi việc này?

(Còn nữa)
 

tranthanhkiet

Moderator
Thành viên BQT
10 bí ẩn chưa có lời giải trong lịch sử Việt Nam (Phần 2)

Ai là tác giả bài thơ Nam Quốc Sơn Hà?

Bài thơ Nam quốc sơn hà được xem là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt Nam, gắn với tên tuổi của danh tướng Lý Thường Kiệt (1019-1105) và thắng lợi trước quân Tống xâm lược tại sông Như Nguyệt. Hiện nay, nhiều người vẫn ngộ nhận tác giả bài thơ là Lý Thường Kiệt.

an-do-22.jpg

“Nam Quốc Sơn Hà” có thực sự là của Lý Thường Kiệt? (Ảnh: Internet)

Tất cả sử liệu Việt Nam, từ chính sử đến dã sử đều không nhắc đến tác giả bài thơ. Đại Việt sử ký toàn thư chỉ ghi rằng, vào một đêm, quân sĩ nhà Lý chợt nghe thấy có tiếng đọc to bài thơ này được trong đền Trương tướng quân. Trong khi đó, sách Lĩnh Nam Chích Quái cho rằng: “Thần nhân tàng hình ở trên không” đã đọc bài thơ. Cũng theo Lĩnh Nam Chích Quái, bài thơ đã xuất hiện từ thời Lê Hoàn chống Tống và cũng được đọc trên con sông Như Nguyệt.

Nguồn gốc bí ẩn đó đã khiến Nam quốc sơn hà được người đời coi là một “bài thơ Thần”.

Ai là thủ phạm trong thảm án Lệ Chi Viên?

Cho đến nay, vụ án Lệ Chi Viên với cái chết bí ẩn của vua Lê Thái Tông và việc tru di tam tộc quan đại thần Nguyễn Trãi vẫn là đề tài bàn luận sôi nổi của giới nghiên cứu sử học Việt Nam.

Theo sử sách, ngày 4/8/1442, vua về Lệ Chi (nay thuộc huyện Gia Lương, Bắc Ninh). Cùng đi với Vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi, khi ấy đã vào tuổi 40, rất được nhà vua yêu quý vì sắc đẹp, văn hay. Tại Lệ Chi Viên, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ, rồi băng hà.

Triều đình đã quy cho Nguyễn Thị Lộ tội giết vua. Nguyễn Trãi và gia đình bị án tru di tam tộc và bị giết ít lâu sau đó. Đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông đã rửa oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước Tán Trù bá và bổ dụng người con còn sống sót của ông là Nguyễn Anh Vũ.

an-do-227.jpg

Nguyễn Trãi sau khi đại thắng quân Minh đang thanh thản gác kiếm viết lại bài cáo Bình Ngô (bình Ngô Đại Cáo) lừng danh. (Ảnh: Internet)

Sau này, nhiều sử gia đã tán đồng với giả thuyết cho rằng chủ mưu vụ án chính là Nguyễn Thị Anh – vợ thứ vua Lê Thái Tông.

Về động cơ, thứ nhất là do bà đã có sẵn tư thù với Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ. Thứ hai là do thời đó, nhiều người trong triều dị nghị rằng Nguyễn Thị Anh đã có thai trước khi vào cung và Thái tử Bang Cơ không phải là con Vua Thái Tông, sợ Nguyễn Trãi gièm pha nên bà đã sai người sát hại vua rồi đổ tội cho vợ chồng Nguyễn Trãi.

Vì sao vua Quang Trung băng hà?

Vào tuổi tứ tuần, giữa lúc chuẩn bị mở một chiến dịch tổng lực để tiêu diệt liên minh Nguyễn Ánh – quân Pháp, hoàn thành việc thống nhất đất nước, đồng thời nỗ lực giành lại hai tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông từ nhà Thanh, hoàng đế Quang Trung đột ngột băng hà. Biến cố này là một trong những nghi vấn lớn nhất của lịch sử Việt Nam.

an-do-223-1024x754.jpg

Vua Quang Trung – Nguyễn Huệ. (Ảnh: Internet)

Có nhiều nguyên nhân về cái chết của vua Quang Trung, giả thuyết của sách Nhà Tây Sơn viết: “Vua Quang Trung chết chỉ vì bệnh huyết áp cao, làm việc nhiều, suy nghĩ nhiều bị đứt mạch máu…“. Căn cứ thời điểm vua Quang Trung mất cũng là lúc Nguyễn Phúc Ánh đã chiếm được Gia Định và kéo quân ra đánh Quy Nhơn. Quang Trung đang sắp đặt chuẩn bị kéo đại binh vào Gia Định đánh một trận quyết không cho Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát.

Mọi việc sắp đặt xong thì nhà vua ngã bệnh và bệnh mỗi ngày một nặng, bèn triệu trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu vào Phú Xuân bàn chuyện dời đô ra Nghệ An và cất quân đánh Nguyễn Phúc Ánh. Nhưng rồi biết mình không còn sống lâu được nữa, liền trối: “Ta mở mang bờ cõi, nay bệnh tình không thể khá được, mà Thái Tử thì còn nhỏ. Phía trong thì bọn quốc cừu hoành hành ở Gia Định. Còn anh ta thì tuổi già, cầu an, không lo hậu họa. Ta chết rồi, trong vòng một tháng phải lo việc tống táng cho xong. Các khanh phải đồng phò Thái Tử và sớm lo việc thiên đô để khấu chế thiên hạ. Nếu không vậy, binh Gia Định kéo đến, các khanh không có đất chôn thây.” Nhà vua nói xong rồi băng.

Lại có người bảo vua Quang Trung bị “thượng mã phong”, hoặc có người độc miệng hơn cho rằng: nhà vua bị Ngọc Hân Công Chúa ám hại bằng cách bỏ thuốc độc vào rượu cho vua uống. Ngoài ra, còn một giả thuyết khác khá hoang đường khác về cái chết của vua Quang Trung, đó là ông đã bị trúng tà thuật từ chiếc áo bị yểm bùa do vua Càn Long của nhà Thanh ban tặng. Một biến thể của giả thuyết này là chiếc áo kể trên đã bị tẩm thuốc độc…. Vậy rốt cuộc nguyên nhân nào gây ra cái chết của vua Quang Trung?

an-do-225.jpg

Cái chết của vua Quang Trung khiến không ít người thắc mắc. (Ảnh: Internet)

Theo chính sử nhà Nguyễn, hoàng đế Quang Trung chết vì một chứng bệnh kỳ bí, bắt đầu từ một cơn đột quỵ khiến ông rơi vào trạng thái mê man nhiều ngày. Chứng bệnh này sử gia nhà Nguyễn giải thích như sự trừng phạt của Thần Thánh dành cho việc quân đội của ông đã xâm phạm các tôn lăng của chúa Nguyễn khi chiếm thành Phú Xuân (Huế).

Cụ thể, theo Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện ghi rằng: “Huệ trong lúc lấy kinh đô Phú Xuân có mạo phạm đến lăng tẩm của Liệt Thánh. Một ngày kia đương ngồi, thình lình bắt đầu xây xẩm rồi ngã ra hôn mê. Mơ màng thấy một lão trượng đầu bạc, áo trắng, cầm gậy sắt từ không trung đi đến, mắng rằng: ông cha mày đều sinh ở đất vua, mày sao dám mạo phạm đến lăng tẩm. Nói vừa dứt lời liền lấy gậy sắt đánh nơi trán Huệ. Huệ ngã xuống bất tỉnh hồi lâu mới tỉnh lại. Từ ấy bệnh càng ngày càng nặng, mới triệu viên trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về thương nghị việc dời đô ra Nghệ An“.

Chúng ta đều biết về truyền thuyết Chùa Thiên Mụ ở Huế, kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê.

an-do-226.jpg

Ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi. (Ảnh: Internet)

Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh“. Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn.

Những lời “sấm truyền”, tiên tri hay dự ngôn của các bậc thánh hiền rất nhiều, tất cả đều dựa vào các tín ngưỡng về Thần, Phật, Đạo trong lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc. Vậy nên, nếu thuận theo Thần Phật thì sẽ được hưởng phúc báo, còn nếu ‘đắc tội’ với Thần Phật thì đương nhiên sẽ bị quả báo, đó là luật Nhân-Quả.

Vua Quang Trung cũng chỉ là một ‘con người’, vì thế, khi mạo phạm đến lăng tẩm của Liệt Thánh, ông hoàn toàn đều có thể bị báo ứng như bao người khác, trong trường hợp này ông mắc bệnh càng ngày càng nặng, và sau đó mất đi. Đây cũng là một bài học để cảnh tỉnh thế nhân, tôn kính Thần Phật là trân quý sinh mạng của chính mình!

Còn nữa...
 

tranthanhkiet

Moderator
Thành viên BQT
10 bí ẩn chưa có lời giải trong lịch sử Việt Nam (Phần 3)

Vì sao có bể xương chùa Thầy?

Hang Cắc Cớ thuộc khu di tích chùa Thầy ở xã Sài Sơn (Quốc Oai, Hà Nội) được dư luận quan tâm đặc biệt vì trong hang này có một chiếc bể chứa hàng nghìn bộ xương người.

Theo lời kể được truyền qua nhiều thế hệ, khi tìm thấy hang, người ta chứng kiến những bộ hài cốt này nằm trong một hố như cái giếng, nằm chồng chất lên nhau. Cách đây hàng trăm năm, người dân xây một chiếc bể vuông, tựa vào vách dùng để chứa hài cốt. Trên tấm bia ghi bên ngoài bể bằng tiếng Hán, dịch ra đại ý là “Lữ Gia chống Hán lưu sử sách/Bể hận ngàn xương mãi mãi ghi”.

an-do-135.jpg

Những bộ hài cốt này nằm trong một hố như cái giếng, nằm chồng chất lên nhau. (Ảnh: Internet)

Mới đây, chúng tôi đã phát hiện ra một số tài liệu giải mã chủ nhân của hàng ngàn bộ xương bí ẩn này. Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, trước các công phu của các nhà sử học lỗi lạc Lê Văn Hưu, Ngô Sỹ Liên… câu chuyện đau thương bắt đầu từ một viên ngụy quan Lộ Văn Luật, người ở Thạch Thất (Hà Tây cũ), không rõ năm sinh, năm mất.

Nhà Hồ làm mất nước, Lộ Văn Luật đem thân phụng sự giặc Minh, giúp giặc đàn áp người dân Việt đang chịu muôn vàn khổ nhục dưới ách đô hộ. Được giặc sử dụng làm tướng, không rõ Lộ Văn Luật đã tham gia đàn áp bao nhiêu trong số hơn 60 cuộc khởi nghĩa của người Việt đương thời.

Chỉ biết đến tháng 7 năm 1419, Lộ Văn Luật đã là tướng tiên phong của Tổng binh Lý Bân, đem quân đi đàn áp cuộc binh biến ở thành Nghệ An. Nguyên trước đó có một viên ngụy quan khác là Phan Liêu, tri phủ Nghệ An, do không chịu bức bách phải nộp vàng bạc cho quan quân nhà Minh, đã nổi dậy giết các quan nhà Minh.

an-do-136.jpg

Lộ Văn Luật đã là tướng tiên phong của Tổng binh Lý Bân, đem quân đi đàn áp cuộc binh biến ở thành Nghệ An. (Ảnh minh hoạ: Internet)

Bị Lý Bân kéo đến đàn áp, Phan Liêu không hạ nổi thành Nghệ An, bèn theo đường Thanh Hóa chạy trốn sang Lào. Lý Bân sai Lộ Văn Luật làm tiên phong truy đuổi, nhưng sai đi rồi lại gọi về bàn việc khác, khiến Luật lo sợ, hoài nghi, bỏ quân trốn đi mất. Bân bèn bắt hết người nhà và gia thuộc của Lộ Văn Luật.

Lộ Văn Luật bỏ trốn về quê ở Thạch Thất, tập hợp nhân dân dựng cờ khởi nghĩa. Người dân thấy có người tụ nghĩa chống Minh thì ùn ùn kéo theo. Lý Bân đem quân đến đánh, tháng 4 năm 1420 thì dập tắt cuộc khởi nghĩa đang trong thời kỳ trứng nước.

Vẫn sách đã dẫn, chép rất cô đọng: “Lộ Văn Luật chạy sang Ai Lao (Lào – PV), dân chúng thì trốn vào hang núi Phật Tích và An Sầm (những tên cũ của hang động núi Chùa Thầy mà PV VTC News đã khám phá). Quân Minh dỡ nhà hun động, người trong động bị khói lửa hun đều chết, người nào ra hàng cũng bị giết sạch, vợ con thì bị bắt làm nô tỳ”.

Nhưng chỉ ít dòng đó thôi, cũng vẽ rõ chân dung người cầm đầu cuộc khởi nghĩa. Giặc đến thì bán nước cầu vinh, giết hại đồng bào. Khi có chút tỉnh ngộ về bản chất kẻ thù, ông ta tỏ chút chí khí, bỏ giặc mà đi, họp dân khởi nghĩa.

Khi bị thua trận, chút chí khí ít ỏi của ông biến mất. Một thân bỏ chạy hàng trăm dặm trốn sang xứ khác, để mặc những lương dân mến nghĩa chịu số phận thảm khốc trong ngọn lửa hung tàn của quân giặc. Có thể thấy rõ họ là những lương dân nước Việt, mến nghĩa đem thân chống giặc, chẳng may sa cơ bỏ mình. Đây cũng là một giả thiết rất hợp tình hợp lý.

an-do-138.jpg

Những lương dân nước Việt, mến nghĩa đem thân chống giặc, chẳng may sa cơ bỏ mình. (Ảnh minh hoạ: Internet)

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Lữ Gia là tướng nhà Triệu, nước Nam Việt (thế kỷ 2 TCN). Dưới triều Thuật Dương Vương (111 TCN), ông giữ chức Tể tướng. Tuy vậy, giới sử học và khảo cổ Việt Nam đưa ra nhiều phỏng đoán khác về nguồn gốc bể xương này.

Vậy câu trả lời chính xác cho chủ nhân của những di cốt tại hang động núi Chùa Thầy là ai?

Vua Khải Định có phải là cha của vua Bảo Đại?

Vua Khải Định (1885 – 1925), là vị Hoàng đế thứ mười hai nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông có tất cả 12 bà vợ, nhưng chỉ có một con trai duy nhất là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, con bà Hoàng Thị Cúc, người sau này là vua Bảo Đại.

Theo sử sách chép lại, vua Khải Định bị bất lực, không thích gần đàn bà, chỉ thích đàn ông. Điều này đã gây ra nhiều đồn đại về việc ai là người cha thực sự của vua Bảo Đại.

an-do-139.jpg

Vua Khải Định, Hoàng đế thứ 12 nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. (Ảnh: Internet)

Nhiều ý kiến cho rằng, nàng hầu Hoàng Thị Cúc đã có thai từ trước khi vào cung, nhưng vẫn được vua Khải Định công nhận sau khi Vĩnh Thụy ra đời. Hồi ký của một số người trong hoàng tộc Nguyễn đồng ý với nhận định này và còn đưa ra khẳng định rằng, Hoàng tử Vĩnh Thụy chỉ là con nuôi của vua Khải Ðịnh.

Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy sinh ngày 22 tháng 10 năm 1913 (tức 23 tháng 9 năm Quý Sửu) tại Huế, cha là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, tức Khải Định, mẹ là Hoàng Thị Cúc tức bà Từ Cung sau này. Các vị hoàng thân quốc thích đã kể thêm về điều đó cho nhà nghiên cứu Huế là ông Nguyễn Đắc Xuân và ông Xuân đã viết lại như sau:

“Vua Đồng Khánh sinh được sáu trai và hai gái, nhưng chỉ nuôi được một trai là Bửu Đảo và hai gái là công chúa Ngọc Lâm và công chúa Ngọc Sơn. Gia đình vua Đồng Khánh với bà Thánh Cung (con đại thần Nguyễn Hữu Độ) và bà Tiên Cung (họ Dương, mẹ đẻ Bửu Đảo sau này là vua Khải Định) hằng hy vọng Bửu Đảo sẽ là người nối dõi tông đường, bảo vệ được những gì vua Đồng Khánh đã vun đắp được trong thời gian ở ngai vàng (1885-1888)”.

Khi Bửu Đảo đến tuổi lập phủ thiếp, hai bà vui mừng đi cưới con quan đại thần Trương Như Cương cho con trai mình ngay. Cuộc hôn nhân này thật tuyệt vời: làm rể họ Trương vừa có thế lực vừa được của cải, biết đâu “trời đất đoái hoài”, Bửu Đảo được chọn làm vua. Nào ngờ vợ chồng Bửu Đảo ăn ở với nhau không có hạnh phúc. Ngày đêm Bửu Đảo chỉ ham thích đánh bạc không ngó ngàng chi đến bà vợ mới cưới.

an-do-1313.jpg

Ngày đêm Bửu Đảo chỉ ham thích đánh bạc, chơi bời, không ngó ngàng chi đến bà vợ mới cưới. (Ảnh minh hoạ: Internet)

Lúc đầu, gia đình họ Trương còn giữ ý tứ cho ông hoàng Phụng Hoá Công (tước của Bửu Đảo lúc chưa làm vua) nhưng về sau Bửu Đảo cứ ép vợ về lấy tiền hoài, Trương gia rất bất bình đã mắng chàng rể là “đồ bất lực vô hậu”.

Biết chuyện con trai duy nhất của mình “bất lực” và sẽ “không có hậu”, hai bà Thánh Cung và Tiên Cung buồn bã, thất vọng não nề, suốt ngày than thở cùng nhau về hậu vận. Và cứ thế, nỗi lo lắng chồng chất làm cho ngày đêm mất ngủ, ngày biếng ăn… sức vóc của hai bà ngày càng sa sút, tiều tụy… Tuy ham mê cờ bạc nhưng Bửu Đảo là đứa con có hiếu, thấy hai bà mẹ đau buồn như thế ông cũng lo.

Ông đem chuyện tâm sự với một người trong hoàng tộc bậc ông nhưng tuổi tác lại đồng trang với cháu. Vị hoàng thân đó là Hường Đ (Hường Để, sinh năm 1885). Trong nhiều năm lui tới trà, rượu, bài bạc với cháu là Bửu Đảo, Hường Đ đã được người cháu giúp đỡ những lúc thiếu thốn. Do đó, lần này thấy Bửu Đảo muốn san sẻ một phần khó khăn của mình, Hường Đ đã ra tay giúp cháu…

Bửu Đảo đã rất vui mừng khi nghe Hường Đ dựng nên câu chuyện sau đây: “Phụng Hoá Công vốn là người bất lực. Nhưng một hôm, Công bắn được một con chồn hương, người nhà đã hầm con chồn hương với sâm, nhung và nhiều vị thuốc bổ dưỡng khác. Buổi tối, Công uống rượu và ăn món hầm đại bổ ấy… liền cảm thấy hứng khởi và nổi cơn đòi phụ nữ… Giây phút sinh lực trần thế đột ngột, sợ nó tan biến đi nên sẵn có cô Hoàng Thị Cúc đang ở trong nhà, Công cho gọi đến và may mắn sao cô Cúc đã thọ thai”.

an-do-1311.jpg

Cô Cúc có thai với Bửu Đảo. (Ảnh minh hoạ: Internet)

Tin cô Cúc có thai với Bửu Đảo đến tai bà Tiên Cung, bà Thánh Cung và những thân thích trong gia đình Phụng Hoá xem như một “phép lạ”!

Để xác minh thực hư, các bà đã sai đào một cái hố (sâu khoảng 2 tấc) bảo cô Cúc nằm sấp, để cái bụng có mang nằm lọt dưới hố, rồi dùng roi đánh tra hỏi cô Cúc đã lấy ai mà dám vu cho Phụng Hoá Công. Cô Cúc cắn răng chịu đựng hình phạt và chỉ đinh ninh một lời khai là đích thị có mang với Bửu Đảo. Thế là các bà mừng rỡ công bố cho hoàng tộc biết Phụng Hoá Công sắp có con. Và lúc ấy trong hoàng tộc dù tin hay ngờ đều phải nhận như thế.

Sự thật, theo ông Phan Văn Dật và ông Ngũ đẳng thị vệ Nguyễn Đắc Vọng thì không có chuyện Bửu Đảo ân ái với cô Cúc và cô Cúc may mắn mang thai. Cô Cúc đã mang thai với chính Hường Đ từ trước. Được Hường Đ nhường cho đứa con, Bửu Đảo rất hàm ân người. Để đền ơn, Bửu Đảo đã giúp đỡ Hường Đ rất nhiều về quan tước cũng như vật chất, tiền bạc.

an-do-1310.jpg

Bửu Đảo ân ái với cô Cúc và cô Cúc may mắn mang thai, rồi sau này sinh hạ ra vua Bảo Đại? (Ảnh minh hoạ: Internet)

Khoảng năm 1912 Hường Đ và Hoàng tử Bửu Đảo là đôi bạn thân ăn một mâm nằm một chiếu. Ngày 22-10-1913 Vĩnh Thụy ra đời thì một tháng rưỡi sau (7-12-1913) Ưng Linh, con chính thức của Hường Đ cũng ra đời. Hai cậu bé này lớn lên đều to béo khoẻ mạnh giống nhau, ảnh của hai người đặt cạnh nhau thấy giống như anh em ruột.

Vậy sự thật có phải như vậy không? Nếu đúng như vậy thì có khác nào sự việc Lã Bất Vi buôn vua bán chúa, dựng nên một Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Hoa thời Xuân Thu-Chiến Quốc đâu chứ? Đây sẽ mãi là một giai thoại cho hậu thế bình phẩm mà không có hồi kết.
 

Vthanhle

Gà con
Mình cũng nghi ngờ cái vụ nhà Đinh nhường ngôi cho Lê Hoàn, rồi sau đó Lê Hoàn lại phong Dương Vân Nga làm hoàng hậu!
Nói chung bây giờ cách cả nghìn năm, nghi ngờ thì cũng chỉ biết như vậy thôi!
 

quocxayda

Búa Gỗ
Tiếp đi chủ thớt
 

Kim The

Gà con
toàn những kiến thức lịch sử hay thôi. Trước cũng thích học lịch sử nhưng giờ quên khá nhiều kiến thức
 

cyberat


Junior Moderator
Thành viên BQT
cái gì em k biết chứ riêng đất huế đúng là nơi em chả muốn rời xa,
sáng sớm bơi lên đồi chầm, mây phủ sương mù quấn quít, chiều chiều ra thiên mụ nhìn dòng sông lơ đãng, tối về lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm kim long phú mộng. nhớ lại lời hẹn ước ngày xưa bỗng bật cười trong nước mắt, 10 năm lưu lạc tphcm, được mất thành bại cũng như 1 giấc mộng đêm hè.
Những câu chuyện về thiên mụ, về lăng tẩm đất huế đa phần là đúng, dù chỉ là thần thoại hay truyền miệng nhưng em vẫn tin
 

nvhao

Búa Đá Đôi
Tài khoản bị khóa
Mình đã đọc nhiều bào viết của bạn thực sự nó rất hay, mong bạn sẽ sưu tầm và chia sẻ cho mình và tất cả mọi người cùng biết, để dân ta phải biết sử ta chứ không phải nói câu đó suông rồi phổ biến sử tàu. Thật sự cảm ơn bạn.
 

Aventurine

Gà con
Điều này là rất thú vị với tôi! Tôi đến từ latvia! Tôi đã nghiên cứu lịch sử Nhật Bản và Trung Quốc. Bây giờ tôi muốn nghiên cứu của bạn. Thật thú vị khi bạn viết bằng chữ chứ không phải bằng chữ tượng hình, rất tiện lợi.
 

shopoga

Gà con
Long Hoa Mật Tạng GIẢI ĐÁP BÍ ẨN LỊCH SỬ VUA HÙNG DỰNG NƯỚC VĂN LANG

LỜI NÓI ĐẦU

CHƯƠNG 1


Tôi là người Việt nên rất yêu mến Cội Nguồn người Việt.

Tôi thường nghe thầy tôi là Đức Hư Không Tạng Diệu Không kể lại rất nhiều lịch sử, nhưng đáng chú ý nhất đó là lịch sử Tiên Rồng.

Thầy tôi kể, lịch sử Tiên Rồng là một lịch sử có thật, lịch sử tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam. Đã trải qua nghìn năm Văn Hiến do các Vua Hùng tôn thờ truyền lại. Thầy tôi nói, Quốc Tổ Hùng Vương là Đấng Chí Tôn Thiên Đế lâm phàm, đã để lại cho con cháu Việt Nam. Hai di sản quí hiếm.

1 - Là di sản Non Sông Tổ Quốc

2 - Là di sản Văn Hóa Cội Nguồn


Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc. Nền Quốc Đạo Tiên Rồng là Tinh Hoa vũ trụ, là tiền đồ ung đúc bao thế hệ tinh thần Dân Tộc, trở thành Dân Tộc Thần Thánh. Rừng vàng biển bạc Non Sông đất nước là tiền đồ ung đúc lên sự giàu sang ấm no hạnh phúc.

Tôi lại hỏi. Thưa thầy: Nền Quốc Đạo Tiên Rồng tốt đẹp như vậy, sao không phát triển truyền bá rộng rãi cho thế hệ con cháu gìn giữ?

Thầy nói: Nền Quốc Đạo Tiên Rồng là Nền Thiên Luật vũ trụ, Hiến Pháp Đại Đồng Tạo Hóa, Đạo Trời, Thiên Đạo. Chỉ dành riêng cho Vua thờ, không phải Đạo của dân thờ. Hơn nữa trình độ dân trí thời ấy quá lạc hậu, tập tục mê tín dị đoan quá lớn. Hơn nữa Nền Quốc Đạo Tiên Rồng lời lẽ thâm sâu khó hiểu nên không thể truyền rộng rãi xuống dân được. Chỉ vào ngày hội lớn mới được nghe. Nhưng đó chỉ là lời truyền dạy khuyến thiện mà thôi, còn Tinh Hoa của Nền Quốc Đạo thì dân khó mà được nghe.

Nền Quốc Đạo Dân Tộc là Nền Hiến Pháp, Luật Pháp trị Quốc an dân, Nền Quốc Học Văn Minh thời đại. Nhất là lọt vào Tà Ma Ngoại Đạo thì nguy hiểm cho đất nước, họ lợi dụng chánh giáo mê hoặc dân chúng, y giáo một đường giảng một nẻo. Bóp méo Luật Thiên chuyện không nói có chuyện có nói không. Nhất là kẻ thù có dã tâm xâm lược. Thì tai họa không biết đâu mà lường.

Thầy nói: Giữ Tổ Quốc Non Sông đã khó. Giữ gìn Nền Quốc Đạo lại càng khó hơn, vì thế Văn Hóa Cội Nguồn được coi như là báu vật vô giá, được giữ gìn nghiêm ngặt. Hơn nữa Thiên Cơ chưa đến thời cơ chưa phù hợp. Thời xa xưa ấy Dân Tộc Văn Lang nói riêng, nhân loại thế giới nói chung. Khoa học thế giới vật chất trên đà đang hình thành tượng búp, chưa thành búp nói gì đến nở hoa khoa học Văn Minh vật chất. Nên chưa chế tạo ra giấy bút tinh vi. Chỉ dùng da Thú thay cho giấy. Còn dùng thanh tre thay cho giấy là sau này mới có. Không những nền Văn Minh vật chất chưa thành búp mà ngay cả chữ viết cũng còn thô sơ lạc hậu không kém. Khó mà diễn tả ý của Văn Kinh. Lấy việc khắc tượng, vẽ hình họa cảnh lên đất, lên đá, lên cây để truyền dạy cho thế hệ sau. Sự truyền dạy ấy không mấy đem lại kết quả. Quốc Tổ Vua Hùng cũng thấy rõ được điều này.

Nên nói rằng ta sẽ trở lại trần gian ở kỳ 3. Là thời kỳ trình độ dân trí lên cao. Khoa học vật chất đã nở hoa rực rỡ. Văn Hóa Cội Nguồn ra đời không có điều kiện để lại Kinh Luân. Mọi chuyện truyền giáo chỉ truyền khẩu cho nhau, thông qua khẩu tự ngôn từ Từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cứ thế kéo dài mấy nghìn năm thì chuyện gì xảy ra. Đó là tam sao thất bổn. Làm sai lệch chính văn là đều không tránh khỏi vì thế Nền Tinh Hoa Quốc Đạo cũng dần dần biến mất, thay vào đó là những chuyện sai lệch.

Có thể nói buổi ban đầu truyền giáo, Quốc Tổ Vua Hùng thuyết kể về Con Rồng Cháu Tiên thật. Về sau qua nhiều thế hệ truyền giáo thuyết kể Con Rồng Cháu Tiên, qua những lý luận mơ hồ, kể lần ra loài Rắn nước không còn chút uy lực nào cả. Rồi bị ngoại xâm biến thành con giun dưới chân của chúng, Dân Tộc Tiên Rồng trở thành dân tộc nô lệ. Thế hệ con cháu Vua Hùng càng về sau càng đánh mất Tinh Hoa Văn Hóa Cội Nguồn. Từ một lịch sử anh linh cao đẹp, rồi trở thành một tập quán truyền thuyết chân lý mơ hồ. Từ đây con cháu Tiên Rồng sa vào cảnh tối tăm. Nô lệ ngoại bang, nô lệ Thần Quyền, nô lệ Kiến Thức. Nhất là những nhận thức vô cùng độc hại dẫn đến cảnh nồi da nấu thịt, anh em tàn sát lẫn nhau. Đạo Đức xã hội xuống cấp trầm trọng, dẫn đến chiến tranh triền miên khó mà kết thúc. Đói nghèo lạc hậu đeo bám cuộc đời. Thương thay. Thương thay.

* * *

Hết phần mở đầu Long Hoa Mật Tạng, mời khắp tầng lớp xã hội con cháu Việt Nam, xem tiếp phần 1 chương 2 Long Hoa Mật Tạng Bộ Kinh tối cao, có một không hai trên toàn nhân loại. Chỉ cần đọc qua một lần, thời nhất định siêu sanh lên các tầng trời, cõi trời hoặc trở thành những nhà lãnh tụ thiên tài. Lưu danh mãi nơi hậu thế. Nếu như đọc tụng ấn in, hoặc giảng giải cho người khác nghe, thì công đức phải nói là vô cùng vô tận. Phải nói là cầu đâu linh đó, cầu chi đặng nấy. Bằng có lời chi xúc phạm thì đại họa giáng xuống không biết đâu mà lường.

Chỉ cần khen ngợi một câu

Muôn đời vạn kiếp siêu sanh cõi trời

Chỉ cần xúc phạm một lời

Họa tai giáng xuống đứng ngồi không yên

Linh thiên linh ứng vô biên

Chỉ cần thành kính cũng nên sang giàu.

* * *
 

shopoga

Gà con
CHƯƠNG 2

PHẦN 1

MẶT TRỜI CHÂN LÝ LẶNG BÓNG ĐÊM TRÙM XUỐNG NHÂN GIAN


Vào năm 110 trước công nguyên lúc đó giấy bút thô sơ mới được ra đời. Cho đến 542 sau công nguyên mới có dịp hưng thịnh nhưng chưa tinh vi mấy. Cũng từ đây các học giả Việt Nam. Hồi tưởng về Cội Nguồn. Tìm toài qua sự thờ cúng, Thơ ca, Hò vè, Truyện kể, Khắp mọi miền đất nước. Rồi đúc kết lại viết lên lịch sử Tiên Rồng, làm mối ghiền Bản sắc đoàn kết dân tộc, bảo vệ giữ gìn quê cha Đất Tổ. Đánh đuổi ngoại xâm.

Nhưng tiếc thay các Ngài chỉ là người thường tục. Chưa tu luyện Đắc Đạo nên không có Huệ Nhãn, Pháp Nhãn. Khó mà thấy rõ quá khứ vị lai, phân biệt được sai lệch, giả chân, đúng sai. Trong sự thờ cúng, truyện kể, thơ ca hò vè. Ở quá khứ và hiện tại sai lệch ở điểm nào, ghi đại những thu thập không hiểu là đúng sai cứ kết thành sử liệu, để lại cho đời sau.

Sự truyền khẩu kéo dài, lại thêm sự thêm bớt khi truyền khẩu. Có nhiều điểm vô lý thiếu khoa học. Nào có phải là tinh hoa Văn Hóa Cội Nguồn. Cái sai dây chuyền. Dựa vào đó mà kết thành sử liệu. Khác nào đưa cái sai đến chỗ sai thêm.

Ở đây chúng tôi nêu lên vài điều vô lý. Đối chiếu giữa mình và Trung Quốc ở sát bên nhau. Không những liên quan về Họ Tộc mà còn liên quan nhiều điểm khác nữa. Nếu nói Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ cách đây hơn 4 nghìn năm. Sinh ra một cái bọc đẻ ra trăm trứng nở ra trăm con.

Nếu nói trăm trứng nở ra trăm con, 50 Nam, 50 Nữ, Gái theo Mẹ lên núi, Trai theo Cha xuống biển. Lớn lên gặp lại lấy nhau. Thành Tổ Tiên của người Bách Việt là không có cơ sở khoa học. Vì sao?

Vì vào thời kỳ ấy, cách đây hơn bốn nghìn năm. Thì chỉ trước thời nhà Hạ, trước thời Nghiêu, Thuấn mà thôi. Không những không đúng sự thật mà còn có hại nữa là khác.

Nếu nói Âu Cơ sinh ra 50 Nam, 50 Nữ, Gái theo Mẹ lên núi, Trai theo Cha xuống biển, lớn lên gặp lại lấy nhau trở thành Tổ Tiên của người Bách Việt.

Chỉ ở thời điểm này thời chúng ta đã thấy bất ổn. Họ sẽ cho chúng ta có nguồn gốc loạn luân. Trong khi nước bạn Trung Quốc ở sát bên ta. Ở vào thời kỳ này nền Văn Minh Thần Giáo đang trên đà Văn Minh cực thịnh. Nhơn Luân cũng đã khá rõ ràng, anh em ruột không lấy lộn nhau. Nếu có lấy cũng chỉ là con nhà Cô Cậu, Dì Dượng mà thôi, còn trong họ tộc ít lắm cũng phải qua ba đời. Huống chi Nền Văn Minh Quốc Đạo Tiên Rồng, Văn Hóa Cội Nguồn, Hiến Pháp Văn Lang cấm hẳn anh em ruột thịt lấy lộn nhau.

Nếu còn nói Âu Cơ chỉ sanh một trăm con Trai, tránh đi sự loạn luân, thì nguồn gốc của người Bách Việt lại càng thêm bất ổn. 100 người con trai Âu Cơ lớn lên lấy vợ ở đâu? Và những người vợ ấy là dân tộc nào? Không ai giải thích nổi, đó là nói đến phàm trí. Còn bậc Đại Thánh trí thì thấy quá rõ ràng. Có thể nói tóm tắt câu chuyện, Lạc Long Quân và Âu Cơ sanh ra bọc trứng. Từ bọc trứng nở ra trăm con sau đây.

(Xem Kinh Long Hoa Thiên Tạng sẽ nói rõ hơn)

QUỐC TỔ VUA HÙNG KỂ RẰNG:


Cách đây 3 trăm 27 triệu 600 nghìn năm. Ở vào thời kỳ ấy. Cuối kiếp tăng, đầu kiếp giảm. Thời kỳ ấy là thời kỳ chánh khí. Khí Tiên Thiên dày đặc. Côn trùng thảo mộc, sinh linh vạn vật, muôn loài Cầm Thú tiến hóa rất nhanh. Lại thêm tuổi thọ sống lâu vô kể nên sự sanh sôi nảy nở lan rộng rất nhanh. Cùng khắp mặt Địa Cầu ở khắp năm châu bốn bể. Và cái ác, cái thiện sơ khai cũng từ từ ló dạng ra đời.

Loài Rồng và loài Quỷ thường đánh nhau, sự bất phân thắng bại ấy kéo dài tới hàng triệu triệu năm. Hết tiểu kiếp này sang tiểu kiếp khác.

Cho đến một hôm, Trái Đất xảy ra chuyện lạ. Đó là con người xuất hiện sanh con đẻ cháu, lưu truyền cho đến ngày nay. Cách đây 75 triệu 600 nghìn năm. Giữa tiểu kiếp thứ 5 của kiếp trụ. Tức là ở đỉnh kiếp tăng đầu kiếp giảm.

Thời kỳ ấy ở phương Đông có một dãy núi cao, to, rộng lớn vô cùng. Quanh năm tuyết phủ che lấp hết thảy ngọn núi, khí lạnh bao trùm. Chim muôn vạn thú ở dãy núi này đông vô số nhiều vô biên, không thể tính đếm hay luận bàn cho hết được. Phần nhiều muôn loài Cầm Thú đều có pháp thuật thần thông. Sự đi đi lại lại của các loài Cầm Thú thường gây lên những cơn gió lốc. Cây cối ngã đổ ầm ầm. Lại thêm loài Rồng đánh nhau với các loài Quỷ dữ dội. Nhất là đánh nhau với Mộc Tinh, Hồ Tinh và Ngư Tinh tạo ra cảnh mù trời mịt đất. Chết chóc ghê hồn.

Ngọn núi cao chót vót khoảng độ 10 nghìn mét, dài, to, rộng ấy, bao hàm rộng lớn gồm 3 nước. Lào, Campuchia và Việt Nam, hình thể như một con Rồng vươn mình bay về vũ trụ.

Chân núi ở phía Đông rộng xa kéo dài thăm thẳm, giáp liền tới các Đảo. Ngày nay gọi là Đảo Hải Nam, Trường Sa, Hoàng Sa.

Chân núi ở phía Nam kéo dài rộng xa thăm thẳm. Giáp liền tới các Đảo Na Tu Na, MÃ LAI (Malaysia).

Chân núi ở phía Tây kéo dài rộng xa thăm thẳm. Giáp liền Mê gui, Ta voi, Nam tu, Mit ti na, Miến Điện (Myanma).

Chân núi ở phía Bắc bao trùm cả Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu. Nói chung bao trùm hầu hết giang Nam lĩnh Nam Trung Quốc.

Một dãy núi cao to đã kinh khiếp. Cộng thêm chân núi bốn phía xung quanh bao trùm rộng lớn như đã kể trên. Chưa hết, còn có 7 dãy núi khác nữa, bao bọc xa gần. Nói chung là 7 nước xa gần là 7 nước Đông Nam Á hiện nay.

Một dãy núi cao dài rộng lớn kinh khiếp ấy. Hình thể như một con Rồng vươn mình bay lên hư không vũ trụ. Nên gọi dãy núi đó là dãy núi Long Hoa. Long Hình Địa Cốt. Địa Long của quả Địa Cầu.

Ở dưới dãy lòng núi, nằm sâu dưới đất. Có một khoảng trống chạy dài theo dãy núi. Linh Địa đều tập trung nơi đây. Trải qua hàng triệu triệu năm. Linh tuyền linh. Cốt của Địa Long hết sức quí hiếm. Trên đỉnh núi tuyết phủ quanh năm, khí hậu lạnh lẽo.

Lưng chừng núi rải rác có hàng trăm hàng nghìn cái động lớn. Hàng vạn cái động nhỏ. Phần do tự nhiên. Phần do Thú Cầm có pháp thuật thần thông tạo ra. Quang cảnh nhộn nhịp bởi quá đông chim muôn vạn thú. Cây cao bóng cả tàng tán xum xuê. Xanh um bạc ngàn lớp áo bọc ngoài dãy núi. Hoa văn sặc sỡ chen nhau đua sắc đua hương của nhiều loại hoa. Thêm vào đó là những quả chín đỏ chín vàng. Lúc nào cũng mỉm cười với những cụm đá chồng ngộ nghĩnh. Cành lá rung rinh theo chiều gió, suốt ngày suốt đêm làm bạn hàng nghìn, hàng trăm đám mây ngũ sắc la đà bay lượn xung quanh dãy núi. Làm cho quang cảnh xung quanh của núi có muôn vạn đèo mây.

Dãy núi Long Hoa đẹp như Thiên Sơn Tiên Cảnh, Còn bốn bên chân núi thì rừng xanh thăm thẳm, trải dài vô tận. Suối, sông, ao, hồ tuôn chảy ngày đêm không ngớt. Thời tiết ở bốn phía chân núi chuyển vận theo bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Khi Chân Núi phía Bắc khí hậu lạnh, mưa to, gió lớn. Thì chân núi ở phía Nam lại là mùa nắng ấm. Chân núi ở phía Tây lạnh lẽo, mưa gió lụt lội. Thì ngược lại chân núi ở phía Đông lại là mùa khô ráo hạn hán. Cứ thế ở bốn phía chân núi thời tiết luân phiên trái ngược nhau.

Có thể nói dãy núi Long Hoa. Long Hình Địa Cốt. Là dãy núi thể hiện đầy đủ huyền Thiên Tạo Hóa, Vô Cực, Thái Cực, ÂM DƯƠNG, Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Ngũ Hành, Bát Quái, Thiên Can, Địa Chi, Hào Quẻ, biến hóa ảo diệu vô cùng. Phải nói là dãy núi linh thiêng nhất của Trái Đất. Trung tâm khí Thiên sông núi, linh ứng của Quả Địa Cầu. Là một Thánh Địa để cho con người ra đời và thật vậy.

* * *

Hết phần 1 chương 2 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 2 chương 2. Long Hoa Mật Tạng kinh là bộ kinh quý hiếm không thể nghĩ bàn, những người hữu duyên chỉ cần đọc qua một phần kinh thì coi như tội lỗi tiêu tan muôn vạn ức kiếp, rốt sau đều thành Phật Tổ, Thánh Tổ, Chúa tổ, giáo hóa vô lượng cõi nước trời. Nếu đem in ấn, biên chép truyền bá cho đời, thì phước đức không kể sao cho hết. Không những Ông Bà Cha Mẹ siêu thăng về thượng giới. Mà con cái cháu chắt hiển vinh đời đời, giàu sang bậc nhất.

Long Hoa Mật Tạng quí biết bao

Muôn nghìn ức kiếp khó tìm cầu

Chỉ cần đọc tụng truyền bá khắp

Vua Trời mãi mãi đấng tối cao.

* * *



CHƯƠNG 2

PHẦN 2

CHA TRỜI – ĐỊA MẪU

XUẤT HIỆN

LẠC LONG QUÂN VÀ ÂU CƠ


Lúc bấy giờ nơi cõi Hư Không trung tâm vũ trụ, Đức Khai Hóa Tối Thượng Tổ Tiên thấy muôn loài Cầm Thú sát phạt lẫn nhau, không còn tiến hóa được nữa với cái tánh ngu si mê muội ác độc, ngự trị mãi linh Hồn của chúng, đầu thai lẩn quẩn, lộn qua lộn lại ở loài Cầm Thú mà thôi.

Tổ Tiên Khai Hóa nhìn vũ trụ nghĩ, giang sang ta rộng lớn thế này, không người cai quản với tính chất ngu si của loài Cầm Thú thì khó mong làm chủ được vũ trụ, chớ đừng nói đến linh Hồn của chúng giác ngộ trở về Cội Nguồn. Chúng mãi mãi ở lớp Thú Cầm, rồi đọa lạc sang Côn, Trùng, Thảo, Mộc.

Linh Hồn 8 muôn 4 nghìn loài sống trong vũ trụ nói chung, bốn quả Địa Cầu nói riêng linh Hồn của chúng cũng chính là linh Hồn của ta, ở hai dạng khác nhau. Ta nước, chúng là bọt nước. Linh Hồn của ta Đại Linh Hồn vũ trụ ví như nước. Còn linh Hồn 8 muôn 4 nghìn loài là tiểu linh Hồn vũ trụ, ví như bọt nước. Tiểu Linh Hồn do Đại Linh Hồn tạo ra. Cũng như bọt nước là do nước tạo ra. Nước chỉ là một, còn bọt nước thì nhiều vô lượng vô biên.

Linh Hồn của chúng không phải do trí giác ta tạo ra mà do thân giác vũ trụ ta tạo ra. Khi trí giác vũ trụ ta ngủ sâu vào Đại Định, không còn kiểm soát thân giác nữa Thân giác ta liền khởi ý phân biệt xâm nhập vào thế giới vật chất. Thế là trở thành Tiểu Linh Hồn vũ trụ nhiều vô lượng vô biên không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn.

Linh Hồn của chúng sanh ra khi ta còn đang ngủ. Nên Linh Hồn của chúng vì đó mà tối mê chìm đắm mãi trong cảnh giới vô minh không bao giờ trở về Cội Nguồn được. Cũng như bọt nước u mê, thì không bao giờ hiểu chúng từ nước sanh ra và Tiểu Linh Hồn cũng thế. Không bao giờ hiểu mình từ Đại Linh Hồn sanh ra vì không hiểu rõ Nguồn Cội của mình. Cứ trôi lăn mãi trong sanh tử, đầu thai qua lại ăn nuốt lẫn nhau, Ác tánh khởi sanh như non, như núi, xung đột tàn sát khốc liệt. Vì hiểu rõ muôn loài Cầm Thú tiến hóa đến đây thì không còn tiến hóa được nữa, cũng như trí giác Linh Hồn của muôn loài Cầm Thú không bao giờ tìm thấy Đại Linh Hồn vũ trụ trở về với Cội Nguồn.

Nên Khai Hóa Tổ Tiên mới hiện thân ra con người.

(Xem Kinh Long Hoa Thiên Tạng nói rõ điều này hơn)

Lưu truyền nòi giống con người để mà cứu chúng. Lưu truyền nòi giống con người có nhiều mục đích:

1: Là để cho các loài Cầm Thú, đầu thai làm người. Một thể xác cao cấp tiểu thiên vũ trụ.

2: Linh Hồn muôn loài Cầm Thú nhờ thể xác con người, thể xác cao cấp tiểu thiên vũ trụ. Tiến hóa Linh Hồn nhanh chóng lên cảnh giới, Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.

3: Thay thế Tổ Tiên cai quản điều hành vũ trụ, lúc Tổ Tiên ngủ, cũng như lúc Tổ Tiên thức.

4: Điều hành nhân loại còn ở cảnh giới phàm, phàm phu theo Thiên Đạo. Hiệp theo bộ máy huyền vi của Tạo Hóa. Hiệp theo Thiên Luật Cội Nguồn.

5: Thay thế Tổ Tiên. Khai tạo lập lên cảnh giới Thiên Đàng Cực Lạc. Cảnh giới cao nhất của loài người.

6: Duy trì: Mật Tạng, Pháp Tạng, Thiên Tạng, Luật Tạng, Công Đạo Hiến Pháp vũ trụ.

7: Đại Đồng vũ trụ, Độc Lập thống nhất bình đẳng, đem lại sự bình yên cho toàn vũ trụ.

8: Phát minh khoa học toàn năng toàn giác, tinh thần, vật chất. Phục cho nền Văn Minh vũ trụ.

9: Trở về Cội Nguồn. Ví như bọt nước tan biến trở về là nước. Tiểu Linh Hồn trở về Đại Linh Hồn. Trở về thật tánh thật tướng của mình. Vô thỉ vô chung như như bình đẳng.

10: Là hiện thân toàn năng toàn giác lập ra vô lượng phương tiện. Phù hợp khả năng ở mỗi thời kỳ, độ tận thiên hạ. Sự hiện thân của Tổ Tiên Khai Hóa, lưu truyền nòi giống con người có 10 mục đích như thế, lợi ích như thế nhưng Tổ Tiên hiện thân bằng cách nào. Khi Tổ Tiên bản thể vốn vô vi, muốn hiện thân thành hữu vi phải có cơ sở khoa học của nó.

Tổ Tiên Khai Hóa phải dùng đến ý niệm tóm thâu, giống như Lực Nam Châm hút lấy sắt, thép, kẽm, chì. Tổ Tiên dùng ý niệm tóm thâu Tiên Thiên Tinh Hoa vũ trụ. Hiện thân ra Đức Cha Trời, đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, hào quang sáng chói. Tổ Tiên lại tiếp tục dùng ý niệm, tóm thâu Tiên Thiên Chơn Âm, Tinh Hoa vũ trụ. Hiện thân ra Đức Địa Mẫu đủ 32 tướng tốt, 80 mươi vẻ đẹp hào quang sáng chói.

Sự hiện thân của Tổ Tiến, một âm một dương, một nam một nữ. Làm cho không gian bỗng sáng rực rỡ. Như báo hiệu Đức Cha Trời Đức Địa Mẫu ra đời, chuẩn bị cho cuộc hành trình lưu truyền nòi giống con người. Thay thế Tổ Tiên trông coi vũ trụ.

Đức Cha Trời khi có con gọi là Đức Lạc Long Quân.

Đức Địa Mẫu khi có con gọi là Đức Âu Cơ.


Đức Cha Trời cùng Đức Địa Mẫu, chọn lấy quả Địa Cầu Nam Thiện Bộ Châu. Quả Địa Cầu mà chúng ta đang sanh sống, làm nơi sanh sản con người trước nhất. Từ nơi chốn hư không trung tâm vũ trụ, Hai Đấng Tiên Rồng, Cha Trời, Địa Mẫu từ từ bay đến Trái Đất và đáp hạ xuống đỉnh núi Long Hoa, Long Hình Địa Cốt Trái Đất. Làm cho Trái Đất rung động. Chim muôn vạn thú kinh hoàng hoảng sợ, không biết điều gì đã xảy ra. Mây ngũ sắc bỗng nhiên xuất hiện. Dưới mặt đất muôn hoa chen nhau đua nở, cây cối khô héo lâu ngày bỗng đâm chồi nảy lộc xanh tươi trở lại. Sông suối khô cạn, tự nhiên nguồn mạch sung túc róc rách chảy tuôn thấm nhuần mặt đất. Bầu Trời mát mẻ trong xanh, Nhật Nguyệt Tinh Tú thi nhau tỏa sáng. Dưới đất trên cây Phụng Hoàng nhảy múa. Rồng uốn khúc ngúc ngoắc vẫy đuôi, 8 muôn 4 nghìn loài như đi vào an lạc mới.

Từ nơi ngọn núi Long Hoa, muôn đạo hào quang tỏa lên rực rỡ, mang theo mùi hương thơm ngát Loài Cầm Thú nào hít được thì không còn đói khát, như uống phải cam lộ, Linh Đơn. Linh Hồn phấn chấn như muốn bay bổng lên Trời. Các loài Cầm Thú có pháp thuật thần thông, thấy ngọn núi Long Hoa, muôn Đạo hào quang tỏa lên rực rỡ thì bốn phương tám hướng quả Địa Cầu, các loài Thần Thú, Thần Cầm lũ lược bay đến làm cho ngọn núi Long Hoa trên không dưới đất chật nghẹt. Ngày hội của Thú Cầm.

Đây nói về Đức Cha Trời cùng Địa Mẫu đáp xuống ngọn núi Long Hoa gây ra chấn động Địa Cầu. Liền thâu nhỏ thân hình lại cao độ vài mươi trượng mà thôi. Đức Địa Mẫu Âu Cơ liền gồm thâu ngũ khí: Địa, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa ở bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc và Thổ Khí Linh truyền sâu dưới dãy núi Long Hoa để tạo thành phôi thai trăm trứng cùng trong một cái bọc to lớn trong bụng Đức Mẹ Địa Mẫu Âu Cơ.

Núi Long Hoa là dãy núi hình Rồng, thu hút Tinh Hoa của Trời Đất hàng triệu triệu năm: Vô Cực, Lưỡng Nghi, ÂM DƯƠNG gồm đủ, tứ tượng đủ đầy, bát quái chuyển xây, Ngũ Hành, Địa Chi không thiếu, một trăm chi khí, trấn khắp ngũ phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung Ương Thượng, Hạ.

Đức Địa Mẫu Âu Cơ tóm thâu Tinh Hoa, khí hóa Ngũ Địa của dãy núi chân núi Long Hoa là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ kết tụ thành trăm trứng trong một bọc, trăm trứng vì vậy cũng chia thành năm màu da khác nhau.

Kim trứng da trắng. Mộc trứng da chàm. Thủy trứng da đen. Hỏa trứng da đỏ. Thổ trứng da vàng.

Sự hình thành phôi thai, dưỡng nuôi bào thai phải trải qua một thời gian khá lâu, đúng chu kỳ luật tự nhiên ở đỉnh cao tuổi thọ giữa tiểu kiếp thứ 5, con người sanh ra trung bình thọ 60 nghìn tuổi, yểu 40 nghìn tuổi, thọ 80 nghìn tuổi. Nên Địa Mẫu Âu Cơ phải mang thai 9 năm, 9 tháng, 10 ngày thời thai nhi mới phát triển đầy đủ, lục phủ ngũ tạng, sáu căn, chín khiếu hoàn hảo. Trở thành con người hài nhi (xác thân tiểu thiên vũ trụ). Tinh Cha, Huyết Mẹ, Tinh của Trời, Khí của Đất. Đức Địa Mẫu Âu Cơ đã mang thai trăm trứng. Sắp đến ngày khai hoa nở nhi, nhân loại con người sẽ ra đời, chào đời, sắp đến giờ quan trọng ấy.

Đức Địa Mẫu Âu Cơ nói với Đức Long Hoa Cha Trời rằng:

Này ông, giờ thì đến lượt ông, ông hãy gọi muôn loài Cầm Thú đến, để chúng đầu thai làm con người, làm con của chúng ta.

Đức Long Hoa Cha Trời nghe Địa Mẫu Âu Cơ nói thế tức thời từ nơi cửa miệng của Đức Long Hoa Cha Trời, trùng trùng điệp điệp lớp lớp hào quang tung tủa phóng ra, tạo ra vô số vô biên âm thanh vi diệu, truyền xa đến tận chân trời góc bể khắp quả Địa Cầu.

Chim muôn vạn thú là những con chúa tể đầu đàn nghe được âm thanh ấy liền cấp tốc lên đường đến nơi Cha Trời đang gọi. Lúc bấy giờ xa gần trên không, xa gần ở đỉnh núi Long Hoa. Lớp lớp mây ngũ sắc biến thành cây báu khổng lồ, các loài Cầm Thú khắp mặt Địa Cầu, loài ở động ở hang, loài ở rừng ở núi, loài ở cây ở đất, loài ở sông ở biển, loài ở tuyết ở lửa, thi nhau bay đến ngọn núi Long Hoa rợp trời rợp đất. Nhìn các loài Cầm Thú đông vô số vô biên, không thể tính đếm không thể nghĩ bàn, lớp ở mặt đất, lớp ở trên cây báu, lớp ở trên không, Chúa Tể của loài bò sát, Cầm Thú đều có mặt.

Các loài Thần Thú, Thần Cầm thấy hai Đấng Tiên Rồng, cao lớn kỳ lạ. Hào quang sáng rỡ muôn màu muôn sắc. Xinh đẹp tôn nghiêm. Nhưng rất hiền lành, có loài bạo dạng đến gần để nhìn cho rõ.

Địa Mẫu Âu Cơ thấy Chúa Tể của muôn loài đến đông đủ, toàn thân của Địa Mẫu Âu Cơ, trổi dậy vô lượng mùi hương lan tỏa khắp, muôn loài Cầm Thú, Bò Sát chỉ cần hít vào, không những hết đói khát cả tháng mà Linh Hồn cũng sáng suốt minh mẫn lạ thường, nhạy cảm vô biên.

Nhất là loài Rồng, loài Phụng, loài Khổng Tước, loài Kỳ Lân, loài Voi, loài Sư Tử, loài Ngựa, Trâu, Dê, Chó, Mèo, v.v... Đức Long Hoa Cha Trời thấy chúng nó đã hít huệ hương, trí hương, giác hương, giới hương, định hương, thiện hương, dũng hương, tín hương, nghĩa hương, lễ hương, nhẫn hương, xả hương, nhịn hương, nhục hương, lạc hương, thiên hương, v.v... Liền dùng trăm nghìn muôn ức hào quang phát ra muôn vạn âm thanh vi Diệu, cùng một lúc thuyết giáo nói chuyện với muôn nghìn chủng loại Cầm Thú, Bò Sát.

LỜI TRUYỀN DẠY CỦA ĐỨC CHA TRỜI:

Hỡi các loài Cầm Thú, các loài Bò Sát, ta đây là Đấng Chúa vũ trụ, Đấng tạo lập lên tất cả. Nay ta gọi các ngươi đến đây nói rõ các ngươi từ đâu có ra thì các ngươi phải hiểu để biết đường trở về, thoát khỏi cảnh luân hồi sanh tử, thoát khỏi cảnh ngu si khốn khổ. Khi xưa ta tạo ra Lực, Khí, Lửa, Nước, Đất Ngũ Đại vũ trụ. Thành lập Tam Thiên, Đại Thiên thế giới, ba cõi vật chất Thiên Đàng, Trần Gian, Âm Phủ. Tạo ra Nhật, Nguyệt, Thiên Hà, Ngân Hà, Tinh Tú, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ sau cùng là 4 quả Địa Cầu. Thì ta cũng đã quá mệt nên đi vào giấc ngủ say sưa. Ta có một cái tánh đặc biệt, khi ta thức thì pháp thân ta Quang Minh, nhưng khi ta đi vào giấc ngủ say sưa, không kiểm soát được pháp thân của ta nữa. Pháp thân ta liền trở thành vô minh, xâm nhập vào thế giới vật chất. Khởi tưởng phân biệt bám lấy vật chất, từ bản thể linh giác Thấy, Nghe, Hay, Biết tự nhiên của ta, nẩy sanh khởi tưởng phân biệt, tức thời thân ta một phần lớn bể ra từng mảnh nhỏ, nhiều vô số vô biên không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn như vô số vi trần cát bụi vô tận vô biên. Những mảnh bể Linh Hồn đó đã trải qua vô lượng vô biên số kiếp, tiến hóa ý thức, những mảnh Linh Hồn đó chính là Linh Hồn của các ngươi.

Linh Hồn của các ngươi ví như bọt nước, còn Linh Hồn của ta ví như nước. Bọt nước từ nước sanh ra nhưng bọt nước không biết Cội Nguồn của mình là nước. Ta là Đại Linh Hồn vũ trụ còn các ngươi là Tiểu Linh Hồn vũ trụ. Tiểu Linh Hồn từ Đại Linh Hồn mà ra nhưng Tiểu Linh Hồn các ngươi không biết đường về, bởi vì các ngươi sanh ra mang theo cái tánh vô minh ấy của ta, trở thành tánh ngu si của các ngươi, cũng từ cái tánh ngu si này, dẫn dắt các ngươi đến con đường hung ác, con đường Dục Vọng, cấu xé ăn nuốt lẫn nhau và mãi mãi trong thống khổ, Dục Vọng Điên Cuồng.

Không những các ngươi khốn khổ trong cuộc sống sát phạt, ăn nuốt lẫn nhau mà còn khốn khổ trong sanh tử luân hồi đọa đầy khắp nẻo. Khốn khổ trong bộ mấy tuần hoàn vũ trụ, Thành, Trụ, Hoại, Không. Linh Hồn các ngươi phải lại chìm đắm trong lạnh lẽo, tối tăm ở kiếp không hàng trăm triệu năm.

Linh Hồn của ta ví như nước, Linh Hồn của các ngươi là bọt nước. Bọt nước với nước chính là một không phải hai, mà là hai vì Linh Hồn của các ngươi là bọt nước còn Linh Hồn của ta là nước mà thôi. Nước không xa rời bọt nước, chính bọt nước không biết đấy thôi, Linh Hồn bọt nước của các ngươi đang sống trong Đại Linh Hồn vũ trụ nước của ta vì bọt nước và nước không tách rời nhau, nếu bọt nước tách rời khỏi nước thì bọt nước sẽ bị hủy diệt. Linh Hồn của các ngươi cũng vậy, nếu tách rời khỏi Đại Linh Hồn vũ trụ của ta thì Linh Hồn các ngươi sẽ bị hủy diệt ngay. Các ngươi nghĩ gì, làm gì ta đều nghe thấy tất cả, cũng giống như cá sống trong nước, cá làm gì, nghĩ gì nước đều thấy rõ.

Thân xác của các ngươi là thân xác Cầm Thú, Bò Sát khó mà tiến hóa lên được nữa, Linh Hồn của các ngươi mãi là Linh Hồn Cầm Thú, Bò Sát, đầu thai qua lại ăn nuốt sát phạt, trả quả cho nhau khổ mãi không ngừng.

Các ngươi nên nhân cơ hội này xả bỏ xác thân Cầm Thú, Bò Sát, Linh Hồn đầu thai vào loài người, một thể xác cao cấp thể xác Tiểu Thiên vũ trụ. Không những Linh Hồn các ngươi tiến hóa rất nhanh trí huệ vô tận, nhờ thân xác con người các ngươi tiến tới làm chủ được mình, làm chủ vũ trụ, không những các ngươi thoát khỏi loài Thú, Cầm, Bò Sát, ngu si đần độn. Được làm người đứng thẳng, đầu đội Trời chân đạp đất, không những các ngươi thoát khỏi ngu si đần độn, được làm người, làm con của ta, các ngươi sẽ thay ta, trông coi vũ trụ, đầy đủ Thần Thông trí huệ, phước báo pháp lực vô biên, tạo lập lên thế giới Thiên Đàng Cực Lạc, sống mãi không chết. thoát khỏi Sanh, Lão, Bệnh, Tử.

Loài nào đầu thai làm người trước, loài đó sẽ ở ngôi vị Chí Tôn, làm đàn anh của loài người và tiếp theo ngôi vị sẽ phân theo thứ lớp.

Khi Đức Long Hoa Cha Trời thuyết giáo xong, liền có 100 Thần Thú, Cầm, Bò, Sát là những Chúa Tể đứng đầu. Thú, Cầm, Bò, Sát vui mừng khôn xiết liền xả bỏ thể xác, đầu thai nhập vào bụng Mẹ Âu Cơ. Chúa Tể loài Rồng xả bỏ thân xác nhanh chóng, đầu thai trước nhất ở ngôi số 1, kế đến là Phụng Hoàng, Khổng Tước, Kỳ Lân ở ngôi số 2, kế đến là Voi, Sư Tử ở ngôi số 3 rồi đến Ngựa, Trâu, Hổ, Gấu, Khỉ, Chó, Mèo, v.v... (năm ngôi).

Chỉ riêng có 3 con Chúa Tinh yêu quái đứng đầu, các loài không phải Cầm, không phải Thú.

Một là loài Chồn Cáo có cánh: tánh đa nghi xảo hoạt, trộm cướp lén lút, thích nửa tối nửa sáng là lối sống của chúng, nghi ngờ lời thuyết giáo của Đức Cha Trời nên bỏ cơ hội làm con của Trời.

Hai là loài Thuồng Luồng có cánh: không phải Cầm, không phải Thú, không phải loài Bò Sát, tánh tình hung dữ, đa nghi, mưu mẹo, ác độc, háo chiến háo sát, chúng hủy diệt cả tổ tông của chúng là loài Khủng Long. Với cái tính hung ác, đa nghi, bảo thủ cao. Chúng không nghe lời Đức Cha Trời bỏ mất cơ hội làm con của Tiên Cơ Địa Mẫu, làm con của Đức Cha Trời.

Ba là loài cây sống lâu năm: đó là cây Mộc Hương, loài cây ăn thịt. Loài cây này chuyên tiết ra mùi hương lạ dụ các loài Động Vật đến, kể cả các loài Cầm Thú. Chúng cũng được Cha Trời gọi đến nhưng chúng tự cao đến để thực hiện mưu đồ hưởng lợi từ hai bên Cha Trời Địa Mẫu và các loài Động Vật Cầm Thú, Bò Sát. Không những chúng không chịu đầu thai mà chúng còn tỏ thái độ ganh ghét, sự cao sang, uy lực, thần thông quảng đại của Đức Cha Trời cũng như Địa Mẫu Âu Cơ.

Đức Cha Trời, Địa Mẫu Âu Cơ tuy biết thế nhưng cũng để yên cho chúng không phê phán gì, mà nghĩ chúng là kẻ có lợi cho sự tu luyện, con cái nhà Trời. Muốn tu luyện mau thành chánh quả phải nhờ cái ác khảo đảo phản tỉnh, có Đại Ác thì mới thấy Đại Thiện, thấy cái xấu thì mới quí cái tốt, thấy khổ mới đi tìm sự vui, muốn có Cõi Thiên Đàng Cực Lạc phải thoát ra từ cõi Địa Ngục.

Vì hiểu thế Đức Cha Trời không làm hại chúng mà còn nói:

Này ba con quỷ, Luật Trạng vũ trụ rất công minh, nếu ngươi thắng được con ta, thì các ngươi có quyền làm chủ vũ trụ.

Ba con quỷ nghe Đức Cha Trời phán thế không những không cảm ơn mà còn cao ngạo phóng lên không trung bay đi đầy thách thức. Đức Cha Trời thấy thế liền nở nụ cười đầy bí hiểm, khó ai hiểu được thâm ý của Trời, bí mật mãi mãi là bí mật.

Từ khi Chúa Tể của các loài Cầm Thú, Bò Sát đầu thai vào bụng Mẹ Địa Mẫu Âu Cơ để được làm người, làm con Trời phải trải qua chín năm, chín tháng, mười ngày mới chào đời, trong thời gian ấy Đức Địa Mẫu Âu Cơ phải luôn luôn tóm thâu tinh hoa khí hóa Thiên Địa để nuôi con từng ngày từng giờ. Với công lao ấy không có gì đền đáp nỗi.

Đức Cha Trời nhìn sự kham khổ của Địa Mẫu liền ngẫm nghĩ. Vì muốn sanh ra nhân loại con người, lưu truyền nòi giống con người. Để cho muôn loài vạn vật, Côn Trùng, Thảo Mộc muôn loài Cầm Thú tiến hóa lên, được đầu thai làm người. Tiến hóa Linh Hồn trở về Nguồn Cội giải thoát sanh tử, khốn khổ.

Địa Mẫu Âu Cơ mang thai theo quy luật tự nhiên của phàm trần, theo thời kỳ ấy, thì những người con của Địa Mẫu mới ở lại sống trong chốn nhân gian, nơi quả Địa Cầu này, một thứ khổ, mang thai, sanh con, nuôi con mà Địa Mẫu Âu Cơ là người đầu tiên trải qua kham khổ, khổ nhọc ấy.

Thật ra mà nói với Thần Lực của Đức Cha Trời và Địa Mẫu thì không cần mang thai đẻ con lâu như vậy (mà chỉ cần nháy mắt là tạo ra hàng loạt con người). Nhưng những con người đó chỉ là những con người bằng pháp thuật không phải con người trần tục, xác thân phàm trần, ăn uống đói khát theo quy luật tự nhiên, sanh con đẻ cháu lưu truyền nòi giống con người, chịu kham khổ tu hành tiến hóa, lập công trong Văn Hóa Cội Nguồn, tiến lên cảnh giới Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa lối sống có nhân có quả, gieo Thiện gặt Thiện, gieo ác gặt ác, gieo phúc gặt phúc, gieo họa gặt họa theo quy luật tự nhiên.

Vì vậy để khai tạo ra con người phàm tục, sống chung với muôn loài vạn vật, Đức Địa Mẫu Âu Cơ phải trải qua sự khốn khổ mang thai, nuôi thai, sanh con đều trải qua sự khốn khổ lâu dài. 9 năm 9 tháng 10 ngày mới khai hoa nở nhị.

Đức Địa Mẫu Âu Cơ đã biết sắp đến giờ sanh nở, bằng nói với Đức Long Hoa Cha Trời rằng:

Ông hãy ban cho con cái lời nguyền Hồng Phúc đi.

Đức Long Hoa Cha Trời nhìn về vũ trụ giang sang rộng lớn của mình, chưa có người trông coi và sáng tạo thêm cho xinh đẹp. Lập thành các cõi nước trời trang nghiêm. Đức Cha Trời lại nghĩ rằng. Ta là hiện thân của Đức Tổ Tiên, đấng tối cao vũ trụ, đấng chúa của Linh Hồn và vật chất. Ta cũng cần có người kế nghiệp, đó chính là con cái của ta, thay thế ta làm chủ vũ trụ. Đức Cha Trời lại nghĩ, pháp thân ta vô cùng vi Diệu khó mà nghĩ bàn. Đó là Cội Nguồn của tất cả Trời Đất, vạn vật sanh linh cùng vũ trụ, pháp thân ta là pháp thể Đại Đồng, Tự Do, Bình Đẳng, Hiến Pháp công đạo vũ trụ. Ta cũng cần có người thay thế, duy trì Công Đạo vũ trụ, cầm cân nảy mực phân minh.

NÊN ĐỨC CHA TRỜI PHÁN TRUYỀN RẰNG:

Này hỡi các con của ta, khi các con chào đời sẽ vang tiếng sấm trí tuệ, tiếng sấm Chúa Tể của muôn loài. Các con sẽ có trí Huệ, sáng hơn mặt trời, sáng hơn hào quang của ta, các con sẽ trở thành Phật, Thánh, Tiên vào ba ngôi báu của ta. Đó là Pháp Tạng, Thiên Tạng, Luật Tạng vào ngôi Chí Tôn, thay thế ta điều hành vũ trụ và lập lên các cõi nước Trời, các Thiên Đàng Cực Lạc làm cho Tam Thiên, Đại Thiên vũ trụ mỗi ngày một thêm rực rỡ, xinh đẹp, trang nghiêm.

Lời nguyền của Đức Long Hoa Cha Trời vừa dứt, thì Địa Mẫu Âu Cơ đã sanh ra một bọc to lớn khổng lồ, sau đó là một tiếng nổ kinh thiên động địa, chấn động toàn vũ trụ. (Tiếng sấm Đại Đồng) kế theo là một trăm tiếng sấm nổ làm chấn động liên miên vũ trụ như muốn đến hồi sụp đổ. Như báo hiệu cho tất cả muôn loài vạn vật biết là nhân loại con người đã ra đời thay thế cha ông làm chủ vũ trụ, cai quản thế giới vật chất cũng như thế giới Linh Hồn, kế tục và gìn giữ cơ nghiệp vũ trụ của Ông Cha. Các loài Cầm Thú, Bò Sát vô cùng hoảng sợ, khiếp đảm khi nghe tiếng sấm vang dậy liên tiếp nổ ra làm rung chuyển cả Trời Đất, chấn động không gian vũ trụ, chúng linh cảm là hàng loạt Chúa Tể con người đã ra đời, từ đây chúng sẽ bị cai trị.

Chúng thấy trùng trùng điệp điệp muôn Đạo Hào Quang tỏa lên từ đỉnh núi Long Hoa, và không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Chúng liền bay lên không trung hướng về ngọn núi Long Hoa, mỗi lúc một dữ dội. Âm thanh sấm nổ cứ vang rền mãi không dứt. Làm rung động cả núi rừng, cả năm châu bốn bể.

Nhất là ba con Quỷ tâm Hồn hoảng loạn, run sợ không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Chúng liền bay lên không trung hướng về ngọn núi Long Hoa bay tới thì hết sức kinh hoàng. Một trăm người con của Đức Cha Trời đã ra đời.

Những tia hào quang tỏa ra từ trăm người con của Đức Cha Trời, làm chúng đau đớn ngạt thở. Như hàng vạn mũi kim đâm vào tim chúng, làm chúng hoảng sợ, khiếp kinh ẩn mình, trốn thoát không dám quay đầu nhìn lại nữa.

Khi ấy những dòng sữa của Đức Mẹ Địa Mẫu Âu Cơ tuông chảy ra và mọc lên hàng loạt ngũ cốc, dần dần lan ra khắp cùng mặt đất. Khi con người đi đến đâu, thì nơi đó có dòng sữa Mẹ ngũ cốc để sinh sống.

Đức Long Hoa Cửu Huyền Cha Trời nói:

Này Bà, không bao lâu nữa thì dãy núi Long Hoa sẽ bị sụp. Đất đai phương Đông này động đất dữ dội. Lục Địa giãn nở tách ra, phần lớn đất đai biến thành biển cả sông Hồ. Ở phương Tây cũng như trung Đông nước cạn dần và lộ ra những đất đai bằng phẳng. Phương Đông phần lớn ngập chìm trong biển nước, dãy núi Long Hoa bị sụp. Vì vậy sự sống của dãy núi cũng như sự sống của con cái không được an toàn.

Chúng ta dẫn con cái về phương Bắc của dãy núi (tức là địa phận Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu, nói chung là bao trùm hầu hết miền Giang Nam Lãnh Nam Trung Quốc, giáp liền với sông Trường Giang). Đất đai ở đây bằng phẳng, cây cối sum suê, hoa hiền trái ngọt, phía Đông Nam dãy núi Long Hoa địa chấn sụp xuống thành biển, nơi đây tuy có sụp nhưng vẫn an toàn con cái.

Thế là Đức Cha Trời Lạc Long Quân cùng Địa Mẫu Âu Cơ bay lên không trung phất tay một cái. Tức thời trăm người con bay lên không trung theo Cha mẹ bay về phương Bắc của dãy núi, hạ xuống gần Nam sông Trường Giang bây giờ. Nơi đây đất đai bằng phẳng, cây cối sum suê, sông hồ kinh rạch, núi rừng đều thuận tiện cho cuộc sống. Bốn mùa, tám tiết, Xuân, Hạ, Thu, Đông lúc nào cũng có hoa quả sum xuê bảo tồn nòi giống con người.

Nhìn những dãy đồi mênh mông xa thẳm sông suối nước trong văn vắt. Địa Cuộc Rồng nằm, Hổ phục, Qui định, Phụng an, Chim muôn vạn Thú ở đây đông vô số vô biên, nhất là loài khỉ, loài vượn, loài Tinh Tinh, hàng vạn vạn con. Một hôm Đức Cha Trời Lạc Long Quân cùng Địa Mẫu Âu Cơ nhìn trăm người con đã lớn, uy nghi như sứ Thần Tạo Hóa. Đức Địa Mẫu Âu Cơ nhìn đàn con khôn lớn, chúng có thể nghe có thể hiểu, bằng nói Ông hãy dạy bảo cho con đi.

Đức Cha Trời Lạc Long Quân thường thấy các con không được đoàn kết cho lắm, luôn luôn phân biệt màu da. Da vàng theo da vàng, da trắng theo da trắng, da đen theo da đen, da đỏ theo da đỏ, da chàm theo da chàm, luôn luôn phân biệt chia rẽ nhau.

Đức Cha Trời Lạc Long Quân phán rằng:

Này hỡi tất cả con của ta, các con từ một bọc mà ra, tuy các con khác màu da nhưng các con chung cùng một Cội, một Cha, một Mẹ, một Tổ Tiên, một chiếc nôi Quả Địa Cầu, một ngôi nhà chung vũ trụ. Các con là anh em, các con phải biết thương yêu nhau, đùm bọc nhau để mà sống, các con phải có tinh thần đoàn kết. Tôn trọng lẫn nhau, đối xử với nhau thật Bình Đẳng, tôn trọng quyền Tự Do, quyền Tự Chủ, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc. Trong cái riêng có cái chung, cái chung chính là Hiến Pháp Đại Đồng. Sẽ khởi sanh ra Luật Pháp bảo vệ cái riêng của các con. Các con phải có tấm lòng Quảng Đại, có chí nghĩa Nhân, có lòng hiếu thuận đối với Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, biết thương yêu đồng loại, nòi giống Tiên Rồng. Trung thành lẽ công, bảo vệ cái chung và cái Riêng. Đã là loài người, đầu đội trời chân đạp đất, nòi giống Tiên Rồng. Thì các con phải khác với loài Cầm Thú, Bò Sát. Các con phải sống chân thật, khác với loài Cầm Thú, lừa dối, phỉnh gạt lẫn nhau. Các con phải lấy nhơn Đức làm đầu, tha thứ cho nhau khi có lỗi, nâng đỡ nhau khi lâm nạn, lúc đói khổ. Đoàn kết là lối sống văn minh, chia rẽ là lối sống Địa Ngục, biết yêu thương con cái, biết hi sinh vì đại nghĩa, luôn luôn hướng về Cội Nguồn. Phụng thờ Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu cho con cái noi theo, đừng để lạc mất Cội Nguồn, chăm lo và giữ gìn Đức tánh con người luôn luôn hướng thiện (xem Kinh Nhơn Luân).

Nhờ các con luôn luôn hướng thiện nên các con tìm thấy Cội Nguồn. Trở về Tạo Hóa lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Đó là ngôi Phật, ngôi Thánh, ngôi Tiên. Nếu các con có công lớn trong Văn Hóa Cội Nguồn trong việc truyền giáo độ sanh. Thì các con sẽ lên ngôi Chí Tôn vô thượng phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Chúa.

Nếu các con nghe theo lời dạy của ta chỉ cần được một nửa. Thì các con sẽ được làm vua, làm Chúa, phạm Thiên, Đế Thích ở các tầng Trời. Hưởng phước quả, hạnh phúc vô tận vô biên. Sống trên Châu Báu tột đỉnh của sự giàu sang.

Nếu các con chỉ cần làm được một lời ta dạy. Thì các con sẽ được làm Vua làm Chúa nơi chốn phàm trần. Nếu các con làm theo hai ba bốn lời ta dạy, thời các con sẽ là Vua lớn trên các Vua Chúa lớn trên các Chúa nhỏ.

Nếu các con chỉ cần nghe theo một lời ta dạy, chỉ được một thời gian, nhất là thời gian ở cuối đời. Thời các con sẽ được làm các vị Thần may mắn, vị Thần của sự giàu sang, vị Thần hạnh phúc, vị Thần uy lực, vị Thần Trí Huệ. Công danh địa vị rực rỡ, huống chi các con làm theo trọn một lời cha dạy, nhiều lời cha dạy, thì phước báo không thể nghĩ bàn, có thể nói mãi mãi làm Vua, làm Chúa ở nhân gian, cũng như ở các cõi Trời, sống mãi trên cung vàng Điện ngọc.

Nếu các con chỉ cần nghe qua rồi nhớ 1, 2 điều, trọn đời không quên thì các con sẽ được làm các vị Thần, Thiên Thần ở các cõi trời, muốn chi đặng nấy, cầu chi đặng nấy, đặng nhiều phép lạ để vui chơi. Nếu các con nghe những điều ta dạy, tuy chưa làm theo, nhưng không làm ác thì các con sanh lên các cõi Thiên Đàng Cực Lạc, làm Chư Thiên, Thiên Chúng làm dân ở cõi Trời, tưởng ăn có ăn, tưởng mặc có mặc, muốn cái gì có cái đó.

Nếu các con chỉ cần khen một lời ta dạy, thời các con sẽ được làm các vị Thần ở chốn nhân gian như: Thần Núi, Thần Rừng, Thần Sông, Thần Biển, Thần Mưa, Thần Gió, Thần Lửa, Thần Tuyết, Thần Thổ Địa, Thần Tài. Nếu có công ca ngợi Văn Hóa Cội Nguồn khi mãn số sẽ được thăng lên Thần Mặt Trời, Thần Mặt Trăng, Thần Sao Hôm, Sao Mai và các vị Thần Tinh Tú khác.

Nếu các con chỉ cần truyền lại một lời dạy của ta, thời đời đời kiếp kiếp ta sẽ luôn luôn phù hộ cho con, cho đến khi nào con ngộ được chân tâm thấy được chân tánh trở thành Phật, Thánh, Tiên.

Nếu các con tôn thờ ta, truyền lời dạy ta dạy cho thế hệ sau, thì các con sẽ trở thành Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Chúa, lên ngôi Chí Tôn vô thượng, Chánh đẳng Chánh giác, làm chủ vũ trụ.

Này các con của ta:

Nếu các con làm ngược lại lời ta dạy, thì đi vào bất hiếu, nghịch Thiên, tai họa giáng xuống không sao kể xiết, các con sẽ biến thành Quỷ dữ, Ma Tinh. Các con sẽ trở thành chủ nhân của bóng đêm, chủ nhân của sự chết chóc. Các con sẽ tạo ra thế giới Địa Ngục, thế giới đau khổ không sao tả nổi, thế giới của sự chém giết, ăn sắt uống đồng, sự thống khổ không một giờ nghỉ.

Nếu các con đi theo con đường ác, thời Chúa Tể của u minh sẽ sai Đại ác Quỷ ăn tinh, hút khí của các con. Làm cho các con kiệt sức vì chiến tranh. Chúng sẽ biến tâm hồn của các con thành tâm hồn ác Quỷ của chúng. Tham lam, gian trá, hận thù và sát phạt, tàn sát lẫn nhau. Chúa Tể u minh sẽ biến các con thành những linh hồn ngu si. Mãi Mãi làm nô lệ cho chúng. Chiến tranh tàn sát là thú vui của chúng. Thế Giới đau khổ, những Địa Ngục sát phạt dã man nhất, Chính là Vương Quốc của chúng. Khoái lạc của chúng là sự chia ly, chết chóc, bệnh tật, tù đày, Keo kiệt, tham lam, ganh tị, hận thù, là cửa ngõ u minh. Bước vào thế giới đau khổ, thế giới của sự khảo tra áp bức đến kinh người. Chúng không bao giờ muốn các con tiến lên cảnh giới của Phật, Thánh, Tiên, vào ba ngôi Báu của Trời. Ba ngôi Báu ấy luôn luôn tỏa ánh sáng tâm linh làm chúng khiếp sợ.

Nếu các con đi ngược lại lời dạy. Không những các con đi vào cảnh giới đau khổ. Không bao giờ nhìn thấy thế giới Thiên Đàng Cực Lạc. Cũng như không bao giờ nhìn thấy thật tướng, thật tánh Linh Hồn của các con. Vĩnh viễn không thấy được Cội Nguồn. Mãi mãi đọa lạc trong luân hồi sanh tử. Các con chỉ thấy sự giả dối, sự chết chóc. Chiến tranh, áp bức, bệnh tật, già nua. Và sự tàn sát chém giết, ăn nuốt lẫn nhau. Các con luôn luôn nếm đủ mùi cực nhọc khốn khổ và đau đớn. Đau đớn về thể xác, đau đớn về Linh Hồn. Đau đớn cảnh nồi da nấu thịt. Cảnh cha khóc con, vợ khóc chồng, anh em cấu xé tàn sát lẫn nhau. Nước mắt của các con, kiếp nầy sang kiếp khác. Cộng lại sẽ nhiều hơn một Đại Dương.

Các con hôm nay đã được làm người. Lại là con của ta. Hai đấng Tiên Rồng Tối Cao Vũ Trụ, sự nghiệp giàu sang vô tận. Cái giàu không sao kể xiết, vàng, bạc, Châu Báu vô tận. Đầy cả Hư Không, Tam Thiên Đại Thiên thế giới. Đó là các cõi nước Trời. Các con hôm nay đã là con của ta. Chỉ cần nghe lời của ta dạy. Thì các con sẽ thay ta làm chủ Vũ trụ. Sống trong bất tử và sự giàu sang. Nếu các con không nghe lời thì đáng tiếc biết bao.

Hỡi các con, ta là Đấng Cha Trời, Đấng biết trước. Những gì xảy ra trong tương lai ta đều thấy rõ biết rõ. Vì vậy các con phải tuyệt đối tin tưởng ta. Vì ta là Chúa Tể vũ trụ. Đấng thương yêu các con hơn hết.

Những gì nơi vũ trụ. Cha đã tạo ra, đều là của các con. Nhưng các con muốn có được nó. Thì các con phải có Tài, có Trí, có Đức. Biết áp dụng khoa học kỹ thuật. Nguyên lý thuận nghịch, biến ảo vũ trụ, vận dụng sức mạnh vũ trụ, làm sức mạnh của mình. Thì các con mới làm chủ được nó. Đó là nói đến những người con, người cháu có Đức, có tâm, có trung, có hiếu đối với Tổ Tiên Cội Nguồn, nghe theo và làm theo lời ta dạy.

Còn những kẻ nghịch Thiên, đi ngược lại lời ta dạy. Dù có làm nhiều, ra sức nhiều, tóm thâu, bầu vét khắp thiên hạ vũ trụ, cuối cùng cũng chỉ là trắng tay. Nếu các con nghe lời dạy của ta, các con sẽ luôn luôn gặp ta ở khắp mọi nơi, che chở và dìu dắt các con. Dù cho các con có trải qua vô lượng ức kiếp sanh tử, ta cũng theo sát các con, hộ trì các con, cứu khổ các con, làm cho trí huệ các con mỗi ngày mỗi thêm tỏa sáng, làm chủ được tâm, làm chủ được tánh. Phát Đại Nguyên rộng lớn tận độ vô tận, vô biên, lớp lớp con cháu nhân loại các thế hệ sau vào ngôi vị Chí Tôn Chánh Đẳng, Chánh Giác. Các con Hạnh Nguyện viên mãn, bọt nước trở về là nước, Tiểu Linh Hồn trở về Đại Linh Hồn vũ trụ, bản nguyên là đấng Tạo Hóa Tổ Tiên vũ trụ, đấng Tạo lập lên tất cả.

Đức Địa Mẫu Âu Cơ thấy 100 người con chăm chú lắng nghe Đức Cha Trời Lạc Long Quân dạy bảo lấy làm vui vẻ, thì nghĩ rằng chúng nó đã lớn, có thể tự lập sanh sống, không cầm nương dựa vào Cha Mẹ nữa. Biết mình không thể ở lâu nơi này. Đức Cha Trời Lạc Long Quân, Địa Mẫu Âu Cơ chia hai con cái. 50 con theo Cha làm quen với biển, 50 người con theo Mẹ làm quen với núi rừng.

Đức Cha Trời Lạc Long Quân dẫn 50 người con Trai làm quen với biển, từ biển này sang biển khác, từ đảo nọ sang đảo kia, từ Đông sang Tây rồi trở về chỗ cũ. Đức Mẹ Âu Cơ cũng thế, Đức Mẹ dắt theo 50 người con gái, hết núi rừng này sang núi rừng khác, hết núi rừng phương Đông rồi đến núi rừng phương Tây rồi dẩn con về chỗ cũ.

Đức Cha Trời Lạc Long Quân, Địa Mẫu Âu Cơ dẫn con khắp cùng trái đất, năm châu bốn biển bằng con đường hàng không đi trên mây, tham quan khi cần thì hạ xuống núi xuống rừng, xuống biển xuống đảo. 100 người con của Đức Âu Cơ, Lạc Long Quân thấy nào là biển rộng mênh mông, nào là núi cao chót vót, nào là rừng xanh thăm thẳm bạt ngàn, nào là đảo biển lô nhô xanh um giữa biển cả mênh mông. Cảnh đẹp như tranh, đất liền sông Hồ uốn khúc, không những tham quan trên biển đảo, núi rừng mà còn tham quan nơi đáy biển, các Động tuyệt đẹp nằm sâu trong lòng núi.

Đúng là trên khô ôi là Chim muôn vạn thú, đáy biển mênh mông ôi là chen chúc cá lội tung tăng, nào hang Động, thác nước phủ màn lụa trắng. Hết tham quan trái đất, Cha Trời, Địa Mẫu dẫn con tham quan đến các vì sao gần trái đất, thấy dẫn các con tham quan đến đây là đủ, hai người dắt các con trở về trái đất, trở về chỗ cũ.

Trước khi từ giã con cái, Đức Cha Trời Lạc Long Quân dạy bảo lần cuối cùng:

Này các con, Quả Địa Cầu này tuy là rất đẹp, Quả Địa Cầu Cha tạo ra sau cùng, khi Cha tạo lập vũ trụ, Tam Thiên Đại Thiên thế giới, Quả Địa Cầu này chỉ là Quả Địa Cầu trần tục, khí hóa ô trược cặn bã của Hậu Thiên khí hóa, các con đang sống trong cõi trần giả tạm, không phải là cõi vĩnh hằng, thân xác các con cũng thế, cũng chỉ là thân xác phàm tục khác với thân xác của Cha, Mẹ đây, thân xác Tiên Thiên Tinh Hoa vũ trụ.

Khi các con tu luyện tiến hóa Linh Hồn thành tựu, trí huệ giác ngộ, Đạo Đức, nhân hạnh cao các con sẽ bỏ xác phàm. Linh Hồn siêu lên Thượng Giới, thì các con sẽ có thân xác Tiên Thiên, biến hóa như ý, các con muốn già thì nó già, các con muốn trẻ thì nó trẻ, các con muốn nó lớn như quả núi thì nó lớn như quả núi, các con muốn nó nhỏ như cây kim thì nó nhỏ như cây kim. Nói chung ý tưởng các con muốn gì thì pháp thân các con ứng hóa theo nấy, dạo chơi khắp cùng vũ trụ, Tam Thiên Đại Thiên thế giới, các con hãy ghi nhớ lời ta dặn, cố gắng tu luyện tiến hóa Linh Hồn, sớm mau trở về Cội Nguồn làm chủ vũ trụ.

Trước khi Hai Đấng Tiên Rồng từ giã con cái, đưa tay chỉ về ngọn núi Long Hoa nói:

Cuối tiểu kiếp thứ 9, sắp chuyển sang tiểu kiếp thứ 10, các con hãy khiến con cháu của các con đến dãy núi Long Hoa ấy làm nhà Rồng Tiên.

Nói xong Hai Đấng Tiên Rồng bay lên không trung, ẤN dấu Cốt Tiên Rồng xuống ngọn núi Long Hoa, Hai Đấng Tiên Rồng bay xuống đất ôm lấy con lần cuối.

Hai tòa sen báu như trái núi nhỏ hào quang rực rỡ, không biết hiện ra từ lúc nào, Hai Đấng Tiên Rồng từ từ bay lên tòa sen, bầu trời đang sáng bỗng nhiên tối sầm, thế gian rơi lệ vì Hai Đấng Tiên Rồng ra đi. Hai tòa sen báu từ từ bay vào chốn không gian rồi mất hút trước sự ngơ ngác của 100 người con, 200 con mắt nhìn theo, nhìn theo mãi.

Bầu trời hôm qua đã khác với bầu trời hôm nay, bầu trời hôm qua là bầu trời mùa Xuân, bầu trời hôm nay là bầu trời mùa Đông, cái lạnh bơ vơ, mồ côi mồ cút, trên nẻo đường vạn dặm của cuộc đời. Nhân loại anh em sẽ đi về đâu, Ông Bà Tổ Tiên chúng ta làm gì để sống và tồn tại như thế nào.

(Xem Kinh Long Hoa sẽ hiểu rõ hơn).

Có thể nói Văn Hóa Cội Nguồn, Nền Quốc Đạo Tiên Rồng triết lý, lịch sử cao thâm, lời lẽ khuôn mẫu như thế, chỉ truyền khẩu cho nhau, từ thế hệ này sang thế hệ khác, kéo dài đến mấy nghìn năm, thử hỏi làm sao không sai lệch cho được. Vì thế cốt cán cơ bản tinh hoa của Nền Quốc Đạo Tiên Rồng dần dần bị mất gốc.

Có thể nói buổi ban đầu Quốc Tổ truyền giáo là Rồng, càng về sau con cháu thuyết kể ra loài Rắn nước, rồi bị ngoại xâm thêm bớt, con cháu ghi chép sai đã biến Văn Hóa Cội Nguồn trở thành văn hóa con giun. Từ một lịch sử Cội Nguồn tốt đẹp rồi trở thành một truyền thuyết mơ hồ, ánh sáng chân lý Cội Nguồn đã tắt. Từ đây con cháu Tiên Rồng sa vào cảnh tối tăm, dẫn đến nô lệ, chiến tranh triền miên khó mà kết thúc, cảnh nồi da nấu thịt, đói nghèo lạc hậu khổ thay.

* * *

Hết phần 2 chương 2 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 3 chương 2.

Cái khổ nào hơn khổ lạc Nguồn

Họa cùng khắp nẻo khó qua truông

Non sông tổ quốc đầy u ám

Ngoại xâm thôn tính nghĩ mà thương.

* * *
 

shopoga

Gà con
CHƯƠNG 2

PHẦN 3

MẶT TRỜI CHÂN LÝ LẶNG BÓNG ĐÊM TRÙM XUỐNG NHÂN GIAN


Vào năm 110 trước Công Nguyên lúc đó giấy bút thô sơ mới được ra đời, cho đến năm 542 sau Công Nguyên mới có dịp hương thịnh nhưng chưa tinh vi mấy. Cũng từ đây các học giả yêu nước Việt Nam hồi tưởng về Cội Nguồn, tìm tòi qua sự thờ cúng, truyện kể, thơ ca, hò vè khắp mọi miền đất nước, rồi đúc kết viết lên lịch sử Tiên Rồng một cách mơ hồ làm mối ghiền đoàn kết dân tộc, chung lòng chung sức, bảo vệ giữ gìn quê Cha đất Tổ, đánh đuổi ngoại xâm. Nhưng tiếc thay các Ngài chỉ là người thường tục, chưa tu luyện Đắc Đạo nên không có Huệ Nhãn, Pháp Nhãn thấu suốt quá khứ vi lai, khó mà thấy rõ sự sai lệch trong Văn Hóa Cội Nguồn qua sự truyền khẩu, truyện kể, thờ cúng, thơ ca hò vè, liền cho đó là bản nguyên Văn Hóa Cội Nguồn. Rồi kết thành sử liệu để cho đời sau, sự truyền khẩu qua nhiều thế hệ, thêm bớt làm cho Văn Hóa Cội Nguồn biến dạng mất gốc, có nhiều điểm sai sự thật, dựa vào đó mà kết thành sử liệu thì cũng sai, cái sai dây chuyền.

Cũng từ đây Văn Hóa Cội Nguồn mất gốc, trở thành truyền thuyết mơ hồ, anh sáng Văn Hóa Cội Nguồn đã mất, mặt trời chân lý đã tắt, bóng đêm trùm xuống con Cháu Lạc Hồng kể từ đời AN DƯƠNG VƯƠNG trở xuống.

41 đời Hùng Vương kết thúc, thì những gì tinh hoa Văn Hóa Cội Nguồn còn sót lại cũng theo Vua Hùng biến mất luôn. Từ thời AN DƯƠNG VƯƠNG trở xuống, đến thời Hậu Lê cuối thế kỷ thứ 17 sau công nguyên, kéo dài hơn 2000 năm. Các học giả của mỗi triều đại đi qua, mỗi khi tìm hiểu về truyện kể, thờ cúng, thơ ca hò vè, thêm bớt cho hợp tình hợp lý rồi đúc kết thành sử liệu.

Nhưng học giả có biết đâu, việc thêm bớt Văn Hóa Cội Nguồn vốn đã sai mà vẽ Rồng, vẽ Rắn thêm bớt cho phù hợp tình thế, thì dẫn đến tai hại hơn nữa, chỉ cần ghi chép sai về Văn Hóa Cội Nguồn một li thì cái sai đã đến hàng vạn dặm, đưa lịch sử Tiên Rồng vào chỗ vô lý, nghi ngờ không đáng tin.

Lịch sử Tiên Rồng truyền khẩu kéo dài từ thời Hùng Quí Lân đến thời Hùng Duệ Vương kéo dài 2622 năm. Sự truyền khẩu càng về sau. Sự mất đầu, mất đuôi sai lệch càng nhiều. Không còn đúng Văn Hóa Tinh Hoa Hiến Pháp Văn Lang, Nền Quốc Đạo nữa. Mà Quốc Tổ Hùng Vương đã truyền lại cho con cháu chúng ta cách đây gần năm nghìn năm.

Các học giả từ thời AN DƯƠNG VƯƠNG trở xuống, khi tìm hiểu về Văn Hóa Cội Nguồn Tiên Rồng. Liền gặp phải bao sự khó khăn. Vì sự truyền khẩu có nhiều điểm không giống nhau. Đưa người đọc, người nghe đến chỗ phân vân, sanh ra nhiều nghi vấn. Lắm lúc sanh ra ý niệm tội lỗi. Phỉ bán Cội Nguồn dân tộc, tai họa liền gián xuống. Nhà tan cửa nát con cháu ly tán. Khổ ơi là khổ.

Các học giả chỉ dựa theo suy đoán của mình, dẫn đến kết tập sử liệu. Đưa Văn Hóa Cội Nguồn chuyển sang giai đoạn giả tưởng. Vô tình mở màn nội chiến. Mở màn cho các thế lực ngoại xâm. Truyền thống mất, Văn Hóa Cội Nguồn mơ hồ không đủ cơ sở lý luận vững chắc, thiếu đi mạch lạc khoa học, Văn Hóa Cội Nguồn có nhiều điểm bất ổn.

Dựa vào nhược điểm bất ổn này. Lại thêm lòng tin của Đại Đa số con cháu phân vân gió chiều nào ngã theo chiều ấy. Đây là cơ hội cho các học giả nước ngoài, thuộc hạ cao cấp chính trị với tính toán mưu đồ ngoại xâm. Họ góp ý thêm bớt sửa chữa tưởng chừng như là thiện chí. Nào hay đâu đó là một âm mưu lớn. Ếm đối tài tình, chồng chất thêm nhiều mâu thuẫn. Càng học càng thấy nhiều phi lý rồi trở thành mất gốc hẳn.

Một dân tộc mất đi Văn Hóa Cội Nguồn mất đi bản sắc dân tộc. Thì sức mạnh tinh thần dân tộc ấy sẽ bị yếu ớt, suy giảm đoàn kết dân tộc. Đó là lúc thuận lợi cho cuộc mưu đồ xâm lược ngoại bang. Xâm lược bằng học thuyết, kèm theo văn hóa nghệ thuật. Nhất là xâm lược một loại văn hóa độc hại. Làm cho tinh thần đi vào sa đọa. Xâm lược bằng vũ lực, biến dân tộc ta trở thành dân tộc nô lệ. Cụ thể hơn một nghìn năm, dưới ách thống trị của Tàu. Hơn trăm năm dưới sự cai quản của Tây. Lại thêm nồi da nấu thịt từng ngày. Càng thêm lạc hậu đọa đày gian truân.

* * *

Hết phần 3 chương 2 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 4 chương 2.

Việt Nam con cháu Tiên Rồng

Trở về Nguồn Cội lẫy lừng năm châu

Văn Lang Văn Hóa cao sâu

Anh linh truyền thống rạng bầu tinh hoa

Lạc Nguồn lạc Cội Ông Cha

Hết mong độc lập đọa sa khốn cùng

Nghìn năm nô lệ tan thương

Cũng vì lạc Cội mất Nguồn mà ra.

* * *



CHƯƠNG 2

PHẦN 4

THÀ MỘT SỰ ĐÚNG CÒN HƠN MỘT THÚNG SAI


Thà giữ lấy một điều đúng còn hơn ôm trọn một thúng sai. Như chúng ta đã biết, các học giả của các triều đại. Mỗi khi dựng dậy Hồn Thiêng dân tộc, phải dựa vào Văn Hóa Cội Nguồn. Nhưng Văn Hóa Cội Nguồn đã thất truyền từ lâu. Khi các học giả nhất là thời Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê. Nỗ lực ngày đêm không mệt mỏi. Tìm hiểu về Cội Nguồn Tiên Rồng cũng như về gia thế Hùng Vương liền gặp phải bao sự khó khăn. Nhưng không thể vì sự khó khăn ấy mà các học giả lại bỏ qua. Thu nhập chứng cứ, qua thờ cúng, truyện kể, thơ ca, hò vè. Tôm góp lượm lặt dù đúng hay sai cũng quí giá cả, đúc kết thành sử liệu.

Như: (Lĩnh Nam Chính Quái), (Việt Điện U Linh), (Việt Sử Lược), (Đại Việt Sử Toàn Thư) và còn nhiều bộ sách khác nữa, v.v... Sự thêm bớt qua các sử liệu, sự mâu thuẫn các câu truyện kể, sai lệch về thờ tự không chỗ nào giống chỗ nào.

Tuy sử liệu để lại nhiều như vậy, nhưng Văn Hóa Cội Nguồn vẫn không mấy sáng sủa, chỉ là con đom đóm không đủ sức soi đường mở lối cho con cháu đi theo. Tuy ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn có lúc chỉ là con Đom Đóm nhưng cũng khó khăn cho con Cháu gìn giữ tôn thờ, tuy chỉ còn một phần đúng. Còn hơn ôm trọn một khối sai. Tôn Thờ Văn Hóa Độc Hại ngoại xâm, làm ngu si mù quáng dẫn đến nô lệ.

Một khi nô lệ, thì dân ta mất hết những Quyền cơ bản mà Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho mỗi con người, cho mỗi dân tộc. Đó Quyền Độc Lập, Quyền Tự Do, Quyền mưu cầu hạnh phúc, Quyền sống, Quyền được sống. Nếu chúng ta khơi dậy và đòi lại những quyền cơ bản ấy, thì thế lực thống trị ngoại bang áp chế đàn áp ngay. Nhất là chúng ta khơi dậy Văn Hóa Cội Nguồn, thì thế lực ngoại xâm dập tắt tiêu diệt ngay. Vì họ sợ dân ta vốn mang hai chữ Đồng Bào, Đoàn Kết nổi dậy đánh đuổi chúng ra khỏi Non Sông Tổ Quốc. Các thế lực ngoại xâm rất sợ văn hóa Chủ Nghĩa Tiên Rồng. Vì Văn Hóa Cội Nguồn chính là Văn Hóa Đại Đồng, có sức mạnh dời non lấp biển. Một thứ Văn Hóa Linh Thiêng, có một không hai trong nhân loại con người.

Văn Hóa Cội Nguồn sống dậy. Mặt Trời Nhân Nghĩa Đạo Đức tỏa sáng, làm khiếp đảm tà ma ác Đạo của các thế lực ngoại xâm. Cơ may cho các thế lực ngoại xâm, vì Văn Hóa Cội Nguồn đã bị thất truyền nên chúng mới có cơ hội xâm lược nước ta. Chúng dựa vào yếu điểm mất gốc Văn Hóa Cội Nguồn, Nền Quốc Đạo Dân Tộc làm cái cớ để bài xích dập tắt Văn Hóa Cội Nguồn còn sót lại. Hầu mong cai trị ta vĩnh viễn.

Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng là một Chủ Nghĩa cao tột, không có một Chủ Nghĩa nào có thể vượt qua. Văn Hóa Tiên Rồng là Văn Hóa Linh Thiêng tối thượng. Một dân tộc đi đôi với truyền thống Linh Thiêng như thế, thử hỏi ngoại xâm không sợ truyền thống Tiên Rồng sao được. Nên ngoại xâm lúc nào cũng muốn tiêu diệt đi để dễ bề xâm lược. Chúng cố tìm sơ hở, sự thất truyền trong Văn Hóa Cội Nguồn của chúng ta để mà bài xích. Biến truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn chúng ta thành truyền thống, từ Văn Hóa Rồng thành văn hóa con giun để chúng xơi, chúng đạp dưới chân của chúng.

* * *

Hết phần 4 chương 2, mời xem tiếp phần 5 chương 2 Long Hoa Mật Tạng, bộ kinh tối cao, quốc bảo của toàn thế giới nói chung, dân tộc Việt Nam nói riêng. Chỉ cần đọc qua một lần không những tội ác vô lượng kiếp tiêu tan, mà còn thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, không gì là khó. Nếu biên chép in ấn truyền bá cho đời, thì không gì phước đức hơn. Ông Bà, Cha Mẹ siêu thăng về các cõi trời hưởng phước, con cái cháu đời đời vinh hiển, còn bản thân thì thường làm vua các cõi trời giáo hóa vô lượng vô biên thiên chúng. Uy danh khắp cùng vũ trụ.

* * *



CHƯƠNG 2

PHẦN 5

CÂY CÓ GỐC NỞ CÀNH XANH NGỌN
, NGƯỜI MẤT NGUỒN PHƯỚC CẠN ĐỨC KHÔ

Các thế lực ngoại xâm luôn luôn đánh phá, bài bác Văn Hóa Cội Nguồn của chúng ta. Làm cho dân tộc chúng ta mờ mịt yếu đi, tan rã đoàn kết. Đưa đất nước ta đến con đường nô lệ.

Vậy mà có người cũng nghe theo. Tệ hại hơn nữa, có người tự cho mình là trí thức. Nghe theo sự xuyên tạc của ngoại bang, ếm chặn sự phát triển Văn Hóa Cội Nguồn, truyền thống Linh Thiêng tốt đẹp của chúng ta. Lắm khi còn tỏ ra bất kính đối với các bậc Cha – Anh tiền sử đã có công vun đắp lên vẻ đẹp Non Sông Tổ Quốc, cũng như Văn Hóa Cội Nguồn còn sót lại. Để cho con cháu chúng ta vươn lên. Những kẻ ấy thật đáng phê bình nếu đúng luật thời những kẻ ấy nghiêm trị thích đáng.

Đã là dân tộc Rồng Tiên. Con dân Đại Việt, chúng ta phải tin tưởng những gì ông cha ta truyền lại. Dù cho đó có nhiều chỗ mâu thuẫn chưa giải thích được. Chúng ta cũng cần trân trọng gìn giữ. Chúng ta là con cháu Tiên Rồng, thì phải tận trung, chí hiếu, tôn thờ bảo vệ gìn giữ Cội Nguồn Văn Hóa Tiên Rồng.

Văn Hóa Cội Nguồn Quốc Đạo Tiên Rồng do Quốc Tổ Hùng Vương sáng lập và truyền lại cho chúng ta, sự ra đời của Nền Quốc Đạo làm chói lọi dân tộc Văn Lang. Có thể nói ở vào thời kỳ ấy, khắp cùng thế giới. Chưa có một Nền Quốc Đạo nào ra đời, ngay cả Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo, các Giáo Đạo khác nữa, v.v... Cũng chỉ là ở giai đoạn sau này hàng nghìn năm mà thôi.

Việc thất truyền của Nền Quốc Đạo là do truyền khẩu quá dài. Lại không có giấy bút để lưu chép, dẫn đến sai lệch về sau càng lớn. Những gì còn sót lại ở cuối thời Hùng Vương tức là Hùng Duệ Vương trước công nguyên. Kết thúc vào năm 258 chuyển sang giai đoạn ÂU LẠC, thì Văn Hóa Cội Nguồn Quốc Đạo Tiên Rồng còn sót lại cũng đi theo Vua Hùng sau cùng về Trời. Từ đây về sau Vua là trên hết, không còn Hiến Pháp, Luật Pháp trên hết nữa. Vua muốn làm gì thì làm, cá mè một lứa như các nước bạn mà thôi. Thôn tính lẫn nhau tranh giành quyền lực, được là Vua thua là giặc, giặc và Vua cũng cùng chung một loại (Vô Đạo) độc trị mà thôi, dân chúng lầm than khốn khổ. Nếu không bị ngoại xâm thống trị, thì cũng bị Chế Độ Độc Tôn, Độc Trị đè bẹp mà thôi, không bao giờ có tự do, công bằng xã hội.

Nếu nói toàn dân kháng chiến bảo vệ đất nước, bảo vệ Tổ Quốc. Đất nước là của chung, Tổ Quốc là của chung, thì phải sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, dựng nước giữ nước mà thôi. Không ai là tối cao, chỉ có Hiến Pháp, Luật Pháp là tối cao. Dân, Vua, Quan bình đẳng, có tội đều bị xử như nhau. (Tối cao của nước Văn Lang không phải là Vua Hùng mà chính là Hiến Pháp, Luật Pháp của Nền Quốc Đạo). Cái Đạo cao quí của Vua, Quan, Dân thờ.

Văn Hóa Cội Nguồn Hiến Pháp Quốc Đạo Văn Lang, ở đoạn kinh thờ phụng nói. Cha Trời, Địa Mẫu sinh ra Nhân Loại Bình Đẳng. Phật, Tiên, Thánh, Thần, Chúa, phàm nhân, Bình Đẳng, tất cả đều là anh em một nhà vũ trụ. Chỉ thờ Tổ Tiên Khai Hóa hiện thân là Trời (Cha Trời Mẹ Trời) sau đó là thờ Ông Bà, kế nữa là thờ Cha Mẹ, người sanh ra mình. Còn xã hội là thờ Hiến Pháp, Luật Pháp, Vua, Quan, Dân chúng bình đẳng. Nói tóm lại việc thất truyền Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo dân tộc là do truyền khẩu quá dài, lại không có giấy bút lưu chép, khi có giấy bút lưu chép, thì chỉ lưu chép Tinh Hoa còn sót đọng lại mà thôi.

Các học giả qua các Triều Đại. Lưu chép lịch sử Văn Hóa Cội Nguồn chỉ dựa trên sự thờ cúng, truyện kể, thơ ca, hò vè, các ngài nào hiểu, đó chỉ là cái vỏ của Văn Hóa Cội Nguồn mà thôi. Còn Tinh Hoa lớp ruột của Văn Hóa Cội Nguồn thì các ngài không tìm thấy được, vì các ngài là người phàm tục, không có Nhãn Huệ để thấy biết Quá Khứ, Hiện Tại vị lai. Chỉ có những bậc Đại Giác Ngộ dùng Huệ Nhãn, Pháp Nhãn thấy rõ quá khứ vị lai, tôm góp tinh hoa vũ trụ làm lợi ích cho toàn nhân loại con người.

Còn người thường tục, dù đó là Bác Học, Tiến Sĩ, nếu không tu luyện đến cảnh giới cao, làm chủ tâm mình, tánh mình an trụ vào Tạo Hóa, thì khó mà hiểu rõ Thật Tướng, Thật Tánh vũ trụ, khó mà thấu suốt Quá Khứ, Hiện Tại, Vị Lai.

* * *

Hết phần 5 chương 2, mời xem tiếp phần 1 chương 3 Long Hoa Mật Tạng. Bộ kinh vô cùng quý hiếm báu vật của trần gian nói chung, nói riêng dân tộc Việt Nam. Có duyên gặp được bộ kinh nầy thì coi như người đó đã tu luyện vô lượng ức kiếp. May mắn thay cho con cháu Việt Nam làm chủ báu vật kho tàng tri kiến vô giá nầy. Chỉ cần đọc tụng một câu cũng chuyển họa thành phúc, huống chi là truyền bá bộ kinh nầy cho nhân loại anh em thời làm vua các tầng trời là chuyện hiển nhiên không có chi là bàn cãi. Nơi nào có bộ kinh nầy, thì nơi đó có Cha Trời ngự trị, Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa gia hộ. Hồn thiên dân tộc che chở, khí thiêng sông núi phù trì, luôn được bình yên vạn sự.

Thấy Thiên Bút như thấy Trời Cha

Thành tâm cung kính

Nạn khỏi tai qua

Cầu chi đặng nấy, phước muôn vạn đời.

* * *
 


Top