Cho tới giờ rất nhiều người vẫn còn nhầm lẫn về bộ luật đầu tiên của nước ta là bộ luật "Quốc triều đình luật" hay còn gọi là luật Hồng Đức, ra đời dưới thời vua Lê Thánh Tông. Thật ra luật Hồng Đức chỉ là bộ luật được đánh giá là hoàn thiện nhất và đầy đủ nhất dưới thời lập pháp phong kiến chứ không phải là bộ luật đầu tiên của nước ta.Bộ luật Hồng Đức là bộ luật đầu tiên của VN
Vậy em nằm trong số kia rồiCho tới giờ rất nhiều người vẫn còn nhầm lẫn về bộ luật đầu tiên của nước ta là bộ luật "Quốc triều đình luật" hay còn gọi là luật Hồng Đức, ra đời dưới thời vua Lê Thánh Tông. Thật ra luật Hồng Đức chỉ là bộ luật được đánh giá là hoàn thiện nhất và đầy đủ nhất dưới thời lập pháp phong kiến chứ không phải là bộ luật đầu tiên của nước ta.
Bộ luật Hình Thư thời Lý - Bộ Luật thành văn đầu tiên của nước ta.
Năm 1042, Lý Thái Tông sai Trung thư sảnh - một cơ quan phụ trách việc " sửa định luật lệ, chia môn loại, biên ra điều khoản" làm bộ Hình thư. Đây là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta, được soạn thảo dựa trên luật tục, tập quán của các thời trước, mặt khác có sự tham khảo Đường luật (TQ). Gọi là Hình thư nhưng không chỉ quy định về hình sự mà còn bao trùm các lĩnh vực khác, do kỹ thuật lập pháp cổ các quan hệ xã hội được bảo vệ và gắn liền với quy phạm hình sự nên luật thời đó gọi là Hình pháp. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết đây là tập luật lệ có tính chất pháp điển, bao gồm 3 quyển. Tiếc rằng bộ Hình thư đến nay không còn, do bị quân Minh cướp mất trong khi xâm lược VN.
Bộ Hình thư ra đời thay thế cho các quy chế, luật lệ, chiếu chỉ trước đó. Nhu cầu và tác dụng của Hình thư được phản ánh trong nhận xét của nhà sử học Ngô Sĩ Liên như sau: “Trước kia, trong nước, việc kiện tụng phiền nhiễu, quan giữ việc hình câu nệ luật văn, cốt làm khắc nghiệt, thậm chí bị oan uổng. Vua lấy làm thương xót, sai sửa định luật lệnh, châm chướt cho, thích dụng với thời bấy giờ, chia ra môn loại, biên ra điều khoảng làm sách hình luật của mọi triều đại để cho người xem dễ biết. Sách làm xong, chiếu ban ra cho thi hành. Dân đều lấy làm tiện”.
Dù ban hành Hình thư, nhưng Lý Thái Tông chủ trương không nặng về hình phạt, coi trọng việc cảm hóa người dân. Với những tội nhẹ, Lý Thái Tông định ra quy chế cho được lấy tiền chuộc tội. Bởi vậy, xã hội ngày càng ít có loạn.
Lý Thái Tông cũng là vị vua rất biết khoan sức dân. Mỗi khi mất mùa, đói kém, hoặc giả đánh trận trở về, vua đều giảm thuế cho dân. Vì thế, nhân dân rất phấn khởi, hết lòng quy thuận.
Theo Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử thì Hình thư đời Lý Thái Tông gồm có ba quyển, bây giờ thất truyền. Tuy không được biết Hình thư thời Lý, nhưng qua những pháp lệnh được chép lại trong sử cũ, chúng ta cũng có thể thấy rõ tính chất của pháp luật thời Lý.
Với chủ trương pháp trị, Lý Thái Tông cho soạn Bộ “Hình thư”. Đây là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử lập pháp của Đại Việt. Tiếc rằng bộ luật này sau đó bị giặc phương Bắc cướp và tiêu hủy mất. Người đời sau vì thế mất đi một tư liệu quý.
Bộ Hình thư (Hình Luật) thời Trần
Nhằm củng cố chế độ nhà nước trung ương tập quyền, triều đại nhà Trần rất quan tâm tăng cường hoạt động pháp chế của mình.
Cũng như thời Lý, các văn bản pháp luật thời Trần đã bị thất lạc, chúng ta chỉ có thể tìm hiểu nền pháp luật đó thông qua bộ sử cũ. Nhà Trần đã xây dựng được 5 Bộ luật quan trọng, trong đó có Bộ “Hình thư”, còn gọi là “Hình luật thư” gồm 1 quyển do Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn biên soạn theo chỉ định của vua Trần Dụ Tông và ban hành năm Tân Tị (1341). Bốn Bộ luật kia gồm: “Quốc triều thường lễ” 10 quyển (1230); “Quốc triều thông chế” 20 quyển (1230); “Hoàng triều đại điển” 10 quyển (1341) và “Năm công văn cách thức” 1 quyển (1290).
Đánh giá chung và so sánh luật pháp hai thời Lý – Trần, sử gia lỗi lạc Phan Huy Chú trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí” có nhận xét: “Hình của nhà Lý lỗi ở khoan dung, hình của nhà Trần thì lỗi ở nghiêm khắc”."
Quốc triều hình Luật thời Lê Sơ.
Quốc triều hình luật hay còn gọi là luật Hồng Đức, đây được coi là Bộ luật hoàn thiện nhất, đầy đủ nhất trong lịch sử lập pháp nước ta thời phong kiến.
Đây là Bộ luật của Việt Nam ta thời phong kiến được trạng nguyên Vũ Kiệt (sinh năm 1453), quê ở xã Yên Việt, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc xưa, nay là thôn Cửu Yên, xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh đề xuất với vua Lê Thánh Tông về phép trị nước cũng sắc sảo không thua kém gì Vệ Ưởng.
Trong quá trình xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, nhà Lê đã lấy những quan đIểm của nho giáo làm hệ tư tưởng, chỉ đạo việc biên soạn, ban hành luật pháp, nhằm thể chế hoá một nhà nước phong kiến Đại Việt, với truyền thống nhân nghĩa, yêu nước, thương nòi, lấy dân làm gốc, quan tâm đến đời sống của muôn dân.
Đó là những yếu tố cơ bản chi phối việc soạn thảo văn bản luật pháp và biểu hiện ra rất đậm nét trong khắp các chương của bộ hình luật Lê triều, hay còn gọi là Luật Hồng Đức.
Bộ luật Hồng Đức được lưu lại đến ngày nay bao gồm 13 chương với 722 điều, nội dung cơ bản của bộ luật.Bộ luật Hồng Đức là Bộ luật có tính chất tổng hợp các chế định thuốc các ngành luật khác nhau như: hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, quân sự, quốc tế, tố tụng...
Trong đó các chế định luật hình sự, luận hôn nhân và gia đình giữ vị trí quan trọng nhất. tuy nhiên điều đó không có nghĩa là các nhà lập pháp thời Lê đã có sự sự phân biệt rạch ròi các ngành luật, mà thực ra mới chỉ cố gắng sắp xếp những điều luật điều chỉnh những quan hệ xã hội có tính chất gần giống nhau vào cùng một quyển.
Tất cả các quy phạm pháp luật trong Bộ luật đều được xây dựng dưới dạng những quy phạm pháp luật hình sự và đều áp dụng chế tài hình sự.
Cho tới nay, Bộ luật Hồng Đức vẫn được đánh giá là dấu mốc là thành tựu đỉnh cao của lập pháp phong kiến Việt Nam. Tuy vậy đây không phải là Bộ luật đầu tiên của nước ta. Bộ luật đầu tiên của nước là là bộ Hình thư, ra đời năm 1042 dưới thời vua Lý Thái Tông.
Có Nhà nước là có pháp luật.Từ lúc hết 1000 năm bắc thuộc thì cũng có luật rồi chỉ là chưa hoàn thiện thôi
Trong Hán ngữ cổ đại, “hình” (刑), “pháp” (法) và “luật” (律) đều có nghĩa là quy định hoặc điều lệ trừng phạt. Luật pháp của nhà Chu (1122 TCN-249 TCN) bao gồm “Lễ” và “Hình” hợp thành, trong đó “Lễ” là chính “Hình” là phụ, “Lễ không đến thứ dân, Hình không tới đại phu”; hình luật chuyên đàn áp bách tính thứ dân, chú trọng trấn áp tội gây loạn. Có thể thấy, đối tượng bảo vệ chính của hình luật là vương quyền. Vào thế kỷ thứ 10 TCN, vị vua thứ 5 của nhà Chu là Chu Mục Vương (1054 TCN – 949 TCN) đã ra lệnh cho đại thần Lữ Hầu (吕候) chế định bộ hình luật, là bộ luật dùng vào việc trừng phạt thường dân, được gọi là “Lữ hình” (吕刑). Trong “Pháp kinh” (法经) của Lý Khôi (李悝, 455 TCN – 395 TCN) thì nội dung cả sáu phần gồm Đạo, Tặc, Tù, Bổ, Tạp, Cụ (盗、贼、囚、捕、杂、具) đều là hình luật. Sau thời nhà Tần (221 TCN – 206 TCN), luật pháp của các triều đại khác nhau cũng đều dùng hình luật làm chính.Trước em nghiên cứu Hàn Phi Tử nhiều lắm, ông tổ của luật pháp bên Trung.
Em cũng đọc về Thương Ưởng nhiều , nhưng Hàn Phi Tử với pháp trị quá xuất sắc khiến người đời nhớ nhiều về ông ấy hơn.Trong Hán ngữ cổ đại, “hình” (刑), “pháp” (法) và “luật” (律) đều có nghĩa là quy định hoặc điều lệ trừng phạt. Luật pháp của nhà Chu (1122 TCN-249 TCN) bao gồm “Lễ” và “Hình” hợp thành, trong đó “Lễ” là chính “Hình” là phụ, “Lễ không đến thứ dân, Hình không tới đại phu”; hình luật chuyên đàn áp bách tính thứ dân, chú trọng trấn áp tội gây loạn. Có thể thấy, đối tượng bảo vệ chính của hình luật là vương quyền. Vào thế kỷ thứ 10 TCN, vị vua thứ 5 của nhà Chu là Chu Mục Vương (1054 TCN – 949 TCN) đã ra lệnh cho đại thần Lữ Hầu (吕候) chế định bộ hình luật, là bộ luật dùng vào việc trừng phạt thường dân, được gọi là “Lữ hình” (吕刑). Trong “Pháp kinh” (法经) của Lý Khôi (李悝, 455 TCN – 395 TCN) thì nội dung cả sáu phần gồm Đạo, Tặc, Tù, Bổ, Tạp, Cụ (盗、贼、囚、捕、杂、具) đều là hình luật. Sau thời nhà Tần (221 TCN – 206 TCN), luật pháp của các triều đại khác nhau cũng đều dùng hình luật làm chính.
Khi có Nhà nước là có pháp luật, Hàn Phi Tử không phải là ông tổ của luật pháp bên Trung vì ông sinh ra vào cuối thời Chiến Quốc. Tư tưởng pháp trị hay còn gọi là pháp gia thì ông tổ của nó là Thương Ưởng - người thực hiện biến pháp giúp nước Tần hùng mạnh làm cơ sở gồm thu lục quốc.
Lấy quan điểm lịch sử xã hội làm tiền đề cho lý luận pháp trị của mình, Thương Ưởng chia lịch sử ra làm tam thế: thượng thế, trung thế và hạ thế. Trong chương Khai tắc, ông viết: "Trời đất bày ra mà dân sinh". Trong lúc ấy dân chỉ biết mẹ mà không biết cha, thân người thân mà yêu riêng. Thân người thân thì biệt, yêu riêng thì hiểm (không biết đến ai). Dân đông mà chuộng biết và hiểm thời dân loạn. Chuộng thắng tất tranh, lấy sức đánh nhau tất kiện, kiện mà không được phân xử đúng đắn thì không vừa ý. Cho nên người hiền đặt ra vô tư, mà dân vui điều nhân, trong lúc ấy, bỏ người thân mà chọn người hiền. Phàm người nhân lấy yếu làm chuộng, người hiền lấy hơn nhau làm đạo. Dân đông mà không có cấm chế, lấy hơn nhau làm đạo, lâu ngày tắc loạn. Cho nên thánh nhân thừa thế đặt ra phận đất đai, của cải, trai gái. Định phận mà không cấm chế không được, cho nên đặt ra lệnh cấm. Lệnh cấm ban ra mà không có người coi giữ không được, vì thế đặt ra chức quan. Đặt chức quan mà không thống nhất không được, cho nên phải lập ra vua. Vua đã lập thì chuộng hiền bị bỏ mà quý người sáng lập. Như vậy là thượng thế thân người thân mà yêu riêng; trung thế chuộng người yếu mà thích điều nhân; hạ thế thì thích người sang mà tôn quân. Khi đạo trong dân tệ thì phải thay đổi, cũng như việc đời biến đổi thì đạo phải khác vậy. Đây chính là tiền đề lý luận cho "biến pháp của Pháp gia".
Hàn Phi Tử là người hoàn thiện nó chứ không phải là ông tổ của pháp luật Trung Hoa.Em cũng đọc về Thương Ưởng nhiều , nhưng Hàn Phi Tử với pháp trị quá xuất sắc khiến người đời nhớ nhiều về ông ấy hơn.
Ý em là ông ấy hoàn thiện giỏi quá, khiến người ta chỉ nhớ tới 3 ông tổ, Lão Tử, Khổng Tử Và Hàn Phi Tử.Hàn Phi Tử là người hoàn thiện nó chứ không phải là ông tổ của pháp luật Trung Hoa.
Tư tưởng pháp trị là sự kế thừa có chọn lọc nhiều tư tưởng triết học trước đó và đương thời, đặc biệt là tư tưởng "tôn quân", "chính danh" của Khổng Tử; "thượng đồng", "công lợi" của Mặc gia và quan niệm về "đạo", "đức", "đạo vô vi" của Đạo gia; "tính ác" của Tuân Tử, v.v.. Khi giới thiệu về Hàn Phi, nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã viết: "Kết quả ông là con người duy nhất của Trung Quốc thực hiện được một sự tổng hợp của ba học thuyết Nho, Lão, Pháp, ở đó Nho là tài liệu xây dựng, Pháp là cái bản thiết kế, nhưng Lão mới là kỹ thuật thi công của cái ngôi nhà độc đáo"(**). Như vậy, tiền đề hình thành tư tưởng pháp trị của Pháp gia gồm:
- Về triết học, đó là học thuyết về "đạo" và "lý".
- Về thực tiễn xã hội, đó là quan điểm về lịch sử tiến hoá.
- Về đạo đức luân lý, đó là học thuyết "tính ác" của Tuân Tử.
Tư tưởng về "đạo" và "lý" của Pháp gia được kế thừa từ tư tưởng duy vật về thế giới của Lão Tử - giải thích sự hình thành, phát triển của vạn vật theo "đạo" và "lý" của chúng. Hàn Phi nói: "Đạo là cái khởi đầu của muôn vật, là tiêu chuẩn phân biệt điều phải trái", nắm được đạo là "biết được nguồn gốc của muôn vật", "biết then chốt của việc đúng sai" và do vậy, nhà vua chỉ cần nắm được "đạo" là có thể ngồi yên, vô vi mà vẫn cai trị được quần thần, trị được nước. "Đạo là cái làm cho muôn vật thành ra như nó tồn tại hiện nay, là chỗ dựa của muôn lý", "là cái lý của vạn vật" (Hàn Phi Tử, quyển VI, VII thiên Dụ Lão và Giải Lão). Đạo đó không bị hình thức hạn chế, mềm yếu theo thời, cùng tương ứng với lý; muôn vật được nó mà sống, mà bại, mà thành và do vậy, phải biết dùng đạo cho đúng. Với Lão Tử, cái đạo vượt lên trên cái vạn vật thiên - địa: "Có vật thành tựu sinh ra trước trời đất, yên lặng mênh mông, độc lập hay không thay đổi, có thể lấy làm mẹ sinh ra thế gian. Ta không biết tên nó tạm đặt là Đạo" (Đạo đức kinh, chương 25).
Tiếc là Lý Tư đố kỵ, ganh ghét sợ Hàn Phi Tử dành mất ghế của mình nên buông lời dèm pha khiến Hàn Phi phải ôm hận mà chết trong ngục.Ý em là ông ấy hoàn thiện giỏi quá, khiến người ta chỉ nhớ tới 3 ông tổ, Lão Tử, Khổng Tử Và Hàn Phi Tử.
Bên trung sử họ giữ được nhiều nên đọc đúng là không thể coi thường người xưa được, tuy không có công nghệ cao, hoặc được đi nhiều nơi trên thế giới, nhưng tầm suy nghĩ hay mưu mô thì quá đáng nể.Tiếc là Lý Tư đố kỵ, ganh ghét sợ Hàn Phi Tử dành mất ghế của mình nên buông lời dèm pha khiến Hàn Phi phải ôm hận mà chết trong ngục.
Bác này kiến thức kinh quá. Bội phục, bội phục.Tiếc là Lý Tư đố kỵ, ganh ghét sợ Hàn Phi Tử dành mất ghế của mình nên buông lời dèm pha khiến Hàn Phi phải ôm hận mà chết trong ngục.
Bác ấy dân luật mà bác.Bác này kiến thức kinh quá. Bội phục, bội phục.
Bác xem bộ Chiến Quốc Tung Hoành - Thế Cục Quỷ Cốc Tử bên box Đọc Truyện sẽ thấy mưu mô còn hơn Tam Quốc.Bên trung sử họ giữ được nhiều nên đọc đúng là không thể coi thường người xưa được, tuy không có công nghệ cao, hoặc được đi nhiều nơi trên thế giới, nhưng tầm suy nghĩ hay mưu mô thì quá đáng nể.
Chiến quốc hay kể cả truyện lẫn phim, Nhưng Tam Quốc thì nổi hơn vì quy tụ lắm nhân tài quá, át hết danh tiếng của Chiến Quốc.Bác xem bộ Chiến Quốc Tung Hoành - Thế Cục Quỷ Cốc Tử bên box Đọc Truyện sẽ thấy mưu mô còn hơn Tam Quốc.
Bác vào đọc thì sẽ thấy nhân tài cũng không kém đâu. Cuốn này mưu mô kinh khủng luôn, được nhận xét là hay hơn Tám Quốc, em đọc 8 tập rồi và em đồng ý với nhận định trên.Chiến quốc hay kể cả truyện lẫn phim, Nhưng Tam Quốc thì nổi hơn vì quy tụ lắm nhân tài quá, át hết danh tiếng của Chiến Quốc.
Đã đọc bộ này. Cảm ơn bác nhiều vì nhờ có bộ ebook của bác mà em tiết kiệm được 900kBác vào đọc thì sẽ thấy nhân tài cũng không kém đâu. Cuốn này mưu mô kinh khủng luôn, được nhận xét là hay hơn Tám Quốc, em đọc 8 tập rồi và em đồng ý với nhận định trên.
We use cookies and similar technologies for the following purposes:
Do you accept cookies and these technologies?
We use cookies and similar technologies for the following purposes:
Do you accept cookies and these technologies?