Thiền sư Thích Nhất Hạnh từ trần
Thiền sư Thất Nhất Hạnh đã từ trần tại Chùa Từ Hiếu, tại Huế. Ông là một người được nhiều người biết đến, trong nước cũng như hải ngoại. Ông sống lưu vong tại hải ngoại 4 thập niên tại Pháp. Ông về Việt Nam năm 2018. Trong thời gian ông sống lưu vong ông đã viết khoảng 100 cuốn sách.
Ông sinh năm 1926 và trở thành một vị sư năm 16 tuổi. Năm 1960 ông qua Mỹ dạy học tại 2 trường đại học nổi tiếng thế giới Princeton University và Columbia University. Trong thời chiến Việt-Mỹ, ông ủng hộ phong trào phản chiến, kêu gọi ngừng chiến Mỹ Việt và bị cấm trở lại Việt Nam năm 1966. Trong thời gian ông ở Mỹ, ông có dịp tiếp xúc với vị lãnh đạo phong trào giải phóng kỳ thị dân da đen nổi tiếng tại Mỹ: Martin Luther King. Martin Luther King đã đề cử ông tranh giải Nobel Hòa Bình
Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Năm 1967 thiền sư (phải) được Marin Luther King (trái) đề cử tranh giải Nobel Hòa Bình
Một tác phẩm nổi tiếng của thiền sư là cuốn "Bông Hồng Cài Áo" viết về mẹ nhân mùa Vu Lan
Bài "Bông Hồng Cài Áo" của thiền sư Thất Nhất Hạnh.
Để dâng mẹ,
và để làm quà Vu Lan cho những người nào có diễm phúc còn mẹ
Medford, tháng tám 1962.
Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà
tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon
lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn
thiếu tình thương thì cũng không lớn lên được. Cằn cỗi, héo mòn.
Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký: tại nạn lớn nhất đã xẩy ra cho
tôi rồi! Lớn đến cách mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng
cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi. Những bài
hát, những bài thơ ca tụng tình mẹ, bài nào cũng dễ hát, cũng hay.
Người viết, dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người
hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngày từ thu chưa có ý niệm, ai cũng
cảm động khi nghe nói đến tình mẹ, đâu cũng có, thời nào cũng có.
Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản
dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài ấy thì sợ sệt, lo âu... sợ
sệt lo âu cho một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chắc chắn phải đến:
Năm xưa tôi còn nhỏ
mẹ tôi đã qua đời!
lần đầu tiên tôi hiểu
thân phận trẻ mồ côi.
Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
để dòng nước mắt chảy
là bớt khổ đi rồi...
Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
mất cả một bầu trời.
Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó,
sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi.
Người nhà quê Việt Nam không ưa nói cách cao kỳ. Nói rằng bà mẹ
già là một kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao
kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt
dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ một cách giản dị vừa
đúng mức:
Mẹ già như chuối Ba Hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
Ngon biết bao nhiêu! Những lúc miệng vừa nhạt sau một cơn sốt,
những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị
của ta. Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lại ngực cho ta, đặt bàn tay
trên trán nóng ta và than thở : "Khổ chưa, con tôi", ta mới thấy cảm
thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm
như chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy, không bao giờ
cùng tận. Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong
nguồn chảy ra. Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là
gốc của mọi tình cảm thương yêu. Mẹ là giáo sư dạy về thương yêu,
một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời. Không
có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêu. Nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào
là tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi.
Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý niệm thương
yêu của tôn giáo vốn cũng dạy về tình thương. Đạo Phật có đức Quán
Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ. Em bé vừa mở miệng khóc thì
mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra như một thiên thần dịu hiền, làm
tiêu tan khổ đau lo âu. Đạo Chúa có đức Mẹ, Thánh nữ đồng trinh
Maria. Trong tín ngưỡng bình dân Việt có Thánh Mẫu Liễu Hạnh,
cũng dưới hình thức mẹ. Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ mẹ, ta đã
thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi. Mà từ yêu thương đi tới tín
ngưỡng và hành động thì không xa, chỉ mấy bước.
Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ
(Mother's Day) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục
ấy. Có một ngày tôi đi với thầy Thiên Ân, tới nhà sách khu Ginza,
Đông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy
Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy
trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo
tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên,
nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi
vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ,
theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa
màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất
mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. Tôi nhìn lại bông hoa
trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một
đứa trẻ vô phúc, khốn nạn nào; chúng tôi không có được cài trên áo
một bông hoa màu hồng. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng
nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một
mai người khuất núi, có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy
cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước, áp dụng
trong ngày báo hiếu Vu Lan.
Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không
biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món quà lớn nhất mà
cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến
khi mẹ chết rồi , mới nói: "Trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi
năm trời mà chưa có lúc nào 'nhìn kỹ' được mặt mẹ". Lúc nào cũng chỉ
nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi
mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao
nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya, dậy
sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá
may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời, lên xuống ra
vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì
giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất, mình có cảm nghĩ: thật như là mình
chưa bao giờ thật có ý thức rằng mình có mẹ.
Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào
phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi
xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em
sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ, và để biết rằng mẹ đang
sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm
mẹ chú ý. Em hỏi: "Mẹ ơi, mẹ có biết không?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên,
và sẽ hỏi em, vừa cười vừa hỏi: "Biết gì?" Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn
giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ hỏi tiếp: "Mẹ có biết là con
thương mẹ không?" Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người
lớn ba bốn mươi tuổi, cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là
con của mẹ. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất,
em sẽ không hối hận, đau lòng.
Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mục Liên và về sự
hiếu để. Công cha, nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho
mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương tăng chú nguyện cho mẹ được
tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ
đi. Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương,
hiếu chỉ là giả tạo, khó khăn, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình
thương là có đủ hết rồi. Cần chi nói đến bổn phận. Thương mẹ, như
vậy là đủ. Mà thương mẹ không phải là một bổn phận. Thương mẹ là
một cái gì rất tự nhiên. Như khát nước thì uống. Con thì phải có mẹ,
phải thương mẹ. Chữ phải đây không phải là luân lý, là bổn phận.
Phải đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng
như khát thì đương nhiên đi tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con
thương mẹ. Con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ không cần con, con
không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ, là con. Đó là lạm dụng danh
từ mẹ con. Ngày xưa, thầy giáo hỏi rằng: "con mà thương mẹ thì phải
làm thế nào?". Tôi trả lời: "Vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng
lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi". Bây giờ thì tôi biết
rằng: "con thương mẹ thì không phải "làm thế nào" gì hết. Cứ thương
mẹ, thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi làm thế nào nữa!
Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ
rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm.
Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ. Mẹ như suối ngọt, như đường
mía lau, như xôi nếp mật. Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh.
Chị không hưởng thụ thì thiệt cho chị. Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị
đừng có than thở rằng: "Đời ta không còn gì cả". Một món quà như
mẹ mà còn không vừa ý thì hoạ chăng có làm Ngọc Hoàng Thượng
Đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc
Hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc Hoàng là đấng tự sinh,
không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.
Tôi kể chuyện này, anh đừng nói tôi khờ dại. Đáng lẽ chị tôi không
nên đi lấy chồng, và tôi, tôi không nên đi tu mới phải. Chúng tôi bỏ
mẹ mà đi, người thì theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai
thương yêu; người thì đi theo lý tưởng đạo đức mình say mê và tôn
thờ. Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ tôi lo lắng lăng xăng, không tỏ vẻ
buồn bã chi. Nhưng đến khi chúng tôi ăn cơm trong phòng, ăn qua
loa để đợi giờ rước dâu, thì mẹ tôi không nuốt được miếng nào. Mẹ
nói: "Mười tám năm trời nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa
cuối cùng rồi thì nó sẽ đi ăn một nhà khác". Chị tôi gục đầu xuống
mâm cơm, khóc. Chị nói: "Thôi con không lấy chồng nữa". Nhưng rốt
cuộc thì chị cũng đi lấy chồng. Còn tôi thì bỏ mẹ mà đi tu. Các ái từ sở
thân, là lời khen ngợi người có chí xuất gia. Tôi không tự hào chi về
lời khen đó cả. Tôi thương mẹ, nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa
mẹ. Thiệt thòi cho tôi, có thế thôi. Ở trên đời, có nhiều khi ta phải
chọn lựa. Mà không có sự chọn lựa nào là không khổ đau. Anh không
thể bắt cá hai tay. Chỉ khổ là vì muốn làm người nên anh phải khổ
đau. Tôi không hối hận vì bỏ mẹ đi tu, nhưng tôi tiếc và thương cho
tôi vô phúc thiệt thòi, nên không được hương thụ tất cả kho tàng quí
báu đó. Mỗi buổi chiều lạy Phật, tôi cầu nguyện cho mẹ. Nhưng tôi
không được ăn chuối ba hương, xôi nếp mật và đường mía lau.
Anh cũng đừng tưởng tôi khuyên anh: không nên đuổi theo sự
nghiệp mà chỉ nên ở nhà với mẹ. Tôi đã nói là tôi không khuyên răn ai
hết, tôi không giảng luân lý đạo đức rồi mà. Tôi chỉ nhắc anh: mẹ là
chuối, là xôi, là đường, là mật, là ngọt ngào, là tình thương. Để anh
đừng quên. Để chị đừng quên. Để em đừng quên. Quên là một lỗi lớn:
Cũng phải là lỗi nữa, mà là một sự thiệt thòi. Mà tôi không muốn anh
chị thiệt thòi, vô tình mà bị thiệt thòi, khờ dại mà bị thiệt thòi. Tôi xin
cài vào túi áo một bông hoa hồng: để anh sung sướng , thế thôi.
Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên anh như thế này. Chiều nay, khi đi
học về, hoặc đi làm về, anh hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật
trầm lặng và thật bền. Anh sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng
kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để
trông thấy mẹ, và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh.
Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Anh hỏi: "Mẹ ơi,
mẹ có biết không?" Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên, và sẽ nhìn anh, vừa cười
vừa hỏi: "Biết gì?". Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng
và bền, anh sẽ hỏi tiếp: "Mẹ có biết là con thương mẹ không?" Câu hỏi
sẽ không cần được trả lời. Cho dù anh lớn ba bốn mươi tuổi, chị lớn
ba bốn mươi tuổi thì cũng hỏi câu ấy. Bởi vì anh, bởi vì chị, bởi vì em
đều là con của mẹ. Mẹ và anh sẽ sung sướng, sẽ được sống trong ý
thức tình thương bất diệt . Và ngày mai, mẹ mất, anh sẽ không hối
hận, đau lòng, tiếc rằng anh không có mẹ.
Đó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy
ca, chị hãy ca, em hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên
lãng. Đóa hoa màu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung
sướng đi!