Những thăng trầm trong lịch sử phát triển của hệ điều hành di động

VNZ-NEWS
Vn-Z.vn Ngày 02 tháng 07 năm 2023, Mobile operating system (hệ điều hành di động) là thuật ngữ chỉ hệ điều hành được sử dụng trên các thiết bị di động như điện thoại, máy tính bảng và các thiết bị thông minh khác.

Trong thời đại của Internet di động phát triển mạnh mẽ, chúng ta đã sử dụng hệ điều hành di động nhiều hơn so với các hệ điều hành máy tính để bàn như Windows, Mac..v.v.v.

Vậy bạn có thực sự hiểu rõ về các hệ điều hành di động này không? Trong nửa thế kỷ phát triển điện thoại di động, đã có những hệ điều hành di động cổ điển nào xuất hiện? Và những hệ điều hành nào đã bị lạc hậu và bị quên lãng bởi thời gian?

Trong bài viết này, chúng ta sẽ khám phá những câu chuyện thú vị và Những thăng trầm trong lịch sử phát triển của hệ điều hành di động.

Giai đoạn từ 1973-2000: Sự xuất hiện của các hệ điều hành di động

năm 1973,Motorola DynaTAC được phát minh, kỹ sư của Motorola là Martin Cooper đã phát minh ra chiếc điện thoại di động đầu tiên trên thế giới, mở đầu cho thời đại liên lạc di động của con người. Đây là chiếc điện thoại di động đầu tiên có thể mang theo được theo đúng nghĩa . Tuy nhiên, vào thời điểm đó, điện thoại chỉ có thể được sử dụng để gọi điện và hầu hết các điện thoại di động chỉ có thể sử dụng trong một khu vực hạn chế. Vì vậy, nhu cầu cho hệ điều hành di động không cao.

martin-cooper-motorola-dynatac-mobile-phone-inventor-1674790042167788272522.jpg

Thiết bị di động vào thời điểm đó có thiết kế cồng kềnh, tính năng đơn giản. Không chỉ không thể lướt web, thậm chí không thể gửi tin nhắn văn bản, chỉ có thể dùng để gọi điện thoại.
Loại điện thoại di động đơn giản này không có hệ điều hành riêng. Nó chỉ có một số chương trình được thiết kế sẵn để thực hiện các hoạt động đơn giản.
Đến giữa và cuối thập niên 80, với sự trưởng thành liên tục của công nghệ phần cứng và phần mềm, điện thoại di động trở nên nhẹ hơn, nhỏ hơn và dễ sử dụng hơn.

nokia1011.jpg

Nokia 1011
Năm 1983, Apple đã giới thiệu cho công chúng một hệ điều hành mang tên Lisa. Tuy nhiên, Lisa không phải là một hệ điều hành di động đầy đủ, vì nó chỉ được cài đặt trên máy tính để bàn của Apple.

Trong những năm tiếp theo, các công ty điện tử khác nhau trên toàn cầu đã tiếp tục nghiên cứu và phát triển các loại hệ điều hành di động khác nhau. Vào những năm 1990, các hãng điện thoại như Nokia, Motorola và Ericsson đã bắt đầu phát triển các hệ điều hành di động cho các điện thoại di động của họ. Tuy nhiên, những hệ điều hành này vẫn còn rất giới hạn và chức năng của chúng cũng không được đa dạng như các hệ điều hành di động hiện nay.

Sự xuất hiện và phổ biến của máy tính cá nhân (PC), cùng với sự trỗi dậy của công nghệ mạng, đã thúc đẩy làn sóng hóa thông tin trong xã hội. Ngày càng có nhiều người tiếp cận với công nghệ thông tin (IT) và cạnh tranh để mua các sản phẩm điện tử số liên quan.
Lúc đó, các nhà sản xuất công nghệ đã nhận ra sự cần thiết của việc di chuyển làm việc đối với nhân viên văn phòng. Nếu có thể tạo ra một "máy tính bỏ túi" (Handheld PC) nhỏ gọn để thực hiện "làm việc di động", thì chắc chắn sẽ có một thị trường lớn.

Năm 1984, công ty Psion của Anh đã phát hành sản phẩm máy tính cá nhân cỡ nhỏ của riêng họ - Psion Organizer. Hai năm sau đó, vào năm 1986, họ đã phát hành phiên bản tiên tiến hơn là Organizer II.


Organizer-II.webp

Organizer II, với một thanh trượt trông giống như một máy tính. Nó có máy tính, lịch, đồng hồ báo thức và các chức năng cơ sở dữ liệu đơn giản.

Organizer / Organizer II được coi là máy tính bỏ túi có tính ứng dụng cao nhất đầu tiên trên thế giới. Loại máy tính này cũng được gọi là PDA (Personal Digital Assistant, trợ lý số cá nhân).

Vào tháng 5 năm 1992, Apple đã phát hành sản phẩm PDA của riêng họ và đặt tên là Newton MessagePad.

Newton-MessagePad..webp

Newton MessagePad trang bị bút stylus để viết ghi chú, lưu danh bạ và quản lý lịch

Vào thời điểm đó, PDA và điện thoại di động là hai sản phẩm khác nhau. PDA có tính năng phức tạp hơn, trong khi điện thoại di động có khả năng liên lạc.

Để cho phép PDA hỗ trợ nhiều tính năng hơn, các nhà sản xuất đã bắt đầu tùy chỉnh và phát triển các hệ điều hành PDA riêng. Loại hệ điều hành này có thể được coi là phiên bản đầu tiên của hệ điều hành thiết bị di động.

Palm OS


Năm 1993, một công ty thiết bị số có tên Palm đã được thành lập chính thức tại Mỹ, tập trung vào nghiên cứu và sản xuất PDA. Tuy nhiên, do thiếu vốn, khởi đầu của họ không thuận lợi.

Vào tháng 9 năm 1995, công ty U.S. Robotics đã nhận thấy tiềm năng của Palm và đầu tư để mua lại công ty này. Không lâu sau đó, vào tháng 4 năm 1996, chiếc máy tính bỏ túi Palm Pilot đầu tiên ra đời, được gọi là Pilot 1000.

poilot-PamoS.webp

Pilot 1000

Pilot 1000 có dung lượng bộ nhớ trong 256K, màn hình hiển thị đơn sắc 160 × 160 pixel, hỗ trợ nhiều tính năng như sổ địa chỉ, lịch, ghi chú, danh sách công việc, v.v.
Nó sử dụng hệ điều hành Palm OS 1.0 do chính Palm phát triển.

Vào cuối năm 1997, Palm OS 2.0 ra đời với tính năng thêm vào là email và phần mềm quản lý tài chính.

Sau đó, Palm đã cấp phép Palm OS cho các công ty khác như IBM, Handspring, Sony, v.v. Những công ty này đã sản xuất ra một số sản phẩm dựa trên Palm OS, làm tăng tỷ lệ phổ biến và tầm ảnh hưởng của Palm OS. Việc mua và sử dụng sản phẩm Palm trở thành một trào lưu trong giới doanh nhân vào thời điểm đó.

BlackBerry OS


Cùng thời điểm đó ngoài Palm, còn có một công ty khác cũng đã phát triển sản phẩm PDA của riêng họ. Đó là công ty RIM (Research In Motion) có trụ sở tại Canada.

RIM-company.webp


Thương hiệu mà RIM sở hữu, mà mọi người có thể quen thuộc hơn, chính là BlackBerry.

RIM được thành lập từ rất sớm. Vào tháng 3 năm 1984, công ty này được thành lập chính thức. Các hoạt động kinh doanh ban đầu của RIM bao gồm phát triển các hệ thống hiển thị truyền hình không dây và các sản phẩm đọc mã vạch, nhưng không thành công lắm.

Năm 1994, RIM mới bắt đầu nghiên cứu thiết bị không dây. Năm 1995, họ ra mắt Pager900 - một thiết bị gọi điện và nhận email không dây, đã được đón nhận tích cực trên thị trường.

Pager900.webp

Pager900

Năm 1998, RIM sản xuất ra PDA có bàn phím máy tính. Năm 1999, họ ra mắt chiếc điện thoại di động BlackBerry đầu tiên có khả năng gọi điện thoại - RIM 6230.


RIM-6230.webp

RIM 6230
Để quảng bá sản phẩm của mình tốt hơn, RIM phát triển hệ điều hành độc quyền của mình - BlackBerry OS.

Hệ điều hành này hỗ trợ một loạt các tính năng như danh bạ điện thoại, lịch, email, điện thoại di động, tin nhắn văn bản, fax trên Internet, duyệt web, v.v. và đã được yêu thích rộng rãi.

Nếu Palm OS và BlackBerry OS là những hệ điều hành không quá quen thuộc với mọi người, thì hai hệ điều hành tiếp theo mà tôi sẽ giới thiệu, chắc chắn sẽ được mọi người biết đến.

Symbian

Hệ điều hành tiếp theo là Symbian.

Nokia và Symbian đã làm chủ thị trường điện thoại di động vào đầu thế kỷ này, chúng đại diện cho một kỷ nguyên và là ký ức khó quên của nhiều người dùng điện thoại di động, bao gồm tôi.

Thực tế, Symbian không được phát triển đặc biệt cho điện thoại Nokia khi ra đời.

Symbian ban đầu là hệ điều hành EPOC của công ty Psion (đã được đề cập trước đó) được phát hành vào năm 1989.

Từ "epoch", EPOC có nghĩa là "sự bắt đầu của một kỷ nguyên". Có những phương tiện truyền thông cho rằng EPOC là viết tắt của "Electronic Piece of Cheese", có nghĩa là "sử dụng sản phẩm điện tử giống như ăn pho mát - đơn giản".

Năm 1989, Psion ra mắt các máy tính xách tay đầu tiên được trang bị hệ điều hành EPOC: MC200 và MC400.

Năm 1994, Psion bắt đầu phát triển hệ thống EPOC32 32 bit (dành cho nền tảng ARM, được phát triển bằng C ++, hệ thống 16 bit trước đây dành cho nền tảng Intel 80186).

Năm 1998, EPOC32 được phát triển thành công và trong tháng 6 năm đó, Psion Software, Nokia, Ericsson và Motorola đã thành lập Symbian Ltd.

Đồng thời, EPOC / EPOC32 đã chính thức đổi tên thành Symbian OS.


Symbian-OS.webp


Đó là nguồn gốc của Symbian.

Năm 1999, các thiết bị như Revo, netBook, Series 5mx, Series7 đều sử dụng hệ thống Symbian Release 5. Điện thoại của Ericsson và Nokia cũng bắt đầu sử dụng Symbian.
Symbian OS là hệ điều hành di động phổ biến nhất vào đầu thế kỷ 21. Symbian OS được thiết kế để chạy trên nhiều thiết bị di động khác nhau, bao gồm điện thoại di động, máy tính bảng, PDA và các thiết bị di động khác. Nó hỗ trợ nhiều tính năng như điện thoại, tin nhắn văn bản, email, duyệt web, trò chơi, âm nhạc, video và nhiều tính năng khác.

Symbian OS đã được phát triển trên nền tảng C++ và hỗ trợ nhiều nền tảng phần cứng khác nhau, bao gồm ARM, x86 và MIPS. Nó cũng được thiết kế để tương thích với nhiều loại màn hình khác nhau và hỗ trợ nhiều ngôn ngữ khác nhau.

Tuy nhiên, với sự ra đời của các hệ điều hành di động mới hơn như iOS và Android, Symbian OS đã mất dần thị phần và cuối cùng đã ngừng được phát triển vào năm 2010.

Windows CE


Windows CE là hệ điều hành di động được Microsoft phát triển.


Với vị thế là nhà lãnh đạo trong hệ thống điều hành máy tính để bàn, Microsoft đã tỏ ra rất quan tâm đến sự bùng nổ của các thiết bị di động và ngay lập tức khởi động kế hoạch phát triển hệ điều hành di động riêng.
Năm 1996, Microsoft chính thức ra mắt Windows CE 1.0.

Windows-CE.webp


Windows CE có thể được xem như là một phiên bản đơn giản hóa và đơn sắc của Windows 95, và tên đầy đủ của nó là Windows Embedded Compact (hệ thống cửa sổ dành cho các thiết bị nhúng nhỏ gọn).
Việc viết tắt CE không được Microsoft giải thích chính thức, nhưng có thể là Compact Edition, Customer Embedded hoặc Consumer Electronics.
Năm 1997, Microsoft ra mắt Windows CE 2.0. Mặc dù CE 2.0 vẫn dựa trên Windows 95, nhưng nó đã được cải tiến đáng kể về hiệu suất và nhận được sự ủng hộ của nhiều người dùng.

Giai đoạn 2000-2007


Thế kỷ 21 , di động và internet tiếp tục phổ biến rộng rãi, điện thoại di động trở thành một nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống của mọi người. Sự phát triển nhanh chóng của điện thoại di động đã dẫn đến sự thay đổi đáng kể trong thị trường hệ điều hành di động.

Palm OS là một hệ điều hành phát triển dựa trên PDA. Trong thời kỳ thịnh vượng của PDA vào thập niên 2000, Palm OS đã chiếm 90% thị phần PDA.

Sau khi được chuyển sang điện thoại di động, Palm OS cũng đã đạt được một số thành công. Lúc đó, các nhà sản xuất như Sony, Qualcomm và Handspring (sau này được mua lại bởi Palm) đều là người dùng của Palm OS.

Năm 2002, Palm OS 5 chính thức được phát hành, bắt đầu hỗ trợ bộ xử lý ARM.

Palm-o5.webp


Sau đó, với sự mạnh mẽ ngày càng tăng của điện thoại di động, PDA đã dần trở nên lỗi thời và Palm OS đã bắt đầu đi xuống.

Hãy nhìn vào BlackBerry OS.

Tháng 3 năm 2002, RIM chính thức ra mắt BlackBerry 5810. Đây là thiết bị di động đầu tiên của RIM hỗ trợ GSM và GPRS. Nó cũng đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ hoàng kim của BlackBerry.

BlackBerry-5810.webp

BlackBerry 5810
BlackBerry 5810 là một chiếc điện thoại di động độc đáo, mà để thực hiện cuộc gọi cần phải cắm tai nghe. Sau đó, một năm sau đó, 6710 được trang bị phần cứng âm thanh tích hợp, giải quyết vấn đề này.

Sau đó, RIM liên tiếp ra mắt một số mẫu điện thoại kinh điển, từ đó đưa BlackBerry trở thành một thương hiệu điện thoại cao cấp dành cho "người tiêu dùng chuyên nghiệp".

Điểm nổi bật nhất của điện thoại BlackBerry chính là thiết kế bàn phím QWERTY đầy đủ, có thể nói là khác biệt hoàn toàn. Độ an toàn của hệ thống cũng là một trong những lý do chính mà người dùng lựa chọn nó.


smartphone-blackberry.webp

Chúng ta hãy nói về Symbian một chút.

Mục đích thành lập Symbian là để tích hợp hệ điều hành của PDA và điện thoại di động. Nó là một liên minh của các nhà sản xuất châu Âu, đại diện cho lợi ích của các nhà sản xuất như Nokia, Ericsson và các nhà sản xuất khác.

Hệ điều hành Symbian là một hệ điều hành 32 bit thời gian thực và đa nhiệm, có các đặc tính như tiêu thụ điện năng thấp, chiếm ít bộ nhớ và rất phù hợp cho việc sử dụng trên các thiết bị di động như điện thoại.

Nokia và Ericsson đã xem Symbian là nền tảng phát triển chính của mình từ đầu.

Ericsson R380 được phát hành vào tháng 11 năm 2000, là thiết bị đầu tiên được phát hành cùng với EPOC Release 5.1. Trong khi đó, Nokia 9210 Communicator được phát hành cùng lúc được coi là chiếc điện thoại thông minh đầu tiên sử dụng Symbian OS.


Nokia-9210-Communicator.webp

NOKIA 9210 Communicator
Symbian S40 platform chủ yếu dành cho điện thoại cơ bản.

Vào tháng 6 năm 2001, Symbian công bố Symbian S60 (Series60) platform, chủ yếu dành cho điện thoại thông minh. Công nghiệp thông thường cho rằng, S60 là phiên bản hệ điều hành Symbian phổ biến nhất và là một trong những phiên bản kinh điển của nó.

Năm 2004, Nokia đang trên đỉnh cao của sự nghiệp, mua lại 31,1% cổ phần của Symbian từ Psion (trị giá khoảng 135,7 triệu bảng Anh), nâng tỷ lệ sở hữu của mình lên 63,3% và giành được quyền kiểm soát hoàn toàn.

Không lâu sau đó, vào tháng 10 năm 2004, Symbian đưa ra một quyết định quan trọng. Họ thông báo sẽ hợp tác với Intel để phát triển một nền tảng di động mới dựa trên Symbian OS và công nghệ Intel Xscale, dành cho chip điện thoại 3G. Nền tảng này được gọi là Maemo, là tiền thân của hệ điều hành Meego sau này.

Năm 2005, Symbian OS v9.0 và Symbian S60 3rd Edition được phát hành, đưa trải nghiệm của người dùng Symbian lên một tầm cao mới. Trong năm đó, tổng số điện thoại di động sử dụng hệ điều hành Symbian OS đã đạt 19,2 triệu chiếc trên toàn cầu.

Năm 2006, Symbian tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Trong năm đó, số lượng điện thoại thông minh Symbian xuất xưởng đã đạt 100 triệu chiếc, tỷ lệ thị phần tiến tới 70%.

Năm 2007, Symbian đạt đỉnh cao với tổng số lượng điện thoại xuất xưởng đã vượt qua con số 200 triệu chiếc.


Symbian-oS-sinh-thai.webp


Cùng xem lại hệ điều Windows Mobile

Vào quý 2 năm 2000, Windows CE của Microsoft cuối cùng đã chính thức không còn phụ thuộc vào Windows 95 nữa, trở thành một hệ thống hoàn toàn mới. Hệ thống này hỗ trợ nhiều loại bộ xử lý như x86, PowerPC, ARM, MIPS và rất phù hợp cho các thiết bị di động như điện thoại.

Tại thời điểm đó, Microsoft đổi tên Windows CE thành Windows Pocket PC, hay còn được gọi là PPC.

Năm 2003, Microsoft phát triển các hệ điều hành Pocket Phone Edition và Windows Powered SmartPhone. Sau đó, Microsoft đã hợp nhất các hệ điều hành này vào PPC.

Vào ngày 23 tháng 6 năm 2003, Microsoft chính thức ra mắt Windows Mobile 2003 (ban đầu được đặt tên là Pocket PC 2003, dựa trên kernel của Windows CE 4.x).

Pocket-PC.webp

Một áp phích quảng cáo của Microsoft lúc bấy giờ

Vào tháng 5 năm 2005, Microsoft đã phát hành hệ điều hành Windows Mobile 5.0 dành cho thị trường PDA và điện thoại thông minh. Nhiều công ty đã sử dụng hệ điều hành Windows Mobile, bao gồm Motorola (đã rời khỏi liên minh Symbian), Sony Ericsson (sau khi sáp nhập), và các công ty Trung Quốc như ZTE và Huawei.

Có thể thấy rằng năm 2006, Symbian là hệ điều hành di động dẫn đầu tuyệt đối, Windows Mobile và BlackBerry OS cạnh tranh vị trí thứ hai. Trong khi đó, Palm OS đang bắt đầu suy giảm.

Vào năm 2006, thị trường điện thoại di động đang chứng kiến sự cạnh tranh giữa các hệ điều hành di động chính như Symbian, Windows Mobile và BlackBerry OS. Tuy nhiên, một cuộc cách mạng đang chớm nở, sẽ hoàn toàn thay đổi cảnh quan của thị trường điện thoại di động và đưa con người vào một thời đại mới của liên lạc di động.

Sau những năm tháng cạnh tranh giữa các hệ điều hành di động chính, vào cuối những năm 2000, hai hệ điều hành mới bắt đầu nổi lên và trở thành hai đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường di động: iOS và Android.

Hệ điều hành iOS và Android



iOS được phát triển bởi Apple và chính thức được giới thiệu vào năm 2007 cùng với iPhone đầu tiên. iOS có thiết kế đơn giản, dễ sử dụng và tích hợp nhiều tính năng tiên tiến. Hệ điều hành này đã đưa ra nhiều ứng dụng mới, đánh dấu sự xuất hiện của App Store, một cửa hàng ứng dụng đầu tiên trên thị trường di động.

Trong khi đó, Android được phát triển bởi Google và ra mắt vào năm 2008. Android là một hệ điều hành mã nguồn mở, cho phép các nhà phát triển thứ ba phát triển ứng dụng và tùy chỉnh hệ thống theo ý muốn. Android ngày càng phổ biến và được sử dụng trên nhiều loại điện thoại di động từ các nhà sản xuất khác nhau.

Sự phát triển của iOS và Android đã hoàn toàn thay đổi cảnh quan của thị trường di động. Cả hai hệ điều hành này đều có đóng góp lớn vào việc đưa liên lạc di động và ứng dụng di động vào một thời đại mới, giúp con người có thể kết nối và tương tác với nhau một cách dễ dàng hơn.

Android hệ điều hành phổ biến nhất của thiết bị di động?

Android là một hệ điều hành di động mã nguồn mở được phát triển bởi Google. Sau khi được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 2008, Android đã trở thành một trong những hệ điều hành phổ biến nhất trên thị trường di động, cạnh tranh trực tiếp với iOS của Apple.

he-dieu-hanh-android.png

Android được phát triển dựa trên nền tảng Linux và được thiết kế để hoạt động trên nhiều loại thiết bị di động như điện thoại thông minh, máy tính bảng, đồng hồ thông minh và thiết bị IoT. Hệ điều hành này cho phép các nhà phát triển tùy chỉnh và phát triển ứng dụng của mình trên nền tảng Android.

Từ khi được ra mắt, Android đã trải qua nhiều phiên bản và cải tiến. Phiên bản đầu tiên của Android là Android 1.0, được giới thiệu vào tháng 9 năm 2008. Sau đó, các phiên bản khác như Android 1.5 Cupcake, Android 1.6 Donut, Android 2.0/2.1 Eclair, Android 2.2 Froyo, Android 2.3 Gingerbread, Android 3.0 Honeycomb, Android 4.0 Ice Cream Sandwich, Android 4.1/4.2/4.3 Jelly Bean, Android 4.4 KitKat, Android 5.0/5.1 Lollipop, Android 6.0 Marshmallow, Android 7.0/7.1 Nougat, Android 8.0/8.1 Oreo, Android 9 Pie, Android 10 và phiên bản mới nhất là Android 11.

Mỗi phiên bản của Android đều có những tính năng và cải tiến đáng chú ý. Ví dụ như Android 4.0 Ice Cream Sandwich mang lại giao diện người dùng mới, Android 4.4 KitKat cải thiện hiệu suất và tối ưu hóa pin, Android 5.0 Lollipop cải thiện khả năng đa nhiệm và cung cấp tính năng bảo mật mới, Android 6.0 Marshmallow tập trung vào cải thiện hiệu suất và tăng cường bảo mật, Android 7.0 Nougat mang lại tính năng chia màn hình đa nhiệm, Android 8.0 Oreo tối ưu hóa độ trễ, Android 9 Pie tập trung vào trí tuệ nhân tạo và tính năng giới hạn thời gian sử dụng ứng dụng và Android 10 tập trung vào tính năng tối ưu hóa và bảo mật hệ thống.

Trong những năm gần đây, Android đã trở thành hệ điều hành di động phổ biến nhất trên thị trường, chiếm khoảng 85% thị phần toàn cầu. Nó đã đưa ra nhiều tính năng và ứng dụng mới, giúp con người kết nối và tương tác với nhau một cách dễ dàng hơn.

Hệ điều hành iOS

iOS là hệ điều hành di động được phát triển bởi Apple và được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 2007 cùng với iPhone đầu tiên. iOS được tích hợp sẵn trên các thiết bị của Apple như iPhone, iPad và iPod Touch.

ios.jpg

iOS được xây dựng dựa trên nền tảng của hệ điều hành macOS và được thiết kế để đơn giản, dễ sử dụng và tối ưu hóa cho các thiết bị di động. Hệ điều hành này cung cấp nhiều tính năng tiên tiến, bao gồm trình duyệt web Safari, ứng dụng iMessage, FaceTime, Apple Music và Apple Pay.

Kể từ khi được giới thiệu vào năm 2007, iOS đã trải qua nhiều phiên bản và cải tiến. Các phiên bản đầu tiên của iOS bao gồm iOS 1, iOS 2 và iOS 3. Sau đó, các phiên bản mới như iOS 4, iOS 5, iOS 6, iOS 7, iOS 8, iOS 9, iOS 10, iOS 11, iOS 12, iOS 13 và iOS 14 đã được giới thiệu.

Mỗi phiên bản của iOS đều có những tính năng và cải tiến đáng chú ý. Ví dụ như iOS 4 mang lại tính năng multitasking, iOS 5 giới thiệu tính năng iMessage và tính năng tối ưu hóa cho Siri, iOS 6 cải thiện tính năng bản đồ và giới thiệu tính năng Passbook, iOS 7 thay đổi hoàn toàn giao diện người dùng và giới thiệu tính năng AirDrop và Control Center, iOS 8 giới thiệu tính năng HealthKit và HomeKit, iOS 9 tập trung vào trí tuệ nhân tạo và tính năng tối ưu hóa hiệu suất, iOS 10 giới thiệu tính năng khóa màn hình mới và cải thiện Siri, iOS 11 tập trung vào tính năng tối ưu hóa và cải thiện hiệu suất, iOS 12 giới thiệu tính năng Screen Time để giới hạn thời gian sử dụng và iOS 13 và iOS 14 giới thiệu nhiều tính năng mới như chế độ tối, tính năng QuickPath và tính năng trợ lý ảo Siri mới.

iOS đã trở thành một trong những hệ điều hành di động phổ biến nhất trên thị trường, chiếm khoảng 15% thị phần toàn cầu. Nó đã đưa ra nhiều tính năng và ứng dụng mới, giúp con người kết nối và tương tác với nhau một cách dễ dàng hơn trên các thiết bị của Apple.

Sự thay đổi ngôi vương trong thị trường hệ điều hành di động
T
hị trường hệ điều hành di động là một lĩnh vực cạnh tranh khốc liệt, và việc ngôi vương thay đổi liên tục là điều bình thường. Các hệ điều hành di động, bao gồm iOS và Android, luôn phải cải tiến và đưa ra những tính năng mới để giành được sự tin tưởng và sự ưu ái của người dùng.

Trong quá khứ, các hệ điều hành di động khác như BlackBerry OS và Symbian đã từng là những đối thủ đáng gờm của iOS và Android trên thị trường. Tuy nhiên, do không đáp ứng được nhu cầu của người dùng trong việc sử dụng điện thoại thông minh, BlackBerry OS và Symbian đã dần dần mất dần thị phần của mình và cuối cùng bị đánh bại bởi iOS và Android.

Hiện nay, iOS và Android vẫn là hai hệ điều hành di động phổ biến nhất trên thị trường. Tuy nhiên, cả hai hệ điều hành này vẫn phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh khác như KaiOS, Tizen và Windows 10 Mobile. Do đó, việc ngôi vương thay đổi liên tục là điều không thể tránh khỏi trên thị trường hệ điều hành di động.
 
Trả lời

Long Sao


Junior Moderator
Bài viết khá chi tiết và có đầu tư . Phải thừa nhận là có nhiều hơn rất nhiều công cụ rất tốt cho cuộc đời khi mà phát triển tốt hơn nhiều nữa.
 

saothanmm

Búa Gỗ
Thật không nghĩ tới Symbian và NOKIA lại có kết cục như hiện tại. Và cũng như thế, IOS và ANDROI cũng đang đi lên trên sự rực rỡ của hiện tại. Cám ơn bài viết