Huyền thoại kho vàng Yamashita | VN-Zoom | Cộng đồng Chia Sẻ Kiến Thức Công Nghệ và Phần Mềm Máy Tính

Adblocker detected! Please consider reading this notice.

We've detected that you are using AdBlock Plus or some other adblocking software which is preventing the page from fully loading.

We don't have any banner, Flash, animation, obnoxious sound, or popup ad. We do not implement these annoying types of ads!

We need money to operate the site, and almost all of it comes from our online advertising.

Please add https://vn-z.vn to your ad blocking whitelist or disable your adblocking software.

×

Huyền thoại kho vàng Yamashita

tranthanhkiet

Rìu Chiến Bạc
Former Moderator
'Vua vàng' đầu hàng tại Philippines

Tháng 6.2016, khi cụ Trần Văn Tiệp - 'chủ nhân' câu chuyện kho vàng 4.000 tấn, qua đời thì việc truy tìm kho vàng núi Tàu (được cho là của quân đội Nhật) cũng khép lại ở Bình Thuận. Nhưng trong thực tế, đã có rất nhiều kho báu quân Nhật chôn vội tại Đông Á và Đông Nam Á vào cuối Đệ nhị thế chiến, sau khi đường về Nhật đã bị tàu ngầm Mỹ phong tỏa ngoài khơi Philippines năm 1943...

vuavang1_abcf.jpg

Tướng Yamashita đầu hàng Sư đoàn bộ binh 320, Mỹ

Ngày 2.9.1945, được lệnh đầu hàng, tướng Yamashita Tomoyuki cùng binh sĩ theo con đường mòn đến nơi đồn trú của quân Mỹ. Suốt 1 tháng trước đó, quân Mỹ tấn công nhưng chỉ tiến được vỏn vẹn hơn 5 km. Bị vây khốn ở Kiangan Pocket (Philippines), Yamashita xuống cân thấy rõ. Ông cũng mất nhiều binh sĩ, nhưng ông không tự mổ bụng bởi vì, như ông nói: “Nếu tôi tự vẫn thì sẽ phải có ai đó đứng ra nhận lỗi lầm này”.

Họ gặp ban tiếp quản của Mỹ, do thiếu tá quân cảnh A.S.Jack Kenworthy chỉ huy. Yamashita chậm bước và dừng lại, chờ các sĩ quan thuộc cấp và binh sĩ xếp hàng phía sau. Theo trung tá Leslie M.Fry có mặt ở đó, một số binh sĩ trẻ Nhật tay vẫn còn ôm những thanh vàng và lần lượt xếp thành một đống. Khoảng nửa tấn vàng. Yamashita cởi kiếm, cúi gập đầu và chậm rãi dâng kiếm cho thiếu tá Kenworthy. Năm tháng sau, ngày 23.2.1946, ông bị treo cổ.

Tòa tối cao Mỹ truy tố Yamashita tội danh tội phạm chiến tranh, song tuyệt nhiên không đề cập đến việc quân Nhật hôi của ở 12 quốc gia Đông Á và Đông Nam Á trong Đệ nhị thế chiến. Trong đó, tướng Yamashita cùng những nhân vật hoàng thân cộm cán đã chỉ huy việc cất giấu số của cải này trong những năm cuối của cuộc chiến. Kho tàng Yamashita cất giấu trở thành vô số huyền thoại.

Một trong những câu chuyện điển hình: Trong năm cuối của Đệ nhị thế chiến, lính Mỹ khi chiến đấu cùng quân du kích Philippines phát hiện ra một chiếc tàu lớn do quân Nhật ngụy trang làm tàu cứu thương đã dỡ một lượng lớn các thùng bằng đồng ở vịnh Subic, gần Manila. Sĩ quan hải quân Mỹ John C.Ballinger cải trang làm một ngư dân đã chụp được những tấm ảnh của vụ vận chuyển này. Cuộc điều tra nhanh sau đó cho thấy chiếc tàu được cải trang này có tên Fuji Maru, đóng năm 1937, chuyên dùng để chở tài sản quân đội Nhật hoàng vơ vét được trong cuộc chiến từ Singapore đến Manila cho hoàng tử Chichibu trong chiến dịch Golden Lyly - Hoa Huệ Vàng (1).

Đơn vị của Ballinger đã bám theo đoàn xe quân sự chở những thùng hàng đó đi sâu vào phía núi. Ở đó, họ thấy cứ 4 binh sĩ Nhật khiêng 1 thùng vào các hang động. Ballinger đoán ắt phải là thứ gì đó rất có giá trị. Khi quân Nhật niêm phong, ngụy trang cửa ra vào của các hang động và rút đi, binh sĩ Philippines phải mất nhiều ngày mới mở được cửa hang và phát hiện trong thùng chứa toàn những thanh vàng, mỗi thanh nặng 75 kg. Trong hang là những thùng vàng xếp hàng dài chồng lên nhau.

Vài tháng sau, khi quân Mỹ đổ bộ lên Leyte, Ballinger lại một lần nữa chứng kiến việc vận chuyển vàng của phía quân Nhật. Lần này, một đoàn xe tải quân sự chở những hòm nặng rời khỏi căn cứ quân Nhật ở Baguio để đi đến một đường hầm gần bệnh viện ngoại ô.

Người Mỹ không thể dùng cực hình tra tấn Yamashita để lấy thông tin về những kho vàng như thế này, vì họ sợ làm như vậy sẽ tạo chứng cứ cho luật sư của ông tướng Nhật phản kháng. Do đó, người trở thành mục tiêu số một để moi tin là thiếu tá Kojima Kashii - tài xế của tướng Yamashita, người đã lái xe đưa Yamashita đến hầu hết các nơi cất giấu kho báu. Kojima bắt đầu phục vụ tướng Yamashita khi ông đến Mãn Châu (Trung Quốc) tháng 10.1944, thay tướng Korudda Shigenori, nhận nhiệm vụ phòng thủ Philippines.

Phụ trách tra tấn, lấy cung Kojima là sĩ quan tình báo Mỹ gốc Philippines tên S.Garcia Diaz Santa Romana, thường gọi là Santy. Giám sát thẩm vấn là đại úy Edward G.Lansdale của OSS - tiền thân của CIA. Tháng 10.1945, sau nhiều ngày bị tra tấn, thiếu tá Kojima khai toạc những gì mình biết. Lansdale bố trí một đoàn xe quân sự, cùng với Santy bắt Kojima đưa đến tất cả những nơi tướng Yamashita đã đến. Hơn một chục kho báu của chiến dịch Hoa Huệ Vàng bị phát hiện, đa số nằm ở thung lũng trong rặng núi phía bắc Manila, trong khu tam giác từ Baguio ở phía tây đến Bambang ở giữa và Aparri ở phía bắc đỉnh Luzon.

Giữa tháng 10.1945, bí mật về kho báu Nhật được đệ trình lên tư lệnh quân Mỹ ở Philippines - tướng MacArthur. Thông tin được truyền đến Harry S.Truman và vị tổng thống Mỹ quyết định giữ bí mật. Chỉ vài tuần sau, binh lính của Santy với sự trợ giúp của các công ty quốc phòng Mỹ đã nhanh chóng khai quật thành công nhiều kho báu toàn vàng. Một số kho báu khác thì phải tốn thời gian vài tháng. Để hoàn tất việc khai quật những nơi Kojima khai, người Mỹ tốn tổng cộng 2 năm, từ cuối 1945 đến 1947.

Thành công trong việc truy lùng kho báu đã biến Santy thành huyền thoại của CIA, với đầy đủ cung bậc cảm xúc, sướng tột đỉnh và cũng đau khổ tột cùng mà chúng tôi sẽ đề cập ở những phần sau. Santy được mệnh danh là “Tỉ phú không tên”, giàu gấp khối lần Bill Gate khi những năm giữa thế kỷ 20 ông đã nắm trong tay nhiều tài khoản, nhiều quỹ và dự án với số tài sản lên đến cả trăm tỉ USD.

Hơn 30 năm, Santy giữ vai trò của người gác cổng của kho “vàng đen” (2) CIA do CIA nẫng tay trên của quân đội Nhật, cho đến khi Fernando Marcos bước vào chính trường, trở thành tổng thống Philippines vào năm 1965. Khi ấy, nhà độc tài nhiều tham vọng Philippines đã tìm cách hất cẳng Santy, trở thành người thao túng tài chính các hoạt động ngầm của CIA theo phương châm trao đổi: Tôi giữ của cho anh (CIA), anh giữ ghế cho tôi.

Cuộc “hôn nhân” có điều kiện này đã giúp Marcos làm chủ dinh Malacanang Palace - dinh tổng thống Philippines trong suốt 21 năm liền, bất chấp luật lệ chỉ cho phép tại vị 2 nhiệm kỳ. Năm 1986, Marcos bị chính quyền Ronald Reagan phế truất sau khi ông có những bước đi, theo CIA đánh giá là “quá giới hạn cho phép”.

Còn tiếp...

Nguồn: Thanh Niên​
 

tranthanhkiet

Rìu Chiến Bạc
Former Moderator
Tổng thống Marcos ra tay cướp vàng

20 năm sau ngày Santy tìm ra kho báu cho CIA, Tổng thống Philippines F.Marcos mới tìm ra kho báu đầu tiên và trở nên giàu nổi tiếng.

Năm 1971, vợ ông Marcos, bà Imelda, bị bắt gặp xài hơn 3 triệu USD chỉ trong 1 ngày mua sắm ở New York. Hỏi vì sao giàu trong khi lương tổng thống thì bèo bọt, Marcos phá lên cười và bảo “nhờ tìm ra kho vàng của Yamashita”.

cuopvang_slai.jpg

Tổng thống Ferdinand Marcos và vợ Imelda Marcos
ẢNH: PHIL-ISLAND.COM

Cuối thập niên 1950, nhiều toán người Nhật âm thầm trở lại Philippines tìm cách hợp tác làm ăn, song thực chất là săn lùng số kho báu giấu lại ở Đệ nhị thế chiến.

Chính quyền Tokyo cũng đề nghị sẵn sàng giúp Philippines “hàn gắn vết thương chiến tranh” bằng những dự án hạ tầng miễn phí, bao gồm đầu tư cho hệ thống thủy lợi, đường sá, làm đường hầm xuyên núi. Các công ty cứu hộ Nhật xin được nạo vét, khơi thông dòng chảy cho vịnh Manila bằng cách trục vớt tàu đắm ở đây. Bằng cách này, họ đã vớt được nhiều xác tàu bên trong chứa của cải quân Nhật chuyên chở trước khi chìm xuống biển.

Nhiều công ty xây dựng của Nhật cũng đổ xô sang Philippines, làm những dự án ở các vị trí “nghi có vàng” trên khắp đất nước Philippines. Họ thuê công nhân Philippines làm việc trên những dây chuyền sản xuất ti vi, cassette, máy tính, tủ lạnh hay máy lạnh... ra sản phẩm, tất cả được đóng thùng chuyển sang Nhật. Trong đó, có nhiều thùng hàng được ghi nhận là “rất nặng”. CIA có những thông tin cho biết người Nhật đã tìm lại được không ít vàng cất giấu thời Đệ nhị thế chiến và chuyển về chính quốc bằng cách này, song CIA đã không can thiệp.

Marcos biết được thông tin về kho báu hoàn toàn tình cờ. Binh sĩ của ông phát hiện 2 người đàn ông Nhật, vốn là cựu binh quân đội Nhật hoàng, đang hì hục đào một cái hố tại Ilocos Norte, quê hương của Marcos ở tây bắc Luzon. Họ cố tìm lại những thỏi vàng to bằng cái bánh quy giấu riêng từ thời chiến. Marcos ra lệnh tịch thu số vàng này.

Khi ấy, Marcos là một chính trị gia trẻ, nhạy bén. Từ những thỏi vàng thu được của 2 cựu binh Nhật, ông cũng nghe loáng thoáng về câu chuyện Santy khai quật thành công các kho vàng trước đó. Marcos tìm cách tiếp cận, tạo quan hệ, dần dần ông bắt đầu thay Santy điều hành một số hoạt động, trong đó có chiến dịch The Umbrella.

Khi đắc cử tổng thống năm 1965, Marcos trực tiếp tiến hành tìm kiếm kho báu. Đầu tiên, ông hợp tác với trùm thế giới ngầm Sasakawa Ryoichi để cùng tìm kiếm và chia phần. Sasakawa là bạn nối khố của Kodama - trùm xã hội đen Nhật Bản được Nhật hoàng huy động trong chiến dịch Hoa Huệ Vàng, cướp bóc tài sản trong thế giới ngầm của 12 quốc gia thời chiến tranh, đặc biệt là Trung Quốc. Do đó, Sasakawa biết chỗ giấu vàng, còn Marcos trao cho Sasakawa quyền tìm kiếm. Nhưng kho vàng thực sự khiến Marcos nổi tiếng cả thế giới không đến từ sự hợp tác này, mà từ một anh thợ khóa Roger Roxas.

Tháng 1.1971, một thợ khóa người Philippines kiêm nhà săn kho báu nghiệp dư tên Roger Roxas bò vào một đường hầm do quân Nhật đào thời chiến và tìm thấy một bức tượng Phật ngồi bằng vàng cao gần 10 feet (chưa đến 90 cm), nặng khoảng 1 tấn và được đúc theo phong cách Miến Điện.

Thường ngày, Roxas kiếm sống bằng nghề mua bán lặt vặt ở khu resort Baguio, kiêm luôn chức Chủ tịch Hiệp hội Săn lùng kho báu Philippines. Roxas tiếp xúc rất nhiều du khách Nhật. Một lần, vị khách Okubo Eusebio nói với Roxas rằng khi còn trẻ, ông ta phiên dịch cho tướng Yamashita và biết Yamashita đã chở một lượng vàng bạc lớn từ Manila đến Baguio để mua lương thực cho binh sĩ trong năm cuối chiến tranh. Okubo nói rằng số vàng đó được cất trong những thùng gỗ, giấu dưới đường hầm gần Bệnh viện đa khoa Baguio. Okubo cũng cho Roxas biết ông đã thấy một bức tượng Phật bằng vàng ở gần tu viện vốn là nơi ở và tổng hành dinh của tướng Yamashita.

Một người Bồ Đào Nha khác tên Albert Fuchigami lại nói với Roxas rằng cha ông là người Nhật đã để lại cho ông nhiều tấm bản đồ kho báu. Gia đình Fuchigami có một sạp bán rau quả ngoài chợ. Ông này nói rằng cha ông có lần đã dẫn ông vào một đường hầm phía sau Bệnh viện Baguio. Đây là đường hầm có lối đi đủ to cho các xe đẩy tay và bên trong chứa toàn vàng. Trước khi chết, cha Albert đã cho ông số bản đồ này.

Roxas là bạn của John Ballinger - sĩ quan Mỹ từng chiến đấu ở Luzon trong đơn vị du kích của đại úy Medina. Chính Ballinger từng chụp ảnh chiếc tàu Fuji Maru ngụy trang thành tàu cứu thương và theo đoàn xe quân sự chở vàng từ vịnh Subic giấu trong hang núi. Sau đó, khi đại đội của Medina thâm nhập Baguio, Ballinger quan sát thấy quân Nhật mang những thùng rất nặng vào trong đường hầm gần bệnh viện. Quân du kích sau đó tấn công bằng súng máy và lựu đạn, đánh sập cửa đường hầm, nhốt sống quân Nhật bên trong. Sau cuộc chiến, Ballinger trở về Mỹ, sống ở New Mexico.

Trong một lần trở lại Philippines, John Ballinger nói với Roxas rằng ông nhớ lối vào đường hầm nằm ở gần một hố công sự bê tông. Tuy nhiên, Ballinger không thể chỉ được cái hố đó ở đâu vì hiện trường đã thay đổi qua mấy chục năm.

Phân tích thông tin thu nhặt được từ Fuchigami, Okubo và Ballinger, Roxas kết luận chắc chắn là đường hầm đó tồn tại, vấn đề là phải tìm ra cái hố công sự bê tông đó. Roxas nộp đơn xin chính quyền cho phép được đào tìm kho báu. Thẩm phán vùng Baguio Pio Marcos là cậu của Tổng thống Marcos. Theo đó, chính phủ Philippines sẽ được chia 30% tổng số của cải tìm thấy.

Mùa xuân năm 1970, công nhân của Roxas tìm ra lối vào của đường hầm bị sập. Để mở được cửa đường hầm, quân của Roxas phải đào thêm 7 tháng nữa. Và khi đường hầm được mở ra, đám công nhân lập tức bị dội trở lại vì một luồng xú uế từ các thi thể. Roxas phải đợi 1 tuần lễ trước khi bò được vào bên trong…
 

tranthanhkiet

Rìu Chiến Bạc
Former Moderator
Tranh giành bức tượng Phật nặng 1 tấn vàng

Bò qua cửa đường hầm, đám công nhân đào bới thấy các thiết bị quân sự như điện đài, lưỡi lê, súng trường cùng nhiều đầu lâu và quân phục Nhật.

untitled-1_sjaw.jpg

Bà Imelda Marcos cùng bức tượng Phật vàng nặng gần 1 tấn
ẢNH: TREASURE.NET

Mất nhiều tuần đào vòng quanh nữa, họ mới lần ra được lối thông ra đường hầm chính nhờ có lối đi đủ to cho xe đẩy tay như ông bố của Albert Fuchigami đề cập, cùng với hệ thống dây điện chiếu sáng trong hầm.

Trên bề mặt nhớp nhúa của đường hầm chính, Rosax phát hiện ra một phiến bê tông dày 3 m và ông quyết định khoan nó. Ngày 24.1.1971, phiến bê tông bị xuyên thủng, Rosax thấy ngay một bức tượng Phật. Mặc dù cao chưa đến 3 feet (90 cm), song Rosax phải huy động 10 người cùng hệ thống dây xích, ròng rọc mới có thể nhấc được bức tượng lên. Sau đó, họ phải dùng những khúc gỗ làm con lăn, cũng khó nhọc lắm mới kéo được bức tượng ra ngoài. Rosax mượn một chiếc xe tải và lợi dụng màn đêm, ông và các bạn của mình chở bức tượng về nhà, bọc lại bằng một tấm drap trải giường và giấu phía sau phòng ngủ.

Tiếp tục trở lại đường hầm, Rosax tìm thấy một thùng gỗ nhỏ, mở ra thì thấy có 24 thỏi vàng 24 karat, mỗi thỏi có kích cỡ (2,5 x 5 x 1,25) cm và nặng tương đương 30 ounce (933 gr). Với giá cả của năm 1971, mỗi thỏi trị giá 1.050 USD. Vậy tính ra cả thùng là 25.000 USD. Ngay gần đó, Rosax phát hiện một căn phòng rộng 1,8 x 9 m, bên trong là những hòm gỗ xếp chồng lên nhau. Mỗi hòm to bằng một thùng bia, thích hợp để đựng những thanh vàng 75 kg.

Rosax không mở những thùng gỗ đó ra vì ông đã biết mình tìm ra cái gì. Rosax đem 24 thỏi vàng về nhà, cùng vài cây kiếm, lưỡi lê. Nhiều ngày sau, sợ ai đó phát hiện ra kho báu của mình, Rosax đánh sập cửa hầm. Trước mắt, Rosax cần kiếm một số tiền đủ lớn để tiếp tục công việc khai thác kho báu một cách an toàn.

Để làm việc đó, Rosax bán những thỏi vàng tìm được và bắt đầu tìm kiếm người mua tượng Phật. Đây là một quyết định sai lầm mà sau này ông phải hối hận.

Tin đồn Rosax tìm ra tượng Phật bằng vàng lan nhanh. Hai vị khách đến xem. Họ khoan những lỗ nhỏ ở gần cổ bức tượng và cả hai đều ước lượng tượng được làm bằng vàng có độ tuổi từ 20 - 22 karat, một loại vàng phổ biến ở châu Á trước năm 1940.

Vào ngày Cá tháng 4 năm 1971, người thứ 3 đến tìm mua tượng Phật tên là Joe Oihara. Vị khách này tự giới thiệu là người Nhật, nói với Rosax là ông ta đang ở nhà của mẹ Tổng thống Marcos. Oihara xem xét tượng Phật rất kỹ và ngỏ ý rất muốn mua. Ông hứa vài ngày sau sẽ trở lại và đặt cọc trước 1 triệu peso. Rosax nhận thấy Oihara đặc biệt chú ý đến cổ bức tượng. Khi vị khách ra về, Rosax và người em trai Danilo cố xoay thử đầu bức tượng, thậm chí dùng cả đến búa và rìu để xoay. Bất ngờ, bên trong lộ ra một lỗ hổng to, chứa 3 nhúm kim cương. Rosax lấy kim cương và xoay cổ tượng Phật trở lại vị trí cũ.

4 ngày sau, lúc 2 giờ 30 ngày 5.4, có 8 người đàn ông mặc quân phục, tay cầm tiểu liên đập cửa nhà Rosax, bảo rằng là người của cục điều tra tội phạm, yêu cầu được xét nhà. Rosax thoạt đầu không định mở, song 2 binh sĩ đã đập cửa sổ bên cạnh, thò súng vào và lệnh cho Rosax trong vòng 3 phút phải mở cửa, nếu không thì chết.

Khi Rosax mở cửa, Oihara có mặt ở đó. Đám lính đưa ra lệnh xét nhà do… thẩm phán Pio Marcos ký. Lệnh khám yêu cầu tịch thu bức tượng Phật cùng với những tài sản khác để chuyển giao cho nhà chức trách trước khi phiên tòa sẽ diễn ra tiếp theo.

Rosax không ở nhà một mình. Cậu em trai Danilo phản ứng, lập tức lãnh cơn mưa báng súng. Tượng Phật, kim cương và 7 thỏi vàng còn lại, vài thanh kiếm, một bộ sưu tập tiền xu, thậm chí cả con heo tiết kiệm cũng bị tịch thu và mang đi. Đám lính cũng tịch thu khẩu súng calib của người bạn để lại, sau đó cáo buộc Rosax tàng trữ vũ khí trái phép. Tuy nhiên, tất cả tài sản bị đem đi không hề được chuyển đến tòa án.

Ngay sau đó, Rosax ra đồn cảnh sát trình báo và thông báo cho báo giới. Xong, ông đến tìm thẩm phán Pio Marcos, hỏi tại sao “ông đã ký lệnh cho tôi tìm vàng ăn chia rồi lại ra lệnh xét nhà tôi”. Vị thẩm phán cho biết ông buộc phải làm việc đó vì sức ép của thằng cháu - Tổng thống Marcos. Ông cũng nói thật là đáng tiếc cho Rosax vì đã trình báo cảnh sát và báo chí, cho rằng có khả năng ông sẽ bị giết.
 

tranthanhkiet

Rìu Chiến Bạc
Former Moderator
Cuộc truy sát của Tổng thống Marcos

Rosax lẩn trốn không được lâu. Chỉ vài ngày sau, Rosax bị 2 mật vụ phát giác tại Cabanatuan.

tuongphat_nzbh.jpg

Tay thợ khóa Roger Rosax và bức tượng Phật bằng vàng
ẢNH: WWW.LABRUJULAVERDE.COM

Tiên lễ hậu binh, Rosax được đề nghị trả 3 triệu peso với điều kiện phải công khai xác nhận bức tượng Phật bằng đồng chính là bức tượng ông tìm thấy.

Cuối tháng 4, được chánh án tòa tối cao đảm bảo tính mạng, Rosax trở lại Baguio để xác nhận bức tượng.

Cùng trở về với Rosax có 4 vệ sĩ và 2 công tố viên, luật sư riêng của Rosax cùng một đội ngũ phóng viên báo chí, truyền hình. Tại tòa, Rosax dũng cảm (hay ngu xuẩn) tuyên bố bức tượng Phật là giả vì khác màu, nét mặt khác và cái đầu không xoay được. Thêm nữa, bức tượng cũng không có những dấu khoan nhỏ trên cổ.

Giới báo chí lặng người vì một người đàn ông dám thách thức quyền lực của cả gia đình Tổng thống Marcos. Tuy nhiên, đảng Tự do đối lập lại phấn khích trước những lời tuyên bố đó. Họ xem coi đây là cơ hội để đánh bại Marcos trong cuộc tranh cử tổng thống sắp tới.

Lãnh đạo đảng đối lập thuyết phục Rosax ra làm chứng ở Thượng viện trong cuộc điều tra “Vụ bức tượng Phật bằng vàng”. Ngày 4.5.1971, Rosax cung cấp toàn bộ chứng cứ trước nghị viện. Tổng thống Marcos lập tức lên tiếng đây là một âm mưu chính trị nhằm tấn công ông ta và đe dọa sẽ có một cuộc trả đũa.

14 ngày sau, Rosax trở về ẩn nấp ở Cabanatuan thì một lần nữa lại bị truy lùng và bắt giữ. 3 mật vụ của Marcos mặc thường phục đã bắt và đưa Rosax đến nhà một sĩ quan cảnh sát, đánh đập dã man. Trong bóng tối lờ mờ, một viên cảnh sát đưa cho Rosax xem tấm hình của vợ, con và dọa: Nếu còn muốn gặp lại họ, ông phải cung cấp tên những nghị sĩ đã xúi ông ra làm chứng ở Thượng viện, và phải khai chỗ cất giấu kho vàng. Rosax từ chối, lập tức ông bị chích điện ở khắp người, và bị gí bỏng bởi tàn thuốc lá.

Đám cảnh sát tiếp tục đưa Rosax đến một khách sạn ở Angeles City. Tại đây, cảnh sát giam và tra tấn ông liên tục trong 2 tuần lễ. Lần này ông bị đánh vào đầu và mặt bằng gậy cao su cho đến khi ngất. Đến giờ, mắt trái của ông bị mù. Những kẻ tra tấn buộc ông phải ký vào một tờ giấy xác nhận là việc lục soát nhà ông đã diễn ra một cách ôn hòa, và những binh sĩ lục soát không hề mang vũ khí.

Một hôm, Rosax bị đưa trở lại tòa án ở Baguio. Đêm đó, ông mở được khóa cửa sổ và chạy đến trốn ở nhà người chị. Ông gọi điện cho một thượng nghị sĩ, trình bày những việc đã xảy ra và một lần nữa lại được yêu cầu làm chứng trước Thượng viện. Rosax đã làm điều đó vào ngày 30.6.1971, tố cáo hết những gì đã xảy ra với ông.

Đến đầu tháng 7, Rosax lại bị bắt vì “không đến tòa trình diện vì bị cáo buộc tàng trữ vũ khí trái phép”. Ông bị tuyên án phạt tù vì không xuất hiện trong trát gọi hầu tòa trước đó. Sau 1 tháng ở tù, ông được bảo lãnh tại ngoại bởi một luật sư do thượng nghị sĩ Sergio Osmena Jr - lãnh đạo đảng Tự do đối lập, có cha từng làm tổng thống Philippines, cử đến. Rosax được đưa lên máy bay riêng chở đến Plaza Miranda, nơi ông Osmena yêu cầu Rosax nói chuyện trong một cuộc tuần hành chính trị tối hôm đó.

Cuộc tuần hành thu hút một đám đông khổng lồ với nhiều lãnh tụ đối lập. Rosax được dặn ngồi yên trên một chiếc xe cho đến khi được yêu cầu bước ra sân khấu. Vài phút sau, ai đó ném 2 quả lựu đạn lên sân khấu. Đám đông hỗn loạn. 10 người thiệt mạng và 66 người khác bị thương, trong đó có cả thượng nghị sĩ Osmena. Nhiều nguồn tin nghi ngờ vụ ném lựu đạn này do Marcos ra tay. Trong khi đó, Marcos đổ lỗi cuộc tấn công là do phe -censor-. Marcos đình chỉ lệnh quyền được miễn tố và ra lệnh bỏ tù nhiều đối thủ chính trị.

Hoảng sợ, Rosax trốn biệt khỏi Manila trong suốt 12 tháng. Khi trở về nhà vào tháng 7.1972, ông lập tức bị 2 mật vụ canh trước nhà bắt giữ. Họ đưa Rosax đến một căn cứ hải quân ở tỉnh Zambales và giam giữ ông tại đây. Những câu hỏi thẩm vấn xoay quanh Rosax vẫn là nơi phát hiện tượng Phật vàng ở đâu?

Tháng 1.1973, Rosax lại thua trong phiên tòa phúc thẩm xử tội tàng trữ vũ khí trái phép. Rosax bị đưa đến nhà tù Baguio, tại đây, ông ít nhất 2 lần bị đánh đập và tra vấn địa điểm hầm chứa vàng. Sau khi thụ án gần 2 năm, Rosax ra tù và trở về nhà.

Không thể bắt ép và thuyết phục Rosax hợp tác, Marcos cho người nhổ từng cái răng của Olimpio Magbanua - người cộng tác với Rosax trong việc đào bới. Anh này không chịu nổi và khai nơi cửa vào đường hầm.

Một ngày năm 1974, nhân viên Bệnh viện Baguio nhìn thấy các binh sĩ khiêng ra từng hòm nặng, mỗi hòm cần 4 - 6 người khiêng. Có hòm vỏ gỗ bên ngoài đã mục nát, bị vỡ và làm rơi ra 3 thanh vàng to cỡ 1 tút thuốc lá, nặng tầm 75 kg. Các nhân viên bệnh viện ước tính mỗi ngày có 5 hòm như thế được đưa lên xe tải trong suốt quãng thời gian dài, ước tính khoảng 3.600 hòm, tổng cộng 10.800 thanh vàng nặng 75 kg mỗi thanh.

Rosax biết quân đội đã tìm ra kho báu của ông và đã đánh cắp hết số vàng ông tìm thấy. Năm 1976, đầu hàng số phận, ông đưa gia đình đến một nơi bí mật và họ ở đó yên ổn trong 10 năm. Rosax xuất hiện trở lại vào năm 1986, sau khi Tổng thống Ferdinand Marcos và bà vợ Imelda Marcos bị chính quyền Tổng thống Ronald Reagan truất phế và đưa đi lưu vong ở Hawaii. Lúc này, Rosax trở lại bắt đầu cho một vụ kiện lớn nhất trong lịch sử các vụ kiện dân sự, yêu cầu Marcos trả lại số vàng bị cướp.

Sau nhiều năm đeo đuổi vụ kiện, năm 1998, tòa án tối cao Hawaii đã tuyên phía Imelda Marcos (lúc này cựu Tổng thống Marcos đã qua đời) phải bồi thường cho phía Roger Rosax 22 tỉ USD, là số tiền chiếm đoạt từ bức tượng Phật vàng và số vàng Rosax tìm kiếm được. Đây là mức bồi thường án dân sự lớn nhất trong lịch sử thế giới.
 

tranthanhkiet

Rìu Chiến Bạc
Former Moderator
Có hay không chuyện Nixon 'bơm' 200.000 tấn vàng vào Trung Quốc?

Khoe khoang tiền của là đam mê của Tổng thống Marcos. Lẽ ra ông đã có thể thành lập một vài quỹ từ thiện rồi từ đó về hưu và lui về điền trang của mình ở Ilocos Norte.

mtd_psmw.jpg

Andrew Carnegie có lần nói: “Người đàn ông chết giàu là người đàn ông ngu”. Marcos không có thời gian để làm từ thiện bởi Nhà Trắng không ngừng tạo áp lực buộc ông phải dùng vàng “đen” của mình để cung cấp cho các mục tiêu chính trị.

Một trong các mục tiêu chính trị ấy có tên gọi là China Mandate (Sự ủy quyền Trung Quốc).
Gia đình Marcos cho biết: “Bill Casey (1) nói với Ferdinand Marcos rằng Nhà Trắng sẽ giữ chiếc ghế tổng thống cho ông ta mãi mãi nếu ông ta đồng ý gửi số vàng “đen” của mình vào nhà băng dưới sự chỉ định của CIA”.

Trong China Mandate, theo tác giả Sterling và Peggy Seagrave viết trong Gold Warriors: Năm 1972, gia đình Marcos, Tổng thống Mỹ Nixon, Ngoại trưởng Kissinger đã thỏa thuận mật với Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai để giữ Trung Quốc ra khỏi cuộc đụng độ với Mỹ về vấn đề Đài Loan. Để đổi lại, Trung Quốc sẽ được quyền sử dụng một lượng vàng lớn từ Marcos. (2)

Sterling và Peggy Seagrave cũng đưa ra những bằng chứng từ tài liệu giao dịch của phía ngân hàng cho thấy trong khoảng thời gian này, một lượng vàng rất lớn đã được chuyển đến các ngân hàng của Trung Quốc đại lục, trong đó có các tài khoản mang tên của Santa Romana, Ferdinand và Imelda Marcos và nhiều thành viên khác trong gia đình giàu có này.

Vì sao những nhân vật vốn luôn to miệng hô hào chống cộng, nay bỗng dưng chuyển một lượng lớn vàng đến các ngân hàng của một quốc gia -censor- như Trung Quốc? Không có một lý do nào thuyết phục để có thể tin được, nhất là vào cao trào của Chiến tranh lạnh. Và vì thế, chỉ có thể giải thích được về một China Mandate mà chính quyền Tổng thống Nixon đã thỏa thuận với Bắc Kinh.

Một tài liệu nữa cũng nói đến việc “đổi chác” giữa Tổng thống Mỹ Richard Nixon và Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông về vấn đề này. Trong The Secret Gold Treaty (Thỏa ước mật về vàng), tác giả David Guyatt dẫn chứng: “Một giấy chứng nhận do Ngân hàng Bank of England phát hành ngày 15.12.1972 mang tên Mao Trạch Đông là chủ tài khoản với số tiền lên đến 16,62 tỉ USD”. Một cá nhân trong đường dây chuyển vàng của Marcos cho rằng Nixon đã trao cho Trung Quốc 200.000 tấn vàng để đổi lại một thỏa thuận, rằng Trung Quốc không được có bất kỳ hành vi bành trướng lãnh thổ nào trong vòng 50 năm”.

Và kèm theo nhận định: “Đã từng chứng kiến cảnh Trung Quốc xua quân tràn qua lãnh thổ Triều Tiên trong chiến tranh Triều Tiên 1950 - 1953, phía Mỹ sợ rằng rất có thể Trung Quốc sẽ tấn công Đài Loan và Philippines, từ đó dẫn đến cuộc chiến tranh hạt nhân”.

Năm 1971 - 1972, nền kinh tế Trung Quốc lâm vào cảnh cực kỳ bi đát. Ngân khố của Bắc Kinh không có lấy một đồng dự trữ ngoại tệ. Chưa hết, cuộc khủng hoảng dầu mỏ thế giới càng khiến kinh tế Trung Quốc lao đao. Ở các vùng quê, dân chúng bắt đầu chết đói.

Giới phân tích của CIA và Lầu Năm Góc đánh giá tình hình và nhận định chắc chắn Trung Quốc sẽ đánh Đài Loan. Cuộc đụng độ này nếu xảy ra chắc chắn sẽ dẫn đến chiến tranh hạt nhân. Một cách có thể tháo được ngòi nổ cuộc chiến này, như lời đề nghị của một nhà phân tích CIA, là phải giúp Bắc Kinh ổn định được nền kinh tế. Nguồn tài chính lấy ở đâu ra? Không thể dùng ngân sách, Nhà Trắng quyết định dùng kho vàng “đen” của Marcos để hạ nhiệt cuộc chiến. Nếu Mỹ giúp Trung Quốc giải quyết được bài toán kinh tế thì các bên sẽ thiết lập được một giai đoạn hòa bình và bản thân Philippines cũng có lợi.

Để thực hiện China Mandate, Nixon và Kissinger đã bí mật đề nghị Mao Trạch Đông sẽ có một số lượng vàng trị giá 68 tỉ USD (con số Nhà Trắng ước lượng Marcos có lúc bấy giờ) lần lượt chuyển vào các ngân hàng Trung Quốc trong nhiều năm. Có tài chính, hệ thống ngân hàng Trung Quốc trở nên mạnh mẽ, nền kinh tế dần ổn định, và vấn đề đánh Đài Loan không còn là chủ đề nóng. Mỹ đã tránh được một cuộc xung đột thấy rõ với Trung Quốc. Và Marcos được Nhà Trắng ve vuốt và giữ yên ghế tổng thống thêm một thời gian dài.

Năm 1974, Imelda và con trai Bong-Bong đã có chuyến thăm cấp nhà nước đến Bắc Kinh. Báo chí loan tải tấm ảnh Mao Trạch Đông vui vẻ đứng giữa 2 mẹ con Imelda (ảnh) - một tư thế chụp ảnh hiếm thấy ở Mao Trạch Đông. Năm sau, đến lượt Marcos viếng thăm Trung Quốc, và sau đó, em vợ ông là Kokoy Romualdez trở thành đại sứ Philippines tại Bắc Kinh.

Phía gia đình Marcos khẳng định rằng, China Mandate chính là cơ sở thiết lập nên chuyến thăm lịch sử của Nixon tới Bắc Kinh và thiết lập quan hệ ngoại giao với CHND Trung Hoa.
 

tranthanhkiet

Rìu Chiến Bạc
Former Moderator
Cuộc chiến giữa Marcos và tỉ phú bí mật ở Manila

Trong những năm Rosax đang bị tù thì Tổng thống Marcos bắt đầu gây sức ép để buộc Santa Romana (Santy) chuyển giao số vàng mà tay cựu tình báo quân đội này đang nắm giữ.

khovang_bkeh.jpg

Tướng Eisenhower kiểm tra kho vàng thu được từ chiến dịch Hoa Huệ Vàng của quân đội Nhật hoàng
ẢNH: FIERCETRUTHNEWS.FILES.WORDPRESS.COM

Có nhiều lời đồn thổi về mối quan hệ giữa Santy và Marcos. Có nguồn bảo rằng, 2 người này bắt đầu thân từ những năm đầu thập niên 1960, khi Marcos chưa lên làm tổng thống. Nhưng cũng có nguồn cho rằng Santy là bạn thân của Imelda khi bà còn là nữ hoàng sắc đẹp ở Leyte, thậm chí có nguồn còn nói Imelda từng là “mèo” của Santy.

Ở thời điểm này, Santy là mẫu đàn ông bất kỳ cô gái nào cũng mơ ước. Anh ta vừa cao lớn, đẹp trai, vừa mạnh mẽ, rất ga lăng với quý cô và quan trọng là... rất nhiều tiền.

Là người trực tiếp tra tấn tài xế của tướng Yamashita, Santy nhanh chóng giúp CIA khai quật toàn bộ số kho báu do tay tài xế này chỉ điểm. Từ đó, Santy trở thành người gác cổng cho các tài khoản vàng “đen” của CIA ở khắp nơi trên thế giới, với nhiều bí danh khác nhau. Khoảng năm 1970, tổng số tiền Santy đứng tên trên các tài khoản khác nhau lên đến 50 tỉ USD. Santy được hưởng phí hằng năm dựa trên tổng số tiền nắm giữ. Là người khôn khéo, hơn nữa, nghề tình báo giúp ông có một sự lựa chọn không ồn ào trong cuộc sống, Santy không bao giờ bước vào thế giới của những người nổi tiếng. Ở Philippines, người ta gọi ông là “The Man With No Name” (Người đàn ông không tên). Santy có một cuộc sống hoàn hảo, sở hữu nhiều căn nhà lớn ở Manila và Cabanatuan, và ông bao luôn một căn phòng suite suốt năm tại khách sạn Manila Hilton. Bên ngoài Philippines, chẳng ai biết đến cái tên Santy cả, trừ giới chủ ngân hàng. Và cũng chưa có bài báo nào viết về một “tỉ phú bí mật của Manila” cả.

Tại Philippines, tiền của Santy đưa Fernando Marcos lên ghế tổng thống vào năm 1965. Trong The Marcos Dynasty (Đế chế Marcos), tác giả Sterling & Peggy Seagrave mô tả vị tổng thống Philippines này “đã làm tất cả những gì có thể để hài lòng Mỹ và CIA trong việc mở rộng chiến tranh tại Đông Dương”. Marcos thuyết phục Nhà Trắng rằng ông có thể giúp “bán cuộc chiến tranh VN cho tất cả các quốc gia Đông Nam Á khác bằng cách dùng tiền của Santy để hối lộ lãnh đạo các quốc gia này”.
Khi ngồi vào ghế tổng thống, Marcos tiếp tục ủng hộ Mỹ ở chiến tranh Đông Dương. Đổi lại, Marcos đòi Nhà Trắng phải cam kết giữ vững cho ông ta ghế tổng thống. Marcos được giữ ở dinh Malacanang đến tận năm 1986 trước khi sụp đổ dưới triều Tổng thống Reagan.

Cuối nhiệm kỳ 4 năm đầu tiên, Marcos gặp khủng hoảng với giới truyền thông. Imelda bị báo chí tẩn một trận tơi tả vì xài một phát 3,3 triệu USD chỉ trong 1 ngày shopping tại New York năm 1968. Cùng thời điểm này, Imelda mở những tài khoản khủng tại City Bank ở Manhattan. Cũng tại nhà băng này, tài liệu thuế cho thấy rằng Santy cũng có những tài khoản lớn bằng tiền mặt và vàng thỏi.
Cùng thời gian này, CIA có thay đổi lớn trong đội ngũ lãnh đạo. Những người từ tổ chức tiền thân OSS từng nhúng tay vào các hoạt động tìm kiếm kho báu năm 1945 - 1947 dần bị chuyển đi, những nhân vật mới lên không nắm được toàn bộ số tài khoản Santy đang giữ. Từ nhiều năm nay, Santy được bảo vệ bởi những tay CIA cộm cán này. Giờ đây họ không còn tại vị để bảo bọc Santy, Marcos nắm ngay bối cảnh nhá nhem đó nên liên tục dọa dẫm, gây sức ép buộc Santy phải chuyển giao toàn bộ tài khoản.

Mệt mỏi sau 25 năm làm nghề “gác cổng”, Santy bắt đầu nghiện rượu và mất kiểm soát đối với Marcos. Bạo lực là một phần của lịch sử dinh Malacanang. Dinh này nổi tiếng với một căn phòng gọi là Black Room, nơi đây, nhiều người đã bị tra tấn và bị sát hại. Bất kỳ ai qua mặt tổng thống đều bị sát hại một cách ghê rợn, xác bị vứt ngoài vệ đường, tròng mắt bị móc ra và treo trên thân cây.

Trước những đòn tấn công liên tục của Marcos, Santy bắt đầu có những bước đi nhằm tự bảo vệ mình, bảo vệ tiền, vàng trước nguy cơ bị Marcos ra sắc lệnh tịch thu. Người được Santy tin tưởng là Tarciana Rodgriguez - cháu gái của Luz Rambano - tình nhân của Santy trong 3 năm cuối đời. Santy biến Tarciana thành thủ quỹ của tất cả các công ty bề nổi của mình, giao cho cô quản lý những tài khoản hàng tỉ USD tiền mặt, vàng thỏi, sổ gửi vàng, chứng khoán và nhiều tài sản khác trên toàn thế giới.

Sau khi Marcos ra tay cướp bức tượng Phật vàng và bắt nhốt, tra tấn Rosax để tìm ra kho báu, Santy bắt đầu cảm thấy sợ. Santy đem theo 43 triệu USD, kéo Luz đến First National City Bank (bây giờ là Citybank) để mở tài khoản. Số tiền này toàn mệnh giá nhỏ, khiến nhân viên ngân hàng phải đếm mất 6 ngày mới hoàn tất.

Santy cũng thuê 9 két riêng tại ngân hàng này để đựng tiền mặt và trang sức. Ngay trước ngày Marcos áp dụng thiết quân luật, Santy đã nhanh tay chuyển 800 triệu USD ra khỏi Philippines, từ First National City Bank Manila sang City Bank of New York.

Ngày 27.2.1973, Marcos cho quân triệu Santy đến dinh Malacanang. Trong phòng riêng của tổng thống, Santy bị ép phải ký vào một bản di chúc được lập sẵn, nội dung là Santy (với tất cả những tên gọi, bí danh giao dịch trước đây) đồng ý để lại toàn bộ bất động sản, tài khoản tiền mặt, vàng nén... ở các ngân hàng thế giới cho vợ là Julietta Huerto được toàn quyền sử dụng.

Bản di chúc này, về kỹ thuật thì Santy để lại tài sản cho người vợ đã ly thân (đạo Công giáo ở Philippines không cho phép ly dị), nhưng ai cũng hiểu, một khi Santy chết, Marcos sẽ dễ dàng cưỡng bức Huerto và các tài khoản sẽ nhanh chóng chuyển qua tay Marcos.

Chỉ 1 tháng sau, tháng 3.1973, Santy lại một lần nữa có cảm giác sợ hãi và ông chuyển 500 triệu USD từ Manila sang HSBC của Hồng Kông. Cùng thời gian này, các tài liệu ngân hàng cũng cho thấy ông cũng chuyển 1.640 tấn vàng đến một ngân hàng Hồng Kông, sau đó đến tiếp Sanwa Bank của Nhật. Không lâu sau đó, trong một chuyến đi đến Tacloban, Leyte, Santy uống quá nhiều và nói toạc toàn bộ nỗi sợ hãi của mình đang đối mặt. Lập tức, lính của Marcos đến bắt cả ông và cô bạn gái Luz vì tội danh “nói xấu sau lưng tổng thống” và giam giữ 2 người tại một căn cứ quân sự trên đảo Leyte.
 

tranthanhkiet

Rìu Chiến Bạc
Former Moderator
Số phận tỉ phú không tên

Nhiều năm liền, Santy được bảo vệ bởi CIA, đặc biệt là tướng Lansdale. Song năm 1973, nội bộ CIA rơi vào hỗn loạn. Nhiều nhân vật kỳ cựu bị sa thải, hoặc bị điều đi những chốn hẻo lánh nên đâm bất mãn, từ chức. Những nhân vật này sau đó tái tập hợp để kiến lập nên một tổ chức mới cho riêng mình, gọi là 'CIA trong bóng tối'.

major-general-lansdale_moxq.jpg

Tướng Edward Lansdale

Lúc ấy, Santy được mời đến Washington với tư cách là khách riêng của những quan chức CIA hết thời, trong đó có tướng Lansdale, Helliwell, Cline và nhiều vị tai to mặt lớn khác. Trong suốt một tháng, họ “thết đãi” Santy những câu chuyện về thời hoàng kim ở OSS (tiền thân CIA), về cuộc chiến với Mao Trạch Đông, cách họ chuồn qua Đài Loan như thế nào, rồi làm thế nào họ biến Hãng hàng không dân sự Claire Chennault thành Air America, rỉ tai Santy những hoạt động ngầm ở Mỹ Latin và châu Phi.

Mỗi tối, Santy vác cái đầu nặng trịch trở về khách sạn Mayflower, ngồi với một cái cốc to cùng chai whisky, bắt đầu ghi chú. Santy ghi lại chi tiết những hoạt động vụng trộm của CIA mà sau này, công chúng Mỹ phải mất nhiều năm sau mới biết đến, như: CIA đã tạo dựng mạng lưới các công ty kinh tế dưới quyền, như DNP Enterprises của Santy chẳng hạn. Hàng loạt công ty hàng không, vận tải ra đời cùng với những công ty chuyên cung cấp vũ khí hoặc các lực lượng đánh thuê... để hậu thuẫn cho các cuộc chiến tranh ngầm như đã làm ở Angola. Nhiều người - như Santy viết, đã được trả tiền để giữ im lặng.

Thế những cựu quan chức CIA đang muốn gì ở Santy? Thực tế, họ đang có tham vọng kiến lập một tổ chức như CIA cho riêng mình, có lực lượng quân đội riêng. Để làm được điều đó, họ cần phải có tiền. Và họ biết, dưới quyền họ còn có Santy, với vô số tài khoản vàng đen cỡ lớn mà Washington đang bị mất dấu. Các cựu quan chức này muốn Santy giao họ số tài sản này khi họ cần.

Bỗng nhiên, Santy rơi vào giữa 2 làn đạn. Một bên là Marcos gây sức ép ráo riết, đến giờ, tấm lá chắn CIA bảo vệ cũng đã quay ngược lại bức bách. Trở về Philippines, Santy quyết định đi một bước nữa để bảo vệ mình và tài sản. Ngày 1.8.1974, ông gọi cho Tarciana và yêu cầu cô đến gặp mình ở Cavite City. Khi cô gái đến, Santy trao cho cô giấy tờ ủy nhiệm cô là thủ quỹ có “toàn quyền giám hộ và chịu trách nhiệm đối với toàn bộ các quỹ, chứng khoán, trái phiếu của Công ty DNP Enterprises”. Cô cũng được Santy hướng dẫn tất cả việc cần làm đối với các tài khoản của ông ở Wells Fargo Bank và Hanover Bank.

Đây cũng là thời điểm Santy thực sự rơi vào khủng hoảng. 30 năm kể từ ngày đảm nhận nhiệm vụ tra khảo thiếu tá Kojima, tiếp theo là giai đoạn cực khổ lùng sục khắp Manila. Năm 1947, việc tìm kiếm các kho báu của chiến dịch Hoa Huệ Vàng đã hoàn tất, và Santy bắt đầu tận hưởng mức thu nhập lớn bằng tiền hoa hồng của mình. Song ông là người đàn ông đơn giản, thích hưởng thụ một cuộc sống bình thường. Từ đó, số tiền ông kiếm được ngày càng lớn hơn rất nhiều nhu cầu cần chi xài. Santy có chuỗi thời gian sống nhẹ nhàng, êm ả.

Rồi sự trở mặt và tính cách tàn độc của Marcos khiến Santy bất ngờ. Rồi tại Washington, Santy phải đương đầu với những quan chức CIA suốt ngày rỉ vào tai ông những cuộc mưu sát, những cú ra tay tàn bạo, những vụ bắt cóc chính trị, những trò dối trá bất nhân bất nghĩa. Với họ, Thế chiến 2 chưa bao giờ kết thúc. Và lần đầu tiên, Santy nghĩ đến việc mình sẽ là người chi trả cho tất cả những đội quân giết người với những trò vô lại đó. Ý nghĩ đó làm Santy càng trở nên suy nhược.

Là “người gác cổng”, Santy có Tarciana, Luz và Jose Velasquez - Chủ tịch DNP Enterprises, ký chữ ký mẫu trên thẻ ở các ngân hàng HSBC chi nhánh Manila và đã được chuyển tiếp sang chi nhánh Hồng Kông. Cả 3 đều dễ dàng truy nhập các tài khoản. Santy bắt Luz và Tarciana phải học thuộc tất cả các tên giao dịch của ông ở ngân hàng, kể cả bí danh; các công ty của ông - giờ đã đăng ký thêm cho họ làm chủ tài khoản; và tất cả các ngân hàng ông có tài khoản. Santy cho họ danh sách các số tài khoản, mật mã ở từng ngân hàng và tất cả các giấy tờ cần thiết để họ có thể truy cập vào tài khoản.

Tình hình càng trở nên tồi tệ với Santy. Bị stress, ông uống ngày một nhiều, đến độ lá gan không còn chịu nổi. Cuối tháng 8, Tarciana nhận thấy ông bắt đầu không ngủ được và cảm giác khó ở... Santy bắt đầu bệnh nặng và hơi thở cũng trở nên gấp gáp. Ngày 13.9.1974, ông bị đổ gục và đưa vào Bệnh viện Dios Hospital ở Pasay City.

Bên giường bệnh, ông viết một bản di chúc mới dài 4 trang, tố cáo bản di chúc trước đây lập ở dinh Malacanang là do ông bị Tổng thống Marcos ép ký. Trong di chúc mới, Santy đề cập đến các tài khoản “sống” ở HSBC Hồng Kông và các tài khoản ở Citibank Manila. Ông đề cập đến 14 người được hưởng tiền, trong đó có 65 triệu USD từ Citibank Manila, 400 triệu USD từ HSBC Hồng Kông; cộng thêm 50 triệu USD và 10 triệu peso từ tài khoản của cá nhân ông ở Citybank chi nhánh San Juan, Philippines. Trong số những người được hưởng tài sản có 2 người con của ông trong cuộc hôn nhân đầu - Pedro và Rolando.

Sau 12 ngày nằm viện, con gái ông là Liza Tan quyết định đưa ông về nhà để tự chăm sóc. Cô đưa ông về nhà ở Cabanatuan City, tại đây, 4 ngày sau ông mất.

Sau khi Santy mất, gia đình Marcos nắm được tin toàn bộ tài khoản của Santy ở Citibank Manila đã lập tức bị tướng tình báo Lansdale chuyển ngay sang City Bank New York. Chính xác là làm thế nào để Lansdale chuyển được thì gia đình Marcos cũng chào thua. Chỉ có một điều biết chắc là toàn bộ tiền, vàng đã được chuyển ra khỏi Philippines trước khi Marcos kịp ra lệnh tịch thu.

Thêm một sự kỳ diệu khác nữa là, nhiều tài khoản lớn của Santy ở các ngân hàng khác, đáng chú ý có một cái ở UBS Geneva cho biết rằng 20.000 tấn vàng gửi ở đây dưới tên Santy đã bị thay đổi tên chủ sở hữu thành tướng Lansdale.

Nếu Marcos nghĩ rằng Santy một khi chết đi, ông sẽ giành được quyền kiểm soát số tài khoản thì hẳn ông đã thất vọng.

Sau khi Santy chết, Tổng thống Marcos đã trở nên người giàu nhất châu Á với số tài sản ước chừng, theo tướng John Singlaub - người nắm toàn bộ quá trình truy tìm kho báu của Santy, thì tài sản Marcos khoảng 12 tỉ USD ở thời điểm năm 1974. Các cuộc tìm kiếm kho báu vẫn tiếp tục là một ngành công nghiệp lớn ở Philippines trong suốt nhiều năm sau.

Theo Gold Warriors​
 


Top