(FULL) Bay trên tổ chim Cúc cu - Ken Kesey | Page 2 | VN-Zoom | Cộng đồng Chia Sẻ Kiến Thức Công Nghệ và Phần Mềm Máy Tính

Adblocker detected! Please consider reading this notice.

We've detected that you are using AdBlock Plus or some other adblocking software which is preventing the page from fully loading.

We don't have any banner, Flash, animation, obnoxious sound, or popup ad. We do not implement these annoying types of ads!

We need money to operate the site, and almost all of it comes from our online advertising.

Please add https://vn-z.vn to your ad blocking whitelist or disable your adblocking software.

×

(FULL) Bay trên tổ chim Cúc cu - Ken Kesey

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 20
Xếp hàng ăn trưa, tôi nhìn thấy ở phía trước một chiếc khay bay vèo trong không khí, đám mây chất dẻo màu xanh trút xuống một trận mưa sữa, đậu cô ve và xúp rau. Sefelt đổ người ra khỏi hàng trên một chân, hai tay trắng hắn vung lên, thân hình cong ưỡn và ngã người ra sau, cặp mắt trợn ngược trắng dã. Đầu hắn đập xuống sàn gạch nghe như tiếng một tầng đá ném xuống nước, và người hắn vẫn cong lên cứng đờ như một chiếc cầu nhỏ, giần giật, lắc lư. Scanlon và Fredrickson nhào đến định đỡ hắn dậy nhưng tên hộ lý cao lớn gạt họ ra, lôi từ trong túi sau ra một cái que dẹt, quấn băng dính quanh nó và nhúng vào một thứ nước nâu nhờ. Gã vạch miệng Sefelt đút vào giữa hai hàm răng, và tôi nghe tiếng chiếc que keo lắc cắc vì bị Sefelt nhai vỡ. Miệng tôi còn nếm được những mảnh thủy tinh. Cơn co giật của hắn dịu đi rồi lại mạnh lên; đạp hai gót chân xuống đất sàn nhà, hắn uốn cong người thành chiếc cầu rồi lại ngã xuống - dựng lên rồi ngã xuống chầm chậm, từ từ, tới khi mụ Y tá Trường bước vào thì người hắn đã nhũn thành một vũng nhờn nhờm màu xám.

Mụ chắp hai tay trước ngực như đang cầm một ngọn nến, nhìn phần còn lại của Sefelt đang chảy ra từ ống quần, ống tay áo. "Đây là ông Sefelt?" mụ hỏi đứa hộ lý.

"Chính ông ta," hắn vừa trả lời vừa gắng sức rút chiếc đũa ra. "Ông See-fel."

"Vậy mà ông Sefelt đây vẫn khăng khăng mình không cần uống thuốc nữa " mụ gật đầu mà lùi lại một bước vì Sefelt đã chảy ra gần đến mũi giày trắng của mụ. Ngẩng đầu nhìn các con bệnh đang tụ tập thành vòng tròn xung quanh, mụ gật đầu nhắc lại. "... không cần uống thuốc nữa " Bộ mặt mụ cùng lúc mỉm cười, chua xót, kiên nhẫn và kinh tởm – một vẻ mặt đã được luyện kỹ.

McMurphy chưa bao giờ chứng kiến cảnh này. "Ông ấy làm sao?" hắn hỏi.

Mụ nhìn vũng nước nhờn, không quay lại McMurphy. "Ông Sefelt mắc bệnh động kinh, thưa ông McMurphy. Nếu không nghe theo chỉ dẫn của bác sĩ ông ta có thể lên cơn co giật bất cứ lúc nào. Sefelt biết rõ điều này hơn ai hết. Chúng tôi đã báo trước với ông ta rằng nếu không tiếp tục uống thuốc ông có thể nguy đến nơi. Nhưng ông ta vẫn bướng bỉnh hành xử thiếu suy nghĩ."

Fredrickson lông mày dựng ngược, từ trong hàng bước ra. Hắn người gầy gò, xanh xao như thiếu máu, máu tóc màu bạch kim, lông mày bạch kim như hai đường mảnh, cằm dài, và cứ đôi lúc lại lên cơn cau có, giận dữ như Cheswick thường cố gắng thuở nào – la hét như nữ y tá, quở mắng tụi hộ lý, dọa sẽ đi khỏi bệnh viện chết giẫm này! Chúng cứ để hắn chửi bới, để hắn dứ nắm đấm, cho đến khi chúng nguôi xuống chúng mới bảo nếu ông đã nói xong, ông Fredrickson, chúng tôi sẽ làm thủ tục xuất viện cho ông ngay; rồi đi cá cược ngay trong buồng kính, xem bao lâu sau hắn sẽ sẽ gõ gõ lên mặt kính với bộ mặt ủ dột và xin mụ Y tá Trưởng tha lỗi và mong bỏ qua những gì tôi đã nói trong lúc nóng,còn mấy cái đơn từ đó thì thôi cứ cất đi, được không?

Sán đến mụ y tá Fredrickson giơ nắm đấm dọa: "À thế đấy! Thế đấy! Các người định hành quyết Seef cứ như hắn làm thế để chơi xấu các người hay sao?"

Mụ đặt bàn tay lên vai hắn vẻ dỗ dành và nắm đấm tự buông ra: "Không có gì đáng ngại, Bruce. Bạn ông sẽ qua khỏi. Chúng ta có thể thấy ông ta không chịu uống Dilantin. Tôi chỉ băn khoăn không biết ông ta đã làm gì với nó."

Mụ ta biết rõ không kém ai là Sefelt thường ngậm thuốc vào mồm sau đó đưa cho Fredeickson. Sefelt không muốn uống vì hắn cho chúng có "những tác dụng phụ giết người", còn Fredrickson lại muốn dùng những hai liều, vì hắn sợ động kinh hơn sợ chết. Mụ Y tá Trưởng biết hết, nghe giọng mụ là hiểu, nhưng nhìn kìa, mụ hiền lành, tốt bụng, thông cảm quá, ai cũng phải nghĩ là mụ chẳng biết gì chuyện của Fredrickson và Sefelt.

"Thế đấy," Fredrickson nói, nhưng hắn không thể lên cơn thịnh nộ lần nữa. "Thế đấy, bà đừng có làm ra vẻ mọi sự chỉ đơn giản là uống hay không uống. Bà biết rằng Seef rất lo ngại về ngoại hình của mình và nghĩ đám phụ nữ coi anh ta là một quái thai, và biết Seef nghĩ, vì Dilatin..."

"Tôi biết," mụ nói rồi lại sờ vào tay hắn. "Sefelt còn đổ tội cho thuốc khiến anh ta đang hói dần. Tội nghiệp ông bạn già."

"Anh ta không phải là ông già!"

"Tôi biết, Bruce, sao ông giận dữ thế? Tôi không thể hiểu điều gì giữa hai người đã khiến ông bênh vực Sefelt đến thế?"

"A, khỉ gió!" Hắn nói và dúi mạnh hai nắm đấm vào túi.

Mụ gập người phủi sạch một chỗ dưới chân rồi quỳ xuống nắn lại Sefelt cho ngay ngắn. Mụ bảo đứa hộ lý ở lại trông ông bạn già còn mụ sẽ đi gọi cáng tới và khiêng Sefelt vào phòng ngủ để hắn có thể nghỉ ngơi cho tới chiều. Khi đứng dậy mụ vỗ vào tay Fredrickson, và hắn làu bàu, "Bà biết không, tôi cũng phải uống Dilantin. Và tôi hiểu Sefelt đang gặp phải loại gì. Theo nghĩa, vì thế, và...mẹ khỉ..."

"Tôi hiểu, Bruce, rằng cả hai đang trải qua chuyện gì. Nhưng dù có vất vả thế nào đi nữa thì cũng dễ chịu hơn thế kia. Ông thấy không?"

Fredrickson nhìn theo tay mụ chỉ. Sefelt đã được sắp xếp lại giống trước kia đến một nửa, thân thể phình lên, xẹp xuống theo nhịp thở, khò khè. Chỗ đầu bị đập xuống sàn sưng vù lên, từ miệng hắn sùi ra một thứ bọt màu đỏ quanh chiếc que của tên hộ lý, tròng mắt hắn từ từ trở về chỗ và hạt nhãn dần dần hiện ra. Hai cánh tay hắn bị đóng chặt xuống nền nhà, lòng bàn tay ngửa lên phía trên, các ngón co quắp hết nắm lại mở nom giống những đứa bị đóng vào bàn chữ thập trong phòng Đột Tử, khói bốc lên từ lòng bàn tay dưới tác dụng của dòng điện. Sefelt và Fredrickson chưa bao giờ vào phòng Đột Tử. Cả hai được lắp ráp để sinh ra dòng điện riêng và tích lại ở cột sống, có thể phát động từ xa nhờ một hệ thống điều khiển có nút bấm trên cánh cửa sát buồng kính mỗi lúc chúng đi chệch lối – đang tới đoạn hay nhất của cuộc chuyện đùa tục bỗng người chúng đờ ra, cứng lại như bị chọc vào xương cùng. Đỡ phải phiền phức đưa chúng vào phòng đó.

Mụ y tá lắc nhẹ vào tay Fredrickson như đánh thức hắn và nhắc lại, "Thậm chí, nếu tính đến cả những tác dụng không tốt, chẳng lẽ ông không nghĩ rằng uống thuốc vẫn hay hơn là nằm thế này?"

Nhìn xuống sàn, Fredrickson nhướng đôi lông mày trắng làm như lần đầu tiên trông thấy hình ảnh chính mình ít nhất một lần mỗi tháng. Mụ cười và vỗ nhẹ vào tay hắn rồi bước ra, đến cửa còn ngoái lại nhìn tụi Cấp tính bằng một cái nhìn quở trách vì chúng tụ tập lại và nhòm ngó một việc như thế; khi mụ đã đi Fredrickson run lẩy bẩy cố nhếch mép cười.

"Không hiểu sao tao lại nổi nóng với bà ấy... ý tao là bà ấy có làm điều gì khiến tao phải khùng lên như thế đâu, phải không?"

Hắn không phải muốn người khác trả lời, mà đúng hơn đó là tự hiểu ra mình không thể tìm ra nguyên nhân của sự giận dữ. Hắn lại run rẩy và tìm cách chuồn khỏi đám đông. McMurphy bước ra hỏi nhỏ xem chúng đã dùng thuốc gì.

"Dilantin, thuốc chống co giật, nếu mày muốn biết."

"Nhưng không tác dụng sao?"

"Tao nghĩ là có, vẫn có nếu mày chịu uống."

"Thế việc gì phải họp chợ, cãi nhau uống hay không?"

"Nhìn đây, nếu mày quá tò mò! Đây, vì sao lại phải họp chợ," Fredrickson dùng hai ngón tay kéo môi dưới xuống, lộ ra những chiếc răng dài, trắng, cắm trên cái lợi mềm nhẽo đã mất hết máu. " Lợi đây này", hắn nói, không thả môi ra, "phị giữa gia phì dilantin. Phà mỗi lần lên cơn nghiến giăng là giụng hết (1), chưa kể..."

Có tiếng sột soạt trên sàn nhà. Tất cả quay nhìn Sefelt đang phì phò rên rỉ, gã hộ lý vừa lúc đó lôi được chiếc que cùng với hai cái răng ra khỏi miệng Sefelt.

Scanlon cầm lấy khay thức ăn rời đi và nói, "Cuộc đời khốn nạn, uống cũng chết, không uống cũng chết. Cùng đường rồi, tao nói vậy đấy."

McMurphy đáp, "Ừ, tao hiểu mày", và hắn nhìn khuôn mặt đang dần lấy lại hình dạng của Sefelt. Chính mặt hắn cũng bắt đầu nhuốm đầy nỗi kinh hoàng méo mó.

__________

1. bị rữa ra vì dilantin. Và mỗi lần lên cơn nghiến răng là rụng hết.

Sau một vài ngày không biết hỏng hóc gì, hệ thống thiết bị lại được chúng sửa lại như cũ. Thời gian biểu lại chạy đều răm rắp: sáu giờ ba mươi báo thức, bảy giờ ăn sáng, tám giờ phát tranh xếp hình cho tụi Kinh niên và bài cho tụi Cấp tính. Trong phòng kính tôi lại thấy những ngón tay màu trắng của mụ y tá lướt trên bảng điều khiển.

Đôi lúc chúng đưa tôi đi cùng tụi Cấp tính, đôi lúc thì không. Một lần chúng cho tôi theo khi tụi kia đến thư viện, tôi đi thẳng vào gian kỹ thuật, đứng ngắm đầu đề những quyển sách về điện tử mà tôi đã quen thuộc từ những năm trong trường cao đẳng; tôi nhớ, trong đó là những sơ đồ, phương trình, công thức...- những thứ vững chắc, đáng tin cậy và an toàn.

Muốn giở một cuốn ra nhưng tôi lại sợ. Tôi sợ không dám làm bất cứ chuyện gì. Tôi thấy mình đang bơi trong lớp không khí vàng bụi bặm của gian phòng, lơ lửng giữa trần và sàn. Những chồng sách đung đưa ngay trước mặt, lộn xộn, ngoằn ngoèo, mỗi cái ngả về một hướng. Một chiếc giá nghiêng sang phải, chiếc khác lại lắc sang trái. Một vài giá sách như chực đổ về phía tôi, chẳng hiểu sao không có quyển nào bị trượt ra cả. Các kệ sách thi nhau dâng lên, dâng lên đến hút tầm mắt; những chồng sách chênh vênh đóng đinh vào nhau nhờ những mảnh ván, được chống bằng những cây sào hay tựa vào thang xếp, ngổn ngang xung quanh. Nếu tôi lấy một quyển, có giời biết sẽ xảy ra thảm họa gì.

Tôi nghe có tiếng chân người bước vào, đó là tên hộ lý ở khoa tôi dẫn vợ Harding tới. Chúng vừa đi vừa chuyện trò đùa cợt với nhau.

"Dale", gã hộ lý gọi Harding đang dán mắt vào một quyển sách. "Ông nhìn xem ai đang đến thăm ông này. Tôi nói với cô ấy đang ngoài giờ viếng thăm nhưng cô ấy cứ nài tôi dẫn tới đây." Để ả lại với Harding, gã để lại một câu bí ẩn, "Em đừng quên nghe!" rồi bước ra.

Gửi cho gã một cái hôn gió, ả ngoáy mông quay lại với Harding. "Chào Dale!"

"Chào em yêu!" Harding nói nhưng đứng, không nhấc một bước nào đến chỗ vợ chỉ cách một chút. Hắn nhìn quanh đám khán giả đang theo dõi mình.

Hai đứa cao ngang nhau. Cô vợ đi giày cao gót, mang chiếc ví đầm màu đen, không xách quai mà cầm nó như cầm một quyển sách. Móng tay đỏ tươi tựa những giọt máu trên nền lớp da đen bóng loáng.

"Mack!" Harding gọi McMurphy lúc này đang ngồi ở góc phòng đằng kia đọc một cuốn sách tranh. "Nếu cậu chịu dừng những đam mê văn học lại một tí, mình sẽ giới thiệu với cậu đối bản và cũng là oan gia của mình; mình cũng muốn nói một cách tầm thường ‘phần nửa tốt hơn của mình’, nhưng rõ ràng là công thức này ám chỉ một trạng thái bình đẳng về căn bản, đúng không?

Harding cố bật lên tiếng cười, hai ngón tay ngà mảnh mai đút vào túi áo lần tìm thuốc lá, một lúc mới rút được điếu cuối cùng trong bao. Điếu thuốc rung rung khi Harding đưa nó lên miệng. Cả hắn lẫn vợ đều chưa nhúc nhích.McMurphy đứng dậy, bỏ mũ và đi lại phía chúng.Vợ Harding nhướng mày nhìn hắn và cười. "Xin chào, bà Harding," McMurphy nói.

Ả cười tươi hơn và đáp, "Em không thể chịu nổi ‘bà Harding’, ông Mack, cứ gọi em là Vera, được không?"

Cả ba cùng ngồi xuống đi văng, và Harding bắt đầu kể cho vợ nghe về McMurphy, về những lần hắn xỏ mụ y tá, và ả chỉ cười nói rằng chẳng lấy làm ngạc nhiên. Trong lúc vui chuyện, Harding hứng khởi quên khuấy mất đôi tay của mình, chúng được thể hươ lên trong không khí thành hình những bức tranh, rõ đến mức có thể thấy bằng mắt, nhảy múa theo giai điệu của giọng nói như hai vũ ba lê vận đồ trắng. Đôi tay hắn có thể trở thành bất cứ gì. Nhưng vừa kết thúc câu chuyện, Harding nhận ra là cả McMurphy lẫn vợ hắn đều đang nhìn đôi tay hắn, hắn bèn nhốt chặt chúng giữa hai đầu gối. Hắn cười, còn cô vợ nói, "Dale, bao giờ anh mới học được cách cười, chứ không phải cứ chi chí như chuột?"

Lần đầu tiên gặp nhau, McMurphy cũng nói với Harding một câu như thế; nhưng nếu lời lẽ của McMurphy có phần nào an ủi Harding thi lời lẽ của cô vợ càng làm hắn thêm lúng túng.

Ả xin thuốc lá, Harding lại đút mấy ngón tay vào túi nhưng ở đó trống rỗng. "Người ta phát cho bọn anh theo định lượng," hắn nói và so đôi vai gầy như muốn giấu đi điếu thuốc đang hút dở. "Mỗi ngày một gói. Không còn chừa lại chút nào, Vera, em yêu của anh, để đàn ông có thể lịch sự với phụ nữ."

"Ôi Dale anh không bao giờ biết đủ hay sao?"

Hắn nhìn ả và cười, hấp háy đôi mắt tinh ranh. "Em muốn hỏi theo nghĩa bóng hay nghĩa đen là chuyện thuốc lá trước mắt? Nhưng thôi, không quan trọng. Em biết rõ cả hai câu trả lời dù em lồng vào đó nghĩa nào."

"Qua lời em nói không ám chỉ gì hơn, Dale..."

"Qua lời em nói em không ám chỉ gì, em yêu, ‘qua lời em nói không ám chỉ’ là một câu thiếu chủ ngữ. McMurphy, đánh giá theo mức độ tối tăm về chữ nghĩa thì cậu và vợ mình ngang nhau. Em hiểu không, em yêu, ‘qua’ chỉ bắt đầu một trạng..."

"Thôi được, đủ rồi! Em nói theo cả hai nghĩa đấy. Anh thích em nói theo nghĩa nào cũng được. Em nói với kiểu anh không bao giờ biết đủ, chấm hết!"

"Với kiểu anh thì anh không bao giờ biết đủ, em bé bỏng rất mực thông minh của anh."

Ả nhìn Harding mất một lúc rồi quay sang McMurphy đang ngồi bên cạnh. "Còn ông, Mack? Ông có thể giải quyết được một việc đơn giản như mời phụ nữ một điếu thuốc được không?"

Bao thuốc đã nằm trên đầu gối hắn. Hắn nhìn xuống như ân hận và nói, "Tất nhiên, tôi luôn có thuốc trong người. Tại sao? Tại vì tôi hay xin, tiện lúc nào xin lúc đó, nên với một bao thuốc tôi hút được lâu hơn Harding. Anh ta chỉ hút thuốc của mình. Thế nên cô có thể hiểu là anh ta rất chóng hết..."

"Anh bạn, xin đừng biện hộ sự yếu đuối của tôi theo kiểu đó.Nó không phù hợp với phong cách của anh, cũng không tô đẹp phong cách của tôi."

"Đúng, không được đâu," cô vợ nói. "Ông chỉ cần mỗi việc là đánh cho em que diêm."

Ả nghiêng hẳn người về phía que diêm đang cháy đến mức từ đằng kia căn phòng tôi vẫn thấy bên trong cổ áo ả.

Sau đó ả kể về tụi bạn của Harding cứ suốt ngày lượn qua nhà tìm Harding khiến ả phát ngán. "Ông có biết hạng người này không, Mack?" ả nói. "Những chàng trai điển hình với mái tóc dài chải mượt và cánh tay gầy luôn vung vẩy một cách yểu điệu?" Harding hỏi có phải tụi bạn hắn chỉ muốn biết tin tức về hắn thôi không. Nhưng ả trả lời là những người đàn ông thật sự đến thăm ả còn có thứ khác để múa may ngoài đôi tay gầy.

Rồi ả đột ngột đứng dậy nói là phải đi ngay bây giờ.Bắt tay McMurphy, ả nói rằng rất hy vọng được gặp lại hắn rồi bỏ ra. McMurphy chẳng biết nói gì cả. Khi tiếng guốc bắt đầu gõ lọc cọc xuống sàn, cả bọn quay lại nhìn theo cho đến lúc ả khuất sau chỗ ngoặt cuối hành lang.

"Mày thấy thế nào?" Harding hỏi.

McMurphy giật mình. "Hai trái bầu to quá cỡ trên ngực," đó tất cả là những gì hắn nghĩ ra. "Không hề bé hơn của lão phu nhân Ratched."

"Tao không muốn mày bình về phần xác, Mack ạ, tao muốn hỏi..."

"Quỷ bắt mày đi, Harding!" – McMurphy bỗng quát lên. "Tao không biết nói gì cả! Mày muốn gì ở tao? Tao là nhà tư vấn hôn nhân chắc? Tao chỉ biết một điều: ngay từ đầu vốn dĩ đã chẳng ai vĩ đại gì cho cam, nhưng hình như trong suốt cuộc đời ai cũng làm mỗi một việc là dìm kẻ khác xuống thấp. Tao biết mày muốn gì ở tao; mày muốn tao thương cảm mày, muốn tao nói rằng vợ mày chỉ là con quỷ cái. Mẹ nó, còn mày thì đối xử với nó như là một bà hoàng đấy. Cút mẹ đi với ‘thấy thế nào’ của mày! Tao cũng đang rối lên tận cổ, còn hơi đâu xỏ mũi vào chuyện kẻ khác. Chấm dứt đi! Để tao yên, rõ chưa, mẹ khỉ!"

Rồi chụp cái mũ lên đầu, băng về góc của mình, tiếp tục với những trang sách tranh. Tụi Cấp tính há hốc mồm nhìn nhau. Sao lại quát chúng nó? Chẳng đứa nào không để hắn yên cả. Không ai yêu cầu hắn điều gì từ ngày hiểu ra là hắn quyết định sống ôn hòa vì sợ sa lầy ở đây. Cả bọn ngạc nhiên bởi cơn giận hắn trút lên Harding và không thể hiểu tại sao hắn vớ lấy quyến sách trên ghế, dựng lên ngay trước mặt – để người ta không thấy hắn hoặc để hắn không phải thấy ai.

Buổi tối sau bữa ăn, McMurphy xin lỗi Harding và nói rằng chính hắn cũng không hiểu tại sao mọi sự lại diễn ra như vậy. Harding bảo là có lẽ vì sự có mặt của vợ hắn, ả thường xuyên khiến người khác nổi sùng. McMurphy nhìn tách cà phê của mình và nói, "Tao không biết, bạn ạ. Hôm nay tao mới gặp cô ta. Vậy không phải tại cô ta, mẹ khỉ, khiến cả tuần nay tao toàn thấy những giấc mơ ớn."

"À, ông McMurphy." Harding kêu lên cố bắt chước gã bác sĩ thực tập trẻ tuổi vẫn tham dự đều các cuộc họp. "Ông phải lập tức kể cho chúng tôi về những giấc mơ đó. Đọi một tí để tôi lấy bút chì và sổ tay." Harding đang cố làm trò vui để bớt phải căng thẳng khi xin lỗi nhau. Hắn vớ lấy miếng giấy chùi miệng và chiếc thìa giả vờ viết. "Thế chính xác ông thấy gì trong những... ờ... giấc mơ đó?"

McMurphy chẳng buồn nhếch mép. "Tao không biết. Chẳng có gì cả ngoài những khuôn mặt... đúng, toàn những khuôn mặt."

Sáng hôm sau Martini đóng vai lái máy bay phản lực sau bệ điều khiển trong phòng tắm. Mấy con bạc dừng bàn poker, vừa cười vừa xem hắn trình diễn.

"I – I – I – a – o – o – u – u – m. Mặt đất gọi bầu trời, mặt đất gọi bầu trời: phát hiện mục tiêu, bốn trăm - à không- một nghìn sáu trăm, có thể là tên lửa đối phương. Tấn công lập tức! I – I – a – o – o – u – u – m."

Và quay cái đĩa kim loại, gạt tay cầm về phía trước, nghiêng người như một phi công thực thụ khi thực hiện vòng cua. Hắn vặn nút điều khiển về vị trí "max" nhưng các vòi nước sắp xếp quanh ngăn tắm hình vuông trước mặt không rỉ ra giọt nào. Phương pháp thủy liệu không còn được áp dụng nữa, nước đã bị cắt từ lâu. Những thiết bị mạ crôm sáng bóng và bệ điều khiển bằng thép chưa được sử dụng lần nào. Ngoài lớp mạ crôm chúng giống hệt như những thiết bị cách đây mười lăm năm, ở bệnh viện cũ: tia nước phun ra từ những chiếc vòi con có thể chạm tới bất kỳ phần nào của cơ thể, dưới mọi góc độ; gã kỹ thuật viên mặc áo choàng bằng chất dẻo đứng ở góc phòng sau bảng điều khiển, gạt cần, ấn nút, điều chỉnh các ống dẫn phun vào đâu, nóng hay lạnh, mạnh hay yếu: tia nước phun nhè nhẹ và êm ái trên da, rồi bỗng đau như kim chích, con bệnh bị treo lên bằng những dây đai bạt, nhăn nhúm và ướt như chuột lột, còn gã kỹ thuật viên khoái chí đùa nghịch với đồ chơi của mình.

"I – I – I – a – o – o – u – u – m – mm... Bầu trời gọi mặt đất, bầu trời gọi mặt đất: phát hiện ra tên lửa, đang lấy điểm ngắm..."

Martini cong người, ngắm lên trần nhà qua vòng tròn giữ các vòi nước. Hắn nheo một mắt và nhìn qua vòng bằng mắt kia.

"Sẵn sàng? Chuẩn bị... ngắm... bắ..."

Hắn rụt tay khỏi bệ điều khiển và đứng dậy, mái tóc bay phất phơ, cặp mắt lồi nhìn lên ngăn tắm dại đi như đang sợ hãi khiến các con bạc quay mình trên ghế, nhìn xem hắn vừa thấy gì; nhưng ngoài mấy chiếc khóa nịt treo trên chùm dây đai mới tinh giữa các vòi chẳng còn gì khác.

Martini quay lại và nhìn thẳng vào McMurphy. Hắn không nhìn ai khác. "Mày nhìn thấy chúng không? Thấy không?"

"Gì hở Mart? Tao chả thấy gì cả."

"Quấn đầy đai đấy. Thấy không?"

McMurphy quay mình nhíu mắt nhìn buồng tắm. "Không, không thấy gì."

"Đợi tí. Chúng muốn mày thấy chúng," Martini nói.

"Kệ mẹ mày, Martini, tao đã bảo không thấy ai! Hiểu không? Chả có ma nào cả!"

"Thế à," Martini nói. Hắn gật đầu và rời mắt khỏi chùm dây đai. "Tao cũng không thấy chúng. Tao đùa mày thôi."

McMurphy vỗ hai nửa cỗ bài đánh bốp. "Ra thế?... Tao không ưa những chuyện đùa kiểu này, Mart." Hắn cầm cỗ bài lên và xáo, những lá bài bay tung tóe khắp nơi như bộ bài vừa nổ tung giữa hai bàn tay run rẩy.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 21
Tôi còn nhớ lại vào ngày thứ Sáu, ba tuần sau lần biểu quyết xem tivi, tất cả những đứa còn đi lại được đều bị lùa sang Nhà số Một, danh nghĩa để X quang vùng ngực xem chúng tôi có bị lao phổi hay không, nhưng thật ra tôi biết, để chúng kiểm tra mức độ hoạt động của các thiết bị trong người mỗi đứa.

Tụi tôi ngồi ngoài hành lang, trên chiếc ghế đá dài đến tận cửa phòng có biển X quang. Cạnh đó là phòng TMH mà mùa đông chúng tôi vẫn khám họng. Một chiếc ghế khác chạy dọc theo bức tường đối diện đến tận cánh cửa sắt đáng sợ ấy. Có hàng đinh tán. Không có số cũng chẳng có tên. Trên ghế giữa hai gã hộ lý da đen có hai đứa ngồi thiu thiu ngủ, đứa thứ ba đang chữa bệnh bên trong, tôi nghe thấy tiếng kêu của hắn. Cánh cửa bật mở vào trong đánh phụp, tôi nhìn thấy những bóng đèn vô tuyến sáng vàng yếu ớt. Chúng đẩy ra một con bệnh còn đang bốc khói, tôi nắm chặt lấy thành ghế để không bị hút vào trong cửa. Hai đứa hộ lý, một đen, một trắng, dựng một con bệnh nữa từ ghế lên, hắn bước xiêu vẹo, người lảo đảo vì đã được nhồi đầy thuốc. Trước khi vào phòng, con bệnh thường uống những viên con nhộng màu đỏ. Hắn bị đẩy vào cửa và hai đứa kỹ thuật viên xốc nách hắn lên. Trong khoảnh khắc tôi thấy hắn nhận ra mình sẽ bị đưa đi đâu, hắn cố miết hai gót giầy xuống nền xi măng để khỏi bị đặt lên bàn; rồi cánh cửa đóng sập lại - phùm, tiếng kim loại đập vào lớp đệm, và tôi không nhìn thấy hắn nữa.

"Này, chúng làm gì trong đấy?" McMurphy hỏi Harding.

"Trong ấy ư? À đúng rồi, đúng quá. Mày chưa được hưởng khoái cảm đó, tiếc thật. Một kinh nghiệm làm người không ai nên bỏ lỡ." Harding đưa mấy ngón tay lên đỡ gáy, mắt nhìn vào cánh cửa. "Đó là phòng đột tử mà tao đã có lần kể cho mày, bạn thân mến ạ, LSĐ - liệu pháp gây sốc điện. Những kẻ may mắn vào đó được hưởng những chuyến du lịch lên mặt trăng mà không mất tiền. À không, suy cho cùng thì chẳng phải hoàn toàn được cho không. Thay cho tiền mày phải trả nơron thần kinh - ở mỗi bộ óc, thứ đó có dự trữ hàng tỷ. Mất mát một ít không đáng kể."

Hắn cau mày nhìn ghế đá chỉ còn lại một đứa. "Thời buổi bây giờ ít khách hàng hơn xưa, không còn chen chúc như hồi nào nữa. Nhưng c’est la vie, mốt đến rồi mốt đi. Và tao sợ chúng mình là nhân chứng cho ngày tàn của LSĐ. Bà Y tá Trưởng đáng yêu của chúng ta là một trong số rất ít người có đủ can đảm đứng ra bảo vệ truyền thống cổ điển mang tính Faulker trong công nghệ chữa tê liệt lý trí: đốt cháy bộ não."

Cửa mở. Một chiếc giường có gắn bánh xe kêu vo vo tiến ra, tự hành đến cuối hành lang thì rẽ ngoặt trên hai bánh và mất hút, nhả lại đằng sau một đám khói. McMurphy nhìn đứa cuối cùng bị hốt đi, cánh cửa đóng lại.

"Thê nghĩa là..." McMurphy lắng tai nghe "đưa con bệnh đến đây rồi phóng điện vào đầu?"

"Đó là cách miêu tả ngắn gọn điều đang xảy ra."

"Để làm khỉ gì?"

"Sao lại để làm gì? Vì lợi ích của bệnh nhân. Tất cả ở đây chỉ vì lợi ích của bệnh nhân. Mới chỉ sống ở mỗi khoa chúng ta, có thể mày sẽ đi đến kết luận rằng, bệnh viện này là một nhà máy khổng lồ có thể vận hành một cách tuyệt hảo nếu như không bị tống cho bệnh nhân, nhưng đâu phải thế. LSĐ không phải lúc nào cũng được sử dụng vào mục đích tra tấn, như bà Y tá Trưởng của chúng ta vẫn làm, và các nhân viên LSĐ cũng không phải là công cụ chủ yếu của chủ nghĩa bạo lực. LSĐ đã trả lại một số người tưởng chừng không chữa nổi, giống như giải phẫu não hay thay bạch huyết. Phương pháp sốc điện có nhiều ưu việt: rẻ, nhanh, hoàn toàn không đau. Nó chỉ gây co giật thôi."

"Cuộc sống thật kỳ lạ," Sefelt rên rỉ. "Kẻ thì phải uống thuốc để chống co giật, người thì phải gây sốc cho co giật."

Harding chồm tới chỗ McMurphy giải thích: "Họ nghĩ ra là vì thế này: hai bác sĩ thần kinh đến lò mổ, Chúa biết để làm cái trò bệnh hoạn gì, và được quan sát búa tạ nện vào trán bầy gia súc. Họ nhận thấy không phải con nào cũng chết, có vài con ngã xuống sàn nhà trong trạng thái rất giống cơn co giật của người bị chứng động kinh. ‘À, đúng rồi,’ viên bác sĩ thứ nhất nói. ‘Đó là điều chúng ta cần cho các bệnh nhân co giật chỉ đạo!’ Đồng nghiệp của ông ta dĩ nhiên là nhất trí. Ai cũng biết rằng những người hết cơn động kinh sẽ hiền lành và trật tự một thời gian dài, còn những kẻ hung hãn không thể tiếp cận được sau một cơn co giật sẽ nói chuyện tương đối tỉnh táo. Ngày đó không biết tại sao, đến giờ vẫn chưa ai biết. Nhưng rõ một điều là nếu gây được cơn sốc cho những người không mắc chứng động kinh thì có khi thu được những kết quả rất tốt. Và đấy, trước mặt chúng là một con người có khả năng thường xuyên gây sốc - bùm, bùm - một cách không hề run tay."

Scanlon bảo hắn tưởng chúng dùng búa để nện chứ không phải dùng bom, nhưng Harding bảo hắn không có thời gian để ý chuyện đó, và tiếp tục giải thích. "Lão đồ tể thì dùng búa. Và ở đây đẻ ra một vài thắc mắc cho các chuyên gia. Dù sao thì con người cũng không phải là một con bò. Ai biết được chả có lúc búa trượt và đập vỡ mũi hắn, hay choảng hết cả hàm răng? Phí tổn nha khoa giờ quá đắt, chúng sẽ thu hoạch được gì? Thành thử cần phải dùng thứ khác đáng tin cậy hơn búa. Và điện được đưa vào sử dụng."

"Khỉ gió, chúng không nghĩ là làm thế có thể gây hại thế nào ư? Mà sao công chúng không làm ầm lên vì chuyện này?"

"Hình như mày không hiểu rõ công chúng lắm thì phải. Ở nước ta mỗi khi có chuyện gì không ổn thì phương pháp nhanh nhất đưa nó trở lại bình yên sẽ là phương pháp tốt nhất."

McMurphy vò đầu. "Trời đất! Bị phóng điện vào đầu! Có khác nào phải ngồi lên ghế điện vì tội giết người?"

"Về mục đích thì hai biện pháp đó quan hệ máu mủ hơn mày tưởng: kiểu gì thì cũng là điều trị."

"Mày biểu không đau?"

"Tao lấy kinh nghiệm bản thân cam đoan điều đó. Hoàn toàn không đau đớn gì cả. Một cú sốc và mày ngất đi. Không cần kim châm hay búa tạ. Không đau chút nào. Nhưng vấn đề ở chỗ là chẳng đứa nào muốn thử lại lần hai. Mày sẽ... đổi khác đi. Mày quên nhiều thứ. Cái đó như là..." Harding ấn ngón tay lên thái dương, nhắm mắt lại, "...cái đó cũng như là ấn nút mở máy cò quay đánh tung hình ảnh, cảm xúc, ký ức. Mày đã thấy những bàn cò quay ở các quán giải trí lưu động rùi đó; gã chủ trò cầm tiền của mày rùi ấn nút. Đinh! Cái đĩa quay tít mù, ánh sáng và âm thanh các con số nhảy loạn bậy. Con số rơi vào chỗ mày có thể là con số được, cũng có thể là số thua và mày phải chơi lại từ đầu. Xì ra mấy xu quay lại lần nữa, xì ra, con ạ!"

"Bình tĩnh, Harding."

Cửa mở và cái giường đẩy có người nằm phủ tấm vải trắng lăn ra, tụi kỹ thuật viên bỏ đi uống cà phê. McMurphy vuốt tóc nói, "Tao chịu không hiểu nổi những thứ này."

"Thứ nào? Chữa bệnh bằng sốc điện?"

"Ừ. Mà không. Không chỉ cái đó. Mà tất cả," hắn khoa tay một vòng. "Tất cả những gì xảy ra ở đây."

Harding đặt tay lên đầu gối McMurphy. Bạn ơi, hãy để cho cái đầu óc mệt mỏi của bạn được nghỉ ngơi. Chín mươi phần trăm mày không phải qua phòng sốc. Nó đã hết mốt, chỉ được sử dụng trong trường hợp tối cần thiết thôi, khi không còn cách giả quyết nào nữa, như giải phẫu óc ấy."

"Lại còn giả phẫu óc, nghĩa là người ta cắt đi một phần não?"

"Hoàn toàn đúng. Mày sắp thành chuyên gia về thuật ngữ rồi. Đúng đấy – cắt một phần não, thiến bỏ thùy trán. Vì không thể hoạn mắt phần dưới rốn của mày, bà ta sẽ cắt phần trên."

"Mày đang nói về Ratched."

"Hoàn toàn đúng."

"Tao đâu biết bà ta có quyền quyết định điều đó."

"Chính bà ta."

McMurphy làm ra vẻ vui vì đã lái câu chuyện từ giải phẫu óc và sốc điện sang mụ y tá. Hắn hỏi vì sao Harding lại nghĩ mụ độc ác vậy. Mỗi đứa đưa ra một ý kiến về chuyện này. Cả bọn tranh cãi xem mụ có phải là cội nguồn của mọi khổ ải không, và Harding nói rằng phần lớn những khổ ải ở đây là do mụ gây ra. Hầu như cả bọn đồng ý với hắn, nhưng McMurphy không còn tin như vậy nữa. Hắn bảo trước đây hắn đã từng nghĩ thế nhưng bây giờ thì hắn không biết. Hắn không cho rằng loại bỏ mụ thì nhiều điều sẽ đổi thay; đằng sau cái cảnh lộn xộn này còn có một thế lực nào đó to lớn hơn, mạnh mẽ hơn, và hắn cố tình tìm ra cách diễn đạt xem mình nghĩ đó là cái gì nhưng không ra. Thế là hắn thôi không nói tiếp nữa.

McMurphy không biết, nhưng đã bắt đầu linh cảm thấy điều tôi đã rõ từ lâu: sức mạnh chính đâu phải nằm ở một mình mụ y tá mà là ở Liên hợp, một tổ chức trải rộng trên toàn đất nước, mụ chỉ là viên chức quan trọng ở đó mà thôi.

Tụi còn lại không tán thành với McMurphy. Chúng bảo là chúng biết rõ tai họa từ đâu tới, và sau đó chúng bắt đầu cãi lộn với nhau. Cuộc cãi lộn sẽ không chấm dứt nếu McMurphy không chen vào.

"Ớn lắm," hắn nói. "Rác cả tai vì nghe tụi bay ca cẩm. Tụi bay kêu ra rả, kêu ca hộ lý, kêu ca cả bệnh viện, Scanlon muốn làm nổ tung cả tòa nhà, Sefelt thì đổ tại thuốc, Fredrickson thì đổ tại những trục trặc trong nội bộ gia đình. Tụi bay đứa nào cũng chỉ tìm cớ để thở than."

Hắn nói mụ y tá đơn thuần chỉ là một mụ già độc ác vô lương tâm và thật vô ích khi chúng muốn đẩy hắn đối đầu với mụ; đó chỉ là chuyện trẻ con, chẳng mang lại điều gì tốt đẹp cả, nhất là cho hắn. Thoát khỏi mụ thì dễ, nhưng còn tác nhân đang ẩn náu đằng sau, nơi sinh ra mọi khổ nhục thì không thoát nổi.
"Mày nghĩ thế?" Harding hỏi. "Vậy thì nếu mày đột ngột hiểu cặn kẽ về vấn đề thần kinh đến mức đó, thử nói xem đâu là nguồn gốc của sự bất hạnh? ‘Tác nhân còn ẩn náu’ theo cách nói bóng bẩy của mày là gì?"

"Tao không biết, mày hiểu không. Và cũng chưa thấy gì lớn cỡ đó cả." Hắn ngồi im một lúc, lắng nghe tiếng rú từ buồng X quang, rồi tiếp, "Nhưng theo tụi bay, tất cả chỉ tại mẹ già Y tá Trưởng và những phiền toái giới tính của bà ta thì hãy vật mẹ nó bà ta xuống và giải quyết các phiền toái ấy đi. Thế là xong, bà ta sẽ không làm khổ tụi bay nữa."

Scanlon vỗ tay, "Mẹ khỉ. Chính thế. Mày được ủy quyền làm việc đó, Mack, chỉ có mày là xứng đáng thôi."

"Quên tao đi. Không đời nào. Tụi bay chọn nhầm rồi."

"Tại sao lại nhầm? Tao nghĩ mày là con ngựa đực tốt giống giỏi xáp lá cà."

"Người anh em, tao đang tính chuyện tránh con diều hâu cái già nua đó càng xa càng tốt."

"Tao biết rồi, tao biết rồi," Harding cười nói, "chuyện gì đã xảy ra giữa hai người thế? Đã một thời mày siết thòng lọng, giờ lại nới ra. Phải chăng đó là nỗi xót thương bất ngờ đối với nữ thần hảo tâm của chúng ta?"

"Không, tao đã hiểu ra vài chuyện, thế thôi. Sau khi thăm dò nhiều nơi. Tao hiểu tại sao tụi bay bợ đỡ, van lạy bà ta, phải lê gót hay phủ phục dưới chân cho bà ta giẫm lên. Tao đã mở mắt thấy tại sao tụi bay sử dụng tao để chống bà ta."

"Mày nói gì? Thật thú vị."

"Ờ thú vị lắm. Tao thấy thú vị vì chúng mày, những thằng ăn bám lại không nói cho tao biết là tao đang mạo hiểm cái gì khi chọc tức bà ta. Tao không yêu quý bà ta không có nghĩa là tao muốn dụ bà ta bắt mình cầm tù thêm một năm hai năm. Đôi lúc phải biết giấu lòng tự ái vào túi quần và nhìn xem cái phòng số Một chứ?"

"Ồ các bạn, chúng mày không nghĩ rằng có cơ sở cho những tin đồn là McMurphy chấp nhận trật tự ở đây đơn thuần chỉ để mau chóng được xuất viện?"

"Harding, mày hiểu tao nói gì. Tại sao chúng mày không bảo trước là bà ta có thể giữ tao lại đây cho tới khi hiền từ mà buông tao ra?"

"Tao đã quên là mày bị gửi tới đây, có thế thôi," mặt Harding méo xệch giữa nụ cười. "Thế đấy. Mày đang trở thành một đứa ranh ma. Như tất cả chúng tao."

"Tao sẽ thành ra thế, tụi bay không cần nghi ngờ điều đó. Tại sao chính là tao phải đứng ra che chở khi tụi bay rên rỉ nào là thuốc lá bị thu, nào là phòng ngủ bị khóa? Thoạt tiên tao không thể hiểu tại sao chúng mày cứ tìm đến tao như một vị cứu tinh. Sau đó tình cờ tao mới biết việc cho đứa nào ra hoàn toàn phụ thuộc vào bà Y tá Trưởng. Và tao hiểu ra lòng dạ tụi bay nhanh chóng ra phết. Tao tự nhủ, ‘ồ, tụi bạn nham hiểm đã mua mình như một con ngựa thồ để chất lên lưng gánh nặng của chúng, bạn già R.P.McMurphy đã bị mắc lừa.’ " Hắn hơi ngả đầu ra sau và cười cợt với hết lượt chúng tôi. "Hiểu cho tao, tao không nghĩ là do lỗi tụi bay, nhưng quên mẹ chuyện ấy đi. Tao cũng muốn rời khỏi đây như bất cứ ai. Cãi lộn với con diều hâu già ấy thì tao cũng thiệt thòi y như tụi bay."

Hắn cười, nheo mắt, thúc ngón tay cái vào sườn Harding, cứ như thế là giải quyết xong mọi chuyện mà không buồn bực gì, nhưng Harding liền nói với hắn:

"Không, bạn ạ, dây với mụ cậu thiệt thòi hơn bọn tớ nhiều."

Harding lại toét miệng cười, liếc xéo sang McMurphy như một con ngựa cái đang giậm giật, đầu hơi cúi xuống rồi lại hất lên. Cả bọn lùi xuống một ghế. Martini rời máy chiếu X quang, vừa mặc áo vừa làu bàu, "Không thể tin được nếu không tận mắt nhìn thấy," và Billy Bibbit thế vào chỗ nó sau tấm kính đen.

"Mày thiệt thòi hơn tao," Harding nhắc lại. "Tao ở đây tự nguyện, không phải là bị gửi vào."

McMurphy lặng thinh. Vẻ mặt hắn lại như những lần trước, đầy phân vân như có gì đó bất thường, mà hắn không tài nào xác định được. Hắn cứ ngồi đó nhìn trân trân vào Harding, làm nụ cười nghịch ngợm trên môi Harding biến mất, và thằng kia cựa quậy như ngồi trên đống lửa vì McMurphy cứ nhìn hắn bằng đôi mắt quá lạ lẫm. Harding nuốt nước bọt nói: "Thực ra trong phân khoa chỉ có vài người bị gửi đến chữa bệnh. Chỉ có Scanlon và... ờ, tao nghĩ vài đứa Kinh niên nào đó. Và mày. Cả bệnh viện chỉ có vài thằng ở trên gửi đến. Không nhiều."

Hắn đứng lại, giọng yếu đi dưới cái nhìn của McMurphy. Im lặng một giây, McMurphy hỏi khẽ, "Mày nói láo phải không?" Harding lắc đầu. Trông hắn chết khiếp. McMurphy đứng dậy hỏi oang oang cả hành lang. "Tụi bay nói láo phải không?"

Không đứa nào có ý định trả lời. Hắn đi đi lại lại dọc theo hàng ghế, thọc tay vào mớ tóc rối tung. Hắn đi tuốt đến đầu kia, rồi lại tuốt đến đầu này, đến trước chiếc máy chiếu X quang. Chiếc máy rít và nhổ phì phì vào hắn.

"Billy... mày chắc chắn bị ép tới đây, mẹ khỉ!"

Billy đang đứng quay lưng lại chúng tôi, chân kiễng lên, cằm áp vào màn chiếu. Không, nó nói với cái máy.

"Thế mày tới đây để làm gì? Làm gì?Mày còn trẻ! Có thể lái xe mui trần vi vu chim gái. Còn những thứ này..." hắn khoa tay xung quanh, "mang lại cho mày cái gì?"

Billy không trả lời, McMurphy quay sang những đứa khác.

Tụi bay nói coi, để làm gì? Than thở, rên rỉ suốt hàng tuần liền rằng không thể chịu nổi chỗ này, không chịu nổi mụ Y tá Trưởng và những việc làm dơ dáy của mụ ta. Hóa ra chả ai giữ tụi bay lại đây cả. Với mấy lão già thì tao còn hiểu. Họ là một đám khùng. Nhưng còn tụi bay, tụi bay không hẳn là những thằng bình thường nhất quả đất, nhưng tụi bay đâu có khùng."

Không đứa nào cãi lại hắn. Hắn sán lại Sefelt.

"Sefelt, còn mày thì sao? Không có gì ngoài tật động kinh, mẹ khỉ! Cậu tao cũng bị chứng co giật hành hạ tới mức mày mơ không thấy và đến lúc lên cơn thì toàn nhìn thấy quỷ hiện hình, nhưng ông đâu thèm nhốt mình trong nhà thương điên. Mày vẫn có thể sống bên ngoài nếu đủ can đảm..."

"Tất nhiên!" Đó là Billy, quay lại khỏi máy chiếu mặt đầy nước mắt. "Tất nhiên!" Hắn lại la lên. "Nếu bọn tao đủ c... can đảm! Tao có thể ra viện ng... ngay hôm nay nếu đủ can đảm. M... m... mẹ tao và bà Ratched là bạn cũ của nhau, người ta có thể ký giấy xuất viện cho tao trước bữa cơm nếu tao đủ can đảm!"

Billy vớ lấy chiếc áo sơ mi trên ghế, cố mặc vào nhưng hai tay run rẩy. Cuối cùn hắn ném chiếc áo đi và lại quay về phía McMurphy:

"Mày nghĩ là tao muốn ở... ở... ở lại đây! Mày nghĩ là tao muốn lái xe v... v... vi vu ch... ch... chim gái?

Nhưng mày đã bao giờ bị người ta giễu cợt chưa? Chưa, vì mày khỏe mạnh và không ngán thằng nào! Còn tao, tao không khỏe mạnh và thằng nào tao cũng ngán. Và Harding cũng thế. Và F... F... Fredrickson. Và Se... Sefelt. Mày nói nh... như thể bọn tao thèm được s... sô... sống ở đây! Vô... vô ích..."

Billy òa khóc, lưỡi líu lại đến nỗi không nói được nữa, gã đưa tay chùi nước mắt để nhìn được rõ. Cái vẩy kết ở mu bàn tay bật ra, Billy càng chùi thì máu càng chảy ra đầy mặt và trong mắt. Rồi gã bưng mắt loạng choạng lao ra hành lang, hết va vào bức tường bên này lại đập vào bức tường bên kia, gã hộ lý đuổi theo sát gót.

McMurphy nhìn tụi còn lại, há miệng như muốn hỏi gì nữa, nhưng lại ngậm miệng khi thấy chúng nhìn mình ra sao. Hắn đứng đó cả phút trước một hàng đinh tán trông như một chuỗi những con mắt dương dương, rồi bật thốt lên: "Mẹ kiếp!" một cách yếu ớt, và cầm lấy mũ kéo sụp xuống đầu, ngồi vào chỗ của mình trên ghế. Hai gã kỹ thuật viên uống cà phê xong đang quay lại, đi vào phòng đối diện; khi cánh cửa mở phụp một cái, mùi axít như mùi từ chiếc bình ắc quy đang nạp xông ra. McMurphy ngồi đó nhìn cánh cửa.

"Tao nghĩ là tao không thể hiểu nổi..."
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 22
Trên đường về hắn lê bước sau cùng, đút tay vào túi áo khoác xanh, kéo sụp mũ xuống tận mũi, mặt cau có, miệng ngậm điếu thuốc đã tắt. Cả bọn bước đi trong im lặng. Tụi hộ lý đã dụ dỗ được Billy Bibbit, hắn đi đầu hàng giữa gã da đen khoa tôi và đứa da trắng của phòng Đột Tử.

Tôi cố đi chầm chậm tới khi ngang với McMurphy và muốn nói cho hắn đừng lo âu, đằng nào cũng chẳng làm gì được, bởi tôi nhận thấy hắn đang bị giày vò bởi một ý nghĩ nào đấy và đang phân vân như con chó đứng trước cửa hang khi không biết trong hang có con gì, có một giọng nói: Chó ơi, hang này không phải là việc của mày – hang sâu lắm, tối lắm, và dấu chân xung quanh là dấu chân gấu đấy! Và một giọng khác như lời nhắc thầm đanh thép của giống nòi, không khôn ngoan cũng chẳng ranh ma: Lao vào đi, chó ơi, tấn công đi!

Tôi muốn bảo McMurphy đừng lo nghĩ nữa, và đã suýt mở miệng nói ra thì hắn đã ngẩng đầu, kéo chiếc mũ ra đằng sau gáy, dấn lên đuổi theo gã hộ lý bé con và vỗ vai gã hỏi, "Sam, tao cần mua thêm cây thuốc, chúng ta dừng lại căng tin tí được không nhỉ?"

Tôi buộc phải chạy đuổi theo hắn, và trống ngực đập dồn tạo thành một tiếng reo chói lói và kích động bên trong óc. Vào đến nhà ăn, khi tim đã chậm lại như thường, cái tiếng ấy vẫn còn reo tiếp. Tiếng ấy nhắc tôi nhớ lại cảm giác của mình vào những đêm thu se lạnh mỗi thứ Sáu hàng tuần khi tôi và đồng đội đứng giữa sân bong bầu dục chờ tiếng còi khai mạc trận đấu. Trong đầu tôi tiếng reo mỗi lúc một cao hơn cho tới khi tôi hồi hộp tưởng chừng không đứng vững trên đôi chân của mình nữa, là bong sẽ được giao, tiếng tim đập liền tắt ngấm, trận đấu bắt đầu. Cũng như những đêm thứ Sáu ấy, giờ đây tôi sốt ruột đến không thể đứng yên một chỗ. Và cả mắt tôi cũng nhìn được sắc bén và chói lóe – như trước mỗi trận bóng hay như trong đêm mới đây bên cửa sổ phòng ngủ: mọi vật đều rõ và sắc và rắn chắc và tôi nhận ra mình đã quên chúng từng như thế. Hàng dãy những tuýp thuốc đánh răng, những chiếc kính râm xếp ngay ngắn thành hàng, những chiếc bút bi tự nhận sẽ viết được suốt đời dưới nước trên mặt bơ, tất cả nằm dưới con mắt to tướng trông chừng nghiêm ngặt của một đội gấu bông trên chiếc giá phía trên quầy hàng.

McMurphy tay đút túi quần, khuỳnh khoàng đến căng tin bên cạnh tôi và hỏi mua hai cây Marlboro. "Cho tôi ba cây đi?" Hắn cười với cô bán hàng. "Tôi tính sẽ hút kha khá."

Tiếng reo trong đầu tôi không dừng lại đến tận lúc cuộc họp bắt đầu. Tôi nghe câu được câu chăng tiếng họ đang lục vấn Sefelt, bắt hắn tường trình về những khúc mắc của mình để người ta có thể chữa chạy cho hắn ("Tất cả tại Dilantin!" cuối cùng hắn kêu lên. "Ông Sefelt, nếu muốn các thầy thuốc giúp đỡ, ông hãy thành thực," mụ đáp. "Nhưng không phải Dilantin thì còn là cái gì nữa chứ. Chính Dilantin đã làm cho lợi tôi bị mục ra đấy thôi." Mụ cười, "Jim, ông đã bốn mươi lăm tuổi..." thì bất chợt nhìn sang McMurphy. Hắn không nghịch cỗ bài, không ngủ gật sau tờ tạp chí như những lần họp trước từ hai tuần nay. Và hắn cũng không ngồi vo tròn trong ghế. Hắn đang ngồi thẳng đứng, vẻ mặt nóng bừng kích động, đưa mắt hết nhìn mụ y tá lại nhìn Sefelt. Tôi càng nhìn hắn, tiếng reo trong đầu càng vút cao. Đôi mắt hắn vạch ra hai vạch xanh dưới hàng lông mày trắng, lia đi lia lại như thể hắn đang ngồi sau bàn poker khi các lá bài đã được lật lên. Tôi cảm giác là chỉ một phút nữa thôi hắn sẽ làm một điều man rợ và chắc chắn sẽ bị gô cổ lại, tống lên khoa điên. Trước lúc lăn xả vào tụi hộ lý, tôi đã thấy nhiều đứa có vẻ mặt này. Tôi nắm chắc lấy tay vịn của chiếc ghế bành và chờ, khiếp sợ nghĩ đến sự bùng nổ của hắn, đồng thời, tôi bắt đầu nhận ra, cũng khiếp sợ sẽ không có gì xảy ra.

Hắn vẫn ngồi im lặng, quan sát tới khi kết thúc cảnh Sefelt bị tra hỏi, rồi quay nửa vòng trên ghế, hắn nhìn sang Fredrickson đang tìm cách bật lại cả mụ y tá lẫn tụi hộ lý vì chúng đã đưa bạn hắn ra trước mặt mọi người mà mổ xẻ, ầm ĩ thêm vài phút về chuyện thuốc lá vẫn nằm trong buồng kính. Fredrickson nói đến hụt hơi rồi đỏ mặt, ấp úng xin lỗi như thường lệ và ngồi xuống. Chưa thấy McMurphy động tĩnh gì. Tôi bỏ tay ra không nắm ghế nữa và bắt đầu nghĩ mình đã nhầm.

Chỉ ít phút nữa là cuộc họp kết thúc. Mụ y tá thu dọn giấy tờ cho vào giỏ, đặt xuống sàn nhà rồi đánh mắt sang McMurphy mất một giây như kiểm tra xem hắn có ngủ gật hay không, có lắng nghe hay không. Mụ đặt hai bàn tay lên đầu gối, nhìn vào những ngón tay rồi hít một hơi rất sâu và lắc đầu:

"Các chàng trai, tôi đã nghiền ngẫm rất lâu điều sắp nói ra. Tôi đã thảo luận với bác sĩ và tất cả nhân viên, và tất cả chúng tôi đều rất buồn khi phải đi đến kết luận chung, là cần đưa ra một hình phạt vì những hành vi không thể tha thứ được trong chuyện dọn dẹp vệ sinh ba tuần trước đây." Mụ giơ tay lên và nhìn quanh. "Chúng tôi đã để đến hôm nay mới nói, là vì chờ đợi các anh rồi sẽ bộc lộ sự hối cải về những hành động phá hoại mình phạm phải. Tiếc rằng không một ai đã tỏ ra nhận thấy mình có lỗi."

Mụ lại giơ tay để không đứa nào phá ngang, trông động tác như một mụ bói bài trong chòi kính.

"Các anh hiểu cho, những nguyên tắc hạn chế mà chúng tôi đưa ra đều đã trải qua suy xét kỹ lưỡng nhằm vào mục đích điều trị bệnh nhân. Phần đông các anh phải vào đây chỉ vì các anh không có khả năng thích ứng với luật lệ của thế giới Bên ngoài; các anh đã không chấp nhận chúng, cố tình bỏ qua chúng. Ngày xưa, có lẽ từ bé, người ta đã cho phép các anh phá luật mà không trừng trị. Mỗi khi vi phạm nguyên tắc, tất nhiên các anh nhận ra tội lỗi của mình. Các anh muốn bị trừng phạt, các anh cần được thế, nhưng không nhận được. Sự chiều chuộng quá đáng của bố mẹ có lẽ đã là một thứ vi trùng gây ra căn bệnh ngày nay của các anh. Tôi nói để các anh hiểu: trật tự, kỷ luật được duy trì chỉ nhằm mục đích muốn tốt cho các anh."

Mụ lắc đầu một vòng quanh phòng. Vẻ xót xa về việc đang phải làm được triệu lên nét mặt. Căn phòng hoàn toàn im lặng, chỉ có tiếng reo bừng bừng như mê sảng trong đầu tôi.

"Trong điều kiện của chúng ta, thật khó giữ nghiêm được kỷ luật. Chắc các anh hiểu điều đó. Chúng tôi có thể làm gì với các anh? Bắt giam ư? Cắt khẩu phần ăn ư? Đối với người thầy thuốc, việc trừng phạt không đơn giản tí nào. Chúng tôi có thể làm gì được?"
Ruckly có ý kiến họ có thể làm gì nhưng mụ y tá không chú ý. Khuôn mặt mụ xáo động trong tiếng kêu lách tách đến khi các nét mặt sắp xếp thành vẻ khác. Mụ tự trả lời câu hỏi của mình.

"Chúng tôi chỉ có thể tước đi một đặc quyền. Khi đã nghiên cứu kỹ lưỡng bối cảnh của vụ rắc rối này, chúng tôi kết luận sẽ đạt được ít nhiều công lý nếu tước đi đặc quyền dành phòng tắm vẫn để các anh chơi bài trong ngày. Có ai phản đối và thấy là bất công hay không?"

Mụ không quay đầu. Cũng chẳng đưa mắt. Nhưng các con bệnh lần lượt từng đứa lại nhìn vào góc nơi hắn đang ngồi. Đến mấy lão già Kinh niên, không hiểu gì nhưng thấy mọi con mắt đều đổ dồn về một hướng, cũng vươn những cái cổ dài, khẳng khiu như cổ chim ngó sang hắn – những khuôn mặt quay cả về phía McMurphy, một niềm hy vọng trần trụi và khiếp hãi.

Cái âm thanh cao vút rền rĩ trong đầu tôi nghe như tiếng bánh xe xiết trên mặt đường.

Hắn ngồi thẳng người ra trong chiếc ghế, ngón tay cái đỏ au lười biếng mân mê cái sẹo trên mũi. Hắn cười với những đứa nhìn mình rồi khẽ cầm lấy vành mũ, và lịch sự nghiêng nó sang một bên, rồi nhìn sang mụ y tá.

"Thế thôi, nếu không còn phải bàn cãi về quyết định vừa rồi thì cuộc họp đến đây là hết..."

Mụ ngưng lại, tự mình cũng nhìn McMurphy. Hắn nhún vai rồi thở hắt ra, đập đánh bốp cả hai tay lên đầu gối rồi rùn người đứng dậy. Hắn vươn vai ngáp và lại gãi mũi, sải chân bước ngang qua phòng về phía mụ ta đang ngồi cạnh chòi kính, đôi ngón cái xọc vào quần. Tôi có thể thấy dù hắn có mưu mô làm một việc rồ dại đến đâu đi nữa thì cản hắn lại cũng đã muộn, và tôi chỉ ngồi ngó, cũng như những đứa khác. Hắn sải những bước dài, dài quá mức, và hai ngón tay lại nhét vào túi. Gót giày đóng cá sắt nên xuống sàn gạch đến tóe lửa. Hắn lại hiện nguyên hình là tay thợ rừng, tay chơi khệnh khạng, trang nam nhiIrelandtóc đỏ ngang tang, cao bồi màn bạc đi giữa đường phố đến điểm hẹn với kẻ thù.

Mặt mụ trắng bệch ra, đảo đi đảo lại. Mụ đâu tính đến hắn sẽ hành động gì. Đây lẽ ra là trận thắng tuyệt đối của mụ, thiết lập uy quyền lần này và mãi mãi. Nhưng kia, hắn đang đi đến, lớn bằng cái nhà!

Mụ há miệng, lắc đầu tìm tụi đen, sợ tưởng chết, nhưng hắn đã dừng lại khi chưa đến sát mụ. Hắn đứng trước cửa sổ và kéo dài giọng chậm và trầm chưa từng thấy nói hắn nghĩ mình có thể hút vài điếu vừa mua sang nay, rồi dộng tay vào tấm kính.

Tấm kính nát vụn ra như nước xối, mụ y tá đưa cả hai tay bịt tai. Hắn cầm một cây thuốc có tên mình, móc ra một gói rồi đặt vào chỗ cũ, quay sang mụ đang ngồi như bức tượng thạch cao và nhẹ nhàng phủi những mảnh kính vỡ trên mũ, trên vai áo mụ.

"Một nghìn lần xin lỗi thưa bà," hắn nói. "Một vạn lần xin lỗi. Tấm kính sạch bong đến mức tôi không nhận ra."

Sự việc chỉ diễn ra trong vài giây. Hắn bỏ mụ lại đó mặt run giật liên hồi, đi ngược lại ngang phòng về chỗ của minh, ngồi xuống châm điếu thuốc.

Tiếng reo trong đầu tôi đã ngừng.i
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 23
Sau lần đó, McMurphy làm chủ được tình thế khá lâu. Mụ y tá đang chịu đựng trong lúc tìm cách lấy lại quyền lực. Mụ biế́t là vòng một đã bị phơi áo và vòng hai cũng đang bị dẫn điểm, nhưng mụ không vội. Điều cốt yếu nhất là quyết định xuất viện cho hắn thì mụ không có ý định làm; cuộc đọ sức này có thể kéo dài bao nhiêu cũng được, chừng nào hắn chưa phạm sai lầm, chưa đầu hàng, hay mụ chưa tìm ra chiến thuật mới để giành lại ưu thế đã mất.

Trong lúc mụ mày mò với chiến thuật của mình thì nhiều sự kiện đã xảy ra. Sau thời gian có thể tạm gọi là lùi vào hậu trường nghỉ ngơi và McMurphy lại bước ra, tuyên bố sự quay lại võ đài của mình bằng việc đập vỡ kính, cuộc sống trong khoa sinh động hẳn lên. McMurphy tham gia vào mọi cuộc họp, mọi cuộc tranh luận, kéo dài giọng nói, nháy mắt, đùa cợt thả cửa, cố gây cho được một tiếng cười héo hon ở tụi Cấp tính, kể cả những gã đã khiếp nhược tới độ không dám nhếch mép từ năm mười hai tuổi. Hắn lôi kéo đủ người cho một đội bóng rổ và tìm được cách thuyết phục gã bác sĩ để mình lấy một quả bóng ở cung thể thao cho tụi Cấp tính tập chơi. Mụ y tá phản đối, mụ bảo ngày mai chúng sẽ đá bóng ở ngay trong phòng chung hay chơi polo ngoài hành lang, nhưng lần này bác sĩ không chịu nhường và bảo cứ để họ chơi. "Bà Ratched, từ ngày có đội bóng rổ, nhiều bệnh nhân có tiến triển hơn. Tôi cho rằng môn thể thao này đã chứng tỏ giá trị về mặt trị liệu."

Mụ nhìn gã kinh ngạc hồi lâu. À, gã cũng muốn biểu dương sức mạnh với mụ đây. Mụ sẽ nhớ lấy giọng điệu này và sẽ có ngày gã biết tay mụ. Nhưng lúc này mụ chỉ gật đầu rồi quay về buồng kính với những núm điều khiển của mình. Đám lao công đã đặt một miếng các tông thay vào ô kính vỡ trong lúc chưa cắt được mảnh cửa kính nào vừa cỡ, và ngày nào mụ cũng ngồi đó cứ như nó không hễ làm vướng tâm mắt của mụ, như mụ dễ dàng nhìn xuyên qua nó và vẫn thấy rõ cả phòng chung. Đằng sau tấm các tông hình chữ nhật mụ y tá trông như một bức tranh quay mặt vào tường.

Mụ chờ đợi và im lặng, còn McMurphy sáng sáng vẫn mặc quần đùi với những chú cá voi màu trắng lông nhông ngoài hành lang, tung đồng xu trong phòng ngủ hay ngậm chiế́c còi trọng tài mạ kền dạy cho tụi Cấp tính thực hiện những đường phản công dài từ của phòng ngủ đầu này đến tận của Buồng Cách ly đầu kia hành lang, những cú sút như những phát đạn đại bác bắn quả bóng đi khắp hành lang trong khi McMurphy với phong cách chỉ huy của một viên hạ sĩ hét vang: "Giữ nguyên cường độ, nào, các vận động viện, giữ nguyên cường độ!"

Cả hai nói năng với nhau nhã nhặn không để đâu cho hết. Hắn rất lịch sự hỏi mụ rằng có thể mạn phép mượn chiếc bút của mụ thảo lá đơn xin đi nghỉ không có người kèm được chăng, rồi viết trên bàn ngày trước mặt mụ, rồi trả lại chiếc bút, đưa luôn lá đơn và nói nhẹ nhàng: "Rất cảm ơn", rồi mụ xem qua và cũng nhã nhặn hứa sẽ "bàn với các nhân viên", một việc mất khoảng ba phút, rồi mụ quay về và nói với hắn rằng, rất tiếc nghỉ vào thời gian này không được coi là có giá trị trị liệu. Hắn cảm ơn mụ và đi ra, thổi chiếc còi ré lên tưởng làm nứt cả cửa kính mười dặm quanh đó: "Tập đi, tập đi, các chàng trai ẻo lả, vận động lên!"

Hắn điều trị trong khoa đã một tháng và có quyền ghi tên, đăng ký đi nghỉ có người kèm lên bảng thông báo treo ở hành lang để cuộc họp tiế́p đó sẽ quyết định được đi hay không. Hắn đứng trước bảng thông báo, tay cầm chiếc bút của mụ y tá, tiếp theo dòng NGƯỜI ĐI KÈM, hắn ghi: "Một cô nương ởPortlandtên Candy Starr" và làm gãy ngòi bút ở dấu chấm cuối cùng. Sau đó vài hôm, đúng vào ngày người ta thay cho Y tá Trưởng tấm kính mới, vấn đề đi nghỉ của McMurphy mới được đem ra thảo luận, và sau khi bị từ chối bởi lý do với tư cách người đi kèm, chắc gì cô Stan đã có thể gây ảnh hưởng tốt đến bệnh nhân, McMurphy nhún vai nói đời là thế đấy, rồi đứng dậy đi về buồng trực và lại thụi vỡ tấm kính còn nguyên nhãn ghi tên hãng sản xuất, và trong khi máu còn đang chảy ra từ các ngón tay; hắn giải thích cho mụ là tấm các tông đã bị tháo đi và hắn ngỡ đó là một khung cửa trống. "Chúng kịp lắp tấm kính khốn nạn này vào từ bao giờ thế nhỉ? Đây quả là một trò nguy hiểm."

Mụ y tá ngồi trong hộp kính dùng băng dính băng bó cho McMurphy trong khi Scanlon và Harding moi từ thùng rác ra tấm bìa các tông, lắp lại vào khung bằng chính cuộn băng dính đang dùng dán lên ngón tay và cổ tay McMurphy. McMurphy ngồi trên ghế đẩu, mặt nhăn nhó trong lúc vế́t thương đang được chăm sóc, nhưng qua đầu mụ y tá vẫn nháy mắt đùa nghịch với chúng. Gương mặt mụ điềm tĩnh, cứng đờ như được tráng men, tuy nhiên vẻ căng thẳng vẫn cứ lộ. Cứ nhìn động tác siết chặt miếng băng hết mức có thể thì rõ sức chịu đựng, độ lì lợm của mụ không còn nguyên vẹn.

Chúng tôi tập trung ở phòng thể thao để xem trận đấu giao hữu giữa đội bệnh nhân - Harding, Billy Bibbit, Scanlon, Fredrickson, Martini và McMurphy (máu đã cầm, hắn có thể ra sân được) - và đội nhân viên. Hai đứa hộ lý đa đen cao lớn của khoa tôi chơi cho đội nhân viên. Chúng tỏ ra là những cầu thủ xuất sắc nhất trên sân, cả hai đứa lên tham gia tấn công rồi lùi về phòng ngự nhịp nhàng như đôi bóng gắn thân thể đỏ, ghi hết bàn này đến bàn khác chính xác như những cỗ máy. Đội nhà, ngoài McMurphy toàn những đứa nhỏ con, yếu đuối và chậm chạp, còn Martini luôn chuyền bóng cho những người mà ngoài hắn ra chẳng ai thấy cả, để cuối cùng đội nhân viên thắng đậm, dẫn trước hai mươi điểm. Nhưng kết cục, chúng tôi ra khỏi phòng thể thao với tậm trạng của kẻ chiên thắng: trong một pha tranh bóng, hộ lý Washington ăn một cùi chỏ vào giữa mặt, khiến cả đội nhân viên phải ghì chặt để hắn không lao vào McMurphy đang ngồi nguyên trên quả bóng, không thèm để ý đến máu đang chảy thành dòng từ cái mũi to bè của Washington xuống ngực như những giọt sơn lăn trên tấm bảng đen, hắn vừa giãy giụa trong tay tụi hộ lý vừa la: "Hắn muốn khiêu khích mà, hắn muốn khiêu khích mà, đồ đểu!"

McMurphy lại ngồi thảo thư dán vào bồn đái cho mụ y tá đọc qua gương. Hắn viết những câu chuyện dài dòng nhẩm nhí về chính mình vào sổ trực rồi ký tên Vô danh. Đôi lúc hắn ngủ đến tận tám giờ. Mụ sẽ nhẹ nhàng cảnh cáo hắn, còn hắn đứng im lắng nghe tỏ vẻ hối lỗi, nhưng khi mụ vừa kết thúc bài phê bình thì lập tức hắn hỏi mụ đeo nịt vú loại nào, cỡ bốn, cỡ năm hay nói chung, không đeo?

Tụi Cấp tính lấy đó làm gương. Harding chọc ghẹo tất cả các nữ y tá thực tập, còn Billy Bibbit thôi không viết vào sổ trực cái gọi là "những quan sát" của hắn nữa, và khi tấm kính mới lại được lắp vào trước bàn của mụ y tá, lần này có vôi vạch chéo một hình chữ thập lên đó để McMurphy thôi không giả vờ nhầm lẫn mà đập vỡ nữa thì vệt vôi chưa khô Scanlon đã làm vụn tấm kính bằng một cú đập bóng bay thẳng vào đó. Quả bóng xì hơi, và Martini lượm lên như một chú chim trúng đạn và mang vào phòng kính nơi mụ đang ngồi nhìn những mảnh vụn mới ngổn ngang trên bàn, hắn hỏi mụ xem có thể dùng băng đính hay bằng cách nào đó chữa chạy cho quả bóng sống lại được không? Không nói một lời, mụ giật quả bóng ném vào sọt rác.

Mùa bóng rổ thế là kết thúc, McMurphy quyết định chuyển sang câu cá. Hắn giải thích với gã bác sĩ rằng tụi bạn hắn ở Florencebên bờ vịnh Siuslaw bằng lòng dẫn tám, chín đứa ra biển câu cá. Rồi hắn viết lên bảng thông báo là trong chuyến đi này hắn sẽ được "hai bà cô già dễ thương ở ngoại ô thành phốOregon" đi kèm. Phiên họp quyết định cho hắn nghỉ vào Chủ nhật tới. Mụ y tá trịnh trọng đánh dấu chuyến đi vào sổ trực nhưng sau đó lại lôi khỏi giỏ mảnh cắt của một tờ báo buổi sáng, đọc to lên cho tất cả cùng nghe rằng dù năm nay số lượng người đánh cá đọc theo bờ biển Oregon nhiều chưa từng có, cá hồi lại đẻ muộn và biển thời kỳ này thường có sóng dữ. Mụ khuyên chúng tôi nên nghĩ kỹ trước khi quyết định. "Một lời khuyên bổ ích," McMurphy nói. Hắn nhắm mắt, hít một hơi dài qua kẽ răng. "Hay lắm! Chúng ta sẽ được nếm vị mặn chát của muối khi biển động, sẽ thách thức với bão tố, với những con sóng đánh vào mũi tàu. Đó là nơi mà người đàn ông là người đàn ông và con tàu là con tàu. Bà Ratched, bà đã hoàn toàn thuyết phục được tôi. Tối nay tôi sẽ gọi điện thuê tàu ngay. Tôi ghi thêm tên bà nhé."

Thay cho trả lời, mụ đi dán mảnh báo lên tấm bảng thông báo.

Ngày hôm sau, McMurphy bắt đầu lập danh sách những kẻ muốn đi và thu mỗi đứa mười đô la cho việc thuê tàu, còn mụ y tá cẩn thận thu góp những mảnh báo về những vụ đắm tàu và những cơn bão bất ngờ trên vùng biển chúng tôi. McMurphy nhổ toẹt vào những mảnh báo và nói rằng cả hai bà cô hắn gần suốt cuộc đời lênh đênh trên sóng nước, đã qua không biết bao nhiêu cảng, đã từng đi tàu với đủ loại thủy thủ, họ hứa là chuyến ra khơi này sẽ thuận buồm xuôi gió, chẳng phải lo lắng gì. Nhưng mụ y tá biết rõ các con bệnh của mình. Những mảnh báo làm chúng sợ hơn McMurphy nghĩ. Những tưởng cả bọn sẽ tranh nhau đăng ký, nào ngờ hắn phải van lạy dỗ dành từng đứa. Một ngày trước lúc khởi hành vẫn thiếu hai, ba đứa nữa mới đủ tiền thuê tàu.

Tôi không có tiền nhưng cảm giác mình rất muốn nhập hội. Hắn càng nhắc đến những chuyến đi săn cá hồi tôi càng thèm khát. Tôi rất hiểu rằng đó là điều ngốc nghếch: đăng ký, nghĩa là tự khai với tất cả rằng tôi không điếc. Nếu tôi nghe được chuyện về tàu, về chuyến đánh cá nghĩa là mười năm qua tôi cũng nghe được những cuộc đàm thoại của các thầy lang và những điều đó không còn bí mật của riêng chúng nữa. Nếu mụ y tá biết tôi đã nghe tất cả những mưu mô phản trắc chúng tuôn ra trong lúc nghĩ không ai ở gần, mụ sẽ lao vào tôi với chiếc cưa điện trong tay và biến tôi thành câm điếc thật sự. Tôi thèm đi quá rồi, nhưng lại cười với chính mình: Muốn không bị điếc thật thì tôi phải giả vờ điếc đến cùng.

Đêm trước chuyến đi, tôi cố nhớ lại là mình đã bị điế́c như thế nào, nhớ lại bao năm nay không ai biết rằng tôi đã nghe hết chuyện của mọi người, và tự hỏi không rõ liệu tôi có khác đi được không. Nhưng tôi vẫn nhớ đinh ninh một điều: tôi đã không tự giả vờ điếc, mà chính người đời ngay từ đầu đã coi tôi là một thằng đần, mất khả năng nghe, nhìn và nói.

Và cũng không phải từ khi tôi vào viện này mới thế: người ta đã quen coi như tôi không biết nghe hoặc nói từ rất lâu trước đó rồi. Trong quân ngũ những kẻ có nhiều vạch trên quân hàm hơn tôi đã coi tôi như thế. Họ nghĩ rằng con người ta cần phải làm như thế đối với một kẻ có bề ngoài giống như tôi. Ngay từ hồi ở trường tiểu học tôi đã nhớ người ta nói rằng họ không nghĩ tôi có nghe ai nói, thành thử họ cũng thôi không nghe tôi nói nữa. Tôi nằm trong chăn và cố nhớ xem đã nhận ra điều này từ khi nào. Chắc từ những ngày chúng tôi còn sống ở làng bên con sông Columbia, đúng rồi, từ những ngày đó. Một mùa hè...

... tôi lên mười và đang ngồi trước cửa rắc muối lên cá hồi để phơi, bỗng nhiên có một chiếc ô tô từ đường lớn rẽ vào, băng qua những luống cây đè lên đám ngải cứu, kéo lê đằng sau một đám bụi màu đỏ, đặc như một đoàn rơ mooc.

Tôi theo đõi chiếc xe trườn lên đồi và dừng lại cách sân nhà tôi không xa, trong lúc đám bụi vẫn chồm tới, đâm sầm vào đuôi xe và nổ tung ra tứ phía cho đến khi đọng lại trên những đám ngải cứu, khiến chúng trông như những mảnh sắt vụn màu đỏ bốc khói. Chiếc xe đứng đó, bụi lắng xuống, lấp lánh trong nắng hè. Tôi biết đó không phải là những người du lịch đeo máy ảnh, bởi họ không bao giờ đám đến gần làng. Nếu cần cá, họ mua ngay ngoài đường lớn; họ không dám lại gần làng vì nghĩ chúng tôi sẽ lột da đầu những ai lạc vào địa phận của mình rồi trói vào cọc mà đốt. Họ không biết rằng trong chúng tôi cũng có những người là luật sư, làm việc tận Portland, có nói chắc họ cũng chẳng tin. Tôi có một người cậu đã trở thành luật sư thực thụ chỉ cốt để chứng minh chúng tôi là ai, bố tôi bảo vậy, còn thực ra cậu chỉ muốn cầm đinh ba đi săn cá hồi khi thu sang. Bố tôi bảo nếu không coi chừng thì sẽ bị người ta dồn ép vào một trong hai con đường, làm tất cả những gì chúng cần, hoặc trở nên ngang bướng như con lừa và làm tất cả những gì chúng cho là gai mắt.

Mấy canh của xe nhất loạt mở bung, ba người chui ra, hai cửa trên, một của dưới. Họ men theo sườn dốc dẫn đến làng tôi, và tôi thấy hai người đi đầu mặc com lê màu xanh nhạt, còn người thứ ba bước ra từ của sau là một bà già tóc bạc, bộ quần áo trên người cứng và nặng như một bộ giáp. Chỉ mới đi qua đám ngài cứu và bước vào mảnh sân, họ đã thở hổn hển, mặt nhễ nhại mồ hôi.

Người đàn ông thứ nhất đội chiếc mũ rộng vành, béo tròn, dừng lại ngó nghiêng và lắc đầu trước những dàn phơi ẹo ẹp, những chiếc ô tô cũ kỹ, những chuồng gà, những mô tô và những con chó.

"Trong đời các vị đã thấy cảnh nào tương tự thể này chưa? Chưa, đúng không? Lạy Chúa."

Ông ta cởi mũ, rút chiếc khăn mùi soa lau cái đầu đỏ hỏn như một quả bóng cao su. Ông ta làm việc đó cẩn thận như sợ làm xước mất mảnh khăn hay vò rối mấy dúm tóc ướt đang dính bết vào đầu.

"Các vị có tưởng tượng nổi là con người muốn sống thế này không? John, ông nói xem?" Ông ta hét to vì chưa quen với tiếng ồn của thác nước.
John vểnh bộ ria mép màu xám lên, bịt kín hai lỗ mũi như để không phải ngửi thấy vị tanh của con cá hồi trong tay tôi. Mô hôi chảy ròng ròng trên má và cổ, thân sau của chiếc áo vest ướt đẫm, dính vào lưng. Ông ta viết gì đó vào cuốn sổ tay, quay tại chỗ, ngắm nghía túp lều, bờ dậu, mảnh vườn con trước nhà, những chiế́c xe sơn màu đỏ, những bộ váy tối thứ Bẩy màu đỏ xanh vàng của má phơi trên dây, quay tròn một vòng đến khi ông ta lại đối mặt với tôi, nhìn tôi như thể mới trông thấy lần đầu - mà tôi chỉ cách có hai mét, nào phải xa xôi gì. Cúi về phía tôi, ông ta chớp mắt, lại vểnh bộ ria lên và khịt mũi như đang ngửi thấy mùi tanh của tôi chứ không phải của đống cá.

"Theo ông, bố mẹ nó ở đâu?" John hỏi. "Trong nhà? Hay ngoài thác nước? Đã đến đây, chúng ta có thể bàn chuyện với ông chủ."

"Tôi sẽ không bước vào túp lều này," lão béo trả lời.

"Túp lều này," John nói qua bộ ria, "là nơi ở của viên Thủ lĩnh, Brickenridge ạ, người chúng ta cần tới gặp để tiế́n hành đàm phán, Thủ lĩnh hào hiệp của bộ tộc này"

"Đàm phán ư? Không phải là việc của tôi. Tôi lĩnh lương để đi định giá chứ không phải đi gây tình bằng hữu."

John cười vì câu trả lời đó.

"Đúng rồi, nhưng phải có ai đó thông báo cho họ về những kế hoạch của nhà nước chứ?"

"Nếu họ chưa biết thì sẽ biết nhanh thôi."

"Rất đơn giản mà, vào và tiếp chuyện với ông ta."

"Vào cái hộp rác này ư? Tôi cam đoan trong đó nhung nhúc nhện độc. Thế mà người ta bảo những túp lều này chứa đựng cả một nền văn minh thực thụ trong các bức tường giữa hai lớp đất sét cơ đấy. Lạy Chúa, và nóng. Tôi dám cá đây là cái lò nướng bánh. Ông nhìn kia, thằng bé Hiawatha này đã bị nướng quá lửa. Ha - ha! Thậm chí còn hơi cháy nữa là khác."

Ông ta cười, tay chấm lên đầu nhưng lại nín bặt vì gặp cái nhìn của bà già. Ông ta ho lên, khạc ra một bãi đờm và đi tới ngồi xuống chiếc đu mà ba treo lên cây đỗ tùng cho tôi, khẽ đung đưa, tay phe phẩy chiếc mũ.

Những điều ông ta nói khiến tôi càng nghĩ càng tức giận. Hai gã đàn ông vẫn tiếp tục bình phẩm về căn nhà của chúng tôi, về làng mạc, đất đai và giá cả những thứ đó, và tôi hiểu ra rằng chắc họ nghĩ là tôi không hiểu tiếng Anh, nếu không họ chả huyên thuyên trước mặt tôi như vậy. Cũng có thể họ từ nơi nào đó ở miền Đông, và cho dân da đỏ chỉ là một lũ người man rợ vì họ chỉ biế́t đến chúng tôi qua phim ảnh. Tôi tưởng tượng cả ba sẽ xấu hổ đến mức nào nếu biết rằng tôi hiểu hết những gì họ nói.

Tôi đợi cho họ còn buông thêm một vài nhận xét về cái nóng và cả về căn nhà; sau đó tôi đứng dậy, nói bằng thứ tiếng Anh nhà trường hoàn hảo nhất giải thích cho người béo lùn rằng túp lều bằng đất sét của chúng tôi mát mẻ hơn bất kỳ một căn hộ sang trọng nào ở thành phố. "Tôi biết chính xác rằng nhà tôi mát hơn trường học và mát hơn cả rạp chiếu bóng ở thành phố Dalles, mặc dầu ở đó có những bảng quảng cáo lòe loẹt với những dòng chữ ghép từ những que băng ‘Rạp chiếu bóng của chúng tôi luôn mát mẻ’."

Tôi sắp sửa nói với họ rằng nếu họ vào nhà, tôi sẽ chạy đi gọi ba từ thác nước về, thì bỗng nhận ra là họ chẳng hề có vẻ đang nghe tôi nói. Thậm chí họ còn không nhìn tôi. Người đàn ông to béo đung đưa trên chiế́c đu, nhìn xuống theo rìa nham thạch tới chỗ những người đàn ông làng tôi đang đứng trên cầu bắc bên thác nước, chỉ thấp thoáng những bóng áo kẻ trong màn sương. Chốc chốc ai đó vung tay và bước tới như một vận động viên đấu kiếm rồi chìa chiếc đinh ba dài năm mét cho người đứng trên cầu để anh ta gỡ con cá hồi ra. Ông ta nhìn đám người đang đứng dưới cột nước khổng lồ cao mười lăm mét và mỗi lần có người tung đinh ba đâm cá, ông lại chớp mắt và hự lên một tiếng.

John và bà già chỉ đứng không. Hình như chẳng một ai trong ba người nghe thấy tôi. Cả hai cùng nhìn xuyên qua người tôi tựa như tôi không hề tồn tại.

Và mọi vật đều ngưng lại, chế́t lặng đi trong vài giây.

Tôi có một cảm giác lạ lùng, dường như mặt trời chiếu lên ba đứa dữ dội hơn trước. Thế giới xung quanh vẫn y nguyên - đàn gà bới trong đám cỏ khô trên nóc nhà, những con cào cào nhẩy lách tách giữa các bụi cậy, đám trẻ con dùng chiếc chổi ngải cứu đang phủi sạch ruồi ở những con cá khô thành những đám mây đen vo ve, vạn vật đều thanh bình trong một ngày hè yên tĩnh. Chỉ có mặt trời, trên đầu họ, chiêu sáng một trăm lần mạnh mẽ hơn thường lệ, và tôi thấy được... cả những mối nối trong người họ. Tôi thấy được cả bộ máy bên trong tiếp nhận lời nói của tôi, cố kiếm chỗ để nhét thông tin nhận được vào đâu đó, nhưng không còn một ô trống làm sẵn nào để chứa những thứ đó, nó bèn loại bỏ tựa như tôi chưa hề nói ra lời nào.

Những vị khách hoàn toàn chế́t cứng, không cựa quậy trong suốt thời gian đó. Thậm chí chiếc đu cũng ngừng lắc vì ghìm vào một tia nắng chiếu xiên, còn lão béo ngồi trên đó bất động như một con búp bê. Một chú gà Phi của ba đang ngủ trên cành đỗ tùng tỉnh dậy thấy người lạ, chú sủa lên như chó phá tan khoảnh khắc bị yểm bùa.

Lão béo rú lên, bật khỏi cái đu, bì bạch đi qua đám cát vơ vội chiếc mũ che nắng và nhìn lên xem con gì trong tán lá đỗ tùng đã kêu lên đến rợn người như vậy. Thấy trên đó chỉ có một chú gà sặc sỡ, lão nhổ xuống đất và đội mũ lên đầu.

"Riêng tôi, tôi thành thực cho rằng trả bao nhiêu cho cái... thị thành này của họ thì cũng quá nhiều."

"Có thể như vậy. Nhưng tôi vẫn nghĩ trước hết phải đàm phán với Thủ lĩnh đã..."

Bà già cúp ngang lời và bước lên phía trước. "Không," lần đầu tiên bà cất tiêng. "Không," bà lặp lại bằng một giọng tôi thấy hệt như mụ Y tá Trưởng. Bà rướn đôi mày đưa mắt nhìn xóm làng. Trong mắt bà có cái gì đó đang nhẩy múa như những con số trên máy tính tiền; bà nhìn những bộ váy áo của mẹ được treo cẩn thận trên dây và gật gù.

"Không. Hôm nay chung ta sẽ không nói chuyện với Thủ lĩnh. Phải đợi thêm một thời gian. Tôi nghĩ... Lần này tôi đồng ý với Brikenridge. Nhưng vì những lý do khác. Các vị còn nhớ không, theo giấy tờ của chúng ta, vợ Thủ lĩnh không phải là người da đỏ mà là người da trắng. Một phụ nữ thành thị. Họ của bà là Bromden. Ông ta lấy họ vợ chứ không phải ngược lại. Đúng, đúng! Thử nghĩ xem nế́u ta đi ngay bây giờ, trở về thành phố và tung tin đồn về kế́ hoạch của chính phủ, để mọi người trong thành phổ thấy nếu thay những túp lều đất sét bên thác nước bằng một nhà máy thủy điện thì sẽ có lợi thế nào, sau đó in lời đề nghị và qua bưu điện gửi cho bà vợ... các vị hiểu không, giả vờ nhầm lẫn? Tôi cho việc làm đó đơn giản hóa bài toán của chúng ta rất nhiều."
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 24
Bà đưa mắt về phía chân thác, nơi những người đàn ông của bộ lạc tôi vẫn đang mải mê săn cá hồi trên những chiếc cầu ọp ep, chênh vênh đã mọc hàng trăm năm bên thác nước.

"Chứ còn nếu bây giờ chúng ta gặp ông chồng và đường đột đưa ra một đề nghị thì có trời biết chúng ta sẽ phải đương đầu với một sự bướng bỉnh đến mức nào của lão Navaho ấy, cùng cái tình yêu dành cho - tôi nghĩ ta phải gọi là ‘quê nhà’."

Tôi muốn giải thích cho họ hiểu rằng bố tôi không phải là một lão Navaho, nhưng lại nghĩ để làm gì nếu họ chẳng thèm nghe? Họ cũng không cần biế́t bố tôi thuộc bộ tộc nào.

Bà già cười và lần lượt gật đầu với hai người kia, cái nhìn của bà như một hồi chuông đối với họ; bà đi ra xe dáng người cứng nhắc và nói bằng một giọng vui vẻ, trẻ trung.

"Như giáo sư xã hội học đã từng dạy tôi rằng, trong bắt kỳ một tình huống nào cũng tồn tại một nhân vật mà ảnh hưởng của người ấy phải được đánh giá đúng mức. "

Ba người ngôi vào và chiếc xe lao đi, còn tôi đứng đấy băn khoăn không biết họ đã nhìn thấy tôi chưa.

Tự tôi cũng thấy ngạc nhiên, không hiểu vì sao những mảnh vụn của ức lại hiện về rõ ràng đến thế. Bao năm qua rồi, tôi cứ nghĩ không thể nhớ nổi một điều gì từ thuở ấu thơ. Hóa ra vẫn còn có thể và tôi cảm thấy bằng lòng vì điều đó. Tôi nằm chong mắt, cố hồi tưởng lại những gì đã qua, và tới lúc chuẩn bị rơi vào một cơn mơ màng, tôi chợt nghe có tiếng tí tách dưới gầm giường như tiếng lũ chuột gặm hạt bồ đào. Tôi xoay người vắt mình qua hai mép giường, thấy màu mạ kền sáng lấp lánh đang gắp lần lượt từng viên cao su mà tôi biết rõ như năm ngón tay mình. Gã hộ lý bé con Geever đã phát hiện ra chỗ tôi giấu chúng và đang gỡ chúng vào một gói giấy với cặp panh dài mãnh ngoác ra như đôi hàm.

Tôi vội thụt vào trong chăn trước khi gã kịp để ý. Tim tôi như nhảy ra khỏi lồng ngực vì sợ gã nhận ra. Tôi muốn nói với gã đi đi, đừng nhúng vào việc khác của người, không được sờ vào những viên cao su của tôi, nhung tôi phải làm ra bộ không nghe thấy gì. Tôi nằm im để xem gã có bắt quả tang tôi ngó qua giường nhìn trộm gã không, nhưng không thấy dấu hiệu gì - chỉ có tiếng tích tích của chiếc Panh cặp vào những viên cao su và tiế́ng chúng rơi rào rào vào túi làm tôi nhớ đến những hạt mưa đá gõ xuống mái nhà bằng các tông tẩm nhựa. Geever chặc lưỡi và cười:

"Hừm. Trời ơi, hì - hì. Thật lạ, đã bao nhiêu bận thằng cha nhai những viên cao su này? Cứng như đá."

Nghe thấy tiếng lẩm bẩm, McMurphy tỉnh giấc, chống khuỷu tay nhổm dậy nhìn xem gã hộ lý đang quỳ xuống làm gì dưới gầm giường tôi, nhất là vào giờ này. McMurphy theo dõi gã hộ lý, dụi mắt như đứa trẻ vì không hiểu chuyện gì và ngồi hẳn dậy.

"Cứ vặn cổ qua đi nế́u không phải đã nửa đêm kém năm phút rồi mà hắn còn bò lổm ngổm trong bóng tối với chiếc panh và một gói giấy." Geever giật mình quay lại, lia đèn pin vào mặt McMurphy. "Sam, mày đang thu thập cái gì mà lại cần đêm tối che mắt thế́?"

"Ngủ đi, McMurphy việc này chẳng liên quan đến ai cả."

McMurphy lười biếng nhếch mép nhưng không quay mặt đi để tránh luồng ánh sáng. Geever giữ nguyên chiếc đèn trong tay nửa phút, nhìn hàm răng, nhìn cái sẹo đang lên da trên mũi, nhìn con báo hung dữ xăm trên vai McMurphy, sau đó thấy bất tiện gã quay đèn đi, cúi xuống tiế́p tục công việc của mình. Gã thở ì ạch như cạo bã kẹo cao su là một việc hế́t sức nặng nhọc.

"Nhiệm vụ của hộ lý trực đêm," gã hổn hển giải thích, cố lấy giọng thân thiện, "là giữ vệ sinh trong buông ngủ của bệnh nhân."

"Giữa đêm?"

"McMurphy bản "Bổn phận của hộ lý" của chúng tôi nói rõ rằng phải giữ vệ sinh cả ngày lẫn đêm!"

"Nhưng mày có thể làm cái việc ‘cả ngày lẫn đêm’ của mình lúc bọn tao chưa lên giường chứ không phải ngồi lì bên tivi đến mười giờ rưỡi. Bà má của tụi bay có biết suốt cả ca trực tụi bay chỉ ngồi xem tivi không? Mày nghĩ mụ sẽ làm gì nế́u biết điều đó?"

Gã hộ lý ngồi xuống mép giường của tôi, gõ gõ cây đèn pin vào răng và cười khì. Mặt gã sáng hứng lên, và nếu không vì nước da đen thì giống hệt một quả bí ngô được cắm nến trong đêm lễ thánh.

"Để́ tao nói mày nghe về những viên cao su," gã ghé vào McMurphy như một người bạn cũ. "Đã bấy nhiêu năm tao không hiểu nổi là Thủ lĩnh đào đâu ra của ấy - nó không có tiền để mua ở các cửa hiệu, cũng chẳng có ai cho nó, mà nó cũng chẳng hỏi bên Quan hệ Công chúng. Thế là tao phải theo dõi, và chờ đợi. Mày nhìn này," gã quỳ xuông, hất một góc nệm ở giường tôi lên và chiếu đèn pin vào. "Thế nào? Tao thề là nó đã nhai những viên cao su này hàng nghìn lần."

McMurphy tươi tỉnh hẳn. Hắn ngó vào và cười. Gã hộ lý lượm cái gói lên, xóc xóc. Chúng nhìn nhau, cười tiếp. Khi đi ra, gã chúc McMurphy ngủ ngon và gấp mép cái túi như đó là thức ăn sáng của gã và tha đi đâu đó giấu kín, cất dành.

"Thủ lĩnh," McMurphy thầm thì. " Mày nói tao nghe đi, " hắn bắt đầu hát một bài hát cũ, một bài hát nhà quê mà đã một thời ai cũng biết. " Nếu dán bã kẹo cao su vào thành giường sắt... "

Thoạt tiên tôi thấy giận, cho rằng hắn cũng nhạo báng tôi như mọi người.

" Liệu kẹo ngày mai còn mềm ngọt hay thôi..., "hắn hát khẽ.

Nhưng càng nghĩ tôi càng buồn cười. Tôi cố nhịn nhưng cảm thấy mình sắp cười phá lên - không phải cười vì bài hát của McMurphy mà cười vì chính mình.

"Tôi kiệt sức rồi không trả lời được nữa. Ai cắt nghĩa rõ ràng điều đó giúp tôi. Liệu kẹo ngày mai còn mềm ngọt thô-ô-ô-ôi..."

Hắn kéo đài tiêng cười như cố tình cù vào nách tôi. Không nhịn được nữa tôi bật cười và hoảng hốt vì cười lên, vì sợ không dừng lại được. Nhưng lúc đó McMurphy bật dậy lục lọi trong tủ con đầu giường, và tôi nín thinh. Tôi cắn chặt răng, không biết mình nên làm gì bây giờ. Lâu lắm rồi, người ta không nghe thấy gì ở tôi ngoài những tiếng rít, tiếng hú. Tôi nghe tiếng McMurphy đập mạnh cánh tủ, nó đội lại như tiếng của nồi hơi. Tôi nghe hắn nói: "Cầm lấy" và vật gì đó rơi xuống giường tôi. Nho nhỏ. Cỡ con thằn lằn hay con rắn...

"Tao chỉ kiếm được cho mày có kẹo cao su hoa quả thôi. Tung đồng xu thắng của thằng Scanlon đó." Rồi hắn chui vào chăn.

Không kịp kiểm soát, tôi cảm ơn hắn.

Thoạt tiên hắn không trả lời. Hắn nằm tì khuỷu tay lên gối nhìn tôi như trước đó đã nhìn Geever và đợi tôi nói tiế́p. Sờ thấy một gói kẹo cao su trên giường, tôi cầm lên và lại nói: "Cám ơn".

Tôi nói không đạt lắm vì họng đã khô đi và lưỡi đã cứng lại. Hắn bảo tôi đã lụi nghề rồi và cười hô hố. Tôi muốn cười cùng hắn nhưng thay bằng tiếng cười, từ cổ họng chỉ phát ra một thứ âm thanh toe toe như chú gà trống non tập gáy. Nó giống với tiếng khóc hơn là tiếng cười.

Hấn khuyên tôi không nên vội vã, nếu muốn luyện, hắn có thời gian đến tận sáu rưỡi. Một người im lặng đã lâu như tôi ắt phải có rất nhiều điều để nói, hắn bảo và nằm hẳn xuống đợi nghe. Tôi băn khoăn mất một lúc không biết nói gì với hắn, những điều tôi muốn nói ra lại là những điều không thể diễn đạt bằng lời, nếu diễn đạt nổi thì cũng không hoàn toàn đúng. Khi hiểu là tôi không nói được gì, hắn chắp tay sau gáy và tự nói:

"Mày biết không, Thủ lĩnh, tao đang nhớ lại hồi còn làm việc ở thung lũng Willamette, thu hoạch đậu trong vùng Engene, tao coi là mình đã gặp vận đỏ. Đó là đầu những năm ba mươi, tụi trẻ con mấy ai được mướn việc. Vậy mà người ta đã nhận tao vì tao đã chứng minh cho lão chủ đồn điền thấy là tao có thể hái nhanh, sạch không thua bất kỳ một người lớn nào. Tao là đứa bé duy nhất trên đồng đậu, xung quanh toàn người lớn. Một vài lần tao thủ bắt chuyện nhưng tao nhận ra không ai thèm nghe cái thằng tóc đỏ dài ngoằng, hỉ mũi không sạch ấy và tao nín lặng. Tao cú chúng đến nỗi tao ngậm miệng như con cá suốt bốn tuần liền trên đồng đậu ấy, cạnh tao chúng cứ chuyện trò khơi khơi về một ông cậu của mình hay một lão hàng xóm nào đó. Thấy đứa nào không ra đồng thì lập tức cả bọn bàn tán về thằng ấy. Bốn tuần liền không mở miệng, mày coi. Cho tới lúc tao đồ rằng chúng đã quên mất là tao biết nói chuyện, đồ gốc cây khô. Tao cố nhịn chờ thời. Thế rồi đến ngày cuối cùng, tao kể ra tất cả, rằng thì là chúng chỉ là một bầy dê đực như thế nào. Tao kể với từng thằng là lũ bạn bè của hắn đã bôi gio trát trấu vào hắn khi hắn vắng mặt ra sao. Chúng nghe mới ghê chứ! Rồi chúng bắt đầu cắn xé nhau, làm đủ thứ tầm bậy đến mức tao bị cắt hết món tiền thưởng, một xu cho mỗi kí lô vì không bỏ việc ngày nào, bởi tao lúc đó đã có tiếng xấu trong thành phố và lão chủ đồn điền cho rằng vì tao mà tụi làm công sinh ra hục hặc, mặc đầu lão đâu có chứng cớ. Tao cũng chửi lão ra trò. Lần đó tao bị thiệt chừng hai mươi đô la. Cái lưỡi không xương lắm lúc làm hại người ta thế đấy. Nhưng cũng xứng."

Hắn cười khúc khích hồi lâu khi nhớ lại chuyện đó, rồi trở mình nằm nghiêng nhìn sang tôi.

"Thủ lĩnh, tao nghĩ rằng mày cũng sẽ đợi ngày rửa hận chớ?"

"Không," tôi trả lời. "Tao không thể."

"Không nói được cho chúng vài lời ngọt ngào sao? Cái đó dễ hơn mày tưởng."

"Mày khỏe hơn tao... to hơn tao nhiều," tôi làu bàu.

"Nghĩa là sao? Thủ lĩnh à, tao không hiểu."

Tôi cố nuốt một cục nước bọt. "Mày to hơn và khỏe hon tao, mày trả đũa được."

"Tao ư? Giỡn hoài! Mẹ khỉ, mày cao hơn mọi người một cái đầu. Mày có thể đập bể sọ bất cứ đứa nào, tao nói thiệt đó!"

"Không, tao quá nhỏ. Đã một thời tao cũng to lắm, nhưng giờ thì không. Mày to gấp đôi tao."

"Mày điên sao? Lúc đến đây, vật đầu tiên đập vào mắt tao là dáng mày ngồi trong chiếc ghế bành, to lớn vững chãi như quả núi. Mẹ kiếp, tao đã từng sống ở Klamath, Texas, Oklahoma, ngoại ô Gallup, đã từng đi đó, đi đây nhưng thề danh dự là chưa từng thấy một người da đỏ nào to lớn như mày."

"Tao sống ở vực sông Columbia," tôi nói và hắn đợi. "Ba tao là Thủ lĩnh, người ta gọi ông là Tee Ah Millatoona, nghĩa là Cây Thông Cao Nhất Trên Núi, mặc đầu bộ lạc tao sống ở đồng bằng. Ông to lắm, nhưng chỉ lúc tao còn bé thôi. Và mẹ tao còn to gấp đôi ông."

"Bà già mày to bằng cả con voi? Bà ta bao nhiêu?"

"Ồ to lắm, to lắm."

"Tao hỏi, số đo bao nhiêu cơ?"

"Số đo á? Ở hội chợ có một gã đã ước lượng một mét bẩy lăm, sáu tư kí lô, nhưng đấy là vì gã mới chỉ nhìn thấy bà. Sau này mẹ tao còn to lên."

"Thế ư? To lên bao nhiêu?"

"To hơn cả tao và ba gộp lại."

"Trong một ngày mà bà ta lớn sao? Kỳ quá, tao chưa nghe ai nói về một người đàn bà da đỏ nào như vậy."

"Mẹ tao không phải là người da đỏ. Mẹ tao là người thành thị, sống ở thành phố Dalles.""Và họ bà ấy là Bromden? À, hiểu rồi, đợi tí," hắn trầm tư một lúc rồi nói, "Khi người phụ nữ thành phố lấy một người đàn ông da đỏ, như thế là không môn đăng hộ đối phải không? Hiểu rồi."

"Không. Không phải chỉ tại bà mà ông trở nên bé nhỏ. Chúng vùi đập, bóp nặn, làm tình làm tội sao cho ông bé đi vì ông quá to, không chịu thuần phục ai và chỉ làm những gì ông muốn. Ông đã bị đối xử như mày đang bị đối xử."

"Thủ lĩnh, thế chúng là ai?" giọng hắn nhỏ đi, chợt trở nên nghiêm nghị.

"Liên hợp. Nó vùi dập ông suốt nhiều năm. Ba tao trước kia to đến mức dám chiế́n đấu với chúng. Chúng muốn kiểm soát nhà của chúng tao. Chúng muốn cướp đi thác nước của chúng tao. Chúng còn có mặt ngay từ trong lòng bộ lạc, và người trong bộ lạc vùi dập ông. Vào thành phố chúng đánh ông trong ngõ hẻm, một lần đã cắt tóc ông. U... u. Liên hợp to lắm, to lắm. Ba tao cầm cự với chúng rất lâu, nhưng mẹ đã làm cho ba bé đi, không thể tiếp tục cuộc chiến đấu của mình được nữa và đầu hàng."

McMurphy im lặng rắt lâu. Sau đó nhổm người, tì lên khuỷu tay, hắn nhìn tôi rồi hỏi tại sao chúng đánh ông trong ngõ hẻm, và tôi giải thích: chúng muốn nói là cái gì sẽ đợi ông nế́u ông vẫn khăng khăng không chịu ký vào những tờ giấy đồng ý trao lại tất cả cho chính phủ.

"Chúng bắt trao cho chính phủ cái gì?"

"Tất cả. Bộ lạc, làng mạc, thác nước..."

"Bây giờ nghe mày nới tao mới nhớ. Đó là thác nước mà ở đó những người da đỏ vẫn dùng đinh ba săn cá hồi, lâu lắm rồi. Phải. Nhưng nế́u tao nhớ không nhầm thì bộ lạc cũng được trả một khoản không nhỏ."

"Chúng nói với ông vậy thôi. Ông hỏi: Các vị sẽ trả bao nhiêu cho cách sống của con người? Ông hỏi: Các vị sẽ trả bao nhiêu để cho người ta là chính mình? Tụi da trắng không hiểu. Người của chúng tao cũng thế. Họ đứng trước cửa, cầm một nắm séc và hỏi ông bây giờ nên làm gì. Họ yêu cầu gửi số tiền vào một ngân hàng nào đó, mua trang trại hoặc chỉ cho họ phải đi đâu với số tiền kia. Nhưng ông đã trở nên nhỏ nhoi. Và say. Liên hợp đã nắm được ông. Nó là kẻ bất khả chiến bại. Và mày rồi cũng thua nó thôi. Chúng không để cho một con người cao lớn nghênh ngang khuấy nước chọc trời như vậy trừ phỉ ông là của chúng. Mày hiểu chứ?"

"Ừ, tao nghĩ là hiể́u."

"Bỏi vậỵ lẽ ra mày đừng đập vỡ của sổ. Bao giờ chúng biết chắc rằng mày cũng to lắm, chúng sẽ đóng yên, lắp hàm thiếc cho mày."

"Như một con ngựa mustang, hả?"

"Không, nghe đây. Chúng sẽ không làm thế, chúng sẽ cải biến mày bằng những cách vô phương chống đỡ! Chúng đặt thêm các thứ. Chúng lắp thêm máy vào mày. Chỉ cần đánh hơi thấy mày đang to lên, lập tức chúng bắt tay vào việc từ khi mày còn bé, lắp đặt chi tiết, xử lý đến khi nào mày ổn định thì thôi!"

"Đừng nóng, suỵt!"

"Nếu mày nghênh chiến, chúng sẽ nhốt mày lại và bắt mày thôi..."

"Bình tĩnh, bình tĩnh đã Thủ lĩnh, đợi tí. Người ta đã nghe thấy mày rồi đấy." Hắn nằm xuống và im bặt. Tôi nhận thấy giường mình nóng lên. Tôi nghe những tiếng kèn kọt đều đặn của đế giày cao su giẫm xuống hành lang và gã hộ lý bước vào, chiếu đèn pin kiểm tra tiếng động. Chủng tôi cứ nằm im cho đến lúc hắn trở ra.

"Cuối cùng ông đâm ra rượu chè," tôi thì thầm, chưa thể dừng lại được chừng nào chưa nói hế́t. "Lần cuối cùng tao trông thấy ông gục đầu bên gốc bá hương, và mỗi lần tao thấy ông đưa chai lên miệng thì không phải ông bú cổ chai rượu, đúng hơn là rượu đã bú ông, bú ông đến kiệt khô và vàng ệch ra, đến nỗi lũ chó quý của ông không nhận ra chủ nữa, chúng tao buộc phải đưa ông ra khỏi rừng bá hương, lên một chiếc xe hòm, chở về Portland để chết. Tao không nói rằng chúng đã giết ông. Chúng không giết ông. Chúng đã làm điều khác."

Mắt tôi díp lại. Tôi không muốn kể nữa. Tôi thử nhớ xem mình đã nói gì, hình như tôi đã không nói được điều cần phải nói.

"Tao đã nói toàn những điều tầm bậy, đúng không?"

"Đúng thế, Thủ lĩnh ạ," hắn trở mình. "Mày đã nói những điều điên rồ."

"Tao không muốn kể những thứ đó. Tao không thể và không biết kể thể nào. Rặt những điều vô nghĩa."

"Tao không nói là vô nghĩa, Thủ lĩnh ạ, tao nói tất cả những gì mày kể là điên rồ."

Hắn im lặng một hồi lâu khiến tôi cho là hắn đã ngủ. Tôi nghĩ mình đang ra phải chúc ngủ ngon. Tôi nhìn sang thấy hắn nằm nghiêng, lưng quay về phía tôi. Cánh tay đặt bện trên tấm chăn, trong bóng tối vẫn có thể phân biệt được những con át và những con tám xăm trên đó. Cánh tay to dễ sợ, tôi nghĩ, lớn như cánh tay tôi hồi tôi còn là cầu thủ. Tôi muốn vuốt ve cánh tay đó, chạm vào những vết xăm, để xem hắn còn sống không. McMurphy nằm im như một xác chết, tôi tự nhủ, mình phải chạm vào xem hắn còn sống không...

Đấy là nói láo. Tôi biết hắn vẫn sống. Đấy không phải lý do tôi muốn chạm vào hắn.

Tôi muốn cham vào hắn vì hắn là một người đàn ông.

Điều này cũng là nói láo. Quanh tôi đầy rẫy những đàn ông. Tôi có thể chạm vào họ.

Tôi muốn chạm vào hắn vì tôi là một gã đồng tính!

Nhưng cả điều này cũng là nói láo. Đấy là một nỗi sợ hãi ẩn sau một nỗi sợ khác. Nếu tôi là một gã đồng tính tôi sẽ muốn làm những việc khác kia. Tôi muốn chạm vào người hắn chỉ vì hắn là hắn.

Nhưng khi tôi chuẩn bị đưa tay ra thì hắn nói, "Thủ lĩnh," và hắn quay mặt lại tôi dưới một đống chăn. "Thủ lĩnh, hay ngày mai đi câu cả cùng tụi tao?"

Tôi không trả lời.

"Thế nào, đi chứ? Chuyến đi sẽ tốt đẹp khỏi nói. Mày có biết là sẽ có hai bà cô dẫn tụi tao đi không? Họ không là cô cậu gì với tao ráo trọi. Đó là những cô ả vũ nữ gái gọi mà tao đã làm quen được ở Portland. Mày nghĩ sao?"

Cuối cùng phải thú nhận với hắn rằng tôi chỉ là một bệnh nhân Trợ cấp.

" Sao? "

"Tao không có tiền."

"À," hắn nói. "Tao không nghĩ đến chuyện này."

Hắn lại im lặng, đưa ngón tay sờ sờ cái sẹo trên mũi. Ngón tay đừng lại. Hắn nhổm người lên và nhìn tôi.

"Thủ lĩnh," hắn nói chậm, quan sát tôi thật kỹ, "khi mày còn to lớn như cũ, cao hai mét hay hơn, nặng trăm hai, trăm ba ki lô, mày có thể nâng được một vật như, xem nào, bệ điều khiển ở phòng tắm không?"

Tôi so sánh và nghĩ bệ điều khiển khó mà nặng hơn thùng đầu tôi vẫn khuân hồi chiến tranh. Tôi nói với hắn là có thể.

"Nếu mày lại to như xưa liệu có nâng nổi không?"

Tôi nói tôi nghĩ là nổi.

"Tao nhổ vào điều mày nghĩ. Tao hỏi, mày có hứa nâng được nếu tao làm cho mày trở lại to như xưa? Hứa đi, không những tao sẽ dạy không công cho mày một chương trình điền kinh đặc biệt để nâng cao thể lực mà mà còn được hưởng một chuyến câu cá không mất một xu." Hắn liếm môi và nằm xuống. "Tao cũng có phần mình nữa, khỉ ạ!"

Rồi hắn nằm đó cười một mình vì một ý nghĩ riêng nào đó. Tôi hỏi hắn định làm gì để biến tôi trở lại to lớn như xưa, hắn đặt một ngón tay lên môi.

"Người anh em, tao không thể tiết lộ bí quyết này được. Tao không hứa vói mày sẽ nói luyện thế nào, đúng không? Ổ, bơm một con người trở về kích thước cũ là một bí mật không thể hé ra với tất cả, vì nếu bí mật đó rơi vào tay kẻ thù thì sẽ rất nguy hiểm. Nói chung, mày sẽ không nhận ra quá trình hồi phục cơ thể sẽ diễn ra như thế nào và bằng cách nào. Nhưng tao hứa nếu mày chịu luyện theo chương trình của tao thì mày sẽ có tất cả."

Hắn ngồi hẳn dậy chống hai tay lên đầu gối. Ánh sáng từ buồng y tá hắt vào qua vai hắn. Thứ ánh sáng mờ ảo đó làm răng và đôi mắt hắn đang nhìn xuống tôi ánh lên. Giọng nói của kẻ đã từng làm việc ở các quan vui chơi giải trí tuôn ra êm dịu qua phòng ngủ.

" Hãy tưởng tượng: Thủ lĩnh Bromden lừng lững đi dọc đại lộ, đàn ông, đàn bà, trẻ con nghiêng người trên gót chân mà nhìn ông ta: ‘Trời, chàng khổng lồ nào đây, bước chân dài ba mét, phải cúi đầu chui qua dây điện thoại chăng ngang đường? Chàng băng băng đi qua thành phố và chỉ dừng lại vì các thiếu nữ thôi, còn những người đàn bà khỏi đứng xế́p hàng cho mất công, trừ khi cô có bộ ngực tròn căng như hai quả dưa hấu và cặp đùi trắng nõn, thon thả, khỏe mạnh đủ dài để quấn quanh tấm lưng to lớn, và có cái ấy áp ngọt ngào thơm lựng như sữa và bơ..."

Và hắn nói, nói trong bóng tối, tưởng tượng cánh đàn ông sẽ sợ tôi thế nào, các cô gái xinh đẹp sẽ đau khổ héo mòn vì tôi ra sao. Sau đó hắn hứa sẽ ghi ngay tên cho tôi vào chuyến đi câu sáng mai. Hắn đứng dậy, vớ chiếc khăn trên tủ lau mặt, chụp mũ lên đầu và đến bên giường tôi.

"Tao nói mày nghe, tao nói mày nghe, đàn bà, con gái sẽ ngáng chân và tự kéo mày xuống sàn nhà."

Và bỗng nhiên hắn thò tay giật phắt tấm chăn trên người tôi để tôi nằm trằn truồng trên giường.

"Mày nhìn coi, Thủ lĩnh. Tao đã nói mà! Mày đã cao lên đến một gang tay."

Hắn cười, băng qua dãy giường, bước ra hành lang.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 25
Sẽ có hai cô điếm từPortlandđến để đưa chúng tôi đi câu cá giữa biển khơi, trên một chiếc tàu! Thật khó mà nằm trên giường đến sáu giờ ba mươi chờ đèn bật.

Tôi bước ra khỏi buồng ngủ đầu tiên, hồi hộp nhìn lên danh sách dán trên bảng thông báo cạnh buồng kính tìm xem có thật tên mình đã ở đó hay không. Một dòng chữ in to tướng viết trên cùng: GHI TÊN ĐI CÂU CÁ, sau đó là tên McMurphy số hai là Billy Bibbit, ngay sau McMurphy số ba là Harding, số bốn là Fredrickson, cứ thế từ số năm đến số chín, còn số mười chưa có tên ai cả. Tên tôi đã ghi trên đó, dưới cùng trong danh sách, số chín. Tôi sẽ được ra khỏi viện đi câu cá với hai cô điếm trên một chiếc tàu - tôi thầm nhắc đi nhắc lại mà vẫn không thể tin được.

Ba gã hộ lý chen ngang lên trước tôi, dò dò ngón tay xám xịt, và đến tên tôi, một gã ngoảnh mặt cười gằn:

"Hừ, thằng quái nào viế́t cả tên Thủ lĩnh vào đây, chú bọn da đỏ thì biế́t viết khỉ gì?"

"Ai bảo mày là bọn chúng biết đọc?"

Hày còn sớm nên quần áo của chúng còn nguyên nế́p hồ, các ống tay áo kêu sột soạt như những chiếc cánh giấy. Chúng cười tôi nhưng tôi vẫn sắm vai câm điếc, mặc chúng, thế nhưng đến khi chúng dúi cho cái bàn chải để thay chúng lau sàn hành lang, tôi quay đi, bước vào phòng ngủ, tự bảo: mặc mẹ bọn mày. Người ta đi biển với gái điếmPortlandmà lại bắt lau sàn à.

Bỏ đi khỏi chúng khiến tôi hơi sợ hãi, trước đây tôi luôn tuân lệnh chúng. Tôi ngoái nhìn và thấy chúng xách bàn chải đi theo. Có lẽ chúng sẽ đuổi theo tôi vào tận phòng ngủ nếu như không có McMurphy ở trong đó; hắn đang hét inh ỏi, lồng lộn đi giữa các giường và quất khăn tắm vào những thằng đã ghi tên đi biển sáng nay, đến nỗi bon hộ lý phát sợ dừng lại ở cửa - chẳng nhẽ lại liều thân chỉ vì muốn bắt thằng khác gánh việc lau sàn nhà?

Cái mũ đi mô tô trên đầu McMurphy sụp xuống tận trán cho giống một thuyền trưởng thực thụ và các hình xăm từ hồi ở Singapore lộ ra dưới tay áo may ô. Hắn đi tới đi lui trong phòng khệnh khạng như đi trên boong tàu và đưa tay lên miệng huýt sáo tựa thuyền trưởng.

" Dậy! Tất cả dậy hay để tao lấy gậy dựng tui bay lên?"

Hắn gõ vang rên vào tủ của Harding.

"Sáu chai lên boong thì đủ. Phải thế. Tuyệt! Dậy!"

Thấy tôi đứng ở của, hắn chạy lại vỗ vào lưng tôi như vỗ trống.

"Nàỵ nhìn đây tụi bay! Nhìn Thủ lĩnh này. Đây mới là thủy thủ và dân chài chính hiệu chớ: từ sáng đã đậy đào mồi giun rồi. Còn tụi bay - lũ lười biếng, hãy lấy đó làm gương! Dậy! Hôm nay đi biển, đừng có ườn xác trên giường mãi nữa."

Các con bệnh Cấp tính càu nhàu với hắn và cái khăn tắm, còn tụi Kinh niên tỉnh dậy và nhìn quanh, quay quay những tròng mắt tím ngắt vì thiếu máu do ga quấn ngang ngực chặt quá tới khi tất cả đổ dồn mắt vào tôi, vừa tò mò, vừa buồn bã nhìn tôi qua cặp mắt kèm nhèm. Họ vừa nằm vừa xem tôi mặc đồ ấm, còn tôi hơi ngượng và cảm thấy mình có lỗi. Họ hiểu rằng chỉ mình tôi trong đám các con bệnh Kinh niên được đi câu. Họ những ông lão suốt đời bị giam hãm trong nhà thương trong chiếc xe lăn, với những ống dẫn chạy dọc chân như những dây nho vít chặt họ vào đó cho đến hết đời, dõi theo tôi và tức khắc hiểu rằng tôi sẽ đi biển. Và họ vẫn còn biết ghen tị chút ít vì không đến lượt mình. Họ hiểu được vì chất người trong họ đã lu mờ khiến cho cai bản năng động vật lại trỗi dậy (các lão già ấy tỉnh giấc vào ban đêm, đầu ngửa ra, tru lên, khi còn chưa ai biết trong chúng tôi có người vừa chế́t), và họ còn có thể ghen được vì chất người chưa chết hẳn.

McMurphy bước ra nhìn danh sách, sau đó quay lại kêu gọi thêm một con bệnh Cấp tính nữa tham gia đi câu cá, đi lại trong phòng, đạp vào các giường còn người nằm kéo chăn trùm kín đầu, say sưa mô tả cảnh tuyệt diệu của chuyến đi câu, lướt trên đầu các con sóng, trên mặt biển đen thẫm và, ô-hô, với một chai rum, mẹ kiếp, thế mới đáng sống! "Nào, lũ lười biếng, tao cần một thủy thủ nữa vào đội. Một chiến sĩ tự nguyện nữa thôi, quỷ tha ma bắt tụi bay đi..."

Nhưng không ai hưởng ứng hắn. Tất thảy đều sợ run lên sau khi nghe mụ Y tá Trưởng dọa dẫm, nào biển dữ, nào thuyền đắm, nào người chết, và hình như sẽ chẳng còn hy vọng nào kiếm được tay thủy thủ cuối cùng ấy nữa cho đến khi, nửa tiếng sau, George Sorensen tới bên McMurphy trong lúc xếp hàng chờ phòng ăn mở cửa cho cả lũ ùa vào.

Lão già Thụy Điển cao lớn, đã rụng hết răng, sạch sẽ đến mức mắt trí - tụi hộ lý gọi lão là George Rửa Tay - đi dọc hành lang, kéo giày lệt xệt mặt ngửa ra phía sau để tránh xa người tiếp chuyện, thành ra chân đi trước đầu. Đứng lại trước McMurphy, George lẩm bẩm vào bàn tay cái gì đó. Lão rất hay xấu hổ. Chẳng ai nhìn thấy mắt lão vì chúng thụt rất sâu vào trong hốc, còn phần còn lại trên mặt, lão lấy tay che hết. Người lão trông như cột buồm, còn cái đầu phía trên tựa tổ quạ, liên tục lắc la lắc lư. Lão cứ lẩm bẩm trong hai bàn tay cho đến khi McMurphy phải gạt chúng ra để nghe cho rõ.

"Ông nói cái gì vậy George?"

"Giun," lão nói. "Giun với dế chẳng nước non gì đâu. Các anh đi câu cá hồi Chinook hử?"

"Ừ!" McMurphy đáp. "Còn giun thì sao? Có thể tôi đồng ý với ông nếu ông nói rõ hơn."

"Tôi nghe anh nói ông Bromden đậy sớm đi đào giun làm mồi."

"Vâng, đúng đấy, ông lão ạ."

"Thế thì tôi mới nói: dùng mồi giun thì các anh chẳng câu được gì đâu. Tháng này đúng lúc cá đang đẻ trứng. Các anh phải dùng cá trích, thế đấy. Với mồi cá trích, sẽ câu được cá hồi."

Lão kết thúc mỗi câu vút lên như một câu hỏi. Cái cằm dài mới sáng sớm đã bị cọ kỹ đến mức tuột cả da gật lên gật xuống với McMurphy một hai lần, rồi xoay lão ra đằng sau và dẫn lão đi xuống cuối hàng. McMurphy gọi theo.

"Khoan nào, George, bộ lão có nhiều kinh nghiệm nghề câu lắm sao?"

George quay lại và lệt xệt trở lại chỗ McMurphy, người vươn ra sau xa đến nỗi trông như chân lão đã tự xoay ngay dưới mình lão.

"Dĩ nhiên. Đã hai mươi lăm năm tôi theo các thuyền câu cá hồi, suốt từ vịnh Half Moon đến tận vũng Puget. Hai mươi lăm năm câu cá - cho đến lúc tôi thành ra bẩn thỉu thể này." Lão xòe tay ra cho chúng tôi xem. Tất cả đều ngó xuống. Nhưng tôi chẳng hề thấy cái bẩn thỉu, chỉ thấy trên đôi bàn tay trắng, đã kéo cả nghìn ki lô mét dây câu, nham nhở các vế́t sẹo. Lão cho chúng tôi xem đến một phút, sau co tay lại thành nắm đấm và thu về giấu trong túi áo vest như sợ ánh mắt chúng tôi làm bẩn thêm, rồi mỉm cười với McMurphy, phô ra cái lợi nhợt nhạt như miếng dồi ngâm nước muối.

"Tôi có chiếc thuyền rất tốt, chỉ dài mười ba mét thôi, nhưng độ mớn nước bốn mét, làm toàn từ gỗ sồi và tế́ch." Lão lắc lư người khiến chúng tôi không còn tin được sàn nhà dưới chân vẫn đứng yên. "Ôi cái thuyền thật tốt, lạy Chúa."

Lão muốn đi nhưng bị McMurphy giữ lại:

"Mẹ khỉ, thế mà lão im lặng mãi. Từ đầu đến giờ tôi làm ra vẻ là một con sói biển, nhưng nói bí mật giữa chúng ta với nhau và thề có bức tường này tôi chưa hề lên một chiếc thuyền nào ngoài cái tàu chiến Missouri, còn về cá chỉ biết mỗi điều là ăn thích hơn đánh vẩy."

"Làm cá nếu biết cách thì có gì khó."

"Lão sẽ là thuyên trưởng của tụi tôi, được không?"

George ngửa người, lắc đầu quầy quậy, "Thuyền bẩn lắm... tởm lợm."

"Khỏi lo, George. Thuyền đã được vô trùng đặc biệt từ mũi đến đuôi, trắng bóng như răng chó. Lão sẽ không bị dây bẩn đâu, George. Lão sẽ là thuyền trưởng, không cần phải đụng vào mồi dây câu nữa, cứ ra lệnh cho tụi tôi cái lũ thuyền viên dốt nát này - chịu không?"

Thấy George vò vò tay trong áo, tôi hiểu lão thích mê đi rồi, nhưng vẫn bảo: không, ở đấy nguy hiểm lắm, bẩn cả người! McMurphy dỗ dành mãi mà lão vẫn lắc đầu hoài, vừa lúc mụ Y tá Trưởng xủng xoảng mở cửa nhà ăn bước ra, với giỏ quà trên tay, mỉm nụ cười muôn thuở chào từng đứa một, chúc buổi sáng tốt lành. McMurphy nhận thấy George nghiêng người tránh mụ ta và cau mặt lại. Khi mụ đã đi khỏi, McMurphy ngoảnh đầu sang một bên, nhìn George ranh mãnh.

"George, bà y tá nói gì về động biển đằng kia đấy? Ra khơi mùa này nguy hiểm lắm sao?"

"Đại dương có thể đùng đùng bão tố và nhấn chìm hế́t thảy."

McMurphy nhìn theo mụ y tá đang bước vào phòng kính rồi lại nhìn sang George. Tay lão càng cựa quậy tợn dưới làn áo, lão nhìn khắp lượt mọi người đang im lặng quan sát lão.

"Lạy Chúa!" Lão bỗng nói. "Anh nghĩ rằng tôi sợ mụ dọa lắm đấy hả? Nghĩ thế chứ gì?"

"Không, tôi đâu dám nghĩ thế. Nhưng George, tôi nghĩ nếu không có lão đi cùng thì nhỡ gặp bão chúng tôi sẽ chế́t chìm hết lượt, hiểu không? Tôi đã bảo là tôi chẳng hiểu gì về biển cả và còn muốn nói thêm rằng: có hai cô gái sẽ đi cùng chúng tôi, lão nghe thấy chứ? Tôi xạo ông bác sĩ rằng họ là cô của tôi, vợ góa dân chài. Nhưng thật ra họ chỉ biết câu người trên đường nhựa. Hiểu biết của họ nào hơn gì tôi. Chúng tôi cần lão, George ạ!" Hắn rít một hơi thuốc và hỏi. "Mà này, lão có mười đô không đã?"

George lắc đầu.

"Không hở? Biết ngay mà. Thôi được, tôi từ lâu đã không hy vọng giàu lên. Đây," hắn lôi từ trong túi ra cái bút chì, lau vào vạt áo và chìa cho George. "Lão làm thuyền trưởng đi, tính lão năm đô đi tàu thôi."George lại nhìn chúng tôi, nhăn trán suy nghĩ đề nghị này rồi cười phô cặp lợi trắng nhợt và cằm lấy cây bút chì. "Lạy Chúa!" Lão nói và đi tới điền tên mình vào danh sách. Sau bữa sáng, khi đi dọc hành lang, McMurphy dừng lại cạnh tấm băng thông báo và viết chữ in vào sau tên họ George: TH. TRƯỞNG.

Hai cô điếm tới trễ. Khi cả bọn đã mất hết hy vọng thì thình lình McMurphy đứng cạnh của sổ hét lên và chúng tôi chạy tới. Hắn bảo họ đấy nhưng chúng tôi nhìn thấy không phải hai xe như dự tính mà chỉ một và cũng chỉ một cô gái thôi. McMurphy gọi qua lưới rào khi xe đánh vào bãi gửi và cô gái bước qua thảm cỏ, tiến thẳng đến bệnh viện.

Té ra cô ta trẻ và đẹp hơn chúng tôi nghĩ. Ai cũng đã được tin rằng đó đâu phải là bà cô của McMurphy mà chỉ là cô gái điếm nên đã chờ đợi mọi chuyện. Chỉ những đứa ngoan đạo là chẳng lấy gì làm vui vẻ. Nhưng khi nhận thấy cô ta bước nhẹ nhàng trên cỏ với cặp mắt xanh, leo lên đến tận ô cửa sổ của bệnh viện chúng tôi, mái tóc dài tết thành bím sau gáy đung đưa theo mỗi bước chân nom như búp lò so bằng đồng lấp loáng dưới nắng thì cả bọn chỉ còn một ý nghĩ đây là một cô gái, một người phụ nữ và không mặc áo choàng trắng từ đầu đến chân như thể bị nhúng trong băng giá, còn việc cô ta lăn lộn kiếm ăn thế nào thì đâu có quan trọng gì.

Cô gái chạy thẳng đến bên cửa sổ nơi McMurphy đứng, móc những ngón tay vào tấm lưới và áp sát người vào đó. Cô thở gấp vì chạy, bộ ngực phập phồng như muốn xé toạc cả lưới rào. Cô rơm rớm nước mắt.

"McMurphy ôi, khỉ quá, McMurphy..."

"Khoan đã. Thế Sandra đâu?"

"Nó bị kẹt rồi, không thể bứt ra được. Còn anh, khỉ gió, anh thế nào?"

"Bị kẹt à?"

"Nói thật ra thì," cô ta lau mũi và cười khì khì. "Sandy của chúng ta lấy chồng rồi. Anh còn nhớ Artie Gilfillian ở Beaverton không? Lúc nào cũng làm bộ giữa các buổi tiệc: lúc thì mang rắn trong túi, lúc thì chuột bạch, lúc thì con khỉ gió gì đó. Thần kinh chính hiệu..."

"Trình diễn thế đấy!" McMurphy bắt đầu rên rỉ. "Ôi, Candy, bé yêu, làm sao anh nhét nổi mười người vào chiếc Ford ghẻ lở này được. Sandra và con rắn ở Beaverton nghĩ gì không biết?"

Sắc mặt cô thay đổi như đang tìm câu trả lời thì chiếc loa kêu lẹt rẹt trên trần và giọng của mụ Y tá Trưởng vang lên rằng nếu McMurphy muốn tiếp chuyện tiểu thư kia thì hãy để cô ta đăng ký cửa chính như quy định chứ không phải làm rối loạn cả viện. Cô gái rời cửa sổ vội vàng đi tới cửa chính, còn McMurphy cũng lui khỏi hàng rào, ngồi phịch vào ghế bành đầu gục xuống. " Khỉ thật!" Hắn nói.

Tên hộ lý nhỏ người mở cửa cho cô gái vào và quên đóng lại, (về sau hắn tha hồ bị chửi, tôi thề), và cô bước vào nhún nhảy dọc theo hành lang, qua buồng trực, nơi tất cả các nữ y tá đều muốn làm cho những bước chân uyển chuyển của cô hóa đá bằng những cái nhìn lạnh băng của họ, vào đế́n phòng chung, chỉ đi trước gã bác sĩ mấy bước. Gã đang đến buồng trực với một mớ giấy tờ trong tay, ngước nhìn cô, sau đó quay sang nhìn đám giấy tờ, rồi lại nhìn cô - và hai tay bắt đầu lục túi tìm kính.

Cô đừng lại giữa phòng và thấy từ mọi phía, bốn mươi thằng đàn ông mặc đồ xanh quay lại quanh cô, và căn phòng trở nên yên lặng đến mức có thể nghe thấy cả tiếng bụng sôi òng ọc và tiếng ống dẫn của tụi Kinh niên nổ bôm bốp.

Cô ta mất hàng phút đưa mắt tìm McMurphy và trong thời gian đó, tất cả đã kịp ngắm nghía cô ta kỹ càng. Trên đầu cô, một đám khói xanh bay vật vờ; tôi nghĩ cố gắng hiệu chỉnh để thích nghi với việc cô chạy ào vào phòng đã làm các thiết bị trong toàn khoa cháy trụi - chúng đo đạc và tính toán rằng chúng không đủ sức xử lý một vật như thế trong khoa và cứ thế cháy trụi, như là các máy cùng tự sát.

Cô gái mặc một chiếc áo phông trắng như của McMurphy nhưng bé hơn nhiều, đi giày tennis màu trắng, quần bò cắt ngắn trên đầu gối để khỏi ứ máu chân, tóm lại là quá ngắn để che kín những gì cần phải che. Có lẽ đã từng có nhiều đàn ông nhìn cô ta hơn và cô cũng đã từng ăn mặc hở hang hơn nhiều, nhưng trong hoàn cảnh này cô ta bắt đầu ngượng ngùng bối rối như một nữ sinh bị gọi lên bục giảng. Tất cả nhìn cô và tất cả im lặng. Thực ra, Martini cũng thầm thì rằng có thể thấy cả năm đúc những đồng tiền trong túi quần của cô vì túi chật căng, nhưng đó là đo hắn đứng gần nên thấy rõ hơn tất cả.

Billy Bibbit phá vỡ sự im lặng đầu tiên, không phải bằng lời nói mà bằng cái huýt sáo nhẹ gần như đau đớn cho thấy hắn nghĩ ngoại hình của cô đẹp hơn bất ai trên đời. Cô nhoẻn miệng cười, nói với hắn rất cám ơn và Billy đỏ mặt ngượng ngùng làm cô ta cũng đỏ mặt theo và cười. Tất cả sôi động hẳn lên. Tụi Cấp tính bước gần lại với cô và đồng thanh hỏi chuyện. Gã bác sĩ thì giật giật áo Harding hỏi cô ta là ai. McMurphy nhổm dậy, rẽ đám đông bước lại và khi trông thấy hắn, cô ta nhảy bổ tới ôm cổ hắn và nói "Ôi, McMurphy, quỷ con!" rồi lại đỏ mặt lên. Những lúc đỏ mặt, trông cô như một thiếu nữ mười sáu, mười bẩy tuổi, và tôi thề cô cũng chỉ bằng ấy tuổi.

McMurphy giới thiệu cô với mọi người và với ai, cô cũng đưa tay ra bắt. Khi đến lượt Billy cô còn cảm ơn hắn một lần nữa. Mụ y tá ra khỏi phòng trực và vừa cười vừa hỏi McMurphy làm sao hắn có thể xế́p một lúc cả mười người vào một chiếc xe, và hắn hỏi lại có thể mượn xe của bệnh viện và tự hắn sẽ chở nửa đội được không, nhưng mụ, đúng như chúng tôi dự đoán, lại viện ra điều cấm kỵ gì đó. Mụ nói rằng nế́u không có người tài xế́ thứ hai ký giấy đàm bảo cho chúng tôi thì nửa đội đành phải ở lại. McMurphy nói điều đó làm hắn thiệt năm mươi đô vì phải trả lại tiền cho những đứa không đi.

"Vậy có lẽ là chúng ta nên hủy chuyến đi và trả lại tiền cho tất cả," mụ nói.

"Nhưng tôi đã nhờ thuê tàu rồi. Bảy mươi đô của tôi đã chui vào túi họ."

"Bẩy mươi đô la thôi ư, ông McMurphy? Hình như ông đã nói là cần góp đủ một trăm đô la cho chuyến đi, đó là chưa kể mười đô la của ông."

"Thế còn tiền xăng đến đấy và quay lại?"

"Cũng không thể hết ba mươi đô la, đúng không?"

Mụ ta mỉm cười thân thiện và đợi câu trả lời. McMurphy vung tay lên trời và ngước nhìn trần nhà.

"Ối giời, bà đã không bỏ qua cơ hội, bà thám tử ạ. Đúng thế, tôi đã biển thủ số tiền còn lại. Tôi nghĩ cũng phải thưởng công cho mình nữa chớ..."

"Nhưng kế hoạch của ông đã không thành." Mụ nói giọng thông cảm, vẫn mỉm cười. "Đâu phải mọi vụ đầu cơ tiền bạc của ông đều thành công, ông Randle, và nói chung, bây giờ nghĩ lại, tôi cho rằng ông gặp may thế là quá nhiều." Mụ dừng lại suy nghĩ, và tôi hiểu là sẽ còn được nghe tiếp về chuyện đó sau này "Vâng, mỗi bệnh nhân Cấp tính trong khoa ta không lúc này thì lúc khác đều đã cho ông tập giấy nợ sau mỗi phi vụ làm ăn của ông, Chả nhẽ ông cho rằng thất bại nho nhỏ này sẽ làm ông khánh kiệt ư?"

Và đế́n đây mụ im lặng vì thấy McMurphy không còn nghe nữa. Hắn đang mải nhìn gã bác sĩ. Còn gã thì đang quên hế́t mọi thứ trên đời, dán mắt vào cái áo phông của cô gái. Thấy gã trong tư thế trời trồng đó, McMurphy nở một nụ cười rộng ngoác đến mang tai, và hất chiếc mũ sau gáy hắn tiến đến, đặt tay lên vai gã bác sĩ. Gã giật nảy người.

"Bác sĩ Spivey, đã bao giờ ông nhìn thấy cá hôi Chinook mắc câu chưa? Trên cả bốn đại dương không có gì dữ dội hơn đâu. Candy, bé yêu, em hãy kể cho bác sĩ của bọn anh nghe về nghề câu cá và các chuyện khác đi..."

Chỉ mất có hai phút cùng phối hợp, McMurphy và cô gái đã làm cho gã bác sĩ xiêu lòng, lập tức đi đóng cửa phòng làm việc và trở lại với chúng tôi, vừa đi vừa nhét giấy tờ vào cặp.

"Tôi có thể làm các công việc hành chính trên thuyền." Gã giải thích cho mụ y tá rồi bỏ đi nhanh đến mức mụ không kịp đáp, còn cả đội theo sau gã nhưng chậm chạp hơn, ai cũng nhếch mép cười với mụ khi đi qua phòng trực. Những đứa nằm nhà tụ tập ở cửa phòng chung, dặn chúng tôi chưa đánh vẩy thì đừng có đưa cá về, còn Ellis cũng cố bứt bàn tay đóng đinh ra khỏi tường, bắt tay tạm biệt Billy Bibbit và hạ lệnh cho hắn phải trở thành kẻ lưới người.

Nhưng Billy Bibbit, đang mải đáp lại những cái nháy mắt của từng chiếc đinh đóng trên quần cô gái khi cô bước ra, chỉ nói ngắn gọn với Ellis là mặc mẹ cái lưới người của hẳn. Billy đuổi kịp cả bọn nơi cửa, thằng hộ lý nhỏ con đóng cửa và khóa lại sau lưng chúng tôi và chúng tôi đã ở bên ngoài.

Mặt trời chiếu xuyên qua mây và soi sáng hàng gạch viền phía trước luống hoa hồng. Làn gió nhẹ tỉa nốt những chiếc lá còn sót lại trên cây sồi và vun chúng lại thành từng đống ở chân lưới thép hàng rào. Thỉnh thoảng có mấy chú chim nâu đậu xuống lưới và chúng bay tóe lên khi cơn gió đột ngột ném một nắm lá lên đó, thoạt nhìn cứ ngỡ những chiếc lá đập vào bờ rào đã biến thành chim và bay đi.

Đó là một ngày thu hửng nắng tuyệt vời, có tiếng hò reo của trẻ con đập bóng đâu đây và tiếng động cơ của chiếc máy bay loại nhỏ, và dường như chỉ cần được đứng ở đây thôi, ở bên ngoài, cũng đã là hạnh phúc. Nhưng chúng tôi vẫn đứng túm tụm, đút tay vào túi và im lặng trong lúc gã bác sĩ đi lấy xe. Đứng túm tụm và im lặng, dõi theo những người dân thành phố phóng ô tô qua trên đường đi làm giảm tốc độ lại để nhìn những kẻ điên trong bộ quần áo xanh. McMurphy nhận thấy chúng tôi có vẻ khang khác bèn cố làm cả bọn vui lên bằng cách đùa cợt trêu chọc cô gái, nhưng chẳng hiểu sao điều đó lại làm cả bọn buồn thêm. Đứa nào cũng nghĩ: đơn giản hơn hết là quay về với bệnh viện và tuyên bố rằng bà y tá dẫu sao cũng đúng - gió mạnh lắm và sóng chắc hẳn cũng ớn lắm.

Bác sĩ lái xe đến, chúng tôi chất vào xe và lên đường: tôi, George, Harding và Billy Bibbit cùng xe với McMurphy và cô bé Candy còn Fredrickson, Sefelt, Scanlon, Martini, Tadem và Gregory ngồi xe của gã bác sĩ. Tất cả đều im thin thít. Đi được một dặm chúng tôi dừng lại ghé vào một trạm xăng, xe gã bác sĩ cũng vậy. Gã bước ra đầu tiên, và tên bán xăng chạy ra đón, mỉm cười xun xoe và chùi tay vào cái giẻ. Rồi hắn thôi cười và đi lướt qua gã bác sĩ, ngó xem trong xe rốt cuộc là có cái gì. Hắn bật trở lại, tiếp tục lau tay vào giẻ, mày cau lại. Bác sĩ bồn chồn tóm lấy tay áo hắn, rút ra tờ mười đô la và dúi vào lòng bàn tay hắn, như ươm một cây cà chua.

"Ông làm ơn tiếp cho hai xe này loại xăng thường." Gã bác sĩ đề nghị. Rõ ràng, cứ gì tụi tôi, ở ngoài bệnh viện gã ta cũng lúng túng như gà mắc tóc. "Ông làm ơn."

"Bọn mặc đồng phục kia," tên bán xăng nói, "đang điều trị ở bệnh viện ở đầu đường hả?" Hắn nhìn quanh tìm xem có cái cờ lê hay vật gì đó không. Cuối cùng hắn đi lại thùng đầy những vỏ chai nước ngọt có ga. "Mấy người ở cái nhà thương điên."

Bác sĩ lục túi tìm kính và cũng nhìn chúng tôi như đến giờ mới nhận ra những bộ quần áo xanh."Vâng, tức là không. Chúng tôi, ờ, họ ở đấy nhưng đây là đội công nhân chứ không phải bệnh nhân, tất nhiên, không phải. Đội công nhân."

Tên bán xăng nheo mắt nhìn bác sĩ, nhìn chúng tôi rồi quay đi thầm thì với tay thợ bạn đứng ở cột xăng. Chúng trao đổi với nhau, sau đó đứa thứ hai hú lớn gọi bác sĩ và hỏi về chúng tôi, và bác sĩ nhắc lại câu trả lời rằng chúng tôi là đội công nhân và cả hai tên phá lên cười. Theo tiếng cười, tôi hiểu là chúng đã quyết định bán xăng cho chúng tôi - chắc hẳn là xăng xấu, lẫn nước, vói giá cắt cổ - nhưng không vì thế mà vui vẻ gì hơn. Tôi có thể thấy tất thảy đều buồn bã. Chúng tôi càng rầu rĩ hơn vì sự dối trá của gã bác sĩ thì ít mà vì sự thật thì nhiều.

Tên thứ hai nhếch mép, sán lại gã bác sĩ. "Thưa ngài, ngài cần loại xăng Đặc biệt phải không? Có ngay chúng tôi có thể kiểm tra bộ lọc dầu và cần gạt nước được chứ ạ?" Gã to hơn bạn mình. Cúi xuống sát mặt bác sĩ, gã thì thầm như tiết lộ một bí mật. "Ông có tin hay không thì tùy nhưng theo thống kê, tám mươi tám phần trăm xe trên đường cần thay bộ lọc dầu và cần gạt nước."

Do nhiều năm phải vặn bugi bằng răng, nụ cười của hắn nhem nhuốc những than. Hắn cứ thế cúi sát xuống bác sĩ, nhe nụ cười khiến gã ta co giật và đợi xem khi nào gã mới chịu công nhận là bị dồn vào góc. "Nhân thể, đội công nhân của ông cũng cần kính đen chứ hẳn? Chúng tôi có thứ kính râm chống nắng rất tốt." Gã bác sĩ hiểu rằng hắn đã tóm được mình. Nhưng khi gã định đầu hàng và sắp mở miệng nói Vâng, chúng tôi xin chịu tất, thì vang lên tiếng kêu vo vo và mui xe chúng tôi bắt đầu gập lại. McMurphy đang vật lộn và chửi rủa với cái mui xếp, cố gập nó lại nhanh hơn mức máy móc cho phép. Cứ nhìn điệu bộ của McMurphy vừa gạt vừa đấm cái mui chầm chậm gập cũng đủ biết hắn đang nổi khùng đến mức nào; đến khi đã cuộn và đập và đẩy cái mui vào một chỗ hắn trèo qua cô gái và qua thành ra khỏi xe, bước tới đứng chắn giữa gã bác sĩ và tên tiếp xăng, nhìn cái mõm đen xì của y bằng nửa con mắt.

"Chú mày nghe đây tụi tao chỉ lấy xăng thường như ông bác sĩ đã nói. Xăng thường. Hai bình. Thế thôi. Vứt mẹ những thứ nhảm nhí khác đi. Và tụi tao được giảm ba phần trăm vì đoàn này là đoàn được chính phủ phê chuẩn. Rõ chưa?"

Tên bản Xăng khinh khỉnh "Sao? Tôi nghe giáo sư nói các anh không phải là bệnh nhân?"
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 26
"Chúng mày không ấm đầu đấy chớ? Ông ấy tốt bụng không muốn làm tụi mày sợ đó thôi. Nếu tụi tao chỉ là những bệnh nhân bình thường thì ông ấy chẳng tiếc gì mà không nói thật; nhưng tụi tao không chỉ điên mà tất cả từng đứa một đều thẳng từ trại tâm thần tội phạm ra và đang đi đến San Quentin để được cho vào một chỗ an toàn hơn. Chú mày nhìn thấy thằng nhỏ có tàn hương kia chứ? Trông như người mẫu trên bìa tờ Thư tín chiều thứ Bảy đúng không, nhưng nó là một tay ném dao phát rồ đã giết ba người rồi đấy. Còn cái thằng ngồi cạnh được gọi là Toán Trưởng Tâm Thần đấy nó điên cuồng như lợn lòi ấy và gã to lớn kia là người da đỏ đấy. Bằng cán cuốc, hắn đã đập chết một lúc sáu người da trắng vì đã tính gian khi mua lông thú của mình. Đứng dậy cho chúng nhìn coi, Thủ lĩnh."

Harding chọc ngón tay vào sườn tôi và tôi đứng lên. Tên bán xăng che tay ngang trán, nhìn tôi không nói một lời.

"Một toán nguy hiểm, khỏi bàn cãi," McMurphy nói. "Nhưng đây là một chuyến đi hợp pháp, có tổ chức và có kế hoạch vạch sẵn, do chính phủ phê chuẩn, và theo quy định tụi tao được giá như nhân viên FBI vậy; chú mày hiểu không?"

Tên bán xăng lại nhìn McMurphy, còn hắn thì nhét hai ngón tay cái vào túi quần, ngửa người trên hai gót chân nhìn trả lại qua cái sẹo trên mũi. Tên bán xăng quay đầu xem bạn mình còn đứng ở bên cạnh thùng vỏ chai không rồi nhếch mép cười với McMurphy.

"Ông anh nói họ nguy hiểm? Vậy là chúng tôi nên sắp hàng mà răm rắp làm theo lời ông anh, ông anh muốn vậy phải không? Thế còn ông anh, ông Tóc đỏ, thử nói xem ông làm sao mà phải vào đó? Kẻ ám sát tổng thống hử?"

"Anh bạn, điều đó còn phải đợi chứng minh. Qua đã bị đổ thừa một chuyện vớ vẩn. Đấm chết một tên trên võ đài, hiểu không? Và cứ thế qua quen tay."

"Thì ra ông anh là kẻ giết người đeo găng mà báo chỉ vẫn đưa đó hả?"

"Chẳng nhẽ ta nói vậy? Không, ta không quen đeo những cái gối mềm kiểu các chú. Những việc ta làm cũng không được truyền đi trên tivi từ Cow Palace. Không, ta chỉ quen đấm ở sân sau."

Tên bán xăng bắt chước McMurphy cũng đút hai ngón tay cái vào túi quần. "Ông anh quen bốc phét ở sân sau thì có, hiểu không."

"Chẳng nhẽ qua nói bốc phét không phải là một trong những tài nghệ của qua? Nhưng chú mày xem đây." Hắn dần dần đưa tay, chậm chạp quay lúc thì lòng bàn tay, lúc thì mu bàn tay sát tới mặt tên bán xăng. "Chú mày thấy thằng cướp khốn khổ nào bị thương tích đến thế này chỉ vì bốc phét chưa? Nhìn kỹ đi, chủ em!"

McMurphy giữ tay trước mặt tên bán xăng rất lâu, chờ đợi. Tên kia nhìn tay McMurphy, nhìn tôi rồi lại nhìn tay McMurphy. Thấy hắn rốt cuộc không còn gì để nói, McMurphy bỏ hắn đi lại chỗ đứa bạn của hắn đang tựa người vào chiếc tủ lạnh đựng nước ga. Bằng hai ngón tay, McMurphy rút tờ mười đô la mà gã bác sĩ dúi cho hắn và đi về phía của hàng thực phẩm bên cạnh.

"Tui bay cứ tính tiền xăng rồi gửi biên lai tới bệnh viện." Hắn quay đầu qua vai, hét to. "Còn với số tiền này tao sẽ mua chút gì tươi mát cho mọi người. Xem như thay vào cái cần gạt nước và tám mươi tám phần trăm bộ lọc dầu."

Khi hắn quay lại thì cả bọn đã hăng máu như gà chọi, đang hét vang, ra lệnh cho hai gã tiếp xăng kiểm tra áp suất ở bánh dự phòng và lau cửa kính và cạo hộ cứt chim ở nắp xe đi, cứ như chúng tôi là ông chủ ở đây. Gã to lớn không làm vừa lòng Billy Bibbit khi lau kính chắn gió và lập tức bị triệu tới.

"Mày còn chưa lau ch... chô... chỗ này, nơi... ru....tuồi đập vào đấy."

"Đây không phải là ruồi," tên kia cau có trả lời, cợ cọ móng tay trên kính. "Đó là chim."

Martini từ xe bên hét lên rằng đó không thể là chim được. "Nếu là chim thì phải có lông vũ và xương chứ?"

Một người đi xe đạp dừng lại và hỏi sao tất cả đêu mặc đồ xanh - một câu lạc bộ hay sao? Lập tức Harding ngó đầu ra.

"Không, anh bạn. Chúng tớ là những kẻ điên đang điều trị trong bệnh viện, những cái sọ dừa sứt mẻ của nhân loại. Anh bạn có muốn tớ giải nghĩa một vế́t mực Rorschach cho không? Không? Đang vội hả? Ôi, thế là đi mất, tiế́c quá." Hắn quay lại McMurphy. "Chưa bao giờ tao nghĩ bệnh tâm thần mang lại cho con người một sức mạnh nào đó, một sức mạnh thực sự! Nghĩ mà xem, chẳng phải con người càng điên thì càng mạnh mẽ? Hitler chẳng hạn. Còn vẻ đẹp thì làm chúng ta mất trí. Đáng để suy ngẫm đấy chứ."

Billy mở một hộp bia cho cô gái, và xúc động vì nụ cười tươi tắn và lời nói "Cám ơn Billy!" của cô, hắn mở bia lần lượt khao cả hội.

Còn hai gã bồ câu kia thì đang lồng lộn, đi đi lại lại trên hè phố, tay chắp sau lưng.

Tôi ngồi trong xe, cảm thấy trong người khỏe mạnh và sảng khoái; tu từng ngụm nhỏ, tôi nghe thấy cả tiếng bia chảy róc rách trong ruột. Từ lâu tôi đã quên mất rằng trên thế giới vẫn còn tồn tại những âm thanh êm tai và những vị ngọt dịu dàng như vậy. Tôi lại tu một ngụm lớn và nhìn quanh - liệu còn quên điều gì sau hai mươi năm?

"Ôi giời!" McMurphy nói, đẩy cô gái ra khỏi tay lái và ép sát cô vào vào Billy. "Xem Thủ lĩnh cao lớn của chúng ta đang dùng nước lửa kìa!" Và hắn rồ máy lao theo dòng ô tô hối hả trên đường, khiến gã bác sĩ cũng rít lên và phóng theo.

McMurphy đã cho chúng tôi thấy có thể đạt được những gì, với chỉ một chút dũng cảm và một chút bốc đồng. Va tôi nghĩ đã dạy chúng tôi cả làm thế nào để có được nó. Suốt dọc đường đến bờ biển, chúng tôi giả vờ tỏ ra dũng cảm và rất vui vẻ. Khi xe dừng lại trước cột đèn hiệu và mọi người bắt đầu nhìn chúng tôi và những bộ đồ xanh thì chúng tôi cũng hành động y hệt hắn: ngồi ngay ngắn, hiên ngang, nghiêm nghị với nụ cười rộng mở, chúng tôi nhìn thẳng vào mắt họ, làm cho động cơ trên ô tô của họ tắt ngấm đi và mặt kính ô tô sáng lòe lên trong nắng, tới khi đèn xanh đã bật mà họ vẫn không sao nổ máy được, Cứ đứng nguyên trong trạng thái hoang mang cực độ với một bầy khỉ nhăn nhở ngay bên cạnh và chẳng có ai xung quanh mà kêu cứu.

Và cứ thế McMurphy cầm đầu mười hai đứa phóng xe về phía đại dương.

Có lẽ hơn tất cả chúng tôi, McMurphy hiểu sự bốc đồng của chúng tôi là giả tạo, bởi đến tận giờ hắn vẫn chưa gây cười nổi cho một ai. Có thể hắn chưa hiểu tại sao chúng tôi không muốn cười nhưng đã ý thức được rằng người ta chưa phải là chúa tể thực sự chừng nào chưa thể nhìn mọi việc dưới cái mặt hài hước của nó. Hơn nữa, hắn lúc nào cũng cố gắng chỉ ra cái mặt hài hước ấy đến mức khiến tôi nghi ngờ: liệu hắn có nhìn thấy cái mặt kia không? Liệu hắn có nhận ra cái gì đã thiêu rụi tiếng cười ngay từ trong dạ chúng tôi không? Có thể những đứa còn lại cũng không nhận ra nổi điều đó, mà chỉ cảm thấy được áp lực của các tia, các tần số khác nhau đập vào mình từ các phía, uốn cong và xô đẩy họ lúc vào chỗ này lúc tới chỗ kia, cảm thấy Liên hợp đang tác động lên mình - nhưng tôi thì tôi nhận ra.

Cũng như người ta chỉ có thể nhận ra sự thay đổi trong mỗi con người sau một thời gian dài xa cách, trong khi những người gặp họ ngày lại ngày không hề để ý, bởi nó diễn ra rất từ từ. Trên toàn vùng ven biển, tôi nhận ra những dấu hiệu của sự đổi thay mà bàn tay Liên hợp đã tạo nên trong thời gian tôi vắng mặt, chẳng hạn: một chuyến tàu dừng lại trên sân ga rặn ra một đám đàn ông mặc những bộ quần áo và đội những chiếc mũ đóng dấu y hệt nhau, nom đều đặn như một lứa tằm, những sinh vật nửa sống nửa chết ì ầm ùa ra từ toa cuối, rồi động cơ điện lại rú lên và con tàu tiếp tục lao sâu vào những vùng đất hoang dại, đổ tiếp ở đâu đó một lứa sâu bọ nữa của mình.

Hay ví dụ năm nghìn ngôi nhà giống hệt nhau do máy móc đập khuôn rồi rải ra trên những quả đồi ở ngoại ô thành phố, chở thẳng từ nhà máy đến, còn mới tinh và móc vào nhau như một chuỗi xúc xích, một tấm biển thông báo ghi: TỔ ẨM MIỀN TÂY - NHŨNG NGƯỜI CÓ THÂM NIÊN KHÔNG PHẢI NỘP TIỀN ĐỢT ĐẦU, Còn phía dưới các ngôi nhà, sau hàng rào lưới mắt cáo là sân vận động và một tấm bảng khác: "THÁNH LUKE – TRƯỜNG HỌC DÀNH CHO NAM SINH", ở đấy có năm nghìn trẻ em mặc quần nhung xanh, áo sơ mi trắng, áo len xanh đang chơi rồng rắn trên một mảnh đất rải sỏi. Một đoàn trẻ em chạy quanh co, ngoằn ngoèo như con rắn, và mỗi lần quất đuôi lại bắn ra một cậu học sinh bé đứng cuối hàng, khiến cậu lăn lông lốc vào hàng rào như một búi cỏ lăn. Lần nào cũng vậy và cũng chỉ là cậu bé ấy văng ra.

Đó là năm nghìn chú bé sống trong năm nghìn ngôi nhà mà chủ nhân là những người đàn ông đã ùa ra khỏi tàu trên sân ga. Các ngôi nhà giống hệt nhau làm cho các chú bé luôn bị nhầm lẫn khi trở về với ngôi nhà và với gia đình của mình. Chẳng ai nhận ra điều gì. Ăn tối xong, các cậu lặn ra ngủ. Chỉ mỗi cậu bé cuối hàng là lúc nào cũng bị người ta nhận ra. Vì luôn bị sây sát mặt mày, trầy đa tróc vẩy nên người ta nhận ra chủ dễ như nhận ra một người lạ. Chú cũng không biết cách thoải mái và cười đùa như những đứa khác. Thật khó mà cười lên khi áp lực của bức xạ từ mỗi một cỗ xe mới trên phố, từ mỗi một ngôi nhà mới trên đường đi cứ đè nặng lên người.

"Chúng ta thậm chí có thể gây sức ép lên cả quốc hội." Harding nói. "Chúng ta sẽ thành lập một tổ chức. Hiệp hội những người tâm thần toàn quốc. Bầu những nhóm vận động. Treo những biển quảng cáo lớn trên đường, vẽ một gã thần kinh nói năng lảm nhảm đứng cầm máy phá tường với dòng chữ xanh đỏ to tướng: HÃY THUÊ NHỮNG NGƯỜI ĐIÊN. Tương lai chúng ta thật xán lạn, thưa các ngài."

Chúng tôi đi qua cầu trên sông Siuslaw. Trong không trung lơ lửng những đám bụi nước, đến nỗi thè lưỡi ra tôi đã có thể cẩm nhận được vị của biển trước khi nhìn thấy nó. Tất cả đều biết biển không còn xa nữa nên ngồi lặng im cho đến tận bến tàu.

Ông thuyền trưởng, người sẽ đưa chúng tôi ra khơi có cái đầu hói, xám như kim loại gỉ, nhô lên trên chiếc áo len cổ lọ màu đen trông giống tháp hỏa lực trên tàu ngầm; đầu điểu xì gà đã tắt trên miệng lướt một vòng qua chúng tôi. Đứng cạnh McMurphy trên cầu tàu bằng gỗ, ông vừa nói vừa nhìn ra biển. Phía sau ông, trên những bậc lên xuống có sáu, bẩy người mặc quần áo bạt đang ngồi trên ghế dài đặt trước cửa hiệu bán mồi câu. Thuyền trường nói to, nửa với những kẻ vô công rồi nghề và nửa với McMurphy, giọng nói bọc thép bắn ra đâu đó ở khoảng giữa.

"Tôi không cần biết. Tôi đã báo trước cho anh trong thư rồi. Nếu không có giấy tờ miễn trách cho tôi do cơ quan có thẩm quyền cấp thì tôi không thể ra biển được." Cái tháp hỏa lực quay quay trên cổ áo len, chĩa điếu xì gà vào chúng tôi. "Nhìn đấy. Cái đám này đi ra biển lại chẳng lao đầu qua thành tàu như chuột. Họ hàng các anh sẽ đưa tôi ra tòa, lột đến tận xương tủy ấy chứ. Tôi chẳng làm cái trò mạo hiểm đó đâu."

McMurphy giải thích rằng một cô gái khác ở Portland đáng lý ra phải làm các thủ tục đó. Một tên trong đám vô công rồi nghề tựa người vào của hiệu hét lớn: "Cô gái khác nào? Thế cô tóc vàng không trị được tất cả hay sao?" McMurphy không thèm để ý, tiếp tục tranh cãi với ông thuyền trưởng, nhưng có thể thấy cô gái bất bình đến mức nào. Bọn vô công rồi nghề đang chằm chằm nhìn cô và chụm đầu lại thầm thì với nhau. Cả đội thấy cảnh đó, kể cả gã bác sĩ, ai cũng xấu hổ vì mình không làm gì cả. Chúng tôi không còn là một lũ thích gây sự như ở trạm tiếp xăng.

Khi McMurphy hiểu rằng không thể thuyết phục nổi ông thuyền trường thì không tranh cãi nữa, và quay đầu nhìn quanh, vuốt vuốt tóc.

"Chúng tôi thuê thuyền nào?"

"Cái kia kìa. Cái Sơn Ca ấy. Không một ai trong các anh được bước lên boong khi tôi chưa nhận được giấy miễn trách. Không một ai trọi."

"Tôi thuê thuyền đâu phải để cả lũ ngồi đây suốt ngày ngắm nó dập dềnh ở bế́n." McMurphy nói. "Trong cái phòng mồi của ông có điện thoại không? Nào, thử khua lên xem công việc chạy được đến đâu."

Hai người nện bước lên các bậc thang, đi vào cửa hàng, còn chúng tôi thì cụm thành một đám trước cái lũ lười biếng đang vừa dò xét nhìn chúng tôi, vừa ném ra những câu nhận xét và cười đểu, cấu véo trêu chọc lẫn nhau. Gió làm lay động những con thuyền thả neo ở mép bờ, khiến mũi chúng cọ vào những bánh xe cao su ướt trên bến làm phát ra những âm thanh như nhạo báng chúng tôi. Sóng cười xôn xao dưới những tấm ván thuyền, và cái bảng con treo trước cửa hiệu:

Dịch vụ biển - chủ hiệu Block, th.trưởng

nghiến ken két khi gió đu lên nó trên những chiếc đinh han gỉ. Vỏ sò vỏ hến bám đầy cột chống cách mặt nước khoảng một mét, ngang mức thủy triều lên, cũng thổi sáo trong ánh nắng.

Gió trở nên mạnh và buốt hơn, và Billy Bibbit cởi áo khoác xanh đưa cho cô gái, cô choàng nó lên chiếc áo phông mỏng manh của mình. Một tên vô lại cứ luôn miệng gọi cô ta: "Này cô bé Tóc Vàng xinh đẹp ơi, em khoái bọn nhãi con thỏ đế ấy à?" Môi hắn thâm màu chì, mí mắt dưới màu củ cải đỏ, gió thổi như dán những mạch máu lên trên mặt hắn. "Này cô bé Tóc Vàng xinh đẹp ơi," hắn gọi đi gọi lại bằng một giọng kim mệt mỏi. "Bé Tóc Vàng ơi..., bé Tóc Vàng xinh đẹp ơi..."

Chúng tôi đứng sát vào nhau hơn để tránh gió.

"Bé Tóc Vàng ơi, chúng nhốt em vì lý do gì đấy?"

"Không phải đâu, Perce, cô ta là bộ phận điều trị đấy.""Có đúng thế không, bé Tóc Vàng ơi? Người ta thuê em đến điều trị à? Ôi, bé Tóc vàng!"

Cô gái ngẩng đầu lên và nhìn chúng tôi như muốn hỏi: đâu rồi đám người ngang tàng mà cô vừa thấy lúc nãy? Tại sao không ai bảo vệ cô? Chúng tôi ngó lơ đi, tránh ánh mắt cô. Sức mạnh ngang tàng của chúng tôi vừa mới khoác vai ông thuyên trường hói đầu đi lên những bậc thang kia mất rồi.

Cô dựng cổ áo khoác lên, hai tay ôm lấy khuỷu tay trước ngực và tách khỏi chúng tôi, đi xa ra ngoài bến tàu. Chẳng đứa nào nhúc nhích. Billy Bibbit rùng mình vì lạnh và lại cắn môi. Bọn vô lại vẫn tiếp tục thầm thì với nhau và cười phá lên.

"Hỏi cô ta đi, Perce!"

"Này, bé Tóc Vàng ơi, em đã bắt chúng ký giấy miễn trách của cơ quan có thẩm quyền chưa? Anh nghe nói nếu ai rơi xuống nước và chết thì họ hàng người đó sẽ kiện ra tòa đấy. Em nghĩ đến việc đó chưa? Hay em ở lại với bọn anh?"

"Đúng đấy, Tóc Vàng đáng yêu ạ! Họ hàng của anh không kiện ra tòa đâu, anh xin hứa. Hãy ở lại với bọn anh đi, bé Tóc Vàng ơi!"

Tôi hình dung mình đang cảm thấy hai chân ướt sũng, bởi cầu tàu đang chìm xuống vịnh vì xấu hổ. Chúng tôi không phù hợp với việc sống giữa mọi người. Tôi mong McMurphy chóng trở lại, cho tụi kia một bài học và lái xe đưa chúng tôi trở về đúng chỗ của mình.

Đứa có đôi môi xám xịt màu chì gập dao lại, đứng đậy và giũ giũ phoi bào trên đầu gối. Sau đó hắn bước tới bậc thang. "Nào, cô em Tóc Vàng, em đi với bọn gáo dừa này làm gì?"

Sát mép bến tàu, cô gái quay người lại nhìn hắn rồi nhìn chúng tôi, và có thể thấy rõ ràng là cô đang cân nhắc lời đề nghị của hắn khi ngay lúc đó cánh cửa hiệu dịch vụ mở toang và McMurphy bước ra, suýt nữa thì va phải cả lũ đang ngồi ở ghế dài và bước xuống.

"Cả đội lên tàu! Mọi việc đã xong xuôi! Nhiên liệu đã nạp đủ, mồi câu và bia ở trên boong."

Hắn vỗ đít Billy, đi một điệu nhảy lính thủy ngắn và bắt tay vào tháo dây chão.

"Thuyền trường Block đang nghe điện thoại, ông ta ra là chúng ta đi luôn. George, hãy thử động cơ xem sao! Scanlon và Harding tháo cái dây kia ra! Candy! Em làm gì ở đằng ấy đây? Lại đây nào, bé yêu, chúng ta sắp nhổ neo."

Chúng tôi bước xuống thuyền, vui mừng được làm bất cứ việc gì giúp mình tránh xa được bọn vô lại. Billy cầm tay cô gái và giúp cô bước sang tàu. George đang lầm rầm trước bảng thiết bị trên cầu chỉ huy, chỉ cho McMurphy bấm nút nào và quay cần nào.

"Ô, những chiếc thuyền tởm lợm này, chúng tôi vẫn gọi là đồ thổ tả," lão nói với McMurphy "Điều khiển chúng đơn giản như lái ô tô."

Gã bác sĩ có hơi do dự trước lúc bước lên boong và lại nhìn về phía cửa hiệu, nơi tụi vô lại đang tụ tập trước bậc lên xuống.

"Randle, có lẽ chúng ta nên đợi cho đến khi... ông thuyền trưởng..."

McMurphy túm lấy ve áo gã và nhấc bổng gã từ bến tàu đặt vào thuyền như nhấc một đứa trẻ. "Ôi bác sĩ," hắn nói. "Chúng ta đợi cái gì?" Hắn nói bằng giọng cáu kỉnh lẫn hồi hộp rồi phá lên cười như thằng say. "Đợi đến khi ông ta bước ra và nói tôi đã đưa cho ông ta số điện thoại của nhà trọ rẻ tiền ở Portland hả? Phải quá. Sao vậỵ George, quỷ tha ma bắt ông đi, hãy nhấc chân, động tay đưa chúng tôi ra khỏi đây ngay! Sefelt, tháo dây lẹ lên và đi lại đây George, nào, khởi hành!"

Động cơ rú lên rồi im bặt, rồi lại rú lên như đang hắng giọng, sau đó bắt đầu phành phạch nổ.

" Ô hô! Cô bé đã tỉnh dậy rồi. Nhồi thêm than vào, George. Toàn đội vào chỗ để đẩy bật những kẻ xâm nhập tàu!"

Một luồng bạc trắng lẫn khói và nước phụt ra phía sau đuôi tàu, và cánh của hiệu dịch vụ bật tung để cái đầu ông thuyền trưởng bắn ra từ đó và lao xuống cầu thang, kéo theo không chỉ cơ thể nặng nề của ông mà cả tấm thân của lũ vô công rồi nghề nữa. Chúng ào ào chạy xuống rồi dừng lại ngay nơi đám bọt đang chồm lên liếm chân bọn chúng khi George cho con tàu lớn lượn một vòng và biển cả đã là của chúng tôi.

Thuyền cua bất ngờ làm Candy khuỵu gối, Billy đỡ cô đứng dậy và cùng lúc tìm cách xin lỗi về cách xử sự của gã lúc ở trên bờ. McMurphy từ cầu chỉ huy tụt xuống, hỏi chúng có muốn ngồi riêng hai đứa để nhớ lại chuyện cũ không, và Candy nhìn Billy còn Billy chỉ có thể lắc đầu, lắp ba lắp bắp. McMurphy bảo vậy thì hắn sẽ cùng với Candy xuống hầm tàu xem nước có vào không, còn chúng tôi tự thu xế́p lấy ở đây. Hắn đứng ở cửa ca bin, cúi đầu và nháy mắt và phong chức thuyền trưởng cho George, chức thuyền phó thứ nhất cho Harding rồi nói: "Các bạn cứ tiếp tục" - và cùng cô gái biến mất sau cánh cửa ca bin.

Gió đã dịu, mặt trời lên cao mạ trắng đường chân trời phía Đông, những con sóng dài xanh thẫm lăn tăn xa xa. George cho thuyền chạy thẳng ra khơi hết tốc độ, bỏ lại bến tàu và hiệu dịch vụ trôi xa dần về phía sau. Khi thuyền đi qua đập chắn sóng và tảng đá đen cuối cùng, tôi cảm thấy một sự yên tĩnh lạ trong tâm hồn, và càng xa bờ thì sự yên tĩnh ấy càng sâu lắng.

Cả bọn đã hớn hở bàn tán đến mấy phút về việc đánh cắp thuyền, nhưng đến lức này tất cả đã im lặng. Cửa ca bin chỉ một lần hé mở và một cánh tay đẩy thùng bia ra, Billy mở cho mỗi đứa một chai bằng cái mở hộp hắn tìm thấy trong hộp đồ nghề. Chúng tôi vừa uống vừa ngắm đất liền đang chìm dần xuống biển sau đuôi tàu.

Đi được khoảng một hải lý, George trả tàu về "tốc độ câu cá" như lời lão nói và cử bốn đứa tới bốn cần câu nơi đuôi tàu, còn chúng tôi, những đứa còn lại, cởi áo và nằm sóng soài dưới nắng - đứa trên nóc ca bin, đứa ở mũi tàu, quan sát bốn thằng kia đánh vật với cần câu. Harding công bố luật là đứa nào giữ cần sau khi câu được con cá đầu tiên phải trao cần cho đứa khác chưa được câu thử. George đứng sau bánh lái, nheo mắt vì ánh mặt trời hắt qua kính chắn gió bám đầy muối và thét ra những lời chỉ dẫn, nào là phải sử dụng vòng dây và dây câu thế nào, nào là phải mắc mồi cá trích ra sao, ném câu xa bao nhiêu, thả mồi câu tới độ sâu nào:

"Cầm lấy cần câu số bốn và móc hòn chì mười hai aoxơ vào, trên cái thẻo câu ấy... Đợi tí, lão bày cho... và ta với chú mày sẽ kéo lên một con thật to từ tít tận đáy biển!"

Martini chạy lại bên thành tàu, gập người qua mạn tàu ngó xuống nước xem dây câu của hắn trôi đi đâu. "Ôi, trời đất, lạy Chúa!" hắn nói nhưng chúng tôi không rõ hắn nhìn thấy cái gì dưới đáy sâu.

Còn có những chiếc thuyền câu khác đang thả mồi ngang dọc ven bờ, nhưng George không hề có định lại gần họ, lão cứ thế lái thuyền lướt qua họ và phóng thẳng ra khơi. "Phải rồi," ông lão nói, "chúng ta sẽ đi đến chỗ những tàu đánh cá chuyên nghiệp, ở đó cá mới ra cá chứ."

Các con sóng trườn qua cạnh chúng tôi, một bên là màu ngọc bích, một bên ánh lên màu kền. Trong sự yên tĩnh của biển khơi, chỉ có tiếng động cơ lúc rú lên, lúc lại thở phì phì khi sóng thỉnh thoảng nhấn chìm ống xả xuống nước, và tiếng những con chim màu đen, lông xơ xác lượn quanh kêu lên những tiếng hoang mang và lạ lẫm hỏi đường nhau. Mọi vật còn lại đều lặng yên. Lũ chúng tôi đứa ngủ đứa nhìn xuống nước. Con thuyền bơi chầm chậm độ một tiếng đồng hồ thì bỗng nhiên cần câu của Sefelt bị bẻ cong, mũi cần chúi xuống nước.

"George! Chúa ôi, George, giúp chúng tôi với!"

George chẳng thèm chạm tay đến cần câu; ông lão chỉ cười khẩy và bảo Sefelt hãm cái thắng hoa mai lại, giữ cho chóp cần thẳng đứng – Thẳng đứng vào! - Và kéo, kéo mạnh!

"Thế nếu tôi lên cơn thì sao?" Sefelt hú lên.

"Lức đó tụi tao sẽ móc chú mày vào lưỡi câu và thả xuống làm mồi," Harding nói. "Nào, kéo đi, hãy tuân lệnh thuyền trưởng và đừng có nghĩ đến chuyện lên cơn nữa."

Cách thuyền khoảng ba mươi mét, một chứ cá toàn thân như dát bạc nhảy lên đớp mặt trời làm tung cao một đám bụi nước, và khi nhìn thấy nó Sefelt hồi hộp đên mức tròn xoe đôi mắt và lỏng tay khiến đầu cần chùng xuống, và đây câu bật lại lòng thuyền như một sợi chun.

"Lào đã bảo phải giữ cần câu thẳng đứng cơ mà. Vậy mà chú mày lại để nó kéo nằm ngang. Vứt, hiểu không? Phải giữ cho đầu cần câu thẳng đứng... thẳng đứng! Đáng ra chú mày đã câu được con cá khỏi chê, lạy Chúa!"

Khi cuối cũng cũng chịu đưa cần câu cho Fredrickson, Sefelt đã run lẩy bẩy mặt trắng bệch ra như sáp. "Thôi được, cầm lấy.. nhưng nế́u mày câu được con cá có lưỡi câu trong miệng thì nhớ đấy là con trời đánh của tao."

Tôi cũng hồi hộp không kém gì chúng. Tôi định không cầm cần, nhưng khi nhìn thấy sức manh thép của con cả hồi ở đầu lưỡi câu thì cũng tụt khỏi nóc ca bin, mặc áo vào và đợi đến lượt mình.

Scanlon bày trò cá cược: mỗi đứa chi năm mươi xu cho đứa câu được con cá to nhất và đứa câu được con cá đầu tiên, nhưng hắn chưa kịp nhét nắm tiền vào túi thì Billy đã kéo lên một con vật kỳ quái giống một con cóc năm kí vói hàng gai nhím trên lưng.

"Đây đâu phải là cá," Scanlon cãi. "Không thể coi là mày thắng cuộc được."

"Thê đây là ch... chi... chim sao?"

"Đấy là cá mú biể́n," George nói vói chúng tôi. "Một loại cá ăn rất ngon khi lột hết mụn cóc trên da."

"Hiểu chưa? Đây là cá! X... xì tiền ra."

Billy trao cần câu cho tôi và lấy tiên, buồn bã nhìn vào cánh cửa ca bin đóng im ỉm đang giam McMurphy và cô gái ở trong rồi ngồi xuống cạnh đấy "T... ti... tiế́c quá, không đủ cần câu cho cả bọn," hắn nói và tựa lưng vào ca bin.

Tôi ngồi cầm cần câu, nhìn đây cước rải ra sau đuôi tàu. Ngửi mùi không khí và tôi cảm thấy bốn hộp bia vừa uống đã làm chập các dây dẫn kiểm soát bên trong: khắp quanh tôi, những con sóng bạch kim lấp lánh dưới ánh mặt trời.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 27
George gọi to kêu chúng tôi nhìn về phía trước, ở đó có thứ mà cả đội đang săn lùng. Tôi quay sang nhưng chỉ thấy một khúc gỗ trôi vật vờ và một bầy hải âu đang lượn tròn và ngụp lặn xung quanh như một đám lá đen bị xoáy bụi cuốn vào. George hướng mũi thuyên đến đấy và tăng tốc độ, khiến dây câu của tôi căng ra tới khi tôi thấy giờ thì không thể đoán nổi lúc nào cá cắn câu.

"Những chú chim cốc này luôn bám theo đàn cá nến," George nói vói chúng tôi trong lúc vẫn cho thuyền đi, "Chúng chỉ nhỏ bằng ngón tay và trắng. Nếu đem sấy lên thì cháy như nến ấy. Có thể chén được, nhưng thường dùng làm mồi câu cá. Ở đâu có cá nến thì ở đó chắc chắn có cá hồi."

Lão cho thuyền bơi vào giữa đám chim, lướt qua khúc gỗ, và xung quanh tôi những con sóng bạch kim bỗng sôi động hẳn lên bởi những con chim đang ngụp lặn và đàn cá quẫy, giữa cái đám hỗn độn ấy nổi lên những tấm lưng cá hồi xanh hạc, thanh mảnh. Tôi nhìn thấy một cái lưng nghĩ lại, uốn mình quay lại và lao tới một điểm cách mũi câu của tôi khoảng ba mươi mét, nơi chắc hẳn là lưỡi câu có mắc mồi cá trích của tôi. Tim tôi rộn lên, tôi chuẩn bị, rồi bỗng hai cánh tay tôi bị giật manh một cái như có ai đó dùng gậy đánh bóng chày đập vào câu, và sợi cước đỏ như một dòng máu trôi nhanh khỏi ống đây dưới ngón tay "Kéo cái thắng hoa mai ấy!" George hét lên với tôi, nhưng tôi chỉ đè ngón tay cái lên sợi đây mạnh hơn vì không biết thắng hoa mai là cái gì, tới khi dây câu chuyển lại thành màu vàng, trôi chậm rồi dừng hẳn lại. Tôi ngoái nhìn, ba cần câu xung quanh cũng đang quăng quật tứ tung, những đứa đang ngồi trên ca bin cũng hội hộp nhảy ào xuống và làm đủ mọi trò để vướng đường vướng lối.

"Thẳng đứng! Thẳng đứng! Giữ đầu cần thẳng đứng!" George la.

"McMurphy! Ra mà xem."

"Trời đất, Fred, mày tóm đúng con cá của tao!"

"McMurphy, giúp bọn tao với!"

Tôi nghe thấy tiếng McMurphy cười và qua đuôi mắt, còn nhìn thấy cả hắn, đang đứng ở cửa ca bin vẻ mãn nguyện và chẳng hề động đậy một li, còn tôi thì quá mãi mê vói con cá của tôi nên không nhờ hắn. Tất cả đều gọi hắn, yêu cầu hắn làm cái gì đó, nhưng hắn chẳng thèm cựa quậy Thậm chí gã bác sĩ, phụ trách cần số bốn ở tầng nước sâu cũng gọi hắn ra phụ giúp. Vậy mà hắn chỉ đứng cười. Cuối cùng cũng hiểu là chẳng trông cậy gì được ở McMurphy, Harding bèn tự cầm lấy câu liêm và bằng một động tác chính xác, thành thạo như đã từng làm việc đó suốt đời, hất con cá của tôi lên thuyền. Con cá to bằng cả cái cột rào, chắc nịch như bắp đùi của tôi, tôi thầm nghĩ. Ở thác nước của bộ lạc, chưa có ai bắt nổi một chú cá hồi to như vậy. Nó giãy đành đạch ở đáy thuyền, như một chiếc cầu vồng hóa dại! Máu phun ra và vẩy bắn tung tóe như những đồng xu bạc, tôi chỉ sợ nó nhảy qua mạn thuyền và thoát mất. McMurphy không có định lại giúp. Scanlon tóm lấy con cá đè xuống sàn, không để nó quẫy qua mạn thuyền. Cô gái từ phía sau chay vội tới, kêu lên rằng bây giờ đến lượt cô, mẹ khỉ, và giằng ngay lấy cần câu của tôi; trong khi tôi cố gắng móc con cả trích vào lưỡi câu cho cô thì cô đã ba lần kịp móc lưỡi câu vào tôi.

"Thủ lĩnh! Em chết mất nế́u gặp phải ai chậm chạp như anh! Ôi, tay anh máu lòa. Con quỷ ấy cắn anh đấy hả? Ê ai đấy băng hộ tay cho Thủ lĩnh với - nhanh lên!"

"Chúng ta vào bãi cá lần nữa nghe!" George kêu lên, còn tôi thả đây câu xuống và thấy con mồi cá trích lấp lánh biến mất khi cái bóng xanh thẫm của một con cả hồi lao qua, dây câu rin rít nhả xuống nước. Cô gái nghiến răng và vòng cả hai tay ôm lấy cần câu. "Ổ, không, không được, quỷ bắt mày đi!... Ô, đừng cả gan!"

Cô ta đi chân trần, đuôi cần câu đập vào giữa hai đùi cô và cả hai tay ôm lấy phía dưới ống dây đang xoay tít, tay quay đập cả vào ngực cô. "Ô, đừng láo xược!" Trên người cô vẫn cái áo khoác xanh của Billy Bibbit, nhưng tay quay của ống dây đã làm khuy áo tung hết ra. Và tất cả mọi người trên thuyền đều thấy cái áo phông ở trong không còn nữa - cả những đứa đang trố mắt nhìn, lẫn những đứa đang vật lộn với con cá của hắn, hoặc nhảy tránh con cá của tôi đang quật đuôi dưới sàn tàu, và cần gạt tay quay đập vào ngực cô nhanh tới nỗi đầu vú chỉ còn là một vệt đỏ loang loáng.

Billy nhảy tới giúp. Hắn không nghĩ ra được cách gì tốt hơn là ôm lấy cô gái từ phía sau và ép mạnh hơn nữa cán câu vào giữa hai ngực cô cho tới khi cuối cùng ống dây cũng ngừng quay vì sức ép của thân thể cô gái. Lúc đó cả da thịt cô gái lẫn đôi vú đều căng lên và đóng cứng lại, tưởng chừng nêu cả hai đều buông tay thì cần câu cũng chẳng thể rơi xuống.

Cảnh hỗn loạn đó diễn ra chỉ trong phút chốc, một tích tắc giữa biển khơi - mọi người la hét, vật lộn và chửi rủa, vừa loay hoay với cần câu cá, vừa muốn chiêm ngưỡng cô gái; trận chiến quyế́t liệt của Scanlon với con cá của tôi trong khoang thuyền, ngay dưới chân họ; dây câu rối cả vào nhau, chạy đi khắp ngả, cặp kính có dây đeo của gã bác sĩ mắc vào mớ bùng nhùng ấy và treo lơ lửng sau đuôi tàu ba mét, lũ cá đâm bổ vào mắt kính sáng lóa; cô gái chửi độc địa hết câu này đến câu khác khi nhìn xuống bộ ngực lõa lồ của mình một bên trắng xanh, một bên đỏ lựng màu tôm luộc - cả George cũng quên mắt rằng mình đang cầm lài trong phút chốc và con tàu húc vào khúc gỗ khiến động cơ hộc lên rồi tắt ngấm.

Còn McMurphy chỉ cười hô hố. Lắc la lắc lư càng lúc càng xa thêm trên nóc ca bin, hắn cười vang mặt biển - cười cô gái, cười cả bọn, cười George, cười tôi mút ngón tay chảy máu, cười ông thuyền trường ở bến tàu và anh chàng đi xe đạp, cười hai gã tiếp xăng, cười năm nghìn ngôi nhà, cười mụ y tá và tất tật những gì còn lại. Bởi hắn biết để giữ được thắng bằng và để thể giới không làm mình phát điên thì phải biết cười vào mũi tất cả những gì đang làm khổ mình. Hắn biế́t rõ cái mặt đắng cay, biết rằng tay tôi đau, rằng bộ ngực bạn gái hắn vừa bị bầm dập, rằng gã bác sĩ bị mất kính, nhưng hắn không để nỗi đau lấn át tiế́ng cười cũng như không cho phép tiếng cười thay thế nỗi đau.

Tôi nhận thấy Harding đã ngồi sụp xuống cạnh McMurphy, cũng cười ngặt nghẽo. Và cả Scanlon dưới sàn tàu cũng thế. Chúng tự cười mình và cười tất cả. Và cô gái với bộ ngực bên trắng bên đỏ và đôi mắt vẫn còn rát bỏng, cũng phá lên cười. Và cả Sefelt, cả gã bác sĩ, tất cả đều cười.

Điều đó bắt đầu một cách chậm chạp rồi tự bơm căng mình lên, thổi cho từng người mỗi lúc một to dần. Tôi đứng giữa họ, dõi theo họ và cùng cười với họ nhưng lại như không cùng với họ. Tôi đã thoát khỏi thuyền và đang bay trên mặt nước, hòa trong gió cùng với những con chim đen, bốc cao lên trên chính mình, nhìn xuống dưới tôi trông thấy mình và những người khác, thấy con thuyền tròng tranh giữa đàn chim đang ngụp lặn, thấy McMurphy và mười hai đứa xung quanh đang nhìn hắn, và nhìn tiếng cười của chúng tôi vang vang trên sóng, lan tỏa ra xung quanh mỗi lúc một xa hơn, cho tới khi nó đổ ập xuống khắp các dải cát ven bờ, khắp các đài cát ven tất cả các bờ, hết đợt này đến đợt khác.

Lưỡi câu của gã bác sĩ móc phải một con gì đó ở tít tận đáy sâu, và khi mỗi chúng tôi trừ George đều đã câu được một con cá thì gã kéo được nó lên tới gần bờ đến mức chúng tôi gần như thấy được - chỉ là một vệt sáng lấp lánh hiện ra, nhưng lại lặn sâu xuống bất chấp gã tìm mọi cách giữ lại. Cứ mỗi lần gã hì hục kéo lên gần mặt nước, vừa lôi vừa cuộn với những tiếng phì phò bướng bỉnh và không nhờ vả bất cứ một ai, thì con cá vừa nhìn thấy ánh sáng đã lập tức lộn trở lại đáy biển.

George cũng chưa vội khởi động máy mà xuống chỗ chúng tôi, chỉ dẫn cách làm cả để vẩy bay ra khỏi boong tàu và cách bóc mang cá thế nào để khỏi mất ngon. McMurphy buộc hai mẩu cá vào hai đầu một sợi dây đài độ một mét và tung lên trời, khiến hai con chim the thé chộp lấy rồi bay mất hút: "Tới khi cái chết chia lìa chúng".

Toàn bộ đuôi tàu và hầu như tất cả mọi người đều vấy màu đỏ và bạc. Vài đứa cởi áo và giũ ra ngoài boong tìm cách gột sạch. Cứ như thế cho đến tận chiều chúng tôi trôi nổi, thỉnh thoảng câu cá, uống hết hòm bia thứ hai và thỉnh thoảng ném cho chim ăn, trong khi con tàu lười biếng ngả nghiêng trên sóng còn gã bác sĩ vẫn kiên trì với con cá quỷ quyệt ở tít tận đáy sâu. Gió thổi mạnh hơn, băm biển ra thành những mảnh vụn trắng và xanh giống một cánh đồng phủ kính và kền, và tàu cũng bắt đầu lắc lư dữ dội. George nói với gã bác sĩ hoặc là lôi cá lên hoặc là cắt dây câu đi - thời tiết xấu lắm. Bác sĩ không trả lời. Gã chỉ kéo mạnh hơn nữa, đổ người về trước và quấn dây rồi lại kéo.

Billy và cô gái đã trèo về đằng mũi, vừa nói chuyện vừa nhìn xuống nước. Phát hiện ra một vật gì đó, Billy liên kêu lên và tất cả chúng tôi chạy bổ lại, và một vệt trắng và rộng bắt đầu hiện hình ở độ sâu ba hay năm mét. Thật lạ lùng khi quan sát nó nổi lên: thoạt tiên nước như đổi màu, Sau đó là một hình hài màu sáng, trông như một đám sương mù dưới nước, cuối cùng cũng hiện ra, quẫy động...

"Bố khỉ," Scanlon hét lên. "Đây là con cá của bác sĩ!"

Gã đang đứng phía bên kia boong, nhưng theo hướng dây câu chúng tôi hiểu nó đang bị kéo căng về con vật màu trắng dưới làn nước.

"Chúng ta không kéo nổi nó lên thuyền đâu," Sefelt nói. "Mà gió thì đang mạnh lên."

"Đấy là cá thờn bơn," George bảo. "Thỉnh thoảng có con nặng một trăm, trăm rưỡi kí. Phải dùng tời mới kéo lên được"

"Đành phải cắt dây thôi, bác sĩ," Sefelt nói và ôm lây hai vai gã. Bác sĩ không trả lời; lưng áo vest ướt đẫm mồ hôi, đôi mắt do nhìn lâu không kính đỏ vằn lên. Gã vẫn tiếp tục kéo cho đến khi con cá xuất hiện ở phía gã. Khi nó đã nổi lên gần mặt nước, chúng tôi còn ngắm nghía một vài phút rồi mới chạy đi chuẩn bị dây thừng và câu liêm.

Dùng câu liêm vất vả một giờ chúng tôi mới kéo được con cá lên đuôi thuyền. Cả ba cần câu còn lại đều phải dùng đến, và McMurphy cúi gập người xuống, tóm lấy hai mang và sau một tiếng hú con cá trườn qua mạn thuyền, trắng bạch và to như tấm phản, ngã đánh bạch xuống sàn cùng gã bác sĩ.

"Rất đặc biệt," dưới sàn, bác sĩ thở hồng hộc, không còn một tí sức lực nào để đẩy con cả ra khỏi mình nữa. "Đây là một điều thật... đặc biệt."

Trên đường về lại bờ, tàu lắc mạnh, kêu lên kèn kẹt, McMurphy còn thết đãi chúng tôi những câu chuyện rùng rợn về những vụ đắm tàu và cá mập đớp người. Càng vào gần bờ, sóng càng dữ; từ đỉnh các ngọn sóng, những đám bọt nước trắng bay ra cuốn theo gió cùng với những con hải âu. Nơi đập chắn, sóng dựng lên cao hơn cả thuyền và George ra lệnh cho chúng tôi mặc áo phao. Tôi nhìn thấy tất cả thuyền câu chơi đều đã được neo lại ở bến.

Áo phao thiếu ba cái, thế là nổ ra tranh cãi xem ai sẽ bơi người không qua cồn cát ngầm. Cuối cùng rơi vào Billy Bibbit, Harding và George, ông lão đằng nào cũng không chịu mặc áo vì sợ bẩn. Billy đã làm cả bọn ngạc nhiên khi vừa biết là thiếu áo, hắn đã cởi ra và khoác lên người cô gái, nhưng chúng tôi càng ngạc nhiên hơn vì McMurphy chẳng giành làm một trong số người hùng; trong lúc cả bọn mải tranh cãi, hắn chỉ đứng dựa lưng vào ca bin, gồng người để khỏi bị lắc, nhìn cả lũ và im lặng. Chỉ nhìn và cười mỉm.

Khi tới cồn cát, Chúng tôi bị sa vào hẻm nước, mũi tàu chồm lên đỉnh sóng sủi bọt đang lăn phía trước, Còn đuôi tàu nhấn xuống rãnh sóng với con sóng đằng sau chỉ chực vồ lấy chiếc tàu, và những đứa ngồi sau bám chặt lấy tay vịn, lúc thì nhìn lên con sóng cao như núi đang đuổi theo, lúc thì nhìn những tảng đá đen của đập chắn cách sườn trái khoảng mười mét, lúc lại nhìn George vặn bánh lái. Lão đứng sừng sững như cột buồm. Lão hế́t ngoảnh đầu ra sau lại quay đầu về trước, tăng ga, nhả, rồi lại tăng, luôn luôn giữ cho tàu ổn định ghế́ch mũi lên sườn phía sau con sóng. Ông lão đã nói trước khi ra khơi rằng nếu leo lên đỉnh con sóng trước thì tàu sẽ bị cuốn đi như chiếc lá vì bánh lái và chân vịt sẽ trượt ra khỏi nước, ngược lại nế́u chậm chạp thì con sóng phía sau sẽ ào đến và đổ ập hàng chục tấn nước lên tàu. Không ai dám trêu chọc và đùa cợt về cái đầu ông lão đang quay quay trên cổ như trên chiếc bản lê.Sau đập chắn chỉ còn lại những con sóng nhỏ và gấp gáp, và trên bế́n tàu, cạnh cửa hiệu, chúng tôi thấy ông thuyền trường và hai cảnh sát đang đứng sát mép nước. Còn bọn vô công rồi nghề ban sáng tụ tập đằng sau. George lao thẳng thuyền hết tốc độ vào chúng, tới khi ông thuyền trưởng hét lên tay huơ loạn bậy còn hai cảnh sát và lũ vô lại nhẩy vội lên các bậc thang. Khi mũi tàu dường như sắp hất tung cầu tàu thì George quay bánh lái, lùi hế́t về sau và với tiếng hú inh tai, ép con thuyền vào đệm cao su, nhẹ nhàng như ủ đứa trẻ vào nôi. Khi những con sóng bạc đầu chồm tới thì chúng tôi đã lên bờ an toàn và đang buộc tàu vào cọc; con sóng nâng những chiếc thuyền bên cạnh lên cao, vỗ vào cầu tàu rồi chạy tế trở lại, phủ lên cầu tàu bao nhiêu bọt, tưởng như chúng tôi mang theo cả biển về đây.

Ông thuyền trưởng, hai viên cảnh sát và lũ lười biếng vội vã chạy tới. Bác sĩ tấn công trước: gã nói với hai viên cảnh sát rằng chúng tôi không thuộc quyền pháp luật của họ, bởi vì chúng tôi là một đoàn hợp pháp, được chính phủ phê chuẩn, và nếu có ai muốn xem xét việc này thì đó chỉ có thể là cơ quan Liên bang. Ngoài ra, nếu ông thuyền trưởng muốn làm to chuyện thì có thể điều tra thêm về chuyện tại sao trên tàu không đủ áo cứu sinh? Bởi vì theo luật thì mỗi người phải có một chiếc, không phải thế sao? Khi thấy ông thuyên trường đã cứng họng, hai cảnh sát cũng chỉ ghi vội mấy tên họ rồi lầu bầu bỏ đi; họ vừa rời bến thì McMurphy và ông thuyền trường bắt đầu cãi cọ và xô đẩy lẫn nhau. McMurphy say đến mức hắn vẫn còn đung đưa để nhịp với con tàu và hai lần hắn trượt té trên sàn gỗ ướt và rơi xuống biển, trước khi đứng vững được và đấm vào cái đầu hói của ông thuyền trưởng; đến đây cuộc cãi vã kết thúc. Tất cả đều hài lòng là chuyện rốt cục đã xong, và ông thuyền trưởng cùng McMurphy vào cửa hiệu lấy thêm bia còn chúng tôi khiêng cá ra khỏi thuyền. Lũ vô lại đứng đằng xa, vừa nhìn chúng tôi vừa nhồi thuốc vào mấy cái tẩu tự gọt. Chúng tôi đợi bọn chúng lại nói những câu xúc phạm đến cô gái, mong nữa là khác, thực tình, nhưng khi đứa đầu tiên mở mồm thì những lời hắn phát ra chẳng hề đụng chạm gì tới cô mà là theo hắn nhớ, trên toàn vùng biển Oregon chưa có ai câu được con cá thờn bơn to như thế này. Bọn còn lại gật đầu - đúng thế! Và chúng bước đến gần ngó nghiêng, nhìn con cá. Chúng hỏi George học được ở đâu cách cập thuyền như vậy và chúng tôi mới biết té ra rằng George không chỉ là dân câu loại sành mà đã từng là thuyền trường một tàu tuần tiễu ở Thái Bình Dương và đã được thưởng huân chương chữ thập. "Lão có thể lãnh một trọng trách quốc gia đấy nhỉ," một đứa nói.

"Mấy chỗ đó bẩn lắm," George trả lời.

Chúng đã nhìn thấy điều mà chúng tôi mới chỉ hơi hơi cảm thấy: đây không còn là một lũ sợ sệt và yếu đuối từ nhà thương điên để chúng tha hồ làm nhục như ban sáng. Chúng không trục tiếp xin lỗi cô gái vì những lời nói sỗ sàng sáng nay nhưng nhã nhặn đến khó tả khi xin phép được xem con cá của cô. Khi McMurphy cùng ông thuyền trường từ của hiệu trở ra, chúng tôi còn uống với bọn chúng một chầu bia chia tay.

Đoàn trở về bệnh viện khá muộn.

Cô gái ngủ trên ngực Billy và khi cô tỉnh dậy tay hắn đã tê cứng vì giữ cô suốt dọc đường trong một tư thế rất bất tiện, và cô xoa bóp tay cho hắn. Hắn nói với cô rằng, nếu hắn được ra khỏi bệnh viện vào một ngày nghỉ nào đấy, hắn muốn gặp lại cô, còn cô gái nói hai tuần nữa cô có thể tới thăm hắn, chỉ cần hắn ấn định thời gian, đến đây Billy nhìn McMurphy cầu viện. McMurphy ôm vai cả hai và nói: "Vậy thì vào hai giờ đúng nhé!"

"Trưa thứ Bảy hả?" cô hỏi lại.

Hắn nháy mắt với Billy và kẹp khuỷu tay ôm đầu cô gái. "Không. Hai giờ đêm thứ Bẩy: Em lẻn đến và gõ vào đúng cái của sổ như ban sáng. Anh sẽ thuyết phục tên hộ lý để hắn cho em vào."

Cô gái cười khúc khích và gật đầu, "Anh láu như quỷ McMurphy ạ!".

Vài đứa Cấp tính còn chưa đi ngủ, đợi cạnh buồng vệ sinh xem chúng tôi đã chết đuối hay chưa. Cái chúng thấy là một đoàn những anh hùng thắng trận trở về, cả bọn ổn ĩ bước vào hành lang, tay xách cá hồi, người vấy máu, cháy nắng, bốc mùi bia và cá. Bác sĩ hỏi chúng có muốn xem con cá thờn bơn của gã ngoài thùng xe không, và tất cả quay ra, trừ McMurphy. Hắn nói với hắn thế đủ rồi và tốt hơn hế́t là chui vào giường ngủ. Khi McMurphy đi khỏi, một đứa trong đắm ở nhà hỏi tại sao McMurphy phờ phạc và mệt mỏi trong lúc những đứa khác thì hớn hở và vui vẻ đến vậy. Harding giải thích đó là đo McMurphy say nắng.

"Bọn mày nhớ chứ, McMurphy tràn trề sức lực đến đây sau khi đã được tôi luyện trong một cuộc sống khắc nghiệt ở nơi thoáng đãng và tự do, tức ở trại cải tạo, mặt đỏ tía và cơ thể bừng bừng sức sống. Chẳng qua là chúng ta đã được chứng kiến sự phai nhạt của nước da sạm nắng trên cơ thể một người thái nhân cách tuyệt vời mà thôi. Dĩ nhiên hôm nay anh cũng đã phải làm việc kiệt sức hàng giờ liền - mà chẳng may lại là trong hầm tối, trong khi bọn tao phơi mình ra giữa thiên nhiên hấp thụ Vitamin D. Tất nhiên, cái công việc trong hầm kín ấy có thể đã làm anh ta kiệt sức phần nào, bọn mày tự tưởng tượng lấy Còn tao, tao sẵn sàng đổi một phần Vitamin D để lãnh cái việc hao tâm tổn lực đó. Đặc biệt khi cô bé Candy làm chỉ huy trưởng. Tao có nhầm không nhỉ?"

Tôi không nói, nhưng nghĩ rằng có thể Harding nhầm. Tôi đã nhận ra sự mệt mỏi của McMurphy từ trước đó, trên đường về, khi hắn đòi mọi người tạt ngang qua thị trân hắn đã ở thời thơ ấu. Chúng tôi vừa mới uống xong ngụm bia cuối cùng, Vứt lon rỗng qua cửa sổ ngay trước bảng hiệu Stop, và ngả người trên ghế tận hưởng mấy phút cuối cùng trong ngày, nhấm nháp cảm giác gà gật ngọt lịm chỉ có được sau khi người ta đã trải qua một ngày kiệt lực trong hoạt động mà mình ưa thích - người bỏng vì nắng và mềm ra vì rượu, chỉ cố tỉnh giấc vì còn muốn kéo dài khoái cảm. Một ý nghĩ mơ hồ chợt lóe lên trong tôi rằng có thể tôi đã có được khả năng thấy những điều gì đó tốt đẹp trong cuộc đời. McMurphy đã dạy được cho tôi một cái gì đó. Không nhớ đã có lúc nào tôi cảm thấy sung sướng thế này chưa - họa chăng chỉ là thời niên thiếu, khi tất cả đều tốt đẹp và mảnh đất còn bình yên như lời ru của mẹ.

Chúng tôi không đi dọc bờ biển mà tạt sâu vào trong để được qua cái thị trấn mà McMurphy đã từng sống lâu hơn cả trong cuộc đời lang thang của hắn. Men theo sườn dốc của dẫy đồi Cascade, nghĩ rằng cả toán đã bị lạc cho đến khi... tới một thị trấn chỉ rộng gấp đôi khu bệnh viện của chúng tôi. Trên phố, bụi cát che mờ cả mặt trời khi McMurphy dừng xe lại giữa một đám cỏ dại và chỉ sang phía bên kia đường.

"Đằng kia kìa, thấy không? Tuổi trẻ dại khờ của tao đã trôi qua trong căn nhà rách nát dựng giũa đám cỏ ấy."

Phố xá ảm đạm giữa buổi chiều tà, cây cối trơ trọi giáng xuống vỉa hè như những tia chớp gỗ, khiến bê tông nứt toác ra dưới chân: cây nào cũng bao trong một bờ rào kín mít. Một hàng rào sắt dựng lên tua tủa trước mảnh sân đầy cỏ dại và sau lưng là ngôi nhà gỗ to có mái hiên, chìa đầu hồi già cỗi về hướng gió như để khỏi bị thổi lăn lóc trên phố như một cái hộp các tông rỗng. Gió mang những giọt nước đến, khóa dây trước cửa rung lên xủng xẻng và tôi nhìn thấy cặp mắt của ngôi nhà nheo tít lại.

Và trước hiên nhà treo lủng lẳng thứ đồ chơi kiểu Nhật Bản làm từ những mảnh thủy tinh treo đầu những sợi đây - bất kỳ một làn gió nhẹ nào cũng làm chúng rung lên leng keng - chỉ còn lại vẻn vẹn bốn mảnh. Chúng lay động, va đập vào nhau, vỡ ra những vụn li ti trên sàn gỗ.

McMurphy sang số.

"Có một lần ở đây.. quỷ biết là khi nào - khi tụi tao từ vụ lộn xộn ở Triều Tiên trở về. Tao ghé thăm nhà. Ông bô bà bô vẫn còn sống. Một gia đình tốt đẹp."

Hắn nhả côn cho xe chạy rồi lại phanh lại.

"Ôi, lạy Chúa," hắn nói, "tụi bay nhìn kìa, có thấy cái váy không?" Hắn chỉ ra sau. "Kìa, nhìn xem trên cành cây đó? Cái giẻ vàng có sọc đen đó."

Tôi ngoảnh nhìn: trên mái nhà kho, giữa các cành cây phất phơ một cái gì đó như một lá cờ.

"Đấy là chiếc váy của cô bé đầu tiên đã kéo tao vào giường. Tao mới lên mười, cô ta có lẽ còn ít hơn - lúc đó dường như có trời mà biết được, đó là một việc rất hệ trọng và tao đã hỏi cô ta nghĩ thế nào, thấy thế nào, chúng ta có cần công bố không? Tỉ dụ như bảo với bố mẹ: ‘Con với Judy đã đính hôn rồi mẹ ạ? và tao nói điều đó thật nghiêm chỉnh, ngu thế không biế́t. Tao nghĩ rằng một khi chuyện đó đã xảy ra thì giờ đây ta là vợ chồng hợp pháp, ngay lập tức - dù muôn hay không, và rằng chưa từng có ai phá luật đó. Thế nhưng cô đợi nhỏ đó, chỉ mới tám, chín tuổi, cúi xuống lượm cái váy từ sàn nhà lên và nói đó là của tao. "Cậu có thể treo vào đâu đó, tớ sẽ mặc quần lót về nhà, chỉ cần công bố như thế, người ta sẽ hiểu". Ôi lạy Chúa, cô bé mới chín tuổi," hắn nói và véo mũi Candy, "thế mà đã biết nhiều hơn các nữ chuyên gia khác"

Candy phá lên cười và cắn vào tay hắn, hắn ngắm nghía các vết răng.

"Tóm lại cô bé mặc quần lót về nhà, còn tao thì đợi trời tối để vứt cái váy quỷ quái đó đi... nhưng tụi bay thấy gió không? - Cuốn ngay cái váy đi như cái diều và lôi tuột ra sau nhà chẳng rõ đi đâu cho đến sáng hôm sau, lạy Chúa, tao thấy nó treo trên cái cây ấy và tao nghĩ: giờ thì cả thị trân sẽ dừng lại mà nhìn."

Hắn mút tay vói vẻ bất hạnh làm Candy bật cười và hôn lên đó.

"Vậy là lá cờ của tao đã giương lên, và từ bấy đến nay tao luôn cố gắng xứng đáng với cái tên của mình – Randy, người tình chuyên nghiệp, và mọi tội lỗi là do cô bé chín tuổi đó, có Chúa chứng giám!"

Ngôi nhà đã trôi qua. McMurphy ngấp dài và nháy mắt. "Đã dạy cho tôi biết yêu, cám ơn em bé bỏng!"

Và giữa lúc McMurphy vẫn tiếp tục nói, đèn hậu của chiếc xe vừa vượt qua rọi lên mặt hắn và trong gương chắn gió tôi nhìn thấy một vẻ mặt mà hắn không cho phép thể hiện bao giờ nếu như không tin đã được bóng tối che khuất để không ai nhìn thấy - một khuôn mặt mệt mỏi tột độ căng thẳng và rồ dại, dường như hắn còn phải làm gì đó nữa nhưng thời gian đã hết...

Còn cái giọng lười biếng và chân thành vẫn tiếp tục kể về cuộc đời cho chúng tôi cùng chung sống với hắn, về những trò tinh nghịch và tiêu khiển thời trẻ trai, về các bạn rượu và những phụ nữ hắn đã yêu, về những vụ ẩu đả đẫm máu chỉ vì một chút danh dự nhỏ bé - để chúng tôi cùng mơ thành cuộc sống của mình.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 28
Ngay hôm sau, mụ Y tá Trưởng bắt đầu một thủ đoạn mới. Ý đồ này xuất hiện từ ngày trước đó, khi mụ nói với McMurphy về món lời hắn thu được trong chuyến đi câu cá và trong các "phi vụ" khác tương tự. Đêm đó mụ nhào nặn ý đồ, xem xét tất cả các mặt lợi hại của nó cho tới khi chắc trăm phần trăm sẽ thắng ván bài này, và cả ngày hôm sau, mụ tung ra những lời bóng gió để cho tin đồn dường như tự nó xuất hiện và trở nên chín muồi vào lúc mụ còn chưa chính thức nói ra.

Mụ biết: con người được cấu tạo là để không sớm thì muộn cũng nghi ngờ kẻ hình như đang cho đi nhiều hơn mức bình thường. Ông già Nô en, các nhà truyền giáo, các nhà từ thiện đã ủng hộ tiền cho các quỹ phúc đức và sẽ nghĩ: thế hắn được lợi gì? Họ sẽ cười nhếch mép khi một anh chàng luật sư mang đến trường học một bao tải hồ đào: ngay trước ngày bầu cử hội đồng địa phương, thằng cha khôn lỏi, và họ sẽ bảo nhau: hắn không ngốc đâu!

Mụ biết: chỉ cần cố gắng chút xíu là có thể khiến cho ai nấy đều ngẫm nghĩ, vì sao McMurphy tiêu phí bấy nhiêu thời gian và sức lực để tổ chức cuộc câu cá, chơi xổ số hay huấn luyện cầu thủ bóng rổ? Làm sao hắn vẫn còn đủ sức xới tung mọi việc lên trong khi tất cả mọi người đã quen ngồi yên lặng, chơi bài bridge và đọc tạp chí cũ từ năm ngoái? Vì sao gã đốn gỗ ấy, một thằng càn quấy người Ireland chuyên lao vào các cuộc đỏ đen và đánh lộn đến nỗi phải ngồi trại, lại chịu buộc khăn vào đầu, nói năng thỏ thẻ như tụi học sinh và suốt hai giờ đồng hồ liền khiến cho tất cả tụi Cấp tính cười đùa trong lúc hắn đóng vai con gái, dạy cho Billy Bibbit học nhảy? Vì sao con bọ hung ấy, một thằng kẻ chợ, một tên cờ gian bạc lận suốt đời quen tính toán từng cơ hội một, lại nhận lấy nguy cơ ngồi trong nhà thương điên này thêm gấp đôi thời gian quy định vì chống lại một phụ nữ mà tự do của hắn phụ thuộc vào bà ta?

Để khởi động nỗi ngờ vực, mụ đưa ra tờ tổng kết tài chính của các bệnh nhân trong mấy tháng gần đây; có lẽ mụ đã đào xới những con số không phải một giờ. Tiền của tất cả các con bệnh Cấp tính đều không ngừng giảm xuống, trừ một người. Với kẻ đó, số tiền tăng lên ngay từ ngày đầu nhập viện.

Tụi Cấp tính bắt đầu cợt nhạo McMurphy rằng trông như hắn đang dẫn chúng tới chỗ trắng tay, và hắn không phản bác. Hắn thậm chí cũng không nghĩ tới chuyện đó. Ngược lại hắn còn vỗ ngực nói rằng, nếu ở thêm một năm nữa thì lúc ra viện, hắn sẽ chẳng phải lo nghĩ gì tới chuyện tiền nong, sẽ chuyển về sống an nhàn tại Florida. Trước mắt hắn, họ cũng cười cợt chuyện đó, nhưng khi hắn bị dẫn đi LLT, LNN hay LVL, khi bị mụ y tá gọi lên để khiển trách và đối lại nụ cười cứng đờ như nặn từ chất dẻo của mụ, hắn trả lời bằng một cái bĩu môi thô lỗ và phớt đời, thì họ không còn cười cợt nữa.

Bọn họ bắt đầu hỏi lẫn nhau, vì sao gần đây hắn lại bận rộn thế, lại bảo vệ các bệnh nhân mạnh mẽ thế, lúc thì đấu tranh chống lại quy định bệnh nhân đi đâu cũng phải theo nhóm tám người ("Billy dọa cắt ven," hắn nói trong cuộc họp khi phát biểu chống lại quy định tám người này. "Nào, ai trong số các bạn sẵn sàng hợp với Billy thành nhóm tám cho có tính trị liệu?", lúc xúi giục gã bác sĩ, đã trở nên rất gần gũi với bệnh nhân sau chuyến đi câu, đặt các tạp chí Playboy, Nugget, Man... và loại bỏ các số tạp chí McCall’s mà gã Quan hệ Công chúng đã khuân tới từng đống từ nhà, chồng chất trong khoa, với những bài báo cũ được gạch đít bằng mực xanh mà gã nghĩ là đặc biệt thích hợp với các con bệnh. McMurphy thậm chí còn gửi đơn lên ai đó ở Washington yêu cầu xem xét lại tại sao trong các bệnh viện quốc gia cho đến nay vẫn chữa bệnh bằng phẫu não và sốc điện. Tao chỉ không hiểu, bọn họ nói với nhau, hắn lời lãi gì từ những việc đó?

Câu hỏi đó lang thang được một tuần trong bệnh viện thì mụ Y tá Trưởng quyết định chuyển sang tấn công trong cuộc họp nhóm; lần đầu mụ thể nghiệm khi có cả McMurphy ngồi họp, hắn thậm chí đã không để mụ nói hết phần mở màn (khi mụ tuyên bố trước cả nhóm rằng mụ đau khổ và cảm thấy bị sỉ nhục như thế nào trước những cảnh bừa bãi, lộn xộn trong khoa: chúng ta đang đi tới đâu thế này, các anh hãy nhìn xem, tôi van các anh; trên đường đầy những bức ảnh cắt từ các tạp chí bẩn thỉu, đúng là một bộ sưu tập ảnh khiêu dâm – tiện đây, mụ còn định đề nghị bên Nhà Chính kiểm soát chặt chẽ xem những thứ rác rưởi gì đã lọt vào bệnh viện này. Mụ ném người xuống ghế bành, chuẩn bị nói tiếp để chỉ rõ ai là người có lỗi trong chuyện đó, và ngồi trên hai ba giây yên lặng theo sau lời dọa nạt như ngồi trên ngai vàng, nhưng McMurphy đã phá tan bầu không khí linh thiêng và khiến mọi người cười ầm lên khi nói: dĩ nhiên, thưa bà, nhưng bà nhớ nhắc họ mang theo gương tay của mình khi kiểm soát) nên lần này mụ quyết định tấn công McMurphy vắng mặt.

Hắn có điện thoại đường dài từ Portland và đang ngồi cùng một tên hộ lý ở phòng thường trực, cạnh điện thoại chờ người ta gọi tới. Khoảng một giờ, cuộc đời bắt đầu cuộc chuyển đồ đạc chuẩn bị cho cuộc họp trong phòng chung, gã hộ lý nhỏ con hỏi mụ xem có cần gọi McMurphy và Washington không và mụ trả lời: không, không cần, cứ để họ đợi – và ngoài ra, biết đâu có bệnh nhân nào đó lại vui mừng được có dịp bàn về ngài Randle Patrick McMurphy của chúng ta khi người ấy không bị cá tính mạnh mẽ của ông ta áp đảo.

Cuộc họp bắt đầu bằng những câu chuyện khôi hài về hắn và về các hành vi của hắn, các con bệnh đều ca ngợi hắn còn mụ y tá thì ngồi yên lặng, chờ đợi chúng nói cạn đề tài. Sau đó câu hỏi kia bắt đầu bật ra: có chuyện gì xảy ra với McMurphy? Vì sao hắn cư xử như vậy, vì sao hắn làm những việc đã làm? Một số đứa nghi ngờ: biết đâu cái chuyện hắn giả bộ đánh nhau ở trại để người ta gửi hắn đến đây chẳng qua là thêm một chuyện huyên thuyên của hắn, và hắn điên thật sự chứ không phải là giả vờ. Đến đây mụ y tá mỉm cười và giơ tay lên.

"Điên như cáo ấy," mụ nói. "Có phải anh muốn nói thế không?"

"Theo nghĩa...n...n... nào?" Billy hỏi. McMurphy là bạn thân thiết nhất và là người hùng của hắn, nên hắn không ưa lắm lời khen mà mụ đã chất vào bên trong rất nhiều điều không nói ra. "Như cáo nghĩa l... l... là sao?"

"Đấy là một nhận xét đơn giản, Billy!" Mụ y tá mềm mỏng đáp. "Để xem ai có thể giải thích cho ông? Thế nào, Scanlon?"

"Bà y tá muốn nói rằng Mack không ngốc đâu, Billy."

"Thì ai nói ng...ng... ng... ngốc!" Để bật ra lời cuối cùng, Billy đấm tay xuống ghế. "Nhưng bà Ratched muốn ám chỉ..."

"Không, Billy, tôi không ám chỉ gì hết. Tôi chỉ muốn nhận xét rằng ông McMurphy không phải là loại người mạo hiểm không mục đích. Các ông đồng ý vậy không? Bởi đấy là sự thật, các ông đồng ý chứ?"

Tất cả im lặng.

"Thế mà," mụ tiếp tục, "dường như ông ta hành động quên mình, như một kẻ tuẫn tiết hay một vị thánh. Nhưng có ai dám khẳng định McMurphy là vị thánh?"

Mụ biết có thể yên tâm cười nhìn một vòng quanh phòng, chờ đợi câu trả lời.

"Không, chẳng phải vị thánh, cũng chẳng phải tuẫn giáo. Đây, hãy xem lòng bác ái của ông ta." Mụ lôi trong giỏ ra một tờ giấy ố vàng. "Hãy xem những tặng phẩm này, như những người ủng hộ McMurphy có lẽ vẫn gọi. Tặng phẩm thứ nhất – phòng tắm. Nhưng đấy là món quà từ tay ông ta ư? Ông ta liệu có mất gì khi biến nó thành sòng bạc? Mặt khác, theo các anh, ông ta đã thu được bao nhiêu, trong một thời gian ngắn thực thi vai trò người hồ lì trong sòng Monte Carlo nho nhỏ giữa bệnh viện này? Ông đã thua bao nhiêu, Bruce? Còn ông nữa Sefelt? Scanlon? Tôi nghĩ rằng các ông tưởng tượng được số thua của mình, nhưng các ông có biết McMurphy thu được tổng cộng bao nhiêu không, tính theo sổ tiết kiệm của chúng ta? Gần ba trăm đô la."

Scanlon huýt sáo, nhưng những đứa khác tiếp tục im lặng.

"Nếu các anh quan tâm, ở đây tôi có danh sách những vụ cá cược của ông ta, kể cả những lần cố tình thực hiện để chọc tức nhân viên. Tất cả những cuộc đen đỏ này mâu thuẫn với nội quy bệnh viện, tất cả các anh đã cá cược với ông ta là ở chỗ ấy, không thể nói khác được."

Billy muốn cúp ngang, nhưng mụ ta lại giơ tay lên."Xin hãy hiểu cho tôi, Billy. Tôi không lên án hoạt động như thế, tôi chỉ muốn chúng ta đừng có lầm lẫn về động cơ của ông ta. Nhưng dẫu sao, tôi cũng cảm thấy không trung thực khi buộc tội sau lưng người khác. Chúng ta hãy quay lại vấn đề thảo luận dở hôm qua... Cái gì nhỉ?" Mụ lật các giấy tờ trong giỏ. "Bác sĩ Spivey, ông có nhớ chúng ta thảo luận gì hôm qua không?"

Gã bác sĩ giật mình ngước lên. "Không... à khoan... hình như là..."

Mụ lôi trong cặp ra một tờ giấy. "Đây rồi. Ông Scanlon... thái độ của ông với các vật gây nổ. Tuyệt! Bây giờ chúng ta bàn về việc này, còn về ông McMurphy, chúng ta sẽ đàm luận trong một dịp khác, khi ông ta có mặt. Nhưng dẫu sao, theo tôi các anh nên suy nghĩ về những gì đã nói hôm nay. Nào ông Scanlon..."

Ngày hôm đó, trong khi tám, mười đứa chúng tôi tụ tập trước cửa căng tin chờ tên hộ lý đang ăn cắp lọ dầu chải tóc, vài đứa lại gợi chuyện về McMurphy. Nói chung họ không đồng ý với mụ y tá, nhưng quỷ quái thật, trong lời lẽ của mụ cũng có chút ít sự thật. Nhưng dẫu sao, mẹ khỉ, Mack vẫn là một chàng trai tốt bụng.

Cuối cùng Harding nói thẳng ra.

"Thưa các bạn, các bạn đưa ra những lời phản đối ầm ĩ đến mức khó tin. Trong tận đáy sâu của tâm hồn nghèo nàn của mình, các bạn đều tin rằng tất cả những gì nữ thiên thần tốt bụng Ratched của chúng ta nói về McMurphy là hoàn toàn đúng. Các bạn biết bà ta đúng. Tôi cũng vậy. Chối làm gì? Chúng ta hãy trung thực và đánh giá hết con người đó, thay vào việc âm thầm phê phán tài năng tài chính của hắn. Hắn ta có một ít lợi nhuận nào đấy thì hỏi đã có gì xấu? Mỗi lần bị hắn lột, chúng ta đều hài lòng vì đã chi ra, phải không? Hắn nhanh nhẹn, thạo việc và không từ bỏ một đô la thừa nào. Hắn không khoác lên mình cái mặt nạ giả dối, đúng không? Thì chúng ta tự dối mình làm gì? Hắn bày tỏ một cách trung thực và lành mạnh nhất về sự gian xảo của mình, và tôi hoàn toàn ủng hộ hắn, cũng như ủng hộ cái hệ thống tự do kinh doanh tư bản đáng yêu của chúng ta, các bạn, hãy ủng hộ tự do kinh doanh, hãy ủng hộ sự trâng tráo thẳng thắn và không gì bẻ gãy được của hắn ta, ủng hộ lá cờ Mỹ quốc của chúng ta, ủng hộ tượng đài Lincoln và tất cả. Hãy nhớ Maine, P.T. Ba um và ngày Bốn tháng Bảy. Tôi buộc lòng phải bảo vệ danh dự cho bạn tôi, một tên lừa đảo một trăm phần trăm Mỹ quốc đỏ, xanh và trắng. Một chàng trai tuyệt diệu! McMurphy có lẽ sẽ ngượng đến phát khóc lên khi biết chúng ta đánh giá công việc của hắn với những động cơ trong sạch như vậy. Hắn sẽ tiếp nhận điều đó như một sư sỉ nục với nghề nghiệp của mình."

Harding cho tay vào túi tìm thuốc lá, nhưng đã hết, bèn vay Fredickson một điếu, đánh diêm châm lửa rất nghệ, rồi tiếp tục.

"Công nhận rằng lúc đầu tôi cũng nhầm lẫn. Đập vỡ kính – ô hô – đấy mới là con người thực sự muốn ở lại bệnh viện, không muốn bỏ bè bạn bao giờ, vân vân và vân vân, tôi nghĩ, nhưng sau đó tôi hiểu nguyên nhân không phải là cái đó, McMurphy chẳng qua không muốn từ bỏ một công việc sinh ra lợi nhuận. Bởi vì hắn ta không muốn thời gian trôi qua một cách vô ích ở đây: theo đúng nghĩa đen của nó. Các bạn đừng mắc lừa dáng vẻ gã thợ rừng, một tay làm ăn tinh ranh và lạnh lùng như băng giá đó. Hãy theo dõi: mỗi bước đi của hắn ta đều có cớ của mình."

Billy đâu sẵn sàng đầu hàng dễ dàng như vậy. "Được rồi. Thế McMurphy dạy tao học nhảy để làm g... gì?" Hắn nắm chặt hai nắm đấm bên sườn; tôi nhìn thấy trên mu bàn tay các vết bỏng thuốc lá đã sắp liền da, thay vào đó là những hình xăm hắn vẽ bằng cách nhấm đầu bút chì không mờ. "Để làm gì, Harding? Hắn ta cũng kiếm t... t... tiền khi dạy tao nhảy chăng?"

"Chớ bực bội, William," Harding nói. "Và cũng đừng vội vã kết luận. Chúng ta hãy bình tĩnh đợi xem hắn ta xử lý chuyện này như thế nào."

Dường như chỉ còn lại hai người – tôi và Billy, là còn tin McMurphy. Nhưng ngay tối hôm đó Billy đã ngả sang phía Harding khi McMurphy trở về sau một cú điện thoại nữa nói với Billy rằng đã hẹn chắc chắn với Candy và khi ghi địa chỉ của cô cho hắn, còn nói thêm rằng giá gửi được cho cô ta ít lộ phí thì rất hay.

"Lộ phí? Tiền ư? Ba... ba... bao nhiêu?" Hắn nhìn Harding, Harding cười.

"Này, mày biết đấy... cô ta cần một tờ mười đô và một tờ nữa để..."

"Những hai mươi đô la! Ô tô buýt từ đây tới đó đ... đâu đến mức ấy."

McMurphy nhìn hắn dưới cái mũ sùm sụp và nhếch mép cười, sau đó đưa bàn tay xoa xoa cổ và thè cái lưỡi khô ra. "Ôi, nhưng mà tao khát quá! Sau một tuần, tối Chủ nhật còn dễ sợ hơn. Billy, người anh em, mày sẽ không mắng Candy nếu cô ta chở đến cho tao một ít nước giải khát chớ?"

Và McMurphy nhìn Billy một cách ngoan ngoãn làm Billy phải bật cười, lắc đầu và đi vào một góc, đầy phấn khích, thảo luận chương trình cho thứ Bảy tới với kẻ mà có lẽ đã bị hắn coi là một tay dắt gái.

Tôi vẫn đinh ninh rằng McMurphy là một vị cứu tinh trên trời rơi xuống để giải phóng chúng tôi khỏi bàn tay của Liên hợp đang giăng mắc lưới đồng và pha lê khắp mặt đất, rằng hắn quá to chẳng bận tâm gì tới những chuyện vớ vẩn như tiền nong – nhưng tôi cũng bắt đầu gần như suy nghĩ như những đứa khác. Chuyện xảy ra là thế này. Trước cuộc họp, khi khiêng bàn ghế sang phòng tắm, McMurphy thấy tôi đứng cạnh bệ điều khiển.

"Lạy Chúa! Thủ lĩnh," hắn nói. "Sau hôm đi câu mày đã cao lên được cả gang tay rồi đấy. Ôi, mày nhìn vào chân coi, to như cột nhà ga xe lửa!"

Tôi nhìn xuống, và nhớ chưa từng thấy đôi chân của mình khỏe như thế bao giờ, dường như chỉ mấy lời của McMurphy đã làm chúng lớn phổng lên gấp đôi.

"Còn cánh tay! Đây mới là cánh tay của một chàng cựu cầu thủ bóng bầu dục da đỏ chứ. Mày biết tao nghĩ gì không? Tao nghĩ, đã đến lúc mày thử sờ vào cái bệ này xem sao."

Tôi lắc đầu và nói không, còn hắn bảo là chúng tôi đã thỏa thuận và tôi nhất định phải thử xem chương trình tăng thể lực của hắn tác dụng như thế nào. Chẳng còn cách nào khác, tôi miễn cưỡng bước tới cái bệ chỉ để chứng minh cho hắn rằng đó là việc làm quá sức tôi. Tôi cúi người nắm lấy hai cần gạt.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 29
"A, khá lắm! Giờ chỉ cần thẳng đứng lên chút xíu. Chọn thế đứng thật vững... Thế, thế. Đừng vội. Nào... đứng lên. Ô hô! Bây giờ thả nó xuống sàn. Tuyệt!"

Tôi chắc là hắn sẽ thất vọng, nhưng tôi vừa thả hai tay ra và nhìn hắn thì thấy hắn cười hết cỡ và chỉ tay xuống sàn, chỗ bệ điều khiển đã bật ra khỏi ụ móng, lệch đi đến mười xăng ti mét. "Bây giờ trả nó về chỗ cũ để không ai nhận ra. Hiện thời chúng chưa cần thiết phải biết."

Sau cuộc họp, giữa câu chuyện phiếm cạnh các con bạc, hắn lái sang đề tài sức khỏe, sức mạnh ý chí và sang cái bệ điều khiển trong phòng tắm. Tôi nghĩ hắn muốn kể cho chúng biết hắn đã giúp tôi hồi phục lại sức lực như thế nào, lúc đó chúng sẽ tin rằng là mọi thứ hắn đều làm vì tiền.

Nhưng hắn không nhắc gì đến tôi. Và hắn cứ tranh luận mãi cho đến khi Harding hỏi hay là hắn muốn thử nâng cái bệ một lần nữa, hắn trả lời không, nhưng nếu hắn không thể nhấc được, thì đâu có nghĩa là không ai nhấc nổi. Scanlon nói là cần cẩu may ra có thể, còn con người, sao làm nổi việc đó, McMurphy chỉ gật gù và nói: có thể, có thể thế, nhưng ai mà đoán được.

Tôi theo dõi hắn nhử mọi người, khéo léo làm cho cả lũ phải tự nói ra: Không, mẹ khỉ, chẳng có ai đủ sức làm việc đó và để cho chúng cuối cùng tự đề nghị cá cược. Tôi thấy hắn miễn cưỡng đặt cá, để chúng tự tăng tiền, kéo chúng lao sâu vào cho đến khi mỗi đứa chịu chi năm đô la cho bên thắng, vài đứa còn đặt đến hai mươi đô la. Hắn không hé răng lấy nửa lời rằng tôi đã nhấc được cái bệ.

Suốt đêm, tôi hy vọng hắn sẽ không thực hiện ý đồ đến cùng. Cả sang ngày hôm sau, trong lúc họp, khi mụ y tá tuyên bố rằng những người đi câu phải được tắm rửa kỹ càng bởi ngờ rằng chúng tôi mang vi trùng về, tôi đã hy vọng rằng mụ ta bằng cách nào đấy sẽ ngăn trở hắn – như lùa chúng tôi đi tắm chẳng hạn, hay nghĩ ra trò gì tùy ý, sao cho tôi khỏi phải nhấc cái bệ điều khiển.

Nhưng ngay sau cuộc họp, khi tụi hộ lý còn chưa kịp đóng cửa buồng tắm, hắn đã dẫn chúng tôi tới đấy và bắt tôi cầm lấy cần gạt nhấc lên. Tôi không muốn, nhưng chẳng thể chối từ. Tôi cảm thấy hóa ra tôi giúp hắn móc tiền của họ. Họ vẫn thân thiện với hắn khi trả tiền thua cuộc, nhưng tôi hiểu họ có cảm giác gì, như họ đã đánh mất điểm tựa dưới chân. Tôi đặt cái bệ vào chỗ cũ và lập tức bỏ chạy, thậm chí không nhìn McMurphy và lao vào phòng vệ sinh. Tôi chỉ muốn được yên tĩnh một mình. Tôi chợt nhìn thấy mình trong gương. Hắn đã làm đúng những gì hắn hứa: tay tôi lại to ra như những ngày tôi còn ở trường, hay ở làng, ngực, vai rộng và rắn chắc. Tôi đang ngắm mình trong gương thì hắn bước vào. Hắn chìa ra năm đô la.

"Thủ lĩnh, cầm lấy mà mua kẹo cao su."

Tôi lắc đầu và bỏ đi về hướng cửa. Hắn chộp lấy tay tôi.

"Thủ lĩnh, đây chỉ là dấu hiệu biết ơn. Nếu mày cho rằng phần mày lớn hơn..."

"Không! Cất đi, tao không cầm đâu."

McMurphy lùi lại một bước, đút hai ngón cái vào túi quần và nghiêng mặt nhìn tôi từ chân lên đầu. Hắn ngắm nghía khá lâu.

"Thế đấy," hắn nói. "Chuyện gì vậy? Chuyện gì khiến tụi bay quay mũi hết vậy?"

Tôi không đáp.

"Tao đã làm như tao hứa, đúng không? Đã làm cho mày to lên. Thế sao bỗng nhiên tao trở thành người xấu? Tụi bay cư xử như tao là kẻ phản bội tổ quốc vậy."

"Mày luôn luôn... kiếm chác được!"

"Kiếm chác! Con hươu ngu ngốc, mày buộc tội tao sao? Đó chỉ là thỏa thuận và tao thực hiện, thế thôi. Vậy thì có gì..."

"Bọn tao nghĩ mục đích của mày không phải là kiếm chác..."

Tôi cảm thấy cằm mình run run như mỗi khi sắp khóc, nhưng tôi không khóc. Tôi đứng trước hắn và cằm tôi run lên. McMurphy mở miệng định nói gì đấy nhưng lại thôi. Hắn rút tay ra khỏi túi đưa ngón tay trỏ và ngón cái bóp lấy sống mũi, tuồng như ở đó có một cái kính ép hắn chặt quá và nhắm mắt lại.

"Kiếm chác à, thật tình," hắn nói, mắt vẫn nhắm. "Bố khỉ, kiếm với chác."

Có lẽ vì thế, tôi là kẻ có lỗi nhiều nhất với những gì đã xảy ra trong phòng tắm chiều hôm đó. Và vì thế tôi chỉ còn cách duy nhất ấy để chuộc lỗi mà thôi, không suy tính đến sự ranh ma, thận trọng hay hình phạt mà mình phải lãnh – và một lần trong đời không suy tính gì khác ngoài điều cần làm và làm điều đó.

Chúng tôi vừa mới bước ra khỏi buồng vệ sinh thì ba thằng hộ lý da đen xuất hiện và lùa cả bọn đi tắm tẩy trùng đặc biệt. Tên hộ lý nhỏ bé đi dọc bờ tường, bàn tay sần sùi, đen đúa và lạnh tanh lôi ra những bệnh nhân đang dựa vào đấy, bảo mụ y tá gọi đây là vệ sinh cảnh tỉnh. Xét theo những kẻ chúng tôi đã đồng hội đồng thuyền trong chuyến đi thì cần phải xử lý trong khi các tác nhân gây bệnh chưa kịp lan ra.

Cả bọn đứng trần truồng dọc theo bức tường lát gạch men, để cho tên hộ lý cầm ống tuýp chất dẻo màu đen bước vào phụt ra một thứ chất lỏng thối khẳm, đặc và nhờn như lòng trắng trứng. Đầu tiên hãy bôi lên tóc, sau đó quay đi nào, cúi xuống, giạng háng ra!

Các con bệnh Cấp tính càu nhàu, đùa cợt, cố gắng không nhìn lẫn nhau và không nhìn lên mấy cái mặt nạ đen sì đang bơi trong không khí hối hả sau những ống tuýp, như những bộ mặt âm bản của một giấc mơ hoảng loạn đang nhằm các nòng súng giấc mơ mềm và nhẽo vào chúng tôi. Các con bệnh trêu trêu chọc bọn hộ lý: "Ê Washington, mày tiêu khiển mười sáu giờ còn lại thế nào?", "Ê William, mày có thấy tao ăn gì buổi sáng không?"

Tất cả đều cười. Bọn hộ lý cắn răng không đáp; chưa bao giờ có chuyện như thế trước khi cái thằng súc sinh tóc đỏ kia xuất hiện.

Khi Fredrickson giạng mông ra thì vang lên một tiếng nổ mà tôi nghĩ dư sức làm bắn tên hộ lý nhỏ bé sang bức tường bên kia.

"Cầu Chúa đi!" Harding đưa tay lắng tai. "Tiếng nói dịu dàng của thiên thần."

Cả bọn cười hí lên trêu chọc lẫn nhau trong khi tên hộ lý đến bên người tiếp theo, bỗng nhiên một sự im lặng chết chóc trùm lên cả phòng. Đã đến lượt George. Và trong tích tắc đó, khi tiếng cười đùa và than thở lắng đi, khi Fredrickson quay người và đứng thẳng bên cạnh George và tên hộ lý to con sắp sửa bảo lão cúi đầu để hắn bơm lên đó cái thứ nước thối hoắc – chính trong khoảnh khắc ấy, tất cả chúng tôi đều đoán được điều gì sẽ xảy ra cũng như tại sao phải xảy ra, và chúng tôi đã nghĩ oan cho McMurphy thế nào.

George không bao giờ tắm bằng xà phòng. Ông lão thậm chí không cầm khăn từ tay người khác. Bọn hộ lý ca chiều chuẩn bị nhà tắm cho chúng tôi vào các ngày thứ Ba và thứ Năm hiểu sinh mạng của chúng quý hơn nên không động đến George. Từ lâu đã như thế. Và đứa hộ lý nào cũng biết. Nhưng bây giờ thì tất cả, thậm chí George đang ngửa đầu ra phía sau lắc lắc và che mặt bằng hai tay như hai cái lá đa cũng hiểu rằng thằng hộ lý có cái mũi dập nát và tâm hồn cay độc cùng với hai thằng bạn của hắn đang đứng đằng sau chờ xem hắn làm gì, sẽ không bỏ qua cơ hội này.

"A, cúi đầu xuống, George..."

Bọn còn lại đã nhìn sang McMurphy đứng thứ ba hay thứ tư sau George.

"Nào, George..."

Martini và Sefelt lặng đi dưới vòi hoa sen. Cái cửa lỗ thoát nước dưới chân chúng òng ọc kêu lên từng đợt khi sặc không khí và nước xà phòng. George nhìn xuống cái lỗ đó tựa như nó đang trò chuyện với ông lão. Lão nhìn nó hết nuốt vào rồi lại sặc. Lão lại nhìn lên ống tuýp trong bàn tay đen đúa, nhìn chất nhờn chảy ra từ miệng tuýp và bò lên nắm tay màu gang. Tên hộ lý đưa ống tuýp lại gần hơn và George cứ ngửa mãi ra phía sau, lắc đầu."Không... cái đó không cần."

"Cần, nhất định cần, lão Rửa Tay ạ," thằng hộ lý nói, nghe gần như thương xót. " Nhất định. Không nên để bệnh viện tràn đầy sâu bọ, đúng không. Có thể chúng đã lặn sâu vào người lão mấy xăng ti mét rồi đấy."

"Không!" George nói.

"Thôi đi, George, lão không thể cảm thấy được đâu. Các chú sâu ấy rất bé, bé hơn cả đầu kim băng kia. Chúng làm gì biết không – chúng leo lên mớ tóc xoăn của lão đây này, treo mình trên đó và khoan vào đầu lão ấy George ạ!"

"Chẳng có sâu bọ gì hết!" George nói.

"Lão nghe tôi, George, tôi đã nhìn thấy trường hợp các chú sâu kinh khủng ấy..."

"Đủ rồi đấy, Washington," McMurphy nói.

Cái sẹo trên mũi dập của tên hộ lý sáng rực lên. Hắn biết ai đang nói với mình nhưng không quay lại, chỉ có thể biết hắn đã nghe thấy vì hắn im bặt và vuốt ngón tay xám dọc theo vết sẹo đã nhận được trong trận bóng rổ. Hắn lau mũi và sau đó xòe bàn tay ra, đưa tới trước mặt George, vê vê các ngón tay. "Con chấy đấy, George, thấy không? Lão biết nó thế nào rồi đấy. Rõ ràng là lão đã lây chấy trên thuyền. Không nên để chúng khoan vào lão, đúng không, George?"

"Làm gì có chấy!" George hét lên. "Không có!" Lão đứng thẳng lên, thậm chí còn ngẩng cao đầu nên chúng tôi nhìn thấy mắt lão. Tên hộ lý lùi lại. Hai tên khác cười hắn. "Không được hả, Washington?" Tên lớn hỏi. "Cái gì làm quy trình chậm lại ở chỗ đó thế?"

Washington lại sán tới. "George, tôi nói lão cúi xuống! Hoặc là lão cúi xuống và người ta tắm rửa cho lão, hoặc là tôi tóm lão lại!" Hắn lại giơ tay lên, cánh tay to và đen như đầm lầy. "Tôi sẽ giữ lão bằng cái tay đen! thối! bẩn thỉu này!"

"Không được sờ tay vào!" George nói và giơ nắm đấm lên như muốn đập tan cái đầu lâu các bon ấy, cho tung tóe các bánh răng, đinh ốc, bù loong ra sàn. Nhưng tên hộ lý đã chọc các tuýp vào rốn George và bấm nút và lão gập đôi người lại, kêu không thành tiếng. Tên hộ lý bóp xà phòng lên mớ tóc trắng lưa thưa của lão rồi dùng bàn tay xoa nó lên khắp đầu, màu đen nhem nhuốc cả lên đầu lão. George hai tay ôm bụng kêu lên:

"Không, không!"

"Nào, quay người xem nào, George..."

"Người anh em, tao bao đủ rồi đấy." Lần này giọng hắn làm tên hộ lý phải quay lại. Tôit hấy hắn cười và nhìn McMurphy đang đứng trần truồng, không quần áo giày dép, thậm chí ngón tay cũng không biết nhét vào đâu. Gã cười gằn, đưa mắt soi mói nhìn McMurphy từ đầu đến chân.

"McMurphy," hắn nói và lắc đầu. "Mày biết không, tao đã bắt đầu nghĩ rằng tao và mày sẽ không bao giờ thanh toán với nhau được."

"Mày chỉ là con chồn hôi," McMurphy trả lời, nhưng giọng nói chứa nhiều mệt mỏi hơn là giận dữ. Tên hộ lý im lặng. McMurphy nói to hơn. "Đồ mọi đen chó đẻ khốn nạn!"

Tên hộ lý lắc đầu, cười hềnh hệch và quay lại phía tụi bạn, "Không hiểu ngài McMurphy muốn đi tới đâu với kiểu ăn nói này? Hay là để tao đi bước trước? Hì, hì. Hắn không biết rằng người ta đã dạy cho tụi mình làm ngơ khi bị kẻ điên sỉ nhục hay sao?"

"Đồ chết giẫm! Washington, mày là đồ..."

Washington đã quay lưng lại, tiếp tục hành hạ George. George vẫn đứng gập cong người, thở dốc vì cú thúc vào bụng. Tên hộ lý tóm lấy tay lão và quay mặt lão vào tường.

"Đủ rồi, George, giạng mông ra."

"Không!"

"Washington," McMurphy nói. Hắn hít một hơi dài, bước lại tên hộ lý và đẩy y ra khỏi George. "Đủ rồi, Washington, đủ rồi..."

Chúng tôi nghe thấy trong giọng nói của McMurphy một sự chán chường và vô vọng của kẻ cùng đường.

"McMurphy, ông bắt buộc tôi phải tự vệ đấy. Đúng không?" Hai đứa bạn hắn gật đầu. Hắn cẩn thận đặt ống tuýp lên cái ghế bên cạnh George và quay phắt lại, bất ngờ đấm vào mặt McMurphy. McMurphy suýt ngã. Cú đấm đẩy hắn văng lại phía những người đang trần truồng xếp hàng, họ túm lấy hắn và đẩy ngược lại phía bộ mặt bồ hóng đang cười. Chỉ khi nhận cú đấm thứ hai vào cổ hắn mới chấp nhận rằng dẫu sao cái việc hắn không muốn xảy ra cũng đã xảy ra và không còn cách nào khác ngoài việc phải kết thúc nó. Hắn túm lấy cái cổ tay đang bổ về phía hắn như một con rắn và cứ giữ vậy, lắc mạnh đầu cho tỉnh táo.

Cả hai ghìm nhau như thế mấy giây, miệng thở hồng hộc cùng với cái lỗ thoát nước, sau đó McMurphy đẩy tên hộ lý ra, xuống tấn, vai nhô cao để bảo vệ cằm, nắm tay che thái dương, lượn vòng vòng quanh gã.

Cả dãy người trần truồng đang trật tự và yên lặng biến thành một vòng tròn hú hét vây quanh, thân thể và tứ chi kết thành một hàng rào.

Hai nắm tay tên da đen cứ liên tục đấm vào cái cổ bò mộng và cái đầu tóc đỏ đang cúi xuống làm máu tóe ra từ trán và hai bên má. Tên da đen nhảy như choi choi trước mặt McMurphy. Hắn cao hơn và tay dài hơn đôi tay to và đỏ của McMurphy, hắn vung nắm đấm nhanh và liên tục hơn, từ đằng xa hắn cứ nhằm đầu và tai McMurphy mà nện. McMurphy nặng nề tiến lên, bước chắc chắn, đầu cúi xuống, mắt nheo nheo giữa hai nắm tay đầy hình xăm, tới khi ép tên da đen tới sát hàng rào thân thể lõa lồ và đấm vào chính giữa bộ ngực hồ bột màu trắng. Trên bộ mặt bồ hóng xuất hiện một vết nứt màu đỏ; cái lưỡi như một mẩu kem dâu tây chạy qua chạy lại giữa hai bờ môi. Tên hộ lý lẩn tránh cuộc tấn công lùi lũi như xe tăng của McMurphy và kịp đấm vài cú trước khi nắm tay đầy hình xăm chạm đến hắn lần nữa. Lần này miệng hắn há ra, một cục màu đỏ bệnh hoạn.

Vai và đầu McMurphy loang lổ máu, nhưng hắn dường như không cảm thấy điều đó. Hắn vẫn tiến lên, chịu đấm hàng chục lần để đấm lại một. Chúng cứ quẩn quanh như thế trong phòng tắm, giáng và nhận, tới khi tên hộ lý thở hồng hộc, vấp liên tục và chủ yếu tránh những nhát búa tạ nhiều hơn là đánh trả. Các con bệnh hò reo đòi McMurphy quật chết hắn đi. McMurphy hành động không vội vã.

Bị một cú đấm vào vai, tên hộ lý quay lại nhìn hai đứa bạn đang đứng xem. "William... Warren... quân súc sinh!" Tên da đen cao to thứ hai rẽ đám đông và từ sau ôm lấy McMurphy. McMurphy giũ hắn ra như bò mộng giũ một con khỉ, nhưng hắn lại nhảy bổ vào.

Vì thế tôi nhấc hắn lên và ném vào buồng tắm. Người hắn đầy các bóng đèn điện tử, nặng không đến năm mươi ki lô gam.

Tên hộ lý nhỏ bé nhìn sang phải, sang trái và quay người chạy ra phía cửa. Trong khi tôi đang nhìn hắn thì tên kia từ phòng tắm bước ra và khóa tôi lại – cho hai tay vào nách và bắt lên cổ tôi – và tôi đành phải chạy giật lùi vào buồng tắm, dằn hắn xuống lớp gạch men, và trong khi tôi nằm bên dưới vòi hoa sen và theo dõi McMurphy đánh gãy thêm vài xương sườn của Washington, cái tên khóa tôi và đang nằm bên dưới tôi bắt đầu cắn vào cổ tôi, nên tôi đành phải thoát khóa. Lúc đó hắn lặng đi, và bột hồ từ quần áo hắn tan thành dòng tơi tả xuống lỗ thoát nước đang sặc.

Đến lúc tên hộ lý nhỏ bé quay lại với các thứ thắt lưng, còng tay, vải trải giường ướt và với bốn tên hộ lý từ phòng Điên thì các con bệnh đều đã mặc quần áo, bắt tay tôi và McMurphy, nói rằng phải cho bọn hộ lý một trận như thế mới đáng đời và các cậu choảng mới tuyệt làm sao, thắng lợi thật là vang dội! Và cả bọn cứ tiếp tục nói, khích lệ, động viên chúng tôi – tuyệt vời – chiến thắng vang dội! – trong lúc mụ y tá xuống giúp bọn hộ lý phòng Điên khóa tay chúng tôi vào những chiếc còng tay da mềm mại.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 30
Phòng Điên luôn ầm ĩ tiếng kim khí chói tai – xưởng tù đang dập biển số cho xe ô tô. Còn thời gian ở đây được đo bằng những tiếng đic-đốc, đíc-đốc của cái bàn bóng bàn bên cạnh. Người ta đi lại trong phòng theo một lối mòn riêng biệt: tiến đến một bức tường, xoay vai, quay người ngược lại, tiến đến bức tường đối diện và laoị xoay vai, quay ngược người lại, những bước chân nhanh và ngắn mài nền gạch ment hành một bàn cờ, mặt hiện cơn khát của con cọp trong chuồng. Từ đó xộc ra mùi khét của những con ngựa hoảng sợ đến mức hoảng loạn, và trong các góc và dưới gậm bàn bóng nhung nhúc những con vật cứ nghiến răng kèn kẹt mà các bác sĩ và y tá không nhìn thấy, tụi hộ lý cũng không thể giết bằng thuốc trừ sâu. Khi cửa phòng mở, tôi ngửi thấy mùi khét ấy và nghe thấy tiếng nghiến răng trèo trẹo.

Khi bọn hộ lý dẫn chúng tôi vào, đón chúng tôi là một ông già xương xẩu, dài lêu nghêu, bị treo trên sợi dây dẫn được vít vào giữa hai xương bả vai. Lão nhìn chúng tôi bằng cặp mắt vẩy nến vàng ệch và lắc đầu. "Lão rửa tay sạch khỏi mọi chuyện này!" ông ta nói với một trong các tên hộ lý da màu, và dây dẫn kéo ông ta đi mất dọc theo hành lang.

Chúng tôi đi theo ông vào phòng chung, McMurphy dừng lại trên cửa, dang chân và ngửa đầu xem xét mọi thứ: hắn muốn đút hai ngón tay cái vào túi, nhưng cái còng không cho phép. "Một cảnh đáng nhìn," hắn thầm thì qua kẽ răng. Tôi gật đầu. Tất cả những thứ này tôi đã thấy.

Hai tên đang bước trong phòng dừng lại và nhìn chúng tôi, và ông già xương xẩu lại bị dây kéo lại, vẫn sạch tay khỏi mọi chuyện này. Thoạt tiên không ai để ý đến chúng tôi. Cả hai đứng lại nơi cửa, còn bọn hộ lý đi ra chỗ buồng y tá. Một mắt của McMurphy phồng lên khiến lúc nào cũng có vẻ như đang nháy mắt, và tôi thấy môi hắn có vẻ đau lắm khi cười. Hắn giơ hai tay bị còng lên, nhìn cái mớ hỗn độn và ồn ĩ rồi hít một hơi rất sâu.

"Các bạn hữu, qua tên là McMurphy," hắn nói với một giọng cao bồi kéo dài, "và qua mong được biết ai là kẻ chúa trùm trong tụi chơi poker trong khoa này."

Chiếc đồng hồ bóng bàn tắt ngấm sau một tiếng tích vội trên sàn.

"Khi bị buộc chân thế này, tớ đặt cửa không được tốt, nhưng chơi poker ấy à, xin nói nghiêm chỉnh, tớ là pháp sư và phù thủy."

Hắn ngáp dài, hất vai, cong người, ho khạc khạc và nhổ đánh keng vật gì vào thùng rác cách đấy khoảng hai mét, nó rơi xủng xoảng trong đó rồi hắn thẳng người lại, cười và liếm cái lỗ hổng nơi hàm răng còn chảy máu.

"Ở dưới không ổn. Qua với Thủ lĩnh đây vừa nói chuyện phải quấy với hai chú khỉ."

Lúc đó tiếng ầm ầm của máy đập đã ngừng hẳn, tất cả mọi người đều nhìn chúng tôi. McMurphy kéo hết các ánh mắt về mình, hệt như cảnh chào mời ở chợ. Cạnh hắn ta, tôi cũng không thể tránh khỏi sự chú ý và vì người ta nhìn tôi như vậy tôi thấy mình phải thẳng người hết cỡ. Lưng còn đau vì bị chấn thương trong nhà tắm khi cùng ngã với thằng hộ lý nhưng tôi cũng cắn răng chịu. Một tên có cái nhìn hau háu, tóc đen và rối bù đi lại phía tôi, chìa tay ra như là nghĩ tôi có gì cho hắn. Tôi vờ không nhận ra hắn, nhưng dù tôi quay đi đâu, hắn cũng chạy lên trước như một chú bé và chìa lòng bàn tay khum lại cho tôi.

McMurphy kể về vụ đánh nhau trong lúc lưng tôi mỗi lúc một nhức nhối. Bao nhiêu năm ngồi một chỗ co quắp trên chiếc ghế bành trong góc, đến nỗi bây giờ không thể thẳng lưng lên được lâu. Tôi mừng rỡ khi một cô y tá nhỏ bé người Nhật bước vào, dẫn chúng tôi ra phòng trực, ở đấy có thể ngồi và xả hơi đôi chút.

Cô ta hỏi chúng tôi đã bình tĩnh lại chưa, có thể cởi còng được chưa; McMurphy gật đầu. Hắn vụng về ngồi xuống ghế bành, mệt mỏi, gục đầu xuống và kẹp tay giữa hai đầu gối – chỉ lúc ấy tôi mới hiểu rằng hắn cũng hết sức khó khăn mới đứng thẳng người lên được như tôi.

Cô y tá – bé như cái chấm đầu mũi kim dùng để xỏ giầy cho muỗi, như cách diễn đạt của McMurphy sau này – cởi còng cho chúng tôi và đưa thuốc lá cho McMurphy, kẹo cao su cho tôi. Cô ta nói vẫn nhớ tôi luôn nhai kẹo cao su. Còn tôi hoàn toàn không nhớ cô ta. McMurphy hút thuốc, còn cô ta nhúng bàn tay với các búp tay hồng hồng như những cây nến của ngày lễ thánh và lọ dầu và xoa lên các vết sây sát của hắn, giật nảy người lên mỗi bận hắn giật nảy người vì đau và nói "xin lỗi". Sau đó cô dùng hai bàn tay cầm lấy tay hắn, xoay lại và xoa đầu lên các khớp xương bị dập. "Anh đánh nhau với ai đấy?" Cô hỏi, nhìn lên nắm tay. "Washington hay là Warren?"

McMurphy ngước mắt nhìn cô. "Washington," hắn nói và cười. "Còn Thủ lĩnh thì làm việc với Warren."

Cô thả tay hắn ra và quay lại phía tôi. Tôi có thể thấy cả những chiếc xương mỏng manh trên mặt cô. "Anh có bị chấn thương chỗ nào không?" Tôi lắc đầu.

"Thế Warren và William có bị làm sao không?"

McMurphy nói với cô rằng lần sau cô có thể thấy chúng trong bộ trang sức bằng thạch cao. Cô gật đầu và cúi xuống. "Ở đây không hoàn toàn giống với phân khoa của bà ta," cô nói. "Giống, nhưng không hoàn toàn. Các y tá quân đội bao giờ cũng muốn thiết lập một bệnh viện quân sự. Chính họ ít nhiều cũng bị tâm thần. Đôi lúc tôi nghĩ phải đuổi việc tất cả các nữ y tá trên ba mươi nhăm tuổi chưa chồng."

"Ít nhất thì cũng phải đuổi tất cả các nữ y tá quân y chưa chồng." McMurphy phụ họa thêm và hỏi liệu chúng tôi có thể tận dụng lòng hiếu khách của cô ta được bao lâu nữa.

"Có lẽ không lâu, tôi e là vậy."

"Có lẽ không lâu – cô e là vậy?" McMurphy hỏi lại.

"Vâng. Thỉnh thoảng tôi thích giữ bệnh nhân lại mà không gửi trả về, nhưng bà ta cấp bậc cao hơn tôi. Không, chắc là các anh sẽ ở đây không lâu... tôi muốn nói... như tình trạng các anh bây giờ."

Giường ở khoa Điên đã bị hỏng cả; lò xo cái thì quá căng, cái thì quá chùng. Chúng tôi được nằm cạnh nhau. Người ta không trói tôi bằng khăn trải giường, nhưng để một bóng đèn nhỏ bên cạnh. Nửa đêm, có ai đó kêu lên: "Tao bắt đầu quay đây, thằng da đỏ! Nhìn đây! Nhìn tao đây!" Và ngay trước mặt, trong bóng tối, tôi nhìn thấy những chiếc răng màu vàng, to và dài. Đấy là gã có cái nhìn hau háu. "Tao bắt đầu quay! Nhìn đây!"

Hai tên hộ lý từ phía sau tóm lấy hắn và đưa ra khỏi buồng ngũ, vẫn vừa cười và hét lên. "Tao bắt đầu quay đây, tên da đỏ!", rồi cứ thế cười khành khạch. Hắn nhắc lại câu đó và cười suốt cho đến khi bị lôi ra hành lang và phòng ngủ trở nên yên lặng, và tôi nghe thấy tiếng một gã khác nói: "Không... lão rửa tay sạch khỏi mọi chuyện này!"

"Thế đấy, bạn của cậu đã xuất hiện," McMurphy thầm thì với tôi rồi trở mình, lăn ra ngủ. Còn tôi thức trắng đêm ấy, không ngừng nhìn thấy những cái răng vàng khè ấy và bộ mặt hau háu, cầu xin Nhìn đây, nhìn đây!, rồi đến khi tôi cũng thiếp đi, thì chỉ còn cầu xin trong im lặng. Vàng vọt vì thiếu ăn, nó nhô ra từ bóng tối, muốn điều gì đó... cầu xin điều gì đó. Tôi không hiểu làm sao McMurphy có thể ngủ được khi bao quanh hắn là một trăm khuôn mặt như thế, hay hai trăm, hay thậm chí hàng trăm.

Ở khoa Điên, người ta báo thức bằng còi. Không phải bằng ánh sáng như ở khoa nội chúng tôi. Tiếng còi rúc lên rùng rợn như một cỗ máy gọt bút chì khổng lồ đang nghiến một thứ gì rất đáng sợ. Tôi và McMurphy bật chồm dậy, nhưng sắp sửa nằm lại xuống giường thì tiếng loa đã gọi cả hai lên phòng trực. Tôi chui ra khỏi chăn, lưng tê dại sau giấc ngủ, khó khăn lắm mới chui người xuống được, và nhìn McMurphy tập tễnh, tôi hiểu lưng hắn cũng chẳng dễ chịu hơn tôi.

"Họ cho chúng ta xơi món nhỉ, Thủ lĩnh?" Hắn hỏi. "Món giày kẹp chân? Hay món bàn phanh thây? Tốt nhất là thứ gì không nặng lắm, bởi tao cũng đã khá nhừ rồi!"

Tôi trả lời rằng không nặng đâu nhưng không thể nói được gì hơn vì cũng không biết rõ hơn chừng nào chưa đi tới nơi và thấy một nữ y tá đã chờ sẵn ở đấy, không phải cô hôm qua, và hỏi, "Ông McMurphy và ông Bromden phải không?" rồi đưa cho chúng tôi mỗi đứa một chiếc cốc bằng giấy.Tôi nhìn vào cốc và thấy có ba viên con nhộng màu đỏ quen thuộc. Tiếng gõ rì rầm trong đầu, tôi không ngăn được nó.

"Khoan," McMurphy nói. "Đây là thuốc ngủ hả?"

Cô y tá gật đầu, đưa mắt về sau xem có ai không: hai gã cầm kìm cắt nước đá đang cúi người, tay khoác tay.

McMurphy trả lại chiếc cốc, "Ồ không, cô y tá, tôi không thích mắt bị bưng kín lại. Nhưng nếu như thay bằng thuốc lá thì tôi không từ chối."

Tôi cũng làm theo hắn. Cô y tá bảo là phải gọi điện và biến vào sau cửa kính, nhấc ống nói lên trước khi chúng tôi kịp nói gì.

"Thủ lĩnh, tao xin lỗi vì đã lôi mày vào chuyện," McMurphy nói; khó khăn lắm tôi mới nghe được vì tiếng tít tít của dây điện thoại trong tường. Tôi cảm thấy các ý nghĩ hoảng sợ cứ quay cuồng hỗn loạn trong đầu.

Chúng tôi ngồi trong phòng chung giữa vòng vây của các bộ mặt và đúng lúc đó, đích thân mụ Y tá Trưởng bước vào, tả hữu là hai tên hộ lý to lớn. Tôi co người trong ghế bành để trốn mụ, nhưng đã muộn. Quá nhiều các cặp mắt dồn vào tôi, những cặp mắt dính nhớp đóng đinh tôi vào chỗ.

"Xin chào, chúc một buổi sáng tốt lành!" Mụ nói, lúc này đã lấy lại nụ cười giả dối quen thuộc. McMurphy đáp lễ, còn tôi im lặng, mặc dù mụ nói với tôi rất to: "Chào ông". Tôi nhìn hai tên da đen: một tên băng dán ngang mũi, một tay treo trên cổ, bàn tay xám lòng thòng dưới đám bông băng nom như con nhện chết đuối; đứa thứ hai lê bước khó nhọc như thể xương sườn bị bó bột. Cả hai nhếch mép cười, hơi chút mỉa mai. Thương tật như bọn hắn đáng ra nên ngồi nhà thì tốt hơn, song lẽ nào bỏ qua dịp tốt đẹp này? Tôi cũng nhếch mép cười đáp lại.

Bằng một giọng nhẫn nại và nhẹ nhàng, mụ y tá trách móc McMurphy đã hành động vô ý thức, như trẻ con, phát khùng lên tựa một cậu bé ưa làm nũng, ông không xấu hổ sao? Hắn trả lời rằng hình như không và yêu cầu mụ ta cứ nói tiếp.

Mụ nói rằng trong cuộc họp khẩn cấp tối qua, các bệnh nhân đã đồng ý với nhân viên bệnh viện để hắn điều trị bằng sốc – nếu như hắn không ý thức được lỗi lầm của mình. Hắn chỉ cần công nhận rằng hắn sai, để tỏ ra đã lấy lại lý trí – đã ý thức được, thì việc điều trị sẽ bị bãi bỏ.

Những bộ mặt xung quanh nhìn chúng tôi và chờ đợi. Mụ y tá nói tất cả tùy hắn.

"Thế sao? Tôi cần phải viết giấy cam đoan?"

"Không, nhưng nếu ông thấy cần thiết..."

"Bà giúp cho việc ấy thì tốt hơn, biết đâu tiện thể bà viết thêm điều gì đó nữa. Ví dụ như, tôi đã dính vào một âm mưu lật đổ chính phủ hoặc là tôi cho rằng ngoài Hawaii không tìm đâu nổi một cuộc sống sung sướng hơn cuộc sống của chúng ta trong bệnh viện... và tất cả những điều nhảm nhí như vậy..."

"Theo tôi... điều đó không..."

" Rồi, sau khi tôi đã ký, bà sẽ đưa chăn và gói thuốc lá của Hội chữ thập đỏ đến cho. Ô hô hô, thưa bà, tụi Ba Tàu trong trại còn xa mới học nổi bà."

"Randle, chúng tôi chỉ muốn giúp ông."

Nhưng McMurphy đã đứng dậy, gãi bụng, đi qua trước mặt mụ ta và hai gã hộ lý đằng sau, bước tới bàn chơi bài. "Thế - thế - thế nào, bàn chơi poker ở đâu hả tụi bay?"

Mụ y tá nhìn theo hắn, rồi đi ra phòng trực gọi điện.

Hai tên hộ lý da màu và một tên da trắng có món tóc quăn màu bạch kim dẫn chúng tôi đến Nhà Chính. Trên đường đi McMurphy ba hoa với tên da trắng như không có chuyện gì xảy ra.

Sương muối đọng dày trên cỏ, hai tên da đen đi trước phun ra một luồng khí như đầu máy hơi nước. Mặt trời rẽ đôi các đám mây thiêu đốt sương muối làm ánh lên những tia sáng giăng kín mặt đất. Những con chim sẻ xù lông chống lạnh, nhảy nhót giữa các tia sáng tìm hạt. Chúng tôi cắt ngang đám cỏ lạo xạo dưới chân, đi qua các hang sóc, nơi mà một đêm tôi đã nhìn thấy con chó. Những tia sáng lạnh lẽo. Sương lùi dần vào hang, lẩn vào bóng tối.

Tôi cảm thấy sương muối đọng cả trong lòng mình.

Chúng tôi đi đến cánh cửa quen thuộc, bên trong ầm ầm như tiếng ong vỡ tổ. Trước mặt chúng tôi có hai đứa đang đi, chuếnh choáng như hai thằng say vì mấy viên con nhộng màu đỏ, một tên bi bô như đứa trẻ: "Đây là gánh nặng của con, ơn Chúa, đây là của cải duy nhất của con, ơn Chúa..."

Đứa kia cũng huyên thuyên: "Xông tới, xông tới." Đấy là gã cứu đắm ở bể bơi. Rồi hắn lặng lẽ khóc.

Tôi sẽ không kêu gào và khóc lóc. Trước mặt McMurphy.

Gã kỹ thuật viên yêu cầu chúng tôi cởi giày. McMurphy hỏi có phải tụt quần và cắt tóc không? Gã nói đừng có mơ.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 31
Những cái đinh trên cửa sắt nom như những con mắt nhìn tôi.

Cửa mở và hút luôn tên thứ nhất vào. Gã cứu đắm không động cựa. Một tia sáng như khói nê ông từ tấm bảng điều khiển đen trong phòng bay ra tóm lấy cái trán đầy những hốc của hắn và kéo vào như kéo một con chó ở đầu xích. Đến lúc cửa đóng thì tia sáng đó đã quay hắn được ba vòng và mặt hắn đầy vẻ kinh hoàng. Đếm một," hắn rên ư ử. "Đếm hai! Đếm ba!"

Tôi nghe thấy chúng bẩy trán hắn lên, như mở nắp cống ngầm, các răng bị kẹt nghiến ken két.

Khói hất toang cửa, chiếc xe đẩy cùng với tên thứ nhất lăn ra, liếc tôi sắc như dao. Trời, bộ mặt hắn! Chiếc xe lại lăn vào và chở gã cứu đắm ra. Tôi nghe thấy đội cổ vũ viên gọi to tên hắn.

Gã kỹ thuật viên nói, "Nhóm tiếp theo."

Sàn nhà lạnh, đầy sương giá, phát ra tiếng kêu lạo xạo dưới chân. Phía trên, ánh sáng rít lên trong cái ống dài màu trắng lạnh. Có mùi dầu graphit, như trong ga ra ô tô. Có mùi sợ hãi chua chua. Qua cái cửa sổ, nhỏ, sát trần nhà, tôi thấy những con chim sẻ xù lông trên dây điện, như những hạt cườm màu nâu. Đầu chúng giấu trong đám lông vì lạnh. Gió lùa trong những ống xương của tôi mỗi lúc một rít lên Báo động phòng không! Báo động phòng không!

"Đừng có hét toáng lên, Thủ lĩnh."

Báo động phòng không!

"Yên nào. Tao sẽ đi đầu. Sọ tao dày lắm, chúng không đánh thủng được đâu. Và nếu không đánh thủng được sọ tao thì cũng chẳng đánh thủng được sọ mày."

Tự bò vào bàn, dang tay xếp cho khít cái bóng trên đó. Rơle đóng vòng đai và cổ tay, mắt cá và ép hắn lại vào cái bóng. Một bàn tay vươn ra lột cái đồng hồ mà hắn đã thắng được của Scanlon, vứt xuống cạnh tấm bảng điều khiển, nó vỡ tung, các bánh răng và đinh vít lăn lóc khắp nơi, một cái lò xo văng tới tận tấm bảng điều khiển và nằm chết gí ở đấy.

Dường như không mảy may sợ hãi, hắn nhoẻn miệng cười với tôi.

Chúng bôi dầu graphit lên hai thái dương hắn. "Cái gì đấy?" hắn hỏi. "Dầu dẫn điện," gã kỹ thuật viên trả lời. "Xức dầu cho tao cơ đấy, dầu dẫn điện à. Thế tao có được lĩnh vương miện bằng gai không?"

Bọn chúng xoa dầu. Hắn hát cho chúng nghe làm tay chúng run lẩy bẩy.

"Chọn lấy kẽm Rễ Rừng dùng nhé Cholly..."

Khoác lên đầu McMurphy những vật trông như cái tai nghe, vương miện bạc đầy gai lên hai thái dương đã được phủ graphit. Chúng tìm cách bịt tiếng hát bằng một đoạn ống cao su bắt hắn cắn vào.

" Làm từ li-no-lin nát lạnh."

Xoay núm điều khiển và cỗ máy rung lên, hai cánh tay máy tóm lấy các mỏ hàn và cúi xuống trên đầu hắn. Hắn nháy mắt với tôi và lúng búng nói chuyện với tôi, không thành tiếng trong cái miệng vướng víu, muốn nhắn tôi điều gì qua cái ống cao su khi hai cái mỏ hàn tiến sát tới đai bạc trên thái dương hắn – vòng lửa sáng chói, đốt hắn cứng đờ, nâng hắn khỏi bàn tới khi chỉ còn đôi cổ tay và mắt cá sát xuống bàn và qua ống cao su sắp nát thoát ra một tiếng nghe như là ô hô! rồi hắn đã đóng sương giữa luồng tia sáng.

Ngoài cửa sổ những con chim sẻ bốc khói rơi khỏi đây.

Bọn chúng đưa hắn ra trên xe đẩy, người hắn vẫn còn run giật, mặt phủ đầy sương muối trắng. Bị ăn mòn. Axit trong bình ắc quy. Tên kỹ thuật viên quay qua tôi.

Cẩn thận với tên này. Tôi biết hắn. Giữ lấy!

Nghị lực gì nữa lúc này.

Giữ lấy hắn! Quỷ tha ma bắt bọn mày đi! Lần sau thì chớ có nhận những tên không uống thuốc ngủ từ trước.

Vòng đai đóng vào cổ tay và mắt cá tôi.

Có mạt sắt trong lớp dầu graphit, chúng nghiến vào thái dương.

Khi nháy mắt, hắn đã nói gì đó với tôi. Đúng là hắn muốn nói gì đó.

Một đứa cúi xuống, đưa hai cái mỏ hàn vào đai bạc trên đầu tôi.

Cái máy cong hai cánh tay lại.

BÁO ĐỘNG PHÒNG KHÔNG!

Trúng đạn giữa đường chạy, đang lao xuống sườn núi. Chẳng thể chạy lên trước hay lùi lại, nhìn vào đầu ruồi trên họng súng là mi chết, chết, chết.

Chúng tôi đi ra theo lối mòn, băng qua bãi sậy tới đường sắt. Tôi áp tai vào đường ray, thanh sắt nóng bỏng chà lên má.

"Chưa có gì," tôi nói, "trong vòng một trăm ki lô mét, cả phía này lẫn phía kia."

"Hừ," bố tôi chỉ nói.

"Chẳng phải chúng ta đã từng nghe bò rừng như vậy sao? Cắm dao xuống đất, ngậm răng vào cán, nghe được tiếng cả đàn từ rất xa."

"Hừ!" Ông nhắc lại, nhưng lại có vẻ buồn cười. Bên kia đường sắt là một đống lúa mạch lép từ mùa đông năm ngoái. Trong đầy chuột, con chó bảo vậy.

"Đi lên hay đi xuống đường ray, con?"

"Đi sang bên kia bố ạ. Con chó bảo thế."

"Chó không đi cạnh ta."

"Chẳng sao. Đằng kia có chim, con chó bảo thế."

"Còn bố con thì bảo rằng chúng ta nên đi lên dọc đường."

"Tốt nhất là băng qua đường, đến chỗ đụn thóc lép ấy, con chó nói vậy."

Qua đường – và thình lình từ trên trời rơi xuống một đám người chạy đầy trên đường ray, bắn túi bụi vào bầy chim trĩ. Hình như con chó đã chạy quá xa về phía trước và xua hết cả chim khỏi đụn thóc ra chỗ đường ray.

Con chó bắt được ba chú chuột.

... Con người, Con người, CON NGƯỜI, CON NGƯỜI... cao lớn vai rộng, mắt nháy như một vì sao...

Lại kiến, ôi quỷ quái thật, bao nhiêu là kiến, chúng cắn, bọn chết giẫm. Con còn nhớ không, chúng ta đã nếm thử và phát hiện chúng có vị như dưa chuột muối? Nhớ không? Con bảo không phải dưa chuột muối còn bố nói giống đấy, còn mẹ con nghe thấy và mắng cho bố một trận: dạy cho trẻ con ăn sâu!

Hừ - một cậu bé da đỏ thực thụ phải sống được bằng bất cứ thứ gì và có thể ăn tất cả những gì chưa kịp ăn mình.

Chúng ta không phải là người da đỏ. Chúng ta là những người văn minh, nhớ lấy.

Bố, bố đã nói với con: bao giờ bố chết, con hãy găm bố lên bầu trời.
Họ của mẹ là Bromden, và cưới bố xong cũng là Bromden. Bố nói tôi sinh ra với một cái tên duy nhất, chui ra ngoài đời vào một cái tên, tựa như con bê non rơi ra trên chiếc khăn trải sàn, khi mẹ nó đòi đứng trên bốn chân mà đẻ nó. Tee Ah Millatoona, Cây Thông Cao Nhất Trên Núi, còn tôi có Chúa chứng giám, là người da đỏ cao to nhất trong toàn bang Oregon, và có thể là cả trong bang Califo ia và Idaho nữa. Tôi đã sinh ra cho cái tên đó.

Anh có Chúa chứng giám là thằng đần độn nhất nếu nghĩ rằng một người phụ nữ Thiên chúa giáo lại chịu mang họ Tee Ah Millatoona. Anh sinh ra cho một cái tên – tốt thôi, và tôi cũng sinh ra cho một cái tên. Bromden. Mary Louise Bromden.

Và khi chúng ta chuyển vào thành phố, bố tôi nói, với cái tên đó chúng ta sẽ nhận được phiếu trợ cấp xã hội dễ dàng hơn.

Một người cầm cái búa đóng đinh đang đuổi theo ai đó, và sẽ kịp nếu hắn cố thêm chút xíu. Tôi lại thấy các tia chớp lóe lên, màu sắc nhấp nháy.

Dì ơi, đừng nhắm mắt. Và cũng đừng ngáp dài. Nhốt lấy bầy gà con. Đàn ngỗng có ba con. Ba con bay ba hướng. Có con bay về nhà. Có con thì bay ra. Còn một con bay qua. Tổ cúc cu và hót. Rủ các bạn cùng theo. Một, hai, ba... NÀO BƯỚC.

Bà nội ê a bài vè. Ngồi trên lưới phơi cá khô và đuổi ruồi, chúng tôi chơi trò này hàng giờ liền. Trò chơi gọi là "Dì ơi đừng nhắm mắt". Đếm các ngón tay trên hai bàn tay tôi xòe, mỗi âm tiết một ngón tay theo nhịp lời đọc của bà.

Dì ơi, đừng nhắm mắt (năm ngón). Và cũng đừng ngáp dài (năm ngón, tay bà đen như càng cua đập nhẹ vào mỗi ngón tay tôi theo từng âm tiết và từng móng tay tôi từ phía dưới nhìn lên bà, như những khuôn mặt nhỏ xíu đang muốn đến lượt mình bay lên theo con ngỗng bay trên tổ chim cúc cu).

Tôi rất thích trò chơi, và yêu bà nội. Tôi không thích bà dì nhốt gà con, không yêu bà ta. Tôi thích con ngỗng bay trên tổ chim cúc cu. Tôi yêu nó và yêu bà, yêu cả những hạt bụi đọng trên nếp nhăn trên mặt bà.

Lần sau, tôi thấy bà, bà đã chết cứng giữa thành phố Dalles, trên vỉa hè, những chiếc áo sặc sỡ vây quanh, người da đỏ, người chăn gia súc, thợ cày. Người ta chở bà trên xe đến nghĩa trang thành phố, đắp đất sét đỏ lên mắt bà.

Tôi còn nhớ những chiều nóng nực, nhớ sự yên tĩnh trước cơn dông khi những con thỏ cuồng lên chạy lao cả vào bánh ô tô tải chạy điên.

Thằng Joey Cá Mú Nằm Thùng, sau khi ký giao kèo có trong tay hai mươi nghìn đô la và ba chiếc Cadillac. Khốn nỗi hắn không biết lái cái nào.

Tôi thấy con xúc xắc.

Tôi thấy nó từ phía trong, tôi ngồi tận dưới đáy. Như một mẩu chì gắn vào cục xương để khi gieo sẽ được điểm mình cần. Người ta gắn chì vào con xúc xắc để luôn luôn được mắt rắn, được mặt nhất, tôi là hòn chì, sáu gờ nổi lên xung quanh như những chiếc gối trắng, là mặt luôn luôn nằm dưới khi con xúc xắc được ném ra. Người ta nạp con xúc xắc kia cho số mấy? Tất nhiên cũng ở mặt nhất. Mắt rắn. Chúng hùa với những kẻ gian lận để bắn hắn, vậy mà chúng nạp tôi vào.

Chú ý, tôi gieo đây. Ôi, thiên thần ơi, bếp xông khói đã trống rỗng mà cô bé lại muốn có đôi giày dạ tiệc mới. Gieo này. Bụp!

Bỏ cuộc thôi.

Ẩm ướt. Tôi đang nằm trong vũng nước.

Những con mắt rắn. Người ta lại gieo. Tôi thấy một điểm cao tít trên đầu. Hắn không thể chơi bằng con xúc xắc băng giá này đằng sau cửa hàng thức ăn gia súc trong hẻm được - ở Portland.

Góc phố lạnh lẽo như trong hầm ngầm bởi vì mặt trời đã lăn. Hoàng hôn. Cho con... đi thăm bà. Mẹ nhé?

Hắn nói gì khi nháy mắt với tôi?

Một con bay vào nhà, một con thì bay ra.

Đừng đứng chắn đường tôi đi.

Mụ y tá, quỷ tha mụ đi, không được chắn đường, chắn đường. CHẮN ĐƯỜNG.

Cô giáo bảo đầu con thông minh lắm, nhóc, sẽ trở thành người quan trọng...

Con sẽ thành ai, bố? Thành thợ dệt thảm như chú Chó sói C&N? Thành thợ đan giỏ? Hay thành một người da đỏ rượu chè?

Này, anh đứng máy, anh là người da đỏ sao?

Vâng, người da đỏ.

Thế mà mày nói năng lưu loát đấy chứ?

Vâng.

Ờ... xăng thường loại ba đô la.

Chúng sẽ không làm ra vẻ hách như thế nếu biết tôi với mặt trăng đang toan tính chuyện gì. Tôi đâu phải là một người da đỏ bình thường mẹ khỉ... Ai bước sai chân thì... gì nhỉ? Chẳng qua vì nghe nhịp trống chiêng.

Lại mắt rắn nữa. Quỷ quái thật, những con xúc xắc này đã đánh mất linh hồn.

Sau khi người ta an táng cho bà, bố tôi cùng chú Chó sói Chạy và Nhảy lại đào xác bà lên. Mẹ không đi với chúng tôi; trong đời mẹ chưa bao giờ nghe thấy chuyện như vậy. Treo người chết lên cây! Thật kinh tởm.

Chú Chó sói C&N và bố tôi ngồi khám say ở Dalles hai mươi ngày chơi bài rummy, vì tội Xâm phạm đến Người chết.

Đấy là mẹ chúng tôi – khỉ gió!

Chẳng có gì khác nhau cả, hai thằng ngốc. Không có quyền lôi người đã chết ra khỏi mộ. Khi nào thì tụi bay thông minh lên được, bọn da đỏ chết tiệt kia? Nào, bà ta đâu? Tốt nhất hãy khai ra.

Ai, cút mẹ mày đi, thằng mặt nhợt, chú C&N vừa nói vừa vê thuốc. Còn lâu tao mới nói.

Cao, cao nữa, cao mãi trên đồi, trên ngọn cây thông, trên gò, bà tôi chạm vào gió bằng bàn tay thân thương, đếm mây bằng bài hát cũ... đàn ngỗng có ba con.

Mày định nói gì với tao khi nháy mắt?

Dàn nhạc đang chơi. Xem kìa... trời đẹp quá, hôm nay là ngày Bốn tháng Bảy.

Con xúc xắc dừng lại.

Chúng lại đẩy máy về phía tôi... không hiểu...

Hắn nói gì nhỉ?

... không hiểu McMurphy đã làm tôi to lại như thế nào.

Tên kia lại nói: Giữ bóng thật chắc.

Chúng ngay ngoài đó. Đen nhẻm trong bộ quần áo trắng, qua khe cửa chúng tè lên người tôi rồi buộc tôi tôi đã đái dầm ướt sũng cả sáu chiếc gối. Sáu điểm. Tôi tưởng căn phòng là con xúc xắc. Một điểm, mặt đất rắn trên cao, vòng tròn, ánh sáng trắng trên trần... là thứ tôi vừa nhìn thấy... trong cái phòng vuông bé tẹo này... nghĩa là đã đêm muộn rồi. Tôi đã ngất đi mấy tiếng đồng hồ? Đang phun một ít sương mù, nhưng tôi sẽ không ngụp lặn và lẩn trốn trong đó nữa... Không, sẽ không bao giờ...

Tôi từ từ đứng dậy, hai bả vai cứng đờ. Những chiếc gối trắng của Buồng Cách ly ướt đẫm, tôi đã đái lên đấy khi bị ngất. Tôi vẫn chưa thể nhớ lại được hết, bèn đưa cổ tay dụi mắt cho đầu óc sáng sủa hơn. Tôi đã làm được. Trước đây, chưa bao giờ tôi thoát ra khỏi những thứ này.

Tôi lê bước đến ô cửa sổ tròn bọc lưới sắt và gõ vào đấy. Khi thấy tên hộ lý bê cái khay từ hành lang đi lại, tôi hiểu lần này tôi đã thắng.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 32
Thông thường, sau khi bị sốc, tôi lang thang suốt hai tuần liền như kẻ mộng du, sống trong màn sương mờ đục như trong cái đường biên giấc ngủ đầy bất ổn, vùng xám giữa sáng và tối, giữa ngủ và thức, giữa sống và chết, khi người ta biết mình không còn bất tỉnh nhưng vẫn chưa hiểu ra hôm nay là ngày mấy và mình là ai và trở về thì có tích sự gì không – suốt hai tuần. Nếu cảm thấy tỉnh lại cũng chẳng để làm gì, người ta có thể bơi thật lâu trong cái khoảng xám xịt đó, nhưng tôi đã phát hiện rằng nếu thấy cực kỳ cần thiết vẫn có thể giãy ra được. Lần này, sau không đầy một ngày tôi đã giãy ra. Chưa bao giờ nhanh đến vậy.

Và khi sương mù trong đầu đã tan, tôi có cảm giác như mình vừa nổi lên mặt nước sau một hơi lặn thật sâu và dài hàng trăm năm. Đó là cú sốc điện cuối cùng của đời tôi.

McMurphy trong tuần đó lãnh thêm ba lần. Chỉ cần hắn tỉnh lại và nháy mắt được là Ratched và gã bác sĩ xuất hiện hỏi han hắn đã nghĩ lại chưa, sẵn sàng thú nhận các lỗi lầm và quay về khoa nội ngoan ngoãn điều trị chưa? Còn hắn cứ phồng mang trợn má, biết rằng tất cả các bộ mặt đói khát trong phòng điên này đang hướng vào mình, và nói với mụ tiếc rằng hắn chỉ có thể hy sinh cho đất nước được một cuộc đời và rằng mụ hãy cứ hôn vào mông đít hắn, nếu như hắn rời bỏ cái tàu khốn kiếp này. Vậy đó!

Sau đấy, hắn đứng dậy, nghiêng mình hai ba lần chào đám khán giả đang cười, còn mụ y tá dẫn gã bác sĩ tới phòng trực gọi điện thoại xin phép làm liệu pháp cho McMurphy một lần nữa.

Một hôm, khi mụ ngoảnh lại hắn véo mụ một cái rõ đau, qua váy, đến nỗi mặt mụ đỏ bừng lên, đỏ hơn cả tóc hắn. Tôi nghĩ, nếu không có gã bác sĩ đứng bên đang cố nén cười thì mụ đã cho hắn một bạt tai.

Tôi thuyết phục hắn cố gắng chiều lòng mụ thì người ta chắc sẽ để hắn yên, nhưng hắn chỉ cười và bảo tôi quỷ hói đầu ạ, toàn bộ vấn đề là để người ta sạc điện không công cho tao. "Khi tao đi khỏi đây, người phụ nữ đầu tiên chọn được McMurphy tóc đỏ, chàng thái nhân cách công suất mười ki lô oát, cô ả sẽ sáng bừng lên như máy chơi bạc tự động và đổ ra hàng đống bạc. Tao đâu sợ kiểu sạc điện nhỏ nhoi này."

Hắn nói, hắn phớt tuốt. Và thậm chí không thèm uống mấy viên con nhộng. Nhưng mỗi lần, khi cái loa bảo hắn nhịn bữa sáng và chuẩn bị vào nhà chính, quai hàm hắn cứng lại như hóa đá và bộ mặt trở nên xanh rớt, gầy vêu và hoảng hốt – như lần tôi nhìn thấy trong gương chắn gió trên đường đi câu cá về.

Cuối tuần, tôi được trả lại khoa nội. Tôi muốn nói với hắn nhiều điều trước lúc chia tay nhưng hắn vừa mới đi liệu pháp về, ngồi dán mắt dõi theo quả bóng bàn như đã được vít dây vào đó. Tên hộ lý da màu và tên tóc vàng đưa tôi xuống tầng, trả tôi về khoa nội và khóa cửa sau lưng tôi. Sau khi ở khoa Điên, tôi cảm thấy ở đây sao yên tĩnh lạ lùng. Tôi đi đến phòng chung và không hiểu sao, dừng lại giữa cửa; tất cả các bộ mặt đều quay lại phía tôi, với biểu hiện tôi chưa từng thấy. Chúng sáng bừng lên như đang xem một buổi biểu diễn cuồng nhiệt của các nghệ sĩ lang thang. "Kính thưa quý vị khán giả," Harding xổ ra. "Trước mặt các bạn là con người Hùng mạnh đã bẻ gãy tay tên hộ lý! Hãy nhìn xem! Nhìn xem!" Tôi cười đáp lại họ và hiểu ra McMurphy đã cảm thấy ra sao suốt nhiều tháng ròng khi những khuôn mặt này hét lên với hắn.

Họ vây lấy tôi và bắt đầu hỏi về tất cả những điều đã xảy ra: hắn cư xử ra sao trên ấy? Hắn làm gì? Trong phòng thể dục người ta nói mỗi ngày hắn chịu một lần sốc điện, những trò đó với hắn cũng như nước đổ đầu vịt, và hắn còn cá với tụi kỹ thuật viên sẽ mở mắt được bao lâu sau khi mạch đóng, đúng vậy không?

Tôi kể hết và hình như không ai ngạc nhiên rằng tôi đang trò chuyện với họ - một kẻ bấy nhiêu năm được xem là vừa câm vừa điếc, bỗng nhiên cũng chuyện trò, cũng lắng nghe, như bất kỳ người lành lặn nào. Tôi nói với họ rằng tất cả những chuyện đó có thật và kể thêm chút ít những chuyện mình biết. Chúng cười bò ra khi nghe những lời đối đáp của hắn với mụ y tá khiến hai lão già Thực vật nằm phía Cấp tính cũng cười theo và thở hồng hộc dưới tấm chăn ướt, ra chiều hiểu hết.

Ngày hôm sau khi mụ y tá đưa vấn đề về Bệnh nhân McMurphy ra trước nhóm, rằng theo một nguyên nhân không rõ nào đấy, McMurphy dường như không chịu tác dụng của sốc điện, và để tiếp xúc được với hắn cần phải có những phương pháp kiên quyết hơn nữa, Harding nói: "Có thể là như thế, thưa bà Ratched, vâng... Nhưng theo những điều tôi nghe được về các cuộc gặp gỡ của bà với ông McMurphy ở tầng trên, thì ông ta đã tiếp xúc được với bà không khó khăn gì."

Đòn điểm trúng huyệt. Chúng tôi cười ầm lên và mụ không bao giờ đả động đến chuyện đó nữa.

Mụ hiểu rằng khi McMurphy còn ở trên đó và chúng tôi không nhìn thấy mụ gọt hắn như thế nào thì hắn càng lớn thêm lên trong chúng tôi, trở thành như một huyền thoại. Khi hắn vắng mặt mụ không thể chứng tỏ hắn yếu đuối, và mụ bèn nghĩ cách đưa McMurphy trở lại khoa. Khi đó, mụ nghĩ, các con bệnh sẽ thấy rằng hắn thật thảm hại, thật đáng thương, không kém bất cứ đứa nào trong bọn họ. Anh hùng gì hắn nếu sau khi bị sốc cứ đực người ra cả ngày trong phòng.

Chúng tôi cũng đoán ra chuyện đó và cả chuyện khi nào hắn còn ở khoa trước mặt chúng tôi, mụ sẽ cho hắn xơi sốc điện ngay mỗi lần hắn tỉnh. Scanlon, Fredrickson và tôi bàn bạc với nhau và quyết định sẽ thuyết phục hắn rằng cách tốt nhất đối với hắn và với tất cả chúng tôi là hắn phải trốn khỏi bệnh viện. Hôm thứ Bảy, khi bọn chúng dẫn hắn về - hắn vào phòng chung, như một võ sĩ bước ra võ đài, nhảy một điệu ngắn, hai tay bắt chéo sau gáy và tuyên bố nhà vô địch đã trở về, thì kế hoạch của chúng tôi đã vạch xong. Chúng tôi tính sẽ đợi đến tối, đốt một cái nệm và khi lính cứu hỏa xuất hiện, chúng tôi sẽ mau chóng thả hắn ra sau cửa. Ai cũng nghĩ rằng hắn sẽ không từ chối một kế hoạch tuyệt vời như vậy.

Nhưng chúng tôi đã quên nghĩ tới chuyện đó cũng là ngày hắn đã định cho kế hoạch đưa cô gái – Candy – lẻn vào gặp Billy.

Hắn được thả về khoa vào khoảng mười giờ sáng. "Hút mừng tao đi, tụi bay. Chúng đã kiểm tra phích cắm, đánh bóng các điện cực, và tao bây giờ đánh lửa như ống đốt của xe Ford T. Tụi bay chưa đứa nào giỡn với thứ ống đốt đó ngày Halloween hả? Thử đi! Vui chết thôi." Rồi hắn khuỳnh khuỳnh đi lại quanh khoa, to lớn hơn bao giờ hết; hắn đá đổ xô nước bẩn ngay cửa phòng trực, bắn một cục bơ lên chiếc giầy da trắng mịn của tên hộ lý bé con mà tên kia không hay biết làm cả nhà ăn trưa cười rúc rích suốt buổi trong khi cục bơ tan ra, biến mũi giày thành "một màu vàng đầy ý nghĩa" – theo lời Harding; hắn to lớn hơn bao giờ hết, và mỗi lần đi sát qua một nữ y tá thực tập cô ta lại kêu ôi ối; mắt trố ra và sợ hãi bỏ chạy dọc hành lang, tay xoa xoa và sườn.

Chúng tôi trình bày kế hoạch giải thoát cho hắn, còn hắn nói rằng chẳng đi đâu mà vội, nhẹ nhàng nhắc chúng tôi là hôm nay Billy có cuộc hẹn hò. "Anh em, chẳng lẽ lại làm Billy đau khổ khi anh ta đã quyết định từ bỏ quá khứ trinh bạch của mình? Và nếu chúng ta thành công thì sẽ có một buổi dạ hội miễn chê, hãy nghĩ đó có thể là buổi dạ hội vĩnh biệt tớ!"

Mụ Y tá Trưởng lãnh phiên trực thứ Bảy đó vì muốn có mặt trong ngày trở về của hắn, quyết định triệu tập cuộc họp bất thường để ít ra là giải quyết được chút đỉnh. Vào họp mụ lại khơi ra câu chuyện về các biện pháp kiên quyết, và yêu cầu gã bác sĩ chú ý tới vấn đề đó "trong khi còn chưa muộn và có thể giúp đỡ được bệnh nhân". Nhưng McMurphy cứ nghiêng ngửa, nháy mắt, ngáp dài hoài hoài làm mụ ta cuối cùng cũng phải nín lặng, đến lúc đó hắn làm gã bác sĩ cũng như các bệnh nhân được một trận cười vỡ bụng khi nói rằng nhất trí hoàn toàn với từng lời của mụ.

"Ông biết không, bác sĩ, hình như bà ta đúng; tự ông cũng thấy, mười vôn đã mang lại lợi lộc đến thế nào cho tôi. Nếu tăng điện thế gấp đôi, tôi có thể bắt được kênh tám như Martini nữa ấy chứ. Tôi đã ớn đến tận cổ việc nằm suốt ngày trên giường, mê sảng toàn những tin tức thời sự và thời tiết trên kênh bốn."

Mụ y tá hắng giọng, cố gắng duy trì cuộc họp. "Tôi không định đề nghị tăng cường độ sốc điện, ông McMurphy..."

"Thế sao?"

"Tôi đề nghị... chúng ta dùng đến phương án phẫu thuật. Thực tế là điều đó rất đơn giản. Và chúng tôi đã thu được nhiều kết quả khả quan, đã loại bỏ được các khuynh hướng hiếu chiến ở một số bệnh nhân hay gây gổ, hằn thù..."

"Hằn thù ư? Thưa bà, nhưng tôi hiền lành như con cún vậy. Bà tính xem, hai tuần liền tôi chưa từng chọc ngoáy tên hộ lý nào. Vì thế chẳng có nguyên nhân nào để cắt thiến tôi cả, đúng không?"

Mụ nở một nụ cười ra vẻ thông cảm với hắn lắm. "Randle, chẳng có cắt thiến gì đâu..."

"Ngoài ra," hắn tiếp tục, "bà có cắt bỏ chúng thì cũng có ý nghĩa gì đâu. Tôi còn một đôi trong tủ."

"Một đôi...?"

"Một đôi, ông bác sĩ ạ, một quả to như trái bóng chày."

"Ông McMurphy..." Mụ hiểu là mình đang bị nhạo báng, nụ cười vỡ vụn ra như kính.

"Còn quả thứ hai to hơn cả thế, có thể gọi là kích thước bình thường."

Hắn cứ sồn sồn như thế đến tận lúc đi ngủ. Đến lúc này không khí trong phòng đã tưng bừng như trong hội chợ, tất cả đều thầm thì rằng nếu cô gái mang rượu đến thì sẽ là một bữa tiệc thật sự. Mỗi người đều muốn nhìn Billy một tí và nếu hắn nhìn lại thì nháy mắt và cười với hắn. Khi chúng tôi xếp hàng lấy thuốc, McMurphy tiến đến và xin cô y tá nhỏ bé có cây thánh giá và vết bớt vài viên vitamin. Cô ta ngạc nhiên nhìn hắn, nói rằng chẳng có lý do gì để từ chối và đưa cho hắn mấy viên thuốc to bằng cái trứng chim sẻ. Hắn đút vào túi.

"Ông không uống ư?" cô hỏi.

"Tôi ư? Không, vitamin chẳng ích lợi gì cho tôi cả. Tôi lấy cho Billy. Gần đây anh ta có vẻ hốc hác đi, rõ ràng là máu bị axit hóa."

"Thế... tại sao ông không đưa luôn cho anh ta?"

"Tôi sẽ đưa, cô bé ạ, nhưng tôi tính đợi đến tối, khi chúng cần cho anh ta nhất." Hắn quàng tay qua cái cổ đỏ lựng lên của Billy và đi vào phòng ngủ, dọc đường còn nháy mắt với Harding và chọc ngón tay vào cái sườn tôi, mặc kệ cô y tá trố mắt nhìn hắn, đánh đổ cả nước xuống chân.

Còn về Billy phải nói thế này: mặc dù mặt đã có nếp nhăn, tóc đã có sợi bạc, nhưng hắn trông rất trẻ con - như một đứa trẻ tai to, mặt tàn hương, răng thỏ, quanh năm suốt tháng đi chân trần, kéo lê một xâu bống biển trên mặt đất đầy bụi - thế mà hắn đâu có giống thế. Khi hắn đứng bên cạnh những người đàn ông khác, người ta sẽ phải ngạc nhiên vì thấy hắn hoàn toàn không thấp hơn ai, tai cũng không to, mặt cũng không lốm đốm tàn hương và nếu nhìn kỹ thì răng cũng không nhô ra cho lắm, mà thực tế, đã ngoài ba mươi tuổi.

Chỉ một lần tôi nghe được chính xác hắn nói mình bao nhiêu tuổi, thực ra là nghe trộm, khi hắn nói chuyện với mẹ ở trong phòng thường trực, nơi bà làm việc. Đó là một phụ nữ to béo, bộ tóc thay màu cứ vài tháng một lần từ vàng sang xanh da trời, sau đó sang đen rồi lại thành màu trắng, hàng xóm và bạn thân thiết của mụ Y tá Trưởng, theo như tôi nghe được. Mỗi lần chúng tôi tham gia một lớp liệu pháp nào đó, khi qua phòng thường trực, Billy đều nhất thiết phải dừng lại để nghiêng cái má đỏ bừng cho bà hôn chặt vào đó. Chúng tôi nhìn, cũng xấu hổ không kém gì Billy, và không ai trêu chọc hắn về chuyện đó, thậm chí cả McMurphy.

Một hôm, tôi chỉ nhớ đã khá lâu rồi, chúng tôi dừng lại đợi trên đường tới một lớp nào đó, đứa thì ngồi trong phòng thường trực, đứa thì đứng ngoài sân dưới ánh mặt trời bạn trưa trong lúc gã hộ lý đi gọi điện cho tay chủ hộ, còn mẹ Billy tranh thủ lúc này bỏ vị trí, bước tới cầm tay cậu con trai và ra ngồi xuống đám cỏ cách tôi không xa. Bà ngồi thẳng, duỗi đôi chân ngắn ngủi và tròn lẳn đi tất dài ra trước mặt khiến tôi liên tưởng tới khúc xúc xích Ý, còn Billy nằm bên cạnh gối đầu lên đầu gối bà, cho bà lấy cây bồ công anh cù vào tai hắn. Billy bảo mẹ tìm vợ cho hắn và hắn sẽ thi vào đại học. Bà mẹ cù hắn và cười phá lên trước những chuyện ngớ ngẩn như vậy.
"Con thân yêu, con còn bao nhiêu là thời gian cho những chuyện như thế mà: Con có nguyên cả cuộc đời ở phía trước!"

"Mẹ, con đã ba mươi mốt tuổi rồi!"

Bà cười, ngoáy ngọn cỏ trong tai Billy. "Con thân yêu, mẹ có giống mẹ của một người lớn không?"

Bà chun mũi, hé môi, đánh lưỡi phát ra những tiếng chụt ẩm ướt, và tôi thầm đồng ý rằng bà ta nói chung chẳng hề giống một người mẹ chút nào. Cho đến khi có dịp lại gần hắn và nhìn thấy năm sinh của hắn khắc trên vòng tay, tôi mới tin rằng hắn đã ba mốt tuổi.

Mười hai giờ đêm, khi Geever cùng một gã hộ lý nữa và mụ y tá đi khỏi và phiên trực chuyển sang ông già da màu Turkle, McMurphy và Billy đã dậy, để uống vitamin, tôi nghĩ thế. Tôi chui ra khỏi chăn, khoác áo choàng rồi đi đến phòng chung, nơi hai đứa đang nói chuyện với Turkle. Harding, Scanlon, Sefelt và vài đứa nữa cũng ra theo. McMurphy giải thích cho Turkle phải xử trí như thế nào khi cô gái xuất hiện, hay nói đúng hơn là nhắc lại, vì hình như những điều này chúng đã thỏa thuận từ hai tuần trước đây. Hắn nói phải đưa cô vào qua cửa sổ, chứ không liều đưa qua phòng thường trực, nơi có thể gặp người trực đêm bất kỳ lúc nào. Còn sau đó, mở Buồng Cách ly. Đó là nơi hoàn toàn biệt lập. Một túp lều tranh lý tưởng cho hai trái tim vàng. ("Thôi đi, McM... Murphy," Billy cố nói.) Không bật đèn. Để trực nhật khỏi nhìn vào. Đóng cửa buồng ngủ để không đánh thức tụi Kinh niên hay càu nhàu dậy. Và tất cả phải yên lặng, để cặp uyên ương không bị quấy rầy.

"Thôi đi, M... M... Mack," Billy nói.

Đầu Turkle lắc la lắc lư, trông như đang ngủ gật. Nhưng khi McMurphy bảo: "Có lẽ tất cả đã thỏa thuận xong" thì Turkle đáp: "Không... không hẳn..." và ngồi đó cười nhăn nhở trong bộ đồ trắng và cái đầu hói vàng khè trên cổ nom như quả bóng bay chao chao trên cái que.

"Đủ rồi đấy, Turlke. Lão sẽ không bị thiệt đâu. Cô ta sẽ đưa đến hai chai."

"Đã gần trúng rồi đấy," Turkle nói. Đầu lão lại nghiêng nghiêng và đổ gật xuống. Lão làm như mình cố gắng lắm mới thắng được cơn buồn ngủ. Tôi có nghe nói ban ngày lão còn làm việc ở trường đua ngựa. McMurphy quay lại phía Billy.

"Billy, cậu bé! Ông Turkle đang tự nâng giá của mình lên đấy. Mày sẽ trả giá bao nhiêu để trở thành một người đàn ông?"

Trong khi Billy đang ngắc ngứ để thốt được lên lời thì lão Turkle lắc đầu quầy quậy. "Không, không phải thế. Tôi đâu cần tiền. Em nhỏ của các anh không chỉ mang rượu theo người. Anh cũng không chỉ nhằm vào rượu, phải không nào?" Lão cười khẩy, nhìn cả bọn.

Billy suýt nổ tung trong một tràng lắp bắp không, không phải Candy, không được đụng tới cô gái của hắn! McMurphy dẫn hắn ra một góc khuyên hắn đừng lo lắng gì về tuyết sạch giá trong của cô gái của hắn - khi Billy xong việc thì Turkle đã xỉn là cái chắc. Làm sao lão có thể nhét nổi củ cà rốt của mình vào ống máng?

Cô gái lại tới trễ. Chúng tôi mặc áo khoác và ngồi trong phòng chung, nghe McMurphy và lão Turkle kể cho nhau nghe chuyện tiếu lâm của lính và thay nhau rít điếu thuốc của Turkle với một kiểu hút rất kỳ quặc - giữ khói đâu đó trong miệng cho đến khi mắt trợn ngược lên trán. Khi Harding hỏi thứt huốc gì ngửi kích thích đến vậy, Turkle trả lời bằng một giọng cao vút vì cố nín thở: "Thuốc là thuốc thôi. Hi - Hi. Làm một hơi?"

Billy mỗi lúc thêm bứt rứt; hắn sợ cô gái không đến, rồi lại sợ cô ta sẽ đến. Hắn luôn mồm hỏi, tại sao chúng ta không đi ngủ, tại sao cứ ngồi trong bóng tối lạnh lẽo này như bầy chó đói ngồi bên bàn bếp đợi đồ thừa? Chúng tôi chỉ cười với hắn. Chẳng ai buồn ngủ và trời cũng chẳng lạnh, ngược lại, thật là yên tĩnh và thú vị khi ngồi trong bóng tối lờ mờ và lắng nghe McMurphy với Turkle kể chuyện. Dường như không ai muốn đi ngủ và thậm chí cũng không ai lo lắng gì tới việc đã hai giờ sáng rồi mà vẫn chưa thấy bóng dáng cô gái đâu. Lão Turkle cho rằng vì khoa này tối om, cô ta chẳng nhìn thấy đường nên đến muộn, và McMurphy nói tất nhiên là thế, và cả hai chạy khắp hành lang, bật hết đèn lên, thậm chí còn muốn bật cả mấy cái đèn báo thức to tướng ở phòng ngủ nhưng Harding nói, nếu thế thì chúng ta đánh thức cả bệnh viện mất và như vậy phải chia chác cho tất cả. Họ đồng ý là thay vào đó, bật hết đèn phòng bác sĩ.

Phân viện sáng như ban ngày. Vừa lúc đó có tiếng gõ cửa. McMurphy chạy tới và áp mũi vào đấy, tay che mắt khỏi ánh sáng để nhìn ra, sau đó quay về phía chúng tôi và cười.

"Nàng đến và sắc đẹp xua tan đêm tối!" Vừa lúc đó có tiếng gõ cửa. McMurphy chạy tới và áp mũi vào đấy, tay che mắt khỏi ánh sáng để nhìn ra, sau đó quay về phía chúng tôi và cười.

"Khoan, Ma... McMurphy, nghe đã," Billy ngoan cố như một con la.

"Billy, cậu bé, vứt mẹ cái McMurphy của chú mày đi. Không lùi được nữa rồi. Mày sẽ làm tốt; nghe này, tao cá với mày năm đô nếu mày ép được cô ta phẳng lì, cuộc nhé. Mở cửa sổ ra. Turkle."

Hai tiểu thư đứng trong bóng tối - Candy và cô gái đã trượt chuyến đi câu với chúng tôi lần trước. "Ngon lành!" Turkle kêu lên, giúp các cô leo vào, "và đủ cho tất cả."

Chúng tôi chạy tới giúp: để rèo qua được bậc cửa sổ, các cô đành phải vén váy lên tận bẹn. Candy nói: "McMurphy, đồ quỷ!" và lao vào ôm chầm lấy hắn, suýt nữa làm vỡ cả hai chai rượu đang cầm tay. Cô ngả nghiêng đùa giỡn làm mớ tóc cuộn trên đầu tung ra. Tôi nghĩ cô hợp hơn với kiểu tóc tết sau gáy như hôm đi câu. Cô chỉ chai rượu vào cô gái thứ hai đang trèo phía sau:

"Sandy cũng tới. Nó đã kịp bỏ anh chàng cuồng dại ở Beaverton - thế mới đặc biệt chứ, phải không?"

Cô gái trèo vào và hôn McMurphy. "Xin chào, Mack... xin lỗi, lần trước không đến được. Nhưng với tên đó thế là xong. Làm sao chịu nổi các trò đùa của hắn, lúc thì chuột bạch trong áo gối, lúc thì giun trong hộp kem, lúc thì ếch nhái trong coóc xê." Cô lắc đầu và xua xua tay trước mặt, như muốn xóa nhòa mọi hồi ức về người chồng cũ, người mê súc vật. "Lạy Chúa, làm sao có người cuồng dại vậy."

Cả hai đều mặc váy, áo len và đi tất da chân, chân không giày, mặt mũi đỏ lựng và cười khúc khích luôn miệng.

"Phải hỏi đường đấy," Candy giải thích, "gặp quán bar nào cũng ghé vào hỏi."

Sandy nhìn quanh, mắt tròn xoe. "Ôi Candy, chúng ta rơi vào đâu thế này? Có thật là chúng ta đang ở bệnh viện điên không? Ái chà!" Cô ta to hơn Candy, lớn hơn khoảng năm tuổi, tóc màu hạt dẻ cuộn rất mốt sau gáy, nhưng nhiều lọn tóc không giữ được buông xuống thành từng mớ ngang đôi má bánh đúc màu mận chín, khiến cô ta trông giống một cô bé chăn bò giả trang bằng quần áo của giới thượng lưu. Vai, ngực và đùi cô quá lớn, còn nụ cười thì quá rộng và giản dị đến nỗi khó có thể xem cô là người đẹp, nhưng cô thật dễ thương và khỏe mạnh và có một chai đựng đến bốn lít rượu đỏ treo trên ngón tay, lủng lẳng ngang đùi như chiếc túi xách.

"Candy, Candy. Tại sao những chuyện hoang dã như thế này lại có thể đến với chúng ta được nhỉ? Cô lại quay trọn một vòng nữa rồi dừng lại, hai bàn chân trần xòe ra và cười khúc khích.

"Những chuyện này không xảy ra," Harding trịnh trọng nói với cô. "Đây là những chuyện em tưởng tượng ra trong những giấc mơ hàng đêm dài, những khi trằn trọc không ngủ, và sau đó sợ không dám kể cho bác sĩ phân tâm của em. Các em thực ra cũng không hề có ở đây. Rượu này cũng không có, chẳng có cái gì ở đây tồn tại hết. và chúng ta có thể bắt đầu từ đó."

"Chào anh, Billy!" Candy nói.

"Đúng là ra trò!" Turkle bảo.

Candy vụng về chìa cho Billy một chai rượu. "Em đưa đến cho anh một món quà."

"Đây là một giấc mơ siêu thực chỉ có trong sách của Tho e Smith!" Harding nói.

"Ôi mẹ ơi!" cô gái tên Sandy kêu lên. "Chúng ta đã rơi vào chốn nào đây?"

"Suỵt!" Scanlon nói và cau mặt nhìn quanh. "Đừng có kêu lên, đánh thức bọn ăn bám dậy."

"Thì sao, ông keo kiệt?" Sandy cười khúc khích và lại quay tròn một vòng. "Sợ không đủ cho tất cả sao?"

"Sandy, lẽ ra anh phải biết là thế nào em cũng mang đến cái loại poóc tô rẻ tiền này."

"Ôi, này!" Cô dừng lại không quay nữa và nhìn vào tôi. "Candy, nhìn này? Một chàng khổng lồ đích thực."

Turkle nói, "Ngon lành," rồi đóng lưới lại, và Sandy một lần nữa lại kêu lên: "Ôi này!" Cả lũ chúng tôi cụm lại giữa phòng, lúng túng như gà mắc tóc, toàn nói những câu ngớ ngẩn vì không biết phải làm gì tiếp theo - chưa khi nào chúng tôi lại rơi vào tình huống như thế này - và tôi nghĩ những câu chuyện tuôn ra trong khi luống cuống hồi hộp, những tiếng cười và dáng đứng lóng ngóng sẽ chẳng bao giờ chấm dứt nếu không phải ngay lúc đó từ cuối hành lang vang tới tiếng khua chìa khóa ở cửa phân khoa, và tất cả giật thót mình như nghe còi báo trộm.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 33
"Ôi lạy Chúa tôi!" ông lão Turkle nói và đập tay lên đỉnh đầu hói bóng của mình. "Đấy là bà trực nhật. Người ta sẽ nọc tôi ra mà quất roi ngay bây giờ."

Chúng tôi chạy vào buồng vệ sinh, tắt điện và chết lặng trong bóng tối đến nỗi nghe được cả tiếng thở của nhau. Sau đó có tiếng mụ trực nhật đi dọc khắp khoa và thì thầm một cách ồn ào gọi ông Turkle, gần như sợ sệt. Giọng mụ ngoan ngoãn và lo lắng, lên giọng cuối câu: "Ông Turkle? Ông Turkle?"

"Lão, mẹ khỉ, biến đi đâu vậy?" McMurphy hỏi khẽ. "Sao không trả lời?"

"Đừng lo," Scanlon nói. "Mụ ta không nhìn vào đây đâu."

"Nhưng sao lão ta không trả lời? Hay là lão đã kịp phê rồi?"

"Anh nói gì vậy? Tôi không bao giờ phê, có mỗi một liều ngắn tũn như thế." Giọng lão Turkle vang lên đâu đó bên cạnh, trong bóng tối của buồng vệ sinh.

"Turkle, lão làm gì ở đây thế?" McMurphy cố nói, giọng nghiêm khắc, nhưng chính hắn cũng khó khăn lắm mới nén được cười. "Lão ra xem mụ ta cần gì? Quỷ mới biết được mụ ta sẽ nghĩ sao nếu không tìm thấy lão."

"Ngày tận thế đã tới," Harding nói và ngồi xuống. "Lạy thánh Allah, hãy phù hộ cho chúng con."

Turkle mở cửa lách ra ngoài và gặp ngay mụ trực nhật nơi hành lang. Mụ ta tới để xem tại sao đèn sáng khắp nơi. Vì mục đích gì lại bật tất cả đèn trong khoa? Ông lão Turkle nói rằng không phải khắp nơi đều bật đèn, rằng trong phòng ngủ, phòng vệ sinh vẫn tối. Mụ ta nói đấy không phải là lời giải thích cho việc trang hoàng đèn đóm lộng lẫy ở những chỗ còn lại - do đâu ông nghĩ ra trò này? Turkle không tìm nổi câu trả lời; trong yên lặng và bóng tối, tôi nghe thấy tiếng chai rượu được chuyển tay, ngay bên cạnh. Còn ngoài hành lang, mụ ta nhắc lại câu hỏi và Turkle trả lời rằng ông ta, ừ thì, đang dọn dẹp. Lúc đó mụ ta liền quan tâm, tại sao chính trong phòng vệ sinh lại tối, bởi theo quy định ông phải dọn trong đó trước tiên kia mà. Chúng tôi đợi xem ông lão sẽ trả lời thế nào và lại chuyền chai rượu cho nhau. Đến lượt tôi, và tôi uống một ngụm dài. Tôi đang thèm uống dữ dội. Từ đây thậm chí nghe được cả tiếng nuốt nước bọt của Turkle ngoài hành lang, lúng ta lúng túng không tìm ra câu trả lời nào lọt tai mụ.

"Lão chết đứng rồi," McMurphy rít lên. "Phải một đứa ra giúp lão thôi."

Có tiếng nước xối bên cạnh tôi, cửa mở và ánh sáng từ hành lang rọi lên người Harding, vừa bước ra vừa kéo quần. Thấy cái bộ dạng của hắn như thế, mụ trực nhật kêu lên, còn hắn thì xin lỗi vì không nhìn thấy mụ, tối quá!

"Đây mà tối ư?"

"Vâng, tôi muốn nói trong buồng vệ sinh. Tôi luôn luôn tắt điện khi đi đại tiện. Bà hiểu không, vì những cái gương... khi đèn sáng những cái gương trong cứ như những ông quan tòa họp lại ngay trên đầu tôi để xử tội tôi, nếu mọi thứ không rơi vào đúng chỗ."

"Nhưng ông hộ lý Turkle nói ông ta đang dọn ở trong đó..."

"Và ông dọn rất sạch, xin phép được nhận xét, nếu tính đến sự phức tạp khi làm việc trong cảnh tối tăm. Bà có muốn ngó qua không?"

Harding mở hé cửa, và một vạch sáng chiếu xuống sàn gạch men. Tôi liếc thấy mụ trực nhật giật lùi lại, nói rằng không thể thực hiện yêu cầu của hắn được, mụ còn phải xem xét các nơi khác. Tôi nghe thấy tiếng kẹt cửa đầu hành lang, mụ trực nhật đã đi khỏi. Harding gọi với theo, dặn mụ đừng bỏ quên chúng tôi lâu quá và tất cả ùa ra bắt tay và vỗ vào lưng chúc mừng cách xử trí tài tình của hắn.

Chúng tôi ra hết hành lang và lại chuyền cho nhau chai rượu. Sefelt nói rượu này có thể nhầm với đế nếu pha thêm chút gì đó vào. Hắn hỏi ông lão Turkle xem có thứ gì pha được không? Lão trả lời, chẳng có gì ngoài nước. Fredrickson hỏi thế dùng thuốc ho nước có được không? "Thỉnh thoảng người ta phát cho tao một thìa rót ra từ cái bình hai lít để trong phòng thuốc. Mùi vị được. Turkle, ông có chìa khóa phòng thuốc không?"

Turkle nói rằng ban đêm chìa khóa phòng thuốc chỉ có trực nhật cầm, nhưng McMurphy thuyết phục ông lão cho phép chúng tôi chọc khóa xem sao. Turkle cười khẩy và gật gà gật gù. Trong khi ông lão và McMurphy cạy khóa bằng cái kẹp giấy thì những đứa còn lại cùng các cô gái chạy đến phòng trực mở các cặp giấy ra và đọc giấy tờ.

"Xem này," Scanlon nói, huơ huơ cái cặp trên tay. "Tất cả có hết ở đây. Thậm chí còn có bảng điểm của tớ hồi lớp một. Ôi những điểm số tồi tệ, thật là tồi tệ."

Billy đọc cho cô gái của hắn lịch sử bệnh tật của mình. Cô ta lùi lại một bước và nhìn hắn chăm chú. "Bao nhiêu thứ như vậy cơ à, Billy? Một con người thế này mà tâm thần thế kia? Nhìn anh thật không nghĩ anh lại có lắm chuyện như vậy."

Cô kia mở ngăn dưới và nghi ngờ hỏi, sao các bà y tá cần lắm túi chườm thế, phải đến hàng nghìn chiếc ở đây, còn Harding ngồi sau bàn của mụ Y tá Trưởng, nhìn tất cả, lắc đầu.

McMurphy và Turkle mở được phòng thuốc và lôi từ hộp đá ra một cái bình đựng nước màu nho đặc. McMurphy đưa ra ánh sáng và đọc cái nhãn:

"Tinh dầu thơm, màu thực phẩm, axit citric. Bảy mươi phần trăm chất trơ - chắc hẳn là nước - hai mươi phần trăm rượu - tuyệt! và thuốc ho bột mười phần trăm Cẩn Thận Bạch Phiến Có Thể Gây Ra Nghiền Thuốc." Hắn tháo nút, nếm thử mùi vị, mắt nhắm lại. Sau đó hắn lè lưỡi liếm hai hàm răng, nuốt thêm một ngụm nữa, rồi lại đọc tiếp cái nhãn. "Nào," hắn nói và gõ răng côm cốp dường như chúng vừa mới được mài xong. "Nếu hòa thêm một ít vào rượu thì sẽ nhận được cái chúng ta cần. Turkle, ông bạn, chúng ta có đá không?"

Khi đã đổ vào cốc giấy vẫn dùng uống thuốc, trộn với rượu mạnh và rượu vang của hai cô gái, món thuốc ho có vị như nước uống của trẻ con nhưng lại mạnh như rượu xương rồng mà chúng tôi vẫn mua ở Dalles - lạnh và êm khi uống, nhưng đốt cháy cả ruột ga. Chúng tôi tắt đèn phòng chung và ngồi uống thứ nước đó. Mấy cốc đầu như uống thuốc, cả bọn uống từng hớp cẩn trọng và im lặng, ngó nhau xem có đứa nào chết không. McMurphy và Turkle trao đổi nhau cốc rượu và điếu thuốc của lão già và chẳng bao lâu chúng bắt đầu cười khúc khích khi nói đến chuyện gì sẽ xảy ra, nếu như cô y tá nhỏ bé có cái bớt bẩm sinh không bị thay ca vào lúc mười hai giờ và ở lại đây với chúng tôi.

"Tôi sẽ phát hoảng," Turkle nói, "nếu cô ta lên cơn và quất tôi bằng cây thánh giá treo trên cổ. Tình thế thật khó khăn, đúng không?"

"Còn tôi thì sẽ phát hoảng," McMurphy nói, "khi đang lúc hứng mà ả thì lại chọc cái nhiệt kế vào lưng tôi tìm cách đo nhiệt độ!"

Tất cả phá lên cười. Harding vừa dứt cơn cười đã bắt ngay vào câu chuyện.

"Hoặc là tồi tệ hơn," hắn nói. "Nếu cô ta cứ thế nằm yên với một vẻ mặt tập trung cao độ rồi bỗng dưng bảo mày... Ôi, im mà nghe đây... bảo cho mày biết mạch của mày bao nhiêu!"

"Ôi thôi đi, bọn đểu cáng..."

Chúng tôi lăn lộn trên các đi văng và ghế bành, nghẹt thở vì cười, nước mắt nước mũi giàn giụa. Hai cô gái cười đến mức sau hai ba lần cố gắng mãi mới đứng dậy được. "Em phải đi vào nhà vệ sinh tí xíu," cô lớn nói, cười khúc khích và đi vào chuồng xí, nhưng nhầm cửa và chui luôn vào phòng ngủ trong lúc tất cả chúng tôi lặng đi, đưa ngón tay lên môi, tới khi từ trong đấy vẳng ra tiếng kêu the thé của cô gái và tiếng lão đại tá già Matterson đang hét. "Gối - đó là... con ngựa!" và bắn ra theo sau cô gái trên chiếc xe lăn.

Sefelt đẩy lão trở lại buồng ngủ và đích thân dẫn cô vào nhà vệ sinh; hắn nói với cô rằng nhà vệ sinh nói chung là của đàn ông, nhưng hắn sẽ đứng canh cửa cho cô, sẽ đẩy lùi mọi cuộc đột nhập vào khoảng thời gian xả hơi của cô, mẹ khỉ. Cô gái trân trọng cảm ơn, bắt tay hắn và họ cúi chào nhau, và khi cô ta vừa bước vào thì lão đại tá già ngồi xe lăn lại xuất hiện, và Sefelt toát mồ hôi hột đôi co với lão. Khi cô gái trở ra thì hắn đang dùng chân chống lại các cuộc tấn công bằng bánh xe, còn chúng tôi đứng xung quanh hò hét, lúc thì cổ động cho người này, lúc lại khuyến khích người kia. Cô gái giúp Sefelt đặt lão đại tá vào giường và sau đó họ đi ra hành lang, nhảy van theo một điệu nhạc không ai ngoài họ nghe thấy.

Harding vừa uống vừa xem nhảy và lắc đầu. "Đây không phải là sự thực. Đó là tác phẩm hỗn hợp của Kafka, Mark Twain và Martini."

McMurphy và Turkle bắt đầu lo lắng rằng dầu sao nhiều đèn cũng sáng quá, và cả hai đi tắt hết đèn ngoài hành lang, thậm chí cả những chiếc đèn ngủ nhỏ ngang tầm đầu gối, tới khi khoa trở nên tối om. Turkle kiếm đâu được mấy cây đèn pin và chúng tôi chơi đuổi bắt dọc hành lang trên những cỗ xe lăn lấy từ kho ra rất vui vẻ cho đến khi nghe thấy tiếng rú động kinh của Sefelt, đang giật giật và nằm dài trên sàn cạnh Sandy. Còn cô gái ngồi phủi phủi váy và nhìn hắn. "Chưa bao giờ em gặp người thế này," cô nói với niềm ngưỡng mộ.

Fredrickson quỳ xuống, đút cái ví vào giữa hai hàm răng của bạn để hắn khỏi cắn phải lưỡi, và cởi cúc áo cho hắn. "Seef, không sao chứ? Seef?"

Sefelt vẫn nhắm mắt, nhưng giơ một cánh tay yếu đuối rút cái ví trong miệng ra. Hắn nhoẻn cười hé đôi môi sùi bọt: "Không sao," hắn nói. "Cho tôi uống thuốc và thả tôi ra."

"Seef, cậu cần thuốc thật đấy hả?"

"Thuốc."

"Thuốc!" Fredrickson nói qua vai, không đứng lên. "Thuốc," Harding nhắc lại và cầm đèn pin ve vẩy bước tới phòng thuốc. Sandy nhìn hắn với đôi mắt ướt. Cô ta vẫn ngồi cạnh Sefelt và xoa đầu cho hắn một cách sửng sốt.

"Lấy cái gì đó cho cả em nữa," cô ta kêu lên với Harding bằng giọng say rượu. "Chưa bao giờ trong đời em gặp người thế này."
Trong hành lang vang lên tiếng kính vỡ loảng xoảng, và Harding quay lại với hai vốc thuốc viên trên tay; hắn rắc chúng lên Sefelt và cô gái như rắc nắm đất đầu tiên lên nắp quan tài. Harding ngước mắt lên trần.

"Xin Chúa rủ lòng thương, nhận lấy hai đứa con tội lỗi đáng thương vào vòng tay của Người. Và hãy hé cửa cho chúng con, những kẻ còn lại, bởi vì Người đang chứng kiến cái kết thúc, cái kết cục tuyệt đối, không tránh khỏi, thần hiệu. Bây giờ tôi hiểu cái gì đang xảy ra. Đây là cú đá hậu cuối cùng của chúng ta. Từ đây trở đi, chúng ta chỉ còn trông chờ địa ngục. Phải tập trung toàn bộ lòng dũng cảm để đón chào số mệnh đang tới. Đến sáng người ta sẽ bắn hết chúng ta, không sót một ai. Một trăm cc mỗi người. Mẹ Ratched sẽ xếp chúng ta đứng vào tường, và chúng ta... sẽ nhìn thấy những họng súng đen ngòm nạp đầy Miltown! Thorazine! Librium! Stelazine! Mụ ta vẫy gươm, thế là bằng bằng! Chúng ta đã tiêu tan khỏi mặt đất về cõi vĩnh hằng."

Hắn tựa người vào tường và trượt xuống sàn, những viên thuốc rơi ra khỏi tay lăn đi khắp phía, giống như những con bọ chét đỏ, xanh và vàng. "Amen!" hắn nói và nhắm mắt lại.

Cô gái ngồi trên sàn vuốt váy dọc theo đôi chân dài thô kệch, ngước nhìn Sefelt vẫn đang nhăn nhở và giần giật bên cạnh cô dưới ánh sáng của chiếc đèn pin, rồi nói: "Thậm chí một nửa như thế này em cũng chưa thấy bao giờ."

Những lời nói của Harding nếu không làm mọi người tỉnh rượu thì cũng bắt họ nhận thức được sự nghiêm trọng của việc họ đang làm. Đêm đang ngắn dần lại và đã đến lúc phải nghĩ tới chuyện sáng ra đám y tá và hộ lý sẽ tới. Billy Bibbit và cô gái của hắn nhắc chúng tôi bây giờ đã là bốn giờ, và nếu chúng tôi không phản đối thì xin ông lão Turkle hãy mở Buồng Cách ly cho họ. Hai người đi ra dưới ánh sáng huy hoàng của những ngọn đèn pin, còn chúng tôi bước vào phòng chung, nghĩ xem liệu nên dọn dẹp bằng cách nào. Turkle đi mở phòng cách ly, khi quay trở lại thì đã hầu như không biết gì nữa, và chúng tôi phải nhét lão vào xe lăn rồi đẩy vào phòng.

Đi theo sau mọi người, bất chợt tôi phát hiện ra mình say, say thực sự; lần đầu tiên sau khi ra khỏi quân đội, say sung sướng, say cười cợt, say vấp ngã lung tung, say cùng với sáu bảy người khác và hai cô gái - và ở đâu cơ chứ! ở ngay trong khoa của mụ Y tá Trưởng! Tôi say, tôi chạy, tôi cười phá lên, và tôi đùa tếu với các cô gái ở ngay trong dinh lũy bất khả xâm phạm của Liên hợp! Tôi nhớ lại buổi tối hôm nay, hồi tưởng lại tất cả những gì đã làm, tất cả dường như là một sự bịa đặt. Tôi phải thầm nhắc đi nhắc lại: đêm nay đã xảy ra thực sự, và đó là kết quả của chính chúng tôi. Chúng tôi chỉ mở cửa sổ cho đêm nay vào như thả cho không khí tươi mát ùa vào. Có thể Liên hợp không toàn năng như chúng tôi đã nghĩ chăng? Bây giờ chúng tôi biết mình có khả năng đến đâu, và ai là kẻ ngăn cản chúng tôi lặp lại chuyện này? Hay là làm một chuyện gì đó khác nữa, nếu chúng tôi muốn? Ý nghĩ đó dễ chịu đến mức tôi la lên inh ỏi, nhảy bổ tới phía sau McMurphy và Sandy và tóm lấy họ, nhấc mỗi tay một người và chạy vào phòng chung, còn họ thì kêu lên và đạp chân loạn xị như trẻ con. Ôi, tôi sung sướng biết chừng nào.

Đại tá Matterson lại ngóc đầu dậy, giương cặp mắt sáng ra nhìn và sẵn sàng mở miệng dạy dỗ, và Scanlon lại đẩy ông ta về giường. Sefelt, Martini và Fredrickson nói có lẽ họ muốn đi ngủ. McMurphy, Harding, Sandy, tôi và ông lão Turkle ở lại để kết thúc nốt chai thuốc ho nc này và nghĩ chuyện dọn dẹp khoa. Dường như chỉ có tôi và Harding lo lắng đến chuyện lộn xộn này - McMurphy và Sandy ngồi sát bên nhau, uống cái thứ thuốc ho nước ấy và nghịch tay nhau trong bóng tối, còn ông lão Turkle chỉ chực lăn ra ngủ. Harding cố gắng hết sức để lôi họ về với nhiệm vụ.

"Các anh không nhận thức được tính khẩn cấp của tình trạng đang diễn ra," hắn nói.

"Nhảm," McMurphy đáp.

Harding đập bàn. "McMurphy, Turkle, các anh không nhận thức được chuyện gì đã xảy ra hôm nay. Trong khoa tâm thần. Trong khoa của mụ Ratched! Hậu quả sẽ là... thảm họa!"

McMurphy cắn vào dái tai cô gái. Turkle gật đầu, giương một mắt lên và nói: "Đúng thế. Ngày mai bà ta sẽ ra tay."

"Tuy nhiên, tôi có kế hoạch thế này." Harding tiếp. Hắn đứng dậy và nói rằng trong tình hình này McMurphy không thể khắc phục được tình thế, và ai đó phải nắm lấy quyền lãnh đạo. Càng nói, dường như hắn càng thẳng người hơn và tỉnh táo hơn. Hắn nói nghiêm trang và khẩn khoản, tay vẽ lên trong không trung. Tôi mừng rằng hắn đã tự gánh trách nhiệm chỉ huy.

Kế hoạch của hắn như sau - trói Turkle và sắp xếp sự việc sao cho dường như McMurphy lẻn đến sau lưng Turkle và trói ông lão bằng, xem nào, vài trải giường xé ra, tước lấy chìa khóa và đột nhập vào phòng thuốc, vứt thuốc khắp nơi, lật tung sổ sách... cốt để trêu tức mụ Y tá Trưởng, việc này thì mụ ta tin, và sau đó, tháo lưới cửa sổ bỏ trốn.

McMurphy bảo việc đó giống như phim vô tuyến truyền hình, và một trò ngu xuẩn như vậy không thể không thành công được, hắn còn khen Harding vẫn còn suy nghĩ được rành rọt lúc này. Harding giải thích những ưu điểm của kế hoạch; mụ y tá sẽ không truy tố những người còn lại, Turkle sẽ không bị đuổi việc, còn McMurphy thì được tự do. Hắn nói các cô gái có thể đưa McMurphy sang Canada hay xuống Tiajuana, còn nếu muốn thì sang tận Nevada và hắn sẽ được an toàn tuyệt đối; cảnh sát chả lấy gì làm hăng hái lắm trong việc truy tìm kẻ trốn khỏi bệnh viện điên bởi mười đứa trốn thì chín đứa sau mấy ngày lại tự mò về, hết tiền và say mềm, cầu khẩn được nuôi ăn nuôi ở như cũ. Chúng tôi bàn về chuyện đó và kết thúc nốt chỗ thuốc ho nước. Chúng tôi nói mãi tới lúc chỉ còn yên lặng. Harding ngồi về chỗ cũ.

McMurphy buông cô gái, nhìn tôi, sau đó nhìn Harding và mặt hắn lại thể hiện một sự mệt mỏi không hiểu nổi. Hắn hỏi còn chúng tôi thì sao, tại sao chúng tôi không đứng dậy mặc quần áo và biến luôn cùng với hắn?

"Tôi còn chưa sẵn sàng, Mack ạ," Harding nói với hắn.

"Thế tại sao cậu lại cho rằng tớ sẵn sàng?"

Harding im lặng nhìn hắn, sau đó mỉm cười và nói: "Không, cậu không hiểu. Vài tuần nữa tôi sẽ sẵn sàng. Nhưng tôi muốn ra viện một cách độc lập, qua cửa chính, với đủ mọi thủ tục và hình thức. Để vợ tôi ngồi trong xe và đến đón tôi đúng giờ đã hẹn. Để tất cả mọi người đều thấy rằng tôi đã xuất viện đàng hoàng."

McMurphy gật đầu. "Còn cậu, Thủ lĩnh?"

"Tớ nghĩ là tớ ổn cả. Chỉ có điều tớ không biết phải đi đâu. Vả lại, nếu cậu đi thì ai đó cũng phải ở lại một vài tuần để chắc chắn mọi việc không quay lại như cũ đã chứ!"

"Còn Billy, Sefelt, Fredrickson và những người khác."

"Tôi không thể nói thay họ được," Harding nói. "Mỗi người đều có những phức tạp riêng, cũng như chúng ta thôi. Họ vẫn còn là những thằng người bệnh tật về nhiều mặt. Nhưng ít nhất là thế: họ đang là những thằng người. không còn là thỏ nữa rồi. Và có thể, một lúc nào đó họ sẽ là những người khỏe mạnh. Cái đó thì tôi không biết được."

McMurphy đăm chiêu nhìn hai bàn tay của mình, sau đó ngước mắt nhìn Harding.

"Harding, có chuyện gì vậy? Chuyện gì đã xảy ra?"

"Cậu muốn hỏi tất cả hả?"

McMurphy gật đầu.

Harding lắc đầu. "Không hiểu tớ có trả lời cậu được không. Tớ có thể kể ra cho cậu mọi nguyên nhân bằng những ngôn từ tinh tế của Freud và điều đó cũng đúng ở mức độ nào đấy. Nhưng nếu cậu muốn biết nguyên nhân của mọi nguyên nhân thì tớ không thể nói được. Ít nhất cũng là đối với những người khác. Còn với tớ? Tội lỗi. Sự xấu hổ. Nỗi sợ hãi. Tự hạ mình. Ngay từ lúc mới lớn tớ đã phát hiện ra... diễn đạt thế nào nhỉ? Tớ khác với mọi người. Chữ đó nhẹ nhàng hơn, chung hơn so với cái từ kia. Tớ say mê những việc mà xã hội xem là đáng hổ thẹn. Và tớ ốm. Không phải vì việc đó mà cái cảm giác xã hội đang chỉ thẳng vào mặt tó và một nghìn giọng nói đồng thanh hét lên: "Xấu hổ chưa! Nhục nhã chưa!" Đấy, xã hội đối xử với tất cả những kẻ không giống mình như thế đấy."

"Và tớ cũng không giống," McMurphy nói. "Tại sao với tớ lại không xảy ra chuyện như vậy? Từ hồi tớ nhỏ tí, người ta đã lúc thì gán cho tớ cái này, lúc thì buộc cho tớ cái kia, nhưng tớ không vì thế mà điên lên."

"Đúng, cậu đúng. Người ta không phát điên lên vì điều đó. Tớ cũng không xem nguyên nhân của tớ là duy nhất. Mặc dù thật ra trước đây mấy năm, khi còn trẻ, tớ đã nghĩ rằng sự trừng phạt của xã hội là sức mạnh duy nhất đẩy tớ vào con đường dẫn đến nhà thương điên, nhưng cậu đã bắt tớ xem xét lại toàn bộ lý thuyết của mình. Một người, kể cả người mạnh mẽ như cậu, bạn ạ, bị xua vào con đường ấy thì chắc là còn một nguyên nhân nào khác."

"Thế sao? Nên nhớ tớ không đồng ý rằng tớ đang ở trên con đường ấy, nhưng một nguyên nhân nào khác là cái quái gì?"

"Đó là chúng ta," tay hắn nhẹ nhàng hoa lên trong không khí một vòng tròn trắng và nhắc lại, "chúng ta."

McMurphy ngờ vực nói: "Vớ vẩn," và mỉm cười, rồi hắn đứng dậy, ôm cô gái. Hắn nheo mắt nhìn đồng hồ trong ánh mờ mờ. "Sắp năm giờ rồi. Tớ phải chợp mắt một chút trước lúc cao chạy xa bay. Hai giờ nữa ca sáng mới tới; hiện thời cứ để Billy và Candy yên. Tớ sẽ biến lúc sáu giờ. Nào, cô bé. Sandy, có thể chúng ta dành một giờ trong phòng ngủ để tỉnh rượu. Em nghĩ sao? Sáng mai chúng ta sẽ phải lái một chặng rất dài - dù đến Canada, Mexico, hay đâu đó."

Turkle, tôi và Harding cùng đứng lên. Tất cả hãy còn lảo đảo, hãy còn say, nhưng say một nỗi buồn êm dịu. Turkle bảo, một giờ nữa sẽ đánh thức McMurphy và cô gái dậy.

"Và đánh thức cả tôi nữa," Harding nói. "Khi cậu đi tôi muốn đứng bên cửa sổ cầm một viên đạn bạc trong tay và hỏi, ‘Kẻ đeo mặt nạ anh hùng ấy là ai?"

"Cút cậu đi. Hãy nằm mà ngủ đi, cả hai cậu, để mắt tớ đừng có mà trông thấy. Cậu hiểu chứ?"

Harding mỉm cười, gật đầu nhưng không nói gì. McMurphy chìa tay ra, Harding bắt lấy. McMurphy ngửa người ra sau như một tên cao bồi khệnh khạng ra khỏi quán rượu và nháy mắt: "Người hùng Mack đã đi rồi, và anh bạn, anh lại có thể trở thành tâm thần toán trưởng ở đây."

Hắn quay sang tôi và cau mày. "Còn cậu sẽ làm gì tớ cũng không biết nữa, Thủ lĩnh ạ. Cậu vẫn còn phải tìm hiểu thêm chút nữa. Cậu cũng có thể đóng vai kẻ xấu trong trò đấu vật trên tivi. Chủ yếu là đừng có tự ti."

Tôi bắt tay hắn, và chúng tôi đi vào phòng ngủ. McMurphy bảo Turkle xé vải trải giường ra và nghĩ xem thích thắt nút kiểu nào thì hắn sẽ thắt cho kiểu đó. Turkle nói hắn sẽ suy nghĩ. Khi tôi đi nằm thì trời đã tờ mờ, McMurphy với cô gái cũng đã lên giường hắn. Tôi cảm thấy hơi ấm tỏa ra từ khắp cơ thể, nhưng thân thể cứ như là của ai. Tôi nghe thấy Turkle mở cửa phòng giặt ngoài hành lang, trút một tiếng thở dài ồn như bò rống và tiếng đóng cửa sau đó. Mắt tôi đã quen với bóng tối chạng vạng, và tôi thấy McMurphy với cô gái quấn lấy nhau trong tay tìm hơi ấm, như hai đứa trẻ mỏi mệt, kiệt sức chứ không phải như hai người tình với nhau trên giường.

Và bọn hộ lý bắt gặp họ trong chính tư thế như vậy khi đi bật đèn trong phòng ngủ lúc sáu rưỡi.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 34
Tôi nghĩ rất nhiều về chuyện đã xảy ra sau đó, và kết luận rằng có lẽ nhất định nó phải xảy ra, sớm hay muộn, thế này hay thế kia, thậm chí cả trong trường hợp ông lão Turkle có đánh thức và thả cho McMurphy và cô gái ra như kế hoạch đã dự định. Mụ y tá thế nào cũng đoán biết được chuyện gì đã xảy ra, sẽ đoán biết được ví dụ như, chỉ cần nhìn bộ mặt của Billy, và mụ sẽ làm như đã làm, cả trong trường hợp có mặt McMurphy hay không. Và Billy cũng sẽ làm như đã làm, cũng như McMurphy sẽ biết điều đó và sẽ quay trở lại.

Sẽ phải quay trở lại, bởi vì hắn không thể chơi bời tự do, đánh poker ở thành phốRenohayCarsonnào đó và để mất quyền nói lời cuối cùng, đi nước cuối cùng cho mụ y tá, cũng như hắn không thể để mụ muốn làm gì thì làm ngay trước mũi mình. Dường như hắn đã cam kết chơi đến cùng và không thể vi phạm thỏa thuận.

Chúng tôi vừa kịp dậy và bắt đầu đi lại được thì những lời thầm thì về chuyện xảy ra đêm qua đã lan khắp khoa, lan như khói trong rừng. "Chúng nó làm gì cơ?" - người ta hỏi nhau - " Gái điếm ư? Ở phòng ngủ? Thật đến khiếp." Không phải chỉ có mỗi cô gái, người của chúng tôi trả lời họ, mà còn cả một cuộc đánh chén lu bù không tưởng tượng nổi. McMurphy muốn thả cô ta ra trước giờ ca sáng nhưng đã ngủ quên. "Cậu đừng có mà bốc phét nữa." "Tớ không bốc phét một tí nào, sự thật trăm phần trăm. Chính tớ cũng tham gia."

Những người tham gia cuộc vui tối qua kể lại chuyện đó với niềm tự hào và kính sợ giấu giếm, giống như những người chứng kiến một vụ cháy khách sạn lớn, hay một trận vỡ đê - hết sức nghiêm trang và thành kính, bởi vì thiệt hại còn chưa tính được - nhưng câu chuyện càng đi xa thì mức độ thành kính của họ càng giảm. Mỗi lần mụ y tá và đám hộ lý nhanh nhẩu của mụ đụng phải một vật gì mới, ví như cái chai không đựng thuốc ho nước, hay đống xe lăn xếp hàng cuối hành lang như con tàu đồ chơi trong công viên khi lũ trẻ đã bỏ về, một mảnh của đêm qua lại đột ngột trở về sáng rõ, những kẻ không tham dự thì lắng nghe, còn những kẻ dự phần thì nhớ lại sung sướng. Bọn hộ lý đuổi tất cả đám Cấp tính và Kinh niên vào phòng chung, chen chúc nhau, lo lắng lẫn phấn khích. Hai lão "Thực vật" ngồi ngập trong đống chăn nệm, giương mắt, há miệng ngạc nhiên nhìn ra. Tất cả còn mặc quần áo ngủ và đi dép lê, trừ McMurphy và cô gái; cô ta đã ăn mặc đầy đủ, ngoại trừ chưa kịp xỏ giày và đôi tất da chân cứ vắt lòng thòng trên vai, còn McMurphy vẫn mặc chiếc quần đùi đen có thêu những con cá voi trắng. Họ ngồi cạnh nhau trên đi văng, tay nắm tay. Sandy lại thiu thiu ngủ và McMurphy, với nụ cười mơ màng và khoái trí, tựa đầu bên cô.

Nỗi lo lắng của chúng tôi cứ dần dần biến mất và thay vào đó là niềm vui mừng và phấn khích. Khi mụ y tá tìm thấy đống thuốc viên mà tối qua Harding rắc lên người Sefelt và cô gái, thì chúng tôi bắt đầu mỉm cười và khó khăn lắm mới giữ được để khỏi cười phá lên, còn khi người ta phát hiện ra lão Turkle trong phòng chứa đồ ngủ và lôi ông lão ra, cau có, rên khừ khừ, quấn trong hàng trăm mét vải trải giường đã bị xé trông giống như cái xác ướp đang say rượu, thì không ai nhịn được nữa, cứ bò ra mà cười sặc sụa. Mụ y tá chấp nhận tiếng cười của chúng tôi với vẻ lì lợm, nhẫn nhục; một tiếng cười như tiếng rống vào họng mụ và dường như chỉ tích tắc nữa thôi là mụ sẽ vỡ tung ra như bong bóng.

McMurphy gác chân lên thành đi văng, kéo mũ sụp xuống mũi để ánh sáng khỏi chiếu vào đôi mắt sưng vù, liên tục thè lưỡi liếm môi, cái lưỡi như đã trát vữa từ món thuốc ho tối qua. Trong bộ dạng hắn ốm yếu và mệt mỏi kinh khủng, hắn ngáp dài liên tục và cứ phải đưa tay ép lên hai thái dương, nhưng dù bên trong khó chịu thế nào hắn vẫn luôn mỉm cười và thậm chí hai ba lần còn cười ầm lên mỗi khi mụ y tá tìm thấy một cái gì đấy.

Lúc mụ chạy vào buồng y tá gọi điện thông báo lão Turkle xin bỏ việc, thì nhân cơ hội, lão và cô Sandy mở lưới sắt trên cửa sổ, vẫy tay từ biết chúng tôi rồi nhảy ra đường, vấp ngã và lăn lộn trên thảm cỏ ẩm ướt, đầy hơi sương, rực rỡ ánh mặt trời.

Harding nói với McMurphy: "Chạy đi, lão không khóa cửa lại! Chạy theo họ mau."

McMurphy rên khừ khừ, mở một con mắt đỏ ngầu như tôm luộc. "Cậu chế nhạo tớ đây hả? Đầu tớ bây giờ cũng không đút lọt cửa sổ, chứ nói gì đến người."

"Anh bạn thân mến của tôi, cậu hình như không hoàn toàn nhận thức được..."

"Harding, cút đi với những lời lẽ thông minh của cậu. Bây giờ tớ chỉ có mỗi một nhận thức - tớ vẫn còn nửa say nửa tỉnh. Và đang buồn nôn đây. Ngoài ra, tớ nghĩ rằng cậu cũng đang say. Còn cậu, Thủ lĩnh, chắc cũng vậy chứ?"

Tôi nói má và mũi tôi chẳng có cảm giác gì cả, nếu như có thể xem đó là dấu hiệu.

McMurphy gật đầu một cái rồi tiếp tục nhắm mắt; hắn quàng hai tay ôm ngang người, ngồi thụt sâu vào ghế bành, gục cằm xuống ngực. Rồi hắn tặc lưỡi và mỉm cười, dường như thiu thiu ngủ. "Anh em," hắn nói, "tất cả chúng ta hãy còn say."

Harding không thể nào yên tâm được. Hắn vẫn cố thuyết phục McMurphy phải mau chóng mặc quần áo, trong khi thiên thần tốt bụng của chúng ta còn đang bận rộn gọi cho gã bác sĩ kể về những việc vô lương tâm vừa xảy ra ở phân khoa, nhưng McMurphy trả lời rằng không đáng phải quan tâm như vậy: tình cảnh hắn không thể xấu hơn được nữa, đúng không? "Tất cả những gì có thể, bọn chúng đã đem thết đãi tớ hết rồi," hắn nói. Harding phẩy tay và đi khỏi, vừa đi vừa nói về ngày tận thế.

Một tên hộ lý nhận thấy lưới cửa sổ mở bèn khóa lại, rồi đến phòng trực và quay lại với cái cặp to tướng, dò tay theo danh sách, đọc họ tên, thoạt tiên chỉ nhấp nháy môi, sau mới thành tiếng, mắt đưa tìm người ấy. Danh sách được lập theo thứ tự A, B, C lật ngược để làm rối mọi người, và do vậy mãi sau cùng hắn mới dò đến vần B. Hắn nhìn quanh phòng, ngón tay không rời khỏi cái tên đứng cuối danh sách.

"Bibbit. Billy Bibbit đâu?" Mắt hắn tròn xoe. Hắn nghĩ Billy vừa lỉnh mất ngay dưới mũi hắn và không thể nào bắt lại được. "Lũ ngốc các anh, ai nhìn thấy Billy Bibbit trốn đâu không?"

Lúc này mọi người mới sực nhớ đến Billy giờ đang ở nơi nào, thế là lại nổi lên, nào là tiếng khúc khích, nào là tiếng cười đắc ý.

Tên hộ lý bỏ đi, và chúng tôi nhìn thấy hắn trong phòng trực mách mụ y tá. Mụ dằn ống nghe xuống và chạy ra hành lang, tên hộ lý chạy theo đằng sau; mớ tóc mụ tuột ra khỏi cái mũ trắng và xổ xuống mặt, trông như tro ướt. Mồ hôi túa ra giữa lông mày và trên mép mụ. Mụ hầm hầm hỏi chúng tôi kẻ đào tẩu chạy đi đâu. Một tràng cười rộ lên nhất loạt trả lời và mắt mụ sục sạo một vòng quanh chúng tôi.

"Thế nào? Anh ta chưa chạy trốn, đúng không? Harding, anh ta vẫn còn ở đây... trong khoa, đúng không? Nói đi, Sefelt, nói xem nào!"

Mỗi tiếng, mụ lại xoáy mắt nhìn vào người bị hỏi nhưng nào có tác dụng gì. Họ đón ánh mắt mụ, cười gằn trêu tức nụ cười tin tưởng thường ngày của mụ giờ đã mất tích.

"Washington! Warren! Đi với tôi lục tìm các phòng."

Chúng tôi đứng dậy và đi cả theo, bình thản xem chúng mở hết phòng thí nghiệm, phòng tắm, đến phòng bác sĩ... Scanlon mỉm cười, che miệng bằng bàn tay nổi đầy gân xanh, thì thầm: "Ôi bây giờ sẽ có hài kịch với Billy Bibbit đây." Chúng tôi gật đầu. "Và không chỉ với Billy đâu, còn có người khác ở trong đó nữa, các cậu nhớ không?"

Chúng đã tiến tới phòng cách ly ở cuối hành lang. Còn chúng tôi dồn lại phía sau, vươn cổ ra nhìn qua vai chúng trong lúc mụ y tá mở khóa và đẩy tung cửa. Căn phòng không cửa sổ, tối đen. Nghe thấy tiếng chí chóe và cựa quậy, và mụ y tá với tay bật công tắc đèn và kìa trên tấm nệm trải dưới sàn, Billy và cô gái nheo mắt như hai chú cú con trong rổ. Mụ y tá làm như không để ý tới tiếng cười rộ lên sau lưng.

"William Bibbit!" Mụ cố gắng giữ giọng lạnh lùng và nghiêm khắc: "William... Bibbit!"

"Xin chào bà, thưa bà Ratched," Billy đáp, không buồn nghĩ đến chuyện đứng dậy và cài lại bộ đồ ngủ. Hắn cầm tay cô gái và mỉm cười. "Đây là Candy."

Mụ y tá líu lưỡi trong cái cổ họng xương xẩu. "Billy, Billy... tôi thật xấu hổ cho anh."

Billy vẫn chưa tỉnh hoàn toàn để đáp lại nỗi xấu hổ của mụ, còn cô gái, toát ra vẻ nồng ấm và uể oải sau giấc ngủ, quay bên này bên kia trên tấm đệm tìm đôi bít tất. Lúc lúc cô ta dừng lại, ngẩng đầu lên mỉm cười với mụ y tá đang lạnh lùng đứng khoanh tay trước mặt, rồi lại đưa tay sờ xem áo đã cài chưa rồi tiếp tục kéo kéo đôi bít tất mắc dưới tấm đệm. Cả hai như những chú mèo to béo vừa uống xong sữa ấm buổi sáng và đang phơi mình dưới ánh nắng mặt trời; tôi có cảm giác họ cũng chưa dứt cơn say.

"Ôi Billy," mụ y tá làm ra bộ thất vọng, dường như muốn phát khóc lên, nói. "Với một phụ nữ như thế này! Thấp kém, hèn hạ! Bán trôn nuôi miệng! Lem luốc, bẩn thỉu..."

"Một ả giang hồ ư, thưa bà?" Harding chộp lấy. "Hay là Jezebel?" Mụ y tá quay lại và nhìn Harding đe dọa, nhưng hắn vẫn tiếp tục. "Không phải ư? Jezebel không được à?" Hắn cúi đầu trầm ngâm. "Thế thì là một cô Salome? Cô ta cũng nổi tiếng điếm đàng! Thôi thì cứ gọi là cô gái thôi vậy. Nào, chẳng qua tôi muốn giúp bà."

Mụ đưa mắt lại phía Billy. Hắn đang cố gắng đứng dậy. Lật sấp người xuống. Billy co đầu gối, chổng mông lên như con bò, sau đó chống hai tay, tựa vào một chân, rồi đứng cả hai chân lên. Billy có vẻ hài lòng với thành tích đó của mình và dường như không nhận thấy chúng tôi đang đứng tụ tập nơi cửa, đứa trêu chọc đứa hoan hô.

Tiếng cười và tiếng ồn ào bủa vây lấy mụ y tá. Mụ quay từ Billy và cô gái sang nhìn cái đám nhí nhố bọn tôi. Bộ mặt tráng men xị ra. Mụ nhắm mắt, cố gắng kìm cơn run lẩy bẩy. Mụ hiểu, thời điểm đó đã đến - thời điểm mụ bị dồn vào chân tường. Khi mụ mở mắt ra, đôi mắt ra, đôi mắt nom bé tí và bất động."Tôi thật sự khổ tâm, Billy," mụ nói và tôi nghe trong giọng nói có sự thay đổi. "Làm sao người mẹ tội nghiệp của anh có thể chịu đựng được chuyện này."

Lần này lời nói của mụ y tá mang lại hiệu quả cần thiết. Billy giật nảy mình, ép bàn tay vào má như bị té axit.

"Bà Bibbit luôn luôn tự hào về bản tính của anh. Tôi biết điều đó. Bà ta sẽ thất vọng kinh khủng. Billy, anh biết bà sẽ ra sao khi thất vọng rồi đấy, bà bạn tội nghiệp nhất định sẽ ốm. Bà ta rất nhạy cảm. Đặc biệt là những gì liên quan tới con trai. Ôi, bà luôn luôn tự hào về anh. Bà luôn..."

"Không! Không!" Billy há hốc mồm ra, đớp đớp không khí. Hắn vò đầu cầu khẩn mụ ta. "Đ...đ... đừng! Đ... đ... đừng..."

"Billy, Billy," Mụ nói. "Chúng tôi là chỗ bạn bè cũ với nhau."

"Không!" Hắn hét lên. Giọng hắn làm rung chuyển cả các bức tường trần trụi của phòng cách ly. Hắn ngửa mặt, hét thẳng lên cái đèn trắng hình vành trăng trên trần. "Kh...kh...không!"

Chúng tôi thôi cười. Chúng tôi nhìn Billy gập người xuống trên sàn: đầu ngửa ra sau, gối khuỵu xuống. Hắn miết bàn tay dọc theo chiếc quần xanh từ trên xuống dưới. Hắn lắc đầu kinh hoàng giống một đứa bé sắp bị đánh đòn chỉ còn chờ ngọn roi được vót. Mụ y tá đưa tay chạm vào vai hắn an ủi. Hắn giật nảy lên như bị đánh.

"Billy, tôi không muốn mẹ anh như vậy... nhưng anh đã bắt tôi phải nghĩ về anh thế nào, anh biết không?"

"Đ...đ... đừng n...n... nói! B...b...bà Ratched! Đ... đ... đ... đừng...".

"Billy. Tôi phải nói. Tôi không thể tin vào mắt mình nữa, nhưng anh còn bắt tôi phải hình dung những gì nữa! Tôi đã thấy anh, trên nệm, với một cô gái loại này."

"Không! Đấy kh... kh... không phải là tôi. Tôi không... Hắn lại đưa tay lên má, dán chặt vào đấy. "Đấy là cô ta."

"Billy, cô gái không thể bắt ép anh được." Mụ lắc đầu. "Anh nhớ không, tôi đã muốn nghĩ khác... vì bà mẹ tội nghiệp của anh."

Bàn tay trượt xuống dọc theo má, để lại trên đó những vết hằn màu đỏ kéo dài. "C... c... cô ta ép." Hắn nhìn quanh. "Và Mc... M... Murphy. Anh ta! Và cả Harding! Cả những người còn lại! Họ kh... kh... khêu gợi tôi, chế nhạo tôi!"

Hắn như bị hút chặt vào mụ, không còn lơ láo ngó phải liếc trái gì nữa, cứ trân trối nhìn thẳng vào mụ, dường như ở đó không phải khuôn mặt là là một luồng ánh sáng xoáy trôn ốc, một luồng sáng màu trắng sữa, màu xanh, màu da cam thôi miên hắn. Hắn nuốt nước bọt và sợ sệt chờ đợi, nhưng mụ ta im lặng; kinh nghiệm cáo già của mụ - cái sức mạnh cơ học khổng lồ đó - đã trở lại với mụ, đánh giá tình thế và báo cho mụ rằng bây giờ chỉ cần yên lặng là đủ.

"Họ đã b... b... buộc tôi! Thật thế, bà Ratched, họ b... b... B... BUÔ... BUÔ..."

Ánh mắt mụ dịu đi chút ít, và Billy gục đầu xuống, nấc lên nhẹ nhõm. Mụ ôm lấy cổ Billy, ép má hắn vào bộ ngực hồ bột của mình và vuốt ve vai hắn, vừa chậm rãi đưa mắt nhìn chúng tôi khinh bỉ.

"Billy, không sao, không sao. Bây giờ thì không ai có thể đụng đến anh được nữa rồi. Đừng sợ, tôi sẽ giải thích cho mẹ anh."

Mụ vẫn trừng trừng nhìn chúng tôi trong khi nói. Thật lạ, cái giọng mềm mỏng, an ủi, ấm áp như gối nhồi bông đổi ngược hoàn toàn với bộ mặt cứng như sành của mụ.

"Không sao, Billy, hãy đi với tôi. Anh có thể ngồi trong phòng bác sĩ. Chẳng có lý do gì giữ anh trong phòng chung và ép anh vào cái hội... bạn bè đó."

Mụ đưa hắn đi, luôn luôn xoa cái đầu gục xuống của hắn và nói "Cậu bé tội nghiệp, chú bé đáng thương của tôi" còn chúng tôi thì rút khỏi hành lang, vào ngồi trong phòng chung, mắt không nhìn nhau và không nói một lời nào. McMurphy ngồi xuống cuối cùng.

Đằng kia, tụi Kinh niên ngừng nhai tóp tép và nằm vào ổ của mình. Tôi nhìn trộm McMurphy qua khóe mắt, cố gắng không lộ liễu quá. Hắn ngồi trong góc, một phút nghỉ xả hơi trước hiệp tiếp theo, và phía trước còn bao nhiêu hiệp đấu nữa? Đối thủ mà hắn đang phải đương đầu, không phải chỉ thắng một trận là xong, anh cần phải thắng hết hiệp này đến hiệp kia, khi chân còn đứng được, sau đó thì ai đó sẽ phải chiếm chỗ của anh.

Trong phòng trực lại có thêm nhiều cú điện thoại, và một bầu đoàn quan chức bắt đầu ghé vào để xem xét các tang chứng. Cuối cùng, khi chính gã bác sĩ xuất hiện thì họ nhìn gã như nhìn người đã gây nên tất cả vụ này, hay ít ra cũng là người đã cho phép làm vụ đó. Gã tái xanh và run lẩy bẩy dưới cái nhìn của họ. Rõ ràng gã đã nghe hầu như toàn bộ sự việc, nhưng mụ y tá vẫn kể lại đầy đủ chi tiết, kể chậm rãi, to tiếng để chúng tôi cùng nghe thấy. Nghe ra nghe, nghiêm túc, không bị cản trở vì chúng tôi xì xào hay cười khúc khích bên cạnh nữa. Gã bác sĩ gật đầu, mân mê cái kính, chớp chớp đôi mắt chảy đầm đìa nước đến nỗi tôi nghĩ mụ y tá phải ướt sạch. Cuối cùng mụ kể đến chuyện Billy - nhờ ơn chúng tôi, hắn đã chịu một bi kịch.

"Tôi đã đưa anh ta vào phòng ông. Tình trạng anh ta rất tồi tệ, tôi đề nghị ông phải hỏi chuyện anh ta ngay lập tức. Anh ta vừa phải chịu một thử thách kinh hoàng. Tôi thật rùng mình khi nghĩ tới những hậu quả giáng xuống cậu bé đáng thương đó."

Mụ đợi cho đến khi cảm thấy gã bác sĩ cũng rùng mình như mụ.

"Theo tôi, ông cần phải tới đó và nói chuyện với anh ta. Anh ta đang rất cần sự thông cảm. Nhìn mà thấy thật tội nghiệp." Gã bác sĩ lại gật đầu và bước về phòng mình. Chúng tôi đưa mắt tiễn theo gã.

"Mack," Scanlon nói. "Cậu đừng nghĩ rằng chúng tớ tin những chuyện ngu ngốc mụ nói, hiểu không? Việc vỡ lở hết, nhưng chúng tớ biết lỗi do ai... chúng tớ chẳng kết tội cậu trong chuyện này đâu."

"Vâng," tôi nói, "chẳng ai kết tội cậu cả." Và hắn nhìn tôi, đến nỗi tôi muốn đứt cả lưỡi.

Hắn nhắm nghiền mắt lại, thả lỏng người trong ghế bành thư giãn. Để chờ đợi thì đúng hơn, nhìn dáng điệu gã. Harding đứng dậy bước tới hắn, nhưng hắn chưa kịp mở miệng nói gì thì ngoài hành lang vang lên tiếng gào thét của gã bác sĩ, hắt vào tất cả các bộ mặt một nỗi kinh hoàng khi chúng hiểu ra một điều như nhau.

"Bà y tá!" Gã hét inh lên. "Lạy Chúa tôi, bà y tá!"

Mụ Y tá Trưởng cùng ba tên hộ lý chạy vội đến chỗ gã vẫn đang đứng gào từng chập. Nhưng chúng tôi không ai nhúc nhích. Chúng tôi biết mình chỉ còn lại mỗi việc là ngồi yên một chỗ mà chờ mụ y tá quay lại thông báo cho chúng tôi về một trong những sự việc chúng tôi biết rằng đã nằm sẵn trong lộ trình.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 35
Mụ y tá tiến thẳng đến McMurphy:

"Anh ta đã tự cắt cổ." Nói xong, mụ dừng lại chờ hắn trả lời. McMurphy không ngẩng đầu lên. "Anh ta mở ngăn bàn ông bác sĩ, tìm thấy dụng cụ ở đó và tức khắc hành động luôn. Cậu bé bất hạnh, đáng thương không một ai chia sẻ đã tự tử. Bây giờ anh ta đang ngồi trong ghế ông bác sĩ với cái họng bị cưa đứt."

Mụ ta lại đợi, nhưng McMurphy vẫn không ngẩng đầu lên.

"Đầu tiên là Charles Cheswich, còn bây giờ là William Bibbit! Hy vọng rằng ông đã thỏa mãn. Ông đùa giỡn với sinh mạng con người... đánh bạc bằng sinh mạng con người... dường như ông xem mình là Thượng đế!"

Mụ quay người, đi đến buồng trực và đóng cửa lại, để lại phía sau những âm thanh buốt giá chết người đang vang lên từ các ống đèn trên đầu chúng tôi.

Tôi chợt thoáng có ý nghĩ ngăn hắn lại, khuyên hắn hãy vừa lòng với tất cả những gì thắng được trước đây và nhường mụ hiệp cuối cùng này, nhưng ý nghĩ đó dần dần bị thay thế bởi ý nghĩ khác, to lớn hơn. Tôi bỗng hiểu thật rõ ràng rằng không phải tôi và không một ai trong cái đám một tá chúng tôi có thể ngăn hắn lại được. Với tất cả các lý lẽ của mình Harding cũng không thể, hay tôi với đôi tay rắn chắc như thép của mình, hay ông đại tá Matterson với các bài học, cũng như Scanlon luôn miệng càu nhàu, hay tất cả chúng tôi cộng lại cũng không thể ngăn hắn được.

Chúng tôi không thể ngăn hắn lại được, bởi chính chúng tôi đã đẩy hắn tới hành động đó. Bây giờ không phải mụ y tá, mà là đòi hỏi của chúng tôi bắt hắn chậm chạp tì hai tay vào thành ghế, đẩy người về phía trước, từ từ đứng lên như thây ma cử động trong phim, nhận lệnh của bốn mươi ông chủ. Chính chúng tôi là kẻ hàng tuần nay thúc ép hắn, bắt hắn đứng liên tục, mặc dù từ lâu chân hắn đã không giữ nổi tấm thân của mình, bắt hắn hàng tuần nay phải nháy mắt, phải cười gằn, cười khẩy, phải đóng trò, mặc dầu toàn bộ niềm vui thích của hắn từ lâu đã bị đốt cháy giữa hai điện cực.

Chúng tôi bắt hắn đứng dậy, giật giật cái quần đùi đen, dường như đó là cái quần cao bồi bằng da ngựa, ngón tay đẩy chiếc mũ ra sau gáy như đấy là cái mũ phớt mười ga lông, những cử động chậm chạp, máy móc - và khi hắn đi trong phòng, tiếng cá sắt dưới gót chân trần đánh lửa xoèn xoẹt xuống sàn nhà.

Chỉ đến phút cuối - sau khi hắn đã đập vỡ cửa kính và mụ y tá quay lại, phô ra bộ mặt kinh hoàng, vĩnh viễn xóa nhòa mọi biểu hiện mà mụ muốn mang vào và hét lên khi bị hắn vồ lấy, bị hắn xé tung bộ đồng phục phía trước ngực và lại hét lên khi hai quả cầu có núm vú tràn ra trương phồng mỗi lúc một to, to hơn cả lúc chúng tôi có thể tưởng tượng được, ấm áp và hồng hào dưới ánh đèn, chỉ đến phút cuối sau khi đám quan chức cùng nhân viên bệnh viện hiểu ra rằng ba tên hộ lý mà mụ Y tá Trưởng dày công tuyển mộ sẽ bỏ mặc mụ, sẽ chỉ đóng vai quan sát và đành phải chiến đấu không có sự giúp đỡ của chúng, và tất cả - các bác sĩ, y sĩ, thanh tra - lao vào gỡ các ngón tay đỏ bầm đang cấu lấy cần cổ trắng nhợt mụ y tá tựa như xương cổ họng của mụ, mà vừa thở hồng hộc, họ vừa cố gắng đẩy McMurphy ra sau, chỉ đến lúc đó hắn mới tỏ ra có lẽ mình không hoàn toàn là con người kiên trì ngang bướng, thực hiện nghĩa vụ của mình dù muốn hay không.

Hắn hét lên. Giây phút cuối, khi hắn ngã ngửa ra, và trong giây lát, trước lúc người ta chôn hắn dưới những bộ quần áo trắng, chúng tôi còn kịp nhìn thấy bộ mặt tênh hênh của hắn, hắn đã cho phép mình la hét.

Tiếng thét của con thú bị săn đuổi xen lẫn vẻ kinh hoàng, sự thù địch, nỗi bất lực và sự tự vệ, nếu như anh lúc nào đó lần theo một con gấu, con báo hay con linh miêu bị thương, thì anh sẽ nghe thấy tiếng kêu cuối cùng đó của con thú khi lũ chó xông vào cắn xé, khi nó không còn nghĩ đến gì nữa ngoài việc mình đang chết.

Tôi còn nằm lại khoảng hai tuần nữa để xem chuyện gì sẽ xảy ra sau đó. Tất cả đều thay đổi. Sefelt và Fredrickson cùng nhau ký giấy ra khỏi bệnh viện, Bất Chấp Lời Khuyên Bác Sĩ; hay ngày sau ba bệnh nhân Cấp tính nữa cũng xin ra, còn sáu người chuyển sang khoa khác. Những điều tra về cuộc đập phá đêm ấy và cái chết của Billy cứ kéo dài mãi. Người ta báo cho gã bác sĩ rằng gã có thể xin nghỉ việc theo nguyện vọng riêng, nhưng gã thề rằng ở đến cùng và cứ để cho người ta tìm cách đuổi gã, còn tự gã, gã sẽ không đi đâu hết.

Mụ Y tá Trưởng phải nằm điều trị một tuần, tạm thay mụ là cô y tá nhỏ bé người Nhật, cho phép chúng tôi thay đổi nhiều thứ trong nội quy khoa. Đến lúc mụ trở lại thì Harding không những đã mở được cửa phòng tắm mà còn tự ngồi chia bài trong đó, bằng giọng kim yếu ớt của mình, hắn cố gắng bắt chước cái kiểu rống lên như người bán đấu giá của McMurphy. Hắn đang chia dở một cuộc bài thì nghe thấy tiếng chìa khóa của mụ tra vào ổ.

Chúng tôi đi ra khỏi buồng tắm tràn ra hành lang trước mặt mụ để hỏi về McMurphy. Thấy chúng tôi tiến đến, mụ nhảy lùi lại hai bước và tôi nghĩ mụ định bỏ chạy. Một bên mặt mụ còn bầm đen, tím ngắt và sưng vù lên, chẳng ra hình thù gì, khiến một mắt sưng húp, trên cổ còn quấn đầy băng. Và lại một bộ đồng phục trắng mới. Mấy người cười khẩy, nhìn bộ quần áo của mụ; dù nó chật hơn bộ cũ và hồ bột cứng hơn, nhưng mụ cũng không còn có thể giấu được mình là phụ nữ.

Harding mỉm cười bước tới và hỏi Mack bây giờ ra sao.

Mụ lôi từ trong túi ra cuốn sổ với cây bút chì và viết: "Anh ta sẽ quay lại" sau đó giơ cho khắp lượt. Tờ giấy rung lên trong tay mụ. "Bà tin chắc chứ?" Harding hỏi. Chúng tôi đã nghe đủ chuyện trong thời gian vừa rồi: nào là hắn đấm vỡ mõm hai tên hộ lý trong phòng điên, cướp lấy chìa khóa và bỏ chạy, nào là người ta đã trả hắn về trại cải tạo, và thậm chí là mụ y tá tạm thời phụ trách khoa trong khi chờ đợi người ta tìm một bác sĩ mới và mụ đã dành cho hắn phương pháp chữa bệnh đặc biệt.

"Bà hoàn toàn tin điều đó chứ!" Harding hỏi lại.

Mụ y tá lại lôi cuốn sổ tay ra. Mụ cử động rất khó khăn vì bó bột, bàn tay trắng hơn bất cứ lúc nào di động trên cuốn sổ như những ngón tay của các mụ Di gan di động trên bàn tay người xem bói. "Vâng, ông Harding," mụ viết. "Nếu như tôi không tin, thì tôi đã không nói. Anh ta sẽ trở về."

Harding đọc tờ giấy, sau đó xé nát và ném các mẩu vụn vào mụ ta. Mụ giật mình và lấy tay che phía mặt bị sưng khỏi bị giấy đập vào. "Đủ những chuyện láo khoét rồi, thưa bà," Harding nói. Mụ nhìn hắn hồi lâu, tay khua trên cuốn sổ, nhưng rồi mụ quay người bỏ đi, đút quyền sổ và cái bút chì vào túi và bước đến phòng y tá.

"Hừ," Harding nói. "Hình như câu chuyện không ăn nhập gì cả. Nhưng nếu người ta bảo anh toàn nói chuyện láo khoét, thì anh còn chửi lại bằng giấy thế nào được nữa!"

Mụ y tá cố gắng lập lại trật tự trong khoa, nhưng chẳng dễ dàng gì, nếu như hình bóng McMurphy vẫn còn ngang ngửa dọc hành lang, cười hô hố trên các cuộc họp và hát inh tai trong buồng vệ sinh. Mụ không thể lấy lại quyền lực trong tay, nếu lúc nào cũng phải bận viết ra giấy. Mụ mất hết bệnh nhân này tới bệnh nhân khác. Sau khi Harding xin đi và vợ hắn đến đón, còn George chuyển sang khoa khác, thì chúng tôi - những người đi câu - chỉ còn lại có ba: tôi, Martini và Scanlon.

Hiện thời tôi chưa muốn đi, bởi mụ y tá vẫn còn có cái vẻ tin tưởng bệnh hoạn, dường như mụ còn đợi một hiệp cuối cùng nữa và nếu như thế, tôi muốn chứng kiến hiệp đó. Và, một buổi sáng, khi McMurphy đã vắng mặt được ba tuần, mụ bắt đầu ván bài cuối cùng.

Cửa phân viện mở ra, tụi hộ lý đẩy vào cái xe có tờ bìa treo dưới chân và trên tờ bìa in dòng chữ đậm nét: MCMURPHY, RANDLE P. ĐÃ MỔ XONG. Còn thấp xuống bên dưới, viết bằng mực: GIẢI PHẪU NÃO.

Chúng đẩy chiếc xe vào phòng chung và đặt cạnh bức tường sát tụi Thực vật. Chúng tôi đứng cuối xe đọc tấm bìa, sau đó nhìn về nơi có cái đầu với nhúm tóc đỏ hung ngập trong chiếc gối, trên bộ mặt trắng nhờ nhờ như sữa chỉ thấy những vết bầm tím sưng vù quanh mắt.

Sau một phút im lặng, Scanlon quay lại và nhổ toẹt xuống sàn nhà. "Phù, mụ ta dúi cho chúng ta cái gì thế này, đồ chó cái! Không phải ông ấy."

"Chẳng giống tí nào cả," Martini nói.

"Mụ coi chúng ta là lũ ngốc hay sao?""Nói chung, bọn chúng làm việc không tồi," Martini nói và chỉ ngón tay vào cái đầu. "Nhìn này, chúng làm giả được cả cái mũi gãy, vết sẹo... giống y như thật, và thậm chí cả tóc mai nữa."

"Tất nhiên," Scanlon càu nhàu, " mẹ kiếp!"

Tôi chen vào giữa các bệnh nhân và đứng cạnh Martini. "Hiển nhiên bọn chúng biết cách làm cho mọi vết sẹo hay mũi gãy," tôi nói. "Nhưng cái thần của một người thì không thể làm giả được. Chẳng có gì trên mặt cả. Giống như hình nhân trong cửa hàng vậy. Đúng không, Scanlon?"

Scanlon lại nhổ toẹt xuống sàn. "Hiển nhiên là đúng vậy. Cậu hiểu không, cái của quý này hoàn toàn trống rỗng, số không. Ai cũng thấy thế."

"Nhìn xem này," ai đó kêu lên, lật tấm chăn ra. "Vết xăm!"

"Thì sao," tôi nói. "Cả vết xăm bọn chúng cũng làm giả được chứ sao. Nhưng tay thì sao nhỉ? Tay ấy mà? Tay của ông ấy to lắm, bọn chúng đâu có làm giả được!"

Suốt ngày còn lại, Scanlon, Martini và tôi thi nhau cười cợt trên cái hình nhân đó - Scanlon gọi nó là con búp bê ngu xuẩn hàng chợ, nhưng dần dần thời gian trôi qua và các cục u xung quanh mắt hắn bắt đầu xẹp xuống, tôi nhận thấy các con bệnh càng hay tiến đến nhìn McMurphy nhiều hơn. Họ làm ra vẻ đi tới giá sách hoặc vòi nước uống, nhưng thực ra để đưa mắt nhìn trộm hắn. Tôi nhìn họ và cố gắng tưởng tượng ở địa vị tôi, hắn sẽ hành động thế nào. Tôi chỉ biết chắc chắn một điều: hắn sẽ không tha thứ cho cái chuyện một hình nhân như thế bị găm cho cái tên của hắn và ngồi trong phòng chung suốt hai hay ba chục năm để mụ y tá chỉ tay lên đó và nói: sẽ thành như vậy đối với bất cứ người nào chống lại trật tự này. Điều đó thì tôi biết chắc chắn.

Tôi đợi đến đêm, đợi cho đến khi trong phòng im ắng hẳn và tụi hộ lý đã hết đi kiểm tra. Tôi quay đầu trên gối nhìn sang giường hắn. Tôi đã lắng nghe hơi thở hàng giờ - từ lúc người ta đẩy xe vào và đặt chiếc cáng lên giường; nghe đôi phổi lúc thì ngắc ngứ lúc lặng tắt hẳn đi, rồi sau đó lại ngắc ngứ, ngắc ngứ... vừa nghe vừa mong cho nó ngừng hẳn hoàn toàn, nhưng đến lúc này tôi mới quay nhìn.

Mặt trăng lạnh lẽo treo ngoài cửa sổ và đổ xuống phòng ngủ một thứ ánh sáng nhờ nhờ như váng sữa. Tôi ngồi dậy trên giường và cái bóng của tôi đổ lên cái thân thể bên kia, cắt đôi nó chỉ chừa lại từ hông và đôi vai trở lên, còn ở giữa là một khoảng không đen thẫm. Cục u nơi mắt đã xẹp xuống và hai con mắt mở trừng trừng: chúng nhìn thẳng vào mặt trăng, chằm chằm, vô ý thức, đục mờ do lâu không chớp, trông giống như hai cái cầu chì cháy đen. Tôi quay lại cầm lấy cái gối, cặp mắt bắt lấy cử động đó của tôi và cái nhìn ấy dõi theo tôi đứng dậy, bước tới giường bên kia.

Cái thân thể to lớn và dẻo dai bền bỉ kháng cự, cố bám lấy cuộc sống. Nó vật vã hồi lâu, không chịu đầu hàng, nó giật lên, giãy giụa và tôi phải nằm cả người lên, hai chân kẹp lấy chân không cho quẫy, tay đè chiếc gối lên trên mặt. Có cảm giác như tôi đang nằm trên tấm thân đó hàng thế kỷ. Sau đó nó thôi giãy giụa. Lúc đó tôi mới tụt xuống. Tôi nâng cái gối lên và nhìn thấy qua ánh trăng vẻ mặt ấy vẫn không thay đổi, chỉ cứng đờ và trống rỗng. Tôi để hai ngón tay cái lên hai mi mắt và giữ cho đến khi chúng ngoan ngoãn khép lại. Lúc đó tôi mới nằm xuống giường mình.

Tôi nằm vùi đầu trong gối và nghĩ tất cả đều trót lọt không một tiếng động, nhưng tôi biết mình nhầm khi Scanlon từ giường mình thì thầm.

"Bình tĩnh. Thủ lĩnh. Bình tĩnh. Thủ lĩnh. Không sao cả đâu."

"Im đi," tôi nói chỉ đủ cho hắn nghe. "Ngủ đi."

Yên lặng một lúc lâu, rồi hắn lại lên tiếng hỏi: "Xong rồi chứ?"

Tôi đáp lại ừ.

"Lạy Chúa," hắn nói. "Mụ sẽ đoán ra. Cậu hiểu, đúng không? Tất nhiên, chẳng ai chứng minh được... ai cũng có thể xỉu sau khi mổ... nhưng mụ ta - mụ sẽ đoán ra."

Tôi không nói gì.

"Nếu ở địa vị Thủ lĩnh, tớ sẽ chuồn khỏi đây. Cậu hãy chạy đi, còn tớ sẽ nói đã nhìn thấy McMurphy đứng dậy và bước đi như thế nào sau khi cậu đã bỏ trốn. Người ta sẽ không nghi ngờ cậu được. Ý đồ tuyệt đấy chứ, Thủ lĩnh?"

"Hiển nhiên rồi, đơn giản quá. Chỉ cần yêu cầu chúng mở cửa cho tớ đi là xong."

"Không. Có một hôm McMurphy đã chỉ cho cậu làm thế nào rồi đấy, nhớ chưa? Ngay tuần đầu tiên, nhớ không?"

Tôi không trả lời và hắn cũng không nói gì thêm, phòng ngủ im ắng trở lại. Tôi nằm thêm mấy phút nữa, sau đó vùng dậy mặc quần áo. Rồi tôi thò tay vào chiếc tủ của McMurphy lôi ra chiếc mũ của hắn, đội thử lên đầu. Nó chật quá, và tôi chợt cảm thấy xấu hổ vì đã thử nó trên đầu mình. Tôi vứt xuống giường Scanlon và bước ra khỏi buồng ngủ. Scanlon nói đuổi theo tôi: "Bình tĩnh, anh bạn."

Ánh trăng xuyên qua cửa sổ rọi vào buồng tắm, chiếu xuống chiếc bệ nặng nề lùn tịt dưới đất, ánh lên những chi tiết mạ crôm và những tấm kính trong đó, lạnh lẽo đến mức dường như nghe thấy cả tiếng ánh trăng đập vào kim loại kêu lanh canh. Tôi hít một hơi căng lồng ngực, cúi người xuống và tóm lấy tay gạt. Bắp chân căng lên và tôi cảm thấy có gì đó lạo xạo vỡ ra dưới chân bệ. Gắng sức một lần nữa, tôi nghe thấy tiếng các dây dẫn và các ổ nối bật ra khỏi sàn. Một tay ôm phía trên, tay kia luồn xuống dưới, tôi đặt được cái bệ lên hai đầu gối. Kim loại áp vào má và cổ tôi lạnh ngắt. Lưng quay vào cửa sổ, tôi đứng dậy, rồi lăng người đi, vừa nửa chừng thì buông tay ra cho cái bệ bay tới phá tung cửa sổ và lưới sắt với một tiếng răng rắc kéo dài. Những mẩu kính văng ra lấp lánh dưới ánh trăng như nước thánh được vẩy xuống rửa tội cho mặt đất đang ngủ. Tôi thở phì phò và định quay lại kéo Scanlon hay ai đó nữa đi cùng thì ngay lúc đó trong hành lang vang lên tiếng giày lộp cộp của tên hộ lý, tôi tì tay lên cửa sổ nhảy vọt theo cái bệ, lao ra khoảng không chan hòa ánh trăng.

Tôi chạy theo trí nhớ, theo hướng con chó đã chạy hôm nào - nhằm tới đường quốc lộ. Tôi còn nhớ chân mình bước những bước dài, dường như sau mỗi bước tôi lại bay trong không trung rất lâu cho đến khi chân kia chạm đất. Tôi cảm giác như mình đang bay. Hoàn toàn tự do. Không ai đuổi theo bệnh nhân trốn khỏi viện điên, tôi hiểu điều đó, và Scanlon biết cách trả lời mọi câu hỏi về người chết - chẳng việc gì phải chạy. Nhưng tôi không dừng lại. Tôi chạy rất lâu, không nghỉ, và cuối cùng chạm phải sườn dốc của đường quốc lộ.

Một tài xế người Mexico đang rong ruổi trên chiếc xe tải chở cừu lên phía Bắc cho tôi đi nhờ, và tôi đã bịa ra rằng tôi là một tay đô vật nhà nghề da đỏ bị bọn găngxto tống vào nhà thương điên hay ho đến nỗi anh ta lập tức dừng xe lại, đưa cho tôi chiếc áo khoác da để che bộ quần áo xanh của tôi và còn cho vay mười đô la để ăn đường cho đến khi tới được Canada. Lúc chia tay, tôi yêu cầu anh ta viết địa chỉ cho tôi và nói rằng hễ kiếm được việc làm là tôi gửi trả anh ta ngay.

Có thể tôi sẽ điCanada, nhưng chắc chắn trên đường tôi phải ghé qua con sôngColumbiacái đã. Tôi sẽ quanh quẩn đâu đó xung quanhPortland, cạnh sông Hood và thành phố Dalles - biết đâu bất ngờ chả gặp một người nào đó từ làm chúng tôi chưa uống đến mức mất trí nhớ. Tôi muốn biết họ làm gì từ bấy đến nay, từ khi chính phủ muốn mua quyền làm người da đỏ của họ. Thậm chí tôi còn nghe đâu như có mấy người da đỏ bắt đầu dựng những chiếc cầu khỉ bằng gỗ trên đập thủy điện hàng triệu đô đó và đâm cá trong hồ. Được xem những cái đó cũng thật đáng giá. Nhưng thích nhất vẫn là được thấy lại những chòm xóm của chúng tôi ngay cạnh khe núi, để chúng trở lại tươi mới trong trí mình.

Đã lâu tôi chưa về thăm quê.
 


Top