(FULL) Bay trên tổ chim Cúc cu - Ken Kesey | VN-Zoom | Cộng đồng Chia Sẻ Kiến Thức Công Nghệ và Phần Mềm Máy Tính

Adblocker detected! Please consider reading this notice.

We've detected that you are using AdBlock Plus or some other adblocking software which is preventing the page from fully loading.

We need money to operate the site, and almost all of it comes from our online advertising.

If possible, please support us by clicking on the advertisements.

Please add vn-z.vn to your ad blocking whitelist or disable your adblocking software.

×

(FULL) Bay trên tổ chim Cúc cu - Ken Kesey

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Bay trên tổ chim Cúc Cu
Tác giả: Ken Kesey
Thể loại: Văn học nước ngoài
Tóm tắt
Cuốn sách là một tác phẩm best seller, một áng văn kiệt tác trong danh sách những cuốn sách vĩ đại nhất thế kỉ hai mươi, thậm chí đây còn là ý tưởng cho bộ phim nằm trong bộ ba phim duy nhất đạt giải Oscar chiến thắng ở toàn bộ các đề cử quan trọng nhất
Một tác phẩm xứng đáng gọi là kinh điển, không thể bị lãng quên
Tác phẩm nói về những việc xảy ra ở trại tâm thần khi McMurphy xuất hiện
Hắn ở đó như một thứ nằm ngoài quy tắc nhưng cũng lại như một điều luật khiến mọi người phải chơi theo luật của hắn
Trong những ngày ở đó, cái phần tốt đẹp yêu tự do, thích tung hoành của hắn đã làm nên một cuộc cách mạng, tạo ra mối liên kết giữa những thân xác yếu ớt, những trí não bị tổn thương, nhắc họ nhớ về cá tính, về chính mình hoặc về những kẻ đã-từng-là-mình. Sự nổi loạn đó thách thức trật tự đạo đức giả mà Liên hợp áp đặt.. Cuộc chiến bất cân sức bắt đầu. Và rồi đúng như cuộc đời, kẻ yếu đã không thể thắng. McMurphy đã chết dữ dội như cách hắn sống, nhưng Liên hợp không giết được hắn, cũng không thể bắt hắn sống theo cách nó đặt ra...
FkQfp5H.jpg
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 1
Chúng ngay ngoài đó.

Đen nhẻm trong bộ quần áo trắng, chúng dậy trước tôi để làm trò dâm đãng trong hành lang và lau sạch trước khi tôi bắt được.

Khi tôi bước ra khỏi buồng ngủ thì chúng đang kỳ cọ, ba đứa cau có hận thù tất cả - cả buổi sáng, cả ngôi nhà và cả những người quanh chỗ chúng đang làm việc. Và khi chúng hận thù thì đừng dại mà giơ mặt ra. Đi đôi giày vải, tôi men theo tường lặng lẽ như chuột, song chúng có những thiết bị cảm ứng siêu nhạy phát hiện ngay ra sự sợ hãi của tôi và nhất loạt ngẩng đầu lên, ba đứa một lúc, cặp mắt lóe lên trên những gương mặt đen đúa hệt những bóng đèn lóe lên sau lưng chiếc máy thu thanh cũ kỹ.

"Thủ lĩnh kia rồi. Thủ lĩnh xiêu phàm kia rồi, tụi bay. Thủ lĩnh Bàn chải thân mến. Lại đây coi, Thủ lĩnh Bàn chải..."

Dúi cho tôi cây giẻ và chỉ cho chỗ chúng muốn tôi phải lau chùi hôm nay, và tôi làm theo. Một thằng cho luôn cán chổi vào gót chân tôi: lẹ lên.

"Tụi bay thấy không, nó làm vù vù. Dài lêu nghêu và cây sào, có thể dùng răng đớp được cả quả táo trên đầu tao, thế mà ngoan đáo để, như là em bé ấy."

Chúng cười vang và sau đó chụm đầu vào nhau thầm thì sau lưng tôi. Những cỗ máy đen xỉn gầm gừ, gầm gừ về hận thù và chết chóc lẫn nhiều bí ẩn khác của bệnh viện. Có tôi ở gần chúng cũng chẳng thèm giữ ý nói nhỏ hơn về sự hận thù của chúng bởi chắc chắn rằng tôi vừa điếc, vừa câm. Tất cả đều nghĩ như thế. Chỉ cần chút ít ranh mãnh là lừa được chúng. Điều duy nhất mà một nửa dòng máu da đỏ giúp được tôi trong cuộc sống bẩn thỉu này là trở nên ranh mãnh, nó đã giúp tôi từ hồi ấy đến giờ.

Tôi đang lau sàn nhà trước cửa phòng trực thì ai đó tra chìa khóa vào ổ từ bên ngoài và tôi nhận ra mụ Y tá Trưởng khi nghe ruột khóa ôm lấy chìa, rất nhanh, rất nhẹ và thân thuộc vì mụ đã quen các loại khóa lắm rồi. Mụ lách qua cửa cùng luồng không khí lạnh ùa vào hành lang rồi khóa cửa, và tôi nhìn thấy những ngón tay mụ lướt trên mặt thép nhẵn – móng tay cùng màu với môi. Thứ màu vàng ệch. Hệt như đầu mỏ hàn. Thứ màu cực nóng hay cực lạnh đến mức ta không biết là nóng hay lạnh ngay cả khi mụ chạm vào ta.

Mụ xách cái giỏ đan bằng liễu gai hình dáng như hộp đồ nghề với cái quai bằng dây gai dầu, loại giỏ này bộ tộcUmpquavẫn bán dọc đường quốc lộ tháng Tám nóng hầm hập. Bao nhiêu năm tôi ở đây thì bấy nhiêu năm mụ ta xách nó. Mắt đan thưa và tôi thấy hết mọi thứ bên trong; chẳng có phấn, sáp hay nước hoa, mụ bỏ đầy giỏ hàng nghìn thứ sẽ dùng đến trong ca trực hôm nay – các vòng bi và bánh răng, răng đánh bóng lộn, các viên thuốc trắng nhỏ xíu sáng lên như sứ, kim tiêm, kẹp y tế, kìm mũi nhỏ và các cuộn dây đồng...

Đi ngang qua chỗ tôi, mụ thoáng gật đầu. Tôi tì lên cây giẻ và nép sát vào tường mỉm cười và để lẩn trốn càng kỹ càng hay khỏi các thiết bị của mụ, tôi nhắm mắt lại – bởi khi ta nhắm mắt, người ta khó nhận biết ta hơn.

Trong bóng tối tự tạo, khi mụ đi ngang qua, tôi nghe rõ tiếng đế giày cao su gõ xuống sàn và những tiếng loảng xoảng trong túi mụ theo nhịp mỗi bước chân. Mụ bước thẳng đơ như gỗ. Mở mắt ra tôi thấy mụ đã ở tít giữa hành lang chuẩn bị rẽ vào phòng Y tá; mụ sẽ ngồi suốt cả ngày trong buồng trực bằng kính, tám tiếng đồng hồ chỉ nhìn qua cửa sổ và ghi lại những gì xảy ra trước mặt mình trong phòng chung. Bộ mặt mụ lặng lẽ, hài lòng khi nghĩ về điều này.

Nhưng bỗng nhiên... mụ nhận ra đám hộ lý da đen. Chúng vẫn tụm vào nhau thầm thì mà không hề phát hiện ra sự xuất hiện của mụ. Khi chợt cảm thấy cái nhìn dữ tợn chiếu tới thì đã muộn. Lẽ ra chúng chẳng nên cả gan tụ tập và ba hoa thiên địa khi sắp đến giờ mụ tới đây. Chúng sợ hãi tản ra. Mụ khuỳnh khuỳnh bước tới, chúng dồn về mắc kẹt phía cuối hành lang. Mụ thừa biết chúng vừa thậm thụt về cái gì, và tôi thấy mụ đã điên lên không kìm chế nổi. Mụ sẽ xé xác mấy thằng nhọ khốn kiếp, mụ điên thế cơ mà. Người mụ phình lên, phình mãi đến khi cái áo trắng tưởng như nứt tung ra đến nơi, và mụ vươn dài những khúc tay đến mức có thể quấn năm sáu vòng qua ba đứa chúng. Quay cái đầu đồ sộ, mụ liếc nhìn xung quanh. Chẳng còn ai ngoài thằng Bromden Bàn chải già, thằng con lai da đỏ, nấp sau cây giẻ lau nhà và cũng không kêu cứu được bởi bị câm. Mụ bèn phát tiết ra mà bẻ cong đôi môi, biến nụ cười bằng son thành cái nhe răng gớm ghiếc, thân thể vẫn tiếp tục nở ra lớn nữa, lớn nữa, lớn nữa bằng cả chiếc máy kéo, lớn đến mức tôi ngửi thấy cả mùi khét bốc lên từ người mụ, giống như thể mùi của động cơ chạy quá tải. Vừa nín thở tôi vừa nghĩ: Chúa ơi lần này thì chúng làm thật rồi! Lần này chúng để hận thù bốc quá cao và chúng sẽ phanh thây nhau ra trước khi hiểu mình đang làm gì!

Nhưng mụ mới chuẩn bị khép cánh tay phân khúc lại quanh đám hộ lý da đen, còn chúng sắp dùng cán cây chổi lau đâm toạc phần thân dưới mụ, thì các bệnh nhân ló đầu ra hành lang để xem có chuyện gì mà ồn ĩ quá vậy, và mụ lập tức xì hơi vì không muốn cho ai thấy cái bộ dạng nguyên thủy gớm ghiếc của mình. Khi các con bệnh dụi xong mắt thì trước mắt họ chỉ còn lại bà Y tá Trưởng điềm tĩnh thường ngày, đang mỉm cười giải thích cho tụi hộ lý rằng hôm nay là thứ Hai,buổi sáng đầu tiên của tuần làm việc, có rất nhiều việc phải làm, chớ nên tụ tập, tán gẫu như vậy..."...các anh hiểu đấy, thứ Hai, sáng sớm..."

"Dạ, thưa cô Ratched..."

"... sáng nay chúng ta còn tương đối nhiều việc, cho nên, nếu các anh đứng túm tụm đây nói chuyện không phải là việc cấp bách lắm..."

"Dạ, thưa cô Ratched..."

Mụ ngừng lời và gật đầu với đám bệnh nhân mắt đỏ ngầu và sưng vù vì mất ngủ đứng xung quanh quan sát. Mụ chào từng người một. Điệu bộ máy móc, chuẩn xác. Mặt mụ phẳng phiu, được gia công chính xác như một con búp bê đắt tiền, da như được tráng một lớp men màu kem sữa, cặp mắt xanh sáng, mũi hơi ngắn, hai lỗ mũi nhỏ ti hin, hồng hồng, tất cả đều đúng tiêu chuẩn trừ màu môi với móng tay và kích thước bộ ngực. Đã có nhầm lẫn ở đâu đó khi lắp ráp mụ - đặt một bộ ngực vĩ đại rất đàn bà lên một sản phẩm lẽ ra hoàn thiện về mọi mặt, và rõ ràng mụ hết sức cay đắng vì điều đó.

Bệnh nhân vẫn còn nán lại, muốn biết vì sao mụ khiển trách tụi hộ lý, và lúc đó chợt nhớ ra tôi, mụ nói:

"Và vì sáng nay là thứ Hai, để khởi đầu tuần mới chúng ta hãy cạo râu cho ông Bromden tội nghiệp trước tiên, trước việc chen lấn vào phòng cạo mặt sau bữa sáng, may ra điều đó có thể giúp chúng ta tránh được cảnh, ừm, lộn xộn mà ông thường gây ra, các anh nghĩ thế nào?"

Trước khi có ai kịp quay ra tìm tôi đã vội lẻn vào gian kho chứa giẻ lau, đóng cửa, nhà kho kín mít như bưng, tôi cố nín thở. Không gì tồi tệ hơn là phải cạo mặt vào trước bữa sáng. Khi đã có cái gì bỏ bụng tôi sẽ mạnh hơn và tỉnh táo hơn, và những thằng tay sai của Liên hợp không có nhiều cơ hội tuồn một số máy móc của chúng vào trong người vờ là máy cạo râu. Nhưng nếu phải cạo trước bữa sáng như vài lần mụ đã bẫy tôi - sáu rưỡi sáng trong một căn phòng trắng xóa, tường trắng, bồn rửa trắng, đèn ống dài gắn đầy trần không để lại một bóng tối nào, và khắp xung quanh là những khuôn mặt gào thét bị kẹt sau tấm kiếng - thì làm sao ta có thể cầm cự được trước máy móc của tụi này?

Giấu mình trong gian nhà kho lắng nghe, tim đập trong bóng tối, tôi cố gắng xua đi nỗi sợ hãi, cố nghĩ về nơi khác - về xóm làng của tôi, về con sông Columbia rộng lớn, về cái lần, chao ôi, tôi cùng với ba đi săn chim trong rừng bá hương ở gần Dalles... Nhưng cũng như mọi khi, tôi cố nghĩ về quá khứ và ẩn mình trong đó song nỗi hoảng sợ kề bên vẫn luồn lách vào qua ký ức. Tôi cảm thấy thằng hộ lý da đen nhỏ quắt đang đi dọc hành lang đánh hơi tìm nỗi sợ của tôi. Mũi hắn phồng lên như ống khói đen cháy, hắn quay quay cái đầu to tướng, đi đi lại lại, nhòm ngó, ngửi hít, hấp thụ nỗi kinh hoàng từ khắp bệnh viện. Hắn đã ngửi ra tôi, tôi nghe thấy hắn thở phì phì. Hắn không biết tôi nấp đâu, nhưng hắn đang ngửi và đang lùng sục. Tôi cố đứng thật yên...

(Ba nói tôi đứng yên, con chó đã đánh hơi thấy một con chim ở đâu đây. Chúng tôi mượn chó săn của một người ở thành phố Dalles. Những con chó làng là một lũ giữ nhà vô ích, ba nói, chỉ ăn có ruột cá, đồ hạng bét. Còn loại này ấy à - khôn kinh! Tôi không nói gì nhưng đã phát hiện ra, trên cây bá hương mới lớn, một chú chim đậu thu lu như một nắm lông xám xịt. Con chó chạy lăng xăng vòng quanh cái cây, mùi tràn ngập khiến nó không hiểu từ đâu ra. Chừng nào con chim còn đứng yên, nó vẫn an toàn. Con chim bám khá giỏi, nhưng con chó vẫn hít ngửi càng lúc càng ồn, vòng quanh càng lúc càng gần. Rồi con chim bỏ cuộc, xòe rộng đôi cánh bay vụt khỏi thân cây bá hương ngay trước họng súng của ba.)

Tôi ra khỏi nơi ẩn náu nhưng mới chạy được vài bước thì thằng hộ lý bé quắt cùng một trong hai thằng lớn đã tóm được tôi và lôi thẳng vào buồng cạo mặt. Tôi không chống lại cũng không làm ầm ĩ. Tôi cố nén vì kêu gào chỉ thiệt thân. Nhưng khi chúng sờ đến thái dương thì tôi không thể chịu đựng hơn được nữa. Tôi vẫn không biết chắc liệu một thứ máy móc đã thế vào chỗ máy cạo râu hay không cho đến lúc chúng sờ đến thái dương: lúc này tôi không còn đừng được. Nghị lực cái gì nữa khi đã bị sờ đến thái dương? Có một cái... nút, vừa bị nhấn, lên tiếng Báo động Phòng không, vặn tôi lên rền rĩ đến mức như không còn có tiếng, tất cả đều quát tháo tôi, tay bịt chặt tai sao bức tường kính, mặt cử động nói năng nhưng miệng không phát ra tiếng gì. Tiếng kêu của tôi đã nuốt hết mọi thứ tiếng. Rồi họ mở lại máy phun mù, một lớp mù trắng, lạnh, đặc quánh như sữa ít béo bao phủ lấy tôi, nếu họ không giữ chặt tôi lại thì có lẽ tôi đã trốn được trong lớp mù đó. Tôi không thể nhìn thấy gì cách một ngón tay, và lẫn trong tiếng la hét của mình tôi chỉ còn nghe thấy tiếng mụ Y tá Trưởng đang sầm sập xông tới ngoài hành lang, vung giỏ xô ngã bất cứ bệnh nhân nào đụng phải. Biết mụ đã bước vào phòng mà tôi vẫn không ngừng la được. Hai tên giữ chặt lấy tôi, còn mụ nắm chiếc giỏ liễu gai và nhét luôn vào mồm tôi, dùng cán giẻ lau nhà ấn sâu vào họng.

(Con chó sủa trong sương mù, nó đang kinh sợ vì bị lạc và không nhìn được. Trên mặt đất chẳng có dấu vết gì để lại ngoài dấu chân của chính nó, nó dò dò cái mũi cao su đỏ hỏn nhưng chẳng tìm ra được mùi gì, chỉ có mùi nỗi sợ hãi đang thiêu đốt lòng dạ nó). Tôi cũng sẽ bị thiêu đốt như thế, khi cuối cùng cũng mở miệng kể về tất cả - về bệnh viện, về mụ, về những con người ở đây, về McMurphy. Tôi đã im lặng quá lâu đến nỗi giờ ký ức sắp tràn qua tôi như cơn lũ tràn qua đập nước và chắc chắn các người cho rằng cái thằng này đang lên cơn và nói nhảm lạy Chúa, rằng những chuyện khủng khiếp như vậy không thể có trong cuộc sống, đáng sợ như vậy không thể là sự thực! Nhưng hãy làm ơn. Tôi vẫn thấy khó mà sắp xếp cho ý nghĩ mình không bị lộn xộn. Nhưng đó là sự thực kể cả nếu nó đã không xảy ra.
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 2
Khi sương mù tan đi tôi bắt đầu nhìn được, tôi đang ngồi trong phòng chung. Lần này họ không mang tôi xuống phòng Đột Tử. Tôi nhớ sau khi bị khiêng ra khỏi buồng cạo, tôi bị ném vào phòng cách ly. Tôi không nhớ họ đã cho tôi ăn sáng chưa. Có lẽ là chưa. Nhưng tôi nhớ vài tiếng trong Buồng Cách ly này, tụi hộ lý mang về những thức ăn thừa của bữa sáng, lẽ ra là cho tôi, nhưng rồi ngồi chén với nhau, cho đến no kễnh bụng, còn tôi nằm trên tấm mền khai rình nhìn chúng dùng bánh mì nướng quết sạch những mẩu trứng sót lại trên đĩa. Tôi ngửi thấy cả mùi mỡ, nghe thấy cả tiếng bánh mì vỡ trong mồm chúng. Có hôm chúng mang tới ép tôi ăn một bát cháo lạnh tanh, thậm chí không muối.

Riêng những gì đã xảy ra sáng nay tôi không sao nhớ nổi. Người ta nhét vào miệng tôi bao nhiêu cái thứ gọi là thuốc viên khiến tôi nằm mê man và chỉ tỉnh dậy khi nghe tiếng kẹt cửa. Cửa mở, nghĩa là ít nhất đã tám giờ, vậy là tôi đã ngất đi khoảng tiếng rưỡi tại Buồng Cách ly, các kỹ thuật viên có thể đã tới và ai mà biết được theo lệnh mụ Y tá Trưởng họ đã lắp vào những gì.

Từ đây tôi nghe được tiếng ồn ở cửa ra vào phía đầu hành lang. Cửa bắt đầu mở vào lúc tám giờ và cứ đóng mở hàng trăm bận mỗi ngày, soạt, ke-ét.Sau bữa sáng chúng tôi ngồi vào chỗ, dọc theo hai bức tường của phòng chung, chơi trò xếp hình, chờ nghe tiếng khóa tra vào cửa và xem cái gì sẽ hiện ra ở đó. Ngoài ra cũng chẳng biết làm gì hơn. Thỉnh thoảng một tay bác sĩ nội trú trẻ đến sớm hơn thường lệ chút xíu để nhìn chúng tôi trông ra sao Trước giờ Uống thuốc. Họ gọi tiết mục này là TGUT. Đôi lúc có vợ ai đó đến thăm đi đôi guốc cao gót, ví đầm ôm chặt trước bụng. Cũng có khi cái gã đần bên Quan hệ Công chúng dẫn một đoàn cô giáo tiểu học đến tham quan, liên tục vỗ vỗ đôi bàn tay nhớp nháp mồ hôi và nói rằng hắn rất lấy làm sung sướng vì các bệnh viện tâm thần ngày nay đã thôi điều trị bằng phương pháp nghiệt ngã, tàn bạo cổ điển. "Không khí thật là vui tươi biết mấy, các cô thấy sao?" Các cô giáo đứng cụm vào nhau, thủ thế, còn hắn cứ lượn lờ quanh, vỗ vỗ tay. "Ôi, mỗi khi nhớ lại ngày trước, bẩn thỉu, nhớp nhúa, ăn uống thiếu thốn cộng với, phải đấy, đối xử thô bạo, ôi, thì thưa các quý cô, tôi hiểu rằng những vận động của chúng tôi đã đạt được những thành công đáng kể!" Dù ai mở cửa bước vào thì thường cũng không phải là người chúng tôi mong đợi, nhưng chúng tôi vẫn hy vọng, và cứ nghe tiếng chìa khóa tra vào ổ là mọi cái đầu đều nhất loạt ngẩng lên như bị giật dây.

Hôm nay tiếng mở khóa nghe lạ lùng, một vị khách không bình thường đây. Giọng của gã Hộ tống cau có và giận dữ: "Bệnh nhân mới, ký nhận đi!", rồi những tên da đen xông tới.

Có một đứa mới đến. Tất cả ngừng ván bài và Cờ tỷ phú, quay nhìn ra cửa. Giá vào hôm khác thì lúc đó hẳn tôi đang lau rửa hành lang và sẽ thấy được họ đang tiếp nhận ai, nhưng hôm nay, như đã giải thích, mụ y tá đã chất lên tôi cả ngàn cân và tôi không sao nhấc nổi mình ra khỏi ghế. Vào ngày khác tôi đã có thể là người đầu tiên trông thấy gã Mới, sẽ được mục kích nó bị tống vào như thế nào, len lén lần theo bức tường và đứng đó chết khiếp đến khi mấy thằng hộ lý da đen đến ký nhận và lôi nó vào phòng tắm, lột đồ nó và mặc nó đứng run rẩy trước cánh cửa để ngỏ trong khi ba đứa cười gằn, chạy đi tìm vadơlin. "Bọn tôi cần vadơlin lắm," chúng sẽ nói với mụ Y tá Trưởng, "để đo nhiệt độ." Mụ ta sẽ hết nhìn đứa này lại nhìn đứa kia, "Phải phải, các cậu cần," rồi chìa cho chúng một bình đựng đến nửa xô vadơlin: "Nhớ là đừng tụ nhau cả lũ ở đấy!" Sau đó tôi sẽ thấy hai đứa, cũng có thể cả ba đứa, xuất hiện trong buồng tắm, cùng với thằng Mới, quấy thanh nhiệt kế trong bình tới khi phủ lớp vadơlin dày cả ngón tay và nghêu ngao hát "Ô, thế đấy, má ơi, thế đấy", sau đó chúng sẽ sập cửa lại và xả nước từ tất cả các vòi tắm để không một ai còn nghe thấy gì ngoài tiếng nước xối xả đổ xuống nền gạch xanh thẫm. Thường tôi vẫn đứng ngoài hành lang và thấy hết.

Thế mà hôm nay tôi phải ngồi lì trên ghế và nghe hắn bị đưa vào. Nhưng dù không nhìn thấy, tôi cũng biết tên Mới này là không phải hạng tầm thường. Tôi không nghe thấy tiếng hắn rón rén lần theo bức tường, còn khi tụi hộ lý bảo đi tắm, hắn đâu có chịu ngoan ngoãn nghe theo, đâu có "dạ" êm ru như những kẻ khác, trái lại hắn sẽ đáp bằng một giọng oang oang, rắn rỏi rằng hắn đã sạch sẽ chán, mẹ khỉ.

"Chiều qua trong tù và sáng nay trên tòa người ta đã tắm cho tao. Và tao cá là nếu trong taxi có nhà tắm thì trên đường đến đây người ta cũng đã tắm cho tao sạch đến từng lỗ chân lông chứ chả chơi. Ái chà, tụi bay biết không, mỗi lần chuyển đi là một lần tao cần được cọ sạch - nào trước lúc lên đường, nào trên đường và khi vừa đặt chân đến chỗ mới. Bị cọ rửa nhiều đến mức hễ cứ nghe thấy tiếng nước xối là tao lao đi soạn quần áo. Còn mày Sam, xéo đi với cái cặp nhiệt độ của mày, mà cho tao nhìn qua căn hộ mới một tí chứ; từ bé đến lớn đã bao giờ tao đặt chân đến Viện tâm thần đâu!"

Các con bệnh bối rối nhìn nhau rồi lại nhìn ra cánh cửa, nơi giọng nói vẫn đang vang tới. Việc gì phải gào nên như vậy nhỉ, tụi đen đứng ngay cạnh hắn cơ mà? Nghe giọng, tưởng chừng như hắn đang đứng tít trên cao nói vọng xuống dưới, hoặc như hắn đã vượt trước cả năm chục thước đang quát những kẻ bò lê trên đất. Hắn có vẻ to. Tôi nghe thấy tiếng bước chân hắn nện trong hành lang cho thấy hắn rất to, và rõ ràng hắn không rón rén, đế giày có sắt giáng xuống nền nhà nghe như tiếng móng ngựa. Hắn xuất hiện, đứng chạng háng giữa cửa, hai ngón tay cái xọc trong túi quần, giữa các con bệnh chăm chú nhìn.

"Chào anh em."

Con dơi bằng giấy được treo lên từ lễ Halloween lủng lẳng trên đầu hắn; hắn búng cho nó xoay vòng.

"Một ngày thu tuyệt đẹp."
Giọng nói lớn và ngỗ ngược của hắn làm tôi nhớ tới ba, nhưng hắn trông không giống ba; ba mang trong mình dòng máu da đỏColumbiathuần khiết, một thủ lĩnh, rắn và bóng lộn như nước mạ trên báng súng. Gã này tóc đỏ, tóc mái hung để dài, một búi tóc lâu ngày chưa cắt bù xù dưới vành mũ, và ba thì cao còn hắn thì rộng, cằm rộng, vai rộng, ngực rộng và nụ cười rộng miệng trăng xóa tinh quái, và gã cũng rắn nhưng không giống ba, như một quả bóng chảy rất rắn dưới bề mặt bằng da xờm xoàm. Trên mặt hắn, một vết sẹo chạy ngang từ sống mũi đến gò má ai đó đã khéo léo tặng trong một trận ẩu đả gần đây, vết khâu vẫn còn vết sẹo. Hắn đứng chờ, và khi không thấy ai nhúc nhích để trả lời thì hắn phá lên cười. Đâu có ai hiểu tại sao hắn cười, có gì buồn cười đâu cơ chứ. Nhưng hắn cười không giống như cái gã Quan hệ Công chúng cười, hắn cười vang, thoải mái, cười nhe hết cả hàm răng và tiếng cười lan rộng ra, chui vào mọi ngõ ngách của căn nhà tới khi đập vào các bức tường. Không phải như cái cười Quan hệ Công chúng béo nhẫy. Tiếng cười này là thật. Tôi chợt nhận ra là đã nhiều năm nay tôi chưa hề được nghe một giọng cười.

Hắn đứng nhìn chúng tôi, nhún nhảy trên đôi giày và cười sằng sặc. Hai ngón tay cái nhét vào túi, các ngón còn lại xòe ra úp vào bụng. Tôi có thể thấy hai bàn tay thật lớn và chằng chịt thương tích. Mọi người trong phòng từ con bệnh đến nhân viên đều điếng người bởi điệu bộ, tiếng cười của hắn. Không ai nghĩ đến chuyện phải chặn hắn lại hoặc nói một điều gì. Cười chán, hắn bước vào phòng chung. Nhưng tiếng cười lớn vẫn xung quanh như dư âm còn lại sau khi ta đánh một hồi chuông, tiếng cười đọng trong đôi mắt, trong khóe miệng tủm tỉm, trong dáng đi ngênh ngang và trong giọng nói của hắn.

"Qua tên là McMuphy, anh em ạ, R.P.McMuphy, ham chơi bài." Hắn nháy mắt và ngâm nga mấy câu hát: " ‘.. và chỉ nhìn thấy bộ bài - là qua quẳng tiền ra bàn luôn...’ " rồi lại phá lên cười.

Sau đó hắn sán lại một sới, dùng ngón tay to và thô nhón lên quân bài của một con bệnh Cấp tính, rồi hắn nheo mắt, lắc đầu:

"Thế đấy, cũng chỉ vì cái đó mà qua tới dinh cơ này giải sầu, mua vui cho anh em quanh bàn bạc. Ở Trại Lao dịch Pendleton qua chẳng còn ai làm vui và qua bảo các sếp cho thuyên chuyển, hiểu chưa? Qua cần thay đổi không khí. Ô hô, mày coi con ngỗng đực này cầm bài kỳ không - cả trại thấy được bài nó; chà! Qua sẽ vặt sạch các chú như vặt đám lông gà con."

Cheswick xếp bài trong tay lại. Gã tóc đỏ chìa tay cho hắn bắt:

"Chào anh bạn, đang chơi gì thế? Picnochle hả? Giê su ma, hèn nào chú mày cứ muốn để bài tênh hênh vậy. Tụi bay ở đây không tìm ra một cỗ bài nào khả dĩ sao? Vậy thì được rồi, qua có mang bài theo đây, chỉ phòng hờ thôi, không phải là những quân bài tầm thường đâu nhé - thấy ảnh chưa? Mỗi quân một kiểu. Năm mươi hai tư thế."

Cheswick đã trố mắt ra rồi, nhìn tấm bài đó tình trạng hắn chỉ tệ thêm.

"Bình tĩnh nào, đừng có làm bẩn, chúng ta còn tha hồ thời gian mà chơi. Qua chỉ muốn dùng bài của mình thôi, ít nhất cũng phải hàng tuần tụi bay mới kịp nhận ra đây là quân gì..."

Hắn mặc bộ quần áo trại lao dịch cũ rích, màu cháo lòng. Mặt, chân, tay, cổ đen cháy như da thuộc vì phải làm việc nhiều ngoài nắng. Trên đầu ngất ngưởng một cái mũ nồi đi mô tô trông như đầu đạn đen trũi, một cái áo vest da vắt qua tay, đôi giày bụi bặm, xám xịt và nặng trịch, tưởng chỉ cần một cú đá là làm nát đôi người ta ra. Hắn rời Cheswick, lột mũ ra khỏi đầu đập xuống đùi làm tung lên một đám bụi mù mịt. Một tên hộ lý cầm cái cặp nhiệt độ cứ vật vờ quanh hắn nhưng chưa kịp lại gần; hắn đã lọt vào giữa đám Cấp tính và bắt tay hết người này người nọ. Những câu chuyện hắn kể, cách hắn nháy mắt, giọng nói ồm ồm, cái vẻ nghênh ngang tất cả làm tôi nhớ tới người quảng cáo ô tô, người bán đấu giá súc vật hay dân buôn ở chợ, đứng trên sàn rạp tí xíu với những lá cờ bay phần phật sau lưng, chiếc áo sơ mi kẻ ca rô cúc vàng óng làm cho ai nấy đều quay về phía hắn như bị nam châm hút.

"Tụi bay biết không, sau vài vụ cãi cọ hơi ồn ĩ ở trại lao dịch, tòa bèn cho rằng qua bị bệnh thái nhân cách. Còn qua, chẳng lẽ cãi lại tòa? Bố khỉ, qua không định cãi, cá một ăn mười luôn. Cứ cho qua là thần kinh, là chó dại hay ma sói hay gì gì đi nữa cũng được, miễn là qua thoát khỏi ruộng đậu cô ve, bởi vì qua chẳng phiền gì nếu từ giờ đến chết cũng không bao giờ ôm lấy cái cuốc nữa. Người ta bảo với qua rằng, người thái nhân cách là người cãi lộn quá nhiều và phang quá nhiều em, nhưng cái đó thì mấy chả không đúng tí nào, phải không tụi bay? Thử nghĩ xem, làm gì có thằng nào chết vì thừa cái đĩ chứ? Chào chú em, chú em tên chi? Qua là McMuphy và qua xin cá với chú em hai đô la ngay tại trận là chú em không biết trên tay mình có mấy điểm. Không được nhìn! Hai đô la, nào! Mẹ kiếp, Sam, mày có ngừng khua khoắng cái nhiệt kế chết tiệt ấy cho tao một phút được không?"
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 3
Kẻ mới đến nhìn quanh một phúc, để nắm được bài trí của phòng chung.

Một bên là các bệnh nhân trẻ hơn, được gọi là Cấp tính vì bác sĩ vẫn coi họ là bệnh nhân để chạy chữa, đang tập chơi vật tay, chơi trò ảo thuật bằng bài người ta yêu cầu bạn cộng trừ một hồi và nói trúng phóc con bài bạn đang có. Billy Bibbit đang học cuốn một điếu xì gà tự chế, còn Martini đi đi lại lại trong phòng tìm xem có gì nấp dưới gầm bàn, gầm ghế. Đám Cấp tính đi lại khá nhiều. Họ kể chuyện cười với nhau, cười khẽ vào nắm tay (không ai dám thoải mái cười to vì cả ban y tá sẽ đổ xô lại với một mớ sổ ghi và hàng đống câu hỏi) và viết thư bằng những mẩu bút chì vàng bị gặm nham nhở.

Họ rình rập lẫn nhau. Đôi lúc ai đó vô tình nhỡ mồm nói một chuyện gì đó về mình, thế là một trong số người cùng bàn ngáp dài và đứng lên, lẻn tới quyển sổ trực lớn tướng bên phòng trực và ghi vào đó điều hắn nghe thấy - việc đó rất có ích cho quá trình chữa trị của toàn bệnh nhân, mụ Y tá Trưởng nói, nhưng tôi biết tỏng là mụ ta muốn thu thập bằng chứng để bắt ai đó vào phục hồi ở Nhà Chính, đại tu lại cái đầu để dập tắt mọi điều không ổn.

Còn kẻ đã ghi vào sổ thì được đánh dấu tên với một ngôi sao ở sổ bệnh nhân và ngày hôm sau tha hồ ngủ muộn.

Bên kia, đối diện với dãy Cấp tính là đám Kinh niên - thứ phẩm của Liên hợp. Người ta nhốt chúng không phải để chữa mà chẳng qua là để khỏi đi lang thang làm ô uế thanh danh nơi sản xuất. Đám Kinh niên sẽ ở đây vĩnh viễn, tụi bác sĩ công nhận như vậy. Bọn này được phân ra thành loại Tự hành, kiểu như tôi, loại này còn đi lại được nếu cho ăn, loại Xe lăn và loại Thực vật. Những kẻ Kinh niên - ít ra là phần lớn - là những cái máy bị hỏng hóc ở bên trong không thể tu sửa được, hỏng hóc từ lúc đẻ ra, hoặc dần dần bị sau trong quá nhiều năm húc đầu vào tường rắn cho đến lúc bệnh viện tìm được thì đã nằm máu me gỉ sét trong một kho hàng hoang phế.

Nhưng vẫn còn có những người trong số Kinh niên chúng tôi là hàng phế phẩm của bệnh viện này, khi mới đến còn là Cấp tính, thế rồi ở đây một thời gian thì thành ra Kinh niên. Ví dụ như Ellis, lúc nhập viện hắn là bệnh nhân nhẹ, thế mà người ta đã phá hỏng hắn - nhốt hắn quá lâu trong phòng diệt não bẩn thỉu mà tụi da đen gọi là phòng Đột Tử. Bây giờ thì hắn bị đóng đinh vào tường trong cùng tình trạng như lúc người ta kéo hắn ra khỏi bàn lần cuối cùng, trong cùng tư thế, hai tay dang rộng, bàn tay nắm hờ, mặt đầy vẻ kinh hoàng. Hắn được đóng vào tường như một chiến lợi phẩm săn bắn đem trưng bày. Người ta sẽ nhổ hắn ra khi cho ăn, khi mang hắn đến giường ngủ hoặc khi tôi phải lau cái vũng chỗ hắn đứng. Ngày trước hắn thường đứng nguyên một chỗ rất lâu, cho đến khi nước giải ăn mòn cả sàn nhà lẫn thanh rầm bên dưới và hắn cứ thế rơi tuồn tuột xuống lầu dưới, khiến người ta rối tung rối mù lên khi kiểm tra số lượng bệnh nhân.

Ruckly cũng là một thằng Kinh niên mà khi vào đây mấy năm trước vẫn còn là Cấp tính, nhưng người ta làm hỏng hắn theo một kiểu khác. Hình như các bộ phận trong đầu hắn khi được lắp ráp lại đã sai lệch đi. Hắn rầy rà khủng khiếp, đá bọn hộ lý, cắn chân bọn y tá thực tập. Thế là người ta đưa hắn đi đại tu. Hắn bị trói vào bàn và trước khi cánh cửa đóng lại còn kịp nháy mắt chào bạn bè và buông một câu hăm dọa bọn hộ lý khi chúng lùi ra xa: "Rồi tụi bay sẽ trả giá về chuyện này, mấy con ngựa ô."

Hai tuần sau người ta trả lại hắn, tóc tai cạo sạch, thay cho vầng trán là một vạt tím bầm to tướng, trên mỗi mí mắt được đính một điện cực nhỏ như chiếc cúc áo. Nhìn vào mắt hắn có thể biết được người ta đã thiêu cháy phần bên trong hắn như thế nào: đôi mắt mờ đục, xám xịt và trống rỗng như cầu chì bị cháy. Giờ suốt ngày hắn chỉ có mỗi việc: huơ huơ một bức ảnh cũ trước mặt, lật đi lật lại trong mấy ngón tay lạnh ngắt, khiến hai mặt bức ảnh đã mòn đi xám xịt như đôi mắt hắn, chẳng còn nhận ra nó từng là cái gì.

Các nhân viên bệnh viện đều xem Ruckly như một thất bại của họ, nhưng theo tôi cũng khó biết hắn ta sẽ khá hơn ở điểm nào nếu họ thành công. Bây giờ họ lắp đặt tài lắm, không sai lầm nữa rồi. Các tay kỹ thuật đã trở nên kinh nghiệm và khéo léo hơn. Không còn lỗ thủng nào trên trán cũng như chẳng có vết cắt nào trên mặt: người ta dùng ngay hốc mắt. Con bệnh lúc đi ra khỏi phòng thì giận dữ như hóa dại, gầm gừ như muốn ăn tươi nuốt sống cả thế giới, thế mà sau mấy tuần trở về với những vệt bầm đen trên mắt như bị đấm, thì trở nên hiền lành, dễ bảo. Thậm chí có trường hợp sau khoảng hai tháng người ta cho phép con bệnh về nhà, với chiếc mũ kéo sụp xuống trán và một khuôn mặt của kẻ mộng du, dường như đang vừa đi vừa thưởng thức một giấc mơ giản dị, hạnh phúc. Kết quả tốt - người ta nói vậy, còn tôi thì nghĩ: thế là lại thêm một người máy nữa cho Liên hợp; thà là hắn cứ nhận thất bại như Ruckly để suốt ngày ngồi quay quay tấm ảnh cũ nát và rỏ nước dãi còn hơn. Thằng hộ lý lùn tịt thỉnh thoảng lại trêu tức hắn, ghé vào tai Ruckly hỏi: "Này, Ruckly, đố mày biết giờ này cô vợ xinh xinh của mày đang làm gì trong thành phố?" Ruckly ngẩng đầu lên. Trí nhớ bắt đầu sột soạt trong các cơ cấu hỏng hóc của hắn. Hắn đỏ mặt, các mạch máu tắc nghẽn lại ở một đầu, nghẹt thở tới mức không thể buông ra khỏi họng một lời nào. Hai mép sùi bọt, hắn hất mạnh cằm cố gắng nói một cái gì đấy. Và khi phát ra được mấy tiếng nghe ư ử, khô khốc đến lạnh gáy: "Đ... mẹ con vợ! Đđđđđđđđđđđ mẹ con vợ!", thì hắn ngất xỉu luôn.

Ellis và Rucky là những gã Kinh niên trẻ nhất. Già nhất là đại tá Matterson, một kỵ binh từ hồi Đệ nhất Thế chiến đã liệt, cả ngày ông chỉ có duy nhất mỗi việc là dùng cái ba toong hất ngược váy của các ả y tá đi qua và đọc cho bất kỳ ai muốn nghe một trang lịch sử quỷ quái gì đó viết trên các bức thư ông cầm trong tay trái. Trong bệnh viện, ông già nhất nhưng không phải là người cư ngụ lâu nhất; mấy năm trước, bà vợ ông, sau khi chăm sóc không thấu đã phải tự đưa ông đến đây.

Người có thâm niên cao nhất trong toàn bệnh viện là tôi - từ Đại chiến Thế giới lần thứ hai. Tôi đã ở đây lâu hơn tất cả mọi người. Lâu hơn mọi con bệnh khác. Mụ Y tá Trưởng ở đây lâu hơn tôi.

Các con bệnh Cấp tính thường không ngồi lẫn với các con bệnh Kinh niên. Mỗi nhóm ngồi yên ở một nửa phòng theo ý tụi hộ lý. Tụi hộ lý nói rằng với cách bố trí như vậy, căn phòng đỡ mất trật tự hơn, và cho mọi người hiểu rằng chúng muốn cứ y nguyên như vậy. Sau mỗi bữa sáng chúng lùa chúng tôi vào chỗ, và gật đầu: "Tốt, các chàng chai ạ, cần phải thế, cứ thế mà làm".

Nói chung, tụi hộ lý chẳng cần phải quát tháo hay ra lệnh, bởi trừ tôi ra, các con bệnh Kinh niên chẳng ai buồn xê dịch, còn tụi Cấp tính cũng chẳng thèm ngồi chung với tụi tôi, chúng bảo bên chúng tôi khăm khẳm mùi tã bẩn. Nhưng tôi thừa hiểu đây chẳng phải lý do chính, chỉ vì chúng không muốn nhìn thấy cảnh tượng mà một ngày không xa có thể sẽ là chúng. Điều này mụ Y tá Trưởng cũng biết rõ như tôi, mụ sử dụng nó như một vũ khí để trấn áp mỗi khi các con bệnh Cấp tính nổi loạn, rằng các chú phải ngoan ngoãn, bệnh nhân phải phối hợp với nhân viên đảm bảo theo đúng chế độ chữa bệnh, nó được đưa ra chỉ nhằm mục đích chữa chạy cho các chú thôi, hay là các chú muốn sang nhóm kia?

(Tất cả mọi người trong phòng bệnh đều tự hào về cái gọi là sự phối hợp của bệnh nhân với nhân viên. Chúng tôi còn được bệnh viện khen tặng một câu khẩu hiệu trên tấm biển đồng gắn lên miếng gỗ:

Hoan hô phòng bệnh cần số lượng nhân viên ít nhất trong bệnh viện.

Cái đó được trao tặng cho sự phối hợp. Câu khẩu hiệu treo ngay ngắn trên tường, phía trên quyển sổ trực, ngăn số con bệnh Cấp tính và Kinh niên làm đôi.)

Gã Mới tóc đỏ tên McMurphy ngay lập tức nhận ra mình không phải loại Kinh niên. Chỉ một cái liếc, hắn đã tìm được chỗ của mình giữa các bệnh nhân Cấp tính và lập tức bước tới đó, nhếch mép cười và giơ tay bắt bất kỳ ai hắn gặp. Tôi cảm thấy tất cả bọn họ đều lúng túng trước những lời suồng sã, cợt nhả của hắn, trước cái cách hắn quát thằng nhọ đang lẽo đẽo cầm chiếc cặp nhiệt độ bám theo và nhất là trước tiếng cười oang oang, càn rỡ của hắn. Các hộp số trên bảng điều khiển vặn vẹo trước tiếng cười. Phía các con bệnh Cấp tính bắt đầu lộn xộn, chúng bồn chồn như lũ học trò sợ cô giáo bất chợt bước vào lớp vào phạt tất cả vì trò nghịch ngợm của một đứa bạn học tinh quái mà chúng không dám và không thể can ngăn. Chúng cũng vặn vẹo và nhấp nhổm theo hộp số; tôi thấy McMurphy nhận ra ngay sự bối rối, sợ hãi đó và càng lấn tới.

"Mẹ khỉ, sao tụi bay ủ dột thế? Nói nghe coi. Các chú em trông đâu đến nỗi điên rồ." Hắn cố gắng khởi động đám đông trước mặt như một người bán đấu giá súc vật cứ thao thao bất tuyệt các chuyện vui để thức tỉnh đám đông trước khi bán hàng. "Đứa nào trong tụi bay điên nặng nhất? Đứa nào cầm đầu tụi bay? Đứa nào điều hành mấy ván bài? Qua mới tới hôm đầu, qua muốn áp đảo ngay đứa nào xứng đáng nếu đứa đó chứng minh nổi là mình xứng đáng. Thế đứa nào là toán trưởng toán tâm thần ở đây?"

Đấy là hắn hỏi Billy Bibbit. Hắn cúi sát người nhìn chằm chằm vào Billy. Không còn cách nào khác là phải trả lời, Billy ấp a ấp úng rằng hắn không phải là t... toán trưởng mà chỉ là ph... phó thôi.

McMurphy gí cho hắn bàn tay to tướng của mình, Billy miễn cưỡng bắt. "Thế này, anh bạn," McMurphy nói, "qua rất vui khi biết chú mày là ph... phó, nhưng qua muốn thu phục tuốt tuột cả cái tổ quỷ này cho nên qua chỉ muốn nói chuyện với đứa đầu sỏ thôi!" Hắn nhìn ra phía một số con bạc đã ngừng chơi, đặt bàn tay trái lên bàn tay phải và bóp kêu răng rắc. "Chú mày hiểu không, qua đang nghĩ là sẽ trở thành vua cờ bạc ở đây và tổ chức chơi tính điểm. Hãy chỉ qua coi Thủ lĩnh của chú mày. Qua với hắn sẽ trò chuyện tí chút xem ai phải chịu ai?"

Tất cả đều không rõ cái thằng ngực rộng, sẹo mặt và có nụ cười điên dại này chỉ đang diễn, hay là hắn thực sự không bình thường, nhưng cả bọn đều hài lòng tham gia trò chơi này. Chúng quan sát gã tóc đỏ đặt bàn tay rám đỏ của mình lên cánh tay khẳng khiu của Billy Bibbit và đợi xem Billy Bibbit sẽ nói gì. Billy hiểu là câu hỏi dành cho hắn vì thế hắn quay người lại chọn bừa một đứa vừa đánh pinochle. "Harding, ng... người ta đang gọi anh đấy. Anh là Chủ... chủ... tịch Hội đồng b... b... bệnh nhân. Ông này m... muốn nói chuyện với anh".

Các con bệnh Cấp tính mỉm cười, không còn lúng túng như trước nữa, thậm chí vui mừng vì chuyện bất ngờ này. Chúng bắt đầu chọc ghẹo Harding và hỏi hắn có phải là toán trưởng tâm thần không. Harding xếp bài lại.

Harding là một gã mảnh khảnh, tính tình dễ kích động, khuôn mặt quá đẹp đẽ đối với một người bình thường khiến người ta có cảm giác đã nhìn thấy đâu đó trên màn ảnh. Vai gầy giơ xương nhưng rộng, đủ chỗ cho hắn thụt bộ ngực vào đó khi muốn giấu mình lại. Bàn tay và những ngón tay dài, trắng và mềm được cắt ra từ những miếng xà phòng; đôi bàn tay ấy không thuần phục, đôi lúc cứ tự múa lên như hai con chim trắng, và khi sực nhớ ra Harding vội nhốt chúng vào giữa hai đầu gối, hắn xấu hổ vì đôi bàn tay quá đẹp của mình.

Harding là Chủ tịch Hội đồng bệnh nhân vì hắn có chứng chỉ tốt nghiệp đại học. Tờ giấy có khung hẳn hoi và được đặt trên nóc tủ con ở đầu giường, cạnh tấm ảnh một phụ nữ mặc đồ tắm, trông cũng như đa xuất hiện trên màn bạc. Ngực thật bự, cô ta dùng mấy ngón tay giữ chiếc coócxê, mắt nhìn nghiêng vào ống kính. Phía sau cô ta, Harding còm nhom mặc chiếc xilíp ngồi trên khăn tắm như đang đợi một gã to con nào đó đến hất cát vào mặt. Harding luôn khoác lác rằng vợ hắn là người đàn bà dâm dục nhất thế giới và đêm nào ả cũng muốn hắn hành sự không chán.

Khi thấy Billy gọi tới mình, lập tức Harding ngả người trên ghế ra bộ quan trọng, hất hàm như hỏi cái trần nhà chứ không phải Billy hay McMurphy: "Anh chàng này đã đăng ký gặp tôi chưa, anh Bibbit?"

"Thưa ô... ông McMurphy, ông đã báo trước cho ngài Harding về cuộc gặp mặt chưa ạ? Ngài Harding là người rất bận nên không tiếp ai nếu không được báo trước."

"Cái thằng cha Harding rất bận kia là toán trưởng toán tâm thần tụi bay phải không?" McMurphy nhìn Billy bằng nửa con mắt, còn Billy thì gật đầu lia lịa, hồi hộp vì đang được tất cả chú ý.

"Thế thì hãy nói cho thằng Toán Trưởng Tâm Thần Harding rằng ngài R.P.McMurphy muốn gặp hắn và cái bệnh viện này quá chật chội cho cả hai. Qua đã quen cầm đầu rồi. Qua là thằng toán trưởng cưỡi máy kéo khắp các khu rừng Tây bắc, là toán trưởng các con bạc từ hồi chiến tranh Triều Tiên và thậm chí toán trưởng cả tụi làm cỏ đậu ở trại Pendleton, vậy nên nếu bây giờ qua là thằng tâm thần thì, mẹ kiếp, cũng phải là tâm thần hạng siêu nặng. Hãy nói cho cái thằng Harding của chúng bay rằng: hoặc là hắn sẽ gặp qua một chọi một hoặc là thằng nhát gan mạt hạng và hãy cuốn gói khỏi thị trấn trước khi trời kịp tối."

Harding càng ngả người hơn nữa, các ngón tay bấu chặt lấy ve áo. "Bibbit, hãy thông báo cho gã trai trẻ McMurphy phách lối kia rằng ta sẽ gặp hắn ngoài hành lang chính, vào giờ ngọ và quyết một trận sống mái với hắn." Harding kéo dài giọng cao bồi bắt chước. McMurphy, nhưng giọng hắn run rẩy, the thé nghe tức cười. "Có thể báo trước cho gã hay rằng ta là toán trưởng toán tâm thần của bệnh viện đã hai năm nay và không có kẻ nào trên thế giới này điên khùng hơn ta đâu."

"Ông Bibbit, ông có thể báo cho ngài Harding rằng qua là người điên khùng đến mức đã bỏ phiếu cho Eisenhower."

"Bibbit, nói với ông McMurphy rằng tao điên đến mức đã bỏ phiếu cho Eisenhower những hai lần."

"Thế chú em cứ truyền lại cho ngài Harding," hắn để hai tay lên bàn, cúi đầu và nói giọng nhỏ hẳn, "qua không bình thường đến mức sẽ bỏ phiếu cho Einsenhower tháng Mười một này."

"Vậy thì tôi hàng!" Harding nói và cúi đầu bắt tay McMurphy. Thế là tôi rõ McMurphy đã thắng, mặc dầu không hoàn toàn hiểu chính xác là hắn ta được gì sau chiến thắng đó.
Các con bệnh Cấp tính đã vứt hết công việc và đang tụ tập dần lại để xem kẻ mới đến là như thế nào. Ở bệnh viện này chúng tôi chưa từng thấy một cái gì giống như thế. Họ bắt đầu hỏi hắn làm gì và từ đâu tới, tôi chưa bao giờ thấy họ hỏi ai như vậy. Hắn trả lời rằng hắn có chí hướng của mình. Hắn đã từng là kẻ lang thang vô gia cư, đã từng nay đây mai đó trên các lâm trường khai thác gỗ rồi vào lính. Quân ngũ đã giúp việc xác định rõ thiên hướng của hắn: kẻ thì luyện được tài trốn việc, người thì được thói rông dài từ sáng đến khuya, còn hắn thì trở thành thợ chơi poker. Và hắn dần dần gắn đời mình với những lá bài và những con bạc đủ mọi hạng. Cờ bạc, không vợ con, muốn sống ở đâu và sống thế nào thì sống, miễn là người ta không ngăn cấm, hắn nói, "nhưng tụi bay biết xã hội này săn đuổi con người có chí hướng thế nào không? Từ khi tìm ra lý tưởng của mình, qua đã sống không biết bao nhiêu nhà tù địa phương đến nỗi có thể viết thành cuốn cẩm nang. Người ta gọi qua là kẻ sinh sự bẩm sinh, có nghĩa qua sinh ra để choảng nhau. Mẹ nó chứ. Chúng nó có nhòm nhỏ gì khi qua ngoan ngoãn mà chặt gỗ rồi thỉnh thoảng choảng nhau; cái đó dung thứ được, chúng nó bảo chẳng qua là anh chàng lực điền xả chút xú páp mà thôi. Nhưng nếu qua đánh bài, nếu chúng đánh hơi được qua có đôi lúc thăm thú sòng nào đó, là nhổ bọt nhầm chỗ cũng thành tội phạm. Mẹ kiếp, có hồi chở tới chở lui qua tới mấy cái trại cũng đủ làm ngân khố quốc gia sạt nghiệp."

Hắn lắc lắc đầu và phồng má lên.

"Nhưng chỉ có hồi thôi. Qua học nhanh lắm. Các chú mày biết, vụ hành hung đi trại Pendleton này là qua mới làm một cú trong gần cả năm giời. Vì thế qua mới bị chộp. Qua lụi nghề rồi, thằng chả bọ dậy khỏi sàn tới mách với cớm trong khi qua chưa kịp ra khỏi thị trấn. Một thằng rắn ra trò..."

Hắn cười hô hố. Và mỗi lần gã da đen cặp kè cái nhiệt kế đến gần thì hắn lại ngồi phịch xuống ghế chơi trò đọ tay với một kẻ nào đó, chỉ lát sau đã làm quen hết các con bệnh Cấp tính. Bắt tay người cuối cùng của nhóm Cấp tính, hắn đi sang phía chúng tôi như thể chẳng có ranh giới nào giữa các nhóm bệnh nhân. Không rõ đấy là con người cởi mở hay chỉ bởi sự tò mò của một con bạc mà hắn muốn làm quen vói những kẻ ngờ nghệch và đần đồn đến mức quên cả tên họ của chính mình.

Gỡ tay Ellis ra khỏi tường, hắn cầm lấy bàn tay ấy mà lắc, điệu bộ giống như nhà chính trị đi chiêu mộ cử tri trước ngày bầu cử, mà lá phiếu của Ellis cũng có giá trị như những kẻ khác. "Này anh bạn," hắn nói hùng hồn, "tên qua là R.P. McMurphy và qua không hài lòng tí nào khi một người lớn lại tắm ngay trong vũng nước đái của mình. Chú mày đi sấy khô coi!"

Ellis ngạc nhiên nhìn vũng nước tiểu dưới chân như mới lần đầu. "Ơ, cảm ơn!" nó nói và thậm chí còn bước vài bước về phía chuồng xí, nhưng bộ đinh đã giữ chặt cánh tay nó vào tường.

McMurphy dạo qua trước mặt tụi Kinh niên, bắt tay đại tá Matterson, Ruckly, lão già Pete, bắt cả những bàn tay tê liệt thõng xuống phải nhặt lên như nhặt những con chim chết, chim bằng máy, những tạo tác từ xương và dây tí xíu đã chạy hết hơi và gục xuống. Chỉ có George Vĩ đại mắc bệnh sạch sẽ là mỉm cười và lùi lại trước bàn tay thiếu vệ sinh, nên McMurphy chỉ gật đầu chào kiểu cách rồi lùi ra và bảo bàn tay mình: "Thử nghĩ coi làm sao ông ta lại đoán ra mi là bàn tay tội lỗi?"

Không ai biết hắn dự định gì và một chuỗi những cái bắt tay sẽ dẫn đến cái gì, nhưng dù sao trò tiêu khiển này cũng thú vị hơn ngồi xếp hình. Hắn giải thích rằng đó là một việc làm cần thiết, rằng nghĩa vụ của một đấu thủ là phải làm quen với các đối thủ tương lai của mình. Nhưng hắn phải biết đối thủ của hắn không thể là cái tảng thịt tám chục tuổi chỉ còn biết nhét quân bài vào giữa hai hàng lợi móm mém mà gặm chứ. Thế nhưng hắn vẫn rất phởn phơ, như thích cười cợt người khác vậy.

Người bị bắt tay sau cùng là tôi. Tôi vẫn ngồi thu lu trói chặt trong cái ghế góc phòng. McMurphy dừng lại trước mặt tôi, lại đút hai ngón tay cái vào túi quần, ngửa đầu ra và lại cười hô hố, cứ như tôi là đứa trông buồn cười nhất đám. Đột nhiên tôi sợ chết khiếp rằng hắn đang cười vì đã biết tôi ngồi đó, hai tay bó gối và nhìn chằm chằm vào một điểm vờ điếc không nghe thấy gì xung quanh, chỉ là giả đò.

"U... hu... hu... Cái mẹ gì thế này?"

Đoạn này tôi nhớ rõ lắm. Hắn nheo mắt gật gật cái đầu, vết sẹo chưa liền da trên mặt phập phồng, phập phồng, vẫn cười sằng sặc. Thoạt tiên tôi nghĩ hắn cười chỉ vì bộ dạng thảm hại hoặc dáng dấp da đỏ từ đầu đến chân của tôi, mái tóc da đỏ màu đen nhờ mỡ. Nhưng rồi tôi hoảng sợ - biết đâu hắn cười vì đã nhìn thấu hết ruột gan tôi, cho dù tôi có ranh ma mức nào, hắn cũng thấy hết và đang vừa cười vừa nháy mắt cho tôi hiểu.

"Thế nào, Đại thủ lĩnh? Trông chú mày giống hệt Bò Ngồi trong cuộc bãi công ngồi." Hắn ngoái lại nhìn bọn Cấp tính; một câu đùa thật dạt, xong chẳng đứa nào dám cười to, chỉ khẽ nhúc nhích; thế nên quay lại tôi hắn hỏi: "Thủ lĩnh tên chi?"

Từ cuối phòng Billy Bibbit nói vọng tới: "Nó t... te... tên là Bromden – Thủ lĩnh Bromden. Nhưn người ta gọi nó là Thủ lĩnh Bờ... bàn chải, vì tụi hộ lý cứ bắt nó q... qu... quét dọn. Mà nó cũng chẳng làm được gì khác. Điếc," Billy tì cằm lên cánh tay, nuốt nước bọt cái ực. "Tôi mà điếc," hắn thở hắt ra khó nhọc, "tôi đã ch... chê... chết quách cho rồi."

McMurphy vẫn nhìn tôi chằm chằm: "Nếu vươn mình dậy, nó sẽ cao lắm đây, phải không? Mà nó cao bao nhiêu?"

"Hình như có người đã đ... đo được hai mét một phân. To lớn vậy mà sợ từ con gián sợ đi. Nó chỉ là tên m... mọi da đỏ hộ pháp và điếc lác."

"Trông hắn ngồi đó qua đã nghĩ hắn là người da đỏ.Nhưng Bromden không phải là họ của tụi da đỏ. Hắn thuộc bộ lạc nào vậy?"

"Không biết." Billy nói. "Khi tôi v... vào viện thì đã có nó."

"Bác sĩ cho tôi biết," Harding tiếp lời Billy, "nó lai da đỏ, vốn sinh sống đâu đó quanh vực sôngColumbia. Bộ lạc của nó đã bị tuyệt chủng. Bác sĩ bảo bố nó đã từng là Thủ lĩnh của bộ lạc. Tên lóng ‘Thủ lĩnh’ của nó từ đó mà ra. Còn tại sao nó mang họ là Bromden thì kiến thức dân tộc học về người da đỏ của tôi không đủ để giải thích."

McMurphy ghé sát mặt vào tôi. Chả còn cách nào khác là phải nhìn vào mặt hắn. "Đúng mày điếc chứ, Thủ lĩnh?"

"Nó vừa ca... ca... vâm vừa đ... đi... điếc."

McMurphy bĩu môi nhìn tôi rất lâu, sau đó rút tay ra khỏi túi quần và chìa cho tôi. "Điếc hay câm thì cũng phải biết bắt tay chớ? Mẹ kiếp! Thủ lĩnh à, mày cao lêu nghêu thật đấy, nhưng khi qua chìa tay ra thì mày phải bắt. Bằng không qua coi đây là một điều sỉ nhục. Mày dám cả gan làm nhục tân toán trưởng toán tâm thần toàn nhà thương này sao?"

Nói đoạn hắn nhìn sang Harding và Billy nhấm nháy nhưng tay vẫn chìa cho tôi, một bàn tay to như cái đĩa.

Tôi vẫn còn nhớ bàn tay hắn ra sao. Bàn tay đã từng làm việc trong các gara, móng tay cáu bẩn; dưới các khớp ngón xăm một cái mỏ neo, khớp ngón giữa còn dính một mảnh băng bẩn thỉu, hai đầu quăn queo, các ngón khác đầy sẹo, cũ có, mới có. Lòng bàn tay phẳng, chắc chắn, cứng cáp như một tấm gỗ, đã rắn lại vì cầm búa, cầm rìu. Chẳng ai nghĩ đấy là bàn tay của một con bạc. Bàn tay đầy vết chai, vết chai đầy kẽ nứt, trong các kẽ nứt đất dính vào. Một tấm bản đồ những chuyến hắn tung hoành miền Tây. Bàn tay đó cọ vào bàn tay tôi ram ráp. Tôi nhớ các ngón tay to khỏe siết mạnh bàn tay tôi, và bàn tay tôi bắt đầu sống động, căng lên ở đầu cánh tay cứng đờ, như là hắn đang rót máu mình vào đó. Nó rung lên vì máu và sức lực, nó phồng lên gần to bằng tay hắn, tôi vẫn nhớ...

"Ông McMurphy!"

Đó là mụ Y tá Trưởng.

"Ông McMurphy, ông có thể tới chỗ tôi?"

Đó là mụ Y tá Trưởng. Gã da đen cầm chiếc cặp nhiệt độ đã đi tìm mụ. Mụ đứng đó gõ gõ nhiệt kết vào mặt đồng hồ, mắt nheo nheo đánh giá con bệnh mới. Môi mụ chúm lại như môi con búp bê đợi ngậm núm vú cao su.

"Ông McMurphy, hộ lý William nói rằng ông không chịu tắm. Có đúng vậy không? Mong ông hiểu cho là tôi rất vui mừng vì mới ngày đầu tiên ông đã hòa mình cùng các bệnh nhân ở đây. Nhưng việc gì cũng có thời điểm của nó, ông McMurphy ạ. Tôi lấy làm tiếc phải tách ông ra khỏi ngài Bromden. Ông biết đấy, ai cũng phải chấp hành nguyên tắc."

Ngửa cổ, chớp mắt, bằng điệu bộ ấy, hắn cho mụ Y tá Trưởng thấy rằng mụ đâu có đủ khôn ngoan mà lừa được hắn, cũng y như tôi lúc trước thôi. Hắn nheo mắt lại nhìn mụ đến cả phút.

"Bà biết không," hắn nói, " lúc nào tôi cũng được nghe đích xác câu này về nguyên tắc..."

Hắn nhoẻn miệng cười với mụ, mụ cũng cười lại với hắn. Cả hai lượng sức nhau.

"... khi người ta biết tôi sắp sửa phá tan nguyên tắc ngay bây giờ."

Rồi hắn buông tay tôi.
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 4
Trong phòng trực kính, mụ Y tá Trưởng mở chiếc hộp gửi từ nước ngoài về và dùng ống tiêm hút thứ chất lỏng xanh đục trong ống thuốc trong chiếc hộp. Đứng cạnh mụ là một nữ y tá nhỏ có một mắt lo âu, luôn dè chừng liếc trộm lại đằng sau trong khi mắt kia vẫn chú tâm vào công việc. Cô ta bưng một chiếc khay đựng các ống tiêm đã hút đầy thuốc chuẩn bị mang đi.

"Cô Ratched, cô nghĩ sao về gã bệnh nhân mới đến? Em nghĩ, úi, hắn có vẻ bảnh trai, dễ gần, nhưng xin lỗi, em có cảm giác hắn ta dắt mũi tất cả."

Mụ Y tá Trưởng dùng đầu ngón tay kiểm tra độ sắc của kim tiêm. "Tôi sợ rằng đó chính là ý đồ của hắn. Hắn là cái mà chúng ta gọi là một ‘tay xách động’, cô Flinn ạ. Để đạt được mục đích hắn sẽ không từ một thủ đoạn nào, không tha một người nào."

"Úi. Nhưng. Em nghĩ, mục đích gì ở một nhà thương điên cơ chứ?"

"Đủ loại." Mụ cười điềm tĩnh, mắt vẫn không rời ống tiêm trên tay. "Tiện nghi, một cuộc sống dễ chịu chẳng hạn. Và biết đâu còn tiền bạc, quyền lực, trọng thị... tất tật. Cũng có khi một tay xách động phá bĩnh chỉ để mà phá bĩnh. Những kẻ như thế ở xã hội ta đâu có thiếu. Thằng cha xách động có thể ảnh hưởng đến tất cả các bệnh nhân khác, gieo rắc hỗn loạn giữa họ và phải mất hàng tháng mới duy trì lại được nề nếp cũ. Với chính sách nhường nhịn trong các bệnh viện thần kinh thời đại nay, chúng càng có thêm nhiều cơ hội làm chuyện đó. Mấy năm trước mọi sự đâu đến nỗi này. Hồi đó, tôi nhớ chúng ta có một Kẻ Xách Động bất trị gọi là ông Taber. Trong một thời gian ngắn." Mụ ngừng tay, đôi mắt mơ màng nhớ lại một hồi ức dễ chịu. "Ông Taber ấy..."

"Nhưng, úi, họ phá rối để làm gì? Do đâu..." Cô y tá nói.

Mụ Y tá Trưởng ngắt lời cô ta bằng cách thọc kim tiêm trong tay vào đầu bịt cao su của ống thuốc, bơm đầy, rút ra, rồi đặt lại lên khay. Tôi quan sát bàn tay mụ lấy thêm chiếc nữa, nhìn cô phóng ra cắm phập vào ống thuốc, dừng lại, đặt xuống.

"Cô Flinn, hình như cô quên rằng bệnh nhân chúng ta là những kẻ điên."

Hễ có một cái gì ngăn cản mụ điều hành tổ hợp của mình một cách trơn tru và chính xác như cỗ máy là mụ Y tá Trưởng liền nổi cơn tam bành. Bất kỳ một sơ suất, lộn xộn hoặc sai lệch nhỏ nào cũng làm mụ sôi máu với một nụ cười đanh ác. Mụ đi khắp phân khoa, trên khuôn mặt, chỗ giữa mũi và cằm nứt ra một nụ cười búp bê và đôi mắt điềm đạm, nhưng bên trong mụ đang nghiến như thép. Tôi biết, tôi cảm thấy mà. Mụ sẽ ở nguyên trạng thái đó, chừng nào kẻ phá rối chưa bị trừng trị, hay theo lời mụ - "chưa được đưa vào kỷ cương."

Dưới sự lãnh đạo của mụ, Bên trong phân khoa chúng tôi hầu như luôn là một thế giới của kỷ cương, khuôn phép. Khốn nỗi, mụ không thể chỉ sống ở đây. Một phần đời của mụ phải trôi qua ở thế giới Bên ngoài. Và ngay ở thế giới ấy, mụ cũng không từ bỏ ý đồ kia. Mụ hợp tác với một bọn người giống hệt mụ mà tôi gọi là "Liên hợp", một cơ cấu tổ bố, mưu toan đưa thế giới Bên ngoài vào kỷ cương như mụ Y tá Trưởng – một chuyên gia lão luyện – vẫn làm với thế giới Bên trong của chúng tôi. Quỷ biết được mụ đã biến mình cho kỷ cương bao nhiêu năm; tận ngày xửa ngày xưa, khi tôi từ thế giới Bên ngoài bước vào, mụ đã ở trên cương vị hiện nay của mình.

Tôi đã chứng kiến kỹ năng của mụ được tích lũy một cách liên tục và có hệ thống năm này qua năm khác. Kinh nghiệm tôi luyện mụ và giờ đây mụ đã nắm chắc được quyền lực, một thứ quyền lực len lỏi đến mọi nơi, mọi chỗ bằng các dây dẫn mảnh như tơ mà những người ngoài cuộc không thể nhìn thấy, nhưng không lọt khỏi mắt tôi; tôi thấy mụ ngồi như một người máy canh phòng đúng tâm mạng lưới này, cai quản với một bản năng côn trùng máy móc, biết rõ cần phải phát một dòng điện vào thời điểm nào, với cường độ bao nhiêu và theo dây dẫn nào để có kết quả như ý. Ở trại huấn luyện quân sự trước khi bị quẳng sang Đức tôi đã giúp việc cho một tay thợ điện, và có học chút ít về điện tử thời đại học, vì thế tôi biết hệ thống điều khiển này được trang bị ra sao.

Ngồi trước mạng điều khiển này, mụ mơ về một thế giới mà mọi thứ đều hoạt động đồng bộ, chuẩn xác như bộ máy đồng hồ, một thế giới tồn tại trong một thời gian biểu bất di bất dịch và các con bệnh nếu không phải Bên ngoài, hoàn toàn quy phục sự điều khiển của mụ, thì đều là những con bệnh Kinh niên, ngồi xe lăn, các ống cao su dẫn nước tiểu chạy thẳng từ chân bánh xe vào một rãnh thoát nước nằm dưới sàn nhà. Phải mất nhiều năm mụ mới chọn được một đám môn đồ lý tưởng. Các bác sĩ đủ mọi lứa tuổi, trình độ, đã từng trình diễn trước mụ, đưa ra đủ kiểu sáng kiến về cách điều khiển phân khoa, một vài người tính tình còn đủ cứng rắn để bảo vệ ý kiến của mình; nhưng ngày ngày gặp phải cặp mắt lạnh lẽo như đóng băng của mụ thì cũng phát run mà xin đi. "Nói thật, tôi chẳng hiểu ra làm sao nữa," họ than vãn với phòng nhân sự. "Từ ngày làm việc với bà ta, tôi có cảm giác là trong các đường gân, thớ thịt của tôi, không phải là máu mà là nước tiểu đang chảy. Thật khủng khiếp khi con tôi không thèm ngồi vào lòng tôi nữa, vợ tôi không thèm ngủ với tôi nữa. Tôi nhất định cần chuyển sang khoa thần kinh, khoa nhi, hay đi đâu cũng được."

Cứ thế, năm này qua năm khác. Các bác sĩ, kẻ chịu được năm ngày, người vài tháng. Rồi một gã nhỏ thó xuất hiện, trán rộng, má nung núc thịt, đầu thắt lại ở chỗ ngang với đôi mắt, cứ như gã từng có một cặp kính nhỏ đến mức đeo quá lâu chúng ép đầu gã lại, thế nên giờ gã dùng sợi dây nối cặp kính vào cúc áo cổ, cứ mỗi lần nói cặp kính luôn tròng trành trên sống mũi nhỏ xíu để giữ cho thăng bằng, gã cứ phải nghiêng nghiêng cái đầu. Gã bác sĩ này hợp ý mụ Y tá Trưởng lắm.

Mụ phải mất nhiều thời gian hơn và phải loại bỏ hàng ngàn người mới chọn được ba tên hộ lý ca ngày. Với những bộ mặt như mặt nạ, đen đủi, cau có, các ứng viên lũ lượt qua tay mụ, đều căm ghét bộ mặt trắng bệch như búp bê sứ của mụ ngay từ phút đầu. Hàng tháng trời mụ kiểm tra lòng hận thù của chúng, rồi khước từ chúng vì hận thù còn quá hời hợt. Cuối cùng mụ cũng nhặt được bộ ba này, không phải một lúc, mà từng đứa một, cách nhau hàng năm, tin tưởng tuyệt đối là chúng hoạt động bình thường, lắp chúng vào cơ đồ. Lòng hận thù của chúng đã đủ sâu sắc.
Đứa thứ nhất xuất hiện khoảng năm năm sau khi tôi đến, một gã lùn, gân guốc, bệnh hoạn, đen nhánh như cục nhựa đường. Mẹ hắn bị cưỡng hiếp ởGeorgia, trong khi sát bên cạnh bố hắn bị trói giật cánh khuỷu vào một lò sưởi gang nóng bỏng, máu từ chân chảy như xối vào đôi ủng. Thằng bé năm tuổi quan sát cảnh tượng đó qua khe cửa gian nhà kho, mắt nheo nheo, và từ đó hắn không cao lên nổi một ly. Bây giờ mí mắt hắn mỏng dính, nhẽo nhoét, trông như con dơi đậu trên sống mũi. Đôi mí mắt như da thuộc mỏng ấy giờ đây hé lên mỗi khi có một người da trắng lạ mặt xuất hiện, hắn nhìn kẻ đó từ đầu đến chân và gật đúng một lần như là gã đang xác định lại điều gã đã biết chắc. Ngày đầu nhận việc gã toan mang tới một túi đầy đạn bắn chim, để đào tạo bệnh nhân vào khuôn phép, nhưng mụ đã dạ gã rằng ngày nay không còn làm vậy, buộc gã bỏ túi ở nhà và luyện cho gã phương hướng riêng của mình; mụ dạy gã giấu kín hận thù và điềm đạm mà chờ đợi, đợi khi nào khá hơn một chút, sơ hở một chút, thì rút thòng lọng và kéo cho đều tay. Không được buông ra. Như thế mới tạo được chúng vào khuôn phép, mụ đã dạy thế.

Hai đứa còn lại xuất hiện cách nhau một tháng, sau đứa thứ nhất hai năm, giống nhau đến mức tôi nghĩ là mụ Y tá Trưởng đã đặt đúc chúng cùng một khuôn: cao, mảnh, xương xẩu, vẻ mặt vô cảm bất động, như đầu mũi tên bằng đá lửa. Mắt chúng nhíu lại chỉ còn hai cái chấm. Nếu chẳng may cọ phải tóc chúng sẽ tuột cả da.

Cả ba đen như cái hộp điện thoại. Mụ thỏa mãn vì điều đó. Kinh nghiệm từ hàng dài bị loại cho hay, càng đen chúng càng chịu khó lau rửa chuồng xí, càng hăng máu giữ trật tự trong phân khoa. Quần áo chẳng hạn, ở cả ba đứa đều trắng hơn tuyết. Trắng và lạnh và cứng như chính áo của mụ.

Quần trắng, áo sơ mi trắng với hàng cúc bấm lệch một bên, giày trắng được đánh bóng như mặt băng có đế cao su đỏ mềm mại, chúng đi dọc hành lang, lặng lẽ như mèo. Chúng chuyển động không hề phát ra tiếng động. Chúng hiện hình ở bất kỳ xó xỉnh nào trong bệnh viện mỗi khi con bệnh tìm cách rúc vào một xó tự khám cho mình hoặc quay sang thì thầm với kẻ khác. Bệnh nhân vừa kiếm được một chỗ yên thân, tức thì... xịch, một luồng băng giá đã phả vào bên mặt, con bệnh quay sang chỉ thấy một bức mặt nạ đá lạnh lơ lửng bên trên sát tường. Con bệnh chỉ nhìn thấy một khuôn mặt đen đúa. Không thân người. Tường trắng, trang phục cũng trắng, đánh bóng loáng như cửa tủ lạnh, khuôn mặt và đôi bàn tay đen bay lờ lững trên nền trắng, hệt như một bóng ma.

Năm tháng xô đẩy chúng, cuốn chúng theo biên độ sóng của mụ Y tá Trưởng. Dần dần, chúng thoát khỏi sự chăm bẵm của mụ, như các con thú đã trưởng thành. Mụ không bao giờ quát tháo khi ra lệnh, không để lại những lời sai bảo ở dạng thư từ vì sợ rơi vào tay khách thăm viếng. Việc đó cũng không còn cần thiết. Chúng liên lạc với nhau qua làn sóng cao thế của sự căm thù đồng loại, thực hiện mọi ý muốn của chủ trước cả khi những ý nghĩ ấy xuất hiện trong đầu mụ.

Vậy là sau khi kiếm đủ bộ sậu rồi, phân khoa đi vào hoạt động nhịp nhàng, chính xác như bộ máy đồng hồ. Tất cả những gì người ta sẽ nghĩ, sẽ làm, sẽ nói đều như mụ Y tá Trưởng vạch sẵn trước mấy tháng, dựa vào những ghi chép hàng ngày. Chương trình được in ấn và đưa vào bộ nhớ của cỗ máy tôi vẫn nghe rì rầm sau cánh cửa thép cuối Phòng Trực. Máy đưa ra những Nhật biểu ở dạng những tấm phiếu đục lỗ. Mở đầu một ngày, tấm NB được nhét vào khe cửa sắt. Các bức tường rung lên. Sáu giờ ba mươi, phòng ngủ bật đèn. Tụi Cấp tính bị dựng dậy lau sàn nhà, rửa các gạt tàn thuốc lá, chùi các vết xước trên tường nơi mới hôm trước một gã đồng phòng vừa chập mạch, quỵ xuống trong một đám mù mịt khói tỏa mùi cao su cháy. Tụi Xe lăn oặt đôi cẳng cà kheo xuống nền nhà và như những bức tượng bán thân, ngồi đợi tụi hộ lý đẩy cho chiếc xe. Tụi Thực vật đái dầm vào chăn, khiến máy sốc hất họ xuống sàn nhà và chuông báo động réo gọi đợi đám hộ lý dùng vòi tắm xối vào họ rồi thay cho mỗi người một bộ quần áo xanh thẫm.

Sáu giờ bốn lăm, các máy cạo bắt đầu kêu vo vo, tụi Cấp tính xếp hàng trước gương theo thứ tự A, B, C, D... xong đến đám Kinh niên Tự hành như tôi, rồi tụi Xe lăn được đẩy vào. Ba lão già còn lại, cằm chảy xệ, phủ đầy các lớp ghét màu vàng, được cạo mặt ngay tại phòng chung, đầu buộc chặt vào thành ghế để khỏi lắc lư dưới bàn cạo.

Đôi lúc, nhất là vào sáng thứ Hai tôi trốn được. Còn vào những ngày khác, khôn ra, nên đứng vào theo thứ tự giữa A và C, rồng rắn lê bước như mọi người, không nhấc chân – sàn nhà có những thỏi nam châm cực mạnh kéo con người đi khắp khoa, hệt như những con rối trên sân khấu.

Bảy giờ, nhà ăn mở cửa. Hàng xếp ngược lại: Xe lăn, Tự hành, sau cùng là đám Cấp tính cầm khay đựng thức ăn - bỏng ngô, thịt xông khói và trứng, bánh mì nướng, và hôm nay có thêm đào đóng hộp lót một mảnh xà lách xanh tơi tả. Một vài đứa Cấp tính mang khay cho tụi Xe lăn. Phần lớn bọn này chỉ bị bại chân, nhưng có thể tự ăn được, chỉ có ba lão già, thật khốn khổ, phần cơ phía dưới má không hoạt động nữa, phần trên cũng chẳng hơn gì. Vì thế là gọi là Thực vật. Bọn hộ lý đẩy họ vào sát tường sau tất cả mọi người đã vào chỗ và mang đến cho họ những khay giống nhau đựng thứ thức ăn lầy nhầy và một tờ thực đơn. Những kẻ không răng ấy được hưởng Thức ăn mềm Cơ học: trứng, giăm bông, bánh mì... thực đơn kê như vậy, đã được nhai đi nhai lại ba mươi hai lần bằng một chiếc máy thép không gỉ đặt trong bếp. Tôi đã thấy nó vươn cặp môi cắt khúc như chiếc vòi của máy hút bụi, ngoạm lấy thức ăn, rống lên như bò rồi nhả ra đĩa một cục thịt đã nhai kỹ.

Tụi hộ lý bón thức ăn quá nhanh khiến ba lão già không kịp nuốt, và Thức ăn mềm Cơ học trào ra, rớt cả xuống khăn áo. Bọn hộ lý vừa mắng vừa vặn cái thìa vạch miệng họ ra như khoét ruột quả táo thối, nhét tiếp thức ăn vào: "Cái bị thịt già nua Blastic này đang rữa ra ngay trước mặt tao. Không hiểu tao đang bón cho hắn cháo giăm bông hay từng mẩu của chính cái lưỡi của hắn."

Bảy giờ ba mươi, cả bọn lục tục kéo về phòng chung. Mụ Y tá Trưởng nhìn qua lớp kính đặc biệt, trong vắt như không khí, khẽ gật đầu, xé tờ lịch ra. Thêm một ngày gần tới đích. Mụ ấn nút khởi động. Tôi nghe thấy ở đâu đó có tiếng động cơ, tiếng kim loại va đập vào nhau. Tất cả vào chỗ. Cấp tính: ngồi ở bên khu vực của mình trong phòng chung chờ tụi hộ lý mang bài và Cờ tỷ phú tới. Kinh niên: ngồi ở bên phần của mình đợi các hộp xếp hình do hội Chữ thập đỏ phát cho. Ellis: tới đứng sát tường, giơ hai tay lên chờ đinh và đái ra quần. Pete: lắc lư đầu như con lật đật. Scanlon: cựa quậy trên bàn, hai cánh tay khô héo quờ quạng chế một quả bom tưởng tượng để làm nổ tung thế giới tưởng tượng. Harding: bắt đầu thao thao, khoa chân, khua khua tay như một đôi chim bồ câu rồi lại nhốt chúng vào nách - người lớn ai lại vung vẩy đôi tay đẹp loạn xạ như vậy. Sefelt: ca cẩm vì đau răng và rụng tóc. Tất cả: hãy nhất loạt hít vào... thở ra, theo thứ tự, mạch đập theo đúng nhịp đã cho trong phiếu NB. Âm thanh của những ống bơm đồng bộ.

Hệt như trong thế giới hoạt hình, một núi các hình người hai chiều vẽ viền màu đen, múa may trong một câu chuyện ngớ ngẩn, có thể gây cười nếu những hình nhân đó không phải là những con người thật...

Bảy giờ bốn lăm, bọn hộ lý đi dọc theo chuỗi Kinh niên, phát bộ tiểu tiện nhân tạo cho những đứa còn có thể ngồi im. Bộ tiểu tiện nhân tạo là một bao cao su cũ bị cắt phần đầu rồi dán vào ống dẫn nước, được luồn trong quần, xả vào một túi chất dẻo mang dòng chữ "KHÔNG DÙNG LẠI LẦN THỨ HAI", một phần công việc của tôi là rửa sạch những túi đó vào cuối ngày. Họ dùng băng dính dán luôn bao cao su vào túm lông, ban đêm gỡ ra; những con bệnh Kinh niên ở đây đã lâu năm, lông lá bị vặt sạch, nhẵn nhụi như đứa trẻ sơ sinh...

Tám giờ, các bức tường kêu o... o... khắp mọi chỗ. Chiếc loa phóng thanh trên trần nhà ra lệnh: "Uống thuốc", giọng mụ Y tá Trưởng được khuếch đại lên. Chúng tôi nhìn vào phòng trực kính nhưng mụ ta ở xa micro đến ba mét, đang hướng dẫn một ả y tá xếp thuốc vào khay thế nào là gọn gàng ngăn nắp. Trước cửa, tụi Cấp tính đang xếp hàng theo thứ tự A, B, C... sau đó là nhóm Kinh niên và Xe lăn (tụi Thực vật sẽ uống sau, thuốc được pha vào thìa nước táo). Từng đứa một nhận hai viên con nhộng, một cốc giấy - nhét vào cuống họng để y tá châm đầy nước rồi ực cho trôi. Đôi lúc một đứa ngu muội nào đó hỏi là nó đang phải uống thứ gì.
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 5
"Gượm đã, cô bé, ngoài vitamin ra thì hai viên màu đỏ này là gì vậy?"

Tôi biết hắn ta, một thằng Cấp tính lớn, bẳn tính, đã kịp bị coi là kẻ hay nổi loạn.

"Thuốc đấy, ông Taber ạ, uống đi, chỉ có lợi cho ông thôi. Uống đi, nào."

"Không, tôi đang hỏi đây là thuốc gì. Khỉ gió, tự tôi cũng thấy, đây là thuốc..."

"Uống đi ông Taber, vì tôi vậy, được không?" Cô ả liếc sang mụ Y tá Trưởng, để xem màn ve vãn nho nhỏ này được chấp nhận hay không, rồi quay lại. Taber vẫn không chịu uống thứ thuốc mà hắn không biết, cho dù là vì cô ả.

"Cô bé à, tôi không thích cãi cọ nhưng cũng không ưa nuốt những của giời ơi vào ruột. Biết đâu đây là thứ thuốc ma quái sẽ làm cho tôi không còn là tôi nữa?"

"Đừng ầm ĩ, ông Taber."

"Ầm ĩ? Tôi chỉ muốn biết, vì lòng kính Chúa..."

Nhưng mụ Y tá Trưởng đã lặng lẽ đi tới, bàn tay gọng kìm khóa chặt cánh tay hắn, khiến hắn không cựa quậy được đôi vai. "Thôi được, cô Flinn, nếu ông Taber quyết định xử sự như một đứa trẻ thì tại sao ta không đối xử với ông ta như một đứa trẻ. Chúng ta đã cố ân cần và dịu dàng. Nhưng đó không phải là phương pháp ông ta muốn. Thù địch và thù địch. Đấy, ông ta đã trả lơn chúng ta vậy đấy. Ông đi đi, ông Taber, nếu ông không muốn uống thuốc theo kiểu này."

"Tôi chỉ muốn biết, vì lòng..."

"Ông đi đi."

Mụ buông tay. Hắn gầm gừ cất bước. Chỉ vì viên thuốc, cả buổi sáng hắn sẽ phải rửa chuồng xí. Có lần tôi giả bộ uống nhưng lại ngậm viên thuốc vào dưới lưỡi rồi nhổ ra nghiền vỡ trong gian đựng giẻ rách. Trước khi viên thuốc kịp tan thành bụi trắng, tôi nhận thấy đó là một mạch điện nhỏ xíu, đủ cả dây dẫn, bóng bán dẫn, đi-ốt... giống hệt thứ linh kiện dùng trong Quân đoàn Radar mà tôi đã được làm quen. Loại mạch điện này khi tiếp xúc với không khí liền phân rã...

Tám giờ hai mươi, bài và bộ xếp hình được mang đến...

Tám giờ hai nhăm, một đứa Cấp tính buột miệng đã có lần nhìn trộm bà chị tắm; ba đứa ngồi cạnh chân đá vào nhau vì cùng bật dậy ghi điều vừa nghe thấy vào sổ trực...

Tám giờ ba mươi, một đội kỹ thuật viên lao vùn vụt vào phòng, miệng nồng nặc hơi rượu; kỹ thuật việc luôn phải lao hoặc đi nhanh nếu không muốn bị ngã sấp mặt bởi vì thân người họ luôn đổ về đằng trước. Họ luôn đổ thân về đằng trước và luôn bốc mùi như dụng cụ đồ nghề được tiệt trùng bằng rượu. Họ đóng cửa phòng thí nghiệm lại, còn tôi xích lại gần hơn và vừa quét dọn vừa đoán chừng giọng nói họ trong tiếng xoèn xoẹt của thép cọ vào đá mài.

"Vừa bảnh mắt đã sửa với chữa khỉ gì thế này?"

"Lắp thêm một cầu chì chống tọc mạch dưới da cho một gã nhiễu sự. Việc gấp, bà ấy bảo vậy, tao còn không rõ còn linh kiện dự trữ không?"

"Cứ gọi IBM người ta sẽ gửi cấp tốc tới, tao kiểm tra kho cái đã."

"Ê hê, nhớ cầm theo chai cuốc lủi mày! Tao mà còn chưa thêm rượu thì đến một cái điện trở đơn giản tao cũng không thay đổi. Nhưng, khỉ gió, còn thú hơn làm ở gara."

Chúng nói nhanh, chí chóe như trên phim hoạt hình. Tôi vội cầm giẻ lau né ra để không bị bắt gặp là đang nghe trộm.

Hai gã hộ lý cao lớn tóm được Taber trong chuồng xí, lôi vào gian đựng mềm. Chúng đá một cú rõ mạnh vào ống quyển hắn. Hắn hết cựa quậy, chỉ la như bị chọc tiết. Tôi kinh ngạc thấy trong tay chúng hắn yếu ớt đến mức nào, như quấn chặt trong đai thùng sắt.

Ném sấp hắn xuống đệm, một đứa ngồi lên đầu, một đứa xé quần hắn ra tới khi cái mông hồng lộ ra giữa hình chữ nhật xanh lè như xà lách. Taber chửi bới ầm ĩ, nhưng tiếng hắn bị tắc nghẹn trong tấm nệm. Đứa ngồi trên đầu dỗ dành hắn: "Ồ, thế đấy, ông Taber ơi, thế đấy..." Ngoài hành lang, mụ Y tá Trưởng xăm xăm bước đến, vừa đi vừa nhúng chiếc kim tiêm dài vadơlin, đóng cửa lại, tôi không nhìn thấy họ trong thoáng chốc, rồi lập tức bước ra, lau cái kim lên mẩu quần rách của Taber. Lọ vadơlin đã bỏ lại trong phòng. Lúc cánh cửa chưa kịp đóng tôi nhìn thấy đứa ngồi trên đầu Taber dùng giấy Kleenex chấm chấm lên hắn. Chúng ở trong đó khá lâu; cuối cùng cửa mở, Taber trần như nhộng, quấn trong một tấm tã ướt được đưa vào phòng thí nghiệm phía đối diện...

Chín giờ, các bác sĩ nội trú trẻ, người nào cũng đeo găng tay da, năm mươi phút đồng hồ hỏi xem tụi Cấp tính đã làm gì khi còn bé. Mụ Y tá Trưởng khó chịu ra mặt với vẻ tinh tươm bảnh tỏn của tụi này. Năm mươi phút tụi nhóc con ở đây là năm mươi phút dây chuyền của mụ chạy khật khừ, còn mụ hầm hầm và ghi nhớ cần kiểm tra tiền sử vi phạm luật giao thông của chúng...

Chín giờ năm mươi, các bác sĩ trẻ đi khỏi, cả hệ thống tiếp tục vận hành trơn tru. Mụ Y tá Trưởng lại chui vào phòng kính nhìn ra, trước mặt là khung cảnh dễ chịu như cũ: các con bệnh hoạt động bài bản, trật tự như cuốn hoạt hình chọc cười.

Taber được lôi ra từ phòng thí nghiệm trên một chiếc giường di động."Đã phải tiêm một phát nữa bởi hắn tỉnh giấc trong khi chọc tủy sống," một kỹ thuật viên nói với mụ. "Hay là ta đưa luôn hắn sang Nhà số một, cho giật bằng LSĐ để tiết kiệm thuốc ngủ?"

"Một đề xuất tuyệt diệu. Có lẽ chúng ta sẽ làm cả việc kiểm tra lại đầu, chụp điện não đồ, biết đâu chả khám phá ra bằng chứng cần phải xử lý não."

Và các kỹ thuật viên lao vùn vụt đi, đẩy chiếc giường trước mặt, như những nhân vật hoạt hình – hoặc như con rối, những con rối máy trong các vở Punch và Judy, mua vui cho người xem bằng cách để Punch bị Xa tăng dập nhừ tử hoặc bị nuốt chửng vào bụng một con cá sấu tươi cười...

Mười giờ, người ta mang thư từ đến. Một vài lá đã bị bóc ra....

Mười giờ ba mươi, gã Quan hệ Công chúng dẫn một toán chị em đến, vỗ bàn tay mũm mĩm vào cửa phòng chung. "Chào các anh em; ồ bĩu môi gì... các chị em nhìn xem, ở đây thật sáng sủa và sạch sẽ. Xin giới thiệu đây là cô Ratched. Tôi dẫn các chị em tới đây chỉ vì là phân khoa của cô ấy. Quả là một người mẹ hiền, chị em ạ, không phải về tuổi tác, nhưng..."

Cổ áo của gã chật đến mức làm cho khuôn mặt căng lên khi cười, và quanh năm gã cười, chẳng hiểu vì lý do gì, cười như thể muốn kìm lại mà không kìm nổi. Mặt gã bơm căng, đỏ lừ, tròn xoe hệt một quả bóng bay được vẽ thêm mắt, mũi. Mặt gã nhẵn nhụi không râu, đầu lơ thơ vài sợi tóc, chả mất công đếm cũng biết là bao nhiêu; hình như gã từng dán chúng lên đầu, nhưng những sợi tóc không dính lại mà cứ rơi dần, sợi vào tay áo, sợi xuống cổ, sợi chui vào túi. Có lẽ vì vậy mà gã phải thắt cổ áo thật chặt, để chúng khỏi rơi vào đó.

Cũng có thể vì vậy mà cổ gã lúc nào cũng nhột, làm gã phải cười suốt.

Gã sắm vai hướng dẫn viên trong các tua du lịch đó – đám phụ nữ nghiêm túc trong bộ đồng phục gật đầu, còn gã thì cho thấy họ vào thời gian gần đây mọi thứ đã hoàn thiện như thế nào. Gã giới thiệu ti vi, ghế bành bằng da, vòi nước uống hợp vệ sinh, rồi tất cả vào phòng kính uống cà phê. Có lúc gã đứng một mình, cứ đứng đó giữa phòng và vỗ đôi bàn tay ( nghe cũng biết là chúng nhớp nháp) tới khi sau vài nhát vỗ chúng dính vào nhau, rồi thu chúng về dưới cằm như người đứng khấn và cứ thế quay tròn. Đứng giữa phòng, gã quay, mắt điên dại nhìn vào tivi, nhìn lên tranh treo tường, nhìn ra vòi nước. Và cười như điên.

Chưa bao giờ gã nói với chúng tôi cái gì đã khiến gã cười dữ vậy, còn tôi thì chẳng thấy gì đáng cười, có chăng, việc gã cứ như một thứ đồ chơi bằng cao su, đến nặng, xô đổ một cái là gã bật trở lại và quay tít là khôi hài hơn cả. Gã không bao giờ nhìn tận mặt mọi người...

Mười giờ bốn mươi, mười giờ bốn lăm, mười giờ năm mươi – các con bệnh lũ lượt ra ra vào vào khi đến hẹn ở LLT, LNN hoặc LVL, hoặc trong những phòng kỳ quái mỗi bức tường được xây theo một kiểu, sàn nhà lồi lõm. Tiếng gầm rú của máy móc xung quanh đã đạt tới mức cố định.

Tôi nhớ có một nhà máy sợi cũng đã gầm rú như vậy khi đội bóng tới đấu với trường học ởCalifo ia. Ngày ấy, sau một mùa bóng mỹ mãn, các cổ động viên của thành phố khoái tụi tôi tới mức quyên tiền cho cả đội đáp máy bay đến Califo ia đấu với một trường học quán quân ở địa phương. Thường thường sau khi xuống sân bay, chúng tôi được dẫn đi tham quan thành phố, thăm các nhà máy sữa, xí nghiệp kẹo hay một trang trại trồng củ cải. Huấn luyện viên thích chứng minh rằng thể thao nâng cao học vấn của con người, rằng các chuyến đi mở rộng tầm nhìn, tăng thêm hiểu biết. ĐếnCalifo ialần này, chúng tôi vào một nhà máy sợi. Tụi bạn lơ láo nhìn quanh một tí rồi chuồn lẹ lên ô tô, lật va li ra chơi bài, còn tôi ở lại đứng vao một góc để không quấy rầy những phụ nữ da đen đang chạy tới chạy lui giữa các cỗ máy. Nhà máy là tiếng rú, tiếng va đập, tiếng quát tháo của máy móc và con người, là sự chuyển động của đám công nhân vội vã đều đặn như những con thoi như muốn ru ngủ đầu óc tôi. Vì thế mà tôi ở lại, và cũng vì nó gợi cho tôi hình ảnh những người đàn ông cuối cùng của bộ lạc bị bắt lên đập nước làm việc với máy nghiền đá. Công việc căng thẳng và đơn điệu, những khuôn mặt đã dại đi vì tần số lặp đi lặp lại... Tôi muốn ra cùng đội bóng nhưng không thể.

Hôm đó là một sáng đầu đông nên tôi vẫn mặc áo khoác họ tặng cho đội sau khi giành chức vô địch – áo màu đỏ-xanh với tay áo bằng da, sau lưng thêu một biểu tượng hình quả bóng – biểu tượng của người chiến thắng. Nhiều cô gái da đen cứ nhìn vào chiếc áo đó. Tôi ngượng ngập cởi ra nhưng vẫn không tránh được cái nhìn của họ. Hồi đó tôi còn to hơn bây giờ rất nhiều.

Nhìn trái nhìn phải không có thợ cả đứng cạnh, một cô bỏ máy đi lại chỗ tôi. Cô hỏi liệu chiều nay chúng tôi có đấu với đội bóng của trường địa phương không và nói rằng anh cô chơi ở vị trí trung vệ trong đội đó. Chúng tôi nói chuyện về bóng bầu dục, về chuyện này, chuyện nọ và tôi nhìn gương mặt cô gái thấp thoáng như nấp trong sương mù. Không, đó chỉ là do bụi bông bay tả tơi trong không khí.

Tôi nói với cô về bụi bông, về khuôn mặt mờ ảo của cô như khuất sau màn sương sớm trong những cuộc đi săn vịt khi sương chưa tan hết. Cô ngước mắt nhìn tôi và cười khẽ vào lòng bàn tay, rồi hỏi:"Nói đi, anh cần có em sau hào nấp vịt vào một buổi đi săn để làm gì?" Tôi bảo sẽ cho cô trông thấy súng của tôi, thế là cả đám con gái trong xưởng đều giơ tay bụm miệng và cười. Cả tôi cũng cười nho nhỏ, rất hài lòng thấy mình nhanh trí. Đang tán gẫu và đùa cợt như vậy, bỗng cô chộp lấy hai tay tôi kéo lại. Gương mặt cô gần quá, rõ quá, tôi thấy cô đang rất sợ hãi.

"Ừ," cô thì thầm, "anh mang em đi nhé, anh chàng lớn xác. Đi khỏi nhà máy, đi khỏi thành phố, đi khỏi cuộc sống này. Sau hào nấp vịt hay đến đâu cũng được. Một nơi nào khác, nghe anh!"

Gương mặt đen xinh đẹp của cô sáng lên. Tôi chết lặng, chẳng biết nói sao. Chúng tôi đứng sát bên nhau mấy giây, chợt tiếng còi ca vang lên, và có gì đó bắt đầu tách cô ra khỏi tôi. Một sợi dây vô hình dính vào chiếc váy đỏ sặc sỡ đã kéo cô trở lại. Những ngón tay cô dùng dằng trong bàn tay tôi, và khi buông ra, khuôn mặt mềm mại lại nhòa đi như sô cô la chảy, bập bềnh trong bụi. Cô cất tiếng cười và xoay một vòng khiến chiếc váy bay tung để lộ đôi chân vàng. Cô nháy mắt đùa với tôi và chạy trở lại chiếc máy vừa nhả ra dải sợi chảy dài xuống sàn nhà; cô nhặt lấy nó và chạy thoăn thoắt giữa những chiếc máy để bỏ vào thùng rác, rồi đi khuất sau góc phòng.

Những cọc sợi quay tít, các con thoi thấp thoáng, các cuộn sợi giăng mắc đầy không trung, những bức tường trắng và những cỗ máy xám, các cô gái da đen mặc váy sặc sỡ thoắt ẩn, thoắt hiện, cả nhà máy nối với nhau trong những dải sợi trắng bay tung – tất cả găm vào đầu tôi và chốc chốc lại hiện về bởi chuyện gì đó xảy ra trong bệnh viện.

Phải. Tôi biết điều này. Phân khoa chúng tôi đâu khác gì một nhà máy cho Liên hợp. Tại đây người ta sửa lại những khuyết tật đã mắc phải ở gia đình, ở nhà thờ hay trường học. Xã hội sẽ đón nhận những thành phẩm được sửa chữa lại không kém gì lúc mới, nếu không nói là tốt hơn, và mỗi lần như thế trái tim mụ Y tá Trưởng đập rộn ràng: những gì lúc vào xưởng méo mó dị hình thì lúc xuất xưởng sẽ tròn trịa, hoàn chỉnh; một sự thần kỳ, là niềm tự hào của cả tổ hợp. Hãy nhìn xem! Hắn ta đang lướt trên mặt đất với nụ cười đã được gắn vào môi và nhẹ nhàng bước vào cuộc sống ấm cúng của một khu phố để ngày ngày đào rãnh đặt đường ống thoát nước của thành phố. Hắn ta lấy làm hạnh phúc vì điều đó. Hắn đã được đưa vào kỷ cương...

"Ôi chưa bao giờ tôi thấy một người thay đổi nhanh như ông Maxwell Taber sau khi xuất viện; mặc dầu trên khóe mắt còn quầng thâm, và sụt cân một chút, nhưng các ngài biết không, đó đã là một con người khác. Trời, thế mới là nền khoa học hiện đại của Mỹ quốc chứ..."

Và ánh sáng từ cửa sổ nhà hắn ở tầng trệt hắt ra đến quá nửa đêm bởi các Phần tử tác động chậm mà đám kỹ thuật viên lắp đặt đã làm cho các ngón tay hắn trở nên khéo léo; và hắn cúi xuống những cơ thể đã bị gây mê của vợ, hai đứa con gái lên bốn và lên sáu của hắn, và ông láng giềng vẫn hay chơi ky với hắn vào các ngày thứ Hai, hắn sẽ đưa họ vào kỷ cương như người ta đã làm việc đó với hắn. Nguyên tắc domino được áp dụng như vậy.

Sau mấy năm, khi đã hết thời hạn sử dụng được chỉ định trước, hắn gục xuống vì lao lực, thành phố thương khóc hắn và báo đăng ảnh hắn đang giúp tụi Hướng đạo sinh trong dịp tảo mộ hồi năm ngoái, còn bà vợ nhận được một bức thư của hiệu trưởng nhà trường nói rằng ông Maxwell Wilson Taber xứng đáng là một tấm gương cho thế hệ trẻ của cộng đồng chúng ta.

Thậm chí hai nhân viên sở an táng, vốn bòn rút từng xu, cũng phải chuyển lòng: "Không, mày nghĩ mà xem, dẫu sao Maxwell Tiber cũng là một tay đáng kính. Hãy xức dầu xịn cho cái xác và không lấy tiền chênh lệch của vợ hắn. Tụi mình chịu khoản đó."

Một kẻ Xuất viện thành công luôn khiến trái tim của mụ Y tá Trưởng đập rộn ràng, nó là minh chứng cho tài năng của mụ và của cả ngành. Một kẻ Xuất viện mang lại niềm vui cho tất cả.

Còn với kẻ mới Nhập thì khác. Thậm chí với đứa ôn hòa nhất cũng phải mất công mới gò nổi hắn vào nề nếp, ngoài ra, ai biết được khi nào định mệnh sẽ gửi đến cái gã không sợ ràng buộc đủ khả năng làm đảo lộn cuộc sống êm đềm ở đây, gây rối loạn tưng bừng đe dọa đến hoạt động của toàn tổ hợp. Mà tôi thì đã nói rằng hễ tổ hợp không hoạt động được trơn tru là mụ Y tá Trưởng sẽ nổi điên lên tức khắc.
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 6
Gần trưa, máy phun mù lại hoạt động, rất may là chưa hết công suất; nếu cố căng mắt ra tôi vẫn có thể nhìn thấy được gì đó. Sẽ đến lúc tôi không thể cố thêm được nữa, tôi sẽ đầu hàng hoàn toàn, sẽ chịu chìm lỉm trong lớp mù đặc quánh như một vài đứa Kinh niên, nhưng hiện thời thì tôi còn đang tò mò muốn xem cái gã mới đến sẽ xử thế ra sao trong lần Họp Nhóm này.

Một giờ kém mười, sương tan hết, hộ lý bảo tụi Cấp tính chùi sàn nhà chuẩn bị cho cuộc họp. Tất cả các bàn trong phòng chung được mang sang buồng tắm phía đối diện, sàn đã được giải phóng, McMurphy nói, mời các vị vào khiêu vũ.

Mụ Y tá Trưởng vẫn nhìn trân trân qua cửa sổ. Đã ba giờ liền mụ không rời khỏi cái cửa kính, thậm chí chỉ để đi ăn trưa. Bàn đã dời hết, lúc một giờ, gã bác sĩ từ phòng làm việc phía cuối hành lang bước ra, qua cửa sổ, gật đầu chào mụ rồi ngồi xuống chiếc ghế bên trái cánh cửa. Các con bệnh ngồi xuống theo gã, rồi các ả y tá và đám bác sĩ thực tập lục tục kéo vào chỗ của mình. Khi đâu đã vào đấy, mụ Y tá Trưởng lui vào phía trong, đến bên bàn điều khiển ấn nút cho các máy móc còn lại tự hoạt động, rồi xuất hiện tại phòng chung với cuốn sổ trực trong tay và một giỏ đựng các mẩu ghi chú. Ở đây đã nửa ngày mà chiếc áo choàng trắng của mụ vẫn phẳng phiu, nguyên nước hồ, khớp tay kêu sột soạt nghe như vải bạt đóng băng bị gấp lại.

Mụ ngồi vào chiếc ghế phía bên phải cánh cửa.

Mụ chưa kịp thả mình xuống thì Pete Pancini đã nhổm dậy, lắc đầu và bằng một giọng khàn khàn, lão rên rỉ: "Mệt quá, trời ơi, mệt đến chết mất...." – cứ mỗi lần trong phân khoa xuất hiện kẻ lạ mặt là lão lại ca thán, may ra có kẻ lắng nghe.

Không nhìn Pete, mụ Y tá Trưởng vừa lục tìm giấy tờ trong giỏ vừa buông một mệnh lệnh: "Một người đến ngồi với ông Pete dỗ cho ông ấy yên đi để chúng ta bắt đầu."

Billy Bibbit đứng lên. Pete lúc này quay lại phía McMurphy, nghiêng đầu hết bên trái lại sang phải như chiếc đèn đỏ ở chỗ chắn tàu. Lão làm việc đó đã ba mươi năm, bào mòn hết, nhưng vẫn hoạt động theo thói quen nghề nghiệp.

"Tôi mệt rồi," lão nói, đung đưa cái đầu trước mặt McMurphy. "Bình tĩnh, Pete," Billy nói và đặt bàn tay đầy tàn nhang lên đầu gối lão.

"... Mệt quá rồi..."

"Tôi biết, Pete ạ," Billy đập tay vào gối Pete, và Pete thôi không lắc đầu, hiểu rằng hôm nay không có ai sẵn lòng nghe lão than thở. Mụ Y tá Trưởng tháo đồng hồ đeo tay, nhìn lên đồng hồ chuông lấy lại giờ, đoạn đặt vào giỏ sao cho có thể thấy được mặt số và lôi ra chiếc cặp giấy.

"Chúng ta bắt đầu cuộc họp thôi."

Mụ nhìn mọi người một lượt xem có ai dám ngắt lời, bộ mặt với nụ cười chết cứng quay chầm chậm trên cổ áo. Đố đứa nào dám nhìn lên, cả bọn đều ngồi cắn móng tay. Chỉ có McMurphy. Hắn tìm được một chiếc ghế bành ở góc phòng, chễm chệ đặt mông vào, cứ như đã dùng nó hàng thế kỷ, mắt không bỏ sót một cử chỉ nào của mụ Y tá Trưởng. Chiếc mũ sụp xuống chật căng trên mái đầu tóc đỏ như thể hắn là một tay đua mô tô. Cỗ bài được chia làm hai nửa đặt trên hai đầu gối, hắn cầm một nửa lên, rồi vỗ đánh bốp vào nửa kia vang cả phòng, gộp chúng làm một. Cái nhìn của mụ Y tá Trưởng dừng lại ở McMurphy. Mụ đã nhìn hắn chơi poker suốt cả sáng và dầu không thấy hắn lột túi của ai nhưng mụ vẫn nghi ngờ hắn sẽ không yêu thích quy tắc ở đây – chỉ chơi ăn diêm. Cỗ bài chia đôi, nhập một rồi biến mất trong lòng bàn tay to đùng của hắn.

Mụ y tá lại nhìn đồng hồ. Mụ lôi từ trong cặp ra một tờ giấy, liếc qua rồi lại nhét vào. Đặt cặp giấy sang một bên, mụ vớ lấy cuốn sổ trực. Ellis đang bị ghim vào tường chợt lên cơn ho; đợi cho hắn hết cơn, mụ nói:

"Xem nào. Buổi họp thứ Sáu chúng ta đang thảo luận dở vấn đề của ông Harding, về việc ông có một vài... trục trặc nho nhỏ với người vợ trẻ. Ông Harding rất lấy làm lo lắng vì bộ ngực to quá cỡ của vợ làm cánh đàn ông ngoài phố cứ phải nhìn chằm chằm." Mụ giở quyển sổ trực ở nhiều trang khác nhau; những mảnh giấy nhỏ thò ra trên đầu các trang đánh dấu. "Theo những điều mà các bệnh nhân khác ghi được, ông Harding đã nói: ‘với những gì cô ả làm thì quân đểu cáng nhìn ngắm cũng đáng lắm’. Chúng ta cũng nghe thấy ông Harding thú nhận là với những gì ông làm thì cô vợ tìm kiếm sự chú ý của đàn ông cũng đáng lắm. Ông còn nói: ‘Con vợ rất dễ thương nhưng dốt nát của tao cho rằng mọi lời nói và hành động thiếu sự mạnh mẽ, hung hãn của thú vật đều chỉ là lời nói và hành động của một thằng công tử bột mà thôi’.

Đoạn tiếp theo mụ đọc lẩm nhẩm rồi gập sổ lại.

"Ngoài ra ông Harding còn nói rằng bộ ngực quá bự của vợ gây cho ông cảm giác là ông kém cỏi hơn. Nào, xin mời các vị."

Mắt Harding nhắm tít. Tất cả im lặng. McMurphy nhìn cả bọn xem có ai muốn phát biểu không, đoạn hắn giơ tay lên và búng ngón cái như một cậu học trò trong lớp học; mụ Y tá Trưởng gật đầu:

"Ông... M... Mac... McMurphy?"

"Bà vừa ‘xin mời’ cái gì thế ạ?"

"Ông bảo sao? Xin mời..."

"Bà vừa nói ‘xin mời các vị’ cái gì đấy, nếu tôi nghe không lầm..."

"Xin mời... đóng góp ý kiến, ông McMurphy, đóng góp ý kiến về vấn đề của ông Harding."

"Ra thế, tôi cứ ngỡ... bà mời mọi người cái bộ... mà bà vừa nói."

"Ông muốn làm cái..."

Nhưng mụ tắc lại. Mụ có vẻ bối rối mất mấy giây. Một đứa Cấp tính suýt bật cười, còn McMurphy duỗi người trên ghế, ngáp dài, nháy mắt với Harding. Mặt vẫn điềm tĩnh như thường, mụ y tá cất quyển sổ vào túi, rút ra một cặp giấy khác và đọc:

"McMurphy, Randle Patrick. Được các nhà chức trách từ trại cải tạo Pendleton chuyển đến để khám bệnh và điều trị, nếu được. Ba mươi lăm tuổi, chưa vợ. Huân chương chữ thập ‘Cống hiến lớn lao’ ở Triều Tiên, do đã dẫn đầu đồng đội trốn khỏi trại tù binh Cộng. Sau bị kỷ luật, bị đuổi khỏi quân đội và tước các đặc lợi vì không chấp hành mệnh lệnh. Đã từng đánh nhau trên đường phố, gây gổ ở quán rượu. Nhiều lần bị bắt giữ vì say rượu, phá rối trật tự, hành hung và các trò chơi sát phạt tái phạm nhiều lần ; một lần ra tòa – tội cưỡng dâm."

"Cưỡng dâm?" Gã bác sĩ giật mình.

"Quan hệ với trẻ dưới tuổi cho phép, với một cô bé..."

"Hề... hề, đừng có tin," McMurphy nói với bác sĩ. "Con bé đâu chịu làm chứng."

"Một đứa bé mười lăm tuổi."

"Con bé biểu nó mười bảy, bác sĩ ạ, và rất muốn."

"Pháp y đã phát hiện ra dấu hiệu của sự chung đụng. Biên bản nói rõ rằng đã nhiều lần..."

"Thú thiệt, con bé nó thèm quá mà, đến nỗi tôi phải khâu chặt quần lại."

"Đứa trẻ không chịu ra chứng, mặc dầu kết quả khám nghiệm đã rõ ràng. Tất nhiên nó đã bị buộc phải im lặng. Bị cáo sau khi xét xử vội rời khỏi thành phố."

"Ối chà, tôi có việc phải rời đi. Bác sĩ à, tôi nói nghiêm túc," McMurphy nghiêng người chống khuỷu tay lên gối và nhỏ giọng nói với bác sĩ ở đầu bên kia phòng. "Đợi cho đến tuổi mười sáu theo pháp luật thì cái con đượi con ấy cứ gọi là quần cho tôi đến nhừ. Nó ham đến mức cố ngáng chân tôi và xô tôi xuống sàn nhà."

Mụ y tá gấp cặp giấy lại rồi chìa cho bác sĩ ngồi bên kia cửa cứ như thể mụ vừa nhét con bệnh vào đó và chuyển cho gã ta để xét nghiệm. "Bác sĩ Spivey, đây là bệnh nhân mới. Tôi đã định chiều nay sẽ nói với anh sau. Nhưng vì anh ta muốn kể về mình trong Cuộc Họp Nhóm thì chúng ta cứ làm việc với anh ta trước."

Bác sĩ kéo sợi dây buộc cặp kính từ trong túi ra, đặt lên mũi. Cặp kính hơi lệch về bên phải nhưng gã lại nghiêng đầu sang trái, thế là cân bằng. Lật xem qua vài tờ, gã cười nụ, bồn chồn vì điệu bộ lấc láo của McMurphy cũng như chúng tôi và cũng như chúng tôi, gã thận trọng không dám cười công khai. Xem xong, gã đóng cặp, cho lại kính vào túi và nhìn McMurphy lúc này vẫn ngồi ở góc đối diện chúi mình về phía gã.

"Ông McMurry, theo tôi hiểu, ông chưa có tiền sử khám thần kinh?"

"Mac-Mur- phy, bác sĩ à!"

"Thật ư?... Tôi nghe bà y tá gọi..."

Gã ta lại mở cặp, lôi kính ra, nhìn thêm một phút, rồi đóng lại và cho kính vào túi. "Vâng, McMurphy, đúng rồi, tôi xin lỗi."

"Không sao, bác sĩ à. Lỗi tại bà kia. Tôi có biết vài người hay nhầm như vậy. Ông chú tôi tên là Hallahan, có lần quen với một người đàn bà. Bà ta cứ cố tình nhầm lần mà gọi ông thành Hooligan, chỉ vì muốn vuốt râu hùm. Sau vài tháng ông cho bà ấy lãnh đủ."

"Thật sao, thế ông chú anh đã làm gì bà ấy?" Gã bác sĩ hỏi.

McMurphy nhăn răng cười, đưa ngón cái quệt mũi. "Hà... hà, cái đó thì tôi không thể nói. Tôi giữ bí mật của chú Hallahan như một cẩm nang, đề phòng bất trắc. Có thể chính tôi sẽ cần đến."

Hắn nói vào mặt mụ Y tá Trưởng câu đó. Mụ mỉm cười thay cho câu trả lời, rồi hắn đưa mắt sang gã bác sĩ. "Ông hỏi gì về tiền sử của tôi?"

"Tôi muốn hỏi về tiền sử khám thần kinh. Tôi muốn biết trước khi tới đây ông đã trú ngụ lâu dài một nơi nào khác chưa?"

"Tôi đã qua hàng loạt nhà tù, địa phương cũng có, quốc gia cũng có."

"Là tôi nói các cơ sở điều trị bệnh tâm thần cơ."

"À, cái đó thì chưa. Đây là bước đầu. Nhưng tính tôi đúng là điên, thật đó. Tôi thề. Để tôi chỉ cho ông xem, hình như bác sĩ ở trại đã..."

Hắn đứng dậy, nhét cỗ bài vào túi áo khoác, và băng qua phòng tiến đến gã bác sĩ, chúi người qua vai gã bật mấy trang hồ sơ. "Tôi nhớ ông ấy đã ghi vào đâu đó, tít ở đây..."
"Vậy à? Tôi không nhìn thấy, để tôi xem lại." Gã bác sĩ lại lôi kính ra đeo và nhìn vào chỗ McMurphy vừa chỉ.

"Đây rồi bác sĩ! Bà y tá đã bỏ qua phần này khi tóm tắt lại hồ sơ của tôi. Đúng chỗ nói: ‘Đã nhiều lần bộc phát những dấu hiệu...’ đó, tôi muốn người ta hiểu tôi cho rõ ngọn ngành, ‘nhiều lần’ nhé, bác sĩ... ‘không kiểm soát được bản thân. Những dấu hiệu đó cho phép kết luận bệnh nhân mắc bệnh thái nhân cách.’ Ông ấy biểu mắc bệnh thái nhân cách nghãi là tôi cãi lộn và đ... - xin lỗi các bà, nghĩa là, ông ấy biểu... cơ thể tôi quá mãnh liệt về sinh lý. Sao, bác sĩ, bệnh đó có nguy hiểm lắm không?"

Trên khuôn mặt rộng, cứng cỏi hiện lên nỗi lo âu rất trẻ thơ khiến gã bác sĩ phải ngoẹo đầu sang bên mà giấu nụ cười vào cổ áo. Cặp kính lại tuột khỏi sống mũi rơi trúng túi. Tụi Cấp tính và vài đứa Kinh niên cũng mỉm cười.

"Quá mãnh liệt về sinh lý, bác sĩ nói coi, ông đã từng phải khổ sở vì bệnh này chưa?"

Bác sĩ dụi mắt. "Không, ông McMurphy ạ, tiếc rằng chưa. Nhưng tôi thấy thật thú vị là bác sĩ ở trại cải tạo còn ghi: ‘Chú ý rằng người này rất có thể đã trầm trọng hóa căn bệnh của mình để tránh các việc nặng ở trại’." Gã ngẩng đầu lên. "Ông nghĩ sao, ông McMurphy?"

"Này, ông bác sĩ," McMurphy đứng thẳng dậy, nhăn trán, dang tay ra cho toàn thế giới chứng minh, "trông tôi thực sự bình thường hay sao?"

Gã cố nén cười nên không trả lời được. McMurphy quay sang mụ Y tá Trưởng, hỏi y hệt: "Trông tôi thực sự bình thường ư?" Không trả lời, mụ đứng dậy, lấy chiếc cặp trên tay gã bác sĩ cho vào giỏ dưới đồng hồ và ngồi xuống.

"Bác sĩ, có lẽ chúng ta nên cho ông McMurry biết cách thức tiến hành cuộc Họp Nhóm ở đây."

"Thưa bà," McMurphy phá ngang, "tôi đã kể cho bà nghe về ông chú Hallahan của tôi, về người đàn bà cứ cố tình gọi nhầm tên ông ấy rồi chứ ạ?"

Mụ nhìn McMurphy rất lâu, không còn nụ cười thường lệ. Mụ có kỹ năng tùy theo câu chuyện và đối tượng mà dùng điệu cười thay cho lời nói, nhưng cái thần mụ để vào đó thì vẫn không thay đổi, điệu cười xét cho cùng chỉ là một hành động máy móc dành riêng cho mục đích của mụ thôi. Cuối cùng mụ nói, "Ông bỏ qua cho, ông Mac-Mur-phy." Rồi mụ quay sang phía bác sĩ. "Ông giải thích giùm..."

Gã bác sĩ đan tay vào nhau và ngả người ra ghế. "Vâng. Tôi đồng ý. Tôi sẽ trình bày toàn bộ lý thuyết về Cộng đồng Trị Liệu của chúng ta. Mặc dầu thông thường phần này để đến cuối cuộc họp. Vâng. Đây là một sáng kiến hay, cô Ratched, một sáng kiến rất hay."

"Cả lý thuyết nữa, dĩ nhiên, nhưng tôi muốn nhấn mạnh nguyên tắc: trong cuộc họp, tất cả các bệnh nhân phải ngồi."

"Ồ, tất nhiên. Sau đó tôi sẽ trình bày lý thuyết. Ông McMurphy, một trong những điều kiện đầu tiên: trong cuộc họp, tất cả bệnh nhân phải ngồi. Nếu không, chúng tôi không giữ nổi trật tự, ông hiểu đấy."

"Tôi hiểu, bác sĩ à. Tôi chỉ đứng dậy để chỉ cho ông vài chi tiết trong hồ sơ."

Nói đoạn hắn quay về chỗ, sảng khoái vươn vai rồi ngáp dài, thả mình xuống chiếc ghế bành, xoay trở một hồi như chú cún tìm chỗ nằm. Thoải mái rồi hắn giương mắt chờ đợi, nhìn vào gã bác sĩ."

"Còn về lý thuyết..." Gã bác sĩ hít một hơi dài khoan khoái.

"Đđđđđđđ mẹ con vợ," Ruckly nói.

McMurphy đặt tay lên miệng bắc loa hỏi thầm hắn từ đầu phòng đến cuối phòng, bằng một giọng rít lên: "Vợ ai?" khiến Martiini ngẩng đầu lên và trố mắt. "Ừ phải, vợ ai?" hắn nói. "À, à... Cô ta! Tôi thấy cô ta rồi. Phải."

"Qua sẵn sàng trả giá để có được cặp mắt như hắn." McMurphy nói và từ đó không thốt một lời nào nữa cho đến cuối cuộc họp. Hắn chỉ ngồi nhìn, lắng nghe không bỏ sót một chi tiết và một lời nào của mọi người. Gã bác sĩ thao thao bất tuyệt về lý thuyết của mình, cuối cùng mụ Y tá Trưởng quyết định thế là đủ, bèn yêu cầu gã ta im lặng, bởi vì dầu sao cũng phải làm việc với Harding, và thế là bọn chúng bàn luận về Harding cho đến cuối buổi họp.

Trong suốt thời gian họp, McMurphy chỉ một hai lần vươn đầu về phía trước như muốn nói gì nhưng rồi lại thôi và lại ngửa ra sau. Mặt hắn đầy vẻ nghiền ngẫm. Hắn nghĩ: có cái gì kỳ lạ ở đây. Nhưng hắn không nắm bắt được đó là cái gì. Ví dụ như không ai cười khi hắn hỏi: "Vợ ai?" Hắn nghĩ, tất cả sẽ phá lên cười, thế mà chẳng ai thèm nhếch mép. Không khí bị giam chặt trong các bức tường, căng lên, còn đâu mà cười. Thật là một nơi kỳ lạ, khi không ai cho phép mình cười, một cảnh lạ lùng khi tất cả đều khuất phục con mẹ mặt trắng như bột mì cười cười vú bự và có cặp môi đỏ chót này. Hắn nghĩ phải đợi thôi, phải tìm hiểu xem ở đây có cái gì, không nên vào cuộc khi chưa rõ đầu cua tai nheo ra sao.Taychơi lão luyện phải luôn nhớ điều đó: xem xét rồi mới nhảy vào cầm bài.

Lý thuyết có tên Cộng đồng Trị liệu tôi đã nghe cả ngàn lần đến nỗi có thể kể lại từ đầu chí cuối rồi lại từ cuối lên đầu - nào là con người cần phải học cách sống trong nhóm trước lúc có thể thực hiện chức năng sống trong xã hội bình thường; nào là nhóm phải giúp anh ta, chỉ cho thấy bệnh tật ở đâu; và ai là người bình thường còn ai là người không bình thường thì xã hội tự quyết định lấy, anh chỉ có việc nghe theo. Và tuốt tuồn tuột những việc như thế. Chỉ cần xuất hiện bệnh nhân mới là gã bác sĩ lập tức tuôn ra toàn bộ lý thuyết của mình, dường như đó là lúc duy nhất gã được thấy mình quan trọng, được điều khiển cuộc họp. Gã sẽ thuyết trình về mục đích của Cộng đồng Trị liệu là một phân khoa dân chủ, hoàn toàn do các bệnh nhân tự quản và bầu nên, nó sẽ trả bệnh nhân lại đường phố, lại thế giới Bên ngoài với tư cách những công dân tốt. Bất kỳ điều gì anh không hài lòng và bất kỳ điều gì anh muốn thay đổi, cần phải nói ra trước nhóm và cùng thảo luận, chứ không được để mưng mủ lên trong lòng. Và anh cần phải cảm thấy hoàn toàn thoải mái với những người xung quanh đến mức có thể tranh luận thẳng thắn về các vấn đề cảm xúc với bệnh nhân cũng như với các nhân viên bệnh viện. Hãy trò chuyện, gã bảo, hãy bàn luận và hãy thú nhận. Còn nếu trong khi nói chuyện bình thường bạn anh có nói ra điều gì thì hãy ghi vào trong sổ trực để bác sĩ và y tá đều biết. Đấy không phải là "gõ đầu" như người ta nói lóng với nhau mà là giúp đỡ bạn bè. Phải lôi ra những lỗi lầm cũ để rửa sạch trước mắt mọi người. Phải tham Thảo luận tập thể, phải giúp mình và bạn bè thâm nhập vào các bí ẩn của tiềm thức. Đối với bạn bè không được giấu giếm điều gì.

Gã bác sĩ thường kết thúc bằng lời giáo huấn, nhiệm vụ của chúng ta là làm cho bệnh viện giống những nơi dân chủ tự do khác, nơi mà các bạn đã sống qua. Hãy để cho thế giới Bên trong trở thành hình mẫu thu nhỏ của thế giới Bên ngoài mà một ngày đẹp trời nào đó các bạn sẽ được trở về.

Có lẽ gã còn tiếp tục bàn luận dài dòng nữa nhưng thường thường đến đây thì mụ Y tá Trưởng chặn gã lại, rồi giữa lúc yên ắng của cuộc họp, lão già Pete đứng dậy, lắc lư cái đầu như cái nồi đồng dúm dó và nói với mọi người rằng lão mệt mỏi lắm rồi, rồi mụ Y tá Trưởng sai một ai đó trông nom lão, người ta vỗ về Pete và cuộc họp lại tiếp tục.

Chỉ có một hôm, một lần duy nhất, tôi nhớ khoảng bốn hay năm năm trước đây, thì không như thế. Gã bác sĩ vừa kết thúc lời thao thao bất tuyệt của mình thì lập tức mụ Y tá Trưởng hỏi: "Thế nào? Ai bắt đầu đây? Hãy cởi mở tâm can nào, các bạn!" Tất cả bọn Cấp tính lập tức ngồi lặng thinh như trời trồng, ngồi im đến hai mươi phút, câm như còi báo động đang chuẩn bị réo lên, sau câu hỏi đó, đều đợi xem ai sẽ bắt đầu kể về mình. Mụ đưa mắt xung quanh, từ tốn và đều như đèn hiệu đổi màu. Hai mươi phút dằng dặc, căn phòng chìm trong yên lặng. Hai mươi phút trôi qua, mụ ta nhìn đồng hồ rồi nói: "Như vậy là không có ai trong các ông có hành động gì cần giấu giếm và không ai giấu giếm điều gì phải không?" Mụ ta thò tay vào giỏ tìm sổ trực. "Chúng ta thử kiểm tra xem, các ông đã viết gì?"

Lập tức có cái gì đó bắt đầu làm việc, một thiết bị âm thanh nào đó gắn trong tường đã bật mở đúng lúc miệng mụ phát ra những lời đó: bọn Cấp tính bắt đầu căng lên. Miệng họ mở ra nhất loạt. Cái nhìn như xoáy của mụ dừng lại trên đứa gần nhất cạnh tường.

Hắn động đậy đôi môi. "Tôi đã cướp tiền ở trạm tiếp liệu."

Mụ ta nhìn sang đứa tiếp theo.

"Tôi đã định kéo em gái vào giường."

Cái nhìn của mụ lại lướt tới đứa thứ ba, đứa nào cũng giật nảy lên như tấm bia trong phòng tập bắn súng.

"Tôi... một lần... đã định kéo em trai vào giường."

"Khi lên sáu, tôi đã giết một con mèo. Lạy Chúa, hãy tha lỗi cho tôi, tôi đã lấy hòn đá đập chết nó và đổ lỗi cho hàng xóm."

"Tôi nói định là nói dối đấy. Tôi thực sự đã kéo em gái..."

"Và tôi cũng thế! Và tôi cũng thế!"

"Tôi nữa! Tôi nữa!"

Thế này thì mụ ta có nằm mơ cũng chả thấy. Tất cả hét lên, cố gắng át cả giọng người khác; quay nghiêng quay ngửa, cả bọn họ không còn giữ gìn gì nữa, tuôn ra những điều mà sau đó không còn mặt mũi nào để nhìn vào mắt nhau. Mụ Y tá Trưởng, sau mỗi lời xưng tội lại gật đầu một cái và nói: được, được...

Lúc đó lão Pete đứng dậy. "Tôi mệt lắm rồi!" Lão hét lên bằng giọng oang oang, giận dữ, tôi chưa nghe thấy bao giờ.

Tất cả ngừng bặt. Bọn chúng, không hiểu sao, có vẻ ngượng ngập. Dường như lão đã nói lên điều gì đó đúng đắn, quan trọng và đáng lưu tâm – còn tất cả những la thét trẻ con của chúng trở nên vô nghĩa. Mụ Y tá Trưởng nổi điên lên. Mụ giận dữ quay lại phía ông lão, nụ cười biến mất công việc vừa mới vào nề nếp.

"Có ai trông chừng ngài Bancini bất hạnh hộ cái nào!" mụ nói.

Có mấy người đứng dậy. Họ muốn an ủi lão, vỗ vỗ vào vai lão. Nhưng lão không muốn im. "Mệt! Mệt!" Lão tiếp tục.

Cuối cùng mụ y tá đành sai một gã hộ lý lôi lão ra khỏi phòng. Mụ ta quên rằng bọn hộ lý không có chút quyền gì đối với những người như lão Pete.

Pete là bệnh nhân Kinh niên suốt cuộc đời mình. Mặc dù mới vào viện năm quá năm mươi, lão luôn luôn là bệnh nhân Kinh niên từ lúc đẻ ra. Trên đầu lão có hai vết lõm lớn, một bên này, một bên kia, cân xứng – tay bác sĩ đỡ đẻ nào đó chắc đã dùng phoóc-xếp cặp sọ lão để lôi ra. Trước đó, hẳn Pete đã kịp liếc ra ngoài thấy các thứ máy móc trong nhà hộ sinh và khi hiểu rằng mình sẽ ra với cuộc đời thế nào, lão vội vàng túm lấy bất cứ chỗ nào túm được để nằm lại.Taybác sĩ vội đưa phoóc-xếp vào, kẹp ngang đầu lão, lôi ra và nghĩ rằng tất cả đều bình thường. Chỉ có điều đầu của Pete còn ướt nguyên, nhễu nhão như đất sét, thành ra hai vết lõm do phoóc-xếp thế là cứ hằn lại mãi mãi. Còn chính lão thì cứ điên điên ngây ngây, lão phải hết sức cố gắng tập trung toàn bộ trí tuệ của mình mới có thể làm được một việc mà đứa bé sáu tuổi dễ dàng làm được bất kỳ lúc nào.

Tuy nhiên trong cái dở lại có cái hay, vì ngớ ngẩn nên lão không bị rơi vào nanh vuốt của Liên hợp. Bọn họ không thể nhào nặn được lão, đành giao cho lão một việc ngớ ngẩn trên đường sắt. Lão chỉ cần ngồi trong túp nhà bằng ván nơi thâm sơn cùng cốc xa lắc xa lơ ở chỗ bẻ ghi và vẫy theo các đoàn tàu ngọn đèn dỏ nếu đường tàu rẽ vào một phía, ngọn đèn xanh nếu rẽ vào phía kia và ngọn đèn vàng nếu đường sắt có tàu khác đang chạy. Lão làm việc đó với toàn bộ sức lực của mình, với sự gan góc không ai có thể lay chuyển được, một mình ở chốn khuất nẻo đó. Và không ai lắp đặt được cho lão một bộ máy điều chỉnh nào.

Chính vì thế nên bọn hộ lý da đen không thể chỉ huy lão được. Nhưng tên hộ lý đã không nghĩ tới điều đó và bản thân mụ Y tá Trưởng cũng không nghĩ tới khi sai đưa Pete ra khỏi phòng. Tên hộ lý tiến thẳng tới Pete và nắm lấy tay lão giật về phía cửa như người ta giật dây cương kéo ngựa trên đường cày. "Ồ với ọt gì Pete! Nào, đi ngủ. Chỉ được cái phá rối."

Pete đẩy tay hắn ra. "Tôi mệt lắm rồi!" lão cảnh cáo.

"Nào đi, bố già, cứ làm ầm ĩ lên. Đi mà nằm vào giường ngoan ngoãn đi."

"Mệt!"

"Thì mới bảo vào giường mà ngủ..."

Tên hộ lý lại giật tay lão, và Pete không còn lắc đầu nữa. Lão đứng thẳng lên, chắc chắn, đôi mắt đột nhiên bừng sáng. Bình thường mắt lão ti hí và đùng đục như bị rót sữa vào, còn bây giờ bỗng nhiên trở nên sáng trưng như đèn ống. Và bàn tay bên cánh tay đang bị tên hộ lý nắm chặt bắt đầu phồng lên. Nhân viên bệnh viện và phần lớn bệnh nhân đang mải nói chuyện với nhau, không để ý gì đến lão cùng bài ca muôn thuở của lão "mệt lắm rồi", đều nghĩ rồi người ta sẽ bắt lão câm mồm như vẫn thường làm và cuộc họp sẽ lại tiếp tục. Họ không thấy lão đang nắm tay vào rồi lại mở tay ra và nắm đấm mỗi lúc một lớn lên, lớn lên ngay trước mắt. Chỉ mình tôi nhìn thấy. Tôi nhìn thấy nó phồng lên rồi nắm lại trước mắt mình, nở ra trở nên phẳng lì, rắn chắc. Đúng là một quả cầu han gỉ bằng gang treo trên dây xích. Tôi nhìn lão và chờ đợi, còn tên hộ lý lúc đó lại giật tay lão về phía cửa.

"Bố già, tôi nói có nghe..."

Hắn chợt nhìn thấy nắm đấm. Hắn toan lùi lại và bảo "Ngoan nào, Pete," nhưng đã muộn. Quả cầu gang lớn vọt lên khỏi đầu gối Pete. Tên hộ lý bắn ra bẹp gí và dính luôn vào giường, sau đó tuột xuống sàn như thể tường bị bôi mỡ. Tôi nghe tiếng bóng đèn vỡ loảng xoảng trong tường và một mảng vữa có hình của hắn vỡ vụn.
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 7
Hai tên kia – tên lùn tì và tên cao lớn – đứng ngây người. Mụ Y tá Trưởng phải búng ngón tay tanh tách chúng mới động đậy được. Chúng tức thì lao tới lão Pete, tên bé cạnh tên lớn, nom như cái bóng tương phản trong tấm gương thu nhỏ. Chúng đã sắp tới nơi thì đột nhiên hiểu ra cái điều mà tên thứ nhất phải hiểu ra rồi – đó là lão Pete không hề được lắp máy điều chỉnh như những người khác, rằng lão sẽ không nghe lời chỉ vì nghe các mệnh lệnh cũng như các kiểu giật tay. Chỉ có thể bắt lão như bắt gấu hoặc bò tót, mà một tên trong bọn chúng đã bị bẹp gí nơi góc tường, thành ra công việc càng chẳng hay ho gì với chúng lắm.

Phát hiện ra điều đó cùng lúc, bọn chúng đờ người ra trong cùng một tư thế - cả đứa lớn, cả đứa bé – chân trái đặt lên trước, tay phải đưa lên, ở ngay nửa đoạn đường giữa lão Pete và mụ Y tá Trưởng. Trước mặt chúng là quả cầu gang đung đưa, sau lưng chúng là cơn thịnh nộ trắng bệch của mụ, chúng run người lên, bốc khói và tôi nghe thấy cả tiếng các bánh răng nghiến lên kin kít bên trong. Tôi thấy chúng co giật liên hồi, hệt như chiếc ô tô khi tăng hết ga mà không nhả phanh.

Lão Pete đứng giữa phòng, đung đưa bên sườn quả cầu gang, người gập cong vì sức nặng của nó. Bây giờ thì tất cả đều nhìn lão ta. Lão đưa mắt liếc hết đứa lớn lại đứa bé; nhận ra rằng chúng không định tới gần, lão liền quay về phía bệnh nhân: "Các anh hiểu đấy, tất cả ở đây đều nhảm nhí cùng cực vô lý cùng cực."

Mụ Y tá Trưởng lặng lẽ tụt khỏi ghế và tiến tới cái giỏ liễu ở cạnh cửa. "Vâng, vâng, ông Bancini," mụ ta phụ họa. "Chỉ có điều phải bình tĩnh..."

"Vô lý cùng cực và ngoài ra không gì hơn." Giọng của lão mất hết cái âm oang oang như đồng và trở nên căng thẳng, quyết liệt, dường như lão còn rất ít thời giờ để nói. "Các anh hiểu cho, tôi không đừng được... không thể. Tôi sinh ra đã là một cái xác chết. Còn các anh thì không. Các anh không sinh ra là xác chết. Ôi, những năm thật là đau khổ..."

Rồi lão khóc. Lão không thể nói ra được những lời muốn nói. Lão mấp máy môi nhưng không thể thốt nên lời nào. Lão lắc lư đầu để đẩy lời nói ra và chớp chớp đôi mắt nhìn đám Cấp tính.

"Ôi tôi nói... cho các anh... nói cho các anh."

Lão rũ người xuống và quả cầu gang cũng xẹp xuống bằng nắm tay bình thường. Lão chụm các ngón tay lại, đưa ra phía trước, dường như muốn trao cái gì cho các con bệnh.

"Tôi không thể làm gì hơn. Tôi sinh ra đã là thai sẩy. Chịu bao nhiêu điều tủi nhục để rồi chết. Tôi sinh ra đã là xác chết. Tôi không thể làm gì hơn. Tôi mệt mỏi. Đầu hàng. Các anh còn có hy vọng. Tôi chịu biết bao nhiêu tủi nhục đến nỗi phải chết. Các anh thật dễ dàng. Tôi sinh ra là xác chết nên phải sống thật là cơ cực. Tôi mệt. Tôi mệt vì nói và đứng. Tôi là người chết đã năm mươi lăm năm nay."

Mụ Y tá Trưởng xuyên qua suốt gian phòng, tiêm cho ông lão, mũi kim đâm qua cả chiếc quần xanh. Mụ lùi phắt lại, không thèm rút cả kim tiêm ra nên cái ống tiêm vẫn dính trên quần nom như cái đuôi nhỏ bằng thủy tinh và thép; còn lão Pete càng ủ rũ hơn, càng gục đầu về phía trước, không phải vì bị tiêm mà vì mệt mỏi, những phút cuối cùng đã vĩnh viễn vắt kiệt sức lực của lão – chỉ cần nhìn cũng thấy rõ rằng lão đã tận số.

Vì thế mũi tiêm là thừa, cái đầu lão cứ thế lắc lư, còn đôi mắt mờ đục mãi đi. Lúc mụ Y tá Trưởng đến để rút kim tiêm ra thì lão đã quỵ xuống đến mức nước mắt rơi ngay trên sàn nhà, không chảy trên mặt; đầu lão lắc lắc làm cho nước mắt vung ra tứ phía, nom như lão đang gieo những giọt nước mắt. "Ôi!" Lão kêu lên. Và thậm chí không hề rùng mình khi kim tiêm rút ra.

Lão đã quay trở về cuộc sống có lẽ chừng một phút để nói với chúng tôi điều gì đó, nhưng chúng tôi một phần không muốn nghe, một phần chẳng buồn suy nghĩ, và cố gắng đó đã làm lão quỵ. Mũi tiêm ở mông lão hoàn toàn vô ích, như thể tiêm cho một người chết – tim không còn bơm nó đi, mạch không còn truyền lên đầu, và bộ não không còn để mà chịu tác động gì từ chất thuốc trong đó. Chẳng khác gì mụ tiêm vào cái xác mục rỗng.

"Tôi... mệt..."

"Nào. Nếu hai anh có can đảm thì hãy đưa ông Bancini đi. Ông ta sẽ ngủ yên đấy."

"... mệt kinh khủng."

"Bác sĩ Spivey! Hộ lý Williams đã tỉnh. Cứu chữa cho anh ta đi nhé. Anh ta bị gãy tay và vỡ đồng hồ."

Sau đó và sau này nữa, lão Pete sẽ không bao giờ còn làm nên một chuyện như vậy. Giờ đây mỗi khi ông lão bắt đầu làm ồn trong cuộc họp, người ta vỗ về lão và lão yên ngay. Đôi lúc vẫn như xưa, lão đứng dậy, lắc đầu và kêu rằng lão mệt nhưng đó không còn là lời trách móc, lời thú nhận hay lời cảnh cáo – tất cả đã kết thúc; việc đó giống như một cái đồng hồ cũ không còn chỉ được thời gian nữa nhưng vẫn chạy, với những chiếc kim cong queo, các chữ số nhàn nhạt còn tiếng chuông thì tắt ngấm vì han gỉ, cái đồng hồ cũ vô tích sự, tuy vẫn kêu tích tắc và khe khẽ, nhưng đã chẳng còn ý nghĩa gì nữa.

Cả nhóm thi nhau đấu tố Harding bất hạnh đến tận hai giờ.

Đến hai giờ, gã bác sĩ bắt đầu cựa quậy trên ghế. Trong cuộc họp, nếu không được thuyết trình gã không chịu nổi; thà gã ngồi nhà mà vẽ đồ thị còn hơn Gã cựa quậy không yên, cuối cùng ho khục khặc khi đó mụ Y tá Trưởng nhìn đồng hồ và bảo rằng ngày mai chúng tôi sẽ tiếp tục tranh luận vào lúc một giờ, còn bây giờ hãy mang bàn từ phòng tắm trở lại. Tụi Cấp tính nhất loạt thoát ra khỏi trạng thái đờ đẫn, đưa mắt nhìn trộm Harding. Mặt mũi chúng đỏ rực lên vì ngượng, dường như giờ đây mới hiểu rằng thêm một lần nữa chúng bị người ta dắt mũi. Một số đi qua hành lang vào phòng tắm lấy ghế, một số lê bước tới giá sách chăm chú xem mấy số tạp chí McCall’s cũ, nhưng thực ra chỉ muốn tách ra xa Harding. Một lần nữa người ta lại xúi giục chúng chống lại bè bạn, hỏi như hỏi cung, như thể Harding là tội phạm, còn chúng là các công tố viên, quan tòa và thẩm phán. Bốn mươi lăm phút, chúng như muốn xé nát hắn ra, thậm chí còn vui sướng, hỏi hắn nào là, Hắn nghĩ có vấn đề gì nếu hắn không làm thỏa mãn người vợ yêu của hắn? Tại sao hắn lại cố sống cố chết cãi rằng vợ hắn không bao giờ quan hệ với đàn ông? Hắn hy vọng khỏi bệnh bằng cách nào, nếu không trả lời thành thực? Bây giờ chính bọn chúng cũng phát tởm lợm vì những câu hỏi và những lời ám chỉ của mình, do đó chúng không muốn đến gần hắn để phải xấu hổ hơn.

Cặp mắt của McMurphy không ngừng dõi theo tất cả những chuyện đó. Hắn không đứng dậy. Bộ dạng của hắn như đang nghiền ngẫm điều gì. Hắn vẫn tiếp tục ngồi trong ghế bành, theo dõi lũ bệnh nhân Cấp tính, gại gại cỗ bài vào bộ râu rễ tre hung hung dưới cằm, cuối cùng đứng lên, vươn vai ngáp dài, cào cào cạnh các quân bài gãi rốn, sau đó bỏ bài vào túi và bước tới bên Harding đầm đìa mồ hôi đang ngồi lẻ loi cô độc.

Hắn nhìn harding một phút, sau đó tóm lấy cái ghế bên cạnh, quay lưng ghế lại phía Harding, ngồi lên đó như là cưỡi ngựa. Harding vẫn không hề hay biết. McMurphy vỗ vỗ vào túi tìm thuốc lá, rút ra một điếu và châm lửa; hắn giơ điếu thuốc lên trước mặt đăm đăm nhìn, rồi liếm ngón tay và chỉnh lại điếu thuốc theo ý thích.

Hai người có vẻ không để ý nhau. Tôi thậm chí không thể hiểu Harding có nhận ra McMurphy không. Harding hầu như đã hoàn toàn thu mình vào giữa đôi vai, như đôi cánh màu xanh, và ngồi ngay đơ trên mép ghế, tay nhốt giữa hai đầu gối. Hắn nhìn bâng quơ ra phía trước, lẩm nhẩm hát, cố tỏ ra bình tĩnh, song hắn đang cắn phía bên trong hai má làm chúng hóp lại, tạo ra một nụ cười đầu lâu nhăn nhở, nom càng thảm hại hơn.

McMurphy lại cắm điếu thuốc vào răng, khoanh tay trên lưng ghế rồi kê cằm lên đó, nheo nheo một mắt vì khói thuốc. Một mắt hắn nhìn Harding rồi bắt đầu nói, điếu thuốc vẫn nhảy tưng tưng trên môi:

"Này, chú em, ở đây vẫn thường xuyên diễn ra các buổi họp như vậy sao?"

"Thường xuyên?" Harding ngừng hát, và cũng không cắn má nữa nhưng vẫn nhìn bâng quơ ra phía trước qua vai McMurphy.

"Ở đây những cuộc đấu tố vẫn thường xuyên diễn ra theo hình thức này phải không? Cái thứ gà vịt mổ nhau trong sân gia cầm?"

Harding vụt quay đầu và cặp mắt hắn chạm phải McMurphy, dường như bây giờ mới nhận ra có người ngồi trước mặt mình. Hắn lại hóp má vào, mặt như bị đứt ngang ở giữa, có thể tưởng tượng rằng hắn đang cười. Hắn xuôi vai ngồi ngả người ra thành ghế và làm bộ bình tĩnh.

"Gà vịt mổ nhau trong sân gia cầm à? Tôi sợ rằng cái ẩn dụ kỳ cục của ngài đã dùng không đúng chỗ. Tôi hoàn toàn không hiểu ngài đang nói gì?"

"À, thế thì qua sẽ giải thích cho chú em." McMurphy cao giọng; hắn không nhìn những bệnh nhân Cấp tính khác nhưng rõ là cốt nói cho cả họ nghe. "Nếu đàn gà nhận thấy có vệt máu ở một con, chúng liền xúm vào mổ và mổ cho đến tóe máu, tan xương con đó ra. Thường thường trong đám hỗn loạn đó, một vệt máu lại xuất hiện trên con khác và thế là lại đến lượt con vật đó. Sau đó các con khác lại có máu và chúng cũng bị mổ cho đến chết. Cứ vậy trong vòng vài giờ cả bầy gà vịt đi tong, qua đã chính mắt nhìn thấy, chú em ạ. Một cảnh cực kỳ đáng nhìn. Còn nếu như muốn cản lại thì chỉ có mỗi việc là bịt mắt chúng để chúng không nhìn thấy gì nữa."

Harding đan các ngón tay dài trên đầu gối, thu gối lại ngả người ra sau ghế. "Sân gia cầm. Một ví von thú vị, thực tế, anh bạn ạ!"

"Đó chính là điều qua nhớ lại khi dự cuộc hộp của tụi bay, nếu chú muốn biết cái sự thật khó chịu ấy. Thật giống hệt một đàn gà bẩn thỉu."

"Có nghĩa tôi là con gà có vệt máu, hả?"

"Thì còn ai nữa?"

Chúng vẫn cười với nhau như trước nhưng cái giọng của chúng trở nên nhỏ, căng đến nỗi tôi phải lại gần quét dọn để nghe được rõ. Các bệnh nhân Cấp tính khác cũng tiến tới gần hơn.

"Thế chú em có muốn biết một điều khác nữa không? Có muốn biết cú mổ đầu tiên là của ai không?"

Harding chờ hắn tiếp tục.

"Của mụ y tá! Thế đấy."

Tiếng rú sợ hãi rít lên trong im lặng. Tôi nghe thấy máy móc trong tường bắt được tín hiệu và bắt đầu làm việc. Harding khó khăn lắm mới giữ nổi hai tay như cũ, nhưng hắn cố gắng giữ bình tĩnh.

"Té ra là đơn giản vậy đấy," Hắn nói. "Đơn giản đến mức ngu xuẩn. Ngài mới ở trong phân khoa có sáu tiếng đồng hồ mà đã giản lược được thực chất công việc của Freud, Jung và Maxwell Jones và tóm gọn lại trong một cái ví von: gà vịt mổ nhau trong sân gia cầm."

"Qua không nói về Fred Yoong và Maxwell Jones. Qua nói về cuộc họp của tụi bay, qua nói về việc mụ y tá và đám chết tiệt kia đã hành chú em như thế nào, đến nơi đến chốn."
" Hành tôi ư?"

"Đúng, đúng, hành. Người ta đã rửa ruột cho chú em, cạo trắng đuôi và bờm chú em. Chú em đã làm cái gì mà rước lấy cả đàn kẻ thù thế, bởi có cả đàn bám gót chú em."

"Không, thật không thể tin nổi! Ngài hoàn toàn không đếm xỉa đến, không chịu hiểu rằng họ làm tất cả những việc đó là vì tôi! Không chịu hiểu rằng tất cả mọi cuộc bàn cãi, mọi câu hỏi do các nhân viên hoặc bà Ratched đưa ra đều hoàn toàn nhằm mục đích chữa bệnh. Ngài chắc không thèm nghe một lời nào trong bài phát biểu của bác sĩ Spivey về lý thuyết Cộng đồng Trị liệu, hoặc nếu có lắng nghe chăng nữa thì do không đủ tri thức nên ngài không thể hiểu được. Tôi hoàn toàn thất vọng. Sáng nay, khi chúng ta làm quen với nhau ngài tỏ ra thông minh hơn. Vâng, có thể ngài là một thằng ngốc mù chữ, chính xác hơn, một kẻ khoác lác quê mùa và vô cảm như ngỗng, nhưng bản chất vẫn là thông minh. Tuy nhiên không ngoại trừ trường hợp sự phán đoán vẫn thường đúng đắn và sâu sắc của tôi lần này cũng có hơi nhầm lẫn."

"Cút cha mày đi, chú em ạ."

"À vâng, tôi quên nói rằng tính thô lỗ bẩm sinh của ngài cũng đã đập vào mắt tôi. Thái nhân cách cộng thêm xu hướng ưa tàn ác, dựa trên căn bản là lòng ái kỷ mù quáng. Vâng, như ngài thấy, tất cả tài năng thiên bẩm đó hiển nhiên sẽ làm ngài trở thành một điều trị viên tài giỏi và ban cho ngài đủ khả năng để chỉ trích hệ thống của bà Ratched, cho dù bà là một y tá thần kinh có tiếng và đã có hai mươi năm trong nghề. Vâng, với tài năng của ngài, thưa ngài, ngài có thể sáng tạo ra bao điều kỳ diệu trong lĩnh vực tiêm thức, an ủi được cái vô thức khốn khổ, chữa khỏi cái siêu thức đang quằn quại. Có lẽ ngài sẽ chữa được cho cả khoa, cả tụi Thực vật và những loại khác, chỉ cần sáu tháng thôi, thưa quý bà quý ông, nếu không xin hoàn tiền lại."

McMurphy không tranh cãi, chỉ nhìn Harding và cuối cùng hỏi, giọng bình tĩnh. "Thế chú em thực sự nghĩ rằng những buổi họp như của khỉ hôm nay chữa được cho ai đó hoặc mang lại lợi ích gì chăng?"

"Nếu không thì chúng ta tham dự làm gì, thưa ngài thân mến. Nhân viên bệnh viện cũng mong chúng ta khỏe mạnh không kém gì chúng ta. Họ không phải là những kẻ dã man. Cứ cho bà Ratched là một phụ nữ nghiêm khắc và không còn trẻ nữa, nhưng bà ta hoàn toàn chẳng phải là một quái vật trong sân gia cầm chỉ chực mổ vào mắt chúng ta. Chắc ngài không nghi ngờ bà ta điều đó?"

"Điều đó thì không. Bà ta không mổ vào mắt các chú em, chú em ạ. Bà ta không mổ cái đó."

Harding rùng mình và tôi thấy hai tay của hắn kẹp giữa đầu gối bắt đầu bò ra như hai con nhện trắng giữa hai khúc cây mốc meo, dọc lên đến điểm hai khúc cây nhập một.

"Không phải vào mắt?" Hắn hỏi. "Thôi xin ngài, thế bà Ratched mổ vào cái gì?"

McMurphy nhếch mép cười. "Thế chú em không biết sao?"

"Tất nhiên, tôi không biết! Nhưng nếu ngài..."

"Hòn dái của chú em đấy, chú em ạ, vào hai hòn dái vàng ngọc của chú em."

Hai con nhện đã tới giao điểm hai thân cây và dừng lại ở đấy mà run rẩy. Harding cố cười, mặt và môi hắn trắng bệch ra đến nỗi không nhìn ra nụ cười nữa. Hắn nhìn trừng vào McMurphy. McMurphy rút điếu thuốc khỏi miệng và nhắc lại.

"Vào chính hòn dái của chú em. Không, chú em, bà y tá của các chú em chẳng phải con quái vật gà gì đâu, bà ta là kẻ cắt dái. Qua đã thấy hàng nghìn người như vậy, cả già, cả trẻ, đàn ông, đàn bà. Qua đã thấy cả trên đường phố lẫn trong nhà – những người đó muốn làm cho chú em yếu ớt đi để dễ bề giam cần chú em trong khuôn khổ, thực hiện các quy tắc của họ, sống như họ sai khiến. Nhưng thực hiện việc đó thế nào để có hiệu quả nhất, làm thế nào để trói buộc chú em? Chỉ có cách đánh chú em vào chỗ đau nhất. Đã bao giờ trong khi gây lộn có kẻ thúc gối vào háng chú em chưa? Cứ như la chặt ngang người, đúng không? Không gì đau hơn. Không còn một tí sức lực nào nữa. Nếu cái đứa chống lại chú em muốn thắng chú em không phải do nó khỏe hơn mà bằng cách làm cho chú em yếu đi, lúc đó chú em cần theo dõi đầu gối của nó, nó sẽ đánh vào chỗ đau nhất đấy. Thế đấy, cái con chim ăn xác thối già cỗi của các chú em đang làm như vậy đấy, đánh vào chỗ đau nhất."

Mặt Harding vẫn trắng bệch như cũ, nhưng hắn đã kiểm soát được hai bàn tay, chúng mơ hồ vung lên trước mặt hắn xua xua những lời của McMurphy:

"Bà Ratched đáng yêu của chúng ta? Mẹ Ratched nhỏ bé dịu hiền của chúng ta, thiên thần tốt bụng ấy, lại là kẻ cắt dái ư? Hoàn toàn không thể thế được, anh bạn ạ!"

"Qua không cần lời ca về bà mẹ nhỏ bé dịu hiền đó đâu, chú em! Có thể mụ ta là mẹ thật nhưng mụ bự như cái máy ủi và sắt đá như là cái búa tạ ấy. Và hôm nay, bằng cái tiết mục mẹ già phúc hậu đó, mụ đã đánh lừa được qua khoảng ba phút khi qua tới đây đấy, nhưng không hơn. Và qua cũng không nghĩ rằng mụ đã thực sự dắt mũi được ai trong số các chú em dù là một năm hay nửa năm. Ôi, qua đã thấy bao nhiêu là chó cái trong đời mình, nhưng đây là con gian xảo hơn cả."

"Chó cái à? Nhưng một phút trước đây bà ta còn là kẻ cắt dái, sau đó lại là con chim ăn xác thối... hay là gà mái xề? Những so sánh của ngài thật là cứ choảng nhau lung tung cả lên."

"Thì cứ kệ cha chúng. Mụ vừa là chó cái và là chim ăn xác thối và là kẻ cắt dái. Chẳng phỉnh phờ qua được đâu, chú hẳn biết là qua đang nói về cái gì."

Hai tay và bộ mặt của Harding càng biến đổi nhanh hơn: cử chỉ, điệu cười mát, vẻ vờ vịt thay đổi liên tục như trong phim chiếu nhanh. Hắn càng cố gắng dừng lại thì chúng càng biến đổi nhanh hơn. Khi hắn cho phép chúng chuyển động thoải mái, không kiềm chế, thì cử chỉ và nét mặt của hắn chuyển động theo những đường đẹp mắt là khác, nhưng khi hắn nghĩ đến chúng, cố gắng kiềm chế chúng theo ý muốn thì hắn biến thành một con rối đang bị giật dây nhảy một điệu hoang dại. Hắn ngày càng giật cục nhanh hơn và giọng nói cũng gấp gáp không kém.

"Hãy nghe đây, ngài McMurphy, bạn thân và đồng nghiệp thần kinh của tôi, bà Ratched của chúng ta là một thiên thần tốt bụng thực sự, điều đó tất cả đều biết. Bà ta vô tư như ngọn gió, ngày này qua ngày khác làm công việc nhọc nhằn của mình vì tập thể năm hôm liền trong một tuần. Để làm được điều đó, bạn thân mến ạ, cần phải có lòng dũng cảm, rất dũng cảm. Ngoài ra, tôi còn được biết từ những nguồn tin cậy; tôi không được phép tiết lộ những người ấy nhưng có thể cho biết Martini cũng có quan hệ với họ suốt một thời gian dài – rằng trong những ngày nghỉ bà ta vẫn tiếp tục phục vụ nhân loại, thực hiện các công tác xã hội trong thành phố, không lấy tiền công. Bà ta chuẩn bị các loại quà tặng đắt tiền – đồ hộp, pho mát chua, xà phòng – và đem tặng đôi vợ chồng nghèo nào đó đang trong thời kỳ gặp khó khăn." Hai tay hắn loa lên trong không khí vẽ nên bức tranh như sau: "Ôi các ngài hãy nhìn xem. Bà ấy đấy, người chị của chúng ta đấy. Bà nhẹ nhàng gõ cửa. Cái giỏ bọc trong tấm lụa điều. Đôi vợ chồng trẻ tê dại đi vì sung sướng. Chồng há hốc mồm, vợ khóc nấc lên, không giấu giếm. Bà nhìn căn phòng của họ. Bà hứa sẽ gửi tiền cho họ để mua... xà phòng bột, phải. Bà đặt cái giỏ xuống giữa phòng. Và khi thiên thần của chúng ta đi ra; với những cái hôn gió và nụ cười thánh thiện – bà đã say lảo đảo vì sữa ngọt của tình hữu ái nồng cháy tạo thành trong bộ ngực vĩ đại của mình, bà choáng váng vì lòng độ lượng. Bà đã choáng váng, các ngài có nghe thấy không? Dừng lại trên ngưỡng cửa, bà còn gọi lại người vợ trẻ đang ngượng ngùng, đưa cho cô ta hai mươi đô la từ chính hầu bao của mình: ‘Hãy đi mua lấy một chiếc áo đàng hoàng mà mặc, cháu gái nghèo nàn, bất hạnh của ta ạ. Ta biết chồng cháu chẳng thể nào đủ tiền để làm việc đó. Đây tiền cho cháu đây, cầm lấy và đi mua áo đi.’ Và đôi vợ chồng trẻ biết ơn bà suốt đời vì hành động hào hiệp đó."

Hắn nói mỗi lúc một nhanh, các dây thanh đới căng ra trong họng. Rồi hắn thôi, trong phòng yên lặng như chết. Tôi chẳng còn nghe thấy một tiếng động nào ngoài tiếng sột soạt của băng từ quay đâu đó. Có lẽ, người ta đang ghi tất cả vào băng.

Harding nhìn quanh, thấy mọi người đang nhìn mình bèn rặn ra một tiếng cười. Tiếng cười nghe cứ như tiếng người ta nhổ đinh ra khỏi tấm gỗ thông tươi – iii – iii – iii. Hắn nheo nheo đôi mắt vì cái tiếng kêu the thé đó, nhưng không thể ngừng được. Tiếng cười cứ vang lên the thé, và cuối cùng hắn nấc lên. Hắn gục đầu xuống lòng bàn tay.

"Đồ chó cái, chó cái, chó cái." Hắn lẩm bẩm qua kẽ răng.

McMurphy châm điếu thuốc nữa và chìa ra cho hắn. Harding cầm lấy không nói một lời. McMurphy tiếp tục quan sát bộ mặt Harding một cách ngạc nhiên, chăm chú, tựa như lần đầu tiên trong đời nhìn thấy mặt người. Hắn vẫn nhìn đến lúc Harding dần dần thôi co giật và cuối cùng chậm chạp ngẩng đầu lên.

"Ngài nói đúng," hắn gật đầu, "từ đầu chí cuối." Hắn đưa mắt nhìn các con bệnh khác. Tất cả đều đang nhìn hắn. "Chưa có ai dám cả gan nói điều đó, nhưng không ai trong chúng tôi không nghĩ như ngài, không giấu giếm tình cảm đó trong tâm hồn sợ hãi của mình về bà ta và toàn bộ chỗ này."

McMurphy cau mày hỏi, "Thế cái gã bác sĩ làm quái gì ở đây? Hắn ta có thể hơi đần, nhưng phải nhìn thấy mụ ta làm gì và đang quay mọi người như thế nào ở đây chứ!"

Harding rít một hơi thật dài và phà khói ra mà nói, "Bác sĩ Spivey... cũng giống như chúng tôi: ông ta thừa biết sự kém cỏi của mình. Cái chú thỏ đáng thương, khiếp nhược, bất lực đó hiểu rằng mình không có khả năng lãnh đạo khoa nếu không có bà Ratched giúp sức. Khốn nạn hơn nữa, bà ta cũng hiểu rằng ông ta hiểu điều đó và cứ có dịp là lại nhắc ông ta. Ngài hãy tưởng tượng, hễ tìm ra một sơ suất nào trong sổ tay hay trong các biểu đồ là bà ta lập tức gí mũi ông ta vào đó."

"Đúng đấy!" Đó là Cheswick đang bước tới. "Bà ta cứ gí mũi chúng tôi vào những sai lầm của chúng tôi."

"Thế sao ông ta không đuổi bà ta đi?"

"Trong cái bệnh viện này, bác sĩ không có quyền thuê và đuổi việc." Harding nói. "Chỉ có thanh tra làm điều đó. Còn thanh tra lại là một phụ nữ, bạn cũ của bà Ratched; trong những năm ba mươi họ cùng làm y tá trong quân đội. Chúng ta là vật hy sinh cho chế độ mẫu hệ, anh bạn ạ, và ông bác sĩ cũng bất lực như chúng ta. Ông biết rằng, bà ta chỉ cần nhấc ống điện thoại, mà ngài thấy ở ngay cạnh tay bà ta đấy, gọi cho bà thanh tra và trong lúc nói chuyện buông ra một câu, ví dụ như, ông bác sĩ dạo này hình như yêu cầu nhiều Demerol quá..."

"Khoan, Harding, qua không hiểu hóa học."

"Demerol là một loại ma túy tổng hợp, anh bạn ạ, và gây ra hiệu ứng nhanh gấp hai lần so với heroin. Phần lớn giới bác sĩ đều dính nó."

"Chẳng nhẽ tay bác sĩ này nghiện xì ke?"

"Tôi chẳng biết."

"Thế làm sao kết tội ông ta..."

"Ngài không chú ý nghe, anh bạn ạ. Bà ta không kết tội. Bà ta chỉ cần ám chỉ, thế thôi, ngài có hiểu không. Hôm nay ngài không nhận thấy gì à? Gọi một người đến, bắt đứng ở cửa phòng trực và hỏi sao người ta lại tìm thấy giấy Kleenex dưới giường anh ta. Chỉ hỏi thế thôi. Và thế là kẻ đáng thương sẽ cảm thấy mình không thành thực, dù hắn có bảo gì. Nếu nói là để lau bút máy thì bà ta nói: ‘Hiểu rồi, để lau bút máy,’ còn nếu hắn ta bị sổ mũi thì: ‘Hiểu rồi, bị sổ mũi hả,’ rồi bà ta gật cái đầu chải cẩn thận, nở một nụ cười cũng cẩn thận như thế, quay gót vào phòng kính, còn con bệnh thì sẽ đứng đấy mà nghĩ không hiểu hắn đã làm gì với tờ giấy lau ấy."

Harding lại rung người lên và hai vai gập lại.

"Không, bà ta buộc tội làm gì. Bà ta là thiên tài về ám chỉ. Hôm qua ngài có nghe bà ta buộc tội một lần nào không, trong buổi họp? Thế mà dường như tôi bị buộc cho hàng lô tật xấu, ghen tuông, hoang tưởng, bị buộc cho tội không làm thỏa mãn vợ, có quan hệ với đám bạn đàn ông, tội cầm điếu thuốc một cách điệu bộ, thậm chí, theo cảm tưởng của tôi, cả tội giữa hai chân tôi không có gì ngoài một dúm lông, mà là dúm lông con con, trăng trắng và mềm mềm như tơ! Con mụ cắt dái ấy à? Ô, ngài chưa đánh giá hết mụ ta!"
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 8
Harding bất ngờ im lặng, cúi xuống và hai tay nắm lấy tay McMurphy. Trong cái tư thế nghiêng nghiêng lạ lùng đó mặt hắn trông nhọn hoắt với các góc cạnh màu đỏ xám nom hệt như mảnh chai vỡ.

"Thế giới... thuộc về kẻ mạnh, anh bạn ạ. Quy luật tồn tại của chúng ta là kẻ mạnh càng mạnh thêm, ăn tươi nuốt sống kẻ yếu. Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật. Nó phải như vậy, không cần bàn cãi gì nữa. Chúng ta phải học lấy cách tiếp nhận nó như một quy luật tự nhiên. Con thỏ phải nhận vai của mình và phải thừa nhận con sói mạnh hơn. Nó tự vệ bằng cái láu lỉnh, sợ hãi và tháo vát, đào lấy hang và sẽ trốn vào đây khi chó sói đến gần. Và nó chịu đựng, nó sống theo cách đó. Nó biết vị trí của mình. Không bao giờ đánh nhau với chó sói. Chẳng lẽ như thế không khôn ngoan? Chẳng lẽ lại không?"

Hắn buông tay McMurphy, thẳng người lên và bắt chân chữ ngũ, lại kéo một hơi thuốc dài. Sau đó hắn bỏ điếu thuốc khỏi cái miệng mím lại và một lần nữa lại cười – iii – iii – iii, như nhổ đinh từ tấm gỗ thông tươi.

"Ngài McMurphy, anh bạn của tôi... tôi không phải là gà, tôi là con thỏ. Ông bác sĩ cũng là thỏ. Thằng Cheswick đây nữa cũng thỏ, Billy Bibbit cũng thỏ. Chúng tôi ở đây là thỏ các loại và tuổi tác khác nhau, nhảy tưng tưng trong thế giới Walt Disney. Nhưng xin ngài hãy hiểu cho đúng, chúng tôi ở đây không phải vì chúng tôi là thỏ, ở đâu thì chúng tôi cũng là thỏ thôi – chúng tôi ở đây vì chúng tôi không thể thích ứng với địa vị thỏ của mình. Chúng tôi cần một con sói mạnh được việc kiểu như mụ y tá này để học lấy vị trí của mình."

"Chú em nói như một thằng ngốc vậy. Tức là cứ ngồi xếp tứ chi lại mà đợi cái con mụ tóc xanh tới bảo ban chú em cho tới lúc chú em tin mình là thỏ sao?"

"Không, mụ ta sẽ chẳng phải bảo. Tôi sin ra là thỏ. Hãy nhìn tôi đây này. Tôi cần mụ để tôi được hạnh phúc với vị trí của mình."

"Mẹ kiếp, chú em không phải là thỏ!"

"Ngài nhìn thấy đôi tai đây không? Còn mũi thì đang động đậy đấy, và cái đuôi bông trắng nõn..."

"Chú em nói như thằng điên..."

"Thằng điên? Ôi, thật là một phát kiến."

"Cút cha chú em đi, Harding, qua không nói về chuyện đó. Không phải điên kiểu thế. Với ý nghĩa là... quỷ tha ma bắt đi cho rồi. Qua ngạc nhiên là sao tụi bây ở đây bình thường thế. Các chú em ở đây không điên hơn bất cứ một kẻ cầu bơ cầu bất ngoài phố."

"Thế đấy, đứa cầu bơ cầu bất ngoài phố."

"Nhưng, chú em hiểu không, không điên giống như trên phim người ta chiếu những thằng điên... Còn các chú em thì hơi trầm... kiểu như..."

"Kiểu như lũ thỏ, phải không?"

"Chẳng thỏ chút nào! Thỏ gì ở đây, quỷ tha ma bắt chú em đi."

"Bibbit, hãy nhảy tưng tưng cho ngài McMurphy thấy. Còn Cheswick, chỉ cho ngài thấy cậu có bộ lông mượt mà như thế nào."

Billy Bibbit và Cheswick biến thành những con thỏ trắng ủ rũ ngay trước mắt tôi, nhưng bọn chúng ngượng không dám làm điều Harding sai khiến.

"Ôi, chúng xấu hổ, ngài McMurphy ạ. Thật đáng yêu, phải không các bạn? Cũng có thể chúng ngượng vì đã không bảo vệ bạn bè. Có thể chúng cảm thấy có lỗi vì đã bị người ta dắt mũi một lần nữa để làm tay sai cho mụ. Đừng buồn phiền, các bạn, các bạn chẳng có gì xấu hổ. Tất cả đều đúng lý thôi. Thỏ không ở địa vị có thể bao che cho đồng loại. Làm thế là ngu ngốc. Các bạn đã hành động khôn ngoan – hèn nhát, nhưng khôn ngoan."

"Harding, nghe đây," Cheswick nói.

"Không, không, Cheswick, đừng có tức giận vì sự thực."

"Nhưng nghe đây, cũng đã có thời tao nói về mụ ấy như McMurphy bây giờ đang nói."

"Đúng, nhưng cậu nói rất nhỏ và sau đó nuốt luôn lời của mình. Cậu cũng là thỏ, đừng có quay lưng lại với sự thật. Chính vì thế mình không giận cậu vì những câu hỏi cậu đã đưa ra ở cuộc họp. Cậu chỉ thực hiện vai trò của cậu mà thôi. Nếu người ta có kéo cậu ra xử trảm hay là cậu, Billy, hay là cậu, Fredrickson, thì mình cũng sẽ nhào vào các cậu, không thương tiếc, thế thôi. Chúng ta không được xấu hổ vì hành động của chúng ta: chúng ta là những động vật ti tiện và chúng ta cũng phải cư xử ti tiện như vậy."

Ngồi sâu trong ghế bành McMurphy quay sang hết bên này lại bên kia và nhìn các con bệnh Cấp tính. "Qua không hiểu tại sao chúng ta lại không phải xấu hổ. Ví dụ như qua, qua cảm thấy ghê tởm khi cả phòng bệnh cùng với mụ ta xông vào xát muối chú em. Qua có cảm giác như lại rơi vào trại tù binh Đỏ bên Tàu một lần nữa..."

"Này, vì Chúa, nghe đây, ngài McMurphy!" Cheswick nói.

McMurphy quay lại và lắng nghe, nhưng Cheswick không nói tiếp. Cheswick không bao giờ nói tiếp; hắn ta là một trong những đứa thích làm ầm ĩ như sắp xông lên trước cả bọn và hô xung phong, nhưng té ra lại giẫm chân tại chỗ, bước ba bước và nằm xuống. Thấy hắn cụt hứn ngay sau câu đầu to tát đó, McMurphy nói: "Thật đúng hệt như trại tù binh Tàu."

Harding giơ tay kêu gọi hòa bình. "Không, không, không, điều đó không đúng. Đừng có lên án chúng tôi, anh bạn. Không! Ngược lại..."

Tôi lại thấy ánh mắt của Harding bừng bừng, láu lỉnh; hắn sắp phá lên cười đây! Nhưng không, hắn chỉ rút điếu thuốc trong miệng ra và chỉ vào McMurphy – trong tay hắn điêu thuốc giống như một ngón tay nhỏ, trắng, đang tỏa khói.

"... cả ngài, ngài McMurphy, với toàn bộ vẻ huênh hoang cao bồi và khoác lác chợ phiên, đằng sau bề ngoài thô bạo đó, biết đâu ngài cũng là con thỏ đầy lông lá và quặt quẹo."

"Thế đấy, qua là một con thỏ xù đuôi. Nhưng rốt cuộc thì tại sao qua lại là thỏ? Bởi vì qua bị bệnh thái nhân cách? Bởi vì qua đánh lộn hay vì qua là đồ chó dái? Có lẽ bởi vì qua là đồ chó dái, phải không? Cái món xáp lá cà bái cô em tôi phới. Phải rồi, cái màn xáp lá cà ấy, à có lẽ vì vậy mà qua là thỏ..."

"Khoan, tôi e rằng ngài đã đưa ra một vấn đề cần phải suy nghĩ chút ít. Thỏ vốn nổi danh vì chính đặc điểm ấy, phải không nào? Mang lấy tiếng xấu nữa là khác. Phải. Chà. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào thì điều mà ngài nêu ra cũng chỉ cho thấy ngài là con thỏ khỏe mạnh, lành lặn và hăng hái, trong khi chúng tôi thiếu cả khả năng sinh lý để thành lũ thỏ lành lặn. Những kẻ bỏ đi – các đại biểu còi cọc ốm yếu của một dân tộc quặt quẹo. Thỏ trừ đi khả năng xáp lá cà, khốn nạn biết mấy."

"Chờ chút! Chú em luôn luôn xáo nhào lời của qua lên..."

"Không! Ngài đúng! Ngài nhớ cho, chính ngài đã làm chúng tôi chú ý tới cái chỗ mà mụ y tá muốn mổ vào. Ngài đã không nhầm. Ở đây ai cũng sợ sắp bị mất đi hay đã bị mất đi rồi khả năng đó của mình. Chúng tôi, những sinh vật nực cười, cũng không thể trở thành đàn ông, thậm chí trong thế giới loài thỏ, chúng tôi yếu ớt thảm thương thế đấy. Ôi, chúng tôi, có thể nói, là lũ thỏ giữa đám thỏ."

Hắn lại cúi đầu về phía trước cà tiếng cười khe khẽ căng thẳng mà giờ tôi đã đoán trước lại bật ra từ miệng hắn, hai bàn tay huơ huơ lên, giần giật.

"Harding! Câm cái mồm đi!"

Như bị một cái tát, Harding tưng hửng, ngừng bặt tiếng cười giữa chừng, đôi môi còn hả ra, tay vẫn còn treo trong đám khói thuốc lá xám xịt. Hắn đờ ra như thế đến mấy giây; sau đó nheo mắt thành hai cái khe nhỏ tí, liếc sang McMurphy, hắn nói nhỏ đến nỗi tôi phải đưa bàn chải lau sàn đến sát ghế hắn ngồi mới nghe được.

"Anh bạn... ngài có thể là sói chăng?"

"Qua chẳng sói sọt gì ở đây cả và chú em cũng không phải là thỏ. Khỉ thật, chưa bao giờ nghe thấy chuyện như vậy..."

"Nhưng anh bạn gầm như chó sói vậy."

McMurphy thở phì một cái rõ to, quay về phía các bệnh nhân Cấp tính đã đứng thành vòng quanh hắn: "Này, các chú em! Các chú em làm sao vậy, mẹ kiếp! Chẳng nhẽ các chú em lại điên đến mức xem mình là động vật ư?"

"Không." Cheswick nói và đứng cạnh McMurphy. "Tôi thì không. Tôi không phải chó, mẹ kiếp!"

"Tuyệt, Cheswick. Còn các chú em? Kết thúc công chuyện đi xem nào. Làm sao đến nỗi phải chạy té khói vì một mụ già năm mươi tuổi như vậy? Mụ ta làm gì được các chú em chứ?"

"Ừ, làm gì được chứ?" Cheswick nói lừ lừ nhìn bọn còn lại.

"Mụ ta không thể dùng roi quất các chú, không thể đốt các chú bằng sắt nung. Không thể trói các chú vào bàn phanh thây. Bây giờ đã có luật chứ không phải như thời Trung cổ. Mụ ta không thể..."

"A...a... Anh nhìn thấy m... mụ ta làm được gì rồi đấy! Hôm nay trong cuộc h... họp..." Billy Bibbit đã biến từ thỏ lại thành người. Hắn cúi xuống McMurphy, muốn nói cái gì đó, nước bọt phun ra trên môi, mặt đỏ bừng. Sau đó hắn quay ra và đi khỏi. "A, a, v... vô ích. Chết qu... quách còn hơn."

McMurphy gọi theo: "Trong cuộc họp ư? Qua nhìn thấy gì trong cuộc họp hử? Chẳng nhìn thấy quái gì hết. Mụ đặt ra hai câu hỏi cởi mở, nhẹ nhàng. Không phải là gậy, không phải là đá, câu hỏi không thể làm gãy xương được."

Billy quay lại. "Nhưng cái c... c... cách mụ ta đưa... đưa ra...!"

"Chú em không bắt buộc phải trả lời kia mà?"

"Nếu kh... không trả lời, mụ ta cười mỉm, đánh dấu vào sổ và s... sau đó... mẹ kiếp!"

Scanlon bước tới Billy: "Nếu anh không trả lời câu hỏi, Mack ạ, anh đã thú nhận điều đó rồi đấy. Cái bọn nhân viên nhà nước súc sinh ấy đè anh bẹp gí bằng cách đó và anh sẽ chẳng làm gì được hết. Điều duy nhất anh có thể làm nổi là nổ tung cả cái cơ ngơi này lên, cái lũ lợn ấy... nổ tung tuốt tuồn tuột."

"Được rồi, cứ cho là mụ hỏi chú, sao chú không bảo mụ cuốn xéo đi cho khuất?"

"Ừ," Cheswick nói, giơ nắm đấm ra đe dọa, "bảo mụ cuốn xéo đi cho khuất!"

"Thế thì có hơn gì đâu, hả Mack? Lúc đó mụ sẽ bảo "Sao ông lại bất bình với câu hỏi đ-ơ-n-g-i-ả-n ấy, Bệnh nhân McMurphy?"

"Thì chú em lại bảo mụ cuốn xéo đi. Bảo cả lũ nó cuốn xéo đi. Người ta cũng không đánh chú cơ mà?"

Các con bệnh Cấp tính tụ tập quanh hắn. Bây giờ thì Predrickson trả lời. "Ông bạn có thể bảo mụ thế nhưng người ta sẽ xếp ông bạn vào loại Hung bạo Tiềm tàng và nhốt vào phòng Điên trên lầu. Tôi đã bị như vậy. Ba lần! Những kẻ ngu ngốc bất hạnh đó thậm chí không được ra ngoài em phim vào Chủ nhật. Tivi cũng chẳng có."
"Đúng, anh bạn ạ, nếu cứ tiếp tục biểu hiện thù địch như kiểu bảo người ta cuốn xéo đi, thì anh sẽ xếp hàng vào phòng Đột Tử, và có thể còn bị đưa đi xa hơn, đến bác sĩ phẫu thuật..."

"Khoan, Harding, qua đã nói là qua không nghe được bài ca của chú..."

"Phòng Đột Tử, ngài McMurphy, đó là tiếng lóng gọi cái máy LSĐ – Liệu pháp gây sốc điện. Có thể nói, cái máy thực hiện công việc của thuốc ngủ, của ghế điện và bàn phanh thây cộng lại. Đấy là một quy trình nho nhỏ, khéo léo, đơn giản và rất ngắn gần như không đau nhưng không ai muốn đến đó lần thứ hai. Không ai hết."

"Thế người ta làm gì ở đấy?"

"Người ta kẹp anh vào một cái bàn hình thập tự, thật là khôi hài, chỉ có điều trên đầu là vành điện cực thay cho vương miện gai. Dây dẫn bắt vào đầu từ hai phía. Phựt! Năm xu điện vào đầu, thế là vừa chữa bệnh cho anh, vừa trừng phạt thái độ thù địch cuốn xéo đi của anh, chưa kể dẹp được anh khỏi quẩn chân người khác từ sáu giờ đến ba ngày, tùy theo thể trạng của anh. Lúc tỉnh lại anh còn phải mất mấy ngày trong trạng thái mất phương hướng. Anh không thể suy nghĩ mạch lạc được. Quên tịt nhiều thứ. Và chỉ cần sau một cơ số lần thì có thể làm cho anh thành ra như Ellis, như anh thấy trên tường đó. Ba mươi nhăm tuổi bọt mép đã sùi ra, quần đã ướt đầm đìa. Hay là thành cái cơ thể không trí tuệ như Ruckly chỉ có ăn, ỉa đái và hét tướng lên ‘đ mẹ... con vợ!". Hay là như Thủ lĩnh Bàn chải cạnh các anh, suốt ngày ôm bàn chải."

Harding chỉ điếu thuốc vào tôi, tôi không kịp lùi lại nữa. Làm ra vẻ không biết gì tôi lại tiếp tục lau sàn nhà.

"Tôi nghe nói hồi mà máy còn đang mốt, nhiều năm rồi hắn đã nhận được trên hai trăm lần điều trị. Hãy tưởng tượng xem, đầu óc hắn vốn đã trật đường rầy sẵn rồi sẽ như thế nào. Nhìn hắn kìa: người quét rác vĩ đại. Trước mặt các anh là điển hình của Mỹ châu tuyệt chủng, một cái máy lau nhà cao hai mét và sợ từ cái bóng của mình trở đi. Người ta dọa chúng tôi bằng gương đấy, anh bạn của tôi ạ!"

McMurphy nhìn tôi, sau đó quay sang Harding: "Sao các chú em lại chịu được như vậy? Thế thì hôm nay tay bác sĩ còn nói dân chủ dân chiếc làm gì nữa? Sao các chú không tổ chức bỏ phiếu?"

Harding mỉm cười với hắn và từ từ kéo một hơi thuốc. "Bỏ phiếu chống cái gì, anh bạn? Để cho mụ y tá mất quyền đặt câu hỏi trong cuộc họp sao? Để cho mụ ta không được nhìn chúng tôi như trước sao? Ngài McMurphy, ngài hãy nói cho biết bỏ phiếu chống cái gì nào?"

"Quỷ quái thật, có gì khác nhau đâu, chống bất cứ cái gì. Chẳng nhẽ lại không hiểu, các chú em cần phải tỏ ra các chú còn chưa mất hết can đảm. Chẳng nhẽ lại không hiểu, không được để cho mụ ta ngồi lên đầu các chú. Hãy nhìn xem, chú em nói Thủ lĩnh sợ từ cái bóng sợ đi, nhưng qua, quả thực, từ lúc cha sinh mẹ đẻ chưa thấy cái tập thể nào nhát sợ như thế này."

"Tôi không sợ," Cheswick nói.

"Chú thì có thể không, nhưng những kẻ khác thậm chí há mồm và cười lên cũng sợ. Các chú có biết bệnh viện này làm qua ngạc nhiên trước nhất về cái gì không? Đó là không ai cười. Từ khi bước qua cửa vào đây, qua không nghe thấy một tiếng cười bình thường nào, hiểu không? Ai không biết cười, người đó mất chỗ dựa. Nếu một thằng đàn ông đã cho phép đàn bà xoay cho đến mức không còn cười được nữa, thì hắn ta đã làm mất át chủ bài của mình rồi. Và chưa kịp ngoảnh lại, hắn đã nghĩ rằng mụ ta mạnh hơn hắn, và..."

"Ồ, té ra anh bạn đã bắt đầu hiểu ra, các anh em thỏ ạ. McMurphy, ngài hãy nói xem làm thế nào để tỏ ra đàn bà biết ai trong chúng ta là người cầm đầu, mà tôi không muốn nói là cười vào mũi mụ ta? Làm thế nào để chỉ cho mụ ta, ai là chúa sơn lâm? Một người như ngài cần phải biết câu trả lời. Ngài sẽ không lột da mụ ta chứ? Nếu không mụ sẽ gọi cảnh sát. Ngài cũng đừng có quát tháo và nổi điên lên trước mặt mụ: mụ sẽ thắng bằng cách xoa đầu ngài như xoa đầu đứa bé đang ăn vạ: ‘Ôi, cậu lại dỗi rồi hả? Chẳng nhẽ cơn giận của ngài lại không trở nên ngu xuẩn trước sự an ủi như vậy hay sao? Thế đấy, anh bạn ạ, cũng giống như ngài vừa nói lúc nãy: đàn ông có một thứ vũ khí duy nhất chống lại được cái quái thai của chế độ mẫu hệ hiện đại này, nhưng đó hoàn toàn không phải là tiếng cười. Trong cái xã hội điêu luyện này càng ngày càng có nhiều người biết làm cho vũ khí duy nhất ấy yếu đi và biết cách chiến thắng những người trước đây đã từng là kẻ chiến thắng..."

"Mẹ khỉ, Harding, nhưng cứ nói đi!"

"... Và ngài nghĩ rằng với tất cả năng lực thái nhân cách hiển hách của mình, ngài có thể vận dụng vũ khí đó chống lại bà chúa tể của chúng tôi được sao? Ngài nghĩ rằng có thể dùng nó để chống lại nữ thánh đồng trinh Ratched được sao? Không bao giờ!"

Bằng một cử chỉ khoáng đạt, hắn chỉ vào phòng kính. Tất cả mọi người đều quay về hướng ấy. Mụ ta vẫn ở đấy, nhìn qua lớp kính và đang ghi hết vào băng từ bí mật, đã tính được nên đưa vào nhật biểu ra sao.

Mụ y tá thấy tất cả quay về mình thì gật đầu, và bọn chúng lại quay đi. McMurphy nhấc mũ và đưa cả hai tay lên mớ tóc đỏ. Bây giờ cả bọn lại nhìn hắn, đợi xem hắn trả lời sao và hán cũng hiểu điều đó. Cảm thấy đang sa vào một cái bẫy nào đó, đội mũ lên và gãi vết khâu trên mũi, hắn nói:

"Nếu chú em hỏi qua có thể cấu véo con mụ ăn xác thối đó không thì qua xin nói qua nghĩ là không..."

"Nhưng mụ ta không hề xấu, McMurphy. Khuôn mặt dễ nhìn và vẫn giữ được vẻ trẻ trung. Còn mặc dù mụ đã cố gắng che đi dưới bộ đồ vô giới tính kia, chúng ta vẫn thấy ra một bộ ngực quá nổi bật. Thời trẻ chắc mụ ta là một phụ nữ đẹp. Dẫu sao, chỉ trên lý thuyết thôi, ngay cả nếu như mụt anh còn trẻ và đẹp như Helen thànhTroythì ngài có thể làm được cái việc đó không?"

"Qua không biết Helen, nhưng qua hiểu chú em định nói gì. Lạy Chúa, chú em nói đúng đấy. Với cái mõm lạnh tanh đó thì không thể làm được gì, cho dù mụ ta có đẹp như Marilyn Monroe."

"Đấy – đấy! Thế là mụ ta thắng rồi."

Thế là xong. Harding ngả người ra trên ghế cùng đám bệnh nhân Cấp tính đợi xem McMurphy nói gì. McMurphy biết mình đã bị dồn vào góc. Hắn nhìn cả bọn một phút sau đó nhún vai, đứng dậy:

"Quỷ tha ma bắt mụ ta đi, chẳng quan hệ đếch gì đến qua."

"Tất nhiên, chẳng quan hệ đếch gì."

"Quỷ quái ạ, qua không muốn mụ già thết đãi qua ba nghìn vôn. Chưa kể qua chẳng kiếm được gì từ đó ngoài cái liều."

"Chính thế."

Harding đã thắng trong cuộc cãi vã này nhưng điều đó chẳng làm ai vui mừng. McMurphy đút hai ngón tay cái vào túi và cố rặn ra cười.

"Không, các chú em, qua chưa bao giờ nghe nói có ai treo giải hai chục khúc xương để bỏ túi một mụ hoạn dái cả."

Tất cả đều nhăn răng ra cười theo hắn, nhưng chẳng có gì đặc biệt vui thú. Tôi mừng rằng McMurphy đã quyết định sẽ ranh mãnh và sẽ không bị kéo vào cái câu chuyện có kết thúc chẳng hay ho gì, nhưng tôi cũng biết những đứa khác có cảm giác như thế nào, bởi vì bản thân tôi cũng chẳng vui vẻ gì. McMurphy lại đốt thuốc lá. Không ai nhúc nhích. Tất cả đứng vòng quanh hắn và mỉm cười bối rối. McMurphy lại khịt mũi, quay khỏi các con bệnh, nhìn ra sau, về phía mụ y tá và cắn môi.

"Nhưng, chú em nói... mụ chưa đưa ta tới cái nhà đó khi còn chưa làm cho ta phát điên lên, đúng không? Khi mà chú em còn chưa lồng lên, chửi rủa mụ ta, đập vỡ kính và vân vân... đúng không?"

"Đúng rồi, chỉ có lúc ấy."

"Không, chú phát biểu chính xác vào? Bởi vì trong đầu qua mới xuất hiện ý nghĩ làm thế nào vặt lông các chú chút xíu. Nhưng biến thành chó thui thì qua cũng không muốn. Qua trầy vi tróc vẩy mới thoát khỏi cái ổ kia: tránh vỏ dưa gặp vỏ dưa thì cũng không nên lắm."

"Hoàn toàn chính xác. Nếu ngài không làm điều gì hung dữ hoặc gây rối đến mức phải nhốt vào phòng cách ly hoặc LSĐ thì mụ ta đành bó tay."

"Nghĩa là nếu qua đối xử tốt và không chửi rủa mụ..."

"Và chửi rủa bọn hộ lý."

"... và chửi rủa tụi hộ lý và nói chung không gây rối loạn, thì mụ ta sẽ không làm gì qua chứ gì?"

"Vâng, đây là luật chơi của chúng tôi. Tất nhiên mụ ta bao giờ cũng thắng – luôn luôn thắng, anh bạn ạ. Bản thân mụ đã cứng như thép, ngoài ra, thời gian lại ủng hộ mụ nên mụ có thể vò nát bất cứ ai. Chính thế nên người ta mới xem mụ là y tá giỏi nhất bệnh viện và giao cho toàn quyền: mụ có biệt tài lột bất cứ chiếc mặt nạ nào và lôi cái libido run sợ ra ánh sáng..."

"Qua sổ toẹt vào cái biệt tài đó. Qua chỉ muốn biết có thể đàng hoàng mà lấy gậy mụ đập lưng mụ được không? Nếu qua ngoan ngoãn thì liệu mụ có vì vài lời ám chỉ mà nổi điên lên và bắt qua ghế điện không?"

"Khi ngài giữ được mình thì ngài an toàn. Khi ngài không gây lộn và không gây cho mụ một lý do chính đáng nào để lắp cương cho ngài như kiểu phòng cách ly hay lên điều trị LSĐ, thì ngài an toàn. Nhưng điều đó trước hết đòi hỏi sự tự kiêm chế. Còn ngài? Với cái bộ tóc đỏ và cái hồ sơ quân nhân tối tăm kia ư? Đừng có ảo tưởng!"

"Được rồi. Được lắm." McMurphy xoa tay. "Chú em có biết qua nghĩ gì không? Tụi bay thật là ngu ngốc, cứ nghĩ rằng mụ ta là vô địch. Chú em gọi mụ thế nào nhỉ? – à, mụ đàn bà thép. Qua muốn biết bao nhiêu đứa trong tụi bay tin tưởng vững chắc vào mụ đến mức sẵn sàng cược với qua!"

"Tin tưởng vững chắc..."

"Qua nói rồi đấy: đứa nào trong tụi chó con bọn bay muốn năm đô la của qua để cá rằng đến cuối tuần, qua sẽ tóm được mụ đàn bà này, chứ không phải là mụ tóm được qua! Sau một tuần mụ sẽ phải trèo tường đến chỗ qua, nếu không – tiền tụi bay lấy."

"Ngai đưa chuyện này ra cá?" Cheswick đổi chân và cũng xoa tay như McMurphy. "Ờ, vậy đấy."

Harding và hai ba đứa nữa nói rằng chúng không hiểu.

"Rất đơn giản. Chẳng có gì cao cả và phức tạp ở đây. Qua thích cờ bạc. Và thích thắng cơ. Qua nghĩ ở đây qua sẽ thắng, thế đấy! Ở Pendleton, bọn chúng thậm chí không dám cá với qua một xu – vì qua thắng hết. Ngoài ra, qua đến đây là vì cần có gà mới để vặt lông. Xin tiết lộ với tụi bay: trước khi tới đây qua cũng đã biết được ít nhiều về cái chỗ này rồi. Gần nửa các chú em có tiền trợ cấp, ba bốn trăm một tháng và tiền không biết tiêu vào đâu cho hết, chỉ để mốc meo lên. Qua quyết định lợi dụng điều đó và, có thể, sẽ làm đời qua và đời tụi bay đẹp hơn lên một tí. Qua sẽ không lừa gạt các chú. Qua là tay chơi và không quen thua. Và từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới giờ qua chưa thấy người đàn bà nào có đàn ông tính hơn qua, còn mụ ta có hợp với khẩu vị qua hay không – không quan trọng. Có thể thời gian ủng hộ mụ, nhưng vận may đã trùm lên qua từ lâu."

Hắn lột mũ xuống, quay quay trên đầu ngón tay rồi dùng tay kia chộp lấy từ đằng sau gọn lẹ:

"Và một điều nữa: qua ở đây là vì qua đã sắp đặt thế, bởi vì rất đơn giản rằng, ở đây tốt hơn ở trại. Điên thì qua chưa thử bao giờ điên, ít nhất thì cũng chưa bao giờ nhận thấy điều đó. Mụ Y tá Trưởng của tụi bay nghĩ khác, mụ không nghĩ sẽ sa vào tay mụ một người tỉnh trí và lại nhanh trí như qua. Đấy là chủ bài của qua. Vì vậy qua nói: năm đô la cho mỗi đứa đến cuối tuần qua không xát muối vào đuôi mụ ta."

"Tôi vẫn không hoàn toàn..."

"Thế đấy. Xát muối vào đuôi, xát ớt vào mũi. Qua sẽ dắt mũi mụ ta. Qua sẽ cạo trắng mụ để mụ tỏ cho tụi bay, dù một lần, rằng mụ chẳng phải là vô địch gì như tụi bay nghĩ. Một tuần. Còn qua có thắng hay không, chú em sẽ làm chứng."

Harding tìm cây bút chì và viết gì đó trong quyển sổ đánh bài.

"Đây. Đây là giấy ủy quyền mười đô la của tôi đang mốc meo trong Quỹ. Tôi sẵn sàng trả gấp đôi, anh bạn, chỉ để thấy cái điều kỳ lạ chưa hề thấy bao giờ."

McMurphy xem tờ giấy, rồi gập lại. "Chú chim nào muốn trả nữa nào?" Các con bệnh Cấp tính xếp hàng lần lượt tới quyển sổ. Hắn cầm lấy từng tờ giấy và xếp trên tay, dùng ngón tay to sụ kẹp lại. Tôi thấy tập giấy cứ dày lên. Hắn nhìn bọn cá cược:

"Tụi bay để qua giữ tập giấy này chứ?"

"Tôi nghĩ rằng chúng tôi cũng không mạo hiểm gì," Harding trả lời. "Trong thời gian trước mắt ngài cũng không thể trốn đi đâu được."
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 9
Một lần, vào dịp lễ Giáng sinh, đúng lúc nửa đêm, hai cánh cửa lớn dẫn vào khoa rầm rầm mở toang ra và một kẻ lạ mặt bước vào. Một lão già to béo, râu ria xồm xoàm với cái mũi đỏ như quả cà chua, hai mí mắt đỏ bừng vì lạnh. Bọn hộ lý da đen đã soi đèn tóm được lão trong hành lang. Tôi thấy người lão quấn đầy kim tuyến và dây hoa gã Quan hệ Công chúng treo khắp nơi mà lão vướng phải trong đêm tối. Lão che mắt khỏi ánh sáng và mút mút ria.

"Hô, hô, hô!" Lão nói. "Già cũng muốn ở lại lắm, nhưng già phải đi thôi. Thời gian biểu chật kín rồi, các bạn biết đấy. Hô, hô. Già đi..."

Bọn hộ lý kéo đến với những cây đèn trên tay. Lão bị giữ ở đây sáu năm cho đến ngày được thả ra, râu bị cạo nhẵn nhụi, người khẳng khiu như cái gậy.

Bằng một động tác đơn giản: xoay núm điều khiển trên tấm cửa sắt, mụ Y tá Trưởng có thể bắt thời gian trôi theo ý muốn của mình; kim đồng hồ treo tường sẽ quay tít như những chiếc nan hoa nếu mụ cần tăng tốc cuộc đời. Trên màn hình cửa sổ, khung cảnh thay đổi vù vù sáng trưa chiều tối, các con bệnh quay cuồng trong bão tố của ánh sáng và bóng tối cho kịp với thời gian giả ấy, chen lẫn hỗn loạn trong phòng rửa mặt, trong nhà ăn, trong phòng khám; đêm chỉ dài mười phút, chưa kịp chợp mắt, ánh sáng trong buồng ngủ đã bật lên: lại dậy, ngày mới bắt đầu, hàng chục ngày đêm được lồng vào chỉ trong một giờ tới khi các con bệnh chịu hết nổi, mụ mới ấn nút xả hơi cho thời gian trôi theo tốc độ đã ghi sẵn trên mặt đồng hồ, như một đứa trẻ nghịch ngợm với chiếc máy chiếu phim đã cho cuộn phim quay nhanh gấp hàng chục lần và thấy mọi thứ trên màn ảnh trôi vèo vèo cũng chẳng thú vị gì hơn, nó lại trả máy về tốc độ cũ.

Mụ chỉ khoái tăng tốc độ, chẳng hạn vào những ngày có khách tham quan, hay trên tivi truyền đi cuộc gặp mặt của các cựu chiến binh ởPortland, đúng những lúc người ta muốn thong thả vươn vai vươn cổ. Những lúc đó mụ cho tăng tốc.

Còn thường thì ngược lại, mụ cho đi chậm. Mụ xoay núm điều khiển về vị trí Stop khiến mặt trời đọng lại trên màn hình hàng mấy tuần lễ, cứ đứng yên tại đó, các tia nắng chết cứng trên lá cây,tôi rên thảm cỏ. Kim đồng hồ dừng lại ở vị trí ba giờ kém hai mươi phút và mụ sẽ để chúng nằm yên ở đó chừng nào chúng tôi chưa rữa thành bụi. Chúng tôi ngồi bất động như tượng, không cựa quậy, không đi lại cho máu lưu thông, không nuốt nước bọt, không thở. Chỉ có hai tròng mắt còn đưa qua đưa lại được, nhưng cũng chẳng có gì để thấy ngoài tụi Cấp tính đang ngồi nhìn nhau như hóa đá đoán xem đây là trò của ai. Ông lão Kinh niên cạnh tôi chết cứng đã bảy ngày, đang phân hủy ngay trong ghế. Và mụ dở chứng không phun mù mà xả vào lỗ thông hơi một chất khí không màu và mọi người bị đông cứng lại khi chất khí ngưng đọng thành một lớp chất dẻo bao quanh.

Có trời mà biết chúng tôi ngồi như vậy được bao nhiêu lâu.

Sau đó mụ xoay ngược núm điều khiển một tí, tình trạng càng tồi tệ hơn. Sự bất động chết chóc đối với tôi còn dễ chịu hơn là cánh tay của Scanlon cứ đưa lên hạ xuống từ từ ở góc phòng bên kia, mất ba ngày mới đánh xong quân bài. Tôi thở vất vả, tựa như trước lúc vào phổi, lớp không khí chất dẻo đặc sệt phải chui qua một lỗ kim. Tôi thử đứng dậy để vào chuồng xí và cảm thấy như có hàng tấn cát chất trên người,tôi quặn bóng dái cho tới lúc trên trán nổ ra những tia sáng xanh ngang dọc.

Tôi lên gân lên cốt gắng đứng dậy vào nhà xí tới khi chân tay tôi run lên, nhức nhối đến tận răng. Tôi cố tí nữa, tí nữa, nhưng chỉ rời khỏi được mặt ghế da nửa xăng ti mét. Tôi buông mình ngồi bệt trở lại, tôi đầu hàng để nước tiểu chảy thành dòng âm ấm xót xót theo ống quần bên trái và các bộ cảm biến đáng xấu hổ rú lên báo động, tiếng còi tiếng rên, tiếng la hét ầm ĩ, tiếng bước chân thình thịch xung quanh, hai đứa hộ lý da đen cao lớn xô đẩy đám đông lao đến tôi, ve vẩy cây bàn chải đang xổ dây đồng bùng nhùng, đánh lửa tí tách do bị nước tiểu làm chập mạch.

Chúng tôi chỉ được nghỉ xả hơi duy nhất trong sương mù, nơi mà thời gian chẳng có ý nghĩa gì. Vì cũng như mọi vật, nó bị sương mù nuốt chửng. (Từ khi McMurphy đến sáng nay, máy phun mù chưa lần nào mở hết công suất. Tôi cá khi đó hắn sẽ rống lên như bò.)

Khi không phải đối phó với chuyện gì khác, chúng tôi cũng thường được hưởng mù hoặc thời gian chạy loạn, nhưng sáng giờ chưa có gì xảy ra: cả hai thứ đó đều chưa dùng đến cả ngày hôm nay, từ giờ cạo mặt. Chiều nay cũng không có gì khác. Hết ca một, đồng hồ chỉ bốn giờ ba mươi đúng như giờ thực tế. Mụ Y tá Trưởng cho tụi hộ lý nghỉ và nhìn lại phân khoa lần cuối trước lúc ra về. Mụ rút chiếc trâm cài đầu bằng bạc từ búi tóc xanh như thép sau gáy, cởi chiếc mũi vải màu trắng và cẩn thận đặt vào một chiếc hộp các tông đựng băng phiến, rồi lại đâm cái trâm vào mớ tóc.

Sau lớp kính tôi thấy mụ tạm biệt tất cả mọi người. Người đến nhận ca là một ả y tá nhỏ nhắn với cái bớt bẩm sinh trên mặt. Trao cho ả mảnh giấy, mụ với tay bật loa phóng thanh trong phòng chung: "Tạm biệt các cậu bé, nhớ ngoan ngoãn nhé". Rồi vặn nhạc ầm ĩ. Mụ xoa mu bàn tay lên tấm kính và ném cho gã da đen béo tốt đang bước vào chỗ trực một cái nhìn gớm ghiếc; và khi mụ còn chưa kịp khóa cửa phòng gã đã với vội lấy chiếc khăn và lau tới tấp.

Tiếng rít của máy móc đặt trong tường yếu đi, vòng quay giảm dần, dường như chúng đang thở ra khoan khoái.

Trước khi đi ngủ, chúng tôi ăn tối, tắm rửa, rồi lại kéo nhau vào phòng chung. Blastic, lão Thực vật già nua nhất ôm bụng rên rỉ. George (tụi hộ lý gọi lão là George Rửa Tay) kỳ cọ đôi tay của mình dưới vòi nước uống. Tụi Cấp tính chơi bài trừ một vài đứa cố lột chiếc ti vi đi khắp phòng chừng nào dây còn tới được tìm chỗ bắt được tín hiệu tốt.

Tiếng nhạc vẫn phát ra từ chiếc loa trên tường. Không phải tiếng đài nên không bị nhiễu trong phòng toàn máy móc. Băng chạy trong máy ghi âm đặt trong buồng kính, chúng tôi đã thuộc lòng nên không đứa nào để ý thấy nữa, trừ những đứa mới đến như McMurphy. Hắn vẫn còn chưa quen nó. Hắn đang chơi bài tính điểm ăn thuốc lá, chiếc loa phóng thanh ra rả ngay trên đầu. Cái mũ kéo sụp xuống tận mũi, để thấy bài, McMurphy phải ngửa đầu ra sau, nhìn qua khe hở giữa mũi và vành mũ. Hắn nói liến thoắng, răng vẩu ra cắn chặt điếu thuốc, giống hệt một gã bán đấu giá súc vật tôi từng thấy ở hội chợ thành phố Dalles.

"... Ê hề - hây! Nào, vô đi, xin mời," McMurphy nói nhanh, the thé. "Qua tiếp đây, hỡi các chàng công tử bột. Thế... dám chơi không? Chơi hả? Chú cầm con mười trên tay chớ gì? Vậy thì chui rồi, cầm lấy một con tám... con chín nữa... lãnh cho đủ, Scanlon, giá có thằng đần nào trong hộp kính tắt hộ cái loa chó chết này thì hay quá! Ối, Harding, suốt ngày cứ ra rả vầy sao? Trong đời chưa bao giờ qua bị tra tấn bởi một mớ âm thanh điên loạn như thế này."

Harding nhìn hắn dò hỏi. "Mớ âm thanh nào vậy, ngài McMurphy?"

"Cái đài khỉ gió này này, suốt từ sáng sớm khi qua mới đến cho tới tận giờ... Đừng vờ vịt nữa, bộ mày điếc sao?"

Harding nghiêng đầu, vểnh tai lên trần nhà. "A, cái thứ âm nhạc ấy à? Bọn tôi chỉ nghe thấy khi nào cố tập trung, mà khi đã tập trung tư tưởng, người ta có thể nghe thấy được cả tiếng tim mình đập ấy chứ." Harding cười, nhìn McMurphy. "Ông bạn hiểu cho, đấy là băng ghi âm. Còn đài tụi này ít được nghe. Tin tức đâu phải lúc nào cũng là thuốc chữa bệnh. Còn chúng tôi nghe thứ nhạc này đã đầy tai đến nỗi không còn nghe ra, cũng như một người sống cạnh thác nước lâu ngày sẽ không còn nghe thấy tiếng chảy của nó nữa. Nếu ngài sống cạnh thác nước, liệu ngài có nghe thấy tiếng ầm ầm mãi không?"

(Tôi vẫn nghe được tiếng thác nước trên dòng Columbia và sẽ nghe thấy mãi... nghe thấy tiếng thét của Charley Bụng Gấu khi anh cầm chiếc đinh ba đâm chết một con cá hồi, tiếng quẫy nước của con cá trước lúc chết, tiếng hò reo của đám trẻ con trần truồng, phụ nữ đứng trên bờ... từ thời đã qua.)

"Ở đây tiếng nhạc cũng không bao giờ dứt như tiếng ồn của thác nước?"

"Trừ lúc ngủ, còn lại thì đúng như vậy," Cheswick nói.

"Mẹ chúng nó. Để qua bảo thằng nhọ, nó không tắt qua đập chết cái một."

McMurphy đứng dậy nhưng Harding đập vào cánh tay hắn. "Ông bạn, lời tuyên bố vừa rồi sẽ bị coi là hung hãn. Ông chưa chi đã muốn thua cuộc sao?"

McMurphy nhìn Harding: "Nghĩa là thế đấy? Hóa ra là trò cân não? Làm cho ta phát điên đầu lên phải không?"

"Đúng thế."

Hắn từ từ ngồi xuống và nói: "Trời đánh thánh vật."

Harding quay sang tụi đang chơi bài: "Thưa các vị, tôi có vẻ đã nhận ra trong người hùng tóc đỏ ý chí cao bồi màn ảnh đã có một sự giảm sút không mấy anh hùng."
Harding nhìn McMurphy ngồi đối diện bên bàn, mỉm cười. McMurphy gật đầu với hắn rồi ngẩng lên nháy mắt, thấm nước bọt vào ngón tay cái. "A ha, giáo sư Harding của chúng ta hình như bắt đầu sủa bậy. Mới thắng một ván đã phổng mũi. Thế, thế... Hắn đang cầm con hai trên tay, cá một gói Marboro qua biết hắn sẽ chui ván này. Ô hô, chưa chịu hả? Thì đây, con ba... ngán chưa? Thêm con hai nữa. Vì chỉ là năm nhé, thưa Ráo sư. Ráo sư sẽ đặt cửa gấp đôi hay chơi nhẹ nhàng thôi? Thêm gói nữa hắn chỉ dám chơi nhẹ nhàng. Ô kìa, Ráo sư đang tính toán. Rõ rồi, tệ quá, một con tám nữa là mày chầu trời..."

Từ loa lại vang lên oang oang một bài hát mới, tiếng đàn phong cầm nghe loạn xạ. McMurphy nhìn lên, không chịu thua chiếc loa, hắn thét:

"... Ê-hề, tiếp đi, quỷ tha ma bắt, mày tính ôm hay tiếp tục chơi? Này, thì cầm lấy..."

Cứ thế đến chín giờ ba mươi, khi đèn tắt hết.

Tôi có thể xem McMurphy chơi suốt cả đêm, nhìn hắn chia bài, nghe hắn hò hét, chỉ thắng sao cho tụi kia đủ ngán nhưng chưa đủ bực mình đến bỏ cuộc chơi, rồi vờ thua vài ván để khích lệ đối thủ rồi lại thắng tiếp. Một lần trong lúc giải lao, McMurphy xích ghế ra đốt thuốc, đan tay sau đầu và nói: "Bí quyết của cờ gian bạc lận là gì? Ấy là phải biết được gã công tử bột ngồi trước mặt mình muốn gì, phải thôi miên làm cho hắn có cảm giác hắn đang nhận được những gì hắn muốn. Qua rút ra điều đó hồi còn làm thuê ở một quán giải trí lưu động. Một gã máu mê đi đeén, chỉ nhìn nó là cảm thấy ngay: à, lại một thằng cha chết nhát muốn được hùng hổ. Và cứ quẳng tiền vào là hắn thua, tất nhiên là bị lừa mãi thì cũng cáu, đến lúc ấy mày phải run như thỏ, sợ tái mặt mày và nói với hắn: ‘Vì Chúa, đừng tức giận, thưa ông. Cứ thử thêm lần nữa xem, ông sẽ thắng đấy.’ Và thế là cả hai bên đều thỏa mãn."

Hắn đổ người về phía trước, hai chân sau chiếc ghế bị nhấc lên khỏi sàn nhà. Cầm lấy chỗ bài, hắn thấm nước bọt vào hai ngón tay, đập nó lên bàn.

"Và với tụi bay, thiết nghĩ phải mồi bằng cả một ngân hàng mới xứng. Đây, mười bao nữa đặt cửa cho trận tiếp. Nào, bắt đầu, ai sợ thì đừng nhìn vào đây..."

Hắn hất đầu ra phía sau và cười hô hố khi bọn kia lao xao đặt phần của mình.

Tiếng cười âm vang suốt cả tối, và vừa chia bài, vừa buông những lời đùa cợt, hắn muốn chúng cười theo. Nhưng không một đứa nào cười thoải mái được. Chúng đánh mất thói quen đó đã lâu. Nhận ra điều này, McMurphy thôi pha trò và bắt đầu chơi nghiêm túc. Vài lần hắn bị cháy túi nhưng lại gỡ được hoặc giành được, đống thuốc lá bên cạnh cứ cao dần lên.

Rồi chỉ ít lâu trước giờ đi ngủ, McMurphy để cho chúng thắng, thắng nhanh đến nỗi chúng quên hết những thất bại ban chiều. Trả nốt hai điếu thuốc cuối cùng, hắn hít một hơi dài, ngả mình ra thành ghế và hất chiếc mũ ra khỏi mắt. Cuộc tàn.

"Thế đấy, tao chỉ thắng chút xíu, còn lại thua," hắn buồn bã lắc đầu, "không thể hiểu nổi, hồi hăm mốt tuổi tao vẫn là một chuyên gia chơi bài tính điểm, nhưng tụi bay còn láu cá hơn tao nhiều. Thật dễ sợ nếu ngày mai phải chơi ăn tiền thật sự với những tay bạc như vậy."

Hắn còn không buồn giả bộ tin chúng mắc lừa vì câu đó. Hắn để cho chúng thắng, tất cả chúng tôi, những đứa đứng ngoài quan sát đều hiểu điều đó, tụi trong cuộc cũng vậy. Những điếu thuốc mà chúng vừa thắng được thực ra chỉ là phần gỡ vì từ đầu buổi vẫn là của chúng, nhưng khi vơ đống thuốc về cả bọn vẫn khoái trá ra mặt, đứa nào cũng tự cho mình là con bạc khét tiếng nhất, gian hùng nhất trên toàn vùng Mississippi.

Gã hộ lý béo và gã da đen thứ hai tên là Geever đuổi tất cả ra khỏi phòng chung và bắt đầu tắt đèn bằng một cái nhìn chìa xỏ vào chuỗi, bóng tối càng dày đặc thì đôi mắt ả y tá có cái bớt bẩm sinh càng mở to và sáng lên trong buồng kính. Cô ả đang phát những viên con nhộng dùng đêm cho tụi Cấp tính xếp hàng thứ tự đi qua, còn ả thì gắng hết sức để không nhầm lẫn là cần đầu độc ai bằng thứ thuốc gì. Ả chẳng biết mình đang rót nước vào đâu vì tâm trí tập trung cả vào gã tóc đỏ với cái sẹo dữ tợn trên mặt và chiếc mũ quái gở trên đầu đang đang đến càng lúc càng gần. Ả đã nhìn từ lúc gã rời khỏi bàn chơi trong phòng tối, những ngón tay chai sạn vân vê túm lông thò ra khỏi cổ chiếc áo tù phanh ngực, và nhìn thấy ả hoảng hốt lùi lại khi McMurphy tiến đến, tôi đoán ngay ra là mụ Y tá Trưởng đã dặn dò, cảnh tỉnh trước cho cô ả. ("À quên, cô Pilbow, trước lúc bàn giao tôi còn một chi tiết nữa muốn nói: bệnh nhân mới, đấy, gã ngồi kia kìa, gã có mớ tóc đỏ rối mù, cáu bẩn và vết sẹo trên mặt chưa liền da ấy, tôi có đủ cơ sở để kết luận gã là một tên cuồng dâm.

Nhận ra ánh mắt đầy sợ hãi của cô ả, McMurphy thò đầu vào và nhoẻn miệng, nở một nụ cười thân thiện làm quen. Luống cuống để rơi bình nước vào chân, ả kêu "á" lên một tiếng rồi nhảy lò cò, tay vung vẩy làm viên thuốc đang chìa cho tôi văng ra khỏi cái cốc chui luôn vào cổ áo ả, nơi cái bớt rẽ xuống tựa như một suối rượu vang đổ vào thung lũng.

"Cô y tá, cô để tôi giúp một tay."

Và cánh tay rám nắng, đầy những vết sẹo với hình xăm thò vào.

"Không được bước vào! Tôi còn hai hộ lý trong khoa."

Ả nhìn sang chúng, nhưng chúng lại ở quá xa, đang bận bịu giằng buộc tụi Kinh niên vào giường. McMurphy bật cười và ngửa lòng bàn tay cho thấy hắn không cầm dao găm hay súng lục. Còn cô ả chỉ nhìn thấy ánh sáng rọi trên lòng bàn tay trươn trượt đầy chai.

"Cô y tá, tôi chỉ muốn..."

"Không được vào! Bệnh nhân không được... Ôi, đừng vào, lạy Chúa, tôi là người Công giáo!" – Rồi ả giật mạnh dây chuyền trên cổ khiến cây thánh giá từ chính trong ngực văng ra, bắn viên thuốc vừa rơi lên trời. McMurphy lao tới huơ tay ngay trước mũi ả. Ả rú lên, đút thánh giá vào miệng và nhắm nghiền mắt lại như bị làm thịt đến nơi, cứ thế đứng đó, người trắng bệch ra như tờ giấy, chỉ còn cái bớt là tím bầm lại tựa như máu trong toàn bộ cơ thể đã dồn cả vào đó. Cuối cùng ả cũng mở mắt ra để thấy trước mặt vẫn bàn tay đầy chai ấy với viên thuốc màu đỏ nằm gọn bên trong.

"... nhặt cái bình mà cô đã đánh rơi."Taykia hắn chìa chiếc bình ra.

Ả cầm lấy và thở hắt ra ồn ĩ. "Cảm ơn. Chúc ngủ ngon! Chúc ngủ ngon!" Cánh cửa đóng lại ngay trước mũi đứa đứng sau. Việc uống thuốc đêm thế là xong.

Về đến phòng ngủ, McMurphy ném viên thuốc lên giường tôi: "Uống cho khỏi bệnh, Thủ lĩnh."

Tôi lắc đầu, hắn búng viên thuốc đi, tựa hồ búng một con sâu gớm ghiếc. Viên thuốc này lách tách trên sàn gạch như một con cào cào. McMurphy cởi quần áo ngoài chuẩn bị đi ngủ. Dưới cái quần lao dịch là chiếc quần đùi lụa đen thêu đầy những chú cá voi trắng mắt đỏ. Thấy tôi nhìn vào đó hắn cười. "Một nữ sinh trường tổng hợpOregontặng đó, một cô bé khoa văn." Hắn lấy tay bật bật chun quần. "Cô ta nói tao là một biểu tượng."

Mặt, cổ và hai cánh tay hắn sạm nắng, thân mình phủ đầy lông màu hung xoăn tít. Vai hắn rộng, chạm trổ nhằng nhịt. Một bên là "Vòng cổ chiến trận" với một con quỷ mắt đỏ, sừng đỏ, tay cầm cây súng trường M-I, còn bên kia là những con át và những con tám xòe thành một thế poker hình cánh quạt. Vo tròn bộ quần áo, để lên mặt chiếc tủ con cạnh giường tôi, hắn vỗ cho chiếc gối phồng lên. Hắn đã được xếp nằm giường cạnh tôi.

Hắn chui vào chăn và bảo tôi tốt hơn cũng nên nằm xuống, bởi thằng nhọ đang đến tắt đèn. Tôi ngoái lại và trông thấy gã hộ lý tí hon Geever đang tới, vừa kịp tháo giày và leo lên giường thì gã tới nơi và dùng một tấm mền trói tôi vào giường như thường lệ. Làm xong việc gã nhìn lại buồng ngủ, cười khì khì và tắt đèn.

Phòng ngủ mờ tối, chỉ có một ít ánh sáng le lói từ phòng trực kính hắt ra hành lang. Tôi chỉ nhìn thấy lờ mờ McMurphy bên cạnh, thở sâu và đều, tấm chăn phủ trên người dâng lên hạ xuống. Nhịp thở chậm dần, chắc là hắn đã ngủ. Nhưng từ giường hắn, đột nhiên tôi nghe thấy một thứ tiếng phát ra ở sâu trong cổ họng, khe khẽ như tiếng ngựa hí từ xa vẳng đến. Hắn không ngủ mà đang cười rúc rích vì chuyện gì đó.

Sau đó thôi cười, hắn thì thầm: "Thủ lĩnh, mày giật mình khi tao nói có thằng nhọ đang đến. Vậy mà chúng bảo mày điếc."
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 10
Lần đầu sau nhiều năm tôi được ngủ một đêm không uống thuốc (nếu tôi trốn giờ phát thuốc chắc chắn ả y tá có cái bớt sẽ phái Geever đánh hơi cho ra; hắn sẽ cầm đèn pin chiếu vào mặt tôi, trong khi ả thưởng cho tôi một phát tiêm thay cho viên thuốc), vì thế cứ thấy hắn cầm đèn đi qua là tôi lại giả vờ ngủ.

Viên thuốc màu đỏ ấy không chỉ khiến ngủ, mà còn đưa người ta vào trạng thái mê mệt, không sao tỉnh dậy nổi dù xung quanh có động đất chăng nữa. Chính vì thế bọn nhân viên bắt tôi uống thứ này: ngày trước, khi chưa phải uống thuốc ban đêm, tôi thường tỉnh dậy và thấy hết những điều rùng rợn chúng làm với các con bệnh đang ngủ.

Đêm nay tôi nằm im, thở chầm chậm, chờ xem điều gì sẽ đến. Trong bóng tối có tiếng đế giày cao su bước khe khẽ ngoài hành lang; hai lần chúng ngó vào buồn ngủ, soi đèn pin vào từng người. Tôi nhắm tịt mắt nhưng vẫn cố không ngủ. Từ phòng Điên ở tầng trên vọng xuống tiếng kêu thét uu – uu – chúng đang nói con bệnh nào đó vào máy để nhận mật mã.

"Ôi, phải uống một tí, đêm còn dài", tôi nghe một tên hộ lý thì thầm với tên kia. Rồi những tiếng kin kín của đế giày cao su nghiến xuống sàn nhà xa dần về phía buồng kính, nơi đặt tủ lạnh. "Uống tí bia nhé cô em đáng yêu, đêm còn dài lắm".

Đứa ở tầng trên ngừng rên la. Máy móc đặt trong tường giảm dần tốc độ rồi im lặng. Bệnh viện lặng phắc, chỉ còn lại những tiếng ì ầm vọng ra từ lòng đất sâu thẳm của căn nhà, một âm thanh tôi chưa bao giờ biết là có trước đây – giống như âm thanh mà ta nghe được trong đêm khi đứng trên đập tràn của một nhà máy thủy điện cỡ lớn. Trầm lắng và mạnh mẽ đến hung dữ.

Ngoài hành lang, tôi nhìn thấy tên hộ lý da đen béo tốt đang nhìn ngó xung quanh và cười rúc rich. Gã đi về phía buồng ngủ, thật chậm, vừa đi vừa chùi hai bàn tay xám ngoét, ẩm ướt vào nách. Dưới ánh đèn từ phòng kính cái bóng to bằng cả con voi của hắn in lên tường, rồi nhỏ dần theo mỗi bước chân. Gã lại cười rúc rích, mở tủ cầu dao điện cạnh cửa và thò tay vào. "Ô, ngoan lắm, bọn trẻ ạ, hãy ngủ cho say".

Gã vặn cái núm gì đó, và cả sàn nhà rùng rùng rời khỏi cánh cửa nơi gã đứng, hạ thấp xuống bên dưới như cái băng tải!

Mọi vật đều đứng yên trừ sàn nhà, cho nên chúng tôi càng ngày càng hạ xuống, rời khỏi những bức tường, cửa sổ, cửa chính: cả giường lẫn bàn đêm và tất tật. Hệ thống truyền động, hẳn là gồm các bánh răng và dây curoa ở bốn góc sàn, đều được xoa mỡ, tra dầu nên vận hành êm ru. Tôi chỉ nghe thấy duy nhất tiếng các con bệnh vẫn ngủ yên, thở đều đều, cùng tiếng ì ầm dưới chân mỗi lúc một rõ. Ánh đèn hắt ra từ cánh cửa trên đầu chúng tôi hàng nửa cây số chỉ còn là một chấm nhỏ, hắt ánh sáng mờ nhạt lên bốn bức tường hầm. Ánh sáng mờ dần rồi một tiếng kêu thất thanh dập vào các bức tường của hầm nhà vọng đến: "Không được vào!" rồi điểm sáng cũng biến mất và bóng đêm bao la trùm lên.

Sàn nhà hạ xuống một mặt rắn nằm sâu trong lòng đất, rung khẽ và dừng lại. Đêm tối dày đặc và tấm chăn trói ngang người khiến tôi ngột ngạt. Tôi vừa định cởi tấm chăn thì cả hệ thống lại lắc lư rồi lao tới trước. Nó chuyển động trên những con lăn, song tôi không nghe thấy tiếng rít. Cả tiếng thở của người bên cạnh tôi cũng không nghe thấy nữa và chợt nhận ra rằng cái tiếng ì ầm nọ to dần lên tự lúc nào đã át đi tất thảy mọi tiếng động. Tôi bắt đầu chộp lấy tấm chăn mà giằng xé và sắp thoát ra thì đột nhiên nguyên một bức tường trượt lên trên, mở ra một gian phòng rộng mênh mông sắp hàng trăm chiếc máy đến vô tận; trong ánh lửa hắt ra từ hàng trăm chiếc lò cao, trên những chiếc cầu sắt chênh vênh giữa từng không thấp thoáng những bóng người lưng trần, ướt đẫm mồ hôi, những khuôn mặt lơ đãng không cảm xúc.

Tất cả những gì tôi đang thấy thật khớp với khung cảnh mà trí tưởng tượng đã vẽ lên qua những tiếng ầm như thoát ra từ trong lòng một đập nước. Những ống đồng đồ sộ trườn lên trên cao, vào nơi thăm thẳm của bóng đêm. Những sợi dây điện vươn tới chiếc biến thế vô hình ở một nơi nào đó rất xa. Dầu mỡ và bụi bặm bám đầy trên các động cơ, các khớp nối, các máy phát điện khiến cái đỏ quạch, cái đen bóng như than.

Động tác của tụi thợ máy giống hệt nhau, không đi mà lướt nhẹ nhàng như gió. Không ai vội vã. Từng đứa đứng lại một giây, vặn tay quay, ấn nút, hoặc đóng cầu dao, chùm tia lửa trắng lóe lên như chớp chiếu sáng bừng một bên mặt hắn, rồi lại chạy tiếp lên cao theo những bậc thang sắt, trên những bậc thang sắt, trên những chiếc cầu hình chóp, những tấm thân trần ướt sũng mồ hôi vượt qua nhau trên lối đi quá chật bì bẹt như tiếng con cá hồi đập nước, rồi lại dừng lại, khiến tia lửa phóng ra khi kéo một chiếc cầu dao khác trước khi chạy tiếp. Chúng chập chờn khắp mọi nơi, mọi chỗ, chốc chốc lại bừng lên ánh sáng trên một khuôn mặt búp bê lơ đãng.

Bỗng một đứa đang chạy hết tốc lực thì nhắm nghiền mắt và ngã quay ra giữa đường; hai đứa khác đang chạy qua xốc hắn lên, ném vào lò đốt. Những quả cầu lửa vội ngoạm lấy hắn, tôi nghe thấy tiếng hàng nghìn bóng đèn điện tử vỡ lạo xạo như tiếng bước chân trên cánh đồng phủ đầy quả khô. Âm thanh ấy hòa lẫn với tiếng gừ gừ và sầm sập của máy móc khắp quanh phòng.

Chúng tạo thành một nhịp điệu hẳn hoi, như nhịp sấm.

Sàn phòng ngủ giờ đã rời khỏi hầm vào hẳn gian máy. Lập tức tôi thấy nó ngay trên đầu chúng tôi – một băng chuyền treo có gắn các con lăn trượt trên đường ray như hệ thống băng treo ở các lò sát sinh, dùng để chuyển thịt nguyên con từ hầm lạnh ra bàn chặt. Hai đứa mặc sơ mi trắng, thắt cà vạt mỏng màu đen, tay áo xắn cao, đứng trên cầu sắt cao hơn giường chúng tôi một chút, tay vịn vào lan can, đang múa tay nói chuyện, điếu thuốc cháy dở vạch lên hình những chiếc thòng lọng lửa trong không trung. Chúng nói chuyện đấy nhưng không thể nghe ra lời nào giữa tiếng gầm rú ngày một điếc tai quanh đó. Một đứa búng ngón tay ra hiệu, gã thợ gần nhất quay ngoắt lại và phóng đến. Hắn chỉ tẩu thuốc vào một chiếc giường, gã kia bèn phi nước kiệu theo bậc thang sắt xuống đến ngang tầm chúng tôi, biến mất giữa hai chiếc biến thế đồ sộ như hai gian nhà kho chứa khoai tây.

Một lát sau gã hiện ra, kéo theo chiếc móc câu được treo vào thanh ray trên trần nhà. Gã sải những bước dài qua giường chúng tôi đúng lúc đâu đó một lò cao cháy bùng lên, ánh sáng soi rõ khuôn mặt rất gần, điển trai nhưng dữ tợn như chiếc mặt nạ bằng sáp của gã, không một chút cảm giác. Trong đời tôi đã gặp hàng triệu bộ mặt kiểu này.

Đến sát giường của lão Thực vật già nua Blastic, một tay gã nắm lấy gót chân lao xách ngược lên như thể lão chỉ cân nặng vài kí lô, tay kia cắm phập chiếc móc câu vào sợi gân gót chân, và Blastic đã bị treo lủng lẳng, khuôn mặt nhăn nheo phồng tướng lên kinh hoàng, đôi mắt mở to, đầy ngạc nhiên, sợ hãi. Đôi tay và cái chân còn lại giãy giụa, khua khoắng loạn xạ trong không khí tới lúc thân áo ngủ rũ xuống, trùm lên đầu. Gã thợ tóm lấy vạt áo như tóm lấy cái miệng bao tải rồi xoắn vặn nó và đẩy cái thân người trượt dọc theo thanh ray bên trên đến cạnh cầu sắt, chỗ hai đứa mặc áo trắng đang đứng. Một đứa rút con dao mổ giắt bao bên sườn. Chuôi dao nối với một sợi dây xích dài. Tên đó hạ con dao xuống cho gã thợ, ngoắc đầu kia dây xích với tay vịn của chiếc cầu sắt để gã không thể mang theo được vũ khí trong trường hợp chạy trốn.
Bắt lấy con dao, gã rạch một đường bén và sâu dọc theo ngực Blastic. Lão già hết giãy giụa. Tôi tưởng bị nôn ọe ra ngay lúc ấy, nhưng không, không có lòng ruột tuôn ra, máu cũng chẳng chảy, chỉ thấy ào ào ra một đống vụn thép gỉ và tro bụi, lác đác lại lóe lên một mẩu dây đồng hoặc mảnh thủy tinh. Gã thợ trông như đứng ngập đầu gối trong một đám cứt sắt.

Một chiếc lò cao há hoác miệng ở đâu đây, nuốt chửng một người nào đó.

Tôi muốn chồm dậy gọi McMurphy, Harding, tất cả... nhưng việc đó sẽ thật ngớ ngẩn. Nếu tôi có gọi được một đứa tỉnh nó sẽ chỉ ngáp. Thằng điên này bị làm sao vậy? Và rồi biết đâu còn giúp một gã thợ treo ngược tôi vào móc câu, A ha, để xem trong ruột thằng mọida đỏcó gì hơn không?

Tôi nghe máy phun mù thở ra một luồng hơi lạnh lẽo và ẩm ướt dưới giường McMurphy. Cầu Chúa cho hắn đủ khôn ngoan mà trốn được vào trong đó.

Nghe thấy giọng ba hoa rất quen thuộc, tôi khẽ trở mình nhìn sang. Đó là gã hói bên Quan hệ Công chúng với bộ mặt sưng húp, mà các con bệnh đến giờ vẫn còn cãi nhau xem tại sao mặt hắn lại sưng lên như vậy. "Tao bảo là hắncómặc thứ đó", chúng cãi cọ. "Còn tao thì bảo là không. Đã bao giờ mày nghe nói đến một thằng đàn ông sử dụngcái thứ đóchưa?" "Đúng rồi. Nhưng đã bao giờ mày thấy thằng đàn ông nào nhưgã?" Đứa kia nhún vai, gật đầu: "Nói cũng có lý."

Giờ thì gã hói không mặc quần áo ngoài, trên mình chỉ có độc chiếc áo lót dài thêu chữ tắt rồng rắn màu đỏ ở trước ngực và sau lưng. Và lần này thì tôi tận mắt trông thấy, khi gã đi qua tôi thật nhanh khiến vạt áo sau bị hất ngược lên, rằng gã quả có đeocái đó, được thắt thật căng tưởng như sắp cắt gã ra làm đôi.

Và những miếng gì đó khô cong treo lủng lẳng vào sợi dây nịt, dùng tóc buộc chặt, trông như da đầu.

Gã cặp kè chiếc bình toong, thỉnh thoảng lại nhấp vài ngụm cho trong giọng, và chiếc khăn tay tẩm long não chốc chốc lại đưa lên mũi để ngăn mùi. Theo sau gã là một toán các cô giáo và nữ sinh mặc những chiếc áo dài xanh nhạt, tóc búi cao, vừa đi vừa lắng nghe gã.

Sực nhớ đến một điều hài hước nào đó, gã đút vội chiếc bình toong vào mồm cho khỏi bật cười. Bài giảng bị gián đoạn. Một nữ sinh lơ đãng nhìn xung quanh và phát hiện ra lão Kinh niên bị phanh thây, treo ngược trên gót chân. Cô ả kêu lên một tiếng rồi nhảy lùi lại. Gã hói trông thấy xác chết vội lao tới, nắm lấy bàn tay mềm oặt đẩy cho xoay một vòng. Cô sinh viên rụt tè vươn cổ tới để nhìn cho kỹ, như mê hoặc.

"Các bạnthấychưa?Thấychưa?" Mắt đảo nhanh, gã phun cả nước ra vì cười rũ rượi, cười sặc sụa. Tôi tưởng chững như gã sẽ vỡ ra vì cười.

Cuối cùng gã cũng nín được và bước lên vài bước giữa hàng máy tiếp tục bài giảng. Được vài câu bỗng gã vỗ tay lên trán: "Thôi chết,mìnhngớ ngẩn thật!" và gã tức tốc chạy tới cái xác lấy thêm một mảnh chiến lợi phẩm buộc tiếp vào đai nịt eo.

Bên phải, bên trái, phía trước, phía sau đầy rẫy những hành động điên rồ, dã man, mọi rợ - ngớ ngẩn và kỳ quặc đến mức không khóc nổi và sờ sợ đến mức không cười nổi, nhưng sương mù mỗi lúc một dày thêm, tôi không phải nhìn gì hơn nữa. Ai đó nắm lấy cánh tay tôi giật mạnh. Tôi biết điều gì sẽ đến: tôi sẽ bị lôi ra khỏi sương mù và được trả về phòng ngủ, sẽ không còn lại một dấu vết gì, tựa hồ đêm vẫn bình yên và nếu ngu ngốc mà kể chuyện này với chúng, chắc chắc sẽ bị mắng vào mặt: Thằng điên, mày chỉ vừa có một cơn ác mộng, làm gì có những chuyện điên rồ như gian máy trong lòng đập nước hay những công nhân rô bốt làm thịt người?

Nhưng nếu không có thật thì làm sao tôi lại nhìn thấy chúng?

Người cầm tay lôi tôi ra khỏi đám sương mù là lão Turkle, vừa lắc tôi thật mạnh vừa cười: "Giấc mơ dữ hả, ông Bromden". Lão, một ông già da đen với cái cổ ngẳng và nụ cười ngái ngủ, là hộ lý trực một mình cả ca đêm suốt từ mười một giờ đến bảy gờ sáng. Quanh lão luôn phảng phất mùi của người vừa uống say. "Nào, ngủ tiếp đi, ông Bromden."

Một vài lần tụi hộ lý trói quá chặt khiến tôi giãy giụa và lão đã cởi cho tôi. Lão sẽ không cởi nếu nghĩ tụi làm ca ngày có thể biết mà đuổi cổ lão, nhưng lão nghĩ chúng sẽ cho là tôi tự cởi. Tôi chắc lão làm việc đó vì lòng tốt, lão luôn sẵn sàng giúp mọi người – đấy là nếu không bị liên lụy đến mình.

Lần này lão không cởi trói cho tôi mà qua giúp hai đứa hộ lý lạ mặt và một gã bác sỹ trẻ. Chúng đặt Blastic lên cáng, đắp cho lão tấm vải trải giường và khiêng rất thận trọng ra ngoài, và tôi nhớ những ngày còn sống chưa bao giờ Blastic được đối xử nhẹ tay như thế.
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 11
Sáng sớm, tôi dụi mắt khi thấy giường McMurphy bỏ trống, lần đầu tiên sau lão Jules Đu Tường có người dậy sớm hơn tôi. Jules là một lão già da đen tinh ranh, tóc bạc trắng, có lý thuyết là ban đêm tụi hộ lý da đen lật thế giới nghiêng sang một bên; vì thế ngày nào lão cũng cố dậy thật sớm lẻn ra ngoài để bắt quả tang. Còn tôi dậy sớm để xem chúng có đưa thêm máy móc gì mới vào phân khoa hay buồng cạo râu không, nên mười lăm phút đầu mỗi buổi sáng ngoài hành lang chỉ có tôi và mấy gã hộ lý. Vậy mà hôm nay, chưa tỉnh giấc tôi đã nghe thấy tiếng McMurphy trong phòng rửa mặt. Và hắn hát! Hát vô tư cứ như cả đời hắn chưa từng biết lo phiền. Giọng hắn khỏe và trong vỗ vào sắt thép và xi măng.

" Ngựa anh đói rồi, cô em nói thế.... "Hắn đang thích thú nghe tiếng hát đập lại khi va vào tường phòng vệ sinh:" Hãy ngồi lại đây, đem cỏ ngựa ăn... "Hắn lấy hơi, lên cao giọng và tăng âm lượng tới khi tất cả dây điện ngầm trong tường rung bần bật:" Ngựa anh không đói, cỏ em chẳng ngọtttttttttttt... ". Hắn giữ nguyên nốt đó rồi luyến láy đùa cợt hồi lâu, sau đó đổ xuống thấp và hát nốt câu cuối:" Vĩnh biệt em yêu, anh phải lên đường".

Hắn hát! Tất cả sửng sốt. Bao năm nay có ai làm chuyện đó đâu! Hầu hết tụi Cấp tính chống tay ngồi dậy, hấp háy mắt lắng nghe. Chúng đưa mắt nhìn nhau nhướn cao mày. Sao mấy gã hộ lý lại không bịt miệng hắn nhỉ! Trước đây không đứa nào được phép làm ồn như vậy, phải không? Làm sao kẻ mới này lại được đối xử khác đi như thế? Hắn cũng bằng xương bằng thịt, cũng có thể kiệt sức trở lên xanh xao, rồi chết, giống như tất cả mọi người. Hắn cũng bị trói buộc bởi mớ đạo luật ấy, cũng phải va vấp với đúng những phiền toái ấy, chính vì thế cũng bất lực, vô phương chống đỡ trước Liên hợp, không phải sao?

Nhưng hắn đúng là không giống mọi người, và tụi Cấp tính hiểu điều đó, không giống bất kỳ ai từng ghé phân khoa trong mười năm gần đây, bất kỳ ai chúng từng gặp ở thế giới bên ngoài. Có thể hắn cũng bất lực như những đứa khác, nhưng Liên hợp chưa sờ được đến hắn.

" Toa xe chất đầy",hắn hát," roi ngựa trong tay..."

Làm thế nào hắn lại thoát cái ách chung? Có lẽ, giống như lão Pete, Liên hợp đã lỡ cơ hội chộp lấy hắn khi còn non nớt. Có lẽ hắn khi nhỏ vốn là một đứa bất trị, chu du khắp đất nước, bạ đâu sống đấy và không chịu dừng lại ở đâu quá vài tháng, nhà trường không dạy nổi hắn, rồi vào rừng làm công nhân khai thác gỗ, đánh bạc rồi sống lang thang cùng nhóm giải trí lưu động, chỉ có bốn ba và chuyển dịch, tới nỗi Liên hợp không có thời cơ lắp đặt thứ gì vào. Có thể là thế, hắn không cho Liên hợp thời cơ, cũng như sáng qua tụi hộ lý không sao đo được nhiệt độ cho hắn, một chiếc bia di động bao giờ cũng khó trúng đạn hơn.

Không chịu sự ràng buộc của mụ vợ kỳ kèo đòi lát lại sàn nhà, hay những người thân thích chĩa đôi mắt già nua ậng nước mà cầu khẩn. Chẳng phải quan tâm tới ai, hắn tự do đến mức trở thành một kẻ đại bợm. Và có lẽ tụi hộ lý cũng hiểu điều đó nên chẳng phí sức lao vào buồng vệ sinh để khóa mõm hắn lại, chúng biết hắn ngoài tầm kiểm soát, vả chăng cũng chưa thể quên được ông già Pete, chưa quên một thằng không ai kiểm soát có thể làm gì. Và chúng lại thấy cả McMurphy lớn hơn Pete nhiều, tóm hắn chỉ có cách là cả ba đứa cùng xông vào một lúc và mụ Y tá Trưởng đứng cạnh, cầm sẵn kim tiêm. Tụi Cấp tính gật đầu với nhau, hiểu rằng với chúng, bọn hộ lý có thể làm gì tùy ý, nhưng sẽ không dám đụng đến McMurphy.

Tôi từ phòng ngủ bước ra hành lang thì McMurphy cũng từ buồng vệ sinh xuất hiện, tay cầm bàn chải đánh răng. Trên mình hắn chẳng còn gì ngoài chiếc mũ cáu bẩn và chiếc khăn tắm quấn ngang hông. Hắn đứng ở hành lang, nhìn trước, ngó sau, kiểng chân, xuýt xoa vì sàn gạch quá lạnh. Nhìn thấy gã hộ lý nhỏ con, hắn tiến đến vỗ vai, thân mật như với đứa bạn chí thân từ hồi còn để chỏm:

"Ê người anh em, tao cần chút thuốc đánh cái bàn nghiến, lấy ở đâu?"

Gã lùn quay đầu thấy mũi mình dính ngay vào đốt ngón tay tổ chảng. Gã khịt mũi, nhăn mặt nhìn quanh tìm hai đứa kia và nói với McMurphy là tủ đựng thuốc đánh răng đến sáu giờ bốn lăm mới mở. "Quy định như vậy", gã nói.

"Thế đấy. Ý tao là thuốc ở đằng kia hả? Trong tủ?"

"Ừ, trong tủ và đã khóa."

Gã vờ tiếp tục lau bức tường để lỉnh khỏi McMurphy nhưng cánh tay to khỏe của McMurphy vẫn đè lên vai hắn.

"Mày bảo trong tủ và đã khóa hả? Nhưng khóa lại để làm gì, hử? Bộ đó là thuốc độc sao? Hay vì dùng tuýp thuốc có thể đập bể đầu một đứa nào đó? Vậy vì sao, mày nghĩ coi, người ta lại phải khóa nó lại như giấu một vật nguy hiểm?"

"Đó là quy chế của phân khoa, ngài McMurphy ạ, vì thế đấy." Và thấy đó không phải là một lý do có sức thuyết phục, lại bị cánh tay nặng trịch của McMurphy đặt lên vai, hắn thêm. "Với lại, ngài nghĩ xem, cứ lúc nào phởn chí, tụi nó lại cầm bàn chải đánh răng thì sẽ ra sao?"

McMurphy bỏ tay ra khỏi vai hắn, xoa đám lông hung trên ngực và nghĩ ngợi. "À, à à. Tao hiểu. Tao hiểu mày muốn nói: quy chế trong khoa là bảo vệ những đứa không thể đánh răng sau mỗi bữa ăn?"

" Chời, chẳng lẽ điều đó khó hiểu lắm sao?"

"Tao hiểu rồi. Mày nói người ta sẽ đánh răng bất cứ lúc nào ý nghĩ đó chợt đến trong đầu?"

"Đúng vậy, vì thế nên..."

"Chúa ơi, cứ nghĩ xem, sẽ có đứa đánh răng lúc sáu rưỡi, đứa lúc sáu giờ hai mươi, có đứa lại thích vào lúc sáu giờ, biết đâu đấy? À ra là thế, tao hiểu hết rồi".

Tôi đứng ép vào tường, McMurphy nháy mắt đùa với tôi qua vai gã hộ lý.

"McMurphy, tôi còn phải chùi nốt chân tường".

"Ồ, tao đâu muốn phá công việc của mày." McMurphy lùi ra nhưng gã hộ lý vừa cúi xuống thì hắn lại sán đến, cúi nhìn vào cái thùng bên cạnh gã. "Ê, nhìn đây, cái gì thế này?"

Gã hộ lý ngạc nhiên. "Nhìn đi đâu?"

"Nhìn vào đây, cậu bé. Bột gì trong thùng này?"

"Đây là bột xà phòng để rửa sàn nhà".

"Thôi được, tao vẫn quen dùng thuốc đánh răng". McMurphy nhũng chiếc bàn chải vào, ngoáy tít và rút ra, đập đập vào thành thùng, "nhưng thứ này cũng được. Cảm ơn. Còn chuyện quy chế của khoa ta bàn sau".

Hắn lùi vào nhà vệ sinh và từ đó tiếng hát lại vang ra, nhưng vướng chiếc bàn chải đánh răng trong mồm nên đã trở lên méo mó.

Gã da đen đứng như phỗng nhìn theo, chiếc giẻ lau sàn nhà bất động trên tay. Lát sau, như sực tỉnh, hắn quay lại và thấy tôi nhìn liền sán tới tóm lấy thắt lưng mà kéo tôi đi dọc hành lang chỉ vào đúng chỗ mà mới chiều qua tôi vừa kỳ cọ.

"Đây! Ở đây! Đồ ma bắt! Chùi đi, đừng đứng giương mắt mà nhìn như con bò vô tích sự! Đây! Đây nữa!"

Tôi cúi xuống lau, quay lưng lại phía hắn để cười, bằng lòng vì McMurphy đã dắt mũi được hắn, một điều ít ai làm nổi. Ba cũng từng làm được; lần các quan chức chính phủ đến để mua chuộc ba ký một hiệp ước, ba ngồi khuỳnh chân, bình thản nhíu mắt nhìn lên trời và nói: "Những con ngỗng kènCanadađang bay." Họ nhìn theo, bản hiệp ước sột soạt trong tay: "Ông nói sao?.. tháng Bảy hả? Làm gì có ngỗng bay mùa này? Ờ..ờ..không có đâu."

Họ nói như người du lịch phương Đông từ đầu đến giờ, vì cho rằng với người da đỏ phải có cách nói đặc biệt họ mới hiểu. Ba làm ra vẻ không nhận ra phong cách nói chuyện của họ. Ba cứ nhìn trời: "Những con ngỗng đang bay, người da trắng ạ. Các ông cũng biết mà. Năm nay có ngỗng bay. Năm ngoái có ngỗng bay. Và năm kia, năm kìa..."

Họ nhìn nhau, một người họ lên nói: "Vâng, có thể là vậy. Thưa thủ lĩnh Bromden. Thế nhé. Ông đừng để ý đến ngỗng trời nữa. Hãy nghĩ về bản giao kèo này. Những gì chúng tôi đưa ra sẽ mang lại nguồn lợi lớn cho ông... cho dân bộ lạc ông...làm thay đổi cuộc sống của người da đỏ."

Ba vẫn nói: "..và năm trước nữa, trước nữa, trước nữa.."

Tới khi các quan chức chính phủ vỡ lẽ là mình đang bị lỡm, thì những người đứng đầu bộ lạc ngồi trước cửa lều nãy giờ hết nhét tẩu thuốc vào túi áo len sặc sỡ lại rút ra, nháy mắt cười với nhau và với ba, đã rộ lên như sấm. Chú Chó sói C&N bò lăn ra đất, ôm bụng cười ngặt nghẽo: "Các ông cũng biết mà người da trắng ạ."

Chắc chắn họ đã nổi khùng: đám quan chức tái mặt, lẳng lặng đứng dậy đi ra đường lớn, còn chúng tôi cười theo. Đôi lúc tôi đã quên là tiếng cười có thể làm nên chuyện.

Mụ y tá lách chìa khóa vào ổ, vừa bước tới thì gã hộ lý đã xun xoe bên cạnh, đổi hết chân này đến chân kia như đứa trẻ xin chạy đi tè. Tôi đứng khá gần nên chỉ nghe thấy hắn nhắc đến tên McMurphy vài lần, và biết chắc hắn chỉ kể chuyện đánh răng của McMurphy mà quên bẵng mất cái chết của cụ già Thực vật đêm qua. Vung tay báo cáo rằng thằng gàn tóc đỏ từ sớm tinh mơ đã sinh sự, chẳng còn biết quy tắc, luật lệ là gì, mụ không thể làm được gì hay sao?

Mụ nhìn hắn bằng đôi mắt sắc lạnh cho đến lúc gã im bặt những tiếng líu ríu; rồi cặp mắt mụ hướng vào cửa buồng vệ sinh, giọng hát vang ra mỗi lúc một to:" Ba mẹ không ưa, họ nói anh nghè-è-è-èo, Cửa nhà em đóng, anh chẳng được vào."

Mụ tỏ vẻ bối rối mất một lúc, cũng như chúng tôi, lâu rồi chưa được nghe ai hát nên mụ cũng không hiểu ngay được những âm thanh đó là gì.

"Tiền này anh kiếm, nhọc nhằn quản đâu-âu-âu, ai không biết quý, thì anh chẳng cầu."Đứng lặng một phút nghe ngóng để biết chắc tai không đánh lừa mụ, mụ bắt đầu phình lên. Hai cánh mũi phập phồng, thân thể lớn dần sau mỗi hơi thở; từ thời Taber tới giờ, chưa lúc nào mụ lớn và hùng hổ như thế vì một bệnh nhân. Tôi nghe rõ tiếng cọt kẹt của các khớp bản lề ở bả vai và các ngón tay khi cơ cấu đồ sộ đó cử động. Lúc đi ngang qua tôi đang dựa sát vào tường, mụ đã lớn bằng chiếc ô tô vận tải hạng nặng, chiếc giỏ liễu bị kéo theo trong đám khói mù mịt như cái rơ moóc sau đầu máy điện điêzen. Cặp môi nở ra tạo thành một nụ cười đưa ra phía trước, giống như tấm lưới che trước bộ tản nhiệt ở ô tô. Tôi ngửi thấy mùi dầu mỡ, mùi các tia lửa điện khét lẹt, và theo mỗi bước chân nặng nề mụ lớn dần lên, hất tung mọi thứ gặp trên đường. Thật khủng khiếp nghĩ đến điều gì sẽ xảy ra.

Đúng khi mụ đã đến lúc không thể lớn hơn và điên hơn được nữa, McMurphy từ buồng vệ sinh bước ra ngay trước mặt, tay giữ mông cho chiếc khăn khỏi tuột – mụ dừng phắt lại! Mụ xẹp đến mức đầu chỉ cao ngang tầm tấm khăn trên người McMurphy, còn hắn thì nhìn xuống và cười với mụ. Cặp môi mụ chùng hẳn lại, nụ cười đột ngột héo đi.

"Chào bà Ratched, bên ngoài ra sao?"

"Ông không thể cứ thế chạy quanh đây – mà lại quấn khăn!"

"Không được ư?" hắn nhìn xuống chiếc khăn ướt, dính bết vào người, đúng chỗ tầm mắt mụ. "Quấn khăn... cũng phạm quy? Vậy thì chắc là tôi đành phải..."

" Thôi!Tôi cấm ông. Đi vào buồng ngủ và mặc đồ ngay lập tức!"

Mụ quát lên như một cô giáo mắng đứa học trò nhỏ mất dạy, còn McMurphy thì cúi mặt xuống như đứa trẻ và trả lời bằng một giọng đầy nước mắt, "Tôi không thể, thưa bà. Ban đêm lúc tôi ngủ, có kẻ đã luộc hết đồ đạc. Tôi ngủ như chết trên chiếc đệm êm của bà."

"Có kẻ đã luộc...?"

"Vâng, đã luộc. Đã thó. Đã khuân. Đã nẫng mất," hắn sung sướng nói. "Bà biết mà, người ta vẫn nói có kẻ đã luộc hết xống áo của tôi." Nói câu đó làm hắn khoái chí đến nhảy lên một vài trên đôi chân trần trước mặt mụ.

"Người ta ăn trộm quần áo của ông?"

"Có vẻ đó là toàn bộ sự việc."

"Một bộ quần áo tù? Để làm gì?"

Hắn thôi nhảy múa và lại gục đầu xuống, mặt buồn rười rượi: "Tôi chẳng biết gì cả. Khi đi nằm bộ quần áo vẫn đấy, vậy mà khi tỉnh dậy thì không thấy nó đâu. Nhẵn nhụi như bị một con bò liếm mất. Thưa bà, tôi hiểu bộ quần áo tù đã bạc màu, thô kệch chẳng đáng giá là bao, đứa có ăn có mặc ắt nhổ toẹt vào của ấy. Nhưng với người ở truồng mà không có quần áo thì...’

"À", mụ sực nhớ. "Người ta phải lấy bộ quần áo ấy đi. Sáng nay ông đã được phát một bộ quần áo bệnh viện màu xanh."

Hắn lắc đầu, thở dài nhưng vẫn gục xuống như trước. "Không, người ta đâu có phát, một mảnh vụn tôi cũng không nhận được. Trên người tôi chỉ còn độc chiếc mũ và..."

"Williams!" mụ thét gọi đứa hộ lý đang đứng thập thò ở cửa ra vào như chực bỏ trốn. "Williams, mời cậu tới đây."

Hắn trườn tới chỗ mụ, lấm lét như chó đánh cắp mẩu xương.

"Williams, tại sao bệnh nhân lại không được phát quần áo?"

Williams lấy lại bình tĩnh. Ưỡn thẳng lưng, cười, giơ cánh tay xám ngoét chỉ vào một đứa hộ lý cao lớn ở đằng kia hành lang. "Hôm nay người phụ trách quần áo và vải trải giường là ông Washington. Chứ không phải tôi. Không phải."

" Ngài Washington!" Mụ triệu đứa cao lớn đang đứng lặng người với chiếc bàn chải chùi sàn chưa kịp nhúng vào xô. "Mời anh lại đây." Chiếc bàn chải khẽ khàng trượt xuống, và hắn thận trọng gác cái cán vào tường. Hắn quay đầu lại nhìn McMurphy, nhìn đứa hộ lý bé nhỏ, nhìn mụ y tá. Rồi hắn nhìn sang trái, sang phải tựa như không hiểu người ta gọi ai.

"Lại đây!"

Đút tay vào túi, hắn lệt xệt đi đến. Thông thường hắn đi lại chậm chạp, còn lúc này tôi thấy nếu hắn không rảo chân lên thì mụ y tá có thể biến hắn thành một tảng băng rồi phá vụn chỉ bằng một cái nhìn; tất cả nỗi hận thù, giận dữ, thất vọng mà mụ tích lũy cho McMurphy giờ đây lao cả về hướng gã hộ lý da đen, bay loạn xạ trong hành lang, bắn vào người hắn như những hạt băng trong cơn lốc, khiến hắn bước càng chậm. Đi ngược chiều cơn bão, người hắn gập lại, hai tay ôm chặt lấy thân mình, tóc và lông mày phủ đầy sương giá. Hắn cong gập người lại, song chân bước càng chậm hơn, tưởng như không bao giờ hắn đi tới được đích.

Rồi McMurphy huýt sáo miệng bài "Georgia Brown thân yêu" và mụ y tá rời mắt khỏi đứa hộ lý vừa đúng lúc. Cơn giận của mụ đã lên đến đỉnh điểm, chưa bao giờ tôi trông thấy mụ phẫn nộ như vậy. Nụ cười búp bê biến mất, đôi môi như hai sợi dây thép được nung nóng đỏ. Nếu các con bệnh nhìn thấy cảnh này thì hẳn McMurphy đã thu được tiền thắng cuộc.

Mất hai giờ, cuối cùng gã hộ lý cũng tới nơi. Mụ y tá hít một hơi dài. "Washington, sao anh không phát quần áo cho bệnh nhân? Anh cũng thấy là trên người McMurphy chẳng có gì ngoài chiếc khăn?"

"Có chiếc mũ nữa." hắn nhắc khẽ và đập ngón tay lên vành mũ.

"NgàiWashington!"

Gã hộ lý cao hơn giương mắt chằm chằm nhìn đứa nhỏ con khiến hắn đứng không yên. Gã nhìn một lúc lâu với đôi mắt như bóng bán dẫn trong đài ấy, hứa sẽ tính sổ sau này, sau đó gã quay nhìn McMurphy một lượt từ đầu đến chân, nhìn đôi vai săn chắc khỏe mạnh, nhìn cái miệng đang cười, cái sẹo trên mặt, cánh tay đang giữ chiếc khăn tắm rồi nhìn sang mụ y tá.

"Tôi cứ nghĩ..." hắn bắt đầu.

" Nghĩ! Chỉ nghĩ trên cương vị của anh thôi thì quá ít. Hoặc là anh mang ngay quần áo cho bệnh nhân, hoặc là anh sang làm bên khoa Lão hai tuần kế. Có chùi rửa bô nằm và nhà tắm một tháng anh mới hiểu cho rằng hộ lý ở đây ít việc hơn nơi khác. Nếu đây cũng như khoa khác ai sẽ là người phải lau nhà từ sáng đến tối? Ông Bromden chắc? Không. Tự anh hiểu lấy. Chúng tôi đã giải phóng cho các anh những việc lặt vặt để các anh có thời gian theo dõi bệnh nhân. Một trong những việc đó là không để cho họ đi lại trần truồng. Anh thử tưởng tượng xem điều gì sẽ xảy ra nếu một nữ y tá đến sớm và trông thấy một bệnh nhân không quần áo chạy dọc hành lang? Anh thử tưởng tượng xem!"

Không biết phải tưởng tượng cái gì, nhưng nội dung lời nói thì hắn hiểu, và biến vội vào phòng chứa quần áo và vải trải giường, lôi ra một bộ tôi đoán phải bé hơn mười cỡ so với thân thể của McMurphy rồi chui ra đưa, mặt hắn tối sầm lại với vẻ hận thì không giấu giếm chưa bao giờ tôi thấy. Còn McMurhy thì lúng túng như không biết làm cách nào cầm bộ quần áo – một tay hắn vướng cái bàn chải đánh răng, tay kia phải giữ cho chiếc khăn khỏi tuột. Cuối cùng hắn nháy mắt cho mụ y tá, nhún vai, tháo chiếc khăn và phủ lên vai mụ, cứ như mụ là cái mắc áo.

Dưới chiếc khăn là cái quần đùi.

Tôi nghĩ giá mà sau khi cởi chiếc khăn ra, McMurphy hoàn toàn trần truồng mụ đã cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Câm lặng vì căm uất mụ nhìn những con cá voi trăng đang tung tăng trên chiếc quần đó. Thế này mụ chịu hết nổi. Mất đến một phút im lặng, rồi mụ quay sang gã hộ lý tí hon, giọng run lên, chưa bao giờ mụ điên đến thế:

"Williams...hình như...sáng nay anh phải lau sạch cửa kính phòng trước lúc tôi đến?" Hắn bay vội như con bướm trắng đầu đen. "Còn anh,Washington, anh..."Washingtonchạy nhanh đến chỗ chiếc xô. Mụ lại nhìn quanh – chẳng còn ai để quát nữa. Mụ chợt phát hiện ra tôi, nhưng vài bệnh nhân đã ngủ dậy và đang nhìn ra dò hỏi. Nhắm mắt lại, mụ cố gắng tập trung. Không thể để cho bệnh nhân trông thấy bộ mặt trắng bệnh vì điên giận như vậy được. Mụ lấy hết sức bình sinh nén cơn giận để làm chủ mình. Hai bờ môi co dần lại dưới chiếc mũ trắng, chúng hòa vào nhau như sợi dây thép đỏ đã nung đến nóng chảy, ánh lên và đột nhiên đông cứng lại vào đúng khuôn, trở lên lạnh lẽo, xám xịt. Giữa hai bờ môi, cái lưỡi thò ra trông như một mẩu xỉ. Đôi mắt lại mở ra, cũng xám xịt, lạnh lẽo, không màu sắc như cặp môi, nhưng mụ đã kịp vồn vã chào hỏi tất cả như thể không có gì xảy ra, nghĩ là người ta vì đang ngái ngủ sẽ không nhận ra sự thay đổi trên khuôn mặt mụ.

"Chào ông Sefelt, răng ông đỡ chưa? Chào Fredrickson. Ông và ông Sefelt ngủ ngon chứ? Các ông nằm cạnh nhau đúng không? Tiện đây, tôi vừa được lưu ý hai ông đã thỏa thuận gì đó về thuốc men – ông cho Bruce thuốc của mình, đúng vậy chứ, ông Sefelt? Chúng ta sẽ thảo luận sau. Chào Billy. Trên đường đến đây tôi gặp mẹ anh. Bà yêu cầu tôi nhắn anh rằng bà luôn nghĩ tới anh và tin tưởng anh không làm bà buồn. Chào ông Harding...ồ sao đầu ngón tay đỏ bầm và xước hết thế kia? Chắc ông lại cắn móng tay hả?"

Các con bệnh chưa kịp trả lời – thực tế cũng chẳng có gì để đáp – thì mụ đã quay sang McMurphy, đến lúc này vẫn chỉ có độc chiếc quần đùi trên người. Harding nhìn thấy cái quần khẽ huýt sáo.

"Còn ông McMurphy," mụ nói với nụ cười ngọt hơn đường. "Nếu ông thôi phô trương những bắp thịt rắn chắc rất đàn ông và chiếc quần xà lỏn sặc sỡ mà đi mặc quần áo vào thì hay quá."

Hắn khẽ nhấc chiếc mũ đáp lễ mụ và chào các con bệnh lúc đó đang sung sướng ngắm những con cá voi trắng và đùa cợt với nhau, xong lẳng lặng đi vào buồng ngủ. Mụ quay người đi về phía đối diện, nụ cười đó đưa ra đằng trước, nhưng trước khi cửa phòng kính kịp đóng thì tiếng hát của gã đã cuộn lại từ phòng ngủ ra hành lang.

" Nàng dẫn ta vào phòng khách, và phe phẩy quạt cho ta... "– tôi nghe hắn vừa hát vừa vỗ bôm bốp vào bụng," và thì thầm vào tai mẹ, chàng cờ bạc này con yêuuuuuuuuuuuu."

Ngay sau khi phòng ngủ không còn ai tôi vào đó quét; cúi xuống gầm giường hắn tôi chợt nhận ra điều lạ trong phòng: từ khi tôi vào viện cái phòng ngủ đủ cho hơn bốn chục người lớn này đã luôn sực đủ thứ mùi, mùi thuốc khử trùng, mùi thuốc mỡ kẽm và cao bôi chân, mùi phân người già và mùi nước tiểu, mùi cháo nghiền và thuốc nhỏ mắt, mùi ẩm mốc của bít tất quần đùi, ẩm mốc dù mới vừa được giặt, mùi hồ bột cứng quèo, mùi tanh trong bốn mươi cái miệng buổi sáng, mùi dầu máy lợm như chuối, và nhiều khi cả mùi tóc cháy xém, nhưng chưa bao giờ, trước khi hắn xuất hiện, ở đây có mùi mồ hôi của một người đàn ông, mùi bụi bặm, rơm cỏ từ những cánh đồng bao la và công việc nặng nhọc.
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 12
Suốt buổi sáng McMurphy cười nói với tốc độ một ki lô mét mỗi phút. Sau bữa sáng nay, hắn nghĩ xơi mụ Y tá Trưởng là một việc rất dễ dàng nếu hắn muốn. Hắn không hiểu chẳng qua đã chộp được đúng lúc mụ sơ ý, và chuyện đó chỉ càng làm mụ đề phòng và mạnh thêm lên.

Hắn làm trò, cố gây cười cho cả bọn, nhưng phật lòng khi thấy thỉnh thoảng chúng mới uể oải nhếch mép hay cười khì. Hắn đá vào chân Billy Bibbi đang ngồi bên kia bàn rồi nói bằng một giọng bí mật: "Ê Billy, có nhớ tao và mày chài hai con nhỏ ởSeattlekhông? Chơi thế mới là chơi chứ?"

Billy giương đôi mắt trố lên, há miệng nhưng không nói được nửa lời McMurphy quay sang Harding:

"Tao không nghĩ là dễ thế, nếu không phải hóa ra chúng đã nghe đến tên Billy Bibbit từ lâu. Billy Dùi cui, tên lóng của hắn như thế. Khi hai con nhỏ chực chuồn thì một đứa bỗng nhìn Billy và hỏi: "ông chính là Billy Dùi cui nổi tiếng? Nổi tiếng vì ba mươi lăm xăng ti mét của mình? Billy cúi gằm xuống đất, mặt đỏ bừng, ngượng nghịu y như lúc này tụi bay đang thấy đấy, nhưng cá dã cắn câu. Bọn tao dẫn chúng vào khách sạn. Đến đó tao nghe thấy giọng con nhỏ từ giường Billy: "Bibbit, ông đã làm em thất vọng. Em đã nghe nói về ba... ba... giời ơi!"

Hắn cười phá lên và vỗ bì bạch vào đùi, dùng ngón tay trỏ chọc vào sườn Billy, còn thằng kia thì đỏ mặt cười và cười như muốn xỉu luôn.

McMurphy nói rằng nói chung bệnh viện này còn thiếu gì thì chỉ là một hai con nhỏ xinh xẻo kiểu đó. Ngoài ra trong đời hắn chưa bao giờ được ngủ trên tấm nệm êm như ở đây, còn thức ăn, chao ôi, ngập cả bàn. Vậy thì việc gì tụi tôi phải ngán cuộc sống nhà thương đến vậy.

"Nhìn qua đây," hắn nói và giơ chiếc cốc lên. "Cốc nước cam đầu tiên sau nửa năm. Hu la, tuyệt quá còn gì. Thử hỏi người ta đã cho qua hắn những thứ gì ở trại cải tạo? Qua được đãi món gì đây? Ái chà, qua có thể tả chi li xem chúng giống cái gì, nhưng không thể tìm được tên gọi của chúng. Sáng, trưa, chiều chỉ có một cốc đựng thứ nước như nhựa đường đun chảy và khoai tây, lại còn cháy đen. Qua biết chắc dù sao cũng không phải là cốc nước cam. Còn ở đây, tụi bay nhìn xem: giăm bông, bánh mì rán, bơ, trứng, cà phê... Con búp bê bé bỏng trong bếp còn hỏi qua dùng cà phê đen hay cà phê sữa. Thật lịch sự. Lại còn cốc nước cam bự, ngọt lừ, mát lạnh này. Cho tiền qua cũng không rời khỏi đây."

Hết mỗi món, McMurphy lại xin thêm; hắn đã kịp làm quen và hẹn hò với cô bé rót cà phê khi nào xuất viện, còn với bà đầu bếp da đen, hắn khen là chưa bao giờ được ăn món trứng lập là ngon đến vậy. Người ta mang chuối ra là để ăn với ngô rang thì hắn thủ luôn cả nải và bảo gã hộ lý rằng có để dành cho gã một quả vì trông mày đói đến thảm hại, còn gã kia vừa liếc về phía buồng kính vừa trả lời là nhân viên không được phép ăn cùng bệnh nhân.

"Khoa quy định thế à?"

"Ừ!"

"Tiếc thật," và bẻ một lúc ba quả ngay trước mũi gã hộ lý, hắn chén lần lượt, còn nói thêm cần ăn gì cứ bảo, tao lấy cho, nghe Sam.

Hết nải chuối, hắn xoa bụng rồi đứng dậy đi ra cửa. Nhưng thằng hộ lý to con đã đứng chắn mất lối đi, gã giải thích rằng quy chế ở đây là ăn xong, tất cả bệnh nhân đi ra cùng một lúc, vào bảy giờ ba mươi. Hắn nhìn gã hộ lý như không tin vào tai mình, rồi quay lại phía Harding. Harding gật đầu, hắn nhún vai và ngồi vào chỗ cũ. "Tao sẽ không vi phạm những luật lệ ngu xuẩn của tụi bay."

Đồng hồ trên tường chỉ bảy giờ mười lăm, có nghĩa rằng chúng tôi chỉ mới ngồi trong nhà ăn mười lăm phút nhưng sự thực thì cả tiếng đã trôi qua. Tất cả đã ăn xong từ lâu và ngồi đợi kim đồng hồ chỉ bảy giờ ba mươi. Tụi hộ lý thu dọn khay của hai ông già Thực vật và rồi đẩy họ đi xối nước. Trong nhà ăn, một nửa gục mặt xuống bàn ngủ gật, chờ tụi hộ lý quay lại. Không biết làm gì hơn: không bài, không sách báo, không xếp hình. Chỉ có ngồi hoặc nhìn lên đồng hồ.

Nhưng McMurphy không chịu ngồi yên, hắn phải nghĩ ra trò gì đấy. Một hai phút rồi rê chiếc thìa quanh cái đĩa hắn đã thấy chán. Ngả người ra phía sau, ngón cái xọc vào túi, hắn nheo mắt nhìn lên đồng hồ. Rồi hắn xoa mũi.

"Tụi bay biết không... mặt cái đồng hồ này làm tao nhớ đến tấm bia trên tường bắn ở cảng Riley. Ở đó tao đã đoạt mề đay đầu tiên trong đời, mề đay bắn súng. McMurphy Hồng Tâm. Đứa nào cá một đồng tao ném cục bơ này vào chính giữa mặt kính, thôi, vào mặt kính vậy?"

Ba đứa đặt cược. Bốc mẩu bơ còn sót lịa quệt vào mũi dao, hắn vung tay. Cục bơ dính bệt vào tường phía bên trái, cách chiếc đồng hồ cả gang tay, và tất cả bắt đầu chọc ghẹo hắn cho tới khi hắn rút tiền ra trả. Chúng vẫn còn thi nhau gọi hắn là McMurphy Hồng Tâm nhưng gã hộ lý tí hon đã bước vào, tất cả cúi đầu và nín bặt. Hắn ngờ ngợ song không hiểu chuyện gì, nếu không có đại tá già Matterson lúc nào cũng thao láo nhìn quanh, thấy cục bơ dính trên tường liền giơ tay chỉ vào đó và bắt đầu giải thích cho chúng tôi bằng một giọng nhẫn nại, đều đều và vang to, như thể những lời lão nói là có nghĩa.

"Bơ... đó là đảng Cộng Hòa..."

Gã hộ lý nhìn về phía Matterson chỉ, ở đó mẩu bơ bắt đầu chảy dọc theo tường thành một vệt như con sên màu vàng. Gã chỉ chớp mắt mà không nói gì, thậm chí cũng không ngoái cổ tìm xem do bàn tay ai gây ra.

McMurphy đang huých vào hông những đứa ngồi cạnh, thầm thì, và chúng gật đầu cả lượt; hắn đặt ba lô lên bàn và ngả lưng vào thành ghế. Tất cả quay sang chiêm ngưỡng cách con sên bơ đang chậm chạp bò theo tường xuống sàn nhà, nghỉ lấy sức rồi lại trườn tiếp để lại một vệt óng ánh. Không ai nói một tiếng. Chúng im lặng, nhìn vệt bơ, nhìn đồng hồ rồi lại nhìn vệt bơ. Giờ thì kim đồng hồ đang dịch chuyển.

Mẩu bơ bò đến sàn nhà chỉ nửa phút trước khi kim đồng hồ chỉ bảy giờ ba mươi và McMurphy nhận lại được cả ba đô la mà hắn thua cuộc lúc trước.

Gã hộ lý sực tỉnh, rời mắt khỏi cục bơ và thả chúng tôi ra, và McMurphy nhét tiền vào túi, đứng dậy ôm vai hắn, vừa dẫn vừa lôi đi dọc hành lang về phòng chung. "Sam, người anh em, đã nửa ngày rồi, mà tao thì chỉ mới vừa gỡ lại. Tao phải nhảu lên mới mong bù. Mày mở tủ cho tao xin cỗ bài thì tốt quá, còn tao sẽ cố gắng gào thi với cái loa trên đầu kia."

Gần hết cả buổi sáng, hắn cố gắng bù lại bằng cách chơi blackjack nhưng không ăn thuốc lá mà ghi giấy nợ. Hắn phải xê dịch bàn chơi vài ba lần để chiếc loa trên trần nhà bớt nện vào đầu. Rõ ràng tiếng nhạc có ảnh hưởng đến thần kinh của hắn. Cuối cùng không chịu nổi, hắn đứng lên, bước tới buồng trực, gõ vào cửa kính tới khi mụ Y tá Trưởng quay nửa vòng trên chiếc ghế bành, mở cửa, và hắn hỏi mụ có thể tắt hộ thứ tiếng động địa ngục ấy được không. Sau làn kính, mụ vẫn ngồi nguyên trong ghế, bình thản hơn bao giờ hết; lúc này không có thằng tà giáo nào cởi truồng chạy rông khiến mụ phải rối trí. Mụ nhắm mắt, lắc đầu và rất nhẹ nhàng trả lời McMurphy: không.

"Nhưng có thể vặn nhỏ lại được chứ? Không cần thiết cho cả bangOregonnghe thấy Lawrence Welk cứ ba lần một giờ chơi bài "Tiệc trà chỉ có hai người!" Nếu đỡ ồn hơn để có thể nghe được tiếng đứa bên kia bàn đặt cửa, tôi đã có thể mở một hội poker..."

"Ông đã được thông báo rằng chơi bài ăn tiền trong khoa là vi phạm nội quy."

"Được rồi, chúng tôi sẽ chơi ăn diêm, ăn cúc quần... Nhưng bà hãy vặn nhỏ cái loa chết tiệt kia đi."

"Ông McMurphy..." nói đến đây mụ ngưng lại, đợi cho giọng giáo huấn bắt đầu ngấm vào, vì biết rằng tất cả các con bệnh Cấp tính đều đang rình nghe bọn họ, "ông có biết tôi đang nghĩ gì không? Tôi nghĩ ông xử sự như một kẻ ích kỷ. Chẳng lẽ ông không nhận thấy rằng ngoài ông, trong bệnh viện còn bao kẻ khác? Có những người cao tuổi mà vặn nhỏ đi thì họ không nghe được, đó là những cụ già không thể đọc hoặc xếp hình, hay chơi bài ăn thuốc lá. Âm nhạc là thứ duy nhất có thể dành cho những người như Matterson hay Kittling, thì ông lại muốn tước nốt. Chúng tôi luôn thỏa mãn mọi đề nghị, yêu cầu của bệnh nhân, nếu có thể, nhưng trước lúc đề nghị điều gì, thiết nghĩ ông nên tính đến cả quyền lợi của những người khác."

Hắn quay nhìn tụi Kinh niên và hiểu rằng trong lý lẽ của mụ có phần nào sự thật. Hắn bỏ mũ, luồn tay vào trong mớ tóc rối và quay lưng lại với mụ, hiểu không kém rằng tụi Cấp tính đang lắng nghe từng lời của cả hai.

"Thôi được, quả là tôi chưa nghĩ tới điều đó."

"Tôi hiểu như thế."

Hắn giật nắm tóc đỏ thò ra ở cổ áo và nói: "A ha, vậy nếu chúng tôi mang bàn chơi sang chỗ khác thì sao? Thí dụ mang sang phòng tắm cũ vẫn dùng để chứa bàn thừa của phòng chung mỗi khi có họp hành. Phòng đó trống cả ngày. Hãy giao nó cho tụi tôi còn các ông già, cứ để họ ở lại đấy với chiếc loa của mình. Nhất cử lưỡng tiện, ai cũng bằng lòng."

Mụ cười, lại nhắm mắt và lặng lẽ lắc đầu. "Tất nhiên, lúc nào tiện ông có thể đưa đề nghị đó lên cấp trên, nhưng tôi e rằng họ sẽ trả lời như tôi. Chúng tôi không đủ nhân viên để phục vụ đồng thời hai phòng. Không còn ai theo dõi bệnh nhân cả. Và, nếu có thể, xin đừng tựa vào kính như vậy, tay ông để lên gây những vết bẩn khó xóa. Ông đang bày thêm việc cho người khác đấy."

Và tôi nhận thấy hắn bỏ tay ra, định nói gì đấy nhưng lại thôi, và tôi hiểu hắn chẳng biết phải nói thêm gì nữa, trừ phi chửi mụ ra. Cổ và mặt đỏ bừng lên, hắn hít một hơi dài và cố gắng trấn tĩnh lại như mụ sáng sớm hôm ấy, hắn xin lỗi mụ vì đã làm phiền và quay về bàn chơi.

Cả phòng hiểu rằng mọi sự đã bắt đầu.

Mười một giờ gã bác sĩ đến, yêu cầu McMurphy đi cùng hắn về buồng làm việc nói chuyện. "Tôi luôn trò chuyện với những người mới nhập viện vào buổi sáng hôm sau."

Hắn cất bài, đứng dậy và đi tới. Gã bác sĩ hỏi hắn đêm qua ngủ thế nào, hắn chỉ lầu bầu.

"Hôm nay trông ông có vẻ tư lự, ông McMurphy."

"Tôi là con người luôn trầm tư," McMurphy trả lời và họ cùng bước ra hành lang. Tưởng chừng như họ vắng mặt cả tuần lễ, nhưng họ đã quay về kia rồi, vừa đi vừa vui vẻ cười cười nói nói. Gã bác sĩ lau nước mắt trên kính như vừa được cười một trận ra cười còn McMurphy đã lấy lại vẻ oang oang, ngỗ ngược. Hắn cứ thế cho đến hết bữa trưa, và lúc một giờ vào họp, hắn chiếm chỗ đầu tiên trong góc phòng, đôi mắt xanh uể oải nhìn ra.

Mụ Y tá Trưởng tay xách giỏ giấy má cùng các nữ y tá thực tập bước vào phòng chung. Mụ cầm quyển sổ trực lên và cau có xem mất một lúc (cả ngày không đứa nào viết gì vào đó cả) rồi mới ngồi vào chỗ của mình bên cánh cửa. Mụ lôi tài liệu trong chiếc cặp ra, đặt lên đùi, lục tìm giấy tờ về Harding.

"Theo tôi nhớ, hôm qua chúng ta đang thảo luận dở một số khúc mắc của ông Harding, và có một số bước tiến..."

"Vâng... trước khi bàn vấn đề đó," gã bác sĩ nói, "cho phép tôi xin một vài phút, để đề cập đến buổi nói chuyện sáng nay giữa tôi và McMurphy. Thực chất đó là một buổi hồi tưởng, ôn lại những ngày đã qua. Các vị biết không, hóa ra cả hai chúng tôi trước đây cùng học một trường."

Các nữ y tá nhìn nhau, không hiểu gã đã nghĩ ra trò gì. Còn các con bệnh nhìn nhanh sang McMurphy đang cười tủm tỉm trong góc của mình và đợi phần tiếp theo. Gã bác sĩ gật đầu."Vâng, cùng một trường. Trong lúc chuyện trò, chúng tôi cùng nhau ôn lại những ngày hội hóa trang mà ở trường chúng tôi đã tổ chức. Những ngày hội ồn ào, vui tươi đủ màu cờ, sắc áo và các trò chơi luôn là những sự kiện nổi bật trong năm. Như đã nói với ông McMurphy, trong hai năm cuối tôi là chủ tịch hội hóa trang của nhà trường. Một thời sôi nổi, vô tư..."

Cả phòng họp im lặng. Gã ngẩng lên nhìn căn phòng một lượt, nhìn xem dưới con mắt của mọi người gã có phải là một thằng điên không. Cái nhìn của mụ Y tá Trưởng trả lời rằng điều đó thật rõ như ban ngày, nhưng với cặp mắt không kính, gã không phát hiện ra.

"Và để kết thúc những dòng hồi tưởng lãng mạn, tôi và McMurphy nghĩ đến việc tổ chức một ngày hội hóa trang ngay trong khoa chúng ta: ý kiến các vị thế nào?"

Gã lại đeo kính vào và nhìn mọi người. Chẳng có ai nhảy cẫng lên vì sung sướng. Vài đứa trong chúng tôi còn nhớ, cách đây mấy năm, Taber đã thử làm chuyện đó và kết cục của nó thế nào. Gã đứng đợi; sự im lặng như một làn khói bốc lên từ mụ Y tá Trưởng, bao trùm lên tất cả, khiến chẳng đứa nào dám hé răng. Tôi hiểu McMurphy im lặng vì ý tưởng tổ chức ngày hội hóa trang là của hắn, và đúng lúc tôi nghĩ sẽ chẳng thằng nào liều mạng thì Cheswick ngồi bên cạnh McMurphy chợt kêu oái và đứng bật dậy, tay chùi vào sườn.

"Hừm... theo tôi," hắn nhìn xuống tay vịn chiếc ghế bành, nơi McMurphy đang đặt nắm đấm với ngón cái to đùng chĩa ra như roi thúc bò, "đó là một sáng kiến tuyệt vời. Phải phá vỡ cuộc sống thường ngày đơn điệu bằng cách nào đó."

"Hoàn toàn đúng, Charley," gã bác sĩ thỏa mãn vì có kẻ đồng tình. "Và đối với việc trị liệu đó không phải là vô tác dụng."

"Tất nhiên," Cheswick tươi tỉnh lên. "Ngày hội hóa trang cũng là một cách trị bệnh rất tốt."

"S...sẽ... sẽ vui lắm," Billy Bibbit nói.

"Vâng, cả vui nữa," giọng Cheswick nói. "Chúng ta sẽ thành công lắm, bác sĩ Spivey. Scanlon sẽ biểu diễn tiết mục người bom, tôi sẽ làm cột ném vòng trong giờ Liệu pháp nghề nghiệp."

"Còn tôi sẽ đoán số," Martini nói và giương mắt nhìn trần nhà.

"Còn tôi sẽ xem tướng tay, đoán bệnh lý," Harding tiếp.

"Tuyệt, tuyệt," Cheswick vỗ tay hoan hỉ. Từ trước tới nay chưa ai ủng hộ hắn trong bất cứ việc gì.

"Còn tôi," McMurphy dài giọng. "Tôi đã từng trông quầy ném phi tiêu, có kinh nghiệm..."

"Ừ bao nhiêu khả năng!" Bác sĩ đầy hưng phấn, duỗi thẳng người trên ghế. "Tôi còn nhiều dự định rất hay..."

Gã còn nói thao thao thêm năm phút. Có thể thấy rõ nhiều chi tiết đã được thảo luận trước với McMurphy. Gã mô tả các trò vui, đá sang chuyện bán vé vào cửa và đột ngột dừng lại như bị cái nhìn của mụ Y tá Trưởng thụi vào mắt. Gã chớp mắt nhìn mụ hỏi: "Ý kiến của bà về sáng kiến tổ chức ngày hội hóa trang ra sao, bà Ratched? Ngay ở đây?"

"Tôi không phản đối rằng điều đó cũng đóng một vai trò nhất định trong việc chữa bệnh." Mụ nói và đợi. Sự im lặng lại bốc lên và tỏa ra. Khi thấy không đứa nào có ý định lên tiếng, mụ tiếp, "Nhưng tôi cho rằng những sáng kiến loại này nên bàn bạc với hội đồng bệnh viện trước, ông nghĩ sao, ông bác sĩ?"

"Đúng thôi, bà hiểu cho, tôi chỉ muốn thăm dò thái độ bệnh nhân một chút. Còn tất nhiên, phải bàn bạc với hội đồng bệnh viện trước. Rồi sẽ đến các kế hoạch tiếp theo."

Ai cũng hiểu, với ngày hội thế là hết.

Mụ y tá cho là đã đến lúc phải cầm dây cương, và giở đống giấy tờ ra. "Tuyệt! vậy nếu không có tin tức gì mới và nếu ông Cheswick ngồi xuống, tôi nghĩ rằng chúng ta nên tiếp tục cuộc đàm thoại dở dang hôm qua. Chúng ta chỉ còn..." mụ rút chiếc đồng hồ quả quýt ra khỏi giỏ, "bốn mươi bảy phút. Nào..."

"Ô! Xin chờ cho một phút, tôi chợt nhớ là còn một tin nữa cần thông báo." McMurphy giơ tay lên, bật hai ngón tay. Mụ nhìn rất lâu vào cánh tay trước khi mở miệng: "Gì thế, ông McMurphy?"

"Không phải của tôi mà của bác sĩ Spivey. Bác sĩ, hãy nói cho mọi người biết sáng kiến của ông về chiếc loa và những người nghễnh ngãng."

Cơ mặt mụ giật khẽ hầu như rất khó nhận thấy, nhưng tim tôi bắt đầu đập rộn lên. Mụ thả tập giấy vào giỏ và quay sang gã bác sĩ.

"Vâng," bác sĩ nói, "tí nữa thì tôi quên." Gã ngả người, vắt chân chữ ngũ, hai bàn tay đan vào nhau ôm lấy bụng. Dễ thấy hắn vẫn còn khoái chí vì chuyện ngày hội hóa trang lắm. "Các vị thấy không, tôi và McMurphy còn thảo luận vấn đề tuổi tác trong khoa ta: thành phần bệnh nhân đa tạp, già, trẻ, trung niên ở lẫn lộn. Đây không phải là cách sắp xếp tối ưu để thực hiện Cộng đồng Trị liệu. Rất tiếc là bộ phận hành chính cũng không giúp được gì cho chúng ta, vì nhà của khoa Lão đã quá chật. Phải thừa nhận rằng tình huống không mấy dễ chịu cho những ai có liên quan. Tuy nhiên, trong lúc chuyện trò, tôi và ông McMurphy đã nảy ra một sáng kiến làm giảm bớt căng thẳng trong cuộc sống chung đụng giữa lớp già và lớp trẻ. Ông McMurphy đã để ý rằng thính lực của một vài bệnh nhân cao tuổi hơi yếu. Ông đề nghị vặn to loa truyền thành để các bệnh nhân Kinh niên lãng tai nghe được. Tôi cho đó là một đề nghị rất nhân đạo."

McMurphy khiêm tốn phẩy tay chối từ. Gã bác sĩ gật đầu với hắn và tiếp tục:

"Nhưng tôi nói với ông ta rằng đã có một vài bệnh nhân than phiền với tôi là loa phóng thanh quá to khiến họ không thể chuyện trò hay đọc sách báo được. McMurphy nói rằng ông đã không nghĩ đến chi tiết này, nhưng có lưu ý đến nghịch cảnh là những người ham đọc không biết đường tìm lấy một chỗ yên tĩnh trong khi đó vẫn phải mở loa cho những ai muốn nghe. Và tôi chợt nghĩ đến gian phòng tắm cũ mà mỗi lần họp chúng ta vẫn mang bàn ghế sang cho rộng chỗ. Gian phòng đó trước đây dùng để thực hiện thủy liệu pháp, nhưng từ ngày có những loại thuốc mới, nó không còn được sử dụng nữa... Vì thế tôi muốn hỏi, các vị có muốn dùng căn phòng này như một phòng chung thứ hai, chẳng hạn như, phòng chơi bài không?"

Các vị đều im lặng. Họ biết rõ giờ đến lượt ai đi. Mụ Y tá Trưởng đóng cặp hồ sơ của Harding lại, đặt lên đầu gối, hai tay bắt chéo giữ lấy và đưa mắt nhìn khắp phòng họp một lượt, bà thách đứa nào hé răng? Khi thấy rõ sẽ không đứa nào dám, mụ quay sang bác sĩ: "Một dự kiến khá thông minh, bác sĩ Spivey, và tôi cũng đánh giá cao sự quan tâm của McMurphy tới các bệnh nhân khác, nhưng sợ rằng chúng ta không đủ nhân viên để phục vụ hai phòng một lúc."

Vấn đề được quyết định, mụ tin tưởng điều ấy đến mức mở cặp ra lần nữa. Nhưng gã bác sĩ đã tính toán kỹ hơn mụ nghĩ:

"Tôi đã tính đến điều đó, bà Rathced. Trong phòng chung có gắn loa chỉ còn lại các bệnh nhân Kinh niên mà phần đông trong số họ phải buộc vào ghế bành hay ngồi xe lăn, vì thế chỉ cần một hộ lý và một y tá là có thể dẹp yên bất kỳ một cuộc phá rối hay nổi loạn nào nếu chúng xảy ra, bà có nghĩ như vậy không?"

Mụ không trả lời cũng không để ý đến câu nói đùa của Spivey về các cuộc bạo động hay nổi loạn, nhưng nét mặt không hề thay đổi. Nụ cười vẫn trên môi.

"Vì thế, hai hộ lý và các nữ y tá còn lại sẽ trông coi số bệnh nhân ở phòng tắm, điều này có khi dễ dàng hơn so với việc để họ trong một gian phòng quá rộng như phòng chung. Các vị nghĩ sao? Một kế hoạch trong tầm tay nhỉ. Ngay tôi đây cũng thấy rất hứng thú, và tôi nghĩ bà Ratched, chúng ta cứ thử ít ngày xem sao. Nếu không thành ư, chúng ta cầm chìa khóa, và có thể đóng căn phòng đó lại cơ mà."

"Đúng rồi!" Cheswick nói và đập nắm đấm vào lòng bàn tay. Hắn vẫn không dám ngồi xuống, nhưng sợ nắm đấm của McMurphy lại gí vào sườn. "Đúng rồi, thưa bác sĩ Spivey, tất nhiên, trong trường hợp không thành công, chúng ta có thể đóng căn phòng đó lại."

Spivey nhìn xuống đám khán giả: tụi Cấp tính gật đầu cười khoái chí, khiến gã cảm thấy sáng kiến mà gã cho rằng chính mình đưa ra hoàn thiện không chê vào đâu được; nghĩ đến đó, gã cũng đỏ mặt lên như Billy Bibbit và phải lau đôi mắt kính lần nữa rồi mới tiếp tục nói. Tôi buồn cười khi thấy con người nhỏ bé đó quá tự mãn về mình. Nhìn những con bệnh đang gật đầu, gã cũng gật đầu lẩm bẩm "rất tốt, rất tốt" và đặt hai bàn tay lên đầu gối. "Tuyệt, nếu chúng ta đã quyết định vậy... à quên, sáng nay chúng ta định thảo luận vấn đề gì nhỉ?"

Cơ mặt mụ lại khẽ giật một cái, rồi lẳng lặng cúi xuống cái giỏ lôi ra một cặp giấy khác. Mụ lật từng trang, và có vẻ tay mụ run run. Mụ lôi một tờ ra, nhưng không để cho mụ kịp bắt đầu, McMurphy đã đứng lên, vẻ mặt đăm chiêu, tay đưa lên và đổi chân liên tục, cất tiếng: "Thế này...", và mụ sững người tựa như tiếng nói của McMurphy đã làm mụ hóa đá hệt như mụ đã làm gã hộ lý hóa đá lúc ban sáng. Nhìn cảnh đó, đầu tôi lại lâng lâng một cảm giác dễ chịu. McMurphy nói, còn tôi chăm chú quan sát mụ ta.

"Thế này... bác sĩ ạ, đêm qua tôi mơ thấy một giấc mơ mà có chết tôi cũng muốn biết đó là cái gì. Ông hiểu không, cứ như tôi là tôi, nhưng sau đó lại không phải là tôi, mà là một ai đó giống tôi, như là... như là bố tôi vậy. Vâng, đó chính là bố tôi. Chính là bố tôi vì đôi lúc tôi nhìn thấy mình - thấy bố - bị... đóng một chiếc đinh bu loong xuyên qua hàm như ông ngày xưa..."

"Bố ông bị đóng đinh vào hàm?"

"Bây giờ thì không, nhưng đã có thời, suốt một năm, ông đeo cái đinh từ đây... xuyên suốt tận đây. Ngày đó tôi còn bé. Ông hiện ra trước cả vùng cứ như Frankenstein. Một lần, trong xưởng cưa, ông đánh nhau với một gã coi đập nước, bị hắn nện sống rìu vào hàm... ái dà, để tôi kể cho mà nghe!..."

Mặt mụ Y tá Trưởng bất động như được đổ bằng khuôn, có thể tô vẽ để biến thành giận, thương, vui hay buồn tùy ý. Một khuôn mặt luôn tỏ vẻ nhẫn nại, tự tin, phẳng phiu như tảng băng. Không còn giật nữa, chỉ còn nụ cười điềm tĩnh, được dập từ một thứ chất dẻo màu đỏ; cái trán nhẵn nhụi, sạch sẽ không một nếp nhăn, không bộc lộ một sự yếu đuối hốt hoảng nào; cặp mắt to, xanh và nông choèn, được vẽ lên chỉ để nói: ta có thể đợi, có thể chịu lùi vài bước, nhưng ta có thể đợi, biết chịu đựng, biết giữ bình tĩnh và tin tưởng, bởi vì ta biết trong trận này ta không bao giờ có thể thua.

Trong một phút lúc nãy, tôi có cảm giác là mụ đã thất bại. Có thể không chỉ là cảm giác. Nhưng giờ tôi hiểu chuyện đó chẳng có ý nghĩa gì. Các con bệnh hết đứa này đến đứa khác lén lút nhìn mụ, xem mụ phản ứng ra sao trước việc McMurphy cứ cầm dây cương mà điều khiển cuộc họp như vậy, và tất cả chúng đều hiểu điều này. Làm sao một con người to lớn như bức tượng bán thân Nhật Bản, choán hết một nửa căn phòng lại cam chịu thất bại? Không cách nào di chuyển mụ, không ai có khả năng chống mụ. Mụ thua hôm nay, nhưng đây chỉ là một trận đánh nhỏ trong cả cuộc chiến lớn, một cuộc chiến mụ đã chiến thắng và sẽ tiếp tục chiến thắng. Không thể để cho McMurphy gieo hy vọng vào lòng chúng tôi, cũng không để cho hắn dụ chúng tôi lao vào một ván bài không đường ra. Mụ sẽ tiếp tục thắng cuộc như Liên hợp đã thắng, vì đằng sau mụ là Liên hợp với sức mạnh vô địch của nó. Khi đối phương thắng mụ không yếu đi chút nào, nhưng khi đối phương thua thì mụ mạnh lên gấp bội. Để khuất phục mụ, chỉ thắng ba trong năm ván hay hai trong ba ván không đủ, mà phải thắng từng ván một, từ lúc khai cuộc đến khi cuộc tàn. Chỉ cần xuống sức, nản chí hay sơ hở, để thua một lần thôi thì mụ sẽ thắng dứt điểm. Và sau rốt chúng tôi từng đứa một sẽ chịu thua. Không ai có thể làm gì được.

Ngay lúc này mụ bắt đầu khởi động máy phun mù, và trong khoảnh khắc tôi không thấy gì ngoài bộ mặt của mụ, nhưng mù vẫn tuôn tới càng lúc càng dày đặc, khiến tôi cảm thấy tuyệt vọng hết đường ra cũng nhiều như đã cảm thấy sung sướng mới hồi nãy, khi mặt mụ giật lên, còn tuyệt vọng hơn nữa bởi tôi hiểu không ai có thể làm gì được, trị nổi mụ cũng như Liên hợp của mụ. McMurphy cũng chẳng làm được gì hơn tôi. Không ai làm gì được. Và tôi càng nghĩ về chuyện không ai làm gì được, sương mù càng ùn lên.

Và tôi yên tâm vì trong sương mù dày đặc không ai còn trông thấy tôi, không còn phải chống cự hay sợ hãi điều gì.
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 13
Trong phòng chung, đã ngày thứ ba chúng chơi Cờ tỷ phú. Nhà và khách sạn bày nhan nhản khắp nơi, hai chiếc bàn được ghép vào nhau để có chỗ bày bàn cờ và các nắm tiền đồ chơi. Để trò chơi được cuốn hút hơn, McMurphy thuyết phục cả bọn chi một xu cho mỗi đôla được nhà băng đồ chơi cấp. Hộp quân chứa đầy tiền xu.

"Ra đi, Cheswick."

"Khoan hãy ra đã, để mua khách sạn tao cần cái gì?"

"Martini, mày cần bốn ngôi nhà ở từng ô trong tất cả các ô cùng màu. Nào, ra thôi, quỷ bắt chúng mày đi."

"Từ từ."

Phía bên kia bàn, tiền vương ngổn ngang, những tờ giấy xanh, đỏ, vàng bay loạn xạ.

"Mày mua khách sạn hay đón năm mới hả khỉ?"

"Cheswick, gieo xúc xắc đi."

"Hai điểm, ô hô, Cheswicker thân yêu, mày đi vào đâu thế này? Chẳng phải là đúng vào khu Marvin Gardenscủa tao hay sao? Và chẳng phải như thế nghĩa là mày phải trả... để xem... ba trăm năm mươi đô la?"

"Mẹ mày!"

"Những cục gì thế này, đợi tí, những cục gì nằm khắp bàn cờ thế này?"

"Martini, mày đã thấy những cục gì nằm khắp bàn cờ hai ngày nay. Không có gì lạ là tao đang bị cháy. McMurphy, tao không hiểu làm sao mày có thể tập trung chơi khi bên cạnh là thằng Martini nhập đồng."

"Cheswick, mày không phải lo cho Martini. Mọi chuyện của nó vẫn suôn sẻ. Chồng ra ngay ba trăm rưởi, còn Martini sẽ tự lo lấy thân; không phải tao với mày vẫn thu tiền đều đều mỗi lần ‘cục’ của nó lăn vào đất mình chắc?"

"Đợi tí, sao nhiều thế này?"

"Không sao, Mart. Chỉ cần báo cho bọn tao chúng rơi vào đất của đứa nào. Cheswick, mày vẫn cầm xúc xắc vì mới gieo hai viên giống nhau, ra tiếp đi. Khá lắm, bụp, những sáu điểm."

"Tao rơi vào... Cơ hội: ‘Bạn được bầu làm chủ tịch hội đồng, hãy trả cho mỗi người chơi...’ mẹ khỉ hỏng bét."

"Khách sạn của đứa nào trên Đường sắt Reading thế này?"

"Chú em à, đây không phải là khách sạn mà là nhà kho."

"Không, đợi tí..."

McMurphy thu dọn lại góc bàn của mình, xê dịch các tấm thẻ, sắp xếp lại tiền bạc, chỉnh lại các khách sạn đứng cho thẳng tôi hắn. Một tờ một trăm đô la thòi ra dưới vành mũ hắn như cái thẻ nhà báo, hắn nói đấy là tiền cấp cứ.

"Scanlon, hình như đến lượt mày."

"Đưa xúc xắc đây. Tao sẽ phá tung từng mảnh cơ ngơi của chúng mày. Đấy, mười một một, Martini, đi hộ quân cho tao đi."

"Có ngay."

"Ấy đừng sờ vào đây, khỉ gió. Đây đâu phải là quân của tao, đây là nhà."

"Cũng màu ấy."

"Đặt ngôi nhà này trong Công ty điện để làm gì?"

"Đó là nhà máy điện."

"Martini, tay mày không phải là đang lắc xúc xắc..."

"Để nó yên, thì cũng thế thôi!"

"Đấy là hai cái nhà!"

" Bụp. Thế là Martini được những... để tao tính... mười chín điểm. Giỏi lắm, Mart, mày rơi vào... quân mày đâu?"

"Hả?... Đây này."

"Hắn ngậm vào mồm, McMurphy ạ. Giỏi lắm. Thế là đi bốn bước và chỉ rơi vào Đại lộ Baltic. Ôi, Martini! Cái nhà duy nhất mà mày có. Con người có thể may mắn tới mức nào, tụi bay? Chơi đã ngày thứ ba mà lần nào hắn cũng rơi vào đất của chính hắn."

"Harding, im mồm và ném đi, đến lượt mày."

Harding đưa những ngón tay dài cầm lấy quân xúc xắc, mân mê các cạnh như người mù. Những quân xúc xắc trắng nõn như các đốt ngón tay Harding, trông như bàn tay kia đã tạc ra những ngón này. Hắn lắc lắc nắm tay và gieo. Những quân xúc xắc lăn đi và dừng lại trước mặt McMurphy.

" Bụp. Năm, sáu, bảy. Chú em xui quá. Lại đặt chân lên lãnh địa bao la của qua. Chú phải trả... A ha, hai trăm có lẽ là đủ đấy."

Tiếc quá.

Chúng cứ thế chơi, trong tiếng lách cách của những quân xúc xắc và tiếng sột soạt của những tờ tiền đồ chơi.

Thỉnh thoảng lại có những đợt sương giăng đầy - ba ngày, năm ngày - không nhìn thấy gì, chỉ có thể hình dung mình đang ở đâu qua tiếng loa trên tường như chiếc phao tiêu trong sương mù. Khi sương phai dần, mọi người đi lại xung quanh tôi, tỉnh khô như thể trong không khí chưa hề có sương khói. Tôi tin sương mù đã làm hỏng trí nhớ của họ, dù không có ảnh hưởng được đến tôi.

Cả McMurphy cũng không tỏ ra biết là hắn bị phun mù. Nếu biết chắc là hắn đã cố lờ đi, không để ai thấy hắn khó chịu. Hắn không để tụi hộ lý nhận ra sự khó chịu của hắn về bất cứ chuyện gì, hắn biết rằng nếu có bị ai chèn ép thì điều làm kẻ ấy bẽ bàng nhất là tỏ ra không chấp nê sự chèn ép dó.

Dù tụi hộ lý và các nữ y tá có nói gì, xỏ xiên đến đâu nhằm làm hắn phát khùng, hắn vẫn xử sự với chúng như một quý ngài lịch sự và đúng đắn. Một vài lần, mặc dầu điên tiết vì một nguyên tắc ngớ ngẩn, hắn vẫn nói bằng giọng càng thêm mềm mỏng, lời lẽ càng trở nên nhẹ nhàng, cho tới khi hắn hiểu ra hết chất hài hước của tình hình: của các nguyên tắc, những cái nhìn quở trách để củng cố các quy tắc đó, lối chúng nói chuyện tựa hồ kẻ đối thoại là một đứa trẻ lên ba; và khi hiểu ra điều đó hắn phá lên cười, làm tụi hộ lý không biết trút đâu cho hết giận. Chừng nào còn cười được thì chưa ai làm gì nổi hắn, hắn hiểu điều đó, và cho đến giờ hắn vẫn chưa để mất khả năng đó. Chỉ một lần duy nhất không làm chủ được mình, tôi thấy hắn nổi khùng, không phải vì mấy đứa hộ lý, không phải vì mụ Y tá Trưởng, cũng không phải vì điều chúng đã làm, mà vì các bệnh nhân, vì điều họ đã không làm.

Việc đó xảy ra trong một cuộc họp. McMurphy cáu vì họ quá ranh mãnh – quá đớn hèn, hắn nói. McMurphy chơi cá với họ về Vòng chung kết bóng chày thế giới sắp bắt đầu vào thứ Sáu. Hắn tin đinh ninh là sẽ được xem cả giải trên tivi, mặc dầu giờ phát không trùng với giờ xem tivi thường lệ. Trong cuộc họp ít ngày trước đó McMurphy hỏi liệu chúng tôi có thể dọn vệ sinh vào buổi tối và ban ngày xem đấu bóng không. Ratched trả lời không, đúng như hắn chờ đợi. Mụ bảo thời gian biểu được lập trên cơ sở tính toán kỹ càng nhiều yếu tố khác nhau và sự thay đổi giờ giấc này có thể dẫn tới tình trạng hỗn loạn trong khoa.

Hắn không ngạc nhiên vì lời đáp của mụ y tá, mà chỉ ngạc nhiên vì thái độ của đám bệnh nhân Cấp tính khi hắn hỏi ý kiến chung. Tất cả đều câm như hến. Mỗi người tìm một đám sương mù cho mình và chui vào đó. Phải căng mắt ra tôi mới nhìn thấy họ.

"Tụi mày nhìn tao đây," McMurphy nói, nhưng không đứa nào nhìn. Hắn chờ họ nói ra một điều gì đó, trả lời câu hỏi còn họ ngồi im như bị điếc hết lượt. "Nhìn tao đây, quỷ bắt hết tụi bay đi, tao biết không dưới mười hai đứa rất thèm biết kết quả trận này. Chẳng lẽ tụi bay không buồn xem?"

"Tao cũng không biết nữa, Mack ạ." Cuối cùng Scanlon nói. "Tao vẫn quen xem chương trình thời sự lúc sáu giờ chiều. Còn nếu chuyện đổi thời gian biểu có thể gây ra hỗn loạn như bà Ratched nói..."

"Thây kệ thời gian biểu. Mày cứ việc quay lại với cái thời gian biểu vào tuần sau, khi kết thúc vòng chung kết. Thế nào anh em? Chúng ta sẽ bỏ phiếu để xem tivi vào ban ngày chứ không phải buổi tối. Ai ủng hộ?"

"Tao." Cheswick hét tướng và đứng bật dậy.

"Tao bảo đứa nào ủng hộ thì giơ tay lên. Nào, ai ủng hộ.

Chỉ có một cánh tay của Cheswick. Vài đứa khác đảo mắt nhìn quanh xem còn thằng ngu nào nữa không. McMurphy không tin vào mắt mình.

"Sao lại có trò nhảm nhí thế này! Tao nghĩ, chúng mày có thể biểu quyết về thời gian biểu của khoa và mọi việc khác. Có đúng vậy không, bác sĩ?"

Gã bác sĩ gật đầu nhưng không ngẩng đầu lên. "Được rồi, ai muốn xem trận đấu tới?"

Cheswick càng giơ cao tay hơn và giận dữ nhìn những đứa còn lại. Scanlon lắc đầu, uể oải đưa tay lên. Không còn ai khác. McMurphy cứng lưỡi.

"Nếu vấn đề này kết thúc ở đây," mụ Y tá Trưởng nói, "tôi yêu cầu tiếp tục cuộc họp."

"Ờ ờ," McMurphy tuột xuống trong ghế tới khi vành mũ suýt chạm ngực. "Tiếp tục cuộc họp chó má của chúng ta đi!"

"Ờ ờ," Cheswick nói, giận dữ nhìn mọi người và ngồi xuống. "Ờ, tiếp tục cuộc họp ma quỷ của chúng ta đi!" Hẳn Cheswick khoái ngồi cạnh McMurphy và thích trở nên dũng cảm, mạnh mẽ như thế. Lần đầu tiên trong việc theo đuổi một đại nghiệp thất bại, hắn tìm được đồng minh.

Sau cuộc họp McMurphy không mở miệng trò chuyện với ai, hắn quá bực bội và dữ tợn. Billy Bibbit tự đến bên hắn.

"Randle," Billy nói, "nhiều đứa trong t...t... tụi tao cũng đã hơn n...n...năm năm ở đây." Hắn cuộn tròn quyển tạp chí hết xuôi lại ngược, trên tay hằn các vết bỏng vì tàn thuốc lá. "Nhiều đứa s... sẽ còn ở đây rất lâu, cả sau khi m... m... mày đi, sau khi chấm dứt Vòng ch... ch... ung kết. Mà... mày không hiểu sao..." Hắn ném quyển tạp chí xuống và bỏ đi. "Ôi, mà dằng nào cũng vô ích cả thôi."

McMurphy nhìn theo, trên đôi mày trắng bợt lại hiện lên cái cau mày khó hiểu.

Thời gian còn lại trong ngày, hắn dành để cãi nhau, cố hiểu tại sao họ lại không biểu quyết, nhưng không ai muốn nói gì với hắn, nên có vẻ hắn đành im và không đả động gì đến chuyện đó cho tới trước ngày diễn ra trận khai mạc. "Hôm nay là thứ Năm," McMurphy nói và lắc đầu buồn bã.

Trong phòng tắm, hắn ngồi lên bàn, gác chân chân ghế, nghịch chiếc mũ quay quay trên đầu ngón tay. Đám Cấp tính đi lại trong phòng, cố làm ra vẻ không để ý tới hắn. Chẳng còn ai để chơi poker hay blackjack tính điểm ăn tiền nữa: sau khi họ từ chối biểu quyết, McMurphy nổi cáu và vét nhẵn túi họ, cả đám còn mắc nợ đầm đìa nên không dám chơi tiếp, mà cũng không thể chơi ăn thuốc lá vì mụ y tá đã mang hết thuốc về buồng trực, chỉ phát nhỏ giọt cho mỗi người một gói mỗi ngày, nói là để bảo vệ sức khỏe cho bệnh nhân, nhưng thực ra là để McMurphy không lột hết những điếu thuốc cuối cùng của họ. Không chơi poker hay blackjack, buồng tắm lặng như tờ, chỉ có tiếng nhạc từ phòng chung vẳng tới. Yên ắng đến mức có thể nghe được cả tiếng rên đều đặn, buồn tẻ của cái thằng đang trèo tường phát ra từ tầng trên u-u, u-u, u-u, như tiếng trẻ thét để tự quát mình ngủ.

"Thứ Năm," McMurphy nhắc lại.

" U-u-u," từ trên đầu gã đó lại kêu lên.

"Đó là Rawler," Scanlon nói và nhìn lên trần nhà, muốn lờ McMurphy đi. "Rawler Rên la mấy năm trước đã từng ở phòng này. Hắn không chịu vâng lời bà Ratched mà câm mồm, mày còn nhớ không, Billy? Suốt ngày cứ kêu u-u như vậy, nghĩ mà điên đầu. Với những thằng mất trí trên đó chỉ có cách duy nhất là lẳng cho nó hai trái lựu đạn vào buồng ngủ. Để chúng sống cũng chẳng ích lợi gì..."

"Còn ngày mai là thứ Sáu," McMurphy không để cho Scanlon lái câu chuyện sang hướng khác."Đúng," Cheswick bực dọc nhìn căn phòng, nói. "Ngày mai là thứ Sáu."

Harding đang giở một quyển tạp chí. "Nghĩa là gần một tuần ông bạn McMurphy sống giữa chúng ta mà ách thống trị vẫn chưa bị lật đổ, mày muốn nói thế, phải không Cheswickle? Trời ơi, mày nghĩ xem, chúng ta đang lún sâu vào vực thẳm của sự lạnh nhạt và thờ ơ – thật nhục nhã."

"Cút mẹ mày đi Harding," McMurphy đáp. "Cheswick muốn nói, ngày mai tivi sẽ truyền trận đầu tiên, còn chúng ta sẽ làm gì? Lại cọ rửa cái hài nhi viện tởm lợm này."

"Ừ," Cheswick tiếp. "Hài nhi viện Trị liệu của Má Ratched."

Áp mình vào bức tường phòng tắm, tôi có cảm giác mình là một tên gián điệp; cán bài chải chùi sàn không phải bằng gỗ mà bằng kim loại (để dẫn điện) và lại rỗng, bên trong thừa chỗ để gắn micrô tí hon. Nếu mụ nghe được câu chuyện của họ thì Cheswick nhừ xương mất. Tôi lấy trong túi ra một viên cao su cứng véo một mảnh ngậm trong miệng cho nó mềm.

"Nào, thử lại lần nữa," McMurphy nói. "Tao đếm xem có bao nhiêu đứa sẽ ủng hộ nếu ngày mai tao yêu cầu bật ti vi ban ngày?"

Khoảng một nửa đám Cấp tính gật đầu, trong số này sẽ chỉ một mẩu tham gia biểu quyết. Hắn lại chụp mũ lên đầu, chống hai tay vào cằm.

"Trời đất, không thể hiểu nổi tụi bay. Harding, sao mày cứ ngồi như phỗng vậy? Bộ mày sợ cứ giơ tay lên thì con diều hâu cái già nua đó sẽ cắt mất hay sao?"

Harding dướn đôi lông mày ướt át: "Có thể. Rất có thể tao sợ mụ cắt nếu tao giơ tay lên."

"Còn mày, Billy, mày sợ cái gì?"

"Tao chả sợ g... gì cả. Chưa hẳn b... bà ta đã làm được gì. Nhưng..." hắn nhún vai, thở dài trèo lên bệ điều khiển dùng cho các vòi nước buồng tắm, ngồi vắt vẻo như một con khỉ đuôi dài. "... tao nghĩ cuộc bỏ phiếu này sẽ không m... m... mang lại điều gì tốt đẹp cả Về lâu v... về dài. V... vô ích thôi, M... Ma... Mark ạ."

"Mày bảo vô ích? Hu la la! Với tụi bay thì một tí bài tập tay chân có ích lắm chứ."

"Dẫu sao việc làm này cũng mạo hiểm, bạn thân mến ạ. Bà ta sẽ tìm ra cơ hội để o ép chúng ta dữ hơn. Không đáng vì một trận bóng chày mà phải liều mạng," Harding nói.

"Đứa nào nói đó? Mẹ khỉ, đã bao năm nay tao không bỏ sót một trận chung kết nào. Một lần bị ngồi tù vào tháng Chín, tụi cai ngục phải mang tivi đến tận cửa cho tụi tao, nếu không, cả trại đã nổi loạn. Có thể tao sẽ phá cửa rồi đi tới thị trấn vào cái bar nào chẳng hạn, xem bằng được – chỉ có tao và bạn hiền Cheswick."

"Ý tưởng này có vẻ thông minh," Harding ném quyển tạp chí xuống. "Hay ta sẽ bỏ phiếu trong cuộc họp ngày mai? ‘Bà Ratched, tôi đề nghị đưa phân khoa en masse tới quán Ngoài giờ hành chính để nhậu nhẹt và coi tivi’?"

"Tao sẽ ủng hộ đề nghị đó, mẹ khỉ." Đấy là Cheswick.

"Xếp xó cái ma-xơ của mày đi," McMurphy nói. "Tao ngán tụi bay tới cổ, như bà già cả lũ; tao sẽ cùng Cheswick chuồn khỏi đây, đóng đinh cửa lại đằng sau. Còn bọn bay, những đứa trẻ ngoan ngoãn, ở lại nhé, má tụi bay cấm các con qua đường."

"Không giỡn đấy chứ? Cứ thử xem!" Fredrickson tiến lại phía McMurphy. "Mày sẽ nhấc cái giày hầm hố kia lên mà đạp cho vỡ cửa à? Quả là một người đàn ông thực sự."

McMurphy không nhìn Fredrickson; hắn đã kịp hiểu Fredrickson hay giả bộ là một chàng trai có khí phách ngang tàng, nhưng chỉ cần một tí dọa nạt là quắn lại.

"Nói đi, anh chàng hầm hố?" Fredrickson vẫn không chịu buông tha, "Mày sẽ đạp vỡ cửa cho chúng tao thấy thế nào là đàn ông chứ?"

"Không, Fred. Việc gì phải làm hỏng đế giày như thế?"

"Vậy hả? Nãy giờ mày chỉ có khuếch khoác, vậy mày tính chuồn khỏi đây thực sự bằng cách nào?"

McMurphy nhìn căn phòng một lượt. "Tao đồ chừng tao chỉ cần dùng ghế đập gãy tấm lưới sắt ở một cửa sổ nào đó và khi nào tao thích..."

"Đơn giản thế thôi? Đập cửa và phóng ra đường? Để xem, người hùng, tao cá mười đô là mày không làm nổi."

"Chớ bận lòng, Mack," Cheswick nói. "Fredrickson biết rằng chỉ cần mày đập gãy ghế là sẽ bị bắt lên khoa điên. Khi đến đây, ngay ngày đầu tiên chúng đã thử lưới sắt ngay trước mặt tụi tao. Đó không phải là những lưới sắt thường. Thằng kỹ thuật viên cầm một cái ghế như cái mày đang ngồi kia và đập đến nát thành mảnh vụn. Tấm lưới sắt thậm chí không quằn lấy một mảnh."

"Thôi được," McMurphy lại nhìn quanh. Tôi thấy là hắn đang ngày càng hào hứng. Hy vọng mụ Y tá Trưởng không nghe trộm được, không thì chỉ sau một giờ McMurphy sẽ có mặt ở phòng điên. "Tóm lại, cần phải dùng một vật nặng hơn. Cái bàn, được không?"

"Cũng như chiếc ghế thôi, chúng đều bằng gỗ cả, trọng lượng như nhau."

"Thôi được, mẹ khỉ, chúng ta hãy nghĩ xem vật nào phá được những tấm lưới này. Còn tụi bay, một đám chim sẻ, nếu cho rằng qua sẽ không làm thế bất cứ khi nào muốn thì nhầm to. Nào, phải tìm thứ khác nặng hơn bàn và ghế... Nếu vào ban đêm, qua sẽ ném thằng nhọ to béo vào cửa sổ - hắn khá nặng."

"Nhưng hơi mềm," Harding nói. "Hắn sẽ chui qua, nát nhừ như một quả cà luộc."

"Chiếc giường thì sao?"

"Dù mày nhấc nổi thì nó cũng quá to không lọt cửa."

"Nhấc không khó, khỉ ạ. À có ngay trước mắt ta đây: cái thằng Billy đang ngồi lên. Bộ điều khiển có đòn bẩy và tay quay. Nó đủ cứng chứ hả? Và tao thề là nó đủ nặng."

"Được đấy," Fredrickson nói. "Cũng hiệu quả không kém việc mày động chân vào cánh cửa sắt bệnh viện."

"Tại sao lại không dùng nó chứ? Hình như nó đâu bị gắn vào sàn nhà."

"Vâng, không gắn, chắc chỉ có ba bốn dây nối thôi, nhưng mày thử nhìn đi, giời ạ."

Tất cả cùng nhìn. Bệ bằng thép và bê tông, kích thước khoảng nửa chiếc bàn, chắc phải nặng đến vài trăm kí lô.

"Đấy tao đã nhìn xong. Chẳng to hơn bao cỏ khô mà tao vẫn chất lên xe tải."

"Anh bạn ạ, tôi e rằng thiết bị này nặng hơn đôi chút so với bó cỏ khô của anh."

"Hơn khoảng một phần tư tấn," Fredrickson đánh giá.

"Nó nói đúng, Mack ạ," Cheswick thêm. "Nặng khủng khiếp đấy."

"Chúng mày bảo tao không nhấc nổi em bé bằng sắt xinh xinh này?"

"Anh bạn, một người thái nhân cách dù có các phẩm chất phi thường đến đâu cũng không thể dời núi, lấp biển."

"Tụi bay không tin là tao nhấc nổi. Chờ đấy!"

Hắn tụt khỏi bàn, cởi áo bệnh nhân, trên bắp tay vạm vỡ thò ra khỏi áo lót chi chít những hình xăm.

"Đứa nào cá năm đô. Khi tao chưa thử thì đừng vội nói là tao không thể. Năm đô..."

"Ông McMurphy, hành động này của ông cũng điên rồ không kém cú cá cược về bà y tá."

"Đứa nào có năm đô lẻ muốn biếu không cho tao nào? Đánh hay là ngậm miệng..."

Chúng cả đám bắt đầu viết giấy trừ nợ; chơi poker với McMurphy, thua bạc quá nhiều, chưa đứa nào thanh toán sòng phẳng với hắn được, đây là cơ hội chắc như bắp. Tôi không hiểu McMurphy định giở trò gì: hắn to khỏe thật đấy, nhưng để nhấc nổi bệ xi măng cần phải có ba đứa McMurphy, mà cái đó hắn hẳn biết. Trông qua cũng thấy chỉ vật nghiêng nó ra cũng chẳng ai đủ sức, đừng nói đến chuyện nhấc lên khỏi mặt đất. Muốn nhấc được nó lên cần một gã khổng lồ. Nhưng khi chúng viết giấy nợ xong, McMurphy vẫn đến cạnh bệ điều khiển, bê Billy Bibbit xuống, nhổ nước bọt xoa hai lòng bàn tay to bè đầy chai sạn vào nhau, nhún vai khởi động.

"Được rồi, tụi bay tránh xa ra! Khi tao vận nội công, không khí xung quanh sẽ hết nhẵn, đến người lớn cũng ngất đi vì thiếu ôxy. Tránh ra, xi măng sẽ nát vụn, sắt thép sẽ bay tung. Hãy sơ tán đàn bà và trẻ nhỏ ra khỏi vùng nguy hiểm. Tránh ra..."

"Má ơi, biết đâu hắn sẽ làm được," Cheswick lẩm bẩm.

"Hắn sẽ uốn ba tấc lưỡi cho cái bệ tự bay lên," Fredrickson trả lời.

"Hắn sẽ bị thoát tràng một cách vinh quang," Harding nói. "Thôi đi, McMurphy, đừng khùng nữa. Sức người không nâng nổi vật đó đâu."

"Lui ra, các tiểu thư, phí ôxy của tao."

McMurphy chọn thế đứng, xoa hai tay vào quần, rồi cúi người, nắm lấy tay đòn ở hông bệ điều khiển. Khi hắn bắt đầu gồng lên, tụi Cấp tính đứng quanh bắt đầu cười đùa, trêu chọc. Hắn bỏ tay đòn ra, ưỡn người, vươn vai rồi dạng chân tìm thế đứng khác.

"Đầu hàng chưa?" Fredrickson cười khẩy.

"Mới khởi động chơi. Giờ tao nhấc thật," hắn lại tóm lấy tay đòn.

Và bỗng nhiên tiếng giễu cợt và cười đùa im bặt. Cơ bắp trên cánh tay hắn phồng lên, các đường ven căng đầy máu nổi bật dưới làn da. Răng hắn nghiến chặt, hàm bạnh ra, đầu ngửa về phía sau, gần như những sợi dây chão chằng từ cổ qua vai xuống cánh tay. Toàn thân hắn căng như sợi dây đàn và rung lên. Hắn đang dồn toàn bộ sức lực có ở một cơ thể cường tráng trong khi làm một việc hắn biết chắc là không được, cũng như tất cả đều biết chắc là không được.

Nhưng vào khoảnh khắc ấy, khi nghe tiếng xi măng vỡ lạo xạo dưới chân, một ý nghĩ chung lóe lên trong đầu chúng tôi: má ơi, biết đâu hắn sẽ làm được.

Rồi hơi thở từ phổi hắn buột ra, hắn kiệt sức ngã người vào tường. Trên tay đòn có máu bàn tay hắn. Hắn dựa vào tường phì phì thở mất một phút, mắt nhắm nghiền. Không còn một âm thanh nào khác ngoài tiếng thở của hắn, tất cả im phăng phắc.

Hắn mở mắt nhìn quanh. Hắn nhìn hết đứa này đến đứa khác, kể cả tôi, rồi lôi từ trong túi quần ra một nắm phiếu nợ, kết quả của những canh bạc trong mấy ngày gần đây. Cúi xuống bàn, hắn cố sắp xếp lại, nhưng không điều khiển nổi những ngón tay của mình, hai bàn tay hắn đã co quắp thành hai bộ mong vuốt đỏ lòm.

Cuối cùng hắn bèn ném cả tập xuống sàn nhà và bỏ đi: giá trị đến bốn mươi, năm mươi đô la từ mỗi thằng trong phòng. Đến cửa, quay lại phía khán giả, hắn nói:

"Nhưng tao đã thử. Quỷ tha ma bắt, ít nhất tao cũng đã thử, không phải sao?"

Rồi hắn đi khỏi mặc những tờ phiếu nợ dính máu bay vung vãi khắp phòng cho những đứa nào muốn nhặt.
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 14
Trong căn phòng dành cho nhân viên, gã cố vấn đang nói chuyện với các bác sĩ tập sự, cái sọ màu vàng phủ đầy mạng nhện xám.

Tôi quét cạnh hắn. "Cái của gì thế này?" Hắn nhìn tôi như nhìn một con rệp. Một đứa còn trẻ chỉ vào tai của mình, lắc đầu và gã cố vấn tiếp tục câu chuyện.

Tôi đẩy chổi đến ngang bức tranh phong cảnh treo trên tường do gã hói Quan hệ Công chúng để vào đấy một dịp phun mù. Trong tranh, một người đang dùng mồi ruồi câu cá bên khe suối, trông giống như trong dãy Ochoco gần Paineville: trên đỉnh núi những cây thông phủ đầy tuyết trắng, những cây bạch dương cao vút chạy dọc bờ suối, mặt đất rải rác những đám chút chít xanh rờn. Anh ta buông cần câu trong hốc đá. Cá sẽ không cắn mồi ruồi ở đây, phải dùng mồi trứng và lưỡi câu cỡ sáu. Mồi ruồi phải thả ở dưới kia, chỗ con nước xiết.

Tôi kéo lê chiếc bàn chải bước vào con đường mòn vòng vèo giữa những cây bạch dương. Ngồi lên một phiến đá tôi ngoái lại qua khung bức tranh nhìn gã cố vấn. Tôi nhìn thấy gã thọc thọc ngón tay vào lòng bàn tay kia, nhưng không nghe thấy gì, tiếng suối róc rách đã át đi tiếng nói của gã. Gió từ đỉnh núi thổi về mang theo hơi tuyết. Tôi còn thấy hang chuột chũi nhấp nhô dưới lớp cỏ. Ngồi đây duỗi chân cẳng mà xả hơi thật dễ chịu làm sao.

Người ta sẽ chóng quên – nếu không ngồi xuống cố mà hồi tưởng – quên ở bệnh viện ngày xưa cuộc sống ra sao. Ở đó, trên tường không có những chỗ dễ chịu để trèo vào giải trí, nghỉ ngơi. Không có ti vi, bể bơi, không có mỗi tháng hai lần ăn thịt gà. Chỉ có những bức tường trần trụi, những chiếc ghế, những chiếc áo trói chặt đến mức phải vất vả hàng giờ mới thoát ra khỏi chúng. Từ bấy đến nay, các lang y đã học được nhiều lắm. "Đã vượt qua một chặng đường dài" – gã Quan hệ Công chúng có bộ mặt hum húp nói. Chúng đã tô hồng cuộc sống bằng sơn màu, tranh ảnh và vòi nước nhà tắm mạ crôm. "Muốn trốn khỏi một nơi dễ chịu như thế này ư," gã Quan hệ Công chúng bảo, "có họa là kẻ không bình thường."Trong phòng nhân viên gã cố vấn co ro, ôm chặt lấy hai vai như người bị lạnh, đang trả lời câu hỏi của tụi bác sĩ trẻ. Người gã gầy đét, khẳng khiu, bộ quần áo rộng cứ đung đưa như treo mắc áo. Gã cứ thế ôm lấy hai vai mà run rẩy. Có lẽ gã cũng cảm nhận được luồng gió lạnh từ đỉnh núi thổi về.

Thật khó tìm ra giường của mình vào buổi tối – phải bò lồm cồm và sờ nắn, quờ quạng dưới lò xo đến khi tôi tìm thấy cục kẹo cao su của mình dính vào. Không đứa nào kêu ca vì sương mù. Giờ tôi đã hiểu tại sao: hơi bê tha, dĩ nhiên, nhưng lặn ngụp, trấn an mình trong đó, lại cảm thấy an toàn. McMurphy không hiểu cho chúng tôi điều đó, không hiểu chúng tôi muốn an toàn. Hắn luôn tìm cách lôi chúng tôi khỏi đám sương mù, ra chỗ quang đãng, nơi người ta rất dễ bị tấn công.

Phía dưới, một chuyến hàng toàn những bộ phận ướp lạnh – tim, gan, óc và các thứ khác vừa về. Tôi nghe thấy tiếng chúng va đập vào nhau trong rãnh máng đổ vào hầm lạnh. Trong phòng, một người ngồi đâu đó tôi không nhìn thấy nói rằng hôm qua phòng điên có một đứa vừa tự tử. Thằng Rowler. Nó cắt túi hột cà, máu chảy đến khi chết, trong lúc đang ngồi trên chậu hố xí; có năm người ở đó, nhưng mãi đến lúc nó ngã vật ra sàn nhà mới hay biết.

Tôi không hiểu nổi sao họ nôn nóng vậy, chỉ cần đợi đến lúc là xong.
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 15
Tôi đã quá quen với máy phun mù. Ở châu Âu, chúng tôi có cả một trung đội chỉ để chạy những cỗ máy phun mù bảo vệ các sân bay. Khi được điệp báo viên báo trước một đợt ném bom, hay khi các vị tướng chợt có một điều gì bí mật là họ lại khởi động máy tạo sương mù ngụy trang. Gián điệp ở ngay sát nách cũng không thể phát hiện ra.

Đó là một thiết bị không mấy phức tạp: một chiếc bơm hút nước và một loại dầu đặc biệt từ hai bể chứa khác nhau, nén chúng lại và từ vòi phun đen xì cuối cỗ máy phun ra một đám mù màu trắng, đủ để phủ kín một sân bay trong chín mươi giây. Thứ sương mù đó là thứ đầu tiên mà tôi thấy khi đặt chân lên đất châu Âu. Máy bay vận tải của chúng tôi bị vài máy bay do thám bám theo sát nút, và chúng tôi vừa chạm đất là đội phun mù lập tức mở máy. Nhìn qua cửa kính tròn xước xát, chúng tôi thấy máy phun mù được xe Jeep chở đến sát máy bay mình, nhìn sương mù tỏa ra như bông ướt, cuồn cuộn lan khắp sân bay và bám vào làm mờ cả cửa kính.

Sau đó ta phải tìm đường lần ra khỏi máy bay theo tiếng còi trung úy thổi, tiếng còi nghe như tiếng ngỗng kêu đổi mùa, Ra đến bên ngoài là không thấy nổi vật gì cách quá một mét. Ta có cảm giác là mình hoàn toàn đơn độc trên cả sân bay. Được che chở an toàn khỏi mắt kẻ thù, nhưng lẻ loi đến đáng sợ. Tiếng động cách khoảng vài thước cũng bị chìm đi, không còn nghe được tiếng đồng đội, không còn gì ngoài tiếng còi the thé rời rạc xuyên màn trắng mềm mại, mịn màng như lông tơ, đặc quánh đến nỗi phần cơ thể từ thắt lưng trở xuống cũng lặn vào màu trắng; ngoài cái áo nâu và khóa thắt lưng đồng, chẳng còn nhìn thấy gì nữa ngoài màu trắng, cứ như bên dưới hông ta không còn lại gì, đã bị sương mù nuốt hết.

Rồi thình lình sẽ có một người cũng đang lạc lối như ta hiện ra ngay trước mặt, trong đời chưa bao giờ ta được thấy một khuôn mặt người to và rõ ràng đến thế. Vì đôi mắt luôn căng ra, cố xé đám sương mù nên khi có một vật xuất hiện thì mọi đường nét của nó trở nên rõ ràng gấp mười lần bình thường, và cả hai đứa không chịu nổi phải quay mặt đi. Khi có người xuất hiện ta không muốn nhìn mặt họ và họ cũng không muốn nhìn mặt ta, bởi thật đau lòng phải thấy nhau rõ ràng như thấy đến cả ruột gan như thế, nhưng cũng không muốn quay đi để mất hắn và mình trở nên đơn độc. Ta chỉ có hai lựa chọn ấy: hoặc căng mắt nhìn những gì hiện ra từ sương mù, bất chấp đau đớn, hoặc thả mình trôi đi vào lãng quên.

Chúng đã mua chiếc máy phun mù khi người ta thanh lý hàng quân dụng và bí mật nối với hệ thống thông gió ở nhà mới trước khi chúng tôi chuyển về. Lần đầu tiên chúng khởi động máy, theo phản xạ, tôi cố sức căng mắt ra nhìn mỗi khi có vật gì xuất hiện trong màn sương, để bám lấy nó như khi bị phun mù ở sân bay châu Âu. Ở đây không có tiếng còi, cũng chẳn có dây chằng, chỉ có thể định vì bằng cách dán mắt nhìn vào một vật gì đó. Thế nhưng đôi lúc tôi vẫn bị lạc, nếu tìm cách trốn quá sâu trong đám sương mù và mỗi lần như vậy cuối cùng tôi lại thấy mình đang đứng trước cánh cửa sắt không số với một hàng đinh tán trông như những con mặt, cứ như căn phòng đó hút tôi tới đó dù tôi cố kháng cự cách nào, cứ như luồng điện tạo ra trong tay lũ quỷ trong phòng đá đã phóng ra thành một luồng xuyên màn sương để chập lấy tôi kéo theo mình như một rô bốt. Mất nhiều ngày tôi lang thang trong sương mù, mang theo nỗi sợ rằng sẽ không còn được nhìn thấy gì nữa, rồi bỗng nhiên tới bên cánh cửa sắt, đang mở toang cho thấy những bức tường bọc nỉ cách âm, thấy một hàng người như những thây ma sống kia, đứng xếp hàng giữa những cuộn dây đồng đỏ au và bóng điện nhấp nhày, tia lửa điện lập lòe. Tôi đứng sau họ và đợi đến lượt mình. Trân mặt bàn hình thập tự còn in bóng hàng nghìn người bị hạ sát, những cổ tay mắt cá ma đút vào vòng da đã xanh lè vì thấm mồ hôi, những cổ và đầu ma đút vào dải đai bằng bạc đóng ngang trán. Rồi gã kỹ thuật viên ngồi sau bàn điều khiển ngẩng lên nhìn hàng người, chỉ bàn tay đeo găng da vào tôi: "Cẩn thận, tôi biết rõ thằng khốn dài lêu nghêu kia – tốt hơn là nện cho hắn một phát vào gáy hoặc gọi thêm người giúp sức. Hắn giãy khỏe hơn bất cứ đứa nào."

Thế nên hồi đầu tôi cố thoát khỏi sương mù vì sợ bị lạc lối và rơi vào trước cửa phòng Đột Tử. Tôi nhìn vào bất cứ vật gì nhô ra trước mặt và không rời mắt khỏi chúng như người ta vẫn bám sát hàng cọc tiêu bên đường trong cơn bão tuyết. Nhưng sương mù mỗi lúc một dày và dù cố đến đâu, vài lần một tháng vẫn phải xuất hiện trước cánh cửa địa ngục đang mở rộng, mùi khét của tia lửa điện, mùi ôdôn đang chờ. Mọi cố gắng lẩn trốn càng ngày càng thêm vô ích.

Thế rồi tôi phát hiện điều này: tôi sẽ không lạc đến cánh cửa đó nếu cứ ngồi im trật tự khi sương mù trùm tới. Nhưng phiền hơn nữa là tôi tự tìm đường đến đó bởi quá sợ phải luẩn quẩn trong sương mù, tôi sẽ la lên và thế là chúng tóm được. Nói cho đúng là tôi cố tình gào lên cho chúng tóm; khi ấy tôi nghĩ dù gì cũng hơn lạc lối trong đám khói trắng, dù phòng Đột tử cũng hơn. Còn bây giờ, tôi không biết nữa. Lạc lối trong đám khói trắng cũng không đến nỗi nào.

Cả buổi sáng nay tôi ngồi đợi chúng phun mù trở lại. Mấy ngày nay mù dày quá, mà theo ý tôi có lẽ tại McMurphy. Hắn vẫn chưa bị nối với hệ điều khiển, và chúng đang muốn chộp vào lúc hắn không ngờ. Chúng đã hiểu hắn sẽ là nguồn cơn rắc rối dài lâu; hắn đã kịp nhiều lần khích Cheswick, Harding và một số đứa khác đến mức cảm tưởng như họ sắp đánh lộn với tụi hộ lý đến nơi – nhưng lần nào cũng vậy, hễ một bệnh nhân có vẻ sắp vùng lên là máy phun mù liền được bật lên, cũng như lần này.

Mấy phút trước tôi đã nghe thấy tiếng bơm của máy nén đằng sau tấm lưới sắt, đúng vào lúc tụi Cấp tính đang khuân bàn ra khỏi phòng chung chuẩn bị cho cuộc họp, và chưa chi sương mù đã ùn ùn trên sàn nhà, nhiều đến mức ống quần tôi ướt đẫm. Đang lau cửa kính phòng trực tôi nghe thấy mụ Y tá Trưởng nhấc ống nói gọi cho gã bác sĩ, bảo hắn cuộc họp sắp bắt đầu và yêu cầu hắn dành một tiếng sau bữa ăn trưa để thảo luận với các nhân viên. "Vấn đề hôm nay là", mụ nói, "theo tôi, đáng ra chúng ta đã phải bàn vấn đề bệnh nhân RandleMcMurphytừ lâu, và nên chăng cứ giữ hắn ở lại khoa ta?" Mụ lắng nghe một lúc rồi nói tiếp. "Tôi cho là phi lý nếu cứ để hắn tiếp tục kích động bệnh nhân như những ngày gần đây."

Thì ra vì thế mà mụ phải phun sương mù trước khi họp. Trước đây không mấy khi có chuyện đó. Nhưng hôm nay mụ muốn làm gì đó với McMurphy, tống lên khoa Điên là cái chắc. Tôi buông giẻ, đi đến ghế của mình ở cuối hàng các con bệnh Kinh niên, từ đây khó khăn lắm mới thấy các con bệnh lục tục ngồi vào ghế và gã bác sĩ bước vào, tay lau đôi kính như thể không phải sương mù làm hạn chế tầm nhìn mà chỉ vì mặt kính mờ đi.

Chưa bao giờ sương mù cuộn lên dày đặc đến thế.

Tôi nghe văng vẳng ở đâu đó người ta cố bắt đầu một cuộc họp, nói những điều vớ vẩn vô nghĩa về chuyện tại sao Billy Bibbit lại nói lắp. Tiếng nói vọng đến tôi như phải đi qua một màn nước. Sương đặc đến mức tôi dềnh lên khỏi chiếc ghế và không còn phân biệt được đâu là phía trên, đâu là bên dưới. Ban đầu tình trạng mất trọng lượng làm tôi buồn nôn. Tôi không nhìn thấy gì cả. Chưa bao giờ tôi gặp sương đặc đến mức mình trôi lềnh bềnh thế này.

Tiếng người nói lúc trầm lúc bổng, lúc tắt đi, lúc lại vang lên, trên đường tôi trôi ngang dọc, nhưng kể cả lúc to nhất, to và rõ khiến tôi biết người nói đang ngồi ngay bên cạnh, cũng tuyệt nhiên không thấy một ai.

Tôi nhận ra giọng Billy, vì hồi hộp, hắn nói lắp hơn bao giờ hết. "...b...b...bị đuổi khỏi trường tổng hợp v...v...vì bỏ tập quân sự. Khô...khô...không chịu đựng nổi. Kh...kh...khi điểm danh, người sĩ quan gọi ‘Bibbit’, tôi không thể lên tiếng ngay lậ...lậ...lập tức. Đáng ra ph...ph...phải đáp ‘C...c...ó...’," Billy đánh vật mãi chữ đó như bị vướng cục xương trong họng. Tôi nghe thấy hắn hắng giọng, bắt đầu lại. " Đáng ra phải đáp ‘có tôi’, nhưng tôi kh...kh...không làm được."

Giọng nói tắt đi, rồi từ bên trái tiếng mụ y tá cất lên, "Billy, ông có nhớ ông gặp khó khăn khi phát âm từ bao giờ không? Ông bắt đầu nói lắp từ khi nào?"

Tôi không chắc có phải hắn đang cười hay không. "Bắt đầu n...nó...nói lắp? Bắt đầu nói lắp? Tôi bắt đầu nói lắp ngay từ cả chữ đầu t...t...iên:m...m...m...mẹ."

Cuộc đối thoại lặng im: chưa bao giờ có chuyện này. Cũng có thể Billy đang giấu mình vào trong màn sương. Cũng có thể tất cả tụi Cấp tính đã vĩnh viễn chìm lỉm vào trong đó.

Có một chiếc ghế bơi dập dềnh qua tôi. Đó là vật đầu tiên tôi thấy. Nó trôi ra khỏi màn sương phía phải, sau mấy giây đã ở ngay trước mặt, gần hơn chút nữa là tôi túm được. Thời gian gần đây tôi không chú ý đến các đồ vật hiện ra trong sương nữa, chỉ ngồi yên, không bám theo chúng. Nhưng bây giờ tôi lại sợ như trước đây vẫn sợ. Tôi cố hết sức nhoài người đến chiếc ghế để bắt lấy nó, nhưng điểm tựa không có, tôi chỉ vùng vẫy vô ích trong không khí, còn chiếc ghế hiện ra rõ dần, rõ dần, có thể thấy được vân tay của người thợ mộc để lại trên mặt véc ni lúc chưa khô, vật vờ trước mặt tôi một lúc rồi lại tan biến đi. Tôi chưa bao giờ thấy đồ vật bơi quanh thế này. Tôi chưa bao giờ thấy sương đặc thế, đặc đến khiến tôi không đặt nối chân xuống sàn nhà mà cất bước. Vì thế nên tôi sợ: tôi linh cảm rằng lần này bị cuốn đến một nơi nào đó rất xa và không bao giờ quay lại.

Phía dưới tôi một chút là một bệnh nhân Kinh niên đang bơi lại gần. Đó là đại tá già Matterson đang giơ bàn tay dài, vàng ệch ra đọc những gì ghi trên đó. Tôi nhìn chăm chú vì nghĩ rằng đây là lần cuối cùng được trông thấy lão. Khuôn mặt lão to đến dễ sợ. Mỗi sợi tóc, mỗi nếp nhăn đều được phóng đại như qua kính hiển vi. Tôi nhìn thấy lão rõ đến mức nhìn thấu cả cuộc đời gã. Khuôn mặt là sáu mươi năm ở các trại lính TâyNambị cày nát bởi đạn bom, mòn đến trơ xương bởi hàng nghìn bước chân từng phải nện xuống trong các cuộc hành binh hai ngày không nghỉ.Lão duỗi bàn tay, gí sát vào mặt, nheo mắt, giơ bàn tay kia đưa ngón tay đã cứng lại như gỗ và bóng lên màu báng súng vì khói thuốc, lần theo từng chữ. Giọng lão trầm, chậm rãi và kiên nhẫn, và tôi nhìn thấy từ phía trong đôi môi cằn cỗi, những chữ nặng và đen đục lần lượt bay ra.

"Xem nào...Lá cờ...đố là nước Mỹ. Nước Mỹ là...quả mận. Quả đào. Quả dưa hấu. Nước Mỹ là...cục đường phèn. Hạt bí. Nước Mỹ là...cái ti vi."

Đúng thế. Tất cả đều viết trên bàn tay màu vàng. Tôi có thể đọc theo lão.

"Bây giờ...Cây thánh giá... Là nướcMexico." Lão ngẩng mặt lên xem tôi có nghe không; thấy tôi vẫn chú ý theo dõi, lão cười và đọc tiếp: "Mexicolà... quả bồ đào. Quả dẻ. Quả sồi.Mexicolà... cầu vồng. Cầu vồng... bằng gỗ,Mexico... bằng gỗ."

Tôi hiểu lão muốn nói điều gì. Những lời kiểu đó lão đã lặp đi lặp lại suốt sáu năm nay nhưng chưa bao giờ tôi để ý, vì cho lão chỉ là một bức tượng biết nói, một đồ vật được cấu tạo từ những khớp xương, bắp thịt, biết vung ra những định nghĩa ngốc nghếch, không chứa đựng một giọt ý nghĩa nào. Đến lúc này tôi mới hiểu lão nói gì. Tôi đang nhìn lão lần cuối, muốn khắc hình ảnh lão vào ký ức, và vì cố sức nhìn tôi đã bắt đầu hiểu lão. Lão dừng lại và nhìn tôi xem có thật tôi hiểu không, và tôi muốn hét lên với lão Vâng, tôi hiểu!Mexicođúng là quả bồ đào, màu nâu và cứng và nhìn vào là ông hiểu và ông thấy nó hệt như quả bồ đào. Bố già ơi những lời bố nói đều có ý nghĩa, bố đâu có điên như người ta nghĩ. Vâng, tôi hiểu...

Nhưng sương mù đã tràn vào họng, không thể thốt ra được lời nào. Lão trôi ra xa và lại cúi xuống bàn tay của mình.

"Bây giờ... Con cừu xanh – đó làCanada.Canada– đó là cây thông. Đồng lúa mì. Tờ lịch..."

Lão bơi xa dần, còn tôi cố nhìn theo, mắt căng lên. Tôi cố đến mức mắt nhức nhối phải nhắm lại và khi mở ra thì không còn thấy đại tá đâu. Tôi lại bơi một mình, bơ vơ, lạc lõng.

Tôi nghĩ: Thế là xong. Hết đường về.

Rồi ông già Pete hiện ra, mặt như cái đèn pha. Lão ở bên trái tôi, cách những năm chục thước, nhưng tôi vẫn thấy rõ ràng như không hề có sương mù. Hay lão ở ngay sát tôi và thật ra thì lão rất nhỏ bé, tôi không hiểu nữa. Lão nói một lần với tôi là lão mệt, và qua hai chữ đó tôi nhìn được toàn bộ cuộc đời lão trên tuyến đường sắt, thấy lão đánh vật với chiếc đồng hồ để đọc thời gian, vã mồ hôi mới lồng được cúc áo vào khuyết trên bộ đồ đường sắt, kiệt sức mới hoàn thành nổi một công việc mà đồng nghiệp thừa thời gian để ngồi ghế lót bìa mà đọc tiểu thuyết trinh thám hay chuyện ái tình ba xu. Mặc dù chưa bao giờ lão tìm ra bí quyết để dấn lên – ngay từ đầu lão đã hiểu rằng mình không đủ sức – nhưng vẫn phải gắng mãi, chỉ để không bị bỏ rơi. Cứ thế suốt bốn mươi năm lão đã sống, nếu không ở ngay trong lòng của cộng đồng loài người thì ít ra cũng bên lề của nó.

Tôi thấy hết và đau lòng bởi tất cả những gì đang phải chứng kiến, cũng như đau lòng khi chứng kiến những sự kiện trong quân đội, hồi chiến tranh. Cũng như khi chứng kiến những điều xảy ra với ba và bộ lạc. Tôi cứ nghĩ mình đã vượt qua, không còn mãi buồn bực trước những điều tai nghe mắt thấy. Làm thế chẳng được gì cả. Người ta chẳng thể làm gì.

"Tôi mệt rồi," lão nói.

"Tôi biết ông đã mệt, Pete ạ, nhưng có ích gì đâu nếu tôi buồn bực vì ông. Ông biết mà."

Pete trôi đi theo vết của đại tá.

Và đây là Billy Bibbit, cũng xuất hiện từ chỗ của Pete. Người này nối gót người kia trôi qua cho tôi nhìn lần cuối. Tôi biết Billy chỉ cách tôi vài bước, nhưng hắn bé tí tẹo tưởng chừng như đang ở xa hàng ki lô mét. Hắn đang cố vươn lại phía tôi với bộ mặt của thằng ăn mày, cần nhiều đến mức không ai cho nổi. Miệng hắn mở rồi khép như con rối.

"Thậm chí kh... kh... khi hỏi vợ, tôi cũng làm hỏng cả. Tôi nói ‘E... em yêu, hãy làm v... v... v... v... v...’ và cô ta phá lên cười."

Giọng mụ y tá, tôi không hiểu từ đâu: "Billy, mẹ ông có kể cho tôi nghe về cô gái đó. Rõ ràng là cô ta không xứng với ông. Theo ông, cái gì ở cô ta đã làm ông sợ đến thế."

"Tôi y... yê... yêu cô ta."
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 16
Và cả mày nữa, Billy, tao cũng không giúp được gì. Mày biết mà. Chúng tao chẳng ai giúp được. Mày đã hiểu rằng khi có ai đứng lên giúp đỡ kẻ khác, hắn phơi mình ra giữa trời. Chúng ta bắt buộc phải khôn lanh, Billy, điều đó mày hiểu không kém những đứa khác. Tao làm được gì đây? Tao không thể chữa được tật nói lắp cho mày. Tao không xóa được vết sẹo cổ tay vì lưỡi dao cạo hay những đám bỏng vì tàn thuốc trên mu bàn tay mày. Tao không thể tìm cho mày một người mẹ khác. Và nếu mụ Y tá Trưởng có nhạo báng, phỉ nhổ mày, đay đi đay lại những khuyết tật bẩm sinh để tước nốt chút danh dự ít ỏi khiến mày hổ nhục co rúm lại đến tí hon thì tao cũng không làm gì được. ỞAnzio, một đồng đội của tao bị trói vào gốc cây chỉ cách tao năm mươi mét, nó gào lên xin nước, mặt rộp lên dưới cái nắng chói chang. Quân địch đợi tao ra cứu bạn. Đợi để biến tao thành cái bia sống từ ngôi nhà nông dân bên đường.

Hãy quay mặt đi, Billy.

Hết đứa này đến đứa khác bơi qua.

Và trên mỗi bộ mặt viết rành rành như trên tấm biển "Tôi bị mù" mà bọn người Ý chơi accordion ở Portland vẫn đeo, nhưng ở đây là "tôi mệt", "tôi sợ", "tôi chết mất vì xơ gan", hay "tôi bị gắn vào máy móc và bị tất cả đá đít ". Tôi đọc được tất cả, dù chữ in li ti đến mức nào. Nhiều đứa trong chúng cũng đang quay ngang quay ngửa, chỉ cần muốn là có thể đọc được tấm biển của người kia, nhưng để làm gì? Những khuôn mặt lao qua trong sương mù, troogn như những vụn giấy hoa.

Chưa bao giờ tôi lạc xa đến thế. Có lẽ chết là như thế này đây. Tôi chắc tụi Thực vật cũng có cảm giác như tôi lúc này: như đánh mất mình trong đám sương. Ta bất động. Chúng nạp thức ăn vào cái xác ta đến lúc nó không còn ăn được nữa, rồi chúng mang nó đi thiêu. Cũng không đến nỗi tệ. Không đau đớn gì cả. Và rồi không cảm thấy gì ngoài lạnh thấu xương, nhưng cái lạnh rồi sẽ qua.

Tôi thấy viên sĩ quan chỉ huy gắn tờ giấy lên bảng thông báo, cho biết lính mặc gì hôm nay. Tôi thấy Bộ nội vụ Hoa Kỳ cùng chiếc máy nghiền đá tiến về bộ lạc bé nhỏ của chúng tôi.

Tôi thấy ba chạy bật ra từ dưới đường hào và chậm lại lấy thế ngắm vào con hươu sáu gạc đang chạy vào bụi bá hương. Nòng súng nhả hết viên này đến viên khác, nhưng đạn chỉ cày lên quanh con hươu một đám bụi. Tôi ra khỏi đường hào theo sau ba, nâng súng lên và chỉ bằng hai viên đã hạ được con hươu đang định trốn lên mỏm đá. Tôi cười với ba.

Lần đầu tiên con thấy ba bắn trượt. Mắt ba không còn như xưa, con yêu ạ. Không giữ nổi điểm ngắm. Đầu ruồi cứ rung lên, run lên như con chó đang rặn hạt đào.

Ba, hãy nghe con, rượu xương rồng của Sid đã làm ba xuống sức trước tuổi.

Con ạ, ai bắt đầu uống rượu xương rồng của Sid, kẻ đó đã xuống sức trước tuổi. Thôi, ba con mình đi moi ruột con hươu ra trước khi ruồi kịp bu vào.

Mà đó còn không phải một chuyện đang diễn ra trước mắt. Mày hiểu chứ? Mày chẳng làm được gì với những chuyện từ quá khứ hiện về.

Nhìn kìa, ô ô.

Tôi nghe tiếng thì thầm, của tụi hộ lý.

Nhìn kìa, thằng đần Bàn chải đang ngủ gật.

Khôn lắm, thủ lĩnh Bàn chải, không lắm. Ngủ là mày thoát mọi phiền hà. Phaaải.

Tôi hết lạnh rồi. Chắc đã thành công. Tôi đã đến nơi cái lạnh không thể tràn tới. Tôi có thể ở lại vĩnh viễn. Tôi không sợ nữa. Chúng không thể tìm đến chốn này. Chỉ có tiếng nói tìm đến được, nhưng rất yếu ớt.

Thôi được, bởi Billy nhất mực từ chối tham gia thảo luận, còn ai khác muốn kể cho nhóm nghe về những khó khăn của mình không?

Thú thật, thưa bà, tình cờ là tôi có...

Chính hắn,McMurphy. Hắn ở xa lắm. Hắn vẫn cố lôi mọi người ra khỏi sương mù. Sao hắn không để tôi yên?

"...các vị còn nhớ, hình như hôm qua thì phải, chúng ta đã biểu quyết về giờ xem tivi? Hôm nay là thứ Sáu, tôi thiết nghĩ chúng ta nên quay lại vấn đề này lần nữa, để xem có thể ai đó đã có thêm chút gan."

"Ông McMurphy, đây là buổi họp nhằm mục đích điều trị, điều trị tập thể, và tôi chắc những hờn dỗi không đáng kể..."

"Được rồi, được rồi, vứt mẹ bài đó đi, tụi tôi đã nghe cả rồi. Tôi và một vài người đã quyết định..."

"Hãy khoang, ông McMurphy, cho phép tôi hỏi cả nhóm: Các ông có cảm thấy là McMurphy đang áp đặt ý muốn cá nhân cho một số bệnh nhân không? Theo tôi, các ông sẽ vui lòng nếu tôi chuyển McMurphy sang khoa khác."

Tất cả im lặng. Rồi một đứa nói: "Hãy dể McMurphy biểu quyết. Tại sao lại cấm? Bà muốn đưa ông ta lên khoa điên chỉ vì ông ta yêu cầu được biểu quyết? Xem tivi vào những giờ khác thì có chết ai?"

"Ông Scanlon, theo tôi nhớ, ông đã từng tuyệt thực ba ngày liền cho đến tận khi chúng tôi chịu cho phép ông bật tivi vào lúc sáu giờ chiều thay vì sáu rưỡi như cũ kia mà?"

"Người ta phải theo dõi thời sự chứ, không được à? Nếu không,Washingtoncó thể bị ném bom cả tuần mà chúng tôi vẫn không hề biết."

"Ông sẵn sàng hy sinh phần tin tức để xem mấy gã đàn ông đánh bóng chày?"

"Cả hai cái không được hả? Tôi thấy có vẻ là không. Thây kệ nó đi, chắc gì tuần này đã bị ném bom." "Cứ để ông ta biểu quyết, bà Ratched!"

"Tốt thôi, nhưng tôi thấy đây là một bằng chứng rõ ràng cho thấy ông McMurphy đã làm một vài trong số bệnh nhân các vị khó chịu. Thế nào, ông định đề nghị điều gì, ông McMurphy?"

"Tôi đề nghị tái biểu quyết chuyện xem tivi ban ngày."

"Ông tin rằng sau lần biểu quyết này ông sẽ thỏa mãn không kỳ kèo nữa? Chúng ta còn nhiều việc khác quan trọng hơn..."

"Tôi sẽ được thỏa mãn. Tôi chỉ cần biết kẻ nào trong số những thằng ngốc này còn can đảm, kể nào không."

"Chính là những câu chuyện loại này, bác sĩ ạ, khiển tôi hiểu là bệnh nhân sẽ dễ chịu hơn nếu chúng ta chuyển McMurphy đi nơi khác."

"Cứ để ông McMurphy biểu quyết. Tại sao lại cấm nhỉ?"

"Tất nhiên, ông Cheswick. Vậy thì chúng ta biểu quyết bây giờ. McMurphy, với ông biểu quyết giơ tay đã đủ chưa hay phải bỏ phiếu kín?"

"Tôi muốn nhìn thấy những cánh tay. Tôi muốn nhìn thấy cả những cánh tay không giơ lên."

"Ai muốn xem tivi ban ngày, đề nghị người đó giơ tay lên."

Cánh tay đầu tiên là của McMurphy, tôi nhận ra nhờ vòng bằng trắng quấn ở bàn tay bị thương trong khi nhấc bệ điều khiển. Sau đó, từ trong sương mù tôi thấy từng cánh tay một nhô lên. Tựa như...tựa như bàn tay lớn của McMurphy khua vào trong sương nắm lấy tay từng người và lôi họ ra lần lượt, vừa đi ra vừa chớp mắt vì ánh sáng quá chọi chang. Đầu tiên một người, sau đó thêm người nữa, rồi người nữa...Cứ thế dọc chuỗi tụi Cấp tính, lôi họ khỏi màn sương tới khi họ đứng, tất cả hai mươi người, và họ giơ tay không còn để xem trận bóng mà để chống lại mụ Y tá Trưởng, chống lại phòng điên mà mụ muốn dành cho McMurphy, chống lại tất cả những gì mụ đã nói, đã làm, đã áp bức, đè nén chúng trong bao năm qua.

Căn phòng trở nên im ắng. Tôi có thể hình dung tất cả, từ con bệnh đến nhân viên đều sửng sốt. Bản thân mụ Y tá Trưởng cũng không hiểu nổi điều gì đã xảy ra: chiều qua trước lúc hắn thử nâng bệ điều khiển, chắc không vượt quá bốn hay năm đứa có ý định giơ tay. Nhưng mụ nói, bằng cái giọng không thể đoán được là mụ đang ngạc nhiên:

"Tôi chỉ đếm được hai mươi, ông McMurphy."

"Hai mươi? Bà cần gì hơn? Tụi tôi chỉ có hai mươi..,." Giọng hắn chùng xuống vì chợt hiểu ra mụ muốn nói gì. "Ê, khoan một phút đã, mẹ khỉ, thưa bà..."

"Tôi e rằng đề nghị của ông không được chấp thuận."

"Khoan đã, chờ một phút, mẹ khỉ!"

"Ông McMurphy, khoa có bốn mươi bệnh nhân. Bốn mươi. Ông chỉ giành được hai mươi phiếu thuận. Để thay đổi trật tự đã quy định, ông cần đa số. Tôi cho là cuộc bỏ phiếu đã xong."

Những cánh tay lần lượt hạ xuống. Họ bắt đầu thấy mình đã trúng đòn, mỗi người tìm một đám sương, lẻn vào đó cho an toàn. McMurphy chồm dậy.

"Chết mẹ đi cho rồi. Bà muốn trở mặt bằng cách ấy à? Bà tính cả những gốc cây lọm khọm kia sao?"

"Bác sĩ, phải chăng ông chưa giải thích quy chế bỏ phiếu cho McMurphy?"

"Rất tiếc... là cần đa số, McMurphy ạ. Bà ấy nói đúng.""Cần đa số, ông McMurphy, điều lệ của phân khoa đã quy định như vậy." "Và theo như tôi hiểu thì sửa đổi cái điều lệ chết mẹ cũng phải cần số đông. Thôi, rõ rồi. Tôi đã từng chứng kiến đủ mánh khóe gian xảo, nhưng chưa cái nào khốn nạn như cái này!"

"Rất tiếc, ông McMurphy, nhưng điều đó có văn bản rõ ràng, và nếu ông cần tôi có thể..."

"Thứ dân chủ giả hiệu đó đáng giá mấy xu?...Mẹ đẻ ơi."

"Hình như ông đã mất tự chủ. Bác sĩ, ông không thấy là ông ta mất tự chủ ư? Hãy chú ý điều đó."

"Bà tắt nhạc giùm. Khi bị chơi đểu, người ta có quyền kêu. Mà chúng tôi đã bị các người chơi đủ lắm rồi."

"Bác sĩ, vì tình trạng của bệnh nhân, chúng ta nên chấm dứt sớm cuộc họp hôm nay..."

"Khoan đã, đợi cho một tí. Hãy để tôi nói chuyện với các cụ già."

"Cuộc bỏ phiếu kết thúc, ông McMurphy."

"Để tôi nói chuyện với họ."

Hắn băng qua phòng, tiến về phía chúng tôi. Hắn cứ thế lớn lên mãi, lớn mãi, mặt cháy đỏ rừng rực. Thọc tay vào đám sương mù, hắn cố lôi Ruckly ra ánh sáng vì Ruckly trẻ nhất đám.

"Còn mày thì sao, chú em? Muốn xem Vòng chung kết không? Bóng chày. Những trận bóng chày. Chỉ cần giơ tay lên..."

"Đđđđ mẹ con vợ."

"Thôi được, bỏ đi. Còn mày, thì sao, anh bạn? Mày tên gì nhỉ...Ellis? Ellis, mày nói coi có muốn xem tivi không? Chỉ cần giơ tay lên..."

Hai tay Ellis bị đóng đinh vào tường, không thể coi là hắn bỏ phiếu thuận.

"Ông McMurphy, tôi đã nói là cuộc bỏ phiếu đã kết thúc. Ông đang tự biến mình thành trò hề."

Hắn không nghe mụ nói gì. Hắn tới từng đứa trong tụi Kinh niên. "No, chỉ cần một đứa trong tụi bay nữa, một cánh tay giơ lên nữa là xong. Hãy chứng minh cho bà ta thấy tụi bay còn làm được."

"Tôi mệt rồi," Pete lắc đầu.

"Đêm... đó là Thái Bình Dương," Đại tá đọc, không thèm bận tâm đến biểu quyết.

"Chỉ cần một thằng nữa thôi, mẹ kiếp! Giành được cơ hội chính là lúc này. Chẳng lẽ tụi bay không hiểu? Chúng ta phải chiếm thế trên – nếu không chúng ta sẽ bị đì mãi mãi. Ôi, những thằng đụt, không còn đứa nào hiểu tao nói nữa sao? Gabriel? George? Không hả? Còn mày, Thủ lĩnh?"

Trong sương mù, hắn đứng phía trên tôi. Sao hắn không chịu để tôi yên?

"Thủ lĩnh, chúng tao chỉ hy vọng vào mày nữa thôi."

Mụ y tá soạn lại giấy tờ. Các nữ y tá vây quanh mụ ta. Cuối cùng mụ cũng đứng dậy.

"Cuộc họp kết thúc ở đây," tôi nghe mụ nói. "Sau khoảng một tiếng yêu cầu các bác sĩ y tá tập trung ở phòng nhân viên. Vì thế, nếu không còn gì..."

Quá muộn rồi, không dừng được nó. Từ hôm đầu tiên McMurphy đã lén làm gì nó, yểm bùa nó khi chạm tay mình vào khiến nó không còn tuân theo ý tôi. Chẳng có ích đâu, thằng ngu nào cũng hiểu ra mà: chẳng đời nào tôi lại tự ý làm thế. Mụ đang nhìn như muốn nuốt lấy tôi và không tìm ra từ để nói, tôi hiểu là nguy hiểm đang chờ nhưng không dừng nó được. McMurphy đã ngầm gắn dây vào nó, nhấc nó lên chầm chậm để lôi tôi khỏi đám sương mù ra giữa đồng không, để bầy thú cùng nhảy vào xâu xé. Chính là tại hắn, gắn dây...

Không. Không đúng. Tự tôi đã giơ nó lên.

McMurphy hú lên và lôi tôi đứng dậy, vỗ vào lưng tôi.

"Hai mươi mốt. Cả Thủ lĩnh nữa là hai mươi mốt người! Và nếu đây không phải là đa số thì hãy chọc mù mắt tôi đi!"

"Ha-ha-ha!" Cheswick hét lên chiến thắng. Tụi Cấp tính ùa lại phía tôi.

"Cuộc họp đã bế mạc," mụ Y tá Trưởng nói. Mụ để nguyên nụ cười trê môi, nhưng khi rời phòng chung, quay về buồng kình, gáy mụ phồng lên, đỏ bầm tưởng như mụ sắp nổ tung.

Nhưng mụ vẫn chưa nổ, chưa phải lúc đó, phải mãi một tiếng sau. Nụ cười sau tấm kính méo mó, lạ lùng như chưa bao giờ thế. Mụ chỉ ngồi. Đôi bờ vai nhô lên, thụt xuống theo mỗi nhịp thở.

McMurphy nhìn lên đồng hồ tường và nói rằng trận đấu đang bắt đầu. Hắn đang cùng vài đứa Cấp tính quỳ xuống cọ chân tường cạnh vòi nước uống. Còn tôi, lần thứ mười trong ngày quét dọn phòng đựng bàn chải. Scanlon và Harding kéo chiếc máy đành sàn dọc hành lang, vạch ra trên lớp sơn mới những hình số tám bóng lộn. McMurphy nhắc lại một lần nữa là trận bóng đã bắt đầu và đứng dậy, ném cái giẻ xuống ngang đường. Những đứa còn lại vẫn lúi húi với công việc. Khi hắn đi qua cửa sổ buồng kính, mụ Y tá Trưởng cau có nhìn ra, hắn nhăn nhở cười như muốn nói với mụ giờ đây hắn là kẻ thắng. Gặp cái hất đầu và nháy mắt của hắn, mặt mụ lại khẽ giật sang bên.

Tất cả vẫn chăm chú làm việc, nhưng mắt chúng lén lút theo dõi McMurphy đang kéo chiếc ghế bành đến sát tivi, bật lên và ngồi xuống. Từ đám nhiễu trên màn hình hiện ra cảnh một con vẹt đang trọ trẹ hát bài cổ động trên sân bóng. McMurphy đứng dậy, vặn tivi to lên để át đi tiếng nhạc từ chiếc loa trên trần nhà rồi đặt thêm một chiếc ghế trước mặt để gác chân lên đó. Hắn ngồi xuồng, duỗi thẳng người, rút thuốc ra hút, vừa xoa bụng vừa ngáp.

" Ôi, thiếu mỗi bia và một cái xúc xích là sung sướng cuộc đời."

Chúng tôi nhìn thấy mụ y tá nhìn hắn, mặt đỏ lên, môi mấp máy. Mụ ngoái đầu ra hành lang: tất cả đang quan sát, chờ xem mụ sẽ làm gì, kể cả tụi hộ lý, các nữ y tá nhỏ bé, thậm chí cả tụi bác sĩ thực tập đang tụ tập chờ cuộc họp cũng kín đáo đưa mắt về phía buồng kính. Mụ quay lại nhìn McMurphy, đợi cho bài ca của con vẹt kết thúc, rồi đứng dậy đi về phía cánh cửa sắt nơi đặt bàn phím điều khiển, ấn một cái nút khiến màn hình co lại rồi biến mất. Chỉ còn một đốm sáng như con mắt đang hấp háy nhìn thẳng xuống McMurphy. Hắn không chút bối rối vì con mắt đó. Đúng hơn hắn cũng chẳng tỏ ra để ý là tivi đã tắt: hắn cắn chặt lấy điếu thuốc và kéo sụp mũ xuống trán tới khi để nhìn được màn hình, hắn phải ngả người ra.

Hắn cứ ngồi vậy, tay chắp tay sau gáy, chân gác lên ghế, đám khói thuốc lá vòng vèo bốc lên từ dưới chiếc vành mũ – và ung dung xem tivi.

Mụ y tá chịu đựng cảnh này đến lúc hết chịu nổi, rồi mụ thò đầu ra và la hắn đi giúp tụi còn lại dọn vệ sinh. Hắn thây kệ.

"McMurphy, tôi bảo vào giờ này ông phải làm việc." Trong giọng mụ có tiếng rít của lưỡi cưa điện ăn vào gỗ thông. "McMurphy, tôi cảnh cáo ông."

Tất cả ngừng tay. Mụ ngó quanh rồi bước ra khỏi phòng kính và đi về phía McMurphy.

"Ông được gửi tới đây, hiểu không? Ông thuộc quyền quản lý của tôi... của bệnh viện." Mụ giơ nắm đấm lên, những móng vuốt màu da cam chực chọc thủng lòng bàn tay. "Thuộc quyền quản lý và khống chế..."

Harding tắt máy chùi sàn, để nó ngoài hành lang, ra kéo chiếc ghế ngồi xuống bên cạnh McMurphy và cũng rút thuốc ra hút.

"Ông Harding! Hãy quay lại với công việc thuộc thời khóa biểu!"

Giọng mụ ré lên như lưỡi cưa chạm vào đinh, và nghĩ như thế suýt nữa thì tôi bật cười.

"Ông Harding!"

Sau đó Cheswick cũng kè kè chiếc ghế đi tới, rồi Billy Bibbit, và rồi Scanlon, Fredrickson và Sefelt, rồi tất cả chúng tôi cùng quẳng giẻ và bàn chải xuống rồi mang ghế lại.

"Các người... dừng lại, dừng lại!"

Mấy chục đứa ngồi thành hàng trước cái tivi đã tắt, hướng mắt vào màn hình đen xì như đang theo dõi một trận đấu thực thụ, còn sau lưng, mụ Y tá Trưởng đang phát điên phát cuồng.

Nếu ai đó bước vào nhìn thấy cảnh này, một nhóm người ngồi nhìn chiếc tivi câm lặng như cái hộp gỗ, một mụ đàn bà năm mươi tuổi cứ gào thét lải nhải đằng sau gáy họ về kỷ luật, trật tự và hình phạt, hẳn người ấy phải nghĩ rằng đây là một lũ điên.
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 17
Ở tận cuối tầm nhìn, qua khóe mắt, tôi thấy bộ mặt trắng như tráng men đằng sau cửa sổ buồng kính đang lắc lư bên ngoài trên chiếc bàn lúc sưng sỉa, lúc nhăn nhúm, cố lấy lại hình dáng cố hữu của mình. Những người còn lại cũng đang nhìn, dù cố vờ như không phải. Ai cũng làm ra vẻ đang bị thu hút bởi màn hình màu xám của chiếc tivi trống rỗng, nhưng ai mà chẳng hiểu họ đang lén lút nhìn về phía ấy, cũng như tôi. Lần đầu tiên mụ y tá ở bên kia cửa kính được cảm thấy đang bị người ta quan sát trong khi ý muốn duy nhất là buông tấm mành xanh xuống, trốn khỏi những cặp mắt đang nhìn vào.

Bọn bác sĩ thực tập, tụi hộ lý, các nữ y tá cũng đang theo dõi mụ, đợi mụ bước ra hành lang, đến dự cuộc hội ý đã được chính mụ ấn định, và đợi xem mụ sẽ làm gì khi giờ tất thảy biết rằng cả mụ cũng có thể mất tự chủ như ai. Mụ biết họ theo dõi, nhưng vẫn không cử động. Khi mọi người bắt đầu kéo tới phòng nhân viên để mụ lại, mụ vẫn chưa chịu rời chỗ. Tôi nhận ra các máy móc đặt trong tường cũng im tiếng, dường như đang đợi xem khi nào mụ nhúc nhích.

Sương mù đã tan hết.

Tôi sực nhớ nhiệm vụ của mình là phải quét dọn phòng nhân viên. Không biết đã bao năm tôi vẫn luôn làm việc đó vào lúc người ta hội ý. Nhưng giờ đây tôi sợ không dám đứng dậy. Chúng vẫn luôn cho phép tôi quét dọn vào giờ hội ý vì nghĩ rằng tôi điếc, nhưng vừa nãy ai cũng thấy tôi đưa cánh tay lên theo lệnh của McMurphy, chẳng lẽ chúng không đoán ra là tôi nghe được? Không đoán ra là trong những năm qua tôi đã lắng nghe, nghe hết những bí mật của riêng chúng? Nếu phát hiện được chúng sẽ làm gì tôi trong phòng nhân viên?

Nhưng dù sao, chúng đã quen thấy tôi trong đó. Nếu không chúng sẽ biết chắc không nghĩ ngờ gì nữa, Hiểu rồi, hắn không đến quét dọn, chẳng phải là bằng chứng ư? Thế là rõ phải làm gì với hắn...

Chỉ đến phút này tôi mới cảm nhận được những nguy hiểm đang chờ khi chúng tôi dại dột để McMurphy lôi ra khỏi sương mù.

Bên cánh cửa, một gã hộ lý tựa vào tường, hai tay khoanh trước ngực, cái đầu lưỡi hồng hết le ra lại thụt vào giữa hai môi, nhìn chúng tôi xem tivi. Tròng mắt gã, sau một lúc đảo điên y như cái lưỡi, dừng lại ở tôi, mi mắt khẽ hé lên. Gã nhìn rất lâu, và tôi biết gã đang nghĩ về hành vi của tôi trong cuộc họp. Bật khỏi bức tường, gã đi về phía gian kho chứa bàn chải mang ra một xô đựng nước xà phòng và miếng mút chùi sàn, xăm xăm đi đến trước mặt tôi và kéo tay tôi lên, treo chiếc xô vào đó như treo cái ấm lên trên đống lửa.

"Ái chà, Thủ lĩnh," gã nói. "Đứng dậy làm phận sự của mình đi thôi."

Tôi không nhúc nhích. Chiếc xô vẫn lủng lẳng trên cánh tay. Tôi làm như mình không nghe thấy gì cả. Gã muốn bẫy tôi. Gã bảo tôi đứng dậy lần nữa, và thấy tôi vẫn ngồi yên, gã thở dài, nhìn lên trần nhà rồi túm lấy cổ áo tôi giật khẽ, và tôi đứng lên. Gã nhét luôn miếng mút vào túi tôi, chỉ tay về phía căn phòng cuối hành lang và tôi cất bước.

Và trong lúc tôi lê bước dọc hành lang, tay xách xô, mụ y tá vượt qua tôi ngoặt vào cửa vẫn bình thản và mạnh mẽ như thường lệ. Điều đó làm tôi có băn khoăn.

Còn lại một mình bên ngoài, tôi mới nhận ra hành lang sáng quá. Sương mù không còn chút nào vương vất, dù là ở các ngóc ngách. Chỉ còn lại cái lạnh ở những nơi mụ vừa đi qua, và trên trần nhà những ống đèn màu trắng phát ra một thứ ánh sáng lạnh lẽo đến rùng mình, như những ống nước đá, như những vòng tủ lạnh đóng tuyết bị dựng lên sáng lấp lánh. Hệ thống đèn ống trải dài đến cuối hành lang, tận cửa phòng nhân viên, nơi mụ y tá vừa bước vào: tấm cửa cũng bằng sắt, nặng như cửa phòng Đột Tử trong Nhà số Một nhưng có số, ngang tầm đầu được gắn một lỗ nhìn để tụi nhân viên có thể thấy người gõ cửa. Khi đến gần, tôi thấy lọt ra từ đó thứ ánh sáng màu xanh, đắng như mật. Trong ít phút nữa cuộc hội ý sẽ bắt đầu, vì thế mới rò rỉ thứ màu xanh này. Chừng giữa cuộc họp nó sẽ thấm đẫm khắp các bức tường và cửa sổ, còn tôi phải dùng tấm mút lau và vắt nó vào xô, để chút nữa sẽ dùng cọ ống nước trong chuồng xí.

Lau rửa phòng nhân viên luôn luôn là việc làm khó chịu. Không tưởng tượng nổi những gì tôi cời ra từ những cuộc hội ý kiểu này; những vật tởm lợm, thuốc độc tiết ra ngay từ lỗ chân lông và axít trong không khí đậm đặc đến mức hòa tan được cả một người. Tôi đã thấy mà.

Tôi đã có mặt trong những phiên họp có chân bàn không chịu nổi oằn đi, ghế vặn xoắn lại, những bức tường nghiến vào nhau tưởng như có thể vắt được mồ hôi ra từ đấy. Tôi có mặt trong những cuộc họp mà ở đó người ta nói về con bệnh lâu đến mức hắn hiện ra bằng xương bằng thịt, trần truồng trên bàn cà phê trước mặt chúng, hứng lấy bất cứ ý tưởng quỷ quái nào chợt đến trong đầu; hắn sẽ bị nghiền thành một đống cháo lõng bõng trước khi cuộc họp kịp kết thúc.

Vì thế chúng cần đến tôi, bởi công việc có thể rất bẩn thỉu, nhiều rác rưởi phải có ai đó dọn dẹp, và vì phòng nhân viên chỉ mở cửa vào những hôm có hội họp, chúng cần một đứa không ba hoa về những điều mắt thấy tai nghe. Là tôi. Đã nhiều năm nay, căn phòng này cũng như căn phòng bằng gỗ ở tòa nhà cũ được tôi lau chùi, dọn rửa không biết bao nhiêu lượt, tới nỗi đám nhân viên thậm chí không nhận thấy tôi: tôi lau chùi còn chúng nhìn xuyên qua người tôi tựa như tôi không hề có, nếu phát hiện ra sự vắng mặt của tôi thì chỉ vì không có chiếc xô và miếng mút bơi trong không khí.

Nhưng lần này, lúc tôi gõ cửa, mụ Y tá Trưởng ghé mắt vào lỗ nhìn vào nhìn thẳng vào mặt tôi, và mở chậm hơn mọi khi. Khuôn mặt đã trở lại như thường, mạnh mẽ sắt đá, ít ra tôi thấy vậy. Bọn còn lại vẫn làm những việc quen thuộc trước mỗi buổi hội ý, cầm thìa con khuấy đường trong tách cà phê và mượn nhau thuốc lá, nhưng vẻ mặt đứa nào cũng căng thẳng. Thoạt tiên tôi nghĩ là do sự có mặt của tôi. Sau đó tôi nhận ra là mụ y tá thậm chí còn chưa ngồi xuống, cũng chẳng buồn đụng đến đồ uống.

Để tôi lách qua, mụ găm cả hai mắt vào người tôi rồi khép cửa, chốt khóa và quay phắt lại, và lại nhìn tôi thêm một lúc. Rõ ràng là mụ nghi ngờ tôi. Tôi cứ nghĩ là McMurphy làm cho mụ tức giận, chẳng còn hơi đâu để ý tôi, song mụ vẫn tỏ ra bình thản. Với cái đầu minh mẫn, hẳn mụ đang nghĩ làm cách nào mà ông Bromden nghe biết được rằng cái thằng tâm thần McMurphy bắt ngài giơ tay, làm sao ông ta đoán được rằng phải quẳng giẻ xuống và ngồi vào trước tivi cạnh tụi Cấp tính? Ngoài hắn ra chẳng đứa Kinh niên nào làm như thế cả. Mụ đang nghĩ chẳng phải đúng lúc ta thử kiểm tra ông Thủ lĩnh Bromden một chút xem sao.

Tôi quay lưng lại phía mụ và đi vào góc phòng. Tôi giơ miếng mút lên đầu cho mọi người thấy là nó phủ đầy một chất nhờn màu xanh và tôi đang làm việc cực kỳ chăm chỉ, rồi tôi cúi xuống và lau thật lực. Nhưng dù có cố sức làm việc và cố sức tỏ ra không biết có mụ ở đó đến đâu, tôi vẫn cảm thấy mụ đứng ở cửa và đoan khoan vào sọ tôi, cho tới lúc chỉ còn một phút nữa là mũi khoan xuyên thủng đầu, tôi sắp la lên, thú nhận tất cả nếu mụ không thôi nhìn tôi như vậy.

Nhưng mụ bỗng nhận ra chính mình cũng đang bị kẻ khác nhìn chằm chằm - cả đám nhân viên còn lại. Mụ đang nghĩ về tôi thì chúng cũng đang nghĩ về mụ, đợi xem mụ nghĩ ra điều gì cho con bệnh tóc đỏ. Chúng đang chờ xem mụ sẽ nói gì về hắn, và tất nhiên chẳng hơi đâu quan tâm đến thằng đần da đỏ đang bò lồm cồm trên sàn nhà. Chúng đang đợi mụ nên mụ nhả tôi ra, đi rót một mình một tách cà phê, ngồi xuống và khuấy đường, thận trọng đến mức chiếc thìa không chạm vào thành cốc.

Cuối cùng lại là gã bác sĩ bắt đầu: "Thế nào các bạn? Chắc đã đến lúc chúng ta bắt đầu?"

Gã cười với tụi bác sĩ thực tập đang nhấm cà phê. Gã cố không nhìn mụ y tá. Mụ ngồi im như tượng làm gã đâm lúng túng. Gã vớ lấy kính, đeo vào để nhìn đồng hồ, rồi vừa lên dây vừa nói.

"Mười lăm phút rồi. Bắt đầu thôi, đã quá muộn. Cuộc hội ý này như phần đông chúng ta đã biết, do bà Ratched triệu tập. Trước cuộc họp Cộng đồng Trị liệu, bà đã điện thoại cho tôi và nói rằng, theo ý kiến riêng của bà, McMurphy sắp sửa trở thành nguyên nhân của một số rắc rối trong khoa. Trực giác tuyệt vời, như ta chứng kiến những gì xảy ra ít phút trước đây, các bạn đồng ý không?"

Gã ngừng lên dây đồng hồ - dây cót đã căng đến mức chỉ vặn thêm một vòng nữa là các chi tiết sẽ bắn tung tóe khắp phòng, và ngồi đó, gõ nhịp các ngón tay hồng hồng xuống mu bàn tay kia, cười với cái mặt đồng hồ và đợi. Thường đến lúc này, mụ Y tá Trưởng sẽ lãnh lấy vai trò chủ trì cuộc họp nhưng hôm nay mụ lặng im.

"Sau những việc xảy ra ngày hôm nay", gã bác sĩ tiếp tục, "không ai còn tin là chúng ta đang làm việc với một người bình thường. Rõ ràng như vậy. Hắn là nhân tố của sự rối loạn. Và... và... và... tôi cho rằng mục đích của buổi hội ý hôm nay là đưa ra những biện pháp cụ thể áp dụng với con bệnh này. Theo tôi hiểu, bà Y tá Trưởng triệu tập buổi hội ý - xin bà sửa giùm, bà Ratchel, nếu tôi có nhầm lẫn - để chúng ta thảo luận và đi đến một ý kiến thống nhất về việc nên làm gì với ông McMurphy?"

Gã nhìn mụ van vỉ nhưng mụ vẫn lặng thinh. Mụ ngẩng mặt lên trần nhà, có lẽ là để tìm các vết bẩn, và có vẻ như không nghe thấy một lời nào.

Gã quay sang tụi bác sĩ thực tập đang ngồi thành hàng ở phía đối diện: tất cả cùng vắt chân phải lên chân trái thành hình chữ ngũ và cùng đặt cốc cà phê lên đầu gối. "Các bạn. Tôi hiểu, các bạn chưa đủ thời gian thích hợp đưa ra một chẩn đoán bệnh chính xác cho McMurphy, tuy nhiên đã có cơ hội quan sát qua hành động của con bệnh. Các bạn nghĩ sao?"

Vừa nghe câu hỏi chúng nhất loạt ngẩng đầu. Gã bác sĩ đã khôn khéo lôi chúng vào cuộc. Tất cả đưa mắt từ gã bác sĩ sang mụ y tá. Thật khó hiểu là mới ít phút trôi qua mà mụ đã giành lại được quyền uy cũ. Mụ chỉ ngồi im lặng, mỉm cười với trần nhà, thế mà đã làm chủ tình hình và mọi người hiểu rằng cần phải tính đến ai trước tiên. Nếu phát biểu chẳng ra gì, chúng sẽ phải tiếp tục đợt thực tập ởPortland, trong bệnh viện giành cho những kẻ nghiện ngập. Cũng như gã bác sĩ, chúng bắt đầu ngồi không yên.

"Đúng, hắn ta là phần tử gây rối", đứa thứ nhất nói thăm dò.

Bọn còn lại uống cà phê, mặt đăm chiêu ra bề nghĩ ngợi. Rồi đứa thứ hai, "Và có thể là một nhân tố nguy hiểm".

"Đúng, đúng," bác sĩ phụ họa.

Anh chàng trẻ tuổi cho là mình đang đi đúng hướng, bèn tiếp tục: "Một mối nguy hiểm không nhỏ," hắn nhổm người về phía trước. "Không được quên rằng con người này đã có những hành động bạo lực chỉ nhằm mục đích được chuyển từ trại cải tạo sang bệnh viện, nơi điều kiện sống dễ chịu hơn."

"Hành động bạo lực có tính toán," đứa đầu chêm vào.Còn đứa thứ ba lắp bắp: "Tất nhiên, ngay tính toán đó đã chứng tỏ y chỉ là kẻ bịp bợm chứ không hề mắc bệnh tâm thần."

Gã liếc qua chờ phản ứng của mụ y tá và thấy mụ vẫn không nhúc nhích, thậm chí không tỏ ra một dấu hiệu nào. Nhưng tụi còn lại thì giận dữ ra mặt, cứ như gã vừa nói ra một điều bậy ba đến khủng khiếp. Biết mình lỡ lời quá xa, gã cười khì khì: "Các vị biết đấy, ‘ai bước sai chân thì chẳng qua vì nghe nhịp trống riêng’." Nhưng muộn rồi. Đứa thứ nhất đặt tách cà phê xuống, lôi cái tẩu thuốc có bầu to bằng nắm đấm ra khỏi túi và quay lại phía gã.

"Tôi nói thẳng,Alvin, anh làm tôi thất vọng. Thậm chí không cần đọc bệnh án mà chỉ nhìn việc làm của McMurphy cũng thấy anh đã vừa nhận xét quá hồ đồ. Con người này không chỉ ốm nặng, rất nặng mà còn là dạng Hung bạo Tiềm tàng. Tôi nghĩ chính điều đó đã làm bà Ratchel lo lắng và triệu tập chúng ta đến đây. Chẳng lẽ anh không nhận ra nổi những triệu chứng cổ điển của người mắc bệnh thái nhân cách hay sao? Chưa có ca nào rõ hơn thế nữa. Con người này là Napoleon, Thành Cát Tư Hãn, vua Hung Nô Attlia."

Một đứa nữa ủng hộ gã. Thằng này vẫn nhớ lời mụ y tá về khoa điên. "Robert nói đúng,Alvin. Anh không thấy sáng nay hắn thế nào ư? Khi mưu đồ của mình bị đánh bại, hắn lập tức chồm dậy, chực tung nắm đấm. Bác sĩ Spivey, ông làm ơn cho biết người ta viết gì trong hồ sơ về những biểu hiện côn đồ của hắn?"

"Phá phách, vô kỷ luật tới mức độ đáng kể," gã bác sĩ nói.

"Đấy,Alvin, giấy tờ chứng thực rằng hắn đã nhiều lần biểu hiện sự chống đối, thù địch với những nhà chức trách: ở nhà trường, trong quân đội, trong nhà tù! Và theo tôi, hành động của hắn sau cuộc biểu quyết này vừa rồi đã chứng tỏ cho chúng ta thấy những gì tệ hại hơn nữa mà hắn sẽ làm trong tương lai." Gã cau mày, nheo mắt nhìn cái tẩu rồi đút vào miệng, bật diêm và rít ngọn lửa vào tẩu đánh chụt. Qua làn khói màu vàng, gã lén liếc sang mụ Y tá Trưởng, chắc cho sự im lặng của mụ là một biểu hiện đồng tình nên tiếp tục một cách hoạt bát hơn, tự tin hơn.

"Hãy chịu khó nghĩ hơn một chút, Avin, và hãy tưởng tượng," giọng gã đục lại vì khói thuốc. "Hãy tưởng tượng xem điều gì sẽ đến với chúng ta nếu phải mặt đối mặt với McMurphy trong giờ Điều trị Cá nhân. Giả sử chúng ta đang sắp đạt được một khám phá đặc biệt khó khăn và bỗng nhiên hắn cảm thấy phát chán cái trò - hắn nói sao nhỉ? - ‘đào bới lung tung của tụi học trò dốt nát’. Anh sẽ bảo hắn không nên nổi cáu còn hắn trả lời ‘Cút cha mày đi...’ Anh yêu cầu hắn bình tĩnh - dĩ nhiên là bằng một giọng nghiêm khắc - và ngay lúc đó một trăm linh năm cân thái nhân cách tóc đỏIrelandấy nhào qua bàn, vồ lấy anh. Liệu anh có - liệu ai trong chúng ta sẵn sàng đón nhận một cuộc gặp gỡ như thế với McMurphy?"

Gã cắm chiếc tẩu ngoại cỡ vào khóe miệng, xòe hai bàn tay đặt lên đầu gối chờ đợi. Tất cả mường tượng thấy những ngón tay to rám đó, hai nắm đấm đầy sẹo, cái cổ như cái nêm sắt gỉ của McMurphy thò ra ngoài cổ áo. Sự hình dung đó làm cho khuôn mặt thằng bác sĩ trẻAlvintrở nên vàng ệch, tựa như đám khói thuốc bạn hắn phả ra lắng đọng lại trên đó.

"Nghĩa là các bạn cho rằng," gã bác sĩ hỏi, "tốt hơn hết nên chuyển McMurphy sang khoa điên?"

"Ít nhất cũng an toàn hơn, tôi cho như vậy," đứa có chiếc tẩu trả lời và nhắm mắt lại.

"Tôi xin rút lui ý kiến và đồng ý với Robert,"Alvinnói, "ít ra là để bảo vệ lấy chúng ta."

Bọn còn lại cười rộ lên. Chúng bình tâm chút ít vì đã đưa ra được một giải pháp làm vừa lòng mụ. Tất cả nhấm nháp cà phê, trừ đứa có tẩu thuốc đang ngồi không yên vì chiếc tẩu trên tay hơi chút lại tắt mất, lại phải bật diêm, bặm môi và rít tới khi cuối cùng chiếc tẩu cũng cháy đều như ý. Bằng một giọng pha chút kiêu hãnh, hắn nói tiếp, "Vâng, tôi cho là khoa điên đang đợi anh bạn tóc đỏ McMurphy của chúng ta. Theo dõi hắn mấy hôm nay, các bạn có biết tôi kết luận gì không?"

"Phản xạ có tính tâm thần phân liệt,"Alvinđoán.

Cái tẩu lắc đầu.

"Đồng tính luyến ái tiềm tàng với tập tính phản xạ?" đứa thứ ba hỏi.

Cái tẩu lắc đầu và lim dim đôi mắt: "Không," hắn nói và cười thỏa mãn, " Mặc cảm Ơ đíp nghịch."

Cả bọn chúc mừng hắn.

"Có nhiều triệu chứng để kết luận điều đó," hắn nói. "Nhưng dù kết luận cuối cùng ra sao thì vẫn phải nhớ một điều: chúng ta đang phải làm việc với một con người không bình thường."

"Ông... lầm to, ông Gideon."

Đó là mụ Y tá Trưởng.

Một loạt cái đầu ngoảnh lại phía mụ - đầu tôi cũng thế, nhưng kịp nhớ ra, tôi giả vờ vừa phát hiện một vết bẩn trên tường. Giờ thì cả bọn đầu óc quay cuồng. Chúng tưởng đã đưa ra được đề xuất mà mụ muốn, cái đề xuất chính mụ định đưa ra hôm nay. Tôi cũng nghĩ vậy. Mụ đã tống lên khu điên những đứa chỉ bằng nửa McMurphy, chỉ vì biết đâu chúng có thể muốn nhổ bọt vào ai đó, còn đằng này lại là một con trâu không thuần phục mụ, tụi bác sĩ hay bất cứ ai, và chính mụ trưa nay gần như đã tuyên bố là sẽ đẩy hắn ra khỏi phân khoa, vậy mà giờ lại nói không.

"Không. Tôi không đồng ý. Không đồng ý chút nào," Mụ cười với mọi người. "Nhất quyết tôi không đồng ý chuyển hắn sang khoa điên; đó là con đường dễ dàng nhất để trút cái gánh nặng của mình lên vai kẻ khác, và tôi cũng không tán thành ý kiến cho rằng hắn là một cá thể phi thường, một kẻ siêu thái nhân cách."

Mụ chờ, nhưng có đứa nào dám phản đối. Đến lúc ấy mụ mới chậm rãi nhấp ngụm cà phê đầu tiên; tách cà phê rời khỏi miệng mụ với một vệt đỏ. Tôi nhìn vào vành tách dù không chủ tâm - son mụ bôi không thể có màu đỏ như vậy được. Đó chỉ có thể là màu đỏ của miệng tách do nhiệt, nó bị cặp môi của mụ nung nóng.

"Thú thật, khi tôi nhận thấy McMurphy là nguyên nhân của sự rối loạn trật tự trong khoa, thì ý nghĩ đầu tiên của tôi là chuyển hắn lên khoa điên. Nhưng giờ đã muộn, nghĩ vậy. Chúng ta có thể hàn gắn nổi những đổ vỡ mà hắn gây ra bằng cách đó, nhất là sau buổi hôm nay trong khoa không? Dĩ nhiên là không. Nếu chúng ta chuyển hắn lên khoa điên tức là chúng ta làm đúng điều mà bệnh nhân chờ đợi. Và dưới con mắt họ, McMurphy trở thành một thần tượng; một người tuẫn tiết. Vô hình chung, chúng ta đánh mất khả năng cũng như cơ hội chứng minh cho họ thấy rằng, hắn hoàn toàn không phải - như ông đã diễn đạt, ông Gideon: ‘một cá nhân phi thường’."

Mụ uống một hớp nữa từ tách cà phê rồi đặt xuống, chiếc tách gõ lên mặt bàn nghe như tiếng mõ tòa; cả ba đứa vừa phát biểu ngồi dựng dậy.

"Không. Chẳng có gì phi thường cả. Hắn cũng là người, cũng bị nỗi sợ hãi, sự hèn nhát và tính rụt rè chi phối như bao kẻ khác. Chỉ ít ngày nữa thôi, tôi có cảm giác chắc chắn rằng hắn sẽ chứng minh điều đó cho chúng ta, cũng như cho bệnh nhân thấy. Nếu để hắn lại trong khoa, sự hỗn xược sẽ mất đi, tính ngang bướng, hung hăng tự tạo sẽ cùn mòn đi và, "mụ cười, biết mình hiểu điều mà chúng không hiểu nổi, "người hùng tóc đỏ của chúng ta sẽ co lại thành một cái gì đó mà các con bệnh sẽ nhận ra và thôi sùng phục: một kẻ chơi trội và khoác lác thích trèo lên hộp xà phòng ba hoa để kiếm đồ đệ, như chúng ta đã thấy ở ông Cheswick trước đây, rồi rụt vòi ngay khi thấy bản thân mình có thể gặp nạn."

"Bệnh nhân McMurphy," đứa có chiếc tẩu vẫn cố bảo vệ kết luận của mình để vớt vát lại chút sĩ diện, "theo tôi không phải là kẻ hèn nhát."

Tôi chờ đợi sự nổi giận của mụ Y ta Trưởng, nhưng tuyệt nhiên không, mụ chỉ nhìn hắn như muốn bảo ‘cứ sống khắc biết’, và nói, "Ông Gideon, tôi không nói rằng hắn là đứa nhát gan - ồ, không! Đơn giản là hắn rất yêu một người. Là kẻ thái nhân cách, hắn quá say mê ông Randle Patrick McMurphy và rất sợ ông ta bị nguy hiểm đe dọa." Mụ thưởng cho Gideon một nụ cười khiến chiếc tẩu trên tay hắn tắt hẳn. "Nếu chịu khó đợi thêm ít nữa, thì người hùng của chúng ta, như thanh niên các anh vẫn nói, sẽ cụp đuôi bỏ chạy. Đúng không?"

"Nhưng có thể phải hàng tuần..." hắn phản đối.

"Chúng ta có hàng tuần," mụ nói. Mụ đứng dậy với bộ mặt thỏa mãn mà tôi chưa hề thấy từ một tuần nay, kể từ khi mụ có McMurphy quấy rối. "Chúng ta có hàng tuần, hàng tháng, nếu cần sẽ có hàng năm. Không được quên là McMurphy được gửi tới đây. Thời hạn lưu lại trong bệnh viện của hắn hoàn toàn phụ thuộc vào chúng ta. và bây giờ nếu không còn gì thắc mắc..."
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 18
Những điều mụ y tá đưa ra trong cuộc hội ý khiến tôi lo lắng, nhưng không mảy may tác động đến McMurphy. Suốt hai ngày cuối tuần, và đến tận tuần sau, hắn liên tục cãi cọ với mụ Y tá Trưởng và tụi hộ lý, các con bệnh lại sướng run người. Hắn đã thắng cuộc, đã cho mụ y tá một vố và đã lấy tiền như thỏa thuận, nhưng không dừng lại mà vẫn la hét ầm ĩ ngoài hành lang, trêu chọc cả y tá, hộ lý lẫn đám bác sĩ, thậm chí một lần còn đột ngột dừng lại trước mặt mụ y tá và hỏi mụ, nếu không phiền gì, chu vi vòng ngực ngồn ngộn đã cố giấu nhưng không giấu nổi của mụ chính xác là bao nhiêu inch. Mụ cứ thế đi qua, coi như không nhận thấy McMurphy cũng như không nhận thấy đôi huân chương nữ tính quá cỡ mà thiên nhiên gắn vào mụ, tựa như mụ đứng trên McMurphy, trên chuyện giới tính và nói chung, trên tất cả những gì thuộc về xác thịt yếu đuối.

Khi McMurphy đọc tấm lịch trực nhật mà vụ vừa dán lên bảng thấy mình được lãnh đặc ân dọn chuồng xí, hắn tới phòng kính, gõ vào cửa sổ và cám ơn mụ vì vinh dự đó: hắn nói rằng sẽ luôn nghĩ đến mụ mỗi lần chùi bồn đái. Mụ trả lời hắn là không cần thiết phải chu đáo đến thế, cứ làm cho xong việc của mình là đủ, cám ơn ông.

Và hắn làm như sau: vừa chọc bàn chải vào bồn cầu độ một hai lần vừa hát oang oang theo nhịp bàn chải xoèn xoẹt rồi rút ra, vẩy nước tẩy trắng và OK, xong. "Sạch đến thế, mày còn chê gì?" hắn nói với gã hộ lý đau càu nhàu hắn vì tội cẩu thả, "với ai đó như vậy chưa đủ sạch, nhưng tao chẳng hạn, tao chỉ tè vào đó thôi chớ đâu có dùng bữa trưa trong đó." Và khi mụ y tá đầu hàng trước những lời năn nỉ của gã hộ lý mà đích thân ra mặt kiểm tra công việc của McMurphy, mụ mang theo chiếc gương cầm tay để soi mặt trong thành bồn, cứ đến mỗi bồn, mụ lại lắc đầu và nói: "Thật quá quắt, quá quắt. Cái gì thế này? Cái gì thế này?" McMurphy đi bên cạnh, chớp mắt, cúi đầu và trả lời: "Đó là... đó là bồn đái mà!"

Nhưng lần này mụ tỉnh khô, cũng không có dấu hiệu gì chứng tỏ mụ sẽ mất tự chủ. Mụ sẽ giũa một trận về việc quét dọn chuồng xí của hắn, với sức nén bền bỉ, chậm chạp dễ sợ như đã từng dồn ép chúng tôi, còn hắn thì đứng trước mặt mụ như cậu bé bị cô giáo phạt, gục đầu, ghếch mũi giày nọ lên mũi giày kia và nói: "Tôi cố hoài cố hoài, thưa bà, nhưng trở thành giám đốc đội chùi phân thì xin chịu, không đủ năng lực."

Một lần, hắn hí hoáy viết gì đó lên tờ giấy, bằng một thứ chữ là lạ, như tiếng nước ngoài, rồi dùng bã kẹo cao su dán vào lòng bồn cầu; khi đến kiểm tra, dùng gương soi kỹ mặt trong và đọc thấy những gì phản chiếu trong gương, mụ ồ lên một tiếng, để rơi luôn chiếc gương soi vào đó. Nhưng mụ vẫn không mất tự chủ. Nụ cười con rối trên bộ mặt con rối đã được đúc một cách tự tin. Đứng thẳng người lên, mụ ném cho McMurphy một cái nhìn bong cả sơn trên tường và nói nhiệm vụ của hắn là chùi cho bồn sạch ra chứ không phải làm bẩn thêm.

Nhưng trên tổng thể vệ sinh trong khoa bắt đầu bị sao nhãng. Mỗi chiều theo thời gian biểu đến giờ quét dọn cũng là giờ đài truyền hình truyền đi những trận bóng chày, và mọi người xếp ghế thành hàng trước tivi ngồi xuống và không rời chỗ cho đến bữa tối. Mụ Y tá Trưởng cứ việc ngắt điện và trước mắt chỉ có cái màn hình trống trơn cũng chẳng hề gì, đã có McMurpy giải sầu cho chúng tôi hàng giờ, tán gẫu đùa cợt, kể đủ thứ chuyện, như chuyện hắn từng được mướn làm tài xế xe tải ở xưởng gỗ và kiếm được trong vòng một tháng cả nghìn đô la để nướng sạch trong cuộc thi quăng rìu với một gã người Canada, chuyện hắn có lần cùng một thằng bạn đi tham dự rodeo ở Albany đã lừa phỉnh một đứa cưỡi con trâu, mà bịt mắt thằng nhỏ đó." Bọn chúng nói ngọt với thằng nhỏ rằng làm thế sẽ không bị chóng mặt khi con trâu quay vòng, rồi chúng đặt nó lên, lưng xoay ngược về phía đầu trâu. Câu chuyện này hắn kể đến vài lần và lần nào cũng đập mũ vào đùi và cười sặc sụa: "Bị bịt mắt, mông chổng ra đằng trước... cứ nhổ vào mặt tao nếu như lần ấy không phải là thằng nhỏ đã ngồi đến cùng và đã giật giải. Còn tao thì về thứ nhì; nếu nó té, chắc chắn tao nhất và đã mỏi tay đếm bạc. Chà, nếu còn một cuộc thi thế nữa, tao sẽ bịt mắt con trâu."

Hắn lại vỗ đùi, cười khà khà, cù ngón tay vào sườn bất cứ đứa ngồi cạnh để tìm cách làm nó bật cười theo.

Tuần ấy nghe hắn cười vang, thoải mái, nhìn hắn vỗ bụng, vươn vai ngáp, ngả lưng lên thành ghế, nháy mắt đùa vui nhộn với thằng nào tình cờ ngồi sau – tất cả đều tự nhiên như hơi thở, có những khi tôi hết lo sợ về việc hắn đang phải đương đầu với mụ Y tá Trưởng và cả Liên hợp đồ sộ. Tôi nghĩ chỉ cần hắn là chính mình, hắn sẽ đủ sức lực và không bao giờ chịu rút lui như mụ hòng hy vọng. Tôi chợt nghĩ, có thể hắn đúng là con người phi thường. Hắn là hắn, thế là đủ. Có thể chính nhờ vậy mà hắn có sức mạnh. Đã ngần ấy năm Liên hợp chưa sờ được tới hắn, mụ Y tá Trưởng làm sao nghĩ mình khuất phục nổi hắn trong vòng mấy tuần? Hắn sẽ không để chúng tóm được mà đem ra tái lắp ráp.

Thế rồi sau đó lẩn vào nhà vệ sinh, trốn tụi hộ lý, tôi nhìn mình trong gương và tự hỏi làm sao có người lại đảm đương nổi việc to lớn đến thế, làm sao có thể làm chính mình. Bộ mặt tôi phản chiếu trong gương, tối tăm sắt đá, lưỡng quyền cao tựa như má bị rìu đẽo đi, đôi mắt đen sì với vẻ tàn nhẫn như mắt ba, như mắt của những người da đỏ man rợ mà người ta vẫn thấy trên phim, và tôi nghĩ, Đây không phải là tôi, khuôn mặt này không phải là khuôn mặt của tôi. Thậm chí khi tôi cố mang bộ mặt như vậy thì nó vẫn không phải là mặt tôi; lúc đó tôi không phải là tôi, tôi chỉ làm ra chúng vẫn trông thấy, như chúng muốn trông thấy mà thôi. Mà hình như cũng chưa bao giờ tôi thật là mình. Làm sao McMurphy lại có thể là chính hắn được nhỉ?

Bây giờ tôi nhìn hắn đã khác nhiều so với lần đầu xuất hiện. Giờ đây tôi không chỉ thấy hắn là hai cánh tay vạm vỡ, mớ tóc đỏ, chiếc mũi giập, nụ cười gằn. Tôi đã thấy hắn làm những việc chẳng tương xứng đối với bàn tay và bộ mặt của mình tí nào, chẳng hạn trong giờ LNN, hắn vẽ tranh bằng thuốc màu thực thụ lên giấy trắng không hề có hình mẫu in sẵn cùng những chỉ dẫn dùng màu, hoặc giả bằng nét chữ đều đặn mềm mại, hắn viết thư cho một ai đó. Làm sao một gã đàn ông với bề ngoài của hắn lại có thể vẽ tranh, viết thư, hơn nữa còn băn khoăn hay lo lắng khi nhận được thư trả lời? Nếu là Harding, Bibbit thì đã dễ hiểu. Với đôi bàn tay trông như họa sĩ của mình, Harding không bao giờ vẽ. Harding nhốt chúng lại và bắt đôi tay mình cầm cưa, xẻ gỗ, đóng chuồng chó. McMurphy không giống vậy. Hắn không để bề ngoài của mình cầm lái cuộc sống của hắn, cũng như đã không để Liên hợp nghiền hắn cho vừa với chỗ chúng dành cho hắn.

Nhiều sự việc tôi đã nhìn theo cách khác. Tôi đoán máy phun mù bị hỏng vào buổi họp ngày thứ Sáu vừa rồi vì bị dùng quá tải, đến giờ vẫn chưa thể bơm hơi làm nhòa mắt chúng tôi. Lần đầu tiên sau nhiều năm, tôi được thấy những con người không bị viền đen bao bọc và một lần trong đêm, thậm chí tôi còn nhìn được cảnh vật bên ngoài cửa sổ.

Như tôi đã nói, tối tối, trước lúc lùa chúng tôi vào chăn, chúng cho tôi một viên con nhộng làm tôi mê mệt suốt cả đêm. Nếu vô tình không đủ liều thì tôi tỉnh giữa chừng, song có như thế thì mắt tôi cũng như bị kéo màng, còn cả phòng ngủ thì ngập ngụa trong khói, các dây dẫn trong tường tải hết công suất chùng đi, bắn ra chết chóc, hận thù khắp nơi – không đủ sức chịu đựng những thứ đó, tôi lại vùi đầu vào chăn cố chợp mắt. Cứ thò đầu ra là lại ngửi nồng nặc mùi tóc cháy, nghe xèo xèo như tiếng mỡ sôi trên chảo.

Nhưng đêm ấy, mấy hôm sau cuộc họp lớn, tôi tỉnh dậy thấy căn phòng hoàn toàn sạch sẽ và yên ắng, nếu không có tiếng ngáy của tụi Cấp tính và cái chất đang chảy róc rách dưới mạng sườn giòn vụn của hai lão già Thực vật. Một tấm màn gió che cửa sổ được kéo lên, không khí trong phòng ngủ tinh khiết và có mùi vị làm tôi choáng váng ngây ngất, chỉ muốn ra khỏi chăn làm một việc gì đấy.

Tôi trườn khỏi mấy lớp vải thả bàn chân trần xuống sàn gạch, tráng men lạnh buốt và lần đi giữa những dãy tường. Tôi cảm thấy rõ ràng gạch dưới chân mình và cảm thấy thật lạ, đã hàng nghìn lần dùng giẻ lau chùi sàn gạch nhưng chưa bao giờ thực sự cảm thấy nó. Tất cả các việc cọ rửa sàn nhà này tưởng như là một giấc mơ, tôi không thể tin được bao năm tháng ấy đã thực sự trôi qua. Với tôi, chỉ còn có lớp gạch men lạnh buốt dưới chân là tồn tại, chỉ khoảnh khắc này thôi.Tôi đi giữa những con bệnh nằm thành hàng, phủ ga trắng muốt như những đống tuyết, cố gắng không chạm vào ai và cứ thế lần đến bức tường có nhiều cửa sổ. Tôi men tới một khung cửa nơi tấm màn bị gió thổi lất phất và tì trán vào lưới sắt. Những sợi thép cứng và lạnh, tôi áp má này rồi chuyển sang má kia, thở hít hương gió. Mùa thu đang đến, tôi nghĩ, mùa chua ngọt của thức ăn ủ tươi rung vang không khí như tiếng chuông, mùi lá sồi chưa vàng hẳn người ta để cháy trong bếp lò ủ qua đêm.

Mùa thu đang đến, tôi nghĩ, mùa thu đang đến; tựa như đó là chuyện kỳ lạ chưa từng thấy trong đời. Mùa thu. Mới đây thôi, ngoài kia còn tràn trề mùa xuân, rồi rực rỡ nắng hè, vậy mà giờ đã sang thu – thật là buồn cười biết mấy.

Tôi chợt nhận ra là mắt mình vẫn nhắm. Tôi đã nhắm mắt khi tì trán vào lưới sắt như sợ phải nhìn ra cửa sổ. Đã đến lúc phải mở thôi. Tôi nhìn ra và lần đầu tiên nhận thấy bệnh viện nằm ở ngoại ô thành phố. Vầng trăng treo thấp lơ lửng trên đồng cỏ, khuôn mặt sây sát vì nó vừa bứt khỏi những rừng sồi non và những rặng dâu tây lúp xúp phía chân trời. Sao xung quanh đều nhợt nhạt, chúng càng sáng rõ hơn và lung linh hơn khi vượt ra khỏi lãnh thổ ngời sáng của mặt trăng khổng lồ. Từ đó tôi nhớ đã từng nhận thấy chính hiện tượng này trong một lần đi săn cùng ba và các ông cậu, khi nằm cuộn tròn trong đống chăn đay do bà dệt, cách xa những người đàn ông ngồi quanh đống lửa đang lặng lẽ chuyền cho nhau vò rượu xương rồng. Tôi nhìn mãi vầng trăng to, tròn vành vạnh của thảo nguyênOregontreo trên đầu đã làm lu mờ những ngôi sao bên cạnh. Tôi không ngủ, chỉ nằm ngắm trăng, chờ xem nó có mờ đi và những ngôi sao có sáng lên hơn không, mãi tới khuya, sương bắt đầu đọng lại trên má, tôi phải kéo chăn trùm mặt.

Có con gì di chuyển phía dưới cửa sổ, bóng nó trải dài trên thảm cỏ còn bản thân nó chạy khuất sau bờ giậu. Khi nó hiện ra lần thứ hai, tôi có dịp nhìn rõ hơn và phát hiện ra một con chó hoang cao đẳng, còn non, trốn nhà đi dạo để xem điều gì xảy ra trong đêm. Nó đang đánh hơi mấy hang sóc nhưng không có ý định đào bới mà chỉ muốn biết lũ sóc còn làm gì trong đó vào giờ này. Thử thò mũi vào một cái hang, nó chổng mông lên, đuôi ngoáy tít rồi lại lao bắn sang hang khác. Trăng chiếu trên thảm cỏ ướt đẫm sương đêm, và khi chạy, nó để lại một vệt sẫm đằng sau như có ai cầm chiếc bút lông đang vạch lên mặt phẳng xanh ngời. Phóng qua những hang sóc bí ẩn, nó phát cuồng lên với mảnh trăng trên trời, với đêm, với gió mang những mùi vị hấp dẫn đủ làm một thanh niên chó say sưa, tới nỗi cao hứng nằm ngửa ra, lăn tròn rồi uốn mình, ưỡn bụng, bật thân như con cá quẫy. Khi đứng dậy, nó giũ mình làm bụi nước bắt tung tóe dưới ánh trăng, lấp lánh như vảy bạc.

Con chó ngửi một lượt các hang sóc lần nữa để nhớ cái mùi và đột ngột đứng lại, co một cẳng lên, nghiêng nghiêng cái đầu nghe ngóng. Tôi cũng chú ý nhưng chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng sột soạt của bức màn gió. Tôi nghe lâu thật lâu. Rồi có tiếng kêu quang quác, vui vẻ từ rất xa dần dần tiến lại. Những con ngỗng Canada bay về phương Nam trú đông. Tôi nhớ lại, đã bao lần tôi bò sấp, len lén cố đến gần loại ngỗng này, và nhớ mình chưa bao giờ bắn nổi một con.

Tôi cố nhìn theo hướng con chó đang nhìn để tìm đàn ngỗng, nhưng trong đêm đen không thấy được. Tiếng quàng quạc đến gần, đến gần và trong chốc lát tôi có cảm giác như cả đàn ngỗng bay lướt qua phòng ngủ, ngay trên đầu tôi. Sau đó chúng cắt ngang vầng trăng tạo thành một vòng cung màu đen, óng ánh như chuỗi hạt. Con ngỗng đầu đàn bay vượt lên, cả đám biến thành hình mũi tên. Trong một lúc nó xuất hiện chính giữa hình tròn ấy, to lớn hơn tất cả, cái chữ thập đen gập lại, mở ra rồi kéo mũi tên bay khỏi tầm nhìn, biến vào màn đêm bao la của bầu trời.

Tôi lắng nghe tiếng kêu xa dần của bầy ngỗng cho đến khi chỉ còn nghe thấy tiếng vọng trong đầu. Con chó còn nghe thấy sau tôi rất lâu. Nó vẫn đứng co chân, nó không hề sủa hay cử động suốt lúc đàn ngỗng bay qua. Tới khi tiếng ngỗng kêu mất hẳn, nó lao theo hướng chúng bay, ra đường lớn, chạy êm lẹ, ra vẻ quan trọng như đang có một cuộc hẹn hò. Tôi nín thở và nghe thấy cả tiếng con chó đặt chân lên cỏ, rồi tôi nghe một chiếc ô tô từ chỗ ngoặt lao ra. Ngọn đèn trước xe trùm qua gờ nổi trên đường và sục xuống đường lớn. Tôi theo dõi con chó và cái xe cùng nhắm tới một điểm trên lề.

Con chó đã gần tới được hàng rào bên đường thì bỗng nhiên tôi cảm thấy có ai đó đang lẻn tới sau lưng. Hai người. Không quay lại, nhưng tôi hiểu đó là gã hộ lý da đen Geever và ả y tá có cái bớt trên mặt và cây thánh giá. Tôi nghe thấy nỗi sợ hãi đang gõ nhịp trong đầu. Geever cầm lấy tay và xoay người tôi lại. "Để hắn cho tôi," hắn nói.

"Chỗ gần cửa sổ hơi lạnh đấy, ông Bromden à," ả giải thích. "Tốt hơn hết là chúng mình nên chui lại vào chăn ấm nhỉ."

"Hắn điếc," gã hộ lý nói với ả. "Cứ để tôi, hắn ta luôn tự cởi chăn và đi lang thang."

Tôi bước lên một bước và ả lùi lại. "Vâng, xin mời," ả nói với thằng da đen. Tay ả mân mê sợi dây trên cổ. Ở nhà, tự khóa mình trong buồng tắm để không ai nhìn thấy, ả tuột đồ, cọ cây thánh giá vào vết sẫn kéo dài từ khóe miệng theo một đường mảnh chảy vắt qua vai và ngực. Ả cọ lấy cọ để, miệng lầm rầm cầu Đức Mẹ Đồng Trinh nhưng cái bớt thì vẫn đó. Ả nhìn vào gương chỉ thấy nó thậm chí còn sẫm hơn. Cuối cùng ả phải lấy chiếc bàn chải sắt, thứ mà người ta vẫn dùng để cạo sơn tàu thủy, kỳ cọ cái bớt rồi khoác đồ ngủ vào che phần da bật máu rồi chui vào chăn.

Nhưng trong người ả tràn trề cái chất ấy. Khi ả ngủ, nó dâng lên họng, tràn vào miệng rồi trào ra bên mép như một thứ nước dãi, chảy xuống họng, tràn khắp người. Buổi sáng tỉnh dậy lại thấy vết bẩn và không hiểu sao ả nghĩ là nó không thể xuất hiện từ bên trong – làm sao có chuyện đó với một con chiên ngoan đạo được? – và cuối cùng ả kết luận nguyên nhân là do phải làm việc nhiều về ban đêm với cả một khoa toàn những kẻ như tôi. Đó là lỗi của tụi bệnh nhân, và ả quyết tâm rửa hận, cho dù đó là việc làm cuối cùng của cuộc đời ả chăng nữa. Tôi ước gì McMurphy tỉnh dậy cứu tôi.

"Buộc anh ta vào giường để tôi đi lấy thuốc, ông Geever."
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Chương 19
Trong các cuộc họp họ đưa ra những than phiền, khiếu nại đã bị xếp xó lâu đến mức đối tượng để họ chỉ trích thậm chí không còn trên đời nữa. Nhưng giờ đây đã có kẻ bảo vệ là McMurphy, các con bệnh thay nhau kể lể tất cả những gì làm họ khó chịu từ trước đến nay.

"Tại sao vào những ngày nghỉ, phòng ngủ lại bị khóa?" Cheswick hoặc ai đó hỏi: "Phải chăng chúng tôi không thể dành những ngày đó cho chính mình?"

"Đúng thể, bà Rarched," McMurphy nói. "Tại sao?"

"Kinh nghiệm cho thấy nếu chúng tôi không khóa buồng ngủ lại thì sau buổi sáng các ông lại chui vào chăn."

"Đấy là tội đáng chết à? Những người bình thường vẫn ngủ muộn vào thứ Bảy và Chủ Nhật."

"Các ông đang điều trị trong bệnh viện này," mụ kiên nhẫn nhắc lại với giọng như đã nhắc lần thứ một trăm, "Vì các ông không có khả năng hòa mình với cộng đồng bên ngoài. Bác sĩ và tôi cho rằng mỗi phút các ông cùng sinh hoạt với những bệnh nhân khác trong tập thể đều là mỗi phút có tác dụng tốt. Ngược lại mỗi phút sống đơn độc, tư lự đều làm các ông trở nên lạ lẫm hơn, ghẻ lạnh hơn với thế giới."

"Đấy là cái cớ cứ phải tập trung một chút tám mạng khi dẫn chúng tôi đi LNN, LVL hay L gì đấy?"

"Hoàn toàn đúng."

"Nghĩa là nếu tôi muốn ngồi một mình, thì khi đó tôi bị lên cơn bệnh sao?"

"Tôi không nói vậy..."

"Nghĩa là nếu tôi đi vào chuồng xí để trút gánh nặng, thì tôi cũng phải rủ theo bảy người bạn để không bị lẻ loi trong đó?"

Mụ còn đang tìm câu trả lời thì Cheswick đúng bật dậy và la lên. "Có đúng vậy không?" Và bọn Cấp tính ngồi xung quanh cũng đồng thanh, "Có đúng vậy không?"

Chờ cho chúng hết xôn xao mụ mới trả lời, "Nếu các ông không nổi nóng và xử sự như những người lớn trong cuộc họp, chứ không như đám trẻ con trên sân chơi, tôi sẽ đề nghị bác sĩ cho ý kiến có nên xem xét lại quy chế điều trị. Thế nào bác sĩ?"

Ai cũng biết câu trả lời nên không cho gã kịp mở miệng, Cheswick lại hỏi tiếp: "Thế còn chuyện thuốc lá thì sao, bà Ratched?"

"Vâng, thì sao?" Tụi Cấp tính làu bàu.

McMurphy quay sang gã bác sĩ và nhắc lại câu hỏi đó thẳng vào mặt gã, khi mụ Y tá trưởng chưa kịp trả lời. "Đúng, thưa bác sĩ, ông nói sao về chuyện ấy? Bà ấy có quyền gì giữ thuốc lá của tụi tôi chất đống trên bàn để khi vui vẻ mới phát cho mỗi người một gói như thể bà ấy bỏ tiền túi ra mua vậy? Thật lạ, tôi mua thuốc lá mà người ta lại lệnh cho tôi lúc nào mới được hút."

Gã bác sĩ nghiêng đầu để nhìn mụ y tá qua hai mắt kính. Gã chưa biết có chuyện mụ đã làm như vậy để ngăn việc chơi bài ăn thuốc lá. "Bà Ratched, chuyện thuốc lá này là sao? Tôi nghĩ tôi chưa biết..."

"Bác sĩ, tôi cho rằng bệnh nhân mỗi ngày hút ba hay bốn, có khi năm bao thuốc là quá nhiều. Và hiện tượng đó đã xảy ra trong khoa ta tuần vừa rồi, sau sự hiện diện của McMurphy, nên tôi quyết định giữ lại số thuốc mà bệnh nhân đã mua ở căng tin, chỉ phát cho họ mỗi ngày một gói."

McMurphy chồm tới thì thầm với Cheswick thật to: "Chuẩn bị đón nghe chỉ thị mới về đại tiện và tiểu tiện. Không chỉ đến đó một lúc tám mạng đâu mà mỗi ngày chỉ được hai lần, vào lúc bà ấy ra lệnh."

Hắn ngồi chàng hảng trên ghế bành và cười vang khiến cho cả phút không ai nghe được ai.

McMurphy rất thỏa mãn vì những trò cãi lộn này, và tôi nghĩ hắn lấy làm ngạc nhiên khi đám nhân viên không áp chế gì cũng như nhất là mụ Y tá Trưởng không tặng lại hắn một lời nào nặng hơn lúc trước. "Tao tưởng con diều hâu già ấy phải khó chịu hơn kia." Hắn nói với Harding sau một cuộc họp. "Thế này thì có lẽ chỉ cần phá bĩnh một trận ra trò nữa là mụ thuần. Phiền cái..." hắn cau mày, "mụ vẫn bình thản như đang giấu chủ bài trong tay áo trắng."

McMurphy thỏa mãn cho đến thứ Tư tuần tiếp theo. Mãi đến lúc đó gã mới hiểu tại sao mụ y tá lại tin tưởng những con bài của mình đến vậy. Hàng tuần, vào ngày đó, những đứa nào không bị bệnh ngoài da, dù muốn hay không vẫn phải bị tập trung lại để đến bể bơi. Nếu trong khoa có sương mù, tôi thường lẩn vào đấy để không bị tóm đi. Tôi sợ bể bơi, sợ hụt chân vào chỗ nước sâu quá đầu rồi chìm nghỉm và hệ thống thoát nước sẽ cuốn tôi ra tận biển. Ngày còn bé, trên dòng Columbia tôi đâu có sợ nước, tôi cũng bước trên những chiếc cầu chênh vênh bắc qua dòng thác như mọi người đàn ông khác, chân không cần mang ủng, tôi nhảy tung tăng giữa các mỏm đá bốn bề bọt tung trắng xóa, cầu vòng hiện lên trong màn bụi nước li ti. Nhưng khi thấy ba bắt đầu sợ hãi quá nhiều, thì tôi cũng sợ, đến mức không chịu nổi cái bể con con.

Chúng tôi bước ra khỏi phòng thay quần áo khi bể bơi đã ồn ào, náo động, chật những tấm thân trần; mặt nước tròng trành, song vỗ ì oạp, những tiếng kêu, tiếng đập nước bị trần nhà phản hồi thành một mớ âm thanh hỗn độn như vẫn thấy ở các bể bơi trong nhà. Tụi hộ lý lùa chúng tôi xuống nước. Nước ấm đến dễ chịu, nhưng tôi không dám ra xa mà chỉ lỡn vỡn quanh bờ (chúng đi vòng quanh bể, tay cầm gậy tre, đẫy những đứa bám vào thành bờ ra xa) nên cố bơi cạnh McMurphy vì biết rằng nếu không muốn, chẳng ai đuổi được hắn ra chỗ nước sâu.

Họ đang nói chuyện với gã cứu đắm, còn tôi chỉ đứng cách hắn hai mét. Chắc MvMurphy sa đúng vào cái hố trũng vì hắn cứ đạp chân luôn luôn, trong khi tôi dễ dàng đứng trên đấy. Gã cứu đắm mặc chiếc áo may ô có ghi số hiệu của khoa đứng trên mép bờ, tay cầm còi. Chúng nói với nhau về sự khác biệt của nhà tù và bệnh viện, và McMurphy đang ca ngợi bệnh viện dễ chịu hơn nhà tù. Gã cứu đắm không tin. Tôi nghe hắn cho McMurphy hay rằng, trước hết, bị gửi vào điều trị khác với bị kết án tù. " Nếu mày bị bỏ tù," gã nói, "mày có một thời hạn mà mày biết chắc chắn đến ngày đó mày được trả tự do."

McMurphy thôi trò đập nước nãy giờ. Hắn bơi chầm chậm vào bờ và túm lấy thành bể bơi, nhìn gã cứu đắm." Còn nếu bị gửi vào điều trị thì sao?" hắn hỏi sao một lúc im lặng.

Gã cứu đắm nhún đôi vai đầy thịt, giật giật chiếc còi trên cổ. Gã đã từng là một cầu thủ bóng bầu dục nhà nghề, và cứ một lúc khi ra khỏi khoa ở một vùng nào đó trong đầu gã lại phát ra tín hiệu, môi gã bắt đầu phun ra những chữ số, gã phủ phục xuống và lao vào một nữ hộ lý đi ngang, huých vai vào bụng dưới cô ta, che người, vừa kịp tạo khe hở cho một trung vệ dắt bóng qua. Vì thế người ta phải giữ hắn lại ở khoa điên: những khi không trực cứu đắm, gã có thể diễn lại pha đó bất cứ lúc nào.
Gã nhún vai lần nữa để thay cho câu trả lời, sau đó nhìn quanh xem tụi hộ lý còn lởn vởn cạnh đấy không rồi quỳ xuống bên mép bể. Gã chìa cánh tay cho McMurphy.

"Mày có thấy tay tao bị bó bột không?"

McMurphy nhìn vào cánh tay to lớn của gã. "Người anh em, tay mày đâu có bị bó bột?"

Gã cứu đắm chỉ cười gằn. "Tao phải bó bột vì bị sai khớp trong trận cuối cùng với độiCleveland. Tao chưa thể trở lại đội hình chừng nào tay chưa lành. Bà y tá khoa tao bảo phải chữa bí mật, không cho ai biết. Phải phải, bà ta nói, nếu tao nhẹ tay với nó, không hành hạ nó quá sức, bà ta sẽ gỡ băng và tao sẽ quay về với câu lạc bộ."

Gã tì năm đấm lên nền gạch, vào thế đứng phát xuất kiểm tra xem cánh tay phải cử động thế nào. McMurphy nhìn gã mấy giây rồi hỏi xem gã đã phải đợi bao lâu để được câu trả lời khi nào tay khỏi và có thể xuất hiện. Gã cứu đắm từ từ nhỏm dậy và xoa tay, vẻ không bằng lòng với câu hỏi của McMurphy, cứ như McMurphy chê gã hèn kém khư khư ôm cánh tay bị thương của mình."Tao là bệnh nhân được gửi đến," gã nói. "Nếu được quyền chọn thì tao đã chuồn lâu rồi. Có thể không được chơi trong đội hình chính thức, nhưng tao biết xếp khăn, đúng không? Tao biết làm cái gì đó. Còn bà y tá lại bảo với bác sĩ là tao chưa đủ sức. Xếp vài chục chiếc khăn nhàu trong phòng thay quần áo, tao cũng đủ sức."

Gã quay người, đi đến chiếc ghế dành cho nhân viên cứu đắm, leo cầu thang lắc lư như con khỉ đột say rượu, từ trên đó bĩu môi nhìn chúng tôi, "Tao bị tống vào đây vì tội đánh nhau trong lúc say, và tao đã ngụ lại tám năm tám tháng."

McMurphy đạp chân vào thành bờ, bơi đứng ra xa, mặt đăm chiêu: hắn bị cải tạo sáu tháng, đã ngồi được hai còn bốn tháng, ngoài bốn tháng ấy ra hắn ta sẽ không chịu bị nhốt ở bất cứ đâu nữa. Hắn ở nhà thương điên được gần một tháng, và có thể ở đây sướng hay trại cải tạo, được nằm giường êm, buổi sáng có nước cam tráng miệng, nhưng không đến mức có thể chịu được vài năm.

Bơi đến bậc lên xuống ở gốc bể nông hơn, hắn ngồi luôn tại đó, tay vân vê túm lông ở yết hầu, mặt nhăn lại. Tôi nhìn vẻ mặt nhăn nhó của hắn, nhớ lại những gì mà mụ Y tá Trưởng đã nói trong cuộc hội ý mà rùng mình.

Khi còi hết giờ bơi vang lên và chúng tôi mệt mỏi lê bước vào phòng tắm, một đám bệnh nhân khoa khác đang trên đường đi ra và trong phòng ngâm chân mà ai cũng phải qua ở đó có một thằng bé đang nằm. Cái đầu nó to, hồng hồng, xôm xốp, hông và hai chân nở phìng nôm như chiếc bong bóng cao su đầy nước bị thắt lại ở giữa; nó nằm nghiêng, kêu ăng ẳng như con chó biển ngái ngủ. Cheswick và Harding nâng nó đứng dây nhưng thằng nhỏ ngã vật trở lại. Đầu nó ngập trong thuốc sát trùng. McMurphy quan sát chúng dựng dây nó lần nữa

"Vật lạ gì thế?" hắn hỏi.

"Nó bị tràn dịch não," Harding nói "Đại khái do rối loạn bạch huyết. Đầu đầy nước. Giúp bọn tao với."

Chúng bỏ thằng bé ra, nó lại nằm vào bồn ngâm chân; mặt nó có vẻ nhẫn nhục, vô vọng và lì lì, bọt mép sùi ra trong bồn nước màu sữa. Harding lại nhờ McMurphy giúp và cùng Cheswick cúi xuống thằng bé. McMurphylách qua ba đứa, bước quan người thằng bé đứng vào vòi hoa sen.

"Để nó nằm đấy," hắn vừa nói vừa kỳ cọ. "Có thể nó không ưa chỗ nước sâu."

Tôi hiểu điều gì đang xảy ra. Ngày hôm sau hắn làm tất cả ngạc nhiên: hắn dậy sớm, lau chuồng xí sạch bong, sau đó theo đòi hỏi của tụi hộ lý hắn lại chùi hành lang. Ai cũng sửng sốt, chỉ trừ một người: mụ y tá, mụ làm như không coi đó là chuyện lạ.

Đến trưa, trong cuộc họp, Cheswick nói rằng tất cả đã không chịu nhượng bộ trong chuyện thuốc lá. Hắn nói, "Tôi đâu phải là trẻ con mà người ta giấu thuốc lá đi như giấu kẹo! Chúng tôi yêu cầu phải làm gì đó, phải không Mack?" và đợi sự đồng tình của McMurphy, nhưng hắn không trả lời.

Hắn nhìn vào góc mà McMurphy vẫn ngồi. Cả bọn cũng hướng mắt về phía đó. McMurphy ngồi đấy, nghịch cỗ bài, thâm chí không ngẫn đầu lên. Phòng họp im phăng phắc, chỉ có tiếng những quân bài nhờn mỡ đang bị xáo và tiếng thở nặng nề của Cheswick.

"Tôi yêu cầu phải làm gì đó!" Cheswick đột ngột gào lên. "Tội không còn là đứa trẻ!" Hắn giậm chân xuống sàn, nhìn quanh cứ như bị bỏ lại giữa đường và có thể òa khóc bất cứ lúc nào. Hắn siết chặc hai nắm đấm ép vào bộ ngực múp míp của mình. Hai nắm đấm tạo thành hai quả bóng hồng hồng trên này áo xanh, chúng siết chặc đến nổi thấy được hắn run lẩy bẩy.

Cheswick vồn không phải là đứa cao lớn, hắn hơi thấp lại béo, đỉnh đầu hói bong như một đồng đô la màu hồng nhưng lúc này đứng đơn phương độc mã giữa phòng trông hắn bé tẹo. Đưa hai mắt cầu cứu McMurphy nhưng không được đáp lại, hắn nhìn tụi Cấp tính đang ngồi thành hàng, tìm đồng minh. Chúng lần lượt quay đầu lảng tránh, không đứa nào muốn hùa với hắn cả, nỗi sợ hãi hiện lên trên khuôn mặt hắn mỗi lúc một rõ. Cuối cùng khi ánh mắt vươn tới mụ Y tá Trưởng hắn lại giậm chân:

"Tôi yêu cầu phải làm gì đó! Nghe thấy không? Tôi yêu cầu phải làm gì đó! Gì cũng được! Gì cũng..."

Hai đứa hộ lý cao lớn tóm lấy tay hắn từ đằng sau, đứa nhỏ quàng cái thắt lưng vào. Cheswick quỵ xuống như bị chọc thủng, và hai đứa cao lớn mang hắn lên khoa điên; tiếng hắn nảy tưng tưng trên các bậc thang nghe nặng nề, ướt át. Khi chúng quay lại và ngồi vào chỗ, mụ Y tá Trưởng mới nhìn sang chuỗi Cấp tính. Từ lúc Cheswick bị đưa đi, chưa đứa nào dám hé răng.

"Chúng ta còn tranh luận về tiêu chuẩn hút thuốc lá nữa hay thôi?" mụ hỏi.

Nhìn lên dãy mặt người đã vô hiệu hóa nom như dán vào tường phía đối diện, tôi dừng lại ở McMurphy đang ngồi gọn trong chiếc ghế bành, chăm chú sửa sang cỗ bài trong tay.... Và đèn ống trên trần nhà lại bắt đầu nhả ra một thứ ánh sang băng giá, lạnh ngắt... tôi cảm thấy được nó, chiếu xuyên thấu ruột gan tôi.

Mới đầu khi McMurphy thôi không đứng về phía chúng tôi nữa, tụi Cấp tính xì xào là hắn chỉ giả vờ để đánh lừa mụ Y tá Trưởng; bảo hắn nghe lỏm được tin sắp bị chuyển đến khoa điên, hắn buộc phải kìm mình, tỏ vẻ ngoan ngoãn để mụ không tìm ra cớ. Có đứa lại nói hắn mai danh ẩn tích một thời gian rồi sẽ xuất đầu lộ diện với một thứ vũ khí mới, mạnh hơn, nguy hiểm hơn. Chúng tập thành từng đám,nhỏ to bàn tán.

Chỉ có tôi là hiểu rõ được ngọn ngành. Tôi đã nghe lỏm được câu chuyện của hắn với gã cứu đắm. McMurphy trở nên ranh ma hơn, thế thôi. Ba cũng đã như thế khi hiểu ra rằng không thể thắng được bọn người từ thành phố tới muốn thuyết phục chính phủ xây dựng đập nước để lấy tiền bỏ túi, để có chỗ cho nhiều người làm việc và quan trọng nhất là để làng tôi biến đi cho khuất mắt; hãy để bộ lạc đánh cá cắm lông gà nhận của nhà nước hai trăm nghìn đô la rồi xéo đi đâu đấy cùng với mùi tanh hôi của chúng! Ba đã chọn cách khôn ngoan khi ký kết vào những giấy tờ mà chúng yêu cầu; cưỡng lại cũng chẳng ích gì. Đằng nào cuối cùng chính phủ cũng đạt được những điều mình muốn; ít ra làm thế này bộ lạc cũng được trả tương đối. Đó là cách khôn ngoan. McMurphy cũng đang chọn cách làm khôn ngoan. Cái đó tôi hiểu. Hắn buộc phải co mình lại vì đó là lối thoát khôn ngoan nhất, chứ không phải vì những lý do bọn Cấp tính đang thêu dệt. Hắn không nói gì nhưng tôi tự hiểu như vậy và tự nhủ đó là cách làm khôn ngoan. Tôi lặp lại cho mình nghe: làm thế là an toàn. Cũng như trốn trong đám mù. Thế là khôn ngoan, không cần phải bàn cãi gì nữa. Tôi biết hắn làm gì mà.

Thế rồi một buổi sớm tất cả đám Cấp tính đều hiểu được như tôi, hiểu tại sao McMurphy chịu nhún và hiểu ra rằng họ đã tự đánh lừa mình, khi tưởng tượng ra vô số nguyên do khác. Hắn không nhắc lại câu chuyện với gã cứu đắm, nhưng tất cả đều đã biết. Tôi cho có lẽ mụ Y tá Trưởng theo những đường dây tinh vi dẫn đến phòng ngủ đã loan báo cho họ vào ban đêm, nếu không làm sao họ biết được như vậy? Và buổi sáng khi McMurphy bước vào phòng chung, họ nhìn hắn bằng cặp mắt khác. Không phải cặp mắt giận dữ, cũng không thất vọng, vì ai cũng hiểu như tôi mụ y tá sẽ không đồng ý kết thúc thời hạn gửi chừng nào hắn còn ngang bướng, mà là cặp mắt tỏ ý giá mà việc có thể khác đi.

Ngay cả Cheswick cũng hiểu và không giận McMurphy vì đã không là ầm ĩ lên trong vụ thuốc lá. Hắn từ khoa điên trở về đúng vào ngày mụ Y tá Trưởng truyền tin vào phòng hắn ngủ, và hắn tự mình bảo với McMurphy rằng hiểu lý do buộc McMurphy phải làm như vậy và đó là việc đúng lý nhất, trong hoàn cảnh đó, và nếu hắn hiểu lý do buộc McMurphy phải làm như vậy và đó là việc đúng lý nhất, trong hoàn cảnh đó, và nếu hắn đã nghĩ kỹ việc Mac bị gửi đến đây thì hắn đã không ép hắn như hôm rồi. Những chuyện đó hắn nói với McMurphy trên đường họ lùa chúng tôi ra bể bơi. Nhưng vừa tới bể bơi hắn lại nói hắn thật sự muốn phải làm gì đó, sau mọi sự, và nhảy cắm đầu xuống nước. Và không hiểu sao ngón tay hắn lại bị kẹt chặt vào tấm lưới bịt ống thoát ở đáy bể bơi, khiến gã cứu đắm khỏe mạnh lẫn McMurphy và hai đứa hộ lý to con đã thay nhau cố hết sức nhưng vẫn không sao giải phóng được hắn, và đến lúc người ta mang bộ đồ nghề cơ khí đến tháo tấm lưới ra và lôi Cheswick lên với tấm lưới vẫn nắm chắc trong những ngón tay hồng và xanh mũm mĩm, hắn đã ngừng thở.
 


Top