(FULL) Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh - Lucy Maud Montgomery | Page 2 | VN-Zoom | Cộng đồng Chia Sẻ Kiến Thức Công Nghệ và Phần Mềm Máy Tính

Adblocker detected! Please consider reading this notice.

We've detected that you are using AdBlock Plus or some other adblocking software which is preventing the page from fully loading.

We don't have any banner, Flash, animation, obnoxious sound, or popup ad. We do not implement these annoying types of ads!

We need money to operate the site, and almost all of it comes from our online advertising.

Please add https://vn-z.vn to your ad blocking whitelist or disable your adblocking software.

×

(FULL) Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh - Lucy Maud Montgomery

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 20. Mặt trái của tưởng tượng
Mùa xuân lại đến Chái Nhà Xanh – mùa xuân Canada tươi đẹp, thất thường và ương bướng ấy dùng dằng đi qua suốt tháng Tư và tháng Năm trong chuỗi ngày lạnh giá trong trẻo ngọt ngào, mang theo những buổi hoàng hôn ánh hồng cùng sự màu nhiệm của hồi sinh và nảy nở. Hàng phong trên đường Tình Nhân rộ lên nụ đỏ và những cây dương xỉ lá xoăn nhú lên khắp Bong Bóng của Nữ Thần Rừng. Trên cánh đồng hoang, đằng sau nhà ông Silas Sloane, hoa tháng Năm bung nở, những ngôi sao duyên dáng màu hồng màu trắng náu mình dưới đám lá nâu. Toàn thể học sinh có một buổi chiều vàng gom hoa và trở về nhà trong ánh chạng vạng trong veo, cả tay lẫn giỏ đều đầy hoa.

"Con rất tiếc cho những người sốngở những vùng không có hoa tháng Năm," Anne nói. "Diana nói có lẽ họ sẽ có gì đẹp hơn, nhưng chẳng có gì đẹp hơn hoa tháng Năm được, có phải không bác Marilla? Diana cũng bảo nếu không biết chúng như thế nào thì người ta sẽ không nhớ chúng. Nhưng con nghĩ đó là điều buồn nhất trần đời. Con nghĩ đúng là thảm kịch nếu không biết hoa tháng Năm là gì vàkhông nhớ chúng, bác Marilla. Bác có biết con nghĩ hoa tháng Năm là gì không bác Marilla? Con nghĩ chúng hẳn là linh hồn của những bông hoa đã chết từ hè năm trước và đây là thiên đàng của chúng. Nhưng hôm nay tụi con đã có một khoảng thơig gian tuyệt diệu, bác Marilla. Tụi con ăn trưa bên cái hố rộng phủ đầy rêu ở cạnh một cái giếng cũ - một địa điểm mới lãng mạn làm sao chứ. Charlie Sloan thách Arty Gillis nhảy qua đó và Arty nhảy vì nó không thể chịu được sự thách thức. Trong trường không ai chịu được. Chuyện thách thức rất thời thượng mà. Thầy Phillips tặng tất cả hoa tháng Năm thầy kiếm được cho Prissy Andrews và con nghe thầy nói"điều ngọt ngào dành cho cô gái ngọt ngào."Thầy cuỗm câu đó trong sách, con biết ; nhưng nó cũng cho thấy thầy có trí tưởng tượng. Con cũng được tặng mấy bông hoa tháng Năm, nhưng con đã từ chối một cách khinh bỉ. Con không thể nói cho bác biết tên người đó vì con đã thề không bao giờ để từ đó thốt ra từ miệng mình. Chúng con tết những vành hoa tháng Năm để cài lên mũ, rồi khi đến giờ về nhà thì tụi con đi hàng đôi dọc con đường, mang theo các bó và vành hoa, cùng hát bài"Nhà tôi ở trên đồi". Ôi thật đáng rùng mình, bác Marilla. Mọi người trong nhà ông Silas Sloan chạy hết ra xem, tụi con còn trên đường ai ai cũng dừng lại nhìn. Tụi con đã khiến mọi người thật sự bị chấn động."

"Chẳng có gì đáng ngạc nhiên! Làm những chuyện ngốc nghếch đến thế kia chứ!"là câu trả lời của bà Marilla.

Sau hoa tháng Năm là đến violet, và thung lũng Tím nhuộm một màu tím ngăn ngắt. Anne băng qua đó đến trường bằng những bước chân cung kính và ánh mắt sùng bái như đang sải chân trên đất thánh.

"Không hiểu sao,"con bé bảo Diana, "khi bước qua đây mình thật sự chẳng còn để tâm liệu Gil... liệu có ai vượt qua mình trong lớp không nữa. Nhưng khi tới trường thì hoàn toàn khác, mình lại để tâm đến chuyện đó như thường. Có rất nhiều Anne bên trong mình. Đôi khi mình nghĩ đó là lý do mình phiền phức đến vậy. Nếu mình chỉ có một Anne thì sẽ dễ chịu hơn nhiều, nhưng như vậy sẽ không thú vị được bằng một nửa bây giờ."

Một buổi tối tháng Sáu, khi vườn cây ăn quả lại nở bung sắc hồng, khi những chú ếch ca vang khúc nhạc ngọt ngào trong vắt từ các đầm lầy đầu nguồn Hồ Nước Lấp Lánh và không khí thấm đẫm mùi hương của những cánh đồng cỏ ba lá và rừng linh sam thơm, Anne ngồi trên bệ cửa sổ đầu hồi. Con bé đang học bài nhưng trời quá tối để đọc được sách nên nó mở to mắt mơ màng, nhìn ra bên ngoài xuyên qua những nhánh Nữ Hoàng Tuyết mà một lần nữa lại phủ kín những hoa là hoa.

Xét ở những chi tiết cơ bản, căn phòng nhỏ đầu hồi không hề thay đổi. Tường vẫn trắng, gối cắm kim vẫn cứng, ghế vẫn cứng ngắc và ngả vàng như tự bao giờ. Nhưng toàn bộ tính cách của căn phòng đã thay đổi. Một cá tính mới sôi nổi và căng tràn nhựa sống dường như lan khắp ngóc ngách của căn phòng, tách biệt hẳn với mớ sách giáo khoa, váy, ruy băng và cả cái lọ xanh bị mẻ cắm đầy hoa táo trên bàn. Cứ như thể tất cả những giấc mơ, sự thiếp ngủ và thức tỉnh của chủ thể sống động của căn phòng đã hình thành nên một dạng thể hữu hình nhưng phi vật chất và phủ lên khắp căn phòng trống trải một lớp vải mỏng tang huy hoàng dệt từ cầu vồng và ánh trăng. Ngay lúc đó bà Marilla nhanh nhẹn bước vào mang theo mấy cái tạp dề đi học vừa là xong của Anne. Bà treo nó lên ghế rồi ngồi xuống kèm theo tiếng thở hắt. Chiều hôm đó bà dính một trận đau đầu và dù cơn đau đã qua nhưng bà vẫn thấy mệt"rã rời", theo như cách bà miêu tả. Anne nhìn bà thông cảm bằng đôi mắt trong trẻo.

"Con thật sự mong là mình có thể bị đau đầu thay bác, bác Marilla. Con có thể vui vẻ chịu đựng nó vì bác."

"Ta chắc rằng con đã giúp đỡ nhiều khi gánh bớt việc và để ta nghỉ ngơi." bà Marilla nói. "Con có vẻ làm việc khá tốt và mắc ít lỗi hơn thường lệ. Dĩ nhiên cũng không cần phải hồ bột khăn tay của Matthew! Và khi đặt bánh vào lò để hâm nóng trước bữa ăn thì hầu hết mọi người sẽ lấy ra ăn khi nó đã đủ nóng thay vì để nó cháy quắt thành một mẩu. Nhưng rõ ràng làm như vậy thì không phải cách của con."

Những cơn đau đầu luôn làm cho bà Marilla có vẻ gì đó mỉa mai.

"Ôi, con rất xin lỗi,"Anne nói vẻ ăn năn."Con chẳng nhớ gì về cái bánh đó từ lúc đặt nó vào lò cho đến tận bây giờ, mặc dù theo bản năng con cảm thấy có gì đó còn thiếu trên bàn ăn. Sáng nay khi bác giao việc cho con, con đã rất quyết tâm rằng sẽ không tưởng tượng gì cả, chỉ chuyên tâm vào công việc thôi. Con đã làm rất tốt cho đến khi đặt bánh vào, rồi một sự cám dỗ khó cưỡng ập đến khiến con tưởng tượng mình là một nàng công chúa bị phù phép nhốt trong tòa tháp cô đơn và một chàng hiệp sĩ đẹp trai cưỡi trên lưng con ngựa đen như mun đang trên đường đến cứu con. Đó là lý do làm con quên cái bánh. Con không biết mình đã hồ bột cái khăn tay. Suốt lúc là quần áo, con cố nghĩ ra cái tên cho hòn đảo mới mà Diana và con tìm ra trên nhánh sông. Nơi đó đúng là hấp dẫn bậc nhất, bác Marilla ạ. Ở đó có hai cây phong và dòng sông uốn lượn vòng quanh. Cuối cùng con đột nhiên nghĩ ra hẳn sẽ rất tuyệt nếu gọi đó là đảo Victoria vì tụi con tìm ra nó vào sinh nhật của Nữ hoàng. Cả Diana và con đều rất trung thành. Nhưng con xin lỗi vì cái bánh và khăn tay. Con muốn hôm nay phải suôn sẻ hơn nữa vì nó là một ngày kỷ niệm. Bác có nhớ điều gì xảy ra ngày này năm ngoái không, bác Marilla?"

"Không, ta chẳng nghĩ ra có gì đặc biệt cả."

"Ôi, bác Marilla, đó là ngày con đến Chái Nhà Xanh. Con sẽ không bao giờ quên được. Đó là bước ngoặt của cuộc đời con. Tất nhiên với bác thì nó có vẻ không quan trọng đến thế. Con đã ở đây được một năm và con rất vui. Dĩ nhiên, con cũng có rắc rối của mình, nhưng thời gian sẽ giải quyết những rắc rối mà. Bác có hối tiếc vì đã giữ con lại không, bác Marilla?"

"Không, ta không thể nói là mình hối tiếc,"Marilla nói, bà đôi khi vẫn tự hỏi không biết mình sống thế nào trước khi Anne tới Chái Nhà Xanh,"không, không hẳn là hối tiếc. Nếu con đã học xong, Anne, ta muốn con chạy qua hỏi bà Barry xem liệu bà ấy có thể cho ta mượn mẫu tạp dề củaDiana được không."

"Ôi... trời... trời tối quá,"Anne la lên.

"Tối quá? Sao, chỉ mới chập choạng thôi. Mà có trời mới biết con thường lượn lờ bên ngoài thế nào sau khi trời tối."

"Con sẽ sang đó sớm mai,"Anne vội nói."Con sẽ dậy lúc mặt trời mọc và qua đó, bác Marilla."

"Cái gì nhập vào con vậy, Anne Shirley? Ta muốn cái mẫu đó để tối nay cắt cho xong cái tạp dề mới của con. Đi ngay đi và nhanh nhanh vào."

"Vậy thì con sẽ phải đi đường vòng vậy," Anne nói, miễn cưỡng với lấy chiếc mũ."Đi đường vòng rồi phí mất nửa tiếng à!Ta không hiểu nổi con nữa!"

"Con không thể đi qua rừng Ma Ám được, bác Marilla."Anne hét lên tuyệt vọng.

Bà Marilla nhìn sững.

"Rừng Ma Ám! Con có điên không? Trên thế gian này cái rừng Ma Ám ấy là cái quái quỷ gì vậy?"

"Khu rừng vân sam bên kia sông," Anne nói trong tiếng thì thào.

"Vớ vẩn! Trên đời này chẳng có thứ gì là rừng ma ám cả. Ai kể con nghe mấy chuyện đó?"

"Không ai cả,"Anne thú nhận. "Diana và con chỉ tưởng tượng rằng khu rừng đó bị ám thôi. Tất cả những nơi quanh đây đều quá... quá... tầm thường. Tụi con chỉ dựng chuyện này lên cho vui thôi. Tụi con bắt đầu từ tháng Tư. Một khu rừng bị ma ám thì lãng mạn biết bao, bác Marilla. Tụi con chọn rừng vân sam vì nó quá u ám. Ôi, tụi con tưởng tượng ra những thứ đau đớn nhất. Có một phụ nữ ăn vận trắng toát đi dọc con suối vào tầm này buổi tối và quờ quạng tay, ú ớ rên rỉ. Bà ta xuất hiện khi có ai đó trong gia đình bị chết. Và hồn ma của một đứa nhỏ bị giết ám ở một góc rừng gần Vùng Đất Hoang Lười Nhác, nó bò lên phía sau bác và đặt những ngón tay lạnh giá vào bác – như vậy đấy. Ôi, bác Marilla, cứ nghĩ đến nó là con rùng cả mình. Rồi còn một người đàn ông không đầu đi tới đi lui trên đường và một bộ xương khô theo dõi bác từ sau những bụi cây. Ôi, bác Marilla, bây giờ dù có chuyện gì thì con cũng sẽ không đi qua rừng Ma Ám khi trời đã tối đâu. Con chắc chắn những thứ trắng toát sẽ thò ra từ sau đám cây cối và chụp lấy con."

"Có ai từng nghe chuyện như vậy chưa!" bà Marilla thốt lên, nãy giờ bà ngồi sững sờ lắng nghe."Anne Shirley, có phải con muốn nói con tin vào tất cả mấy thứ nhảm nhí tinh quái do con tưởng tượng ra không?"

"Không tin hoàn toàn,"Anne ấp úng."Ít nhất, vào ban ngày thì con không tin. Nhưng khi trời tối lại là chuyện khác, bác Marilla.Đó là lúc ma đi."

"Không có thứ gì gọi là ma hết, Ann."

"Ôi nhưng có mà, bác Marilla,"Anne vội la lên."Con biết những người từng trông thấy chúng. Và đó là những người đáng kính. Charlie Sloane bảo một tối sau khi ông cậu ấy mất được một năm, bà cậu ấy nhìn thấy ông đánh bò về. Bác biết là bà của Charlie Sloane không bao giờ dựng chuyện. Bà ấy rất sùng đạo. Cha bà Thomas bị một con cừu lửa đầu chỉ còn dính lủng lẳng bởi một ngấn da đuổi về tận nhà. Ông ấy bảo đó là hồn ma của người anh trai và là điềm báo ông sẽ chết trong vòng chín ngày nữa. Khi đó thì không sao, nhưng hai năm sau thì ông ấy chết, vậy bác nên coi chuyện đó là sự thật. Và Ruby Gillis nói..."

"Anne Shirley,"Marilla kiên quyết cắt ngang,"Ta không bao giờ muốn nghe con nói kiểu này nữa. Ta đã ngờ là trí tưởng tượng của con rồi sẽ lệch lạc hết cả, và nếu đây là kết quả của nó thì ta sẽ không ủng hộ bất kì hành động nào kiểu như thế này đâu. Giờ thì hãy đi ngay đến nhà Barry, và con sẽ đi qua khu rừng vân sam đó, chỉ là để cho con nhận được một bài học và một sự cảnh cáo thôi. Đừng bao giờ để ta nghe thấy một lời nào từ đầu con về những khu rừng ma ám nữa."

Anne có thể mặc sức nài nỉ, khóc lóc – và con bé làm thế thật, vì nó thực sự sợ hãi. Tưởng tượng đã ăn sâu vào đầu óc con bé và nó xem khu rừng vân sam sau khi mặt trời lặn là một nơi chết chóc. Nhưng bà Marilla không hề lay chuyển. Con bé bước dọc con suối bằng những bước chân rụt rè của một kẻ nhìn thấy ma và ra lệnh cho bản thân phải đi thẳng qua cầu tiến vào nơi có ánh hoàng hôn hòng thoát khỏi những người phụ nữ than khóc và mấy con ma không đầu chung quanh.

"Ôi, Marilla, sao bác có thể tàn nhẫn như vậy?"Anne sụt sùi."Bác sẽ thấy thế nào nếu một thứ trắng xóa vồ lấy con rồi mang đi mất?"

"Ta sẽ phải liều thôi," bà Marilla nói vô cảm."Con biết ta nói một là một. Ta sẽ chữa hết cái chứng tưởng tượng đến ma quỷ của con. Đi, nhanh."

Anne đi. Thật ra, con bé run rẩy vượt qua cầu rồi liêu xiêu bước trên con đường mờ tối đáng sợ phía bên kia. Anne không bao giờ quên chuyến đi đó. Con bé hối hận một cách cay đắng về cái quyền hạn mà nó đã trao cho trí tưởng tượng của mình. Những con quỷ lùn trong tưởng tượng của con bé núp trong những khoảng tối xung quanh, vươn những bàn tay lạnh giá trơ xương chộp lấy cô gái bé nhỏ đang sợ chết khiếp vốn chính là người sáng tạo ra chúng. Một mảnh vỏ bạch dương từ dưới thung lũng bay lên trên mặt đất nâu sậm của khu rừng làm con bé đứng tim. Tiếng rền rĩ của hai nhánh cây già cọ vào nhau làm mồ hôi chảy thành dòng trên trán nó. Bầy dơi trong bóng tối trên đầu là cánh của những sinh vật huyền bí. Khi tới cánh đồng của ông Wiliam Bell, con bé bèn chạy băng qua cứ như đang bị một binh đoàn áo trắng truy đuổi, còn lúc đến được cửa bếp nhà Barry, nó thở không ra hơi đến nỗi khó khăn lắm mới nói được chuyện mượn mẫu tạp dề. Diana đi vắng nên con bé không có lí do gì để chần chừ. Hành trình trở về khủng khiếp đang chờ nó đương đầu. Anne đi về mà mắt nhắm tịt, thà bị va vào cây còn hơn thấy những thứ trắng xóa. Rốt cuộc, khi cuối cùng cũng liêu xiêu đặt được chân lên cây cầu gỗ, nó hoàn hồn thở ra một hơi dài run rẩy.

"Sao, vậy không có cái gì bắt lấy con à?" bà Marilla nói chẳng xót thương.

"Ôi, bác Mar...Mar"Anne lập cập,"từ sau chuyện này, con sẽ...sẽ...hài...hài...lòng... với... với... những nơi tầm thường."
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 21. Khởi đầu mới về hương vị
Thật tình, trên thế giới này chẳng có gì ngoài gặp gỡ và chia ly, như bà Lynde đã nói."Anne buồn bã cảm thán vào ngày cuối cùng của tháng Sáu, đặt bảng và sách xuống bàn bếp rồi lau đôi mắt đỏ hoe bằng chiếc khăn tay ướt sũng."Chẳng phải thật may mắn khi con đem thêm một chiếc khăn tay đến trường sao, bác Marilla? Con đã có dự cảm phải cần đến nó mà."

"Ta chưa bao giờ nghĩ con yêu quý thầy Phillips đến mức cần đến hai chiếc khăn tay để lau nước mắt chỉ vì thầy ấy ra đi." bà Marilla nói.

"Con không cho là con khóc vì yêu quý thầy ấy."Anne suy nghĩ."Con chỉ khóc vì tất cả người khác đều như vậy. Chính Rubby Gillis khởi đầu. Ruby Gillis lúc nào cũng tuyên bố là ghét thầy Phillips, nhưng khi thầy vừa đứng lên đọc bài diễn văn chia tay thì bạn ấy òa lên khóc. Rồi tất cả lũ con gái bắt đầu khóc, hết đứa này đến đứa kia. Con đã cố kìm nén, bác Marilla. Con cố nhớ đến lúc thầy Phillips bắt con ngồi chung với Gil - với một đứa con trai ; lúc thầy ấy viết tên con lên bảng chữ cái thiếu chữ e ; cách thấy ấy nói con là đứa dốt chưa từng thấy ở môn địa lý và phá lên cười khi con đánh vần ; tất cả những lúc thầy ấy tỏ vẻ dọa dẫm và mai mỉa; nhưng không hiểu sao con không thể, bác Marilla, và con cũng khóc luôn. Jane Andrews nói cả tháng trời về chuyện bạn ấy sẽ mừng thế nào khi thầy Phillips đi, rằng bạn ấy sẽ không đời nào nhỏ một giọt nước mắt. Ấy thế mà bạn ấy còn khóc dữ hơn tất cả tụi con và phải mượn khăn tay của anh mình – dĩ nhiên lũ con trai thì không khóc - bởi vì bạn ấy không mang khăn tay, không nghĩ là sẽ cần tới. Ôi bác Marilla, thật cảm động biết bao. Thầy Phillips mở đầu bài diễn văn từ giã mới hay làm sao chứ. ‘Đã đến lúc chúng ta phải giã biệt’. Thật xúc động. Thầy cũng ứa nước mắt, bác Marilla. Ôi, con thấy có lỗi và ăn năn khủng khiếp vì tất cả những lúc nói chuyện trong lớp, vẽ hình thầy lên bảng và chọc ghẹo thầy với Prissy Andrews. Con có thể nói với bác con ước gì mình là một học sinh gương mẫu như Minnie Andrew. Bạn ấychẳng có gì phải hối lỗi. Lũ con gái khóc suốt trên đoạn đường từ trường về nhà. Carrie Sloane cứ lặp đi lặp lại vài phút một lần. ‘Đã đến lúc chúng ta phải giã biệt’, làm tụi con òa khóc ngay khi đã có thể vui lên chút đỉnh. Con thấy buồn lắm, bác Marilla. Nhưng người ta không thể rơi vào tận cùng tuyệt vọng khi có hai tháng hè ngay trước mắt, phải không bác Marilla? Hơn nữa, tụi con đã gặp vợ chồng ngài mục sư mới ở ga. Khi tất cả nỗi buồn về thầy Phillips đã trôi đi, con không thể ngăn mình có chút hứng thú với vị mục sư mới, phải không ạ? Vợ ông ấy rất đẹp. Không hẳn là quý phái đáng yêu, dĩ nhiên – nghe có vẻ không được đúng lắm nếu một mục sư lại có vợ đẹp quý phái đáng yêu, vì như vậy có thể sẽ thành tấm gương xấu. Bà Lynde nói vợ của mục sư ở Newbridge là một tấm gương xấu vì bà ấy ăn diện quá thời trang. Vợ mục sư mới của chúng ta mặc áo muslin xanh với tay áo phồng đáng yêu và đội mũ đính hoa hồng. Jane Andrew nói đối với vợ một mục sư thì tay áo phồng quá trần tục, nhưng con không đánh giá khắc nghiệt như vậy, bác Marilla, vì con biết cảm giác khao khát những tay áo phồng. Hơn nữa, bà ấy mới làm vợ mục sư một thời gian ngắn thôi nên mọi người cũng nên thông cảm, phải không ạ? Họ sẽ ở tạm tại nhà bà Lynde cho đến khi xây xong nhà cho mục sư."

Nếu như tối đó, nguyên nhân bà Marilla đi xuống nhà bà Lynde quả thật đúng như những gì bà tuyên bố là để trả lại cái khung may mượn từ mùa dông năm trước, thì sự yếu lòng dễ thương đó được hầu hết người dân Avonlea chia sẻ. Rất nhiều thứ bà Lynde đã cho mượn, đôi khi không hề hy vọng được trả lại, tối đó đều được đích thân người mượn mang đến trả. Một mục sư mới, hơn nữa lại là mục sư có vợ đi cùng, là mục tiêu hợp lý của tính hiếu kỳ trong cộng đồng dân cư của một làng quê nhỏ an bình hiếm có tin giật gân.

Ông Benley già, mục sư theo Anne đánh giá là thiếu trí tưởng tượng, tại nhiệm ở Avonlea mười tám năm. Lúc đến nhận nhiệm vụ, ông đã góa vợ, và cứ thế đơn chiếc mãi mặc dù có tin đồn ông đã cưới cô nọ cô kia, mỗi năm một khác. Tháng Hai vừa rồi, ông từ nhiệm và ra đi trong sự nuối tiếc của giáo dân, hầu hết đều có tình cảm sau thời gian dài giao tiếp với vị mục sư già tốt bụng, mặc dù ông khá yếu kém trong việc diễn thuyết. Từ đó nhà thờ Avonlea phung phí tín ngưỡng vào việc nghe nhiều ứng viên và ứng viên"dự bị"đến giảng kinh thử hết Chủ Nhật này đến Chủ nhật khác. Những người này được trụ lại hoặc bị đánh rớt bởi những bề trên ở Israel; nhưng một cô bé tóc đỏ ngồi ngoan ngoãn ở một góc ghế băng dành cho nhà Cuthbert cũng có ý kiến riêng của mình về họ và thảo luận cặn kẽ với ông Matthew, bà Marilla luôn từ chối vì tuân thủ nguyên tắc không được phê bình mục sư dưới bất kì hình thức nào.

"Con không nghĩ ông Smith được, bác Matthew à,"là kết luận cuối cùng của Anne."Bà Lynde nói bài phát biểu của ông ấy quá nghèo nàn, nhưng con nghĩ thiếu sót lớn nhất của ông ấy cũng giống như của Bentley – không có trí tưởng tượng. Còn ông Terry lại tưởng tượng nhiều quá, ông ấy thả cho nó chạy rông giống như con đã làm với chuyện rừng Ma Ám vậy. Hơn nữa, bà Lynde nói nền tảng tôn giáo của ông ấy không được vững. Ông Gresham rất tốt bụng và rất sùng đạo, nhưng ông ấy kể quá nhiều về chuyện hài làm cho mọi người cười nghiêng ngả trong nhà thờ ; ông ấy không đạo mạo lắm mà người ta phải đạo mạo một chút mới làm mục sư được, phải không bác Matthew? Con nghĩ ông Marshall rõ ràng rất hấp dẫn, nhưng bà Lynde nói ông ấy chưa lấy vợ, thậm chí chưa đính hôn, bởi vì bà đã điều tra đặc biệt về ông ấy, và bà nói không bao giờ được phép có một mục sư trẻ chưa vợ ở Avonlea, vì ông ấy có thể cưới người trong giáo xứ và như vậy rắc rối lắm. Bà Lynde là người rất biết nhìn xa trông rộng, phải không bác Matthew? Con rất vui vì họ đã gọi ông Allan. Con thích ông ấy vì những bài giảng của ông ấy rất thú vị và ông ấy cầu nguyện như thể những lời đó xuất phát tự trong tâm chứ không phải do thói quen. Bà Lynde nói ông ấy không hoàn hảo, nhưng bà cũng cho rằng chúng ta không thể mong đợi có một mục sư hoàn hảo chỉ với bảy trăm năm mươi đồng một năm được, dù sao nền tảng tôn giáo của ông ấy khá vững vì bà đã hỏi ông ấy kỹ càng về tất cả các điểm của học thuyết. Bà cũng biết cả họ hàng của vợ ông ấy, biết rằng họ đều đáng trọng và phụ nữ thảy đều là nội trợ đảm đang. Bà Lynde nói đàn ông vững đạo và đàn bà giỏi việc nhà sẽ là một kết hợp lí tưởng cho gia đình một mục sư."

Mục sư mới và vợ là một cặp vợ chồng trẻ tuổi, gương mặt dễ gần, vẫn đang trong tuần trăng mật và tràn đầy những hoài bão tốt đẹp cho sự nghiệp mình đã chọn. Avonlea mở lòng với họ từ buổi đầu. Ai ai cũng yêu mến người đàn ông trẻ tuổi thẳng thắn vui vẻ với những ý tưởng cao cả và người phụ nữ nhỏ nhắn thông minh dịu dàng gánh vác địa vị nữ chủ nhân trong ngôi nhà của mục sư. Anne nhanh chóng cảm thấy toàn tâm toàn ý yêu quý cô Allan. Con bé đã tìm được một tâm hồn đồng điệu khác.

"Cô Allan đáng yêu vô cùng,"nó tuyên bố vào một chiều Chủ nhật."Cô ấy nhận dạy lớp con và là một giáo viên tuyệt vời. Cô ấy nói ngay là cô ấy nghĩ sẽ không công bằng khi chỉ thầy cô giáo được hỏi, và bác biết không, Marilla, đó chính xác là điều con luôn luôn nghĩ. Cô ấy nói chúng con có thể hỏi cô bất cứ câu hỏi nào chúng con thích và con đã hỏi thật nhiều. Con vốn giỏi đặt câu hỏi mà bác Marilla."

"Ta tin con,"là lời bình phẩm dứt khoát của bà Marilla.

"Ngoài Ruby Gillis thì chẳng còn ai đặt câu hỏi nữa, và bạn ấy hỏi liệu hè này có chuyến picnic toàn trường ngày Chủ nhật không. Con không nghĩ đó là một câu hỏi đúng đắn cho lắm vì nó chẳng liên hệ gì đến bài học – bài học về Daniel trong hang sư tử - nhưng cô Allan chỉ cười rồi nói chắc sẽ có thôi. Cô Allan có nụ cười thật đáng yêu. Cô ấy có hai lúm đồng tiền thật thanh tú trên má. Con ước gì mình cũng có lúm đồng tiền, bác Marilla. Con không còn gầy nhẳng như khi mới đến đây, nhưng con vẫn chưa có lúm đồng tiền. Nếu có thì biết đâu con có thể gây ảnh hưởng tốt lên người khác. Cô Allan nói chúng con phải luôn cố gắng gây ảnh hưởng tốt lên người khác. Cô ấy nói hay biết bao nhiêu. Con chưa bao giờ nghĩ tôn giáo lại vui như vậy. Con luôn nghĩ nó thật u sầu, nhưng cô Allan thì không, và con cũng muốn theo đạo Thiên chúa nếu con có thể trở thành người giống như cô ấy. Con sẽ không muốn mình giống như ông Bell giám thị."

"Con nói như vậy về ông Bell là rất hư," bà Marilla nghiêm giọng."Ông Bell thật sự là người tốt."

"Ô, dĩ nhiên ông ấy tốt," Anne đồng ý, "nhưng ông ấy dường như chẳng thoải mái gì hết về chuyện đó. Nếu con có thể thành người tốt thì con sẽ nhảy múa ca hát cả ngày vì vui mừng. Con đoán cô Allan quá lớn tuổi rồi nên không nhảy múa hát hò được, và dĩ nhiên như vậy cũng sẽ không đứng đắn cho lắm với vợ một mục sư. Nhưng con có thể nhận thấy cô ấy vui mừng được là người Công giáo và cô ấy vẫn sẽ là người Công giáo cho dù chẳng cần làm thế thì cô ấy vẫn được lên thiên đường."

"Ta nghĩ chúng ta phải mời vợ chồng cô Allan đến uống trà hôm nào đó sắp tới thôi," bà Marilla nói với vẻ trầm ngâm. "Họ hầu như đã có mặt ở khắp mọi nơi trừ nơi này. Để ta xem nào, thứ Tư tuần sau sẽ là dịp tốt để mời họ. Nhưng đừng nói gì với Matthew về chuyện này, nếu biết họ tới chơi bác ấy sẽ kiếm cớ để hôm đó không có ở nhà. Bác ấy quá quen với ông Bentley rồi nên sẽ chẳng băn khoăn đến ông ấy, nhưng bác ấy sẽ thấy khó làm quen được với một mục sư mới, còn vợ mục sư mới thì chắc sẽ dọa bác ấy chết khiếp."

"Con sẽ im như hến," Anne bảo đảm. "Nhưng ôi, Marilla, bác có thể để con làm một cái bánh mừng dịp này không? Con rất muốn làm gì đó cho cô Allan, bác biết bây giờ con có thể làm một cái bánh khá ngon rồi mà."

"Con sẽ làm được bánh bông lan," bà Marilla hứa.

Chái Nhà Xanh dành cả ngày thứ Hai và thứ Ba chuẩn bị chu đáo mọi thứ. Mời vợ chồng mục sư đến dùng trà là một nhiệm vụ nghiêm túc và quan trọng, mà bà Marilla thì kiên quyết không để bất cứ bà nội trợ nào ở Avonlea qua mặt. Anne phát cuồng vì phấn khích và vui sướng. Chạng vạng ngày thứ Ba, con bé kể hết mọi chuyện với Diana khi hai đứa ngồi trên tảng đá đỏ lớn bên Bong Bóng của Nữ Thần Rừng và tạo cầu vồng trong nước bằng những cành cây nhỏ thấm nhựa linh sam.

"Mọi thứ đều sẵn sàng rồi, Diana, ngoại trừ cái bánh mình sẽ làm sáng mai và món bánh quy bác Marilla nướng ngay trước giờ trà. Mình bảo đảm với cậu, Diana, rằng bác Marilla và mình bận rộn suốt hai ngày. Thật là một trách nhiệm lớn lao khi có gia đình mục sư đến dùng trà. Mình chưa bao giờ nghĩ sẽ được trải qua một kinh nghiệm thế này. Lẽ ra cậu phải ngắm cái chạn thức ăn của nhà mình. Một cảnh tượng đáng chiêm ngưỡng. Nhà mình có thịt gà nấu đông và lưỡi ướp lạnh. Còn có hai loại thạch, đỏ và vàng, kem tươi và bánh chanh, bánh anh đào, ba loại bánh quy, bánh trái cây, món mứt mận vàng nổi tiếng của bác Marilla được đặc biệt dành riêng cho các mục sư, rồi bánh pound, bánh bông lan, bánh quy như đã nói; bánh mì cả mới lẫn cũ, phòng trường hợp mục sư đau dạ dày nên không thể ăn bánh mới. Bà Lynde nói các mục sư thường bị đau dạ dày, nhưng mình nghĩ ông Allan chưa làm mục sư đủ lâu để bị ảnh hưởng như thế. Mình cứ lạnh cả người mỗi khi nghĩ đến cái bánh bông lan của mình. Ôi, Diana, lỡ nó không ngon thì sao! Tối qua mình nằm mơ thấy bị một con quỷ lùn đội trên đầu cái bánh bông lan to bự rượt chạy vòng quanh."

"Sẽ ổn thôi mà." Diana trấn an, con bé luôn là một người bạn rất dễ chịu. "Mình đảm bảo cái bánh cậu làm cho chúng ta ăn trưa ở Vùng đất Hoang Lười Nhác hai tuần trước cực kì ngon rồi."

"Ừ, nhưng bánh thường có thói quen tệ hại là sẽ trở nên dở ẹc mỗi khi ta đặc biệt muốn chúng thật ngon lành."Anne thở dài, thả một cành cây phủ nhựa rất thơm trôi bập bềnh."Tuy nhiên, mình phải tin vào Thượng đế và cẩn thận khi bỏ bột vào. Ôi, nhìn kìa, Diana, cầu vồng mới đáng yêu làm sao! Cậu có nghĩ nữ thần rừng sẽ bước ra sau khi chúng ta đi khỏi và dùng nó làm khăn choàng không?"

"Cậu biết không có thứ gì gọi là nữ thần rừng mà,"Diana nói. Mẹ Diana đã biết về vụ rừng Ma Ám và đùng đùng nổi giận. Hậu quả là Diana không được cho phép trí tưởng tượng bay bổng xa xôi và đừng có mà nghĩ đến chuyện nuôi dưỡng một niềm tin tinh thần huyền hoặc nào đó cho dù là đối với những nữ thần rừng vô hại.

"Nhưng quá dễ dàng để tưởng tượng là có."Anne nói."Mỗi tối trước khi đi ngủ, mình đều nhìn ra ngoài cửa sổ và tự hỏi liệu thần rừng có thật sự ngồi đó, soi mình bên dòng suối chải mái tóc dài không. Đôi khi mình tìm dấu chân nàng trong những giọt sương mai. Ôi, Diana, đừng từ bỏ niềm tin của bạn về thần rừng!"

Buổi sáng thứ Tư đã đến. Anne thức dậy từ lúc mặt trời vừa mọc vì quá phấn khích đến nỗi không ngủ được. Con bé bị cảm lạnh vì đã dầm mình trong suối tối hôm trước; nhưng ngoài bệnh phổi thì không gì có thể dập tắt niềm hứng thú nấu nướng của con bé sáng đó. Sau bữa sáng Anne bắt tay vào làm bánh. Cuối cùng rồi cũng đến lúc đóng cửa lò lại, và con bé thở ra một hơi dài.

"Con chắc lần này con không quên gì cả, bác Marilla à. Nhưng bác nghĩ nó có nở không? Lỡ bột bánh không tốt thì sao? Con dùng bột trong hộp mới. Bà Lynde nói thời buổi bây giờ không thể chắc chắn mình mua được bột bánh tốt trong khi thứ gì cũng bị làm giả như thế. Bà Lynde cũng cho rằng chính phủ phải cải thiện tình hình nhưng bà ấy bảo chúng ta sẽ chẳng thể nào sống được đến ngày chính phủ đảng Bảo thủ làm được điều đó. Bác Marilla, nếu bánh không nở thì sao?"

"Không có nó thì chúng ta vẫn có nhiều món lắm," bà Marilla tỏ ra mất kiên nhẫn trước đề tài này.

Tuy nhiên, cái bánh có nở, và ra khỏi lò trong hình dáng nhẹ nhàng bông xốp như đám bọt vàng. Anne, đỏ mặt vì vui sướng, kẹp nó với những tầng mứt đỏ và, trong tưởng tượng, nhìn thấy cô Allan ăn bánh rồi sẽ xin thêm miếng nữa!

"Tất nhiên bác sẽ dùng bộ trà đẹp nhất rồi, bác Marilla."Con bé nói."Con có thể trang trí bàn với dương xỉ và hoa hồng dại không?"

"Ta nghĩ mấy thứ đó đều vớ vẩn cả," bà Marilla khịt mũi."Theo ý ta quan trọng là mấy thứ ăn được chứ không phải ba cái trang trí phù phiếm."

"Bà Barry có trang trí bàn của bà ấy,"Anne nói, không hẳn là hoàn toàn chẳng có chút tinh ranh nào,"và mục sư đã dành cho bà ấy những lời ngợi khen rất tao nhã. Ông ấy nói bữa tiệc đó vừa ngon miệng vừa ngon mắt."

"Thôi được, con thích làm gì thì làm," bà Marilla nói, kiên quyết không để bà Barry hay bất cứ ai qua mặt."Chỉ cần chú ý chừa đủ chỗ cho đĩa và thức ăn là được."

Anne nỗ lực hết sức để trang trí theo một kiểu cách mà bà Barry còn lâu mới theo kịp. Với bó hoa hồng, dương xỉ và một khiếu thẩm mĩ rất riêng, con bé mang lại cho bàn trà một vẻ đẹp khiến vợ chồng ngài mục sư vừa ngồi xuống đã ngợi khen không ngớt lời."Tất cả là do Anne làm đấy ạ," bà Marilla nói, nghiêm nghị như thường lệ, còn Anne cảm thấy nụ cười tán thưởng của cô Allan là quá đủ hạnh phúc trên đời này.

Ông Matthew ngồi đó, chỉ có Chúa và Anne mới biết tại sao ông lại bị dụ dỗ tham gia vào buổi tiệc. Ông ở trong tâm trạng mắc cỡ và lo lắng đến mức bà Marilla đành tuyệt vọng mặc kệ ông, nhưng Anne đã giúp ông kiềm chế một cách thành công đến mức giờ ông đang ngồi bên bàn trong bộ đồ cổ cồn trắng đẹp nhất của mình, nói chuyện với mục sư bằng một thái độ không hẳn không có vẻ thích thú. Ông chẳng nói lời nào với cô Allan, nhưng có lẽ đó cũng không phải là điều được trông chờ.

Tất cả đều trôi qua vui vẻ như tiếng chuông đám cưới cho đến khi cái bánh ngọt của Anne được mang ra. Cô Allan, vốn được mời rất nhiều lần, từ chối nếm thử. Nhưng bà Marilla, nhìn thấy vẻ thất vọng trên gương mặt Anne, bèn tươi cười nói:"Ôi, cô phải ăn một miếng, cô Allan. Anne làm riêng món này cho cô đấy."

"Nếu vậy thì tôi phải thử một miếng thôi,"cô Allan cười, tự lấy một miếng tam giác lớn, mục sư và bà Marilla cũng vậy.

Cô Allan cắn một miếng to và một biểu hiện kì cục nhất thoáng hiện trên gương mặt, tuy nhiên cô không nói lời nào mà chỉ bình tĩnh ăn từng chút một. Bà Marilla nhìn thấy vẻ mặt đó bèn vội nếm cái bánh.

"Anne Shirley!"bà kêu lên,"Con đã cho cái quái gì vào bánh thế?"

"Không có gì ngoài những thứ được ghi trong công thức đâu ạ, bác Marilla,"Anne la lên với vẻ khổ sở."Ôi, có gì không ổn ạ?"

"Ổn à! Nó đúng là khủng khiếp. Cô Allan, đừng ăn nữa. Anne, tự con nếm đi. Con cho vị gì vào đó?"

"Vani ạ."Anne nói, gương mặt con bé đỏ bừng vì xấu hổ sau khi nếm thử cái bánh."Chỉ có vani thôi. Ôi, bác Marilla, hẳn là do bột bánh rồi. Con đã nghi ngờ bột..."

"Bột bánh nhảm nhí gì! Mang cho ta chai vani con dùng xem nào."

Anne chạy như bay vào bếp rồi trở ra với một chai nhỏ đựng lưng lửng thứ chất lỏng màu nâu và có dán nhãn vàng"Vani hảo hạng".

Bà Marilla đón lấy, mở nắp rồi ngửi.

"Lạy Chúa tôi, Anne, con đã nêm dầu giảm đau vào bánh. Ta làm vỡ lọ dầu tuần trước và đổ phần còn lại vào hũ vani rỗng. Ta nghĩ đây phần nào cũng là lỗi của ta - lẽ ra ta phải nói trước với con – nhưng trời ạ, chẳng lẽ con không ngửi thử à?"

Anne òa khóc trước sự hổ thẹn gấp đôi này.

"Con không thể...Con bị cảm mà!"và nói xong con bé lao lên căn phòng đầu hồi, vùi mình vào giường khóc như thể không cho ai dỗ dành.

Ngay lúcđó vang lên tiếng bước chân đang khẽ bước lên cầu thang rồi có người bước vào phòng.

"Ôi, bác Marilla,"Anne sụt sùi, không nhìn lên,"con sẽ vĩnh viễn bị mất mặt thôi. Con sẽ không bao giờ sống nổi với chuyện này. Nó sẽ bị truyền ra ngoài - mọi chuyện lúc nào cũng được đồn khắp Avonlea. Diana sẽ hỏi con cái bánh thế nào và con sẽ phải kể cho bạn ấy nghe sự thật. Rồi thì lúc nào con cũng sẽ bị chỉ trỏ là con bé nêm bánh bằng dầu giảmđau. Gil... lũ con trai ở trường sẽ không bao giờ ngừng cười nhạo chuyện này. Ôi, Marilla, nếu bác có chút lòng từ bi của Chúa thì xin đừng bắt con phải xuống nhà rửa bát đĩa sau chuyện này. Con sẽ rửa chúng sau khi vợ chồng mục sư đã đi khỏi, nhưng con sẽ chẳng bao giờ có thể nhìn mặt cô Allan nữa. Có lẽ cô ấy sẽ nghĩ con cố tình đầu độc cô ấy. Bà Lynde nói bà ấy biết một con bé mồ côi cố đầu độc người cưu mang mình. Nhưng dầu này có độc đâu cơ chứ. Nó được đưa vào cơ thể mà - mặc dù không qua đường bánh. Bác sẽ nói vậy với cô Allan chứ, bác Marilla?"

"Ta nghĩ con nên ngồi dậy và tự nói với cô ấy đi,"một giọng nói vui vẻ cất lên.

Anne bật dậy, thấy cô Allan đứng bên giường, nhìn mình vớiđôi mắt tươi cười.

"Cô bé yêu quý, đừng khóc thế này,"cô nói, vô cùngbối rối vì gương mặt bi thảm của Anne."Sao thế, chỉ là một lỗi tức cười mà ai cũng có thể mắc phải thôi mà."

"Ôi, không, chỉ có con mới phạm lỗi như thế,"Anne khổ sở nói."Và con muốn cái bánh đó phải thật ngon dành cho cô, cô Allan."

"Ừ, ta biết, cưng ạ. Và ta đảm bảo với con là ta đánh giá rất cao lòng tốt cùng với sự quan tâm của con không thua kém gì khi mọi chuyện đều ổn vậy. Nào, đừng khóc nữa, xuống nhà với ta và chỉ ta xem vườn hoa của con nào. Bác Cuthbert nói với ta rằng con cũng có một mảnh vườn nhỏ của riêng mình. Ta muốn được tham quan vì ta cũng rất thích hoa."

Anne cho phép mình bình tĩnh và thoải mái hơn, thầm nhủ rằng quả thật chính do ý trời mà cô Allan là một tâm hồn đồng điệu. Không ai nói thêm gì về cái bánh dầu thuốc, và khi khách đã ra về, Anne nhận ra mình tận hưởng buổi tối với sự thích thú nhiều hơn mong đợi, cho dù có tai nạn khủng khiếp đó. Tuy nhiên, con bé vẫn thở dài nặng nề.

"Bác Marilla, có phải thật tuyệt khi nghĩ rằng mai là một ngày mới không có lỗi lầm nào?"

"Ta bảođảm là con sẽ lại phạm phải cả đống lỗi thôi." Bà Marilla nói."Ta chưa từng thấy ai phạm lỗi giỏi hơn con, Anne."

"Đúng vậy thật, con biết rõ chuyện đó,"Anne buồn bã thừa nhận."Nhưng bác có khi nào nhận thấy con cũng có điểm đáng động viên không, bác Marilla? Con không bao giờ phạm một lỗi hai lần."

"Ta không biết liệu có ích lợi gì lắm không khi con luôn phạm lỗi mới."

"Ôi, bác không thấy sao, bác Marilla? Phải có giới hạn về số lỗi một người có thể phạm phải chứ, và khi đã đi hết lượt rồi thì con sẽ không mắc lỗi nữa. Đó là một suy nghĩ rất dễ chịu."

"Thôi được rồi, tốt hơn hết con nên đem cái bánh đó cho heo ăn đi," bà Marilla nói. "Chẳng ai ăn nổi nó cả, thậm chí là Jerry Boute."
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 22. Anne được mời đi dùng trà
Vậy bây giờ có chuyện gì mà mắt con lại lồi ra khỏi tròng thế kia?" bà Marilla hỏi khi Anne vừa chạy ra bưu điện về. "Con lại khám phá ra một tâm hồn đồng điệu khác nữa à?"

Sự phấn khích tỏa ra quanh Anne như chiếc áo choàng, ánh lên trong mắt, rạng ngời trong từng đường nét của con bé. Con bé đã nhảy múa trên đường về như một nàng tiên bay theo gió, băng qua ánh nắng êm dịu và bóng tối lười biếng của một ngày tháng Tám.

"Không ạ, bác Marilla, nhưng ôi, bác nghĩ sao nào? Con được mời đến nhà mục sư dùng trà chiều mai!Cô Allan gửi thư ở bưu điện cho con. Bác xem này, Marilla. ‘Cô Anne Shirley, Chái Nhà Xanh.’ Đây là lần đầu tiên con được gọi là ‘Cô’. Nó khiến con rùng cả mình. Con sẽ nâng niu nó mãi mãi trong số những vật báu quý giá nhất của mình."

"Cô Allan nói với ta cô ấy định lần lượt mời tất cả thành viên của lớp học Chủ nhật đến dùng trà," bà Marilla dửng dưng. "Con không cần phát sốt lên như thế. Phải học cách bình thản đón nhận mọi thứ, cô bé ạ."

Muốn Anne bình thản đón nhận mọi thứ thì chắc phải thay đổi cả bản tính của nó. Với một con người được tạo nên từ "tâm hồn, lửa và sương" như con bé, mọi niềm vui và đau đớn đến trong đời đều mãnh liệt gấp ba so với bình thường. Bà Marilla cảm nhận được điều này và mơ hồ lo lắng, nhận ra tất cả thăng trầm của cuộc đời có lẽ sẽ thành gánh nặng với tâm hồn xốc nổi này, nhưng lại không hiểu được một cách thấu đáo rằng khả năng vui sống lớn lao không kém còn có thể bù đắp nhiều gấp bội. Do đó bà Marilla tin rằng mình phải có trách nhiệm rèn cho Anne có được một tâm hồn bình yên đơn điệu, có điều chuyện này đối với bà cũng bất khả thi và xa lạ như ánh nắng nhảy múa dưới lòng suối cạn. Bà phải buồn bã tự nhủ rằng mình không cải thiện tình hình được nhiều lắm. Một hy vọng tha thiết hoặc một kế hoạch nào đó sụp đổ có thể đẩy Anne vào "đau khổ tột độ". Nhưng hoàn thành được nó sẽ đưa con bé vào một thế giới hân hoan ngây ngất. Bà Marilla gần như bắt đầu cảm thấy không còn hy vọng trong chuyện nhào nặn sinh linh bơ vơ này thành bé gái kiểu mẫu, cư xử điềm tĩnh đúng mực. Nhưng bà cũng không tin rằng mình thật sự thích Anne trở nên như vậy hơn.

Tối đó Anne lặng lẽ đi ngủ trong tâm trạng khổ sở vì ông Matthew nói gió đã chuyển sang hướng Đông Bắc và ông sợ rằng ngày mai trời sẽ mưa. Tiếng lá bạch dương quanh nhà xào xạc làm con bé thấp thỏm không yên, cảm giác như đó là tiếng mưa tí tách, rồi cả tiếng gầm xa xôi vọng lại từ vịnh mà bình thường con bé vẫn lắng nghe hết sức thích thú, yêu cái giai điệu lạ lùng, âm vang mà ám ảnh đó, bây giờ lại dường như lời báo trước cho cơn bão và thảm họa sẽ xảy đến với một cô bé đang đặc biệt trông chờ một ngày đẹp trời. Anne nghĩ rằng buổi sáng sẽ không bao giờ tới.Nhưng mọi thứ rồi cũng phải kết thúc, ngay cả buổi tối trước ngày bạn được mời dùng trà ở nhà mục sư. Sáng hôm đó, trái với dự đoán của ông Matthew, trời lại đẹp và tinh thần của Anne được dịp thăng hoa đến đỉnh điểm. "Ôi, bác Marilla, hôm nay trong con có điều gì đó làm con thấy yêu tất cả những người con gặp," con bé thốt lên trong lúc rửa bát đĩa của bữa sáng. "Bác không biết con thấy sung sướng đến thế nào đâu! Cảm giác này tồn tại mãi thì có phải tốt không? Con tin là con có thể thành một đứa trẻ mẫu mực nếu được mời đi dùng trà mỗi ngày. Nhưng ôi, bác Marilla, đây cũng là một dịp trang trọng. Con thấy lo lắng quá. Nếu con cư xử không đúng đắn thì sao? Bác biết là con chưa bao giờ được dùng trà ở nhà mục sư mà, con không chắc mình biết hết các quy tắc xã giao, mặc dù từ khi đến đây con đã học được những quy tắc trong Phép xã giao của tạp chí Family Herald. Con rất sợ nhỡ lại làm chuyện ngốc nghếch hoặc quên điều gì đó mà mình lẽ ra nên làm. Liệu có đúng không khi xin thêm một phần ăn nữa nếu ta rất rất muốn?"

"Vấn đề của con, Anne, là con nghĩ quá nhiều về bản thân. Con chỉ nên nghĩ tới cô Allan, tới những gì tốt đẹp và dễ chịu nhất với cô ấy," bà Marilla nói, ít nhất một lần trong đời cũng đưa ra lời khuyên rất đúng đắn và súc tích. Anne ngay lập tức nhận ra điều này. "Bác nói đúng, bác Marilla. Con sẽ cố không nghĩ về mình chút nào."

Anne rõ ràng đã hoàn tất chuyến viếng thăm của mình mà không mắc lỗi nào nghiêm trọng về "phép ngoại giao", vì con bé trở về lúc chạng vạng, dưới bầu trời cao vút, bao la rạng rỡ những đám mây hồng và vàng nghệ tây, trong tâm trạng tuyệt hảo và vui vẻ kể tất cả cho bà Marilla nghe trong lúc đang ngồi trên tấm phản lớn bằng thạch sa đỏ ở cửa bếp, mệt mỏi tựa cái đầu xoăn vào vạt váy bằng vải bông kẻ của bà.

Một cơn gió mát từ những triền đồi vân sam phía Tây thổi xuống, băng qua những cánh đồng trĩu hạt và rì rào qua hàng dương. Một ngôi sao sáng treo lơ lửng trên vườn cây và đom đóm lập lòe trên đường Tình nhân, bay ra bay vào giữa đám dương xỉ và bụi cây xào xạc. Anne vừa nói vừa nhìn chúng, cảm thấy như gió, sao cùng đom đóm hòa trộn vào thành một thứ gì đó thật ngọt ngào và mê hoặc đến mức không thể diễn tả bằng lời.

"Ôi, bác Marilla, con đã có một khoảng thời gian say đắm nhất. Con cảm thấy mình không hề sống một cách vô ích và sẽ luôn cảm thấy như thế ngay cả khi không bao giờ được mời đến uống trà ở nhà mục sư nữa. Khi con đến, cô Allan đón con ở cửa. Cô ấy mặc chiếc váy xinh xắn nhất bằng vải bông mịn màu hồng nhạt tay dài đến khuỷu, với hàng tá diềm xếp nếp và trông cô ấy không khác gì thiên thần. Con thật sự nghĩ khi lớn lên con muốn trở thành vợ mục sư, bác Marilla à. Một mục sư có lẽ sẽ không quan tâm đến mái tóc đỏ của con vì ông ấy sẽ không nghĩ đến những thứ trần tục như thế. Nhưng dĩ nhiên vợ của mục sư phải có bản tính thiện mà con lại chẳng bao giờ được như thế, nên con đoán là có nghĩ nữa cũng chẳng ích gì. Có người sinh ra đã lương thiện, có người lại không. Con thuộc nhóm thứ hai. Bà Lynde nói con vốn tội lỗi từ trong trứng rồi. Cho dù có cố gắng đến thế nào thì con cũng không bao giờ trở nên tốt đẹp như những người bản tính lương thiện. Cũng na ná như với môn hình học vậy. Nhưng bác có nghĩ là cố gắng nhiều thì cũng phải được đền đáp gì chứ? Cô Allan là một trong số những người bản tính lương thiện. Con vô cùng yêu quý cô ấy. Bác cũng biết như một số người, như bác Matthew và cô Allan, ta có thể yêu quý họ ngay không chút nghi ngại. Một số người khác, như bà Lynde chẳng hạn, ta phải cố lắm mới yêu được. Bác biết phải yêu họ vì họ biết quá nhiều và lại là những người hoạt động năng nổ ở nhà thờ, nhưng lúc nào bác cũng phải nhắc mình điều đó nếu không sẽ quên mất. Có một bạn gái khác cũng dùng trà ở nhà mục sư, đến từ trường học Chủ nhậtWhite Sands. Bạn ấy tên là Lauretta Bradley và rất dễ thương. Không hắn là một tâm hồn đồng điệu, bác biết đấy, nhưng vẫn rất dễ thương. Chúng con đã có một buổi tiệc trà tao nhã và con nghĩ mình đã tuân thủ đầy đủ các quy tắc của phép lịch sự. Sau buổi trà, cô Allan chơi đàn và hát, rồi còn bắt nhịp cho Lauretta và con hát chung. Cô Allan nói con có chất giọng tốt và sau này con phải hát trong dàn đồng ca trường Chủ nhật. Bác không biết được con xúc động đến rùng mình như thế nào khi chỉ mới nghĩ đến điều đó đâu. Con khao khát được hát trong dàn đồng ca trường Chủ nhật giống Diana, nhưng con e rằng đó là một vinh dự mình sẽ không bao giờ đạt được. Lauretta phải về nhà sớm vì có một buổi hòa nhạc lớn ở khách sạn White Sands và chị bạn ấy tham gia biểu diễn. Lauretta nói rằng những người Mỹ ở khách sạn tổ chức hòa nhạc hai tuần một lần để giúp đỡ bệnh viện Charlottetown và họ đề nghị rất nhiều người dân White Sands biểu diễn. Lauretta bảo bạn ấy mong có ngày mình cũng sẽ được mời. Con chỉ còn biết nhìn bạn ấy kinh ngạc. Sau khi bạn ấy đi, cô Allan và con đã tâm sự rất thân mật. Con kể hết mọi chuyện cho cô ấy - về bà Thomas với mấy cặp sinh đôi, Katie Maurice cùng với Violetta rồi chuyện con tới Chái Nhà Xanh và những rắc rối với môn hình học. Và bác có tin được không, bác Marilla? Cô Allan nói với con cô ấy cũng dốt đặc môn hình học. Bác không biết điều đó động viên con nhiều đến thế nào đâu. Bà Lynde tới nhà mục sư ngay trước khi con rời khỏi đó và bác biết sao không, Marilla? Các ủy viên quản trị vừa thuê một giáo viên mới và đó là một cô giáo. Tên cô ấy là Muriel Stacy. Đó chẳng phải là một cái tên lãng mạn sao? Bà Lynde nói trước giờ chưa từng có giáo viên nữ nào ở Avonlea và bà ấy cho rằng đó là một đổi mới nguy hiểm. Nhưng con nghĩ thật tuyệt vời khi có một cô giáo và con thật không biết mình sẽ phải sống sao cho qua hai tuần trước khi trường khai giảng, con quá nôn nóng muốn gặp cô ấy."
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 23. Anne gặp tai họa trong vấn đề danh dự
Anne phải sống qua hơn hai tuần lễ, đúng như lẽ thường. Gần một tháng đã trôi qua kể từ vụ bánh nướng dầu thuốc, đây là thời kỳ cao điểm của con bé trong việc vướng vào đủ loại rắc rối mới; thật không tài nào đếm xuể những lỗi lặt vặt kiểu như lơ đãng dốc cạn cả chảo sữa bột tách kem vào giỏ đựng len trong bếp thay vì đổ vào máng heo và chuyện bước thẳng qua mép cầu gỗ rồi rớt xuống suối trong khi mải mơ mộng vẩn vơ.

Một tuần sau buổi trà ở nhà mục sư, Diana Barry cũng tổ chức tiệc.

"Nhỏ và có chọn lọc," Anne trấn an bà Marilla. "Chỉ có mấy đứa con gái trong lớp tới dự thôi."

Bọn trẻ có một khoảng thời gian vui vẻ và không xảy ra trục trặc gì cho đến sau buổi trà, khi chúng nhận ra mình đang ở trong vườn nhà Barry, có phần chán tất cả trò chơi quen thuộc và sẵn sàng sa vào bất kỳ trò tinh nghịch tự biên tự diễn nào. Chẳng mấy chốc trò tinh nghịch đó đã được xác định là trò "thách thức".

Thách thức là trò giải trí thời thượng nhất của mấy đứa nhỏ Avonlea hồi đó. Nó bắt đầu từ cánh con trai nhưng ngay sau đó lan sang cả lũ con gái, và tất cả những chuyện ngốc nghếch xảy ra ở Avonlea hè đó nhằm thực hiện trò "thách thức" này nhiều đến mức đủ viết thành cả một cuốn sách.

Đầu tiên Carrie Sloane thách Ruby Gillis leo lên một chỗ trên cây liễu cổ thụ trước cửa chính; Ruby Gillis mặc dù sợ chết khiếp mấy con sâu bướm mập ú xanh lè chuyên phá hoại cây cối vừa canh cánh nỗi sợ bị mẹ trách phạt nếu nó làm rách cái váy mới bằng vải muslin nhưng vẫn nhanh chóng thực hiện trước sự chưng hửng thấy rõ của Carrie Sloane.

Rồi Josie Pye thách Jane Andrews nhảy bằng chân trái quanh vườn không được ngừng hay cho chân phải xuống đất; Jane Andrews đã rất cố gắng nhưng đành bỏ cuộc ở góc thứ ba và phải chịu thua.

Chiến thắng của Josie có phần ồn ào thái quá nên Anne Shirley bèn thách nó đi trên đỉnh hàng rào ván ở phía Đông khu vườn. Dĩ nhiên, "đi" trên hàng rào ván đòi hỏi sự khéo léo và sự vững vàng của đầu cùng gót chân nhiều hơn những gì một người chưa từng thử có thể tưởng tượng ra. Nhưng Josie Pye, vốn nổi tiếng yếu kém ở một số lĩnh vực, ít nhất trong chuyện đi trên hàng rào ván cũng chứng tỏ một năng khiếu bẩm sinh được nuôi dưỡng thích đáng. Josie đi trên hàng rào nhà Barry với vẻ dửng dưng như muốn nói trò cỏn con như thế này chẳng đáng để "thách". Chiến thắng vẻ vang của con bé nhận được sự ngưỡng mộ bất đắc dĩ, vì hầu hết lũ con gái đều có thể đánh giá được giá trị của nó do tự bản thân chúng đã từng nếm nhiều đau khổ khi cố gắng đi trên hàng rào. Josie bước xuống từ hàng rào, mặt đỏ bừng vì thắng lợi và ném cho Anne một cái liếc mắt thách thức.

Anne hất bím tóc đỏ.

"Tớ nghĩ đi trên một hàng rào ván vừa nhỏ vừa thấp cũng chẳng có gì to tát," con bé nói. "Tớ biết một bé gái ở Marysville có thể đi trên nóc nhà."

"Tớ không tin," Josie nói thẳng thừng. "Tớ không tin có người có thể đi trên nóc nhà. Dù sao thì cậu cũng không thể?"

"Tớ không thể à?" Anne vội vàng la lên.

"Vậy tớ thách cậu làm đó," Josie nói giọng thách thức. "Tớ thách cậu leo lên đi trên nóc bếp nhà ông Barry."

Anne tái mặt, nhưng rõ rang không còn đường nào khác. Con bé bước về phía căn nhà, nơi một cái thang đang dựa vào mái bếp. Tất cả lũ con gái lớp năm đều "Ôi!" lên, phần vì phấn khích, phần vì sợ hãi.

"Đừng có làm chuyện này, Anne," Diana năn nỉ. "Cậu sẽ rơi xuống và chết mất. Đừng để ý tới Josie Pye. Thách ai làm gì đó quá nguy hiểm như vậy là không công bằng."

"Mình phải làm. Danh dự của mình đang bị đe dọa," Anne nói trang trọng. "Mình sẽ bước trên mái ngói đó, Diana, hoặc sẽ bỏ mạng trong sự nỗ lực. Nếu mình chết cậu hãy nhận chiếc nhẫn cẩn ngọc trai của mình."

Anne leo lên thang trong sự im lặng nghẹt thở, tới được nóc nhà, đứng thăng bằng trên chỗ đặt chân bấp bênh đó, bắt đầu đi dọc theo mái, rồi chợt hoa mắt nhận ra mình đang đứng chon von giữa đất trời và đi trên mái nhà không phải chuyện mà trí tưởng tượng có thể giúp ích được. Tuy nhiên, con bé vẫn xoay xở tiến được vài bước trước khi thảm họa ập tới. Rồi nó loạng choạng, mất thăng bằng, sẩy chân, lảo đảo và té, trượt trên mái nhà nóng ran và rơi xuống xuyên qua đám kim ngân chằng chịt bên dưới – tất cả xảy ra khi đám đông thất kinh hồn vía bên dưới còn chưa kịp đồng thanh thét lên kinh hoàng.

Nếu Anne trượt chân ngã xuống bên phía mái nhà mà nó leo lên lúc nãy thì Diana có lẽ sẽ lập tức trở thành người thừa kế chiếc nhẫn ngọc trai. May mắn là con bé rơi về phía bên kia, nơi mái nhà mở dốc xuống hành lang, gần mặt đất đến mức dù té xuống đó cũng đỡ nghiêm trọng hơn nhiều. Tuy nhiên, khi Diana và lũ con gái hớt hải chạy vòng qua căn nhà – trừ Ruby Gillis, hoảng loạn đứng như mọc rễ trên mặt đất – chúng thấy Anne nằm bất động, trắng bệch giữa đám kim ngân tan nát.

"Anne, cậu chết rồi ư?" Diana thét lên, quỳ sụp xuống bên cạnh bạn mình. "Ôi Anne, Anne thân mến, nói một lời với mình đi, nói mình biết cậu chưa chết đi."

Trước tiếng thở phào nhẹ nhõm của toàn thể đám con gái, đặc biệt là con bé Josie Pye mặc dù thiếu trí tưởng tượng nhưng vẫn bị ám ảnh bởi viễn cảnh khủng khiếp sẽ bị gán cho cái mác là kẻ đã gây ra cái chết sớm bi thảm của Anne Shirley, Anne choáng váng ngồi dậy và ngập ngừng trả lời: "Chưa, Diana, mình chưa chết, nhưng mình nghĩ mình bị mất cảm giác rồi."

"Ở đâu?" Carrie Sloane sụt sùi. "Ôi, ở đâu, Anne?" Anne chưa kịp trả lời thì bà Barry đã xuất hiện. Thấy bà, Anne cố gắng đứng dậy nhưng lại ngồi bệt xuống với một tiếng kêu đau đớn nho nhỏ.

"Chuyện gì vậy? Con bị thương chỗ nào vậy?" bà Barry hỏi."Gót chân con," Anne thở hổn hển. "Ôi, Diana, tìm cha bạn rồi nhờ ông chở mình về nhà đi. Mình biết mình không thể đi bộ về được. Và mình dám chắc mình cũng chẳng thể nhảy một chân xa đến thế trong khi Jane còn không nhảy hết một vòng vườn."

Bà Marilla đang hái táo mùa hè trong vườn thì thấy ông Barry băng qua cây cầu gổ đi lên dốc, bà Barry bên cạnh và một hàng dài bé gái kéo theo phía sau. Anne nằm trên tay ông, yếu ớt gục đầu vào vai ông.

Chính lúc đó bà Marilla bất chợt tỉnh ngộ. Khi nỗi hoảng sợ đột ngột xé toang trái tim, bà bỗng nhận ra Anne có ý nghĩa đến thế nào với mình. Bà đã phải thừa nhận bà thích Anne, nói cho đúng hơn là vô cùng yêu quý con bé. Nhưng giờ đây, trong lúc cuống cuồng chạy xuống dốc, bà nhận ra Anne thân thiết với bà hơn tất cả mọi thứ trên đời.

"Ông Barry, chuyện gì xảy ra với con bé vậy?" bà thở hổn hển với một vẻ nhợt nhạt và run rẩy mà hàng bao nhiêu năm nay, bà Marilla điềm đạm và lý trí chưa bao giờ để lộ.

Anne ngóc đầu lên tự trả lời.

"Không có gì phải sợ đâu, bác Marilla. Con đang đi trên nóc nhà thì bị ngã. Con nghĩ gót chân con bị bong gân rồi. Nhưng lẽ ra con còn có thể bị gãy cổ ấy chứ, bác Marilla. Chúng ta hãy nhìn vào khía cạnh tốt đẹp của vấn đề đi."

"Lẽ ra khi cho phép con đi dự tiệc ta phải biết là con sẽ làm trò gì đó cho xem," bà Marilla nói, giọng sắc lẻm và gay gắt cho dù cảm thấy nhẹ cả người. " Đưa con bé vào trong đi, ông Barry, đặt nó nằm trên sofa ấy. Lạy Chúa tôi, con bé xỉu mất rồi!"

Quả đúng như vậy. Quá đau đớn vì vết thương, Anne có thêm một điều ước thành sự thật. Con bé đã ngất xỉu.

Ông Matthew, được gọi vội về khi đang thu hoạch trên đồng, ngay lập tức đi tìm bác sĩ, ông này đến đúng lúc và phát hiện ra vết thương nặng hơn họ tưởng nhiều. Gót chân của Anne bị gãy xương.

Đêm đó, khi đi lên chái Đông, nơi một bé gái mặt trắng bệch đang nằm, bà Marilla được đón chào bằng một giọng nói rầu rĩ vang lên từ giường.

"Bác có thấy tội nghiệp cho con không, bác Marilla?"

"Tất cả là lỗi của con," bà Marilla nói, kéo rèm xuống rồi thắp đèn lên.

"Chính vì vậy mà bác nên thấy tội nghiệp cho con," Anne nói, "vì con thấy vô cùng khó chịu khi nghĩ rằng tất cả là lỗi của con. Nếu có thể đổi lỗi cho bất cứ ai khác con sẽ thấy dễ chịu hơn nhiều. Nhưng bác Marilla, bác sẽ làm gì nếu bị thách đi trên nóc nhà?"

"Ta sẽ đứng vững trên mặt đất và mặc ai thách gì thì thách. Thật ngu xuẩn!" bà Marilla nói.

Anne thở dài.

"Nhưng tâm lý bác vững vàng thế kia mà, bác Marilla. Con có được như vậy đâu. Con chỉ cảm thấy mình không chịu nổi sự coi thường của Josie Pye. Con đã bị nó qua mặt cả đời rồi. Và con nghĩ con đã bị trừng phạt quá nhiều nên bác không cần nổi nóng với con nữa, bác Marilla. Rốt cuộc thì ngất xỉu cũng chẳng mấy dễ chịu. Bác sĩ làm con đau khủng khiếp khi ông ấy nắn xương cho con. Con sẽ không đi lại được trong sáu bảy tuần và vậy là sẽ lỡ mất cơ hội gặp cô giáo mới. Tới lúc con đến trường thì cô ấy chẳng còn mới nữa rồi. Rồi Gil... tất cả các bạn trong lớp sẽ bỏ xa con. Ôi, con là một sinh linh đau khổ. Nhưng con sẽ cố gắng dũng cảm chịu đựng tất cả miễn là bác không nổi giận với con, bác Marilla."

"Này này, ta nổi giận gì chứ," bà Marilla nói. "Con là đứa trẻ kém may mắn, chuyện đó không có gì phải nghi ngờ, nhưng như con nói đó, con sẽ phải chịu đựng nó. Giờ thì cố ăn một chút đi."

"Chẳng phải thật may mắn vì con có trí tưởng tượng như thế sao?" Anne nói. "Con hy vọng nó sẽ giúp con trải qua chuyện này suôn sẻ. Những người không hề có trí tưởng tượng sẽ làm gì khi họ bị gãy xương nhỉ, bác có nghĩ ra không, bác Marilla?"

Anne luôn có lý do chính đáng để ca ngợi trí tưởng tượng của mình trong suốt thời gian bảy tuần chán ngắt sau đó. Nhưng con bé không chỉ dựa vào nó. Con bé có nhiều khách, không ngày nào trôi qua mà không có ít nhất một bạn học nữ ghé vào mang tặng nó nào hoa, nào sách và kể cho nó nghe tất thảy chuyện xảy ra trong thế giới trẻ thơ của Avonlea.

"Mọi người đều quá tốt và tử tế, bác Marilla," Anne thở dài vui vẻ vào ngày đầu tiên được đặt chân xuống sàn. "Nằm liệt giường không dễ chịu gì cho lắm, nhưng nó cũng có mặt tốt, bác Marilla. Bác sẽ khám phá ra mình có biết bao nhiêu bạn. Đấy, ngay cả thầy giám thị Bell cũng đến thăm con, thầy ấy thật sự là người rất tốt. Không phải một tâm hồn đồng điệu, dĩ nhiên, nhưng con vẫn thích thầy ấy và cảm thấy hối hận khủng khiếp vì từng chỉ trích những lời cầu nguyện của thầy. Giờ thì con tin thầy thật sự chân thành khi cầu nguyện, chỉ có điều thầy ấy có thói quen nói theo kiểu như thầy ấy không chân thành vậy. Chỉ cần cố gắng chút đỉnh là thầy có thể khắc phục được vấn đề đó. Con đã ám chỉ một cách khá lộ liễu với thầy ấy. Con nói cho thầy biết con đã cố gắng đến thế nào để lời cầu nguyện riêng tư của mình trở nên thú vị. Thầy kể hết với con về thời gian thầy bị gãy chân khi còn nhỏ. Thật kỳ lạ khi nghĩ thầy giám thị Bell cũng từng là một cậu nhóc. Ngay cả trí tưởng tượng của con cũng có giới hạn, vì con không thể tưởng tượng ra chuyện đó. Khi con cố tưởng tượng ra hình ảnh thầy hồi còn bé thì lại thấy thầy với món tóc mai hoa râm và cặp kính cận, không khác gì vẻ ngoài của thầy trong trường Chủ nhật, chỉ nhỏ hơn thôi. Ấy vậy mà rất dễ hình dung cô Allan khi còn bé. Cô Allan đã đến thăm con mười bốn lần. Đó có phải một điều đáng tự hào không bác, bác Marilla? Khi mà vợ một mục sư vốn bận rộn biết bao chứ! Cô ấy cũng là một vị khách đến là vui vẻ. Cô ấy chẳng bao giờ nói với bác đó là lỗi của bác và rằng vì thế hy vọng bác sẽ ngoan ngoãn hơn. Lần nào đến thăm con bà Lynde cũng nói như vậy; mà bà ấy lại nói theo cái kiểu làm con cảm thấy có lẽ bà ấy hy vọng con sẽ ngoan ngoãn hơn nhưng thực tình lại không tin con sẽ làm được. Ngay cả Josie Pye cũng đến thăm con. Con tiếp đón bạn ấy hết mức lịch sự vì con nghĩ bạn ấy rất hối hận là đã thách con đi trên nóc nhà. Nếu con chết đi bạn ấy sẽ phải cả đời mang một gánh nặng tối tăm của sự ăn năn hối hận. Diana thật là một người bạn chung thủy. Bạn ấy đến đây mỗi ngày để làm vợi bớt nỗi cô đơn của con. Nhưng ôi, con sẽ vui mừng biết bao khi được trở lại trường vì con được nghe rất nhiều chuyện hấp dẫn về cô giáo mới. Tất cả lũ con gái đều nghĩ cô ấy dễ thương không chê vào đâu được. Diana nói cô ấy có mái tóc xoăn đáng yêu nhất và đôi mắt vô cùng quyến rũ. Cô ấy ăn mặc đẹp và tay áo của cô ấy phồng hơn của bất cứ ai ở Avonlea. Chiều thứ Sáu nào cô ấy cũng đọc thơ và mọi người đều phải đọc một đoạn hoặc tham gia đối thoại. Ôi, chỉ nghĩ thôi cũng thấy tuyệt rồi. Josie Pye nói bạn ấy ghét chuyện đó nhưng chỉ vì Josie ít trí tưởng tượng quá thôi. Diana, Ruby Gillis và Jane Andrews đang chuẩn bị một tác phẩm đối thoại tên là ‘Chuyến viếng thăm buổi sáng’ cho thứ Sáu tuần tới. Những thứ Sáu không có buổi đọc thơ thì cô Stacy sẽ cho tất cả vào rừng ‘thực địa’ để học về dương xỉ, hoa và chim. Mỗi sáng và tối cả lớp lại tập thể dục. Bà Lynde nói bà ấy chưa bao giờ nghe đến những hoạt động như thế và tất cả chuyện này là do có một giáo viên nữ. Nhưng con nghĩ hẳn phải tuyệt lắm và con tin rằng mình sẽ thấy cô Stacy là một tâm hồn đồng điệu."

"Có một chuyện rõ như ban ngày, Anne," bà Marilla nói, "đó là chuyện con rớt từ mái nhà Barry xuống chẳng ảnh hưởng gì đến cái lưỡi của con hết."
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 24. Cô Stacy và học trò tổ chức hòa nhạc
Lúc Anne sẵn sàng quay trở lại trường học thì lại đã sang tháng Mười – một tháng Mười rực rỡ, tràn ngập màu đỏ và vàng, với những buổi sáng phủ một sắc màu êm dịu khi thung lũng chìm trong màn sương mỏng manh như thể linh hồn của mùa thu đã rót sương ra cho mặt trời hút cạn – màu tím than, màu ngọc trai, bạc, hồng và lam khói. Sương mai trĩu nặng làm cả cánh đồng lấp lánh như tấm vải bạc và dưới thung lũng cây cối um tùm có rất nhiều đống lá xào xạc chạy qua chạy lại. Đường Bạch Dương là một mái vòm vàng rực và dọc hai bên đường, dương xỉ khô héo chuyển màu nâu sẫm. Mùi hương thấm đẫm trong làn không khí vốn đã khơi nguồn cảm hứng cho các cô bé đang nhẹ bước đến trường, những bước chân thoăn thoắt náo nức chứ không rề rà chậm như rùa; và thật vui biết bao khi được trở lại với chiếc bàn màu nâu xinh xẻo bên cạnh Diana, với Ruby Gillis gật đầu chào từ dãy bên kia, Carrie Sloane chuyền tin nhắn còn Julia Bell chuyển một mẩu kẹo cao su từ dãy ghế sau lên. Anne thở một hơi dài hạnh phúc khi chuốt bút chì và xếp những tấm thiệp có hình vào bàn học. Cuộc sống hẳn nhiên rất thú vị.

Con bé thấy vị giáo viên mới là một người bạn đích thực và hữu ích nữa. Cô Stacy là một phụ nữ trẻ thông minh, đáng mến có biệt tài lấy lòng học sinh của mình và khơi gợi được những nét tốt đẹp nhất của chúng cả về trí tuệ lẫn đạo đức. Anne nở rộ như một bông hoa dưới ảnh hưởng lành mạnh này và đem về cho một ông Matthew vô cùng ngưỡng mộ cùng bà Marilla khó tính xem những bản báo cáo kết quả học tập và mục tiêu sáng chói.

"Con yêu cô Stacy bằng cả trái tim, bác Marilla. Cô ấy thật thanh lịch, giọng nói ngọt ngào. Khi cô ấy phát âm tên con, con cảm nhận được theo bản năng là cô ấy đánh vần có âm e. Chiều nay chúng con có buổi đọc thơ. Ước gì cô có mặt ở đó để nghe con đọc ‘Mary, Nữ hoàng xứ Scots’. Con thật đã đặt cả hồn mình vào đó. Trên đường về nhà Ruby Gillis bảo con là cách con đọc câu ‘Giờ đây vì vòng tay của cha, con tim phụ nữ của ta vĩnh biệt’ đã làm máu bạn ấy đông lại."

"À ừ, hôm nào đó con có thể đọc cho ta nghe trong kho thóc," ông Matthew đề nghị.

"Dĩ nhiên con sẽ làm vậy," Anne trầm ngâm nói, "nhưng con biết mình không thể làm tốt như vậy được nữa. Sẽ không phấn khích như khi trước mặt ta là toàn bộ học sinh đang nín thở nuốt từng lời ta nói. Con biết mình sẽ không thể làm máu bác đông lại được."

"Bà Lynde nói thứ Sáu tuần trước máu bà ấy cũng đông cả lại khi thấy lũ con trai leo lên tận ngọn mấy cái cây to trên đồi nhà Bell để tìm tổ quạ," bà Marilla nói. "Ta không hiểu sao cô Stacy lại khuyến khích mấy vụ đó."

"Nhưng chúng con muốn có một cái tổ quạ cho tiết học về tự nhiên," Anne giải thích. "Chuyện đó xảy ra trong buổi dã ngoại chiều của tụi con. Những chiều dã ngoại thật tuyệt vời, bác Marilla. Cô Stacy giải thích mọi thứ thật hay. Chúng con phải viết luận về những buổi chiều dã ngoại và con viết được những bài hay nhất."

"Con nói nghe kiêu ngạo quá đấy. Lẽ ra phải để cô giáo nói chứ."

"Nhưng cô ấy có nói vậy mà, bác Marilla. Và thật sự con không kiêu ngạo. Sao có thể kiêu ngạo khi con dốt hình học như thế? Tuy nhiên con thật sự bắt đầu sáng ra được một chút rồi. Cô Stacy giảng bài quá rõ ràng. Tuy nhiên, con sẽ chẳng bao giờ giỏi môn đó được và con thừa nhận với cô suy nghĩ như thế thật đáng xấu hổ. Nhưng con rất thích viết luận. Gần như lần nào cô Stacy cũng để tụi con tự chọn đề tài; nhưng tuần tới tụi con sẽ viết luận về một nhân vật xuất sắc. Thật khó chọn trong số bao nhiêu nhân vật xuất sắc trên đời. Hẳn sẽ rất tuyệt nếu được trở thành nhân vật xuất sắc và có người viết luận về mình sau khi mình mất, phải không ạ? Ôi, con thật sự muốn được trở thành nhân vật xuất sắc. Con nghĩ khi lớn lên con sẽ trở thành một y tá giỏi và sẽ cùng Tổ chức Chữ thập đỏ xung trận như một sứ giả từ bi. Ấy là trong tường hợp con không thành nhà truyền giáo ngoại quốc được. Chuyện đó sẽ rất lãng mạn, nhưng người ta phải là người rất tốt mới làm nhà truyền giáo được, một chướng ngại không dễ vượt qua chút nào. Ngày nào tụi con cũng tập thể dục. Chúng làm người ta duyên dáng hơn và cải thiện khả năng tiêu hóa."
"Cải với thiện cái gì chứ!" bà Marilla nói, thật lòng nghĩ chuyện này thật nhảm nhí.

Nhưng tất cả các buổi chiều dã ngoại, các thứ Sáu đọc thơ cũng như tập thể dục đều lu mờ trước một dự án mà cô Stacy vạch ra vào tháng Mười một. Học trò trường Avonlea sẽ tổ chức một buổi hòa nhạc, biểu diễn trong tòa thị chính vào tối Giáng sinh, vì một mục đích cao đẹp là giúp đỡ kinh phí mua cờ cho nhà trường. Học sinh thảy đều rất thích kế hoạch này, việc chuẩn bị chương trình được tiến hành ngay lập tức. Trong số tất cả những đứa trẻ phấn khích được chọn tham gia biểu diễn, không ai phấn khích bằng Anne Shirley, người đặt cả trái tim và tâm hồn vào việc này, và cũng không ai vấp phải sự ngăn cản như con bé đã bị bởi sự phản đối của Marilla. Bà nghĩ toàn bộ chuyện này là một mớ ngốc nghếch.

"Nó chỉ nhồi đầy đầu con những thứ vớ vẩn, chiếm mất thời gian lẽ ra phải dành cho bài học," bà càu nhàu. "Ta không tán thành chuyện con nít tổ chức hòa nhạc và đua nhau tập luyện. Nó chỉ làm chúng trở nên phù phiếm, ngạo mạn và thích khoe mẽ thôi."

"Nhưng bác thử nghĩ tới mục đích cao cả của nó xem," Anne nài nỉ. "Một lá cờ sẽ nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, bác Marilla à."

"Tầm phào! Trong suy nghĩ của đám trẻ các con thì có bao nhiêu tinh thần yêu nước đáng quý chứ. Các con thì chỉ muốn vui chơi thôi."

"Ôi, chẳng phải khi ta có thể kết hợp lòng yêu nước với sự vui vẻ thì tất cả đều ổn sao? Dĩ nhiên tổ chức hòa nhạc là việc rất tuyệt. Chúng con sẽ có sáu màn đồng ca còn Diana đơn ca. Con sẽ góp mặt trong hai tiểu phẩm – ‘Xã hội không ngồi lê đôi mách’ và ‘Nữ hoàng tiên’. Lũ con trai cũng có tiểu phẩm. Và con sẽ có hai tiết mục đọc thơ nữa, bác Marilla. Chỉ nghĩ thôi con cũng run lên rồi, nhưng đây là dạng run rùng mình dễ chịu. Chúng con sẽ có một hoạt cảnh ở cuối – ‘Niềm tin, hy vọng và sự nhân từ’. Diana, Ruby và con đều tham gia, tất cả mặc đồ trắng tóc buông xõa. Con sẽ là Hy Vọng, với đôi tay nắm chặt, mắt ngước lên. Con sẽ phải tập thoại trong gác xép. Bác đừng hoảng hốt nếu nghe tiếng con rên rỉ nhé. Có một màn con phải rên rỉ rất thương tâm, thật khó để diễn sao cho giàu tính nghệ thuật, bác Marilla à. Josie Pye sưng sỉa lên vì không được đóng vai mình muốn. Nó muốn làm nữ hoàng tiên. Thật buồn cười, có ai từng thấy nữ hoàng thần tiên nào béo như Josie đâu? Nữ hoàng tiên phải thanh mảnh cơ, Jane Andrews sẽ là nữ hoàng còn con là một trong số các thị nữ. Josie nói tiên tóc đỏ cũng buồn cười y như tiên béo, nhưng con không để mình bận tâm tới những gì Josie nói. Con sẽ đội vòng hoa hồng trắng trên tóc, Ruby Gillis sẽ cho con mượn giày bệt vì con không có đôi nào cả. Tiên cần phải có giày bệt, bác thấy đó. Bác chẳng thể tưởng tượng nổi cô tiên nào mà lại mang bốt, đúng không? Nhất là bốt có mũi bằng đồng nữa? Chúng con sẽ trang trí hội trường bằng cành vân sam và linh sam đính hoa hồng bằng giấy lụa hồng. Tất cả chúng con bước hàng đôi đi vào sau khi khán giả an tọa, trong lúc Emma White chơi một hành khúc bằng đàn organ. Ôi, Marilla, con biết bác không hăng hái với chuyện này như con, nhưng bác không mong Anne nhỏ bé của bác sẽ khiến người ta phải chú ý sao?"

"Ta chỉ mong con cư xử cho đúng. Ta sẽ hết sức vui mừng nếu tất cả mớ bòng bong này qua đi và con có thể bình tâm lại. Giờ thì con chẳng tập trung vào việc gì được trong lúc đầu óc chật ních hết tiểu phẩm, rên rỉ lại đến hoạt cảnh. Còn cái lưỡi của con nữa, đúng là thần kỳ khi đến giờ nó còn chưa rách toạc ra."

Anne thở dài rồi lui ra sân sau, nơi mảnh trăng non trên bầu trời phía Tây màu xanh táo rọi qua đám cây dương trụi lá và ông Matthew đang xẻ gỗ. Anne ngồi trên một chồng gỗ kể cho ông nghe về buổi hòa nhạc, chắc chắn đây là một thính giả thấu hiểu và biết đánh giá, ít nhất là trong lúc này.

"À ừ, ta đoán buổi hòa nhạc sẽ khá suôn sẻ. Mong rằng con sẽ thực hiện tốt nhiệm vụ của mình," ông nói, mỉm cười cúi xuống khuôn mặt nhỏ nhắn lanh lợi háo hức của con bé. Anne cười đáp lại ông. Hai bác cháu là bạn bè thân thiết của nhau và lúc nào ông Matthew cũng thầm tạ ơn các vì sao chiếu mệnh đã giúp ông không dính dáng gì đến việc dạy dỗ con bé. Đó là nhiệm vụ độc quyền của bà Marilla; nếu phải gánh trách nhiệm này chắc ông sẽ suốt ngày lo lắng về những mâu thuẫn thường trực giữa chuyện nuông chiều và cái gọi là nghĩa vụ. Như bây giờ, ông được tùy ý "làm hư Anne" – theo cách nói của bà Marilla. Nhưng rốt cuộc đây cũng không phải một sắp xếp tồi; trên đời này đôi khi một chút "biết đánh giá" cũng hiệu quả không kém việc "dạy dỗ" tận tâm.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 25: Ông Matthew Không Chịu Nhượng Bộ Về Chuyện Tay Áo Phồng

Ông Matthew đã trải qua mười phút tồi tệ. Ông bước vào bếp trong ánh chạng vạng của một tối tháng Mười hai giá rét xám xịt, ngồi xuống góc một chiếc hộp gỗ để tháo đôi ủng nặng nề ra khỏi chân, không hề biết Anne và đám bạn đang tập vở "Nữ hoàng tiên" trong phòng khách. Ngay sau đó chúng băng qua sảnh xuống bếp, cười đùa, tán chuyện vui vẻ. Chúng không nhìn thấy ông Matthew đang rụt rè co mình vào bóng tối phía bên kia cái hộp gỗ với tay này cầm ủng một tay kia cầm cái xỏ ủng, và ông bẽn lẽn quan sát chúng trong mười phút đã nhắc đến ở trên trong khi chúng đội mũ, khoác áo và trò chuyện về tiểu phẩm và buổi hòa nhạc. Anne đứng trong đám đó, đôi mắt cũng sáng và sinh động như những đứa còn lại, nhưng ông Matthew đột nhiên nhận ra có gì đó làm con bé khác hẳn đám bạn. Điều khiến ông lo lắng là khác biệt đó gợi cho ông ấn tượng về một thứ gì đó không nên tồn tại. Anne có gương mặt rạng rỡ hơn, mắt to và long lanh hơn, các đường nét cũng thanh tú hơn mấy đứa khác; ngay đến ông Matthew nhút nhát ít quan sát cũng nhận ra điều này; nhưng điểm khác biệt làm ông băn khoăn không liên quan gì đến mấy đặc điểm đó. Vậy nó thật ra là gì?

Ông Matthew bị câu hỏi này ám ảnh rất lâu sau khi đám con gái đã tay trong tay đi xuống con đường dài đóng băng cứng ngắc còn Anne lại chúi đầu vào mấy cuốn sách. Ông không thể tham khảo ý kiến bà Marilla, người mà ông cảm thấy khá chắc chắn là sẽ khịt mũi vẻ quở trách và bình phẩm rằng khác biệt duy nhất bà thấy giữa Anne và mấy bé gái khác là thỉnh thoảng chúng cho phép lưỡi mình được nghỉ ngơi đôi chút còn Anne thì không bao giờ. Điều này, theo cảm nhận của ông Matthew, không giúp ích được nhiều lắm.

Tối đó, ông phải viện đến tẩu thuốc hòng tìm ra ngọn nguồn vấn đề, mặc dù bà Marilla rất khó chịu. Sau hai tiếng hút thuốc và vắt óc suy nghĩ, ông Matthew đã tìm ra đáp án. Anne ăn mặc không giống những đứa con gái khác!

Càng ngẫm nghĩ ông Matthew càng tin rằng Anne chưa bao giờ ăn mặc như mấy bé gái khác – chưa bao giờ kể từ khi nó đến Chái Nhà Xanh. Bà Marilla luôn cho con bé mặc những bộ váy đơn giản sậm màu may độc theo một kiểu. Nếu Matthew có biết về một thứ giống như thời trang ăn mặc thì kiến thức của ông cũng chỉ đến thế mà thôi, nhưng ông khá chắc chắn tay áo của Anne không hề giống tay áo những bé gái khác. Ông nhớ lại đám con gái ở bên con bé tối hôm đó – tất cả đều rực rỡ trong những chiếc váy có eo màu đỏ, xanh, hồng và trắng – rồi tự hỏi tại sao bà Marilla luôn cho con bé ăn mặc đơn giản và nghiêm trang đến thế kia.

Dĩ nhiên, nó phải ổn rồi. Marilla hiểu biết hơn ai hết và bà là người dạy dỗ con bé. Vì vậy hẳn phải có một động cơ khôn ngoan bí ẩn nào đó đằng sau việc này. Nhưng chắc rằng cũng chẳng hại gì nếu để đứa trẻ đó có một cái váy đẹp – như cái Diana Barry luôn mặc chẳng hạn. Ông Matthew quyết định sẽ tặng cho con bé một cái; chuyện này chắc chắn không thể tính là ông xía mũi vào. Chỉ còn hai tuần nữa là đến Giáng sinh. Một chiếc váy đẹp đẽ sẽ là món quà rất hợp lý. Thở dài hài lòng, ông Matthew cất tẩu thuốc rồi đi ngủ, trong khi bà Marilla mở hết các cửa để nhà được thoáng khí.

Ngay tối hôm sau ông Matthew lên đường đến Carmody mua váy, quyết định giải quyết cho xong khâu gian nan nhất. Việc này, ông tin chắc, không phải thử thách tầm thường. Ông Matthew cũng có khả năng mua bán trong khá nhiều mặt hàng và chứng tỏ không phải tay mặc cả kém cỏi; nhưng ông biết mình sẽ phải trông cậy nhiều vào người bán hàng khi đi mua váy cho một bé gái.

Sau khi suy nghĩ kỹ càng, ông Matthew quyết định đến cửa hàng Samuel Lawson thay vì William Blair. Lẽ dĩ nhiên, nhà Cuthbert luôn mua hàng ở William Blair; đối với họ chuyện đó cũng mang tính bổn phận như chuyện dự lễ ở nhà thờ Giáo hội trưởng lão và bầu cho đảng Bảo thủ vậy. Nhưng hai cô con gái của William Blair thường xuyên đứng tiếp khách và ông Matthew sợ họ chết khiếp. Ông có thể xoay xở thương lượng với họ khi ông biết chính xác mình muốn gì và chỉ ra được; nhưng trong những hoàn cảnh cần được giải thích và tư vấn như thế này, ông cảm thấy mình chắc chắn cần đến một quý ông đứng sau quầy. Vì vậy ông đến cửa hàng Lawson, nơi Samuel hoặc con trai ông ta sẽ tiếp đón ông.

Hỡi ôi! Ông Matthew không biết rằng do gần đây mở rộng việc kinh doanh nên Samuel đã thuê một nhân viên nữ; cô này là cháu của vợ ông và thật tình là một thiếu nữ vô cùng chưng diện, với mái tóc xõa hất ngược ra sau, đôi mắt nâu to tròn và nụ cười rộng mở dễ khiến người khác hoang mang. Cô ta ăn mặc hơi quá kiểu cách, đeo mấy chiếc vòng lấp lánh cứ lanh canh leng keng theo từng cử động của bàn tay. Ông Matthew đờ người vì bối rối khi cuối cùng lại thấy cô ta ở đó; còn những chiếc vòng thì quét sạch sành sanh mọi sự sáng suốt của ông.

"Tối nay cháu giúp gì được cho bác đây, bác Cuthbert?" cô Lucilla Harris nhanh nhảu và duyên dáng cất tiếng hỏi, hai bàn tay gõ nhẹ mặt quầy.

"Cô có... có... có... à ừ, có cái cào nào không?" ông Matthew ấp úng.

Cô Harris, lẽ tự nhiên, có vẻ kinh ngạc khi thấy có người hỏi mua cào giữa tháng Mười hai.

"Cháu chắc là cửa hàng vẫn còn một hay hai cái," cô nói, "nhưng chúng ở trong kho trên lầu cơ. Cháu sẽ đi xem sao."

Trong lúc cô ta không có mặt, ông Matthew gom góp những phần minh mẫn rải rác tứ tung của mình để cố thêm một lần nữa.

Khi cô Harris trở lại với cái cào cỏ và vui vẻ hỏi: "Bác cần gì nữa không, bác Cuthbert?" ông Matthew thu hết can đảm trả lời: "À ừ, vì cô đã đề nghị, tôi có lẽ cũng sẽ... lấy... nghĩa là... nhìn qua... mua một ít... một ít hạt cỏ."

Cô Harris từng nghe nói Matthew Cuthbert là người lập dị. Giờ thì cô kết luận ông hoàn toàn mất trí rồi.

"Chúng cháu chỉ giữ hạt cỏ vào mùa xuân," cô cao giọng giải thích. "Ngay bây giờ thì chúng cháu không có."

"Ô, dĩ nhiên... dĩ nhiên... đúng như cô nói," ông Matthew bất hạnh ấp úng, cầm chiếc cào đi ra cửa. Đến ngưỡng cửa thì ông nhớ ra mình chưa trả tiền bèn khổ sở quay lại. Trong khi cô Harris tính tiền ông cố huy động năng lượng cho một nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng.

"À ừ... nếu không phiền lắm... tôi còn muốn... nghĩa là... tôi muốn xem... xem... một ít đường."

"Trắng hay nâu ạ?" cô Harris kiên nhẫn hỏi.

"Ồ... à ừ... nâu," ông Matthew đáp yếu ớt.

"Có một thùng ở kia," cô Harris nói, lắc mấy chiếc vòng về hướng đó. "Cửa hàng cháu chỉ có mỗi loại đó."

"Tôi... tôi sẽ mua 20 pound," ông Matthew đáp, mồ hôi tuôn đầm đìa trên trán.

Đi được nửa chặng đường về nhà rồi ông Matthew mới hoàn hồn. Đây là một kinh nghiệm khủng khiếp, nhưng cũng đáng đời cho mình, ông nghĩ, vì dám phạm tội dị giáo, đi sang cửa hàng lạ. Khi về đến nhà ông giấu cái cào vào nhà kho còn đường thì đem cho bà Marilla.

"Đường nâu!" bà Marilla kêu lên. "Anh bị ám quẻ hay sao mà mua nhiều vậy? Anh biết em không bao giờ dùng thứ này trừ khi nấu cháo yến mạch cho người làm hay bánh trái cây đen thôi mà. Jerry đi rồi và lâu nay em có làm bánh đó đâu. Mà nó cũng chẳng phải đường tốt nữa – vừa thô vừa đen – William Blair thường không bán đường loại này."

"Anh... anh nghĩ biết đâu có lúc sẽ cần đến nó," ông Matthew nói rồi chuồn êm.

Khi ngẫm lại toàn bộ vấn đề, ông Matthew quyết định vấn đề phải cần đến bàn tay một người phụ nữ. Bà Marilla thì không tính rồi. Ông Matthew cảm thấy chắc chắn bà sẽ dội ngay một gáo nước lạnh vào kế hoạch của ông. Chỉ còn lại bà Lynde; vì không còn người phụ nữ nào khác ở Avonlea mà ông Matthew dám hỏi ý kiến. Vậy là ông đến tìm bà Lynde, và người phụ nữ tốt bụng đó ngay lập tức đón nhận vấn đề từ người đàn ông phiền não này.

"Chọn một cái váy để anh tặng Anne? Dĩ nhiên tôi sẽ làm rồi.Mai tôi sẽ đến Carmody chọn ngay. Anh có ý tưởng cụ thể nào chưa? Chưa à? Thôi được rồi, tôi đành dựa theo đánh giá của mình vậy. Tôi tin một cái váy nâu lộng lẫy sẽ hợp với Anne, mà William Blair có một số lụa mới màu đó rất đẹp. Có lẽ anh sẽ muốn tôi may cho con bé luôn, kẻo nếu Marilla làm gì, Anne có thể sẽ phong thanh biết trước về nó và thế còn gì là bất ngờ nữa? Được rồi, tôi sẽ may cho. Không, chẳng phiền phức gì. Tôi thích may vá mà. Tôi sẽ may theo số đo của cháu gái tôi, Janny Gillis, vì nó và Anne có dáng người giống nhau y hệt."

"À ừ, tôi rất biết ơn chị," ông Matthew nói, "và, và, tôi không biết nữa... nhưng tôi muốn... tôi nghĩ ngày nay họ may tay áo hơi khác thời xưa một chút. Nếu không phải đòi hỏi quá đáng thì tôi... tôi muốn chúng được may theo kiểu mới."

"Phồng?" Dĩ nhiên. Anh chẳng cần mảy may lo lắng chuyện đó, Matthew. Tôi sẽ làm theo mốt mới nhất," bà Lynde nói. Rồi bà nói thêm với mình sau khi ông Matthew đi khỏi: "Thật hài lòng khi được thấy đứa bé tội nghiệp đó mặc tươm tất một lần. Cách Marilla diện cho nó thật buồn cười, vậy đó, mình ngứa miệng muốn nói thẳng với cô ấy cả tá lần rồi. Nhưng mình phải kìm lại, vì mình có thể thấy Marilla không muốn được khuyên, cô ấy nghĩ rằng bản thân hiểu chuyện dạy dỗ trẻ con nhiều hơn mình, chỉ vì cô ấy là một gái già. Nhưng lúc nào mà chẳng vậy. Những người từng nuôi dạy trẻ sẽ biết trên đời này chẳng có phương pháp nhanh chóng và khắc nghiệt nào lại phù hợp với mọi đứa trẻ. Nhưng họ bao giờ cũng cho rằng mọi chuyện đều dễ dàng và đơn giản như Luật Ba – cứ đặt ba hạng tử xuống và kết quả ra đúng được cả. Nhưng máu thịt thì không thể tính theo kiểu toán học và đó là chỗ sai lầm của Marilla Cuthbert. Mình nghĩ cô ấy cố gắng nuôi dưỡng tinh thần khiêm nhường của Anne bằng cách cho con bé ăn mặc như vậy; nhưng nó lại có chiều hướng dấy lên lòng ghen tỵ và bất mãn ấy chứ. Mình chắc con bé hẳn cảm nhận được khác biệt giữa quần áo của nó và của những đứa trẻ khác. Nhưng thử nghĩ đến chuyện Matthew đã để ý đến điều đó xem! Con người đó đã thức giấc sau hơn sáu mươi năm thiếp ngủ rồi."

Trong vòng hai tuần sau đó, bà Marilla biết chắc ông Matthew đang âm mưu một chuyện gì nhưng không thể đoán ra được cho đến tận tối Giáng sinh, khi bà Lynde đem cái váy đến. Bà Marilla cư xử nhìn chung rất lịch thiệp, mặc dù rõ ràng bà không mấy tin vào lời giải thích xã giao của bà Lynde rằng bà ấy may cái váy vì ông Matthew sợ nếu bà Marilla may thì Anne sẽ phát hiện ra quá sớm.

"Vậy ra đây là chuyện làm cho Matthew có vẻ bí ẩn và cứ cười một mình suốt hai tuần qua, phải không?" bà nói hơi cứng nhắc nhưng đượm vẻ khoan dung. "Tôi biết anh ấy sẽ làm chuyện gì đó ngốc nghếch mà. Ái chà, phải nói tôi không nghĩ Anne cần thêm váy nữa. Thu này tôi đã may cho con bé ba cái rất tốt, ấm áp và tiện dụng, có thêm nữa thì chỉ thành xa xỉ thôi. Vải may hai tay áo này cũng đủ cho một cái eo rồi, tôi chắc vậy đó. Anh sẽ chỉ nuông chiều tính kiêu ngạo của Anne thôi, Matthew, mà bây giờ con bé đã kiêu căng như một con công rồi. Thôi được, em hy vọng cuối cùng con bé cũng được thỏa mãn, vì em biết nó thèm mấy cái tay áo ngốc nghếch này từ hồi chúng mới xuất hiện cơ, mặc dù sau lần đầu tiên nhắc tới, nó chẳng nói thêm câu nào nữa. Cái độ phồng càng ngày càng lớn và nực cười hơn; giờ đã to như quả bóng rồi. Năm sau ai mà mặc chúng chắc phải đi nghiêng mới qua được cửa."

Sáng Giáng sinh mở ra một thế giới trắng xóa tươi đẹp. Tháng Mười hai này tiết trời rất ấm áp và mọi người cứ tưởng sẽ có một Giáng sinh xanh lá, nhưng tuyết chỉ vừa rơi nhẹ trong đêm cũng đủ làm Avonlea chuyển mình. Anne hướng ánh mắt vui vẻ ra ngoài khung cửa sổ đầu hồi phủ sương lạnh giá. Vân sam trong Rừng Ma Ám thảy đều mượt mà đẹp đẽ; bạch dương và anh đào dại được viền màu ngọc trai, những cánh đồng đã cày lốm đốm tuyết phủ; và trong không gian huy hoàng ngân vang một hồi chuông. Anne vừa chạy xuống nhà vừa ca hát cho đến khi giọng con bé vang khắp Chái Nhà Xanh."Chúc mừng Giáng sinh, bác Marilla! Chúc mừng Giáng sinh, bác Matthew! Đây chẳng phải một Giáng sinh đáng yêu sao? Con rất mừng vì trời trắng xóa. Giáng sinh mà không trắng xóa thì dường như thiếu mất vẻ chân thật, đúng không ạ? Con không thích Giáng sinh xanh. Chúng không xanh – chỉ có màu nâu xám lờ nhờ khó chịu thôi. Sao người ta lại gọi chúng là xanh được chứ? Ôi... ôi... bác Matthew, cái đó cho con à? Ôi, bác Matthew!"

Ông Matthew bẽn lẽn mở lớp giấy bọc rồi vừa lôi cái váy ra vừa gửi một ánh mắt cáo lỗi về phía bà Marilla, người giả vờ mải mê châm nước bình trà không thèm để ý, nhưng thật ra đang lén lút quan sát cảnh tượng đó với vẻ thú vị.

Anne đón cái váy và nhìn nó trong sự im lặng cung kính. Ôi, nó mới đẹp làm sao – lớp lụa nâu mềm mại đáng yêu và bóng đến thế; phần áo được tô điểm bởi những diềm xếp nếp vô cùng xinh xắn; phần eo xếp ly một cách công phu theo kiểu thời thượng nhất, có cả một dải đăng ten mỏng manh quanh cổ. Nhưng tay áo – chúng lộng lẫy biết bao! Tay áo dài đến khuỷu, và phía trên khuỷu, hay ống tay phồng xinh đẹp được chia thành các múi bởi những dải chun và nơ lụa nâu.

"Đó là quà Giáng sinh của con, Anne," ông Matthew nói thẹn thùng. "Thế nào... thế nào... Anne, con không thích sao? À ừ... à ừ."

Mắt Anne bỗng nhiên đẫm nước.

"Thích ư! Ôi, bác Matthew!," Anne đặt váy xuống ghế rồi siết chặt hai tay. "Bác Matthew, thật không thể tuyệt vời hơn. Ôi, con sẽ không bao giờ bày tỏ hết sự cảm kích của mình. Nhìn tay áo này xem! Ôi, đối với con đây cứ như một giấc mơ đẹp vậy."

"Nào nào, ăn sáng thôi," bà Marilla cắt ngang. "Phải nói là, Anne, ta không nghĩ con cần bộ váy này; nhưng vì bác Matthew đã tặng nó cho con, con nên giữ gìn cho cẩn thận. Bà Lynde có để lại cho con một dải ruy băng buộc tóc. Màu nâu, cho hợp với váy. Giờ thì tới đây ngồi đi."

"Con không biết làm sao ăn sáng được nữa," Anne sung sướng nói. "Ăn sáng có lẽ quá tầm thường với một khoảnh khắc phấn khích thế này. Con muốn được ăn chiếc váy này bằng mắt hơn. Con rất mừng rằng tay áo phồng vẫn đang mốt. Con cảm thấy dường như sẽ không sao chịu đựng nổi nếu mình chưa kịp mặc váy tay bồng thì nó đã lỗi mốt rồi. Con chưa bao giờ cảm thấy thật sự thỏa mãn, bác thấy đó. Bà Lynde thật đáng yêu vì đã tặng con dải ruy băng. Quả thật con cảm thấy mình phải trở nên ngoan ngoãn. Những lúc như thế này, con rất tiếc vì mình không phải một bé gái gương mẫu; và con luôn luôn quyết tâm sau này sẽ phải ngoan. Nhưng có vẻ như khó mà giữ được quyết tâm khi gặp một sự cám dỗ không cưỡng lại được. Dù sao thì sau chuyện này, con thật sự sẽ cố gắng nhiều hơn."

Khi bữa sáng tầm thường kết thúc thì Diana xuất hiện, băng qua cây cầu gỗ trắng trong thung lũng, nhỏ nhắn và tươi tắn trong chiếc áo choàng khăn đỏ thắm. Anne chạy bay xuống dốc gặp bạn.

"Chúc mừng Giáng sinh, Diana! Ôi, Giáng sinh này tuyệt vời biết bao. Mình có một thứ thật lộng lẫy để cho bạn xem. Bác Matthew tặng mình bộ váy đáng yêu nhất, với tay áo cực kỳ. Mình chẳng thể tưởng tượng ra thứ gì đẹp hơn được."

"Mình cũng có quà cho bạn đây," Diana nói không ra hơi. "Đây... cái hộp này này. Bà dì Josephine gửi cho nhà mình một hộp lớn đựng cơ man là thứ - và cái này dành cho bạn. Lẽ ra mình phải đem sang từ tối qua, nhưng khi người ta chuyển quà tới thì trời tối rồi, mà dạo này mình chẳng bao giờ cảm thấy thoải mái khi đi qua Rừng Ma Ám vào buổi tối cả."

Anne mở hộp rồi nhòm vào bên trong. Đầu tiên là tấm thiệp ghi "Tặng cô bé Anne và Chúc mừng Giáng sinh"; kế đó hiện ra một đôi giày bệt trẻ em cỡ nhỏ dễ thương nhất trần đời, với phần mũi đính cườm, nơ sa tanh và khóa sáng lấp lánh.

"Ôi," Anne nói, "Diana, thế này thì nhiều quá. Hẳn là mình đang mơ."

"Mình gọi nó là định mệnh," Diana nói. "Cậu sẽ không phải mượn giày của Ruby nữa, thật may mắn vì giày của nó rộng hơn tận hai số so với chân của cậu và nghe một cô tiên lê giày loẹt xoẹt thì quả là kinh khủng. Josie Pye hẳn sẽ vui lắm đây. Nói cho cậu biết nhé, Rob Wright đã về cùng Gertie Pye sau buổi tập áp chót. Cậu từng nghe chuyện gì choáng đến thế chưa?"

Ngày hôm đó tất cả học trò Avonlea đều phấn khích đến phát sốt, vì hội trường đã được trang trí và buổi tổng diễn tập cuối cùng cũng đã được tổ chức.

Chương trình hòa nhạc diễn ra vào buổi tối và thành công rực rỡ. Hội trường nhỏ chật kín, tất cả diễn viên đều thể hiện rất tốt, nhưng Anne là ngôi sao chói lòa trong đêm diễn, đến nỗi ngay cả sự đố kỵ, dưới hình dạng Josie Pye, cũng không thể phủ nhận.

"Ôi, đây chẳng phải một buổi tối sáng chói sao?" Anne thở dài phát biểu khi mọi chuyện đã kết thúc và nó cùng Diana đang bước về nhà dưới bầu trời đêm đầy sao.

"Mọi thứ đều suôn sẻ," Diana nói một cách thực tế. "Mình đoán chúng ta hẳn phải kiếm được khoảng mười đô la. Cậu nhớ nhé, ông Allan sẽ gửi bài tường thuật đến báo Charlottetown đấy."

"Ôi, Diana, liệu chúng ta có thấy tên mình trong đó không? Chỉ nghĩ đến thôi mình cũng rung mình rồi. Phần đơn ca của cậu tao nhã không chê vào đâu được, Diana. Mình còn thấy tự hào hơn cả cậu khi nốt đầu tiên cất lên. Mình cứ tự nhủ, ‘Chính người bạn tâm giao yêu dấu của mình đang được vinh danh đấy’."

"Còn màn đọc thơ của cậu làm cả hội trường vỗ tay nhiệt liệt, Anne. Đoạn thơ buồn đó rất tuyệt."

"Ôi, mình hồi hộp lắm đó, Diana. Khi ông Allan gọi tên mình, mình thật không biết làm sao để leo lên sân khấu đó nữa. Mình cảm thấy như cả triệu cặp mắt đổ dồn vào nhìn thấu qua mình, trong khoảnh khắc kinh khủng đó mình tưởng như chẳng thể bắt đầu được. Rồi mình nghĩ đến những tay áo phồng đáng yêu của mình và thu được can đảm. Mình biết mình phải làm sao cho xứng với những tay áo đó, Diana. Nên mình bắt đầu, và giọng nói của mình như vọng lại từ một nơi xa xăm nào đó. Mình cảm thấy không khác gì một con vẹt. Thật là định mệnh khi mình thường xuyên tập đọc trong gác xép, bằng không mình sẽ chẳng thể nào vượt qua nổi. Mình rên rỉ đạt chứ?"

"Ừ, thật ra cậu rên rất đáng yêu," Diana trấn an.

"Lúc ngồi xuống mình thấy bà cụ Sloane đang lau nước mắt. Thật tuyệt vời khi nghĩ rằng mình đã chạm vào trái tim ai đó. Thật lãng mạn khi được tham gia vào một buổi hòa nhạc, đúng không? Ôi, đây quả là một kỷ niệm rất khó quên."

"Chẳng phải hoạt cảnh của nhóm con trai cũng rất ổn sao?"Diana nói. "Gilbert Blythe thật tuyệt vời. Anne, mình nghĩ cậu đối xử với Gil tàn nhẫn quá đấy. Để mình kể cậu nghe. Khi cậu chạy khỏi sân khấu sau màn nữ hoàng thần tiên, một bông hồng rớt khỏi tóc cậu. Mình thấy Gil nhặt nó lên và để trong túi áo ngực. Vậy đó. Cậu rất lãng mạn nên mình chắc cậu sẽ phải hài lòng vì chuyện đó."

"Kẻ đó có làm gì cũng chẳng liên quan đến mình," Anne nói giọng kiêu căng. "Mình tuyệt đối không bao giờ phí một suy nghĩ nào cho hắn, Diana."

Tối đó bà Marilla và ông Matthew, những người suốt hai mươi năm hôm nay mới lần đầu tiên ra ngoài nghe hòa nhạc, ngồi nán lại bên bếp lửa khi Anne đã đi ngủ.

"À ừ, anh đoán Anne của chúng ta diễn xuất không thua kém bất kỳ đứa trẻ nào trong nhóm," ông Matthew tự hào nói.

"Phải, đúng vậy," bà Marilla thừa nhận. "Con bé thật sáng dạ, Matthew. Nó trông cũng rất dễ thương nữa. Em từng có ý chống đối rốt cuộc cũng chẳng hại gì. Dù sao, tối nay em rất tự hào về Anne, mặc dù em sẽ không nói cho con bé biết vậy đâu."

"À ừ, anh tự hào về nó và anh đã nói với con bé như vậy trước lúc nó lên tầng trên," ông Matthew nói. "Chúng ta phải xem sau này liệu có thể làm gì cho con bé nữa, Marilla. Anh đoán chẳng mấy chốc nó sẽ cần thứ gì đó còn hơn cả trường Avonlea nữa."

"Còn dư giả thời gian để nghĩ về chuyện đó mà," bà Marilla nói. "Đến tháng Ba này nó cũng chỉ mới mười ba thôi. Mặc dù tối nay em sững sờ vì con bé lớn như một thiếu nữ rồi đấy. Bà Lynde may cái váy đó hơi dài, làm Anne trông cao hẳn lên. Con bé học hỏi nhanh và em nghĩ điều tốt nhất chúng ta có thể làm cho nó là sau này gửi nó đến trường Queen. Nhưng chưa cần bàn về chuyện đó trong một hai năm nữa."

"À ừ, cũng chẳng hại gì khi suy nghĩ thật kỹ về chuyện này," ông Matthew nói. "Những chuyện như vậy tốt nhất là suy đi tính lại nhiều lần."
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 26. Thành lập câu lạc bộ kể chuyện
Đám trẻ Avonlea nhận thấy thật khó quay lại với nhịp sống buồn chán. Đặc biệt đối với Anne, mọi thứ đều có vẻ phẳng lặng, nhạt nhẽo và vô ích đến đáng sợ sau khi con bé đã bao tuần được nhấm nháp sự phấn khích đến thế. Con bé có thể trở lại với những niềm vui trầm lặng của thời kỳ trước buổi hòa nhạc không? Lúc đầu, như Anne nói với Diana, nó thật sự không nghĩ mình làm được.

"Mình hoàn toàn chắc chắn, Diana, rằng cuộc sống không bao giờ có thể như những ngày xa xưa nữa," con bé buồn bã nói, cứ như đang nhắc đến những chuyện xảy ra cách đây ít nhất mười năm rồi. "Có lẽ sau một thời gian nữa mình sẽ quen thôi, nhưng mình e rằng hòa nhạc sẽ làm người ta chán cuộc sống thường ngày. Mình nghĩ đó là lý do bác Marilla không chấp nhận chúng. Bác ấy thật khôn ngoan. Sẽ tốt hơn rất nhiều nếu khôn ngoan, nhưng dù sao đi nữa, mình không tin rằng mình thật sự muốn khôn ngoan, vì những người như thế quá kém lãng mạn. Bà Lynde bảo mình chẳng bao giờ có nguy cơ trở thành người như thế đâu, nhưng ai mà nói trước được. Ngay bây giờ thì mình cảm thấy dễ có khả năng đó lắm. Nhưng có lẽ chỉ vì mình mệt mỏi thôi. Đêm qua mình trằn trọc mãi. Mình cứ nằm thao thức, tưởng tượng đi tưởng tượng lại về buổi hòa nhạc. Đó là một điều tuyệt vời ở những chuyện thế này – rất dễ chịu khi nhớ lại về chúng."

Tuy nhiên, cuối cùng, trường Avonlea cũng trở lại quỹ đạo và quay về với những thú vui cũ. Lẽ dĩ nhiên, buổi hòa nhạc vẫn còn in dấu tích. Ruby Gillis và Emma White, vốn lúc trước đã gây gổ tranh chỗ trên sân khấu, không còn ngồi chung bàn nữa, và tình bạn ba năm đầy hứa hẹn cũng tan vỡ theo. Josie Pye và Julia Bell không "nói chuyện" trong ba tháng, vì Josie Pye bảo Bessie Wright rằng cái điệu bộ chào của Julia Bell khi đứng lên đọc thơ làm nó nghĩ đến con gà gục gặc cổ, rồi Bessie lại đi kể chuyện này với Julia. Không đứa nào nhà Sloane còn giao du với nhà Bell, vì nhà Bell tuyên bố nhà Sloane can thiệp quá nhiều vào chương trình, còn nhà Sloane móc lại rằng nhà Bell không hề có khả năng hoàn thành nhiệm vụ cho ra hồn. Cuối cùng, Charlie Sloane đánh Mooddy Spurgeon MacPherson vì Moody Spurgeon nói Anne Shirley cứ kênh kênh kiệu kiệu vì màn đọc thơ của mình, và Moody Spurgeon đã bị "dần cho một trận", dẫn đến việc cô chị Ella May của Moody Spurgeon không "nói chuyện" với Anne suốt những ngày đông còn lại. Ngoài những xích mích vặt vãnh này, mọi việc khác trong vương quốc nhỏ bé của cô Stacy đều diễn ra suôn sẻ như thường lệ.

Những tuần đông dần trôi qua. Mùa đông đó ấm áp một cách bất thường, tuyết rơi ít đến mức gần như ngày nào Anne và Diana cũng có thể đến trường qua đường Bạch Dương. Vào sinh nhật Anne, chúng thong dong bước trên con đường này, vừa trò chuyện vừa giỏng tai căng mắt quan sát chung quanh, vì cô Stacy bảo chúng phải viết ngay một bài luận về "Cuộc đi dạo trong rừng mùa đông," và việc này đòi hỏi chúng phải biết quan sát.

"Nghĩ mà xem, Diana, hôm nay mình mười ba tuổi rồi," Anne bình phẩm bằng giọng ngạc nhiên. "Mình khó mà nhận ra giờ mình đã đến tuổi thiếu niên rồi. Sáng nay khi thức dậy mình thấy dường như mọi thứ đều rất khác. Cậu đã mười ba tuổi được một tháng rồi nên mình nghĩ đối với cậu nó không còn mới mẻ như với mình. Nó làm cuộc sống có vẻ thú vị hơn nhiều. Hai năm nữa mình sẽ lớn hẳn rồi. Thật là một an ủi lớn lao khi nghĩ rằng mình sẽ được dùng những từ ngữ đao to búa lớn mà không bị cười giễu nữa."

"Ruby Gillis nói cậu ấy muốn có bồ ngay khi mười lăm," Diana nói.

"Ruby Gillis chẳng nghĩ gì khác ngoài bồ bịch cả," Anne nói với vẻ khinh thị. "Thật ra cậu ta mừng rơn khi có người viết tên cậu ta lên bảng lưu ý dù cứ ra vẻ giận lắm. Nhưng mình e rằng nói năng kiểu này thì hà khắc quá. Cô Allan nói chúng ta đừng bao giờ nói một cách hà khắc; nhưng nó cứ vuột miệng hoài, phải không? Mình không thể nói về Josie Pye mà không hà khắc nên mình không bao giờ nhắc tới nó. Cậu có thể nhận ra điều đó. Mình cố gắng giống cô Allan càng nhiều càng tốt, vì mình nghĩ cô ấy là người hoàn hảo. Ông Allan cũng nghĩ vậy. Cô Lynde nói ông ấy tôn thờ cả mặt đất nơi cô ấy đặt chân và cô ấy nghĩ mục sư thì không nên đặt quá nhiều tình cảm như vậy vào một sinh linh. Nhưng mà, Diana, mục sư cũng là người và có những ám ảnh tội lỗi như tất cả những người khác thôi. Chiều Chủ nhật vừa rồi mình đã có một buổi nói chuyện rất thú vị với cô Allan về những ám ảnh tội lỗi. Chỉ có một số chuyện thích hợp để bàn vào ngày Chủ nhật và đây là một trong số đó. Ám ảnh tội lỗi của mình là tưởng tượng quá nhiều và quên mất trách nhiệm của bản thân. Mình vẫn đang vô cùng cố gắng để chế ngự được nó và giờ khi đã mười ba thật rồi, có lẽ mình sẽ làm được tốt hơn."

"Bốn năm nữa là chúng ta có thể búi tóc lên rồi," Diana nói. "Alice Bell mới có mười sáu mà đã búi tóc được rồi, nhưng mình nghĩ thế thì buồn cười lắm. Mình sẽ đợi đến khi mười bảy."

"Nếu mình mà có mũi khoằm như Alice Bell," Anne nói chắc nịch, "mình sẽ không... nhưng đấy! Mình sẽ không nói tiếp đâu vì điều đó hà khắc khủng khiếp. Hơn nữa mình lại đem so với mũi mình thì thật kiêu ngạo. Mình e là mình đã nghĩ tới mũi mình nhiều quá từ hồi được nghe khen về nó. Lời khen nó là niềm an ủi lớn với mình. Ôi, Diana, nhìn kìa, một con thỏ. Đó là thứ phải nhớ đến trong bài luận về khu rừng của chúng ta. Mình thật tình nghĩ từng mùa đông cũng đáng yêu như mùa hè. Nó trắng xóa và tĩnh lặng biết bao, cứ như nó đang ngủ và mơ những giấc mơ đẹp vậy."

"Mình sẽ chẳng bận tâm đến chuyện viết bài luận đó cho tới khi đến hạn," Diana thở dài. "Mình có thể xoay sở viết về rừng được, nhưng bài chúng ta phải nộp hôm thứ Hai thật khủng khiếp. Cô Stacy bắt chúng ta viết một câu chuyện tự sáng tác!"

"Sao vậy, dễ như trở bàn tay mà," Anne nói.

"Với cậu thì dễ vì cậu tưởng tượng được," Diana vặn lại, "nhưng cậu biết làm gì nếu không có trí tưởng tượng bẩm sinh chứ? Mình đoán cậu đã làm xong bài luận rồi."

Anne gật đầu, cố hết sức để không tỏ ra tự mãn quá đáng nhưng thất bại thảm hại.

"Mình viết vào tối thứ Hai. Nó tên là ‘Kẻ tình địch ghen tuông hay Cái chết không thể chia lìa’. Mình đọc cho bác Marilla nghe và bác ấy nói nó thật nhảm nhí, vớ vẩn. Rồi mình đọc cho bác Matthew và bác ấy nói chuyện hay lắm. Đây đúng là kiểu phê bình mình thích. Đó là một câu chuyện buồn ngọt ngào. Mình đã khóc như một đứa trẻ khi viết nó. Chuyện kể về hai thiếu nữ xinh đẹp tên Cordelia Montmorency và Geraldine Seymour, sống cùng làng và gắn bó như hình với bóng. Cordelia có nước da ngăm đen vương giả với mái tóc đen như nửa đêm và đôi mắt sẫm màu long lanh. Geraldine không khác gì một bà hoàng với tóc như vàng sợi và mắt tím mượt như nhung.""Mình chưa thấy ai mắt tím cả," Diana nói giọng nghi ngờ.

"Mình cũng chưa. Mình chỉ tưởng tượng ra thôi. Mình muốn có cái gì đó khác thường. Geraldine cũng có trán trắng như thạch cao. Đó là một trong những lợi thế của việc mười ba tuổi. Cậu biết nhiều hơn so với lúc mới mười hai."

"Vậy Cordelia và Geraldine rồi như thế nào?’ Diana hỏi, bắt đầu thấy có phần tò mò với số phận của họ.

"Cả hai cùng nhau lớn lên mỗi ngày một xinh đẹp, cho đến khi họ mười sáu tuổi. Rồi Bertram deVere tới làng của hai cô gái và đem lòng yêu Geraldine xinh đẹp. Chàng đã cứu mạng nàng khi con ngựa của nàng bỏ chạy kéo theo cả xe lẫn người, nàng xỉu trong vòng tay chàng rồi chàng cõng nàng về qua ba dặm đường vì cậu hiểu rồi đó, cỗ xe bị nát mất tiêu rồi. Mình thấy rất khó tưởng tượng về lời cầu hôn vì mình không có kinh nghiệm trong chuyện này. Mình đã hỏi Ruby Gillis xem cậu ấy có biết đàn ông cầu hôn như thế nào không vì mình nghĩ cậu ấy hẳn nắm vững đề tài này lắm vì có nhiều chị gái lấy chồng vậy cơ mà. Ruby nói với mình cậu ấy trốn trong phòng để thức ăn khi Malcom Andrews cầu hôn chị Susan. Cậu ấy kể Malcom nói với Susan là cha đã để lại nông trại cho anh ấy rồi nói, ‘Em sẽ nói gì, em yêu, nếu thu này chúng ta lấy nhau?’ Và Susan nói, ‘Vâng... không... em không biết... để em xem thử...’ rồi cứ thế, họ đính hôn, nhanh như vậy đấy. Nhưng mình không nghĩ kiểu cầu hôn đó lãng mạn cho lắm nên cuối cùng mình phải dốc hết trí tưởng tượng ra. Mình viết đoạn đó rất hoa mỹ, đầy chất thơ và để Bertram quỳ xuống, mặc dù Ruby Gillis nói thời này qua mốt đó rồi. Geraldine chấp thuận lời cầu hôn của chàng bằng một bài diễn văn dài cả trang giấy. Mình phải nói với cậu là mình gặp rất nhiều rắc rối với đoạn thoại đó. Mình viết đi viết lại năm lần và xem nó như một kiệt tác. Bertram tặng nàng nhẫn kim cương và vòng ngọc rồi nói với nàng họ sẽ tới châu Âu hưởng tuần trăng mật vì chàng giàu khủng khiếp. Nhưng rồi, than ôi, bóng tối bắt đầu phủ xuống con đường của họ. Cordelia đã thầm yêu Bertram nên khi nghe Geraldine kể về chuyện đính hôn, cô nàng đã đùng đùng nổi giận, nhất là khi nhìn thấy chiếc vòng cổ và nhẫn kim cương. Toàn bộ tình cảm yêu quý dành cho Geraldine trở thành nỗi ghét bỏ cay đắng và cô nàng thề sẽ không bao giờ để cho Geraldine lấy Bertram. Nhưng ả vẫn giả vờ là bạn của Geraldine như trước đây. Một tối khi hai cô gái đang đứng trên cây cầu bắc ngang dòng suối chảy xiết, Cordelia nghĩ rằng xung quanh không có ai bèn đẩy Geraldine xuống vực với một tràng cười giễu điên dại ‘Ha, ha, ha’. Nhưng Bertram đã trông thấy tất cả và chàng ngay lập tức vừa nhảy xuống dòng nước vừa kêu lên, ‘Ta sẽ cứu nàng, Geraldine vô song của ta.’ Nhưng hỡi ôi, chàng quên rằng mình không biết bơi nên cả hai cùng chìm xuống, tay nắm chặt tay. Không lâu sau xác họ trôi đến bờ sông. Họ được chôn cùng một mộ và đám tang thay vì đám cưới. Về phần Cordelia, ả trở nên điên loạn vì hối hận và bị nhốt vào nhà thương điên. Mình nghĩ đó là một sự trừng phạt nên thơ cho tội ác của ả."

"Đáng yêu quá!" Diana thở dài, có vẻ như cũng cùng trường phái phê bình với ông Matthew. "Mình không biết làm sao cậu có thể tự nghĩ ra những chuyện hấp dẫn như vậy, Anne. Ước gì trí tưởng tượng của mình cũng như cậu."

"Chỉ cần cậu nuôi dưỡng nó thì sẽ được thôi," Anne cổ vũ. "Mình vừa nghĩ tới một kế hoạch, Diana. Mình và cậu hãy lập câu lạc bộ kể chuyện của riêng mình và tập viết truyện. Mình sẽ giúp cậu cho đến khi cậu có thể tự làm một mình. Cần phải nuôi dưỡng trí tưởng tượng của bản thân, cậu biết mà. Cô Stacy cũng nói vậy. Chỉ cần chúng ta đi đúng đường thôi. Mình đã kể cố ấy nghe về rừng Ma Ám, nhưng cô ấy nói trong chuyện đó chúng mình đã đi lầm đường."

Đó là lý do câu bộ kể chuyện hình thành. Lúc đầu chỉ giới hạn ở Diana và Anne, nhưng ngay sau đó đã mở rộng thêm Jane Andrews, Ruby Gillis và một vài đứa nữa, những đứa nghĩ rằng trí tưởng tượng của mình cần được nuôi dưỡng. Không đứa con trai nào được tham gia – mặc dù Ruby Gillis cả quyết rằng nếu kết nạp chúng thì câu lạc bộ sẽ hấp dẫn hơn – và mỗi thành viên phải viết mỗi tuần một câu chuyện.

"Nó cực kỳ thú vị," Anne nói với bà Marilla. "Mỗi đứa con gái phải đọc to câu chuyện của mình lên rồi tụi con cùng thảo luận. Tụi con sẽ giữ gìn mọi câu chuyện một cách thiêng liêng để kể cho thế hệ sau. Tụi con mỗi đứa đều viết dưới một bút danh. Của con là Rosamond Montmorency. Cả đám con gái đều làm khá tốt. Ruby Gillis hơi ướt át. Bạn ấy cho quá nhiều yêu đương vào chuyện của mình và bác biết đấy, quá nhiều còn tệ hơn cả quá ít nữa. Jane không bao giờ viết về chuyện yêu đương vì bạn ấy nói bạn ấy cảm thấy vô cùng lố bịch khi phải đọc to lên. Chuyện của Jane cực kỳ lý trí. Còn Diana cho quá nhiều vụ ám sát vào chuyện. Bạn ấy nói thường thì bạn ấy chẳng biết phải làm gì với nhân vật nên giết đi cho xong. Hầu như lần nào con cũng phải nói cho mọi người biết phải viết về cái gì, nhưng chuyện đó không khó vì con có hàng triệu ý tưởng."

"Ta nghĩ vụ viết truyện này là trò ngu xuẩn nhất trần đời," bà Marilla chế giễu. "Con sẽ có cả mớ chuyện vớ vẩn trong đầu rồi còn lãng phí thời gian học hành nữa. Đọc truyện đã đủ tệ lắm rồi nhưng viết truyện thì còn tệ hơn."

"Nhưng chuyện nào chúng con cũng rất cẩn thận đặt các bài học đạo đức vào mà bác Marilla," Anne giải thích. "Con nhắc đi nhắc lại chuyện đó. Người tốt đều được tưởng thưởng và người xấu đều bị trừng phạt thích đáng. Con chắc nó hẳn phải có ảnh hưởng tổng thể. Bài học đạo đức là điều tuyệt vời. Ông Allan nói như vậy. Con đã đọc một câu chuyện của mình cho ông ấy và cô Allan nghe, cả hai đều đồng ý là bài học đạo đức rất xuất sắc. Chỉ có điều họ toàn cười không đúng chỗ. Con thích mọi người khóc hơn. Hầu như lần nào Jane và Ruby cũng khóc khi con đọc tới đoạn cảm động. Diana viết thư kể cho bà dì Josephine nghe về câu lạc bộ và bà đề nghị chúng con gửi cho bà vài chuyện. Thế nên tụi con chép bốn câu chuyện hay nhất và gửi đi. Bà Josephine Barry viết lại rằng bà chưa từng đọc thứ gì có tính giải trí cao độ như vậy trong đời. Chuyện đó làm tụi con hơi bối rối vì chuyện nào cũng rất bi thảm và gần như các nhân vật đều chết hết. Nhưng con mừng là bà Barry thích chúng. Điều này cho thấy câu lạc bộ của tụi con cũng có phần hữu ích cho đời. Cô Allan cho rằng chúng con làm gì cũng phải có mục tiêu. Con đã thật sự cố gắng tạo mục tiêu cho mình nhưng lại thường quên mất khi vui quá. Con hy vọng sau này mình có thể giống cô Allan một chút. Bác nghĩ chuyện đó có triển vọng gì không, bác Marilla?"

"Ta không thể nói là có nhiều được," là câu trả lời khích lệ của bà Marilla. "Ta dám chắc hồi bé cô Allan không bao giờ ngốc nghếch hay quên như con."

"Không, nhưng đâu phải lúc nào cô ấy cũng tuyệt như bây giờ," Anne nói nghiêm túc. "Cô ấy kể với con vậy mà – hồi nhỏ cô ấy cũng nghịch ngợm khủng khiếp và luôn vướng vào mấy chuyện rắc rối. Con cảm thấy được khích lệ rất nhiều khi nghe điều này. Bác Marilla, có phải con rất hư vì cảm thấy được khích lệ khi nghe nói người khác cũng từng hư và nghịch ngợm không? Bà Lynde nói có lần bà ấy nghe một mục sư thú nhận rằng hồi nhỏ ông ấy đã ăn trộm một cái bánh dâu trong tủ của bà dì và thế là bà chẳng bao giờ còn kính trọng mục sư nữa. Con không nghĩ theo cách đó. Theo con ông ấy rất cao quý khi dám thú nhận chuyện đó, con nghĩ điều này là một sự khích lệ lớn lao đối với những cậu bé thời nay, những đứa đã bày ra những trò nghịch thế nhưng lớn lên chúng vẫn có thể thành mục sư. Con cảm thấy thế đấy, bác Marilla."

"Điều ta cảm thấy lúc này, Anne," bà Marilla nói, "là đã đến lúc con đi rửa bát đĩa rồi. Con đã lỡ mất hơn nữa tiếng vì cứ huyên thuyên rồi. Học cách làm việc trước nói chuyện sau đi."
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 27. Sự phù phiếm và giận giữ của tâm hồn
Bà Marilla, trên đường về nhà vào tối muộn một ngày tháng Tư sau buổi họp của hội Cứu tế, nhận ra mùa đông đã qua và bị cuốn đi theo cái rùng mình vui sướng mà mùa xuân luôn đem tới cho mọi người, từ những người già cả buồn bã nhất đến những người trẻ trung hạnh phúc nhất. Bà Marilla không giỏi phân tích suy nghĩ và cảm xúc của mình. Bà có thể hình dung mình đang suy nghĩ về hội Cứu tế, hộp quyên góp cùng tấm thảm mới cho phòng áo lễ của nhà thờ, nhưng ẩn sâu những suy nghĩ này là một nhận thức êm ái về những cánh đồng đỏ nhạt nhòa trong đám sương mờ tím nhạt dưới vầng mặt trời đứng bóng, về những bóng vân sam dài có ngọn cây thon nhọn đổ xuống đồng cỏ bên kia suối, về những cây phong đâm chồi đỏ rực lặng im chung quanh chiếc hồ như tấm gương soi giữa rừng, về một sự thức tỉnh giữa thế giới và sự khuấy động của những nhịp đập ẩn giấu dưới lớp đất xám. Mùa xuân tràn ngập vùng đất khiến những bước chân trung niên điềm tĩnh của bà Marilla trở nên nhẹ nhẹ hơn, nhanh nhẹn hơn vì một niềm vui nguyên sơ sâu thẳm.

Đôi mắt trìu mến của bà dừng lại ở Chái Nhà Xanh đang lấp ló ẩn hiện qua đám cây cối chằng chịt bao quanh và phản chiếu ánh mặt trời từ những khung cửa sổ thành vài tia sáng nhỏ huy hoàng. Bà Marilla, trong lúc thận trọng bước từng bước dọc con đường ẩm ướt, nghĩ rằng thật hài lòng đến nhường nào khi biết mình sắp về nhà với bếp lửa bập bùng và bàn ăn đã được chuẩn bị tươm tất cho bữa trà, chứ không phải về với sự an ủi nhạt nhẽo của những buổi tối họp hội Cứu tế xưa kia trước khi Anne tới Chái Nhà Xanh.

Bởi vậy, khi bước vào bếp và thấy lửa tắt lạnh tanh còn Anne thì không thấy bóng dáng đâu, bà Marilla vô cùng thất vọng và giận dữ. Bà đã dặn Anne phải nhớ chuẩn bị bữa trà sẵn sàng lúc năm giờ, vậy mà giờ đây bà lại phải vội vã thay bộ váy đẹp thứ nhì của mình ra để chuẩn bị bữa ăn trước khi ông Matthew đi cày về.

"Mình sẽ xử lý cô Anne này khi cô nàng về nhà," bà Mailla nói dứt khoát trong lúc vót thanh củi nhen lửa bằng con dao khắc, mạnh tay hơn mức cần thiết nhiều. Ông Matthew đã vào nhà và kiên nhẫn ngồi ở một góc đợi trà của mình. "Thể nào con bé cũng đang thơ thẩn đâu đó với Diana, viết truyện tập kịch hay làm trò vớ vẩn nào đó mà chẳng một lần nghĩ đến giờ giấc hay nhiệm vụ của mình. Con bé phải bị quở trách về những chuyện kiểu này thôi. Em không quan tâm cho dù cô Allan có nói nó là đứa trẻ thông minh và đáng yêu nhất mà cô ấy biết. Con bé có thể thông minh và đáng yêu đấy, nhưng đầu óc lại chứa đầy những thứ nhảm nhí, không ai biết được tiếp theo sẽ có chuyện gì. Cứ vừa thoát khỏi trò kỳ quái này là lại dính ngay vào trò kỳ quái khác. Đấy! Giờ thì em lại đang nói chính những điều đã khiến em nổi giận khi Rachel Lynde nói ở cuộc họp Hội Cứu tế hôm nay. Em rất vui khi cô Allan nói đỡ cho Anne, vì nếu không thì em biết mình sẽ nói rất gay gắt với Rachel trước mặt mọi người rồi. Anne có một đống lỗi, có trời mới biết, và em chẳng đời nào phủ nhận chuyện đó. Nhưng em dạy dỗ nó chứ không phải Rachel Lynde, một người sẽ nhặt cả lỗi của Thiên thần Gabriel nếu ông ấy sống ở Avonlea. Dù sao đi nữa, Anne cũng đâu có chuyện gì để rời khỏi nhà thế này trong khi em đã dặn nó chiều nay phải ờ nhà trông nom công việc. Em phải nói là, cho dù con bé phạm hết lỗi này lỗi kia nhưng trước đây em chưa bao giờ thấy nó không vâng lời hay không xứng đáng với sự tin cậy và bây giờ em rất tiếc khi thấy nó như vậy."

"À ừ, anh không biết," ông Matthew nói, vốn là người bình tĩnh khôn ngoan và trên hết, hiện giờ đang đói, ông cho rằng tốt nhất nên để bà Marilla xả hết cơn thịnh nộ của mình, kinh nghiệm cho thấy cho dù là công việc gì thì bà cũng sẽ hoàn thành nhanh hơn nhiều nếu không bị trì hoãn bởi những tranh cãi không đúng lúc."Có lẽ em phán xét con bé hơi vội vàng, Marilla. Đừng nói nó không xứng đáng với sự tin cậy cho đến khi nào em chắc chắn nó không vâng lời em. Biết đâu mọi chuyện đều có thể giải thích được – Anne vốn rất giỏi giải thích mà."

"Con bé không có ở đây trong khi em bảo nó phải làm thế," bà Marilla vặc lại. "Em nghĩ nó sẽ khó mà giải thích được chuyện đó cho em vừa lòng đây. Dĩ nhiên em biết anh sẽ đứng về phía nó, Matthew. Nhưng em mới là người dạy dỗ con bé, không phải anh."

Bóng đêm đã phủ xuống khi bữa ăn tối sẵn sàng nhưng vẫn không hề thấy bóng dáng Anne chạy vội vã qua cây cầu gỗ hay lên đường Tình Nhân, hụt hơi và hối lỗi vì đã xao lãng nhiệm vụ. Bà Marilla giận dữ rửa sạch và cất dọn bát đĩa. Rồi, muốn kiếm một cây đèn cầy soi đường xuống hầm rượu, bà đi lên chái Đông để lấy cây đèn thường để trên bàn của Anne. Thắp sáng lên, bà quay người và nhìn thấy Anne đang nằm trên giường, úp mặt xuống đống gối.

"Lạy Chúa tôi," bà Marilla sững sờ nói. "Con ngủ quên à, Anne?"

"Không ạ," con bé ú ớ trả lời.

"Vậy con ốm à?" bà Marilla vừa lo lắng hỏi vừa bước đến giường.

Anne thu mình sâu hơn vào đống gối cứ như thể khát khao được vĩnh viễn trốn khỏi ánh mắt người đời.

"Không. Nhưng xin bác, Marilla, bác đi đi và đừng nhìn con. Con đang tuyệt vọng tột độ và không còn quan tâm ai đứng đầu lớp, ai viết luận giỏi nhất hay ai được hát trong dàn đồng ca trường Chủ nhật nữa. Những thứ vặt vãnh như thế không còn quan trọng nữa vì con nghĩ mình sẽ chẳng thể đi đâu được. Sự nghiệp của con đã kết thúc rồi. Xin bác, Marilla, hãy đi đi và đừng nhìn con."

"Đã ai nghe chuyện gì như thế này không chứ?" bà Marilla hoang mang hỏi. "Anne Shirley, chuyện quái quỷ gì đã xảy ra với con vậy? Con đã làm gì? Ngồi dậy ngay và nói ta nghe xem nào. Ta đã bảo là ngay lập tức. Nào, có chuyện gì hả?"

Anne đành trườn xuống sàn trong sự vâng lời tuyệt vọng.

"Nhìn tóc con xem, bác Marilla," con bé thầm thì.

Bà Marilla nâng đèn lên chăm chú nhìn mái tóc chảy thành đống nặng nề xuống lưng Anne. Quả tình trông nó rất kỳ lạ.

"Anne Shirley, con đã làm gì tóc con vậy hả? Sao vậy hả, nó màu xanh lục!"

Cái thứ màu này cũng có thể được gọi là xanh lục nếu có phần nào đó coi nó là màu cơ bản – một màu xanh lạ lùng, tẻ ngắt, ngả màu đồng, đây đó điểm vài đường sọc với màu đỏ nguyên thủy để làm tăng thêm cái ấn tượng khủng khiếp đó. Cả đời mình bà Marilla chưa từng trông thấy thứ gì kỳ cục như tóc Anne lúc đó.

"Vâng, nó màu xanh lục," Anne rên rỉ. "Con đã tưởng không có gì tệ hơn tóc đỏ được. Nhưng giờ con biết tóc xanh còn tệ hơn gấp mười lần. Ôi, Marilla, bác không hiểu được con thấy khốn khổ đến thế nào đâu."

"Ta không biết sao con lại dính vào vào chuyện này, nhưng ta sẽ tìm hiểu ra," bà Marilla nói. "Xuống bếp ngay - ở đây lạnh quá – và nói ta biết con đã làm gì. Ta vẫn biết thể nào rồi cũng có chuyện kỳ quái mà. Hơn hai tháng nay con chưa vướng vào bất cứ vụ rắc rối nào và ta đoán chắc cũng đến lúc rồi. Nào, con đã làm gì với mái tóc con vậy?"

"Con nhuộm nó."

"Nhuộm! Nhuộm tóc con! Anne Shirley, con có biết làm thế là hư lắm không?""Vâng, con biết là hơi hư," Anne thừa nhận. "Nhưng con nghĩ cũng đáng để hư một chút nếu bỏ được mái tóc đỏ. Con đã tính toán thiệt hơn rồi, bác Marilla. Hơn nữa, con định sẽ ngoan ngoãn hơn trong nhiều chuyện khác để bù cho chuyện này,"

"Ái chà," bà Marilla nói giọng mỉa mai, "nếu đã quyết định rằng cũng đáng để nhuộm tóc thì ít ra ta sẽ chọn một màu tử tế. Ta sẽ không nhuộm nó thành màu xanh."

"Nhưng con có định nhuộm xanh đâu, bác Marilla," Anne ủ rũ phản đối. "Nếu đã hư thì con phải hư có mục đích chứ. Ông ta nói nó sẽ biến tóc con thành màu đen nhánh đẹp đẽ - ông ta đảm bảo chắc chắn như vậy. Sao con có thể nghi ngờ lời ông ấy chứ, bác Marilla? Con biết cái cảm giác khi lời nói của mình bị nghi ngờ là như thế nào. Và cô Allan nói chúng ta không bao giờ nên nghi ngờ người khác nói dối trừ khi có bằng chứng rõ ràng. Giờ thì con có bằng chứng rồi – tóc màu xanh lục là bằng chứng đủ rõ ràng cho bất cứ ai rồi. Nhưng lúc đó thì đã có bằng chứng đâu nên con tuyệt đối tin mọi lời ông ta nói."

"Ai nói? Con nói về ai vậy?"

"Người bán rong đã ở đây chiều nay. Con mua thuốc nhuộm của ông ta."

"Anne Shirley, ta đã bảo con bao nhiêu lần là không bao giờ được để một trong những tay người Ý đó vào nhà mà! Ta không hề muốn khuyến khích bọn họ lảng vảng quanh đây."

"Ôi, con có để ông ta vào nhà đâu. Con nhớ lời bác dặn nên đã ra ngoài, đóng cửa cẩn thận, và xem mấy thứ đồ của ông ta từ bậu cửa. Hơn nữa, ông ta không phải người Ý... ông ta là người Do Thái Đức. Ông ta có một cái hộp to đầy những thứ thú vị và nói ông ấy đang vất vả làm việc để kiếm đủ tiền đưa vợ con ra khỏi nước Đức. Ông ấy nói tình cảm quá khiến con cảm động. Con muốn mua thứ gì đó để giúp ông ta hoàn thành được mục tiêu cao đẹp đó. Ngay lúc ấy con thấy chai thuốc nhuộm tóc. Người bán rong bảo đảm nó sẽ nhuộm bất cứ thứ tóc nào thành màu đen nhánh đẹp đẽ không phai. Trong một thoáng con nhìn thấy mình với mái tóc đen nhánh đẹp đẽ và sự cám dỗ thật khó cưỡng lại. Nhưng chai thuốc tận bảy mươi lăm xu mà con chỉ còn năm mươi xu tiền tiết kiệm. Con nghĩ người bán rong rất tốt bụng vì ông ấy nói ông ấy thông cảm cho con nên chỉ bán với giá năm mươi xu thôi và như thế cũng giống như biếu không. Vậy là con mua nó và ông ấy vừa đi khỏi là con lên đây, nặn thuốc vào bàn chải cũ theo đúng hướng dẫn. Con dùng hết cả chai và ôi, bác Marilla, khi nhìn thấy tóc chuyển sang cái màu khủng khiếp này con cảm thấy thật sự hối hận vì đã hư. Và con sẽ mãi hối hận."

"Thôi được rồi, ta hy vọng con sẽ hối hận vì mục đích tốt đẹp," bà Marilla nghiêm khắc nói, "và hãy mở to mắt ra mà xem sự phù phiếm đã dẫn con đến đâu, Anne. Có trời mới biết phải làm gì. Ta nghĩ trước hết con phải gội đầu thật sạch xem có tác dụng gì không."

Nghe lời, Anne gội dầu, chà thật mạnh tay với xà bông và nước, nhưng tất cả khác biệt con bé có thể tạo ra được là tẩy sạch luôn màu đỏ nguyên thủy. Hiển nhiên người bán rong hẳn đã nói thật khi tuyên bố thuốc nhuộm sẽ không bị phai màu, tuy nhiên tính thành thật của ông ta trong một số khía cạnh khác lại bị giới hạn.

"Ôi, bác Marilla, con phải làm gì đây?," Anne hỏi trong nước mắt. "Con không bao giờ có thể quên được chuyện này. Mọi người đã quên gần hết những lỗi lầm khác của con – chiếc bánh nướng dầu thuốc, vụ thuốc say Diana và cả chuyện nổi đóa với bà Lynde nữa. Nhưng họ sẽ không bao giờ quên chuyện này. Họ sẽ nghĩ con không xứng đáng được tôn trọng. Ôi, bác Marilla, ‘đâu là lưới nhện ta giăng khi lần đầu gian dối’. Câu này là thơ, nhưng nó đúng với sự thật. Ôi, Josie Pye sẽ cười đến thế nào đây! Bác Marilla, con không thể đối diện với Josie Pye. Con là bé gái bất hạnh nhất đảo Hoàng tử Edward."

Nỗi bất hạnh của Anne tiếp diễn trong một tuần lễ. Suốt thời gian đó con bé không đi đâu cả và gội đầu mỗi ngày. Diana là người ngoài duy nhất biết được bí mật chết người này, nhưng nó trang trọng thề sẽ không kể ai nghe hết, và quả lả con bé đã giữ lời. Đến cuối tuần bà Marilla quyết định: "Vô ích thôi, Anne. Nếu trên đời này có thuốc nhuộm bền màu thì đúng là thứ này rồi. Tóc con phải cắt ngắn đi thôi, không còn cách nào khác. Con không thể đi ra ngoài với dáng vẻ này được."

Môi Anne run run nhưng con bé nhận ra sự thật cay đắng trong lời bà Marilla. Con bé bèn đi lấy kéo kèm theo một tiếng thở dài buồn bã.

"Xin hãy cắt ngay đi, bác Marilla, và cho nó kết thúc. Ôi, con cảm thấy tim mình tan vỡ. Nỗi đau khổ này thật chẳng lãng mạn gì. Trong sách các cô gái mất tóc vì bệnh tật hoặc bán nó lấy tiền vì mục đích cao đẹp nào đó và chắc hợp thời bằng phân nửa vậy thôi. Nhưng chẳng có gì dễ chịu khi phải cắt tóc chỉ vì mình nhuộm nó thành một màu khủng khiếp, phải không ạ? Nếu bác không phiền thì con sẽ khóc suốt trong lúc bác cắt. Chuyện này có vẻ bi thảm biết bao."

Lúc đó Anne đã khóc nức khóc nở, nhưng lát sau, khi lên lầu soi gương, con bé lặng mình trong tuyệt vọng. Bà Marilla đã thực hiện công việc một cách chu đáo và cắt tóc ngắn hết mức. Nói một cách giảm nhẹ tối đa thì sản phẩm trông chẳng hợp chút nào. Anne vội quay gương vào tường.

"Con sẽ không bao giờ, không bao giờ nhìn mình nữa cho đến khi tóc mọc lại," con bé thốt lên mạnh mẽ.

Rồi nó đột ngột chỉnh gương về đúng tư thế.

"Có chứ, con sẽ nhìn chứ. Con sẽ sám hối về sự hư hỏng của mình bằng cách đó. Mỗi lần về phòng con sẽ nhìn xem mình xấu xí đến cỡ nào. Và con cũng sẽ không cố tưởng tượng nó khác đi. Con chưa bao giờ nghĩ rằng trong bao nhiêu thứ như vậy mà con lại thấy kiêu hãnh về mái tóc của mình, nhưng giờ con biết mình có cảm thấy như thế vì dù màu đỏ nhưng nó rất dài, dày và quăn. Con hy vọng tiếp theo sẽ có chuyện xảy ra với cái mũi của mình."

Thứ Hai tuần sau, mái tóc cắt ngắn của Anne đã khiến cả trường náo động, nhưng con bé nhẹ cả người vì không ai đoán ra lý do thật sự của nó, ngay cả Josie Pye, người mà dù sao cũng không bỏ lỡ cơ hội thông báo cho Anne biết, con bé trông như một thằng bù nhìn giữ dưa hoàn hảo.

"Con không nói gì khi Josie bảo con vậy," tối đó Anne thành thật kể lại với bà Marilla lúc này đang nằm trên ghế sofa do bị nhức đầu, "vì con nghĩ nó là một phần sự trừng phạt và con phải kiên nhẫn chịu đựng. Thật khó chịu khi bị nói trông như bù nhìn và con muốn trả miếng. Nhưng con không làm vậy. Con chỉ liếc nhìn một cách khinh thị rồi tha thứ cho nó. Ta sẽ thấy tự hào khi tha thứ cho người khác, phải không ạ? Sau chuyện này thì con muốn dành toàn bộ sức lực của mình để phấn đấu trở nên thành người tốt và con sẽ không bao giờ cố làm cho mình xinh đẹp nữa. Tất nhiên, trở thành người tốt thì hay hơn nhiều. Con biết vậy, nhưng có những lúc khó mà tin nổi điều gì đó ngay cả khi ta đã biết về nó. Bác Marilla, con thật sự muốn trở thành người tốt như bác, như cô Allan và cô Stacy, rồi sau này làm bác tự hào. Diana nói khi nào tóc con bắt đầu dài ra thì sẽ thắt một dải ruy băng bằng nhung đen quanh đầu và kết nơ một bên. Bạn ấy nói như vậy sẽ hợp lắm. Con sẽ gọi nó là lưới tóc – nghe mới lãng mạn làm sao chứ. Nhưng có phải con nói nhiều quá không, bác Marilla? Con có làm bác đau đầu không?"

"Đầu của ta giờ đỡ hơn rồi. Nhưng hồi chiều thì đau khủng khiếp. Những cơn đau đầu của ta cứ ngày một tệ hơn. Ta sẽ phải đi khám bác sĩ thôi. Còn chuyện con cứ tía lia như con sáo ấy thì ta không thấy khó chịu đâu – ta quen rồi."

Đó là cách bà Marilla nói rằng bà thích nghe.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 28. Tiểu thư Hoa loa kèn bất hạnh
Dĩ nhiên bạn phải làm Elaine, Anne" Diana nói. "Mình không bao giờ có can đảm trôi bồng bềnh xuống đó."

"Mình cũng không" Ruby Gillis rùng mình nói. "Mình không ngại phải trôi bồng bềnh xuống đó nếu có hai ba đứa trên thuyền và chúng mình có thể ngồi dậy được. Như vậy thì vui thật. Nhưng nằm xuống giả vờ chết – mình không làm được đâu. Mình sợ chết mất."

"Dĩ nhiên sẽ lãng mạn lắm" Jane Andrews thừa nhận, "nhưng mình biết mình không thể ở yên một chỗ được. Mình sẽ nhấp nhổm không ngừng hoặc sẽ liên tục quan sát xem mình đang ở đâu và liệu có trôi xa quá không. Cậu biết nó sẽ làm hỏng hiệu quả mất, Anne."

"Nhưng nếu Elaine mà tóc đỏ thì kì cục lắm," Anne than vãn. "Mình không sợ trôi bồng bềnh và rất muốn được làm Elaine. Nhưng dù sao đi nữa, như thế kỳ cục lắm. Ruby phải làm Elaine vì bạn ấy trắng trẻo và có mái tóc vàng dài đáng yêu như thế – Elaine có ‘mái tóc sáng rạng rỡ tuôn chảy’, các cậu biết mà. Và Elaine là tiểu thư hoa loa kèn. Nào, một người tóc đỏ thì làm sao là tiểu thư hoa loa kèn được."

"Nước da của cậu cũng trắng như của Ruby mà," Diana nói nghiêm túc, "mà tóc cậu cũng đen hơn hồi chưa cắt mà."

"Ôi, cậu nghĩ vậy thật à?" Anne thốt lên, mặt đỏ bừng vì vui mừng. "Có lúc mình cũng nghĩ vậy – nhưng mình chẳng dám hỏi ai vì sợ người ta nói không phải. Cậu nghĩ bây giờ có thể gọi nó là màu nâu vàng được không, Diana?"

"Được chứ, mình nghĩ nó đẹp thật đấy," Diana vừa nói vừa chiêm ngưỡng những lọn tóc ngắn bồng bềnh từng cụm trên đầu Anne, được giữ thẳng nếp nhờ sợi ruy băng bằng nhung đen thắt nơ.

Chúng đang đứng bên hồ nước phía dưới Dốc Vườn Quả, nơi có một mũi đất nhỏ viền cây bạch dương chạy ra từ bờ, ngay sát mép mũi đất là một bệ gỗ nhỏ xây nhô ra mặt nước phục vụ ngư dân và thợ săn vịt. Ruby cùng Jane dành buổi chiều giữa hè đó chơi với Diana và Anne cũng đến nhập hội.

Hè đó, hầu hết thời gian chơi đùa của Anne và Diana được hai cô bé dành để quanh quẩn bên hồ. Vùng Đất Hoang Lười Nhác đã thành quá khứ, hồi mùa xuân ông Belle đã tàn nhẫn đốn hết vòng tròn cây trong đồng cỏ sau nhà. Anne đã ngồi giữa đám gốc cây mà khóc nức nở, không quên nhìn chúng bằng đôi mắt lãng mạn, nhưng con bé nhanh chóng được an ủi, vì rốt cuộc, theo lời nó và Diana, những cô gái mười ba, sắp lên mười bốn tuổi, quá già cho những trò trẻ con giống như kiểu nhà chơi cho trẻ em rồi, hơn nữa quanh hồ còn nhiều trò thể thao hấp dẫn hơn. Thật tuyệt vời khi được câu cá hồi trên cầu và hai cô bé đã học được cách tự chèo quanh hồ bằng chiếc thuyền đáy bằng mà ông Barry dùng đi bắn vịt.

Chính Anne là người nảy ra ý tưởng soạn kịch về Elaine. Mùa đông vừa rồi chúng đã học thơ của Tennyson trong trường, thanh tra giáo dục đã đưa bài thơ đó vào chương trình tiếng Anh tại các trường học trên đảo Hoàng tử Edward. Chúng phân tích câu cú, ngữ pháp và nhìn chung chia nhỏ bài thơ đến nỗi chỉ có phép mầu mới giúp cho trong đầu chúng còn đọng lại chút ý nghĩa nào, nhưng ít nhất nàng tiểu thư hoa loa kèn xinh đẹp cùng Lancelot, Guinerve cùng vua Arthur đã trở thành những người rất thật với chúng, và Anne bị giày vò bởi niềm nuối tiếc thầm kín vì đã không được sinh ra ở Camelot. Thời đó, con bé nói, lãng mạn hơn hiện tại biết bao nhiêu.

Kế hoạch của Anne được hưởng ứng nhiệt liệt. Lũ con gái phát hiện ra nếu đẩy chiếc thuyền đáy bằng từ trên bến xuống, nó sẽ trôi theo dòng nước dưới cầu và cuối cùng mắc cạn vào một mũi đất khác thấp hơn nhô ra từ một khúc quanh ở hồ. Chúng thường đi xuống theo cách này và không gì thích hợp hơn để đóng vai Elaine.

"Thôi được, mình sẽ là Elaine," Anne nói, miễn cưỡng đầu hàng, vì mặc dù rất vui được đóng vai chính nhưng ý thức nghệ sĩ của con bé đòi hỏi phải có sự hợp vai mà điều này, theo con bé nghĩ, đã bị những hạn chế của nó làm cho thành vô phương cứu chữa. "Ruby, cậu phải đóng vai vua Arthur, Jane là Guinerve con Diana phải là Lancelot. Nhưng trước tiên các cậu phải đóng vai những người anh và người cha. Chúng ta không thể có vai ông già đầy tớ câm vì nếu trên thuyền đã có một người nằm thì sẽ không đủ chỗ cho người thứ hai. Chúng ta phải phủ kín thuyền bằng gấm đen tuyền. Cái khăn choàng cũ của mẹ cậu đúng là thứ thích hợp, Diana."

Cái khăn choàng đen được huy động, Anne trải nó lên thuyền rồi nằm xuống đáy, mắt nhắm nghiền, tay khoanh trước ngực.

"Ôi, bạn ấy trông giống như chết thật rồi," Ruby vừa lo lắng thầm thì vừa quan sát khuôn mặt nhỏ bé, trắng trẻo, bất động dưới những bóng bạch dương đang khẽ rung rung. "Mình thấy sợ quá, các cậu. Các cậu có nghĩ hành động như thế này là đúng không? Bà Lynde nói tất tật những trò đóng kịch là hư hỏng ghê gớm."

"Ruby, cậu không nên nhắc đến bà Lynde" Anne nghiêm giọng nói. "Nó phá hỏng hết hiệu quả vì chuyện này xảy ra hàng trăm năm trước khi bà Lynde ra đời. Jane, cậu giải quyết chuyện này đi. Thật ngu ngốc nếu Elaine đã chết rồi mà vẫn còn nói chuyện."

Jane chứng tỏ cô bé hoàn toàn có khả năng ứng phó với tình hình. Không có tấm vải vàng nào để làm khăn trải giường, nhưng có một chiếc khăn phủ piano cũ màu vàng làm bằng nhiễu Nhật Bản là sự thay thế hoàn hảo. Ngay lúc này thì không kiếm đâu ra hoa loa kèn trắng, nhưng hiệu quả của bông diên vĩ xanh dài đặt trong tay Anne cũng đủ thỏa lòng rồi.

"Giờ, bạn ấy sẵn sàng cả rồi," Jane nói. "Chúng ta phải hôn vầng trán thanh thản của nàng, và Diana, cậu nói ‘Em gái, vĩnh biệt’ còn Ruby, cậu nói ‘ Vĩnh biệt, em gái dịu hiền’, cả hai cậu phải tỏ ra buồn bã hết mức. Anne, vì Chúa mỉm cười một chút đi. Cậu biết là Elaine ‘nằm như đang mỉm cười’ mà. Vậy tốt hơn rồi. Giờ đẩy thuyền xuống thôi."

Con thuyền được đẩy xuống, giữa đường quẹt mạnh vào một cái cọc được chôn không biết từ đời nào. Diana, Jane cùng Ruby chỉ đợi con thuyền chạm vào mặt nước là chạy lên cầu rồi lao vào rừng, băng qua đường, xuống tới mũi đất phía dưới, nơi chúng sẽ đóng vai Lancelot, Guinevre và đức vua, sẵn sàng đón nhận tiểu thư hoa loa kèn.

Trong vài phút, Anne trôi lững lờ xuôi dòng, tận hưởng tối đa tình cảnh lãng mạn của mình. Rồi xảy ra một chuyện không lãng mạn chút nào. Thuyền bắt đầu rò. Chỉ trong tích tắc, nàng Elaine bật dậy, vơ lấy cái liệm màu vàng, miếng phủ bằng gấm đen tuyền và nhìn sững vào cái lỗ lớn dưới lòng thuyền nơi nước đang ồ ạt tràn qua. Cái cọc nhọn ở bến đã nhổ bật một chiếc đinh đóng trên thuyền. Anne không biết chuyện này, nhưng con bé chẳng mất nhiều thời gian để nhận ra mình đang ở trong tình thế hiểm nghèo. Cứ đà này thì thuyền sẽ đầy rồi chìm sâu trước khi trôi được tới mũi đất phía dưới. Mái chèo đâu? Để lại bến mất rồi!

Anne thét lên một tiếng nho nhỏ không ai nghe thấy; con bé tái nhợt từ đầu đến chân nhưng vẫn không để mất bình tĩnh. Còn một cơ hội – chỉ một mà thôi.

"Con kinh hãi tột độ" hôm sau con bé kể với cô Allan, "cứ như hàng bao nhiêu năm đã trôi qua trong lúc con thuyền lững lờ trôi về phía cầu và nước tràn vào mỗi lúc một nhiều. Con đã cầu nguyện một cách thành khẩn nhất, cô Allan, nhưng con không nhắm mắt cầu nguyện, vì con biết cách duy nhất Chúa có thể cứu con là để thuyền trôi đến một trụ cầu gần đến mức con có thể leo lên. Cô biết đó, trụ cầu chỉ có ba thân cây già và có rất nhiều mấu và nhánh. Cầu nguyện là đúng đắn, nhưng con vẫn phải làm phần việc của mình là quan sát và con biết rõ điều đó. Con chỉ nói đi nói lại ‘Thưa Chúa, xin hãy để chiếc thuyền này đến gần trụ và con sẽ làm phần còn lại.’ Trong tình huống như vậy cô không thể nghĩ nhiều về chuyện cầu nguyện sao cho văn hoa. Nhưng mong muốn của con đã được đáp ứng, chiếc thuyền đâm thẳng vào một trụ trong thoáng chốc và con vắt cả khăn quàng cổ lẫn khăn choàng lên vai rồi bò lên một gốc cây lớn cứu mạng. Vậy là con ở đó, cô Allan ạ, bám chặt vào cái trụ cũ trơn trượt mà không có cách nào lên hay xuống. Đó là tình huống rất không lãng mạn, nhưng lúc ấy con chẳng nghĩ gì về chuyện đó. Người ta đâu thể nghĩ nhiều về sự lãng mạn khi vừa mới thoát khỏi nấm mồ dưới nước. Con lập tức cầu nguyện tạ ơn rồi dồn hết tâm trí bám cho chặt, vì con biết mình sẽ phải dựa vào sự giúp đỡ của con người để trở lại với mặt đất khô ráo."

Thuyền trôi dưới cầu và rồi nhanh chóng chìm trong dòng nước. Đang sẵn sang chờ đợi ở mũi đất bên dưới, Ruby, Jane và Diana nhìn thấy con thuyền biến mất trước mắt mình và không nghi ngờ gì chuyện Anne cũng chìm luôn với nó. Chúng đứng chết lặng một lúc, mặt trắng bệch như tờ giấy, đông cứng hãi hùng trước thảm kịch, rồi vừa gào hết cỡ chúng vừa chạy điên cuồng qua khu rừng, không hề dừng lại khi băng qua đường chính để nhìn lối lên cầu. Anne, treo mình vô vọng trên chỗ để chân bấp bênh, nhìn thấy bóng các bạn lướt qua và nghe thấy tiếng thét của chúng. Sẽ sớm có người đến giúp thôi, nhưng ngay lúc đó thì tư thế của con bé sẽ không thoải mái chút nào.

Thời gian trôi qua, mỗi phút đều như cả tiếng đồng hồ với tiểu thư hoa loa kèn bất hạnh. Tại sao không có ai tới? Lũ con gái đi đâu cả rồi? Lỡ chúng xỉu hết mất rồi, tất cả không chừa một ai! Lỡ không có ai tới! Lỡ nó mệt mỏi và tê dại đến mức không trụ được nữa! Anne rùng mình nhìn đưa mắt xuống phía dưới, cái đáy sâu xanh thẳm chết người đang dập dờn những cái bóng dài, nhờn nhờn. Trí tưởng tượng của nó bắt đầu vẽ ra đủ mọi khả năng nghiệt ngã nhất.

Rồi, ngay khi con bé nghĩ rằng mình sẽ không thể chịu được cơn đau ở cánh tay và cổ tay thêm giây phút nào nữa thì Gilbert Blythe xuất hiện dưới cầu trên chiếc thuyền của Harmond Andrews!

Gilbert ngước mắt lên và kinh ngạc tột độ khi thấy một khuôn mặt nhỏ nhắn trắng bệch khinh ghét đang nhìn xuống mình bằng cặp mắt to màu xám, sợ hãi nhưng cũng đầy khinh thị."Anne Shirley! Thế quái nào mà cậu lên được đó vậy?" thằng bé thốt lên.

Không chờ câu trả lời, nó đẩy thuyền lại gần trụ cầu rồi với tay ra. Không còn cách nào khác, Anne bám chặt tay Gilbert bò xuống thuyền rồi ngồi đó, lấm lem và giận dữ, lạnh lùng ôm trong tay mớ khăn choàng nhỏ nước tong tong và tấm nhiễu ướt sũng. Thật khó mà giữ được vẻ cao quý trong hoàn cảnh này!

"Chuyện gì xảy ra vậy, Anne?" Gilbert cầm mái chèo lên hỏi.

"Chúng tớ đóng giả Elaine," Anne lạnh nhạt giải thích, không thèm nhìn vị cứu tinh của mình, "và tớ phải trôi xuống Camelot trong cái xuồng – ý tớ là cái thuyền đáy bằng. Thuyền bị rò nên tớ leo lên trụ cầu. Lũ con gái chạy đi cầu cứu. Cậu có thể tốt bụng đưa tớ vào bờ không?"

Gilbert chèo vào bờ và Anne, không thèm nhận sự giúp đỡ, lanh lẹ nhảy lên bờ.

"Tớ rất biết ơn cậu" con bé kiêu ngạo nói trong lúc quay người bước đi. Nhưng Gilbert cũng đã nhảy khỏi thuyền và đặt tay lên cánh tay con bé ngăn lại.

"Anne" thằng bé nói vội vã "xem này. Chúng mình không thể là bạn tốt sao? Mình hết sức xin lỗi vì hồi đó đã cười tóc cậu. Mình không muốn làm cậu giận mà chỉ đùa thôi. Hơn nữa, việc đó qua lâu lắm rồi. Mình nghĩ tóc cậu bây giờ đẹp cực kỳ, thật lòng đấy. Chúng mình làm bạn đi."

Trong một thoáng, Anne chần chừ. Con bé cảm nhận được khuất sau sự nghiêm trang, giận dữ của mình, vừa thức tỉnh một ý thức kỳ lạ rằng biểu hiện nửa rụt rè nửa háo hức trong đôi mắt màu nâu nhạt của Gilbert là thứ gì đó rất tuyệt vời để nhìn. Con tim nó khẽ xao động theo một nhịp đập nhanh lạ kỳ. Nhưng rồi nỗi cay đắng của cơn đau khổ cũ nhanh chóng làm quyết tâm đang lung lay của con bé trở nên cứng rắn hơn. Cảnh tượng hai năm trước tái hiện trong trí nhớ một cách sống động như chỉ mới hôm qua. Gilbert đã gọi nó là "cà rốt" và mang nỗi hổ thẹn của nó phơi ra trước toàn trường. Sự oán giận của con bé, mà đối với người lớn và mọi người khác thì có lẽ cũng buồn cười như chính lý do của nó, dường như tuyệt đối không thuyên giảm và phai nhạt theo thời gian. Nó ghét Gilbert Blythe! Nó sẽ không bao giờ tha thứ cho cậu ta!

"Không" con bé lạnh lùng. "Tớ sẽ không bao giờ làm bạn với cậu, Gilbert Blythe, và tớ cũng không muốn!"

"Thôi được!" Gilbert nhảy trở lại thuyền, hai má đỏ bừng giận dữ. "Mình sẽ không bao giờ đề nghị làm bạn với cậu nữa. Và mình cũng chẳng quan tâm!"

Thằng bé bỏ đi cùng thái độ thách thức đột ngột, còn Anne bước lên con đường nhỏ dốc đứng rậm rạp dương xỉ nằm dưới hàng phong. Con bé ngẩng cao đầu, nhưng nó ý thức được một cảm giác hối hận kỳ lạ. Suýt nữa nó đã ước gì mình trả lời Gilbert khác đi. Dĩ nhiên, thằng bé đã từng sỉ nhục nó nặng nề, nhưng dù sao...! Nói chung, Anne phần nào nghĩ nếu được ngồi xuống khóc một trận cho thỏa sức thì thật nhẹ nhõm biết bao. Con bé thực sự rã rời, nội phản ứng từ nỗi sợ hãi và việc đeo bám đến mức tê dại cả người cũng đủ lắm rồi.

Leo lên được nửa đường thì nó gặp Jane và Diana đang vội vã quay lại hồ trong trạng thái gần như hoàn toàn điên loạn. Chúng không tìm được ai ở Dốc Vườn Cây Ăn Quả, cả hai ông bà Barry đều đi vắng. Đến lúc đó thì Ruby không thể dằn nổi cơn kích động nên cách tốt nhất là bỏ con bé ở đó cho nó trấn tĩnh lại trong khi Jane cùng Diana băng qua rừng Ma Ám và vượt qua suối tới Chái Nhà Xanh. Ở đó, chúng cũng không tìm được ai, vì bà Marilla đã xuống Carmody còn ông Matthew đang làm cỏ trong cánh đồng phía sau.

"Ôi, Anne" Diana thở hổn hển, gục hẳn xuống cổ bạn mà nức nở với sự nhẹ nhõm vui vẻ, "ôi, Anne...tụi mình tưởng...cậu đã...chết đuối...và tụi mình cảm thấy giống như những kẻ sát nhân...vì tụi mình đã bắt...cậu làm...Elaine. Ruby phát cuồng cả lên..ôi, Anne, làm sao cậu thoát được?"

"Mình leo lên một cái trụ cầu," Anne yếu ớt giải thích, "rồi Gilbert tới bằng thuyền của ông Andrews và đưa mình vào bờ."

"Ôi, Anne, cậu ấy thật tuyệt vời! Trời, lãng mạn quá!" Jane nói, cuối cùng cũng lấy đủ hơi để lên tiếng. "Dĩ nhiên sau lần này cậu sẽ nói chuyện với cậu ấy."

"Dĩ nhiên là không" Anne nói ngay, nhất thời trở lại với tinh thần cũ của mình. "Và mình không bao giờ muốn nghe chữ ‘lãng mạn’ nữa. Mình rất xin lỗi vì đã làm các cậu sợ hãi. Tất cả là lỗi của mình. Chắc mình có ngôi sao chiếu mệnh xấu rồi. Mọi việc mình làm đều đẩy mình hoặc những người bạn thân nhất của mình vào rắc rối. Chúng ta đã đi và làm mất chiếc thuyền của cha cậu, Diana, và mình có dự cảm là chúng ta sẽ không được phép chèo thuyền trên hồ nữa."

Dự cảm của Anne chứng tỏ đáng tin hơn mong đợi. Toàn bộ gia đình Barry và Cuthbert đều kinh hoàng tột độ khi được biết về những sự việc xảy ra chiều hôm đó.

"Liệu có khi nào con khôn ngoan ra một chút được không Anne?" bà Marilla rên lên.

"Ồ, có chứ ạ, con nghĩ con sẽ được như vậy, bác Marilla" Anne đáp lại đầy lạc quan. Một trận khóc trút sạch mọi ấm ức trong lòng và thả mình vào nỗi cô độc dễ chịu ở chái đông đã xoa dịu thần kinh con bé và trả nó về với sự vui vẻ thường lệ. "Con nghĩ triển vọng trở nên khôn ngoan của con giờ đây đang sáng sủa hơn bao giờ hết."

"Ta không nhận ra bằng cách nào đấy," bà Marilla nói.

"À" Anne giải thích, "hôm nay con học được một bài học mới đáng giá. Từ khi đến Chái Nhà Xanh con đã phạm nhiều lỗi lầm và mỗi lỗi lầm lại giúp chữa cho con khỏi một khuyết điểm lớn nào đó. Vụ cái cài áo thạch anh giúp con khỏi táy máy với những thứ không thuộc về mình. Vụ rừng Ma Ám giúp con không để trí tưởng tượng chạy quá xa. Cái bánh dầu thuốc giúp con không vô tâm trong nấu nướng. Nhuộm tóc chữa cho con hết phù phiếm. Giờ con chẳng nghĩ gì tới tóc và mũi nữa – ít nhất cũng rất hiếm khi. Và lỗi lầm hôm nay sẽ chữa cho con chứng hết lãng mạn. Con đã đi tới kết luận là không ích gì khi cố gắng lãng mạn ở Avonlea. Có lẽ lãng mạn là chuyện khá dễ dàng trong thành Camelot hàng trăm năm trước, nhưng thời nay nó lại không được đánh giá đúng mức. Con cảm thấy khá chắc chắn rằng bác sẽ sớm nhận thấy tiến bộ vượt bậc của con trong vấn đề này, bác Marilla."

"Chắc chắn ta cũng hy vọng vậy rồi," bà Marilla nói giọng hoài nghi.

Nhưng ông Matthew, nãy giờ vẫn ngồi câm lặng trong một góc, đặt tay lên vài Anne khi bà Marilla đã đi khỏi.

"Đừng từ bỏ tất cả lãng mạn của con, Anne," ông thầm thì rụt rè "có một chút thì cũng là chuyện tốt – tất nhiên là đừng quá nhiều – những cứ giữ lại một chút đi, Anne, giữ lại một chút đi."
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 29. Một kỷ nguyên trong đời Anne
Anne đưa bò từ đồng cỏ phía sau qua đường Tình Nhân về nhà. Đó là một tối tháng Chín, mọi khoảng trống trong rừng đều ngập tràn ánh hoàng hôn màu ngọc bích. Đây là con đường loang ánh sáng, nhưng hầu hết đã chìm trong bóng tối dưới những hàng phong và khoảng trống giữa các cây vân sam được đổ đầy bằng ánh chạng vạng tím trong vắt như rượu nhẹ. Gió lùa qua ngọn cây, không có thứ âm nhạc nào trên đời ngọt ngào hơn tiếng gió dạo đàn trên những cành vân sam buổi tối.

Đàn bò bình thản dạo bước trên đường còn Anne mơ màng bám theo sau, đọc to khổ thơ chiến tranh từ Marmion – cũng là một phần trong chương trình tiếng Anh mùa đông trước mà cô Stacy bắt chúng phải học thuộc lòng – và hân hoan với những dòng thơ dồn dập cùng tiếng giáo mác loảng xoảng trong tưởng tượng. Khi đọc tới mấy câu:

Những binh sĩ cầm giáo kiên cường vẫn tìm đường

Qua rừng già mịt mùng dày đặc,

con bé dừng lại trong cơn ngây ngất để nhắm mắt mường tượng ra chính mình cũng có mặt giữa những người anh hùng ấy. Khi mở mắt ra, nó thấy Diana đang bước qua cánh cổng dẫn vào đồng cỏ nhà Barry và trông có vẻ nghiêm trọng đến nỗi Anne đoán ngay sẽ có tin mới. Nhưng nó sẽ không phản bội sự tò mò của mình quá nhanh.

"Tối nay không giống một giấc mơ tím sao, Diana? Nó làm mình thấy vui mừng biết bao khi được sống. Sáng nào mình cũng nghĩ buổi sáng là đẹp nhất, nhưng khi đêm về thì mình nghĩ đêm còn đáng yêu hơn."

"Tối nay rất dễ chịu," Diana nói "nhưng ôi, mình có tin cực choáng đây, Anne. Đoán thử xem. Cậu được đoán ba lần"

"Cuối cùng Charlotte Gillis sẽ làm đám cưới trong nhà thờ và cô Allan muốn chúng ta nhận nhiệm vụ trang trí"

"Không. Bồ của Charlotte không đồng ý, vì từ trước đến nay chưa có ai làm đám cưới trong nhà thờ và anh ta nghĩ nó có vẻ quá giống đám ma. Kém quá đi mất, vì nó vui đến thế kia mà. Đoán lại đi."

"Mẹ của Jane sẽ cho bạn ấy tổ chức sinh nhật?"

Diana lắc đầu, niềm vui nhảy múa trong đôi mắt đen.

"Mình không đoán nổi là chuyện gì," Anne tuyệt vọng nói "trừ khi Moody Spurgeon Macpherson đưa cậu về nhà sau buổi cầu nguyện tối qua. Có không?"

"Mình không tưởng tượng nổi" Diana thốt lên giận dữ. "Mình sẽ chẳng khoe khoang khoác lác nếu cậu ta làm vậy, cái tên quái quỷ đó! Mình biết thể nào cậu cũng không đoán được mà. Hôm nay mẹ nhận được thư của bà dì Josephine và dì muốn cậu và mình xuống thị trấn vào thứ ba tới rồi ở lại để đi cùng bà tới triển lãm đấy!"

"Ôi, Diana," Anne thầm thì, cảm thấy cần phải dựa vào một cây phong để đứng cho vững, "cậu nói thật chứ? Nhưng mình e rằng bác Marilla sẽ không cho mình đi đâu. Bác ấy sẽ nói là không thể khuyến khích chuyện đi lang thang được. Bác ấy mới nói thế tuần trước khi Jane mời mình cùng đi xe ngựa hai chỗ đến buổi hòa nhạc của người Mỹ ở khách sạn White Sands. Mình muốn đi, nhưng bác Marilla nói tốt hơn mình nên ở nhà học bài và Jane cũng vậy. Mình thất vọng cay đắng, Diana. Mình thấy đau xé lòng đến nỗi không thèm cầu nguyện khi đi ngủ nữa. Nhưng mình hối hận nên nửa đêm đã dậy để cầu nguyện."

"Mình có cách này" Diana nói. "Chúng mình sẽ nhờ mẹ xin bác Marilla. Như vậy khả năng bác ấy cho phép cậu đi sẽ cao hơn, và nếu bác ấy đồng ý thì chúng mình sẽ được vui chơi thoải mái, Anne. Mình chưa bao giờ đến triển lãm và thật bực mình khi nghe những đứa con gái khác kể lể về chuyến đi của chúng. Jane và Ruby đi hai lần rồi, mà năm nay cũng sẽ đi nữa."

"Mình sẽ không nghĩ ngợi gì về chuyện đó cho đến khi biết rõ có thể đi hay không," Anne khiên quyết nói. "Nếu cứ suy nghĩ và rồi thất vọng thì sẽ quá sức chịu đựng của mình. Nhưng nếu được đi, mình sẽ rất vui vì lúc đó áo khoác mới của mình đã xong xuôi. Bác Marilla nghĩ mình không cần áo khoác mới. Bác ấy nói cái áo cũ của mình vẫn còn rất tốt để mặc thêm một mùa đông nữa và rằng mình phải hài lòng với cái váy mới. Cái váy rất đẹp, Diana – màu xanh nước biển và được may rất thời trang. Bây giờ bác Marilla luôn may váy cho mình rất hợp thời trang, vì bác ấy bảo sẽ không đời nào để bác Matthew đi nhờ bà Lynde may nữa. Mình vui quá. Sẽ dễ dàng trở nên ngoan ngoãn hơn nếu quần áo hợp thời trang. Ít nhất là dễ với mình. Mình nghĩ nó không tạo ra nhiều khác biệt đối với những người ngoan ngoãn từ trong bản chất. Nhưng bác Matthew nói mình phải có áo khoác mới, nên bác Marilla mua một mảnh vải len xanh rất đáng yêu và giờ nó đang được một thợ may trang phục nữ thực thụ ở Carmody may. Đến tối thứ bảy này sẽ xong và mình cố không tưởng tượng đến cảnh mình bước đi giữa nhà thờ ngày chủ nhật trong chiếc áo khoác và mũ mới, vì mình e rằng tưởng tượng những điều như thế không đúng đắn. Nhưng nó cứ nhảy vào tâm trí mình cho dù mình không muốn. Mũ của mình đẹp vô cùng. Bác Matthew mua cho mình hôm mấy bác cháu xuống Carmody. Nó là một cái mũ nhung nhỏ màu xanh, kiểu đang rất mốt, với dây vàng và núm tua. Cái mũ mới của cậu thật thanh lịch, Diana ạ, mà cũng rất hợp nữa. Khi nhìn thấy cậu bước vào nhà thờ tuần trước tim mình tràn ngập niềm hãnh diện khi nghĩ cậu là bạn thân nhất của mình. Cậu có cho rằng chúng ta nghĩ quá nhiều về quần áo là sai không? Bác Marilla nói như thế rất là tội lỗi. Nhưng đó là một đề tài hấp dẫn, phải không?"

Bà Marilla đồng ý để Anne xuống thị trấn và thỏa thuận là đến thứ ba tuần sau ông Barry sẽ đi cùng bọn nhỏ. Charlottetown cách đến ba mươi dặm đường mà ông Barry muốn đi về trong ngày nên sẽ khởi hành thật sớm. Nhưng Anne coi tất cả đều là chuyện vui và đã dậy trước khi mặt trời mọc sáng thứ ba. Liếc mắt ra ngoài cửa sổ, con bé an tâm rằng ngày hôm đó sẽ đẹp, vì khắp bầu trời phía đông đằng sau những cành vân sam của Rừng Ma Ám đều óng ánh như bạc và không một gợn mây. Qua khe hở giữa hàng cây, một ánh sáng khác đang rạng ngời trong chái Tây của Dốc Vườn Quả, dấu hiệu cho thấy Diana cũng đã thức dậy.

Anne đã thay sẵn quần áo trong lúc ông Matthew đốt lò và chuẩn bị bữa sáng sẵn sàng khi bà Marilla xuống bếp, nhưng con bé phấn khích đến độ ăn không nổi. Sau bữa sáng, Anne diện mũ và áo khoác mới rồi vội vã băng qua suối, xuyên qua rừng vân sam đến Dốc Vườn Quả. Ông Barry và Diana đang đợi con bé, vậy là họ nhanh chóng lên đường.

Đó là một chuyến đi dài, nhưng Anne và Diana tận hưởng từng phút một. Thật vui khi chạy xe rầm rầm trên những con đường ẩm ướt trong ánh ban mai đỏ ối đang len lỏi khắp những cánh đồng đang vụ gặt. Không khí trong lành mát lạnh, làn sương lam mỏng manh cuộn mình trên khắp thung lũng và bồng bềnh trôi từ đỉnh đồi xuống. Có lúc con đường xuyên qua rừng nơi phong đã bắt đầu treo cờ đỏ, lúc lại băng qua những cây cầu bắc ngang sông khiến Anne co rúm lại bởi cảm giác nửa sợ hãi nửa thích thú xưa kia, cũng có lúc vòng quanh bờ cảng và chạy qua một cụm lều câu cá nhỏ bạc màu sương gió, rồi lại leo lên đồi nơi từ đó có thể nhìn thấy bầu trời xanh mờ sương khói hay một dải đồi uốn lượn xa xa, nhưng cho dù họ đi qua nơi nào thì nơi đó cũng có vô vàn điều thú vị để bàn luận. Gần trưa thì mấy bác cháu tới được thị trấn và tìm ra đường đến "Beechwood". Đó là một biệt thự cổ rất đẹp, tách biệt với phố phường, nằm trong một nơi khuất nẻo với những cây du xanh um và sồi rậm rạp. Bà Barry đón chúng ở cửa, đôi mắt đen sắc sảo lấp lánh niềm vui.

"Vậy là cuối cùng con cũng đến thăm ta rồi, con bé Anne này" bà nói. "Chao ôi, bé con, con lớn thế này rồi! Con cao hơn ta rồi đấy. Con cũng xinh hơn trước nhiều. Nhưng ta dám chắc chẳng cần người khác nói thì con cũng biết mấy chuyện đó rồi."

"Thật sự là không ạ" Anne hớn hở nói. "Con biết mình không còn nhiều tàn nhang như trước nữa, nên con rất biết ơn về chuyện đó, nhưng thật tình con không dám nghĩ còn có sự cải thiện nào khác. Con rất mừng vì bà nghĩ là có, bà Barry."

Nhà bà Barry được trang hoàng với "vẻ tráng lệ khủng khiếp" như sau này Anne kể với bà Marilla. Hai con bé nhà quê có phần luống cuống trước sự lộng lẫy của phòng khách nơi bà Barry bỏ chúng lại để đi xem bữa trưa thế nào rồi."Nơi này không giống với một lâu đài sao?" Diana thầm thì. "Mình chưa bao giờ tới nhà bà dì Josephine và mình không biết nó lớn thế này. Mình chỉ ước gì Julia Bell có thể nhìn thấy nơi này – nó cứ suốt ngày lên mặt về phòng khách của mẹ nó."

"Thảm nhung" Anne thở dài vui sướng "và rèm lụa! Mình từng mơ đến đến những thứ này, Diana. Nhưng cậu biết không, rốt cuộc mình không thấy thoải mái lắm. Có quá nhiều thứ trong phòng này và tất cả đều lộng lẫy đến mức không còn chỗ cho trí tưởng tượng nữa. Có một điều an ủi khi nghèo – cậu sẽ có nhiều thứ để tưởng tượng hơn."

Ở lại trong thị trấn là điều mà Anne và Diana đã mong mỏi từ lâu. Từ ngày đầu tiên cho tới ngày cuối cùng, quãng thời gian này luôn tràn ngập niềm vui.

Hôm thứ tư bà Barry đưa chúng đến hội chợ và cho chúng ở đó cả ngày.

"Thật lộng lẫy" Anne kể lại cho bà Marilla nghe sau đó. "con chưa bao giờ tưởng tượng ra thứ gì thú vị đến vậy. Con thật sự không biết khu nào thú vị nhất. Con nghĩ con thích ngựa, hoa và đồ thêu nhất. Josie Pye đoạt giải nhất về đan len. Con thật tâm vui mừng vì bạn ấy được giải. Và con cũng mừng là mình cảm thấy vui, vì điều đó chứng tỏ con đã tiến bộ rồi, bác có nghĩ vậy không. Marilla, khi con có thể mừng cho thành công của Josie? Ông Harmon Andrews đoạt giải nhì cho đám táo Gravenstein còn ông Bell đoạt giải nhất thi heo. Diana nói thật nực cười khi giám thị trường học Chủ nhật giành giải về heo, nhưng con không hiểu tại sao. Bác có hiểu không ạ? Bạn ấy nói sau này bạn ấy sẽ luôn nghĩ về chuyện đó mỗi khi ông ấy trang nghiêm cầu nguyện. Clara Lousie Macpherson đoạt giải vẽ tranh, bà Lynde đoạt giải nhất về pho mát và bơ tự làm. Như vậy Avonlea đã có những đại diện rất xứng đáng, phải không ạ? Hôm ấy bà Lynde cũng ở đó và con không hề biết mình thật sự yêu quý bà ấy đến thế nào mãi cho đến khi con nhìn thấy gương mặt thân quen của bà ấy giữa những người xa lạ. Có hàng ngàn người ở đó, bác Marilla. Nó khiến con thấy mình tầm thường khủng khiếp. Và bà Barry đưa chúng con lên khán đài xem đua ngựa. Bà Lynde không đi, bà ấy nói đua ngựa là trò ghê tởm và vì là một thành viên nhà thờ nên bà ấy nghĩ bổn phận bắt buộc của mình là nêu tấm gương tốt bằng cách tránh xa nó ra. Nhưng ở đó có quá nhiều người nên con không tin sự vắng mặt của bà Lynde sẽ gây được chú ý cho lắm. Tuy vậy, con nghĩ mình không nên coi đua ngựa thường xuyên vì chúng thật hấp hẫn kinh khủng. Diana phấn khích đến nỗi đề nghị cá với con mười xu rằng con ngựa đỏ sẽ thắng. Dù không tin nó sẽ thắng nhưng con từ chối cược, vì con muốn kể cho cô Allan mọi thứ, mà chuyện đó thì chắc chắn không kể được rồi. Làm bất kì chuyện gì mà không thể kể lại cho vợ mục sư thì chuyện đó lúc nào cũng là sai rồi. Có bạn là vợ mục sư thì cũng ngang bằng có them một lương tâm nữa vậy. Mà con rất mừng rằng mình đã không cược, vì con ngựa đỏ thắng thật, sém tí là con thua mười xu rồi. Vậy nên bác thấy đó, đạo đức cũng có phần thưởng của nó. Chúng con thấy một người đàn ông bay trong khinh khí cầu. Con cũng thích được bay trong khinh khí cầu, bác Marilla à, nó đúng là rùng cả mình, và tụi con gặp một người bán vận mệnh. Bác trả cho ông ấy mười xu và một con chim nhỏ sẽ nhặt lá số của bác ra. Bà Barry cho Diana và con mỗi đứa mười xu để xem bói. Lá số của con viết là con sẽ cưới một người da đen rất giàu có và con sẽ vượt biển để sinh sống ở một nơi khác. Từ lúc đó con chăm chú quan sát tất cả những người đàn ông da đen con gặp, nhưng con không quá quan tâm đến một ai, mà dù sao đi nữa con nghĩ vẫn còn quá sớm để tìm anh ấy. Ôi, đó là một ngày không-thể-nào-quên, bác Marilla. Con mệt đến nỗi cả đêm không ngủ được. Bà Barry cho tụi con ngủ trong phòng dành cho khách đúng như đã hứa. Căn phòng thật thanh nhã, bác Marilla, nhưng không hiểu sao ngủ trong phòng dành cho khách không giống như những gì con từng nghĩ. Những thứ ta vô cùng mong muốn khi còn nhỏ thì đến lúc đạt được rồi lại dường như không có nổi một nửa cảm giác diệu kỳ.

Thứ năm, hai bé gái được chở đi công viên và đến tối bà Barry đưa chúng tới nhạc viện tham dự buổi hòa nhạc có sự trình diễn của một giọng opera nữ nổi tiếng. Với Anne, buổi tối đó là một giấc mộng hạnh phúc huy hoàng.

"Ôi, bác Marilla, thật không tài nào diễn tả được. Con phấn khích đến nỗi không nói nên lời, nên bác có thể biết nó như thế nào rồi đấy. Con chỉ ngồi trong sự im lặng mê đắm. Bà Selitsky xinh đẹp không chê vào đâu được và mặc váy sa tanh trắng đính kim cương. Nhưng khi bà cất giọng hát thì con không thể nghĩ tới bất kỳ điều gì nữa. Ôi, con không thể diễn tả nổi cảm giác của mình. Nhưng con cảm thấy dường như mình không bao giờ còn gặp khó khăn khi cố gắng trở thành người tốt nữa. Con có cảm giác giống như khi ngước nhìn những vì sao. Mắt con ứa lệ, nhưng, ôi đó là những giọt nước mắt hạnh phúc tột độ. Con vô cùng nuối tiếc khi nó phải kết thúc, và con nói với bà Barry rằng không biết làm sao con có thể trở lại cuộc sống bình thường được nữa. Bà ấy nói nếu mấy bà cháu sang bên kia đường ăn kem thì có thể giúp ích cho con. Nghe chẳng thơ mộng chút nào, nhưng con kinh ngạc nhận ra quả đúng vậy thật. Kem rất ngon, bác Marilla, và ngồi ăn ở đó lúc mười một giờ đêm thì thật đáng yêu và phóng khoáng. Diana tin rằng bạn ấy được sinh ra cho cuộc sống thành thị. Bà Barry hỏi ý con thế nào, nhưng con nói con phải suy nghĩ thật nghiêm túc trước khi có thể cho bà ấy biết suy nghĩ thật sự của mình. Nên con đã suy nghĩ cẩn thận sau khi lên giường đi ngủ. Đó là lúc tốt nhất để nghĩ cho thông mọi việc. Rồi con đi đến kết luận, bác Marilla ạ, rằng con không được sinh ra cho cuộc sống thành thị và con mừng là như thế. Thật tuyệt nếu thỉnh thoảng có thể ăn kem trong một nhà hàng sang trọng lúc mười một giờ khuya, tuy nhiên nếu là chuyện thường lệ thì con thà ngủ ngon lành ở chái đông lúc mười một giờ nhưng ngay cả khi đã ngủ vẫn biết rằng các vì sao đang nhấp nháy ngoài kia và gió vẫn đang thổi trong rừng linh sam bên kia suối. Con nói với bà Barry như vậy vào bữa điểm tâm và bà ấy đã cười phá lên. Nói chung bà Barry cười trước bất cứ điều gì con nói, ngay cả khi con đề cập đến những chuyện nghiêm túc nhất. Con nghĩ mình không thích vậy, bác Marilla, vì con không cố tỏ ra hài hước. Nhưng bà ấy rất hiếu khách và tiếp đãi chúng con rất trọng thể."

Thứ sáu là ngày về nhà và ông Barry đánh xe đến đón hai cô gái.

"Thế đấy, ta hy vọng các con đã được vui vẻ" bà Barry nói khi chào tạm biệt chúng"

"Chúng con vui vẻ chứ ạ" Diana đáp.

"Còn con, Anne?"

"Con đã tận hưởng từng giây từng phút" Anne nói, bất giác quàng tay quanh cổ bà cụ và hôn lên đôi má nhăn nheo của bà. Diana chẳng bao giờ dám làm thế và cảm thấy có phần kinh hãi trước sự tự do của Anne. Nhưng bà Barry thì hài lòng, và bà đứng trên hiên nhìn theo chiếc xe ngựa cho đến khi nó đi khuất tầm mắt. Rồi bà thở dài quay trở vào ngôi nhà rộng lớn của mình. Nó dường như quá hiu quạnh khi thiếu vắng những con người trẻ trung lanh lợi đó. Thật tình mà nói bà Barry là một bà lão hơi ích kỉ, chẳng quan tâm đến ai ngoài bản thân mình. Bà đánh giá người khác chỉ dựa trên tiêu chí họ có giá trị sử dụng hay có làm bà vui không. Anne làm bà vui, và do đó được bà cụ trọng đãi. Nhưng bà Barry nhận ra mình nghĩ về những bài diễn văn quái lạ của Anne ít hơn so với nghĩ về sự sôi nổi mới mẻ, những cảm xúc trong sáng, nét lôi cuốn nhẹ nhàng và vẻ đáng yêu trong mắt môi con bé.

"Ta từng nghĩ Marilla Cuthbert là một bà già ngu ngốc khi nghe nói cô ta nhận nuôi một bé gái từ trại mồ côi" bà thầm nhủ "nhưng ta cho rằng rốt cuộc đó cũng chẳng phải sai lầm. Nếu trong nhà lúc nào cũg có một đứa bé như Anne thì ta sẽ sống tốt và vui vẻ hơn."

Anne và Diana thấy chặng đường về nhà cũng dễ chịu như chặng đi, thật ra là dễ chịu hơn nhiều, vì chúng ý thức được hạnh phúc về mái ấm đang đợi mình ở cuối đường. Mặt trời đã xế bóng khi mấy bác cháu băng qua White Sands và quẹo vào đường bờ biển. Xa xa, những ngọn đồi Avonlea vươn lên sẫm tối giữa bầu trời vàng nghệ. Sau lưng chúng, vầng trăng nhô lên từ mặt biển mỗi lúc một tỏa sáng rực rỡ rạng ngời. Mỗi vịnh nhỏ nằm dọc con đường uốn lượn đều là một kỳ quan của những gợn sóng nhảy múa. Những con sóng vỡ tan trên các vách đá phía dưới kèm theo một tiếng rào rào khe khẽ và mùi vị của biển thấm đẫm trong không khí mát lành.

"Ôi, thật tuyệt vời khi được sống và được về nhà" Anne thở ra.

Khi con bé băng qua cây cầu gỗ bắc ngang suối, đèn bếp ở Chái Nhà Xanh nhấp nháy với nó như một lời chào thân thiện, và qua khung cửa mở, ngọn lửa lò sưởi bập bùng chiếu ánh sáng đỏ rực ấm áp chống lại giá rét đêm thu. Anne hân hoan chạy lên đồi rồi vào bếp, nơi bữa tối nóng hổi đã chờ sẵn trên bàn.

"Vậy là con về rồi hả?" bà Marilla nói, gập mẫu đan của mình lại.

"Vâng, và ôi, thật tuyệt biết bao khi được trở về" Anne vui vẻ nói "Con có thể hôn bất cứ thứ gì, ngay cả cái đồng hồ. Bác "Marilla, gà nướng! Không phải bác nấu món đó cho con đó chứ!"

"Phải, ta nấu cho con đấy" bà Marilla nói. "Ta nghĩ hẳn con rất đói sau một chuyến đi như vậy và cần thứ gì thật ngon miệng. Thay đồ nhanh lên, chúng ta sẽ ăn tối ngay khi bác Matthew về. Phải nói là ta rất mừng vì con đã về. Không có con nơi này cô quạnh khủng khiếp, và ta chưa bao giờ trải qua bốn ngày dài đến thế."

Sau bữa tối, Anne ngồi trước ngọn lửa, giữa ông Matthew và bà Marilla, kể lại chi tiết chuyến đi của mình.

"Con đã có một khoảng thời gian tuyệt vời" con bé vui vẻ kết luận "và con cảm thấy nó đánh dấu một kỷ nguyên trong cuộc đời con. Nhưng điều tuyệt vời nhất là cuối cùng đã được về nhà."
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 30. Thành lập lớp Queen
Bà Marilla đặt món đồ đang đan lên đùi rồi ngả lưng vào ghế. Bà thấy mỏi mắt và lơ đãng nghĩ chắc phải cân nhắc chuyện đổi kính khi xuống thị trấn lần tới, vì mắt bà dạo gần đây rất hay mỏi.

Trời gần như tối om vì ánh chạng vạng giữa tháng Mười Một đã bao trùm Chái Nhà Xanh và trong bếp chỉ có độc ánh sáng hắt ra từ ngọn lửa đỏ nhảy múa trong lò.

Anne cuộn tròn trên tấm thảm trước lò sưởi, nhìn đăm đăm vào ánh sáng rực rỡ vui vẻ nơi ánh mặt trời của hàng trăm mùa hè đang được lọc qua đống gỗ phong dùng làm củi. Con bé vốn đang đọc, nhưng cuốn sách đã trượt xuống sàn và giờ nó đang mơ mộng với một nụ cười trên đôi môi hé mở. Những tòa lầu đài láp lánh ở Tây Ban Nha đang dần hiện lên qua những lớp sương mù và dải cầu vồng, trong trí tưỏng tượng sống động của con bé; những cuộc phiêu lưu diệu kỳ và hấp dẫn đang đến với nó trong cõi mộng - những cuộc phiêu lưu mà lần nào cũng kết thúc trong thắng lợi và không bao giờ kéo nó vào mấy vụ rắc rối giống như trong đời thực.

Bà Marilla nhìn con bé với một vẻ dịu dàng vốn dĩ chưa từng chịu hé lộ trong bất cứ thứ ánh sáng nào soi tỏ hơn thứ ánh sáng lờ mờ pha trộn giữa ánh lửa và bóng tối này. Bài học về một tình yêu nên được thoải mái thể hiện qua lời nói và cái nhìn cởi mở là thứ bà Marilla không bao giờ học được. Nhưng bà đã học đuợc cách yêu thương con bé mắt xám gầy guộc này bằng một tình cảm còn sâu đậm và mạnh mẽ hơn bắt nguồn từ chính sự thầm lặng của nó. Quả thật tình yêu ấy đã khiến bà sợ rằng mình sẽ nuông chiều con bé quá mức. Bà có một cảm giác khó chịu rằng thật tội lỗi khi ai đó trao quá nhiều tình cảm cho người khác giống như cách bà trao tình cảm của mình cho Anne, và có lẽ bà đã vô tình thể hiện sự ăn năn hối lỗi vì điều này bằng cách tỏ ra nghiêm khắc và khắt khe với Anne nhiều hơn mức con bé đáng lẽ phải chịu nếu nó ít thân thiết với bà hơn. Dĩ nhiên bản thân Anne không biết bà Marilla yêu nó đến thế nào. Đôi khi con bé buồn bã nghĩ rằng bà Marilla rất khó chiều và đặc biệt thiếu cảm thông cũng như thấu hiểu. Nhưng nhớ lại những gì mình nợ bà Marilla, con bé lại tự mắng mình vì đã suy nghĩ như thế.

"Anne," bà Marilla đột nhiên nói, "Chiều nay khi con ra ngoài với Diana cô Stacy đã đến đây."

Anne giật mình, quay trở về từ thế giới khác của nó kèm theo một tiếng thở dài.

"Vậy ạ? Ôi, tiếc là con lại không có nhà. Sao bác không gọi con, bác Marilla? Diana và con chỉ ở trong rừng Ma Ám thôi. Lúc này trong rừng rất đáng yêu. Tất cả những tạo vật bé nhỏ trong rừng - dương xỉ, vú sữa và phù du lùn – đều phải đi ngủ, cứ như thể ai đó đã giấu chúng dưới tấm chăn bằng lá cây cho đến khi xuân về. Con nghĩ người đó chính là cô tiên xám bé nhỏ choàng chiếc khăn cầu vồng đã nhón chân dạo bước trong đêm trăng sáng hôm qua. Tuy vậy Diana không chuyện trò nhiều về điều đó. Diana không sao quên được mẹ bạn ấy đã mắng thế nào về chuyện tưởng tượng ra lũ ma trong rừng Ma Ám. Trận mắng ấy ảnh hưởng rất xấu đến trí tưởng tượng của Diana. Nó hỏng mất rồi. Bà Lynde nói Myrtle Bell đã hỏng mất rồi. Con hỏi Ruby Gillis sao Myrtle lại hỏng mất rồi và Ruby bảo có lẽ là vì anh chàng của Myrtle đã quay lưng với chị ấy. Ruby Gillis chẳng nghĩ được gì ngoài mấy tên con trai và càng lớn lại càng tệ. Cứ ở đúng chỗ của mình thì anh chàng nào cũng hay ho cả, nhưng chẳng có gì tốt đẹp nếu kéo họ vào tất cả mọi chuyện, phải không ạ? Diana và con đang suy nghĩ nghiêm túc đến chuyện hứa với nhau là chúng con sẽ không bao giờ lấy chồng mà sẽ làm những bà cô già dễ thương sống bên nhau mẵi mãi. Tuy nhiên Diana vẫn chưa quyết định vì bạn ấy nghĩ có lẽ sẽ cao quý hơn nếu cưới một chàng trai hư hỏng, sôi nổi, hoang dã rồi cải tạo hắn. Giờ Diana và con nói rất nhiều về những vấn đề nghiêm túc, bác biết đó. Tụi con cảm thấy mình đã lớn lên nhiều rồi nên không thích hợp để nói mấy chuyện trẻ con nữa. Sắp mười bốn tuổi là một vấn đề trọng đại, bác Marilla ạ. Thứ Tư tuần trước cô Stacy đã dẫn toàn bộ đám con gái trong độ tuổi thanh thiếu niên tụi con xuống suối và nói về chuyện đó. Cô nói chúng con có cẩn thận đến đâu chăng nữa cũng vẫn không thừa đối với những thói quen mà chúng con dần hình thành và những lý tưởng chúng con đạt được trong lứa tuổi thiếu niên này, vì đến khi hai mươi tuổi, tính cách của chúng con sẽ phát triển và đặt nền tảng cho toàn bộ cuộc sống tương lai. Và cô ấy nói nếu nền tảng chông chênh thì chúng ta không bao giờ có thể xây dựng bất cứ thứ gì đáng giá trên đó. Diana và con nói về vấn đề đó suốt dọc đường từ trường về nhà. Tụi con cảm thấy cực kỳ trọng đại, bác Marilla. Và tụi con quyết định sẽ thật sự cố gắng hình thành nên những thói quen đúng đắn, học tất cả những gì có thể và khôn ngoan hết mực, để đến khi hai mươi tuổi tính cách của tụi con sẽ phát triển một cách đúng đắn. Thật không có gì king khủng hơn khi nghĩ đến chuyện mình hai mươi tuối, bác Marilla. Nghe có vẻ già và trưởng thành đến dễ sợ. Nhưng sao trưa nay cô Stacy lại đến đây ạ?"

"Đó chính là điều ta muốn nói với con, Anne, nếu con cho ta cơ hội chen lời vào. Cô ấy nói chuyện về con."

"Về con?" Anne có vẻ sợ hãi. Rồi con bé đỏ mặt thốt lên: "Ôi, con biết cô ấy nói gì rồi. Con đã định kể với bác, Marilla, thực tình con định làm thế nhưng lại quên mất. Chiều hôm qua ở trường, cô Stacy bắt gặp con đang đọc Ben Hur trong khi đáng lẽ phải học về lịch sử Canada. Jane Andrews đã cho con mượn. Con đọc nó trong giờ ăn và vừa tới đoạn đua xe ngựa thì phải vào học. Con khao khát muốn biết nó tiếp diễn thế nào - mặc dù con cảm thấy chắc chắn Ben Hur sẽ thắng, vì nếu không thì sẽ chẳng công bằng thơ mộng tí nào - nên con để mở cuốn lịch sử trên mặt bàn rồi nhét quyển Ben Hur xuống giữa bàn và đầu gối. Trông con giống hệt như đang nghiên cứu lịch sử Canada, bác biết đấy, trong khi suốt thời gian đó con miệt mài đọc Ben Hur. Con say sưa đến nỗi không để ý là cô Stacy đã đi xuống giữa lớp cho đến khi đột nhiên con ngước mắt lên và thấy cô đang nhìn con vẻ trách móc. Con không thể diễn tả được con xấu hổ đến chừng nào, bác Marilla, nhất là khi con nghe tiếng Jolie Pye cưòi khúc khích. Cô Stacy tịch thu cuốn Ben Hur, nhưng cô không nói lời nào. Cô giữ con lại vào giờ ra chơi và nói chuyện với con. Cô nói con đã rất sai trong hai chuyện. Thứ nhất, con đang phí thời gian lẽ ra phải dành cho việc học; thứ hai, con lừa dối cô giáo khi cố làm ra vẻ đang đọc bài lịch sử trong khi thật ra là đọc truyện. Cho đến tận lúc đó, bác Marilla, con mới nhận ra những gì con làm chính là hành vi dối trá. Con bị sốc. Con khóc cay đắng cầu xin cô Stacy tha thứ và hứa sẽ không bao giờ tái phạm; và con xin chịu phạt bằng cách không đọc Ben Hur trong suốt một tuần, thậm chí không xem cuộc đua xe ngựa đó diễn tiến thế nào. Nhưng cô Stacy nói cô không yêu cầu chuyện đó và tha thứ cho con vô điều kiện. Vì vậy con nghĩ cô ấy không tốt lắm khi cuối cùng lại đến đây kể cho bác nghe."

"Cô Stacy chẳng đả động gì đến chuyện đó, Anne, chỉ là con có tật giật mình thôi. Con không được phép mang truyện đến trường. Dù sao đi nữa con cũng đọc nhiều tiểu thuyết quá rồi đấy. Khi còn nhỏ ta còn không được phép nhìn tới một cuốn tiểu thuyết nữa là."

"Ôi, sao bác có thể gọi Ben Hur là tiểu thuyết trong khi nó là cuốn sách mộ đạo đến vậy?" Anne phải đối."Dĩ nhiên nó hơi quá hồi hộp để đọc hẳn vào ngày Chủ nhật, và con chỉ đọc nó những ngày trong tuần thôi. Giờ đây con không đọc bất kỳ cuốn sách nào trừ khi cô Stacy hay cô Allan nghĩ nó là một cuốn đáng cho bé gái mười ba tuổi chín tháng đọc. Cô Stacy đã bắt con hứa như vậỵ. Có hôm cô ấy phát hiện con đang đọc cuốn ‘Bí ẩn khủng khiếp của hội trường ma ám’. Nó là cuốn Ruby Gillis cho con mượn, và ôi, bác Marilla, nó hấp dẫn đến sởn gai ốc. Nó làm con rợn hết cả tóc gáy. Nhưng cô Stacy nói cuốn sách đó rất ngu ngốc, không lành mạnh, và cô yêu cầu con không đọc nó hay bất cứ cuốn nào như thế nữa. Con không phản đối chuyện hứa không đọc bất cứ cuốn nào như thế nữa, nhưng thậtkhổ sở khi phải trả cuốn đó lại mà không biết kết thúc thế nào. Nhưng tình yêu dành cho cô Stacy đã vượt qua thử thách và con đã làm được. Thật tuyệt biết bao, bác Marilla, những gì ta có thể làm khi thật sự muốn làm vui lòng người nào đó."

"Thôi được rồi, chắc ta đi thắp đèn làm việc thôi," bà Marilla nói. "Ta thấy rõ ràng con không muốn nghe xem cô Stacy nói gì. Con quan tâm đến âm thanh phát ra từ lưỡi mình nhiều hơn bất cứ thứ gì khác."

"Ôi, quả thật, bác Marilla, con muốn nghe chứ ạ," Anne kêu lên giọng ăn năn. "Con sẽ không nói thêm lời nào nữa - không một lời. Con biết mình nói quá nhiều, nhưng thật sự con vẫn đang cố khắc phục mà, và dù con nói hơi quá nhiều, nhưng chỉ cần bác biết có bao nhiêu điều con đã không nói cho dù rất muốn, bác sẽ nhận thấy những nỗ lực của con. Xin hãy nói đi, bác Marilla."

"Thôi được, cô Stacy muốn thành lập một lớp học gồm những học sinh ưu tú dự định thi vào trường Queen.Cô ấy tính dạy thêm cho lớp đó một tiếng sau giờ học. Và cô ấy tới hỏi Matthew và ta xem liệu chúng ta có muốn cho con tham gia không. Con nghĩ sao, Anne? Con có muốn học ở trường Queen và trở thành cô giáo không?"

"Ôi, bác Marilla!," Anne quỳ thẳng dậy và siết chặt hai tay. "Đó là giấc mơ của đời con... nghĩa là, từ sáu tháng nay, từ khi Ruby và Jane bắt đầu nói về chuyện học cho kỳ thi tuyển. Nhưng con không nói gì về chuyện đó vì con nghĩ nó hoàn toàn vô ích. Con rất muốn trở thành cô giáo. Nhưng chẳng phải nó tốn kém khủng khiếp sao? Ông Andrews nói ông ấy tốn cả một trăm năm mươi đô la để Prissy học xong mà Prissy còn không dốt môn hình học đấy nhé."

"Ta nghĩ con không cần bận tâm chuyện đó. Khi Matthew và ta nhận con về, chúng ta đã quyết tâm sẽ cố gắng hết sức và sẽ cho con một nền giáo dục tốt. Ta tin rằng một cô gái nên có khả năng tự kiếm sống cho dù hoàn cảnh có bắt buộc hay không. Con sẽ luôn luôn có một mái nhà ở Chái Nhà Xanh chừng nào Matthew và ta còn ở đây, nhưng không ai biết điều gì sẽ xảy ra trong thế giới bất ổn này, vậy nên cũng là chuyện tốt khi chuẩn bị sẵn sàng. Nên con có thể tham dự lớp Queen nếu muốn, Anne."

"Ôi, Marilla, cám ơn bác," Anne vòng tay qua eo Marilla và tha thiết nhìn vào mặt bà. "Con cực kỳ biết ơn bác và bác Matthew. Con sẽ học hành chăm chỉ hết mức và sẽ làm hết khả năng để bác có thể tự hào về con. Con xin báo trước là bác đừng quá kỳ vọng vào môn hình học, nhưng con nghĩ nếu chăm chỉ thì con có thể khẳng định được vị trí của mình ở bất kỳ môn nào khác."

"Ta dám nói con sẽ xoay sở tốt thôi. Cô Stacy nói con thông minh và cần cù." Không đời nào bà Marilla nói hết với Anne những gì cô Stacy đã nói về con bé, như vậy sẽ chỉ nuông chiều tính kiêu căng tự phụ. "Con không cần vội vã vùi đầu vào sách vở. Không việc gì phải gấp gáp.Tận một năm rưỡi nữa mới đến lúc thi cử. Nhưng cô Stacy nói cũng tốt nếu bắt đầu sớm và tạo dựng được nền tảng vững vàng."

"Lúc này con hứng thú với chuyện học hành hơn bao giờ hết," Anne hạnh phúc nói, "vì con đã có mục tiêu của cuộc đời. Ông Allan cho rằng mỗi người đều nên có một mục tiêu cuộc đời và kiên trì theo đuổi. Ông ấy nói đầu tiên chúng ta phải chắc chắn rằng đó là một mục tiêu chính đáng. Con có thể gọi mong muốn trở thành một cô giáo như cô Stacy là mục tiêu chính đáng, phải không, bác Marilla? Con nghĩ đó là một nghề rất cao quý."

Lớp Queen được thành lập đúng hẹn. Gilbert Blythe, Anne Shirley, Ruby Gillis, Jane Andrews, Josie Pye, Charlie Sloane, và Moody Spurgeon MacPherson tham dự. Diana Barry thì không, vì ba mẹ con bé không định cho nó đến trường Queen. Chuyện này chẳng khác gì thảm họa với Anne. Chưa bao giờ, kể từ cái đêm Minnie May bị viêm tắc thanh quản, con bé và Diana lại bị chia cắt trong bất cứ chuyện gì. Vào buổi tối đầu tiên lớp Queen ở lại trường học thêm và Anne thấy Diana chầm chậm đi ra với những đứa khác để một mình về nhà qua đường Bạch Dương và Thung Lũng Tím, tất cả những gì con bé có thể làm là giữ mình ngồi yên tại chỗ, cố không lao vội theo sau bạn mình. Một cục nghẹn dâng lên trong cổ họng và con bé vội giấu mặt sau những trang sách ngữ pháp Latin dựng đứng để che đi những giọt nước mắt. Không đời nào Anne để Gilbert Blythe hay Josie Pye nhìn thấy những giọt nước mắt đó.

"Nhưng ôi, bác Marilla, con thật sự cảm thấy mình đã nếm mùi cay đắng của cái chết, như ông Allan nói trong bài giảng Chủ nhật tuần trước, khi con thấy Diana đi ra ngoài một mình," tối đó con bé buồn bã nói. "Con nghĩ sẽ tuyệt biết bao nếu Diana cũng đến ôn thi. Nhưng chúng ta không thể có những thứ hoàn hảo trong cái thế giới không hoàn hảo này, như bà Lynde nói.Có những lúc bà ấy không hẳn là người dễ chịu, nhưng không nghi ngờ gì chuyện bà ấy nói rất nhiều điều chí lý. Và con nghĩ lớp Queen sẽ cực kỳ thú vị. Jane và Ruby sẽ học để thành giáo viên. Đó là đỉnh cao tham vọng của họ. Ruby nói bạn ấy sẽ chỉ dạy hai năm sau khi tôt nghiệp, rồi dự định sẽ lấy chồng. Jane thì nói sẽ cống hiến cả đời mình cho việc giảng dạy và không bao giờ, không bao giờ lấy chồng, vì dạy học thì còn được trả lương chứ chồng thì sẽ chẳng trả gì cho mình hết, thêm vào đó lại cằn nhăn khi mình yêu cầu phải góp tiền trứng tiền bơ. Con nghĩ Jane nói dựa trên những kinh nghiệm đau buồn, vì bà Lynde nói ba bạn ấy là một lão kỳ quặc không để đâu cho hết, hà tiện hơn cả những tay vắt cổ chày ra nước. Josie Pye nói nó chỉ đi học cao đẳng vì lợi ích giáo dục thôi, chứ nó sẽ không phải tự kiếm sống; nó bảo dĩ nhiên nó khác những đứa mồ côi sống nhờ vào lòng từ thiện - chúng phải bon chen. Moody Spurgeon sẽ thành mục sư. Bà Lynde nói cậu ấy sẽ chẳng làm được nghề nào khác nếu cứ đeo theo cái tên đó. Con hy vọng con không hư nếu nói điều này, bác Marilla, nhưng thật sự cứ nghĩ đến chuyện Moody Spurgeon thành mục sư là con không nhịn cười nổi. Cậu ấy trông tức cười biết bao nhiêu với bộ mặt to béo mũm mĩm, đôi mắt xanh nhỏ tí và tai chĩa ra ngoài như đôi cánh đang vẫy. Nhưng có lẽ cậu ấy trông sẽ trí thức hơn khi lớn lên. Charlie Sloane nói cậu ấy sẽ tham gia chính trường và trở thành nghị sĩ, nhưng bà Lynde nói cậu ấy sẽ chẳng bao giờ đạt được điều đó vì nhà Sloane toàn những người thành thật, mà thời buổi này chỉ có những kẻ bất lương mới tham gia chính trường.""Vậy Gilbert Blythe muốn làm gì?" bà Marilla hỏi, nhận thấy Anne đang mở cuốn sách giáo khoa tiếng Latin ra.

"Con không biết tham vọng cuộc đời của Gilbert Blythe là gì... đấy là nếu cậu ta có bất kỳ tham vọng nào," Anne nói giọng cau có.

Giờ đây có một cuộc ganh đua công khai giữa Gilbert và Anne. Trước đây ganh đua có phần chỉ thiên về một phía, nhưng giờ thì không nghi ngờ gì chuyện Gilbert cũng quyết tâm đứng nhất lớp như Anne. Cậu là một đối thủ xứng tầm với con bé. Những thành viên khác trong lớp ngầm hiểu sự vượt trội của hai đứa, nên không bao giờ mơ đến chuyện cố cạnh tranh với chúng.

Kể từ hôm ở bên hồ khi bị con bé từ chối lời khẩn cầu tha thứ, Gilbert, ngoại trừ sự ganh đua đầy quyết tâm như đã nói ở trên, tỏ ra không hề nhận thấy bất cứ dấu hiệu tồn tại nào của Anne Shirley. Cậu chàng nói chuyện, đùa giỡn với mấy đứa con gái khác, trao đối sách và câu đố với chúng, bàn luận về bài vở và các kế hoạch, đôi khi còn đưa đứa này đứa khác về nhà sau lễ cầu nguyện hay cuộc họp của câu lạc bộ hùng biện. Nhưng với Anne Shirley thì thằng bé hoàn toàn làm lơ, và Anne nhận ra bị làm lơ thật không dễ chịu chút nào. Dù con bé có hất đầu tự nhủ mình không thèm để tâm thì cũng chẳng ích gì. Sâu thẳm trong trái tim con gái bé bỏng bướng bỉnh của mình, con bé biết nó có để tâm, và nếu được quay trở lại với cơ hội ở Hồ Nước Lấp Lánh đó, nó sẽ trả lời rất khác. Cùng lúc đó, trong một thoáng hoảng hốt kín đáo, con bé nhận ra nỗi oán ghét cũ mà nó hằng áp ủ đối với thằng bé đã biến mất - biến mất đúng lúc con bé cần đến sự hỗ trợ đó nhất. Con bé nhớ lại từng chi tiết và cảm xúc của cơ hội đáng nhớ đó, cố gắng cảm nhận cơn giận làm thỏa mãn của ngày xưa, nhưng chỉ vô ích. Ngày hôm đó bên bờ hồ đã chứng kiến ánh sáng chập chờn cuối cùng của cơn giận dữ kia. Anne nhận ra, một cách vô thức, nó đã tha thứ và đã quên chuyện đó. Nhưng quá muộn rồi.

Ít nhất thì cả Gilbert lẫn những người khác, ngay cả Diana, đều không ngờ tới chuyện con bé hối hận và ao ước mình đã không kiêu hãnh, không khinh khỉnh như vậy đến thế nào! Con bé kiên quyết "chôn giấu cảm xúc trong lãng quên sâu thẳm" và có thể nói nó đã thành công đến mức Gilbert, có lẽ không đến nỗi dửng dưng như vẻ bề ngoài, không thể tự an ủi bản thân bằng chút xíu tin tưởng nào vào việc Anne cảm nhận được sự coi thường trả đũa của cậu. Sự an ủi tội nghiệp duy nhất mà thằng bé có là con bé liên tục hắt hủi Charlie Sloan một cách bất công và không khoan nhượng.

Về những mặt khác, mùa đông trôi qua trong một vòng tuần hoàn những bài học và nhiệm vụ dễ chịu. Với Anne, mỗi ngày trôi qua như một hạt cườm vàng trên chiếc vòng cổ của năm. Con bé vui vẻ, háo hức và thích thú; có bài để học và niềm vinh dự để chiến thắng; sách hay để đọc; bản nhạc mới để tập cho dàn hợp xướng trường Chủ nhật, những chiều thứ Bảy dễ chịu tại nhà mục sư với cô Allan, để rồi, Anne gần như chưa kịp nhận ra thì mùa xuân đã lại đến với Chái Nhà Xanh và cả thế giới lại đâm chồi nảy lộc.

Khi đó, việc học hành có phần trở nên nhạt nhẽo vô vị; phải ngồi lại trường trong khi bao đứa khác rong ruổi trên những con đường mòn xanh rờn, những đường tắt xuyên qua khu rừng xanh lá và những con đường nhánh cắt ngang đồng cỏ, lớp Queen nhìn ra ngoài cửa sổ với ánh mắt khao khát, nhận ra những động từ Latin cùng bài tập tiếng Pháp không hiểu sao lại mất hết thứ hương vị hấp dẫn vốn có trong những ngày đông giá lạnh. Ngay cả Anne và Gilbert cũng trễ nải và trở nên dửng dưng. Cả cô lẫn trò đều mừng vui khi học kỳ kết thúc và những ngày hè vui vẻ đang hân hoan trải dài phía trước.

"Năm vừa qua các con đã học rất tốt," cô Stacy nói với chúng vào buổi tối cuối cùng, "và tất cả đều xứng đáng có một mùa hè vui vẻ. Hãy tận hưởng tối đa thế giới bên ngoài và giữ gìn sức khỏe, sức sống và tham vọng để hoàn thành nhiệm vụ của năm sau. Đó sẽ là một cuộc chiến cam go, các con biết đấy - năm cuối cùng trước kỳ thi tuyển."

"Năm sau cô có trở lại không, cô Stacy?" Josie Pye hỏi. Josie Pye chưa bao giờ lưỡng lự trong việc đặt câu hỏi; riêng trong trường hợp này thì cả lớp đều cảm thấy biết ơn nó; bọn chúng không đứa nào dám hỏi cô Stacy câu đó mặc dù rất muốn, vì từ lâu trong trường đã rộ lên tin đồn năm sau cô Stacy sẽ không trở lại nữa - rằng cô được mời dạy tại trường tiểu học ở quê hương và cô đã đồng ý. Lớp Queen nín thở chờ nghe câu trả lời của cô.

"Có chứ, cô nghĩ là có," cô Stacy nói "Cô đã nghĩ đến chuyện dạy ở trường khác, nhưng rồi quyết định trở lại Avonlea.Thành thật mà nói, cô càng ngày càng yêu quý các học trò của mình ở đây nên không thể bỏ các con được. Vì vậy cô sẽ ở lại giúp các con tốt nghiệp."

"Hu ra!" Moody Spurgeon reo lên. Từ trước đến nay Moody Spurgeon chưa bao giờ biểu lộ cảm xúc ra mặt như vậy, và cả tuần sau cứ mỗi lần nhớ về chuyện này thằng bé lại đỏ mặt lúng túng.

"Ôi, con mừng quá," Anne nói, mắt lấp lánh."Cô Stacy yêu quý, thật vô cùng khủng khiếp nếu cô không trở lại. Con không tin mình còn lòng dạ nào để học nếu một giáo viên khác tới đây."

Khi về nhà tối hôm đó Anne xếp tất cả sách giáo khoa vào trong một cái rương cũ trên gác mái, khóa rương lại rồi thảy chìa khóa vào chiếc hộp vải.

"Con sẽ không nhìn tới sách giáo khoa trong kỳ nghỉ," con bé nói với bà Marilla. "Cả học kỳ con đã học hành chăm chỉ hết mức và miệt mài với môn hình học đó đến nỗi con thuộc lòng mọi định đề trong sách rồi, ngay cả khi các ký hiệu đã bị thay đổi. Giờ thì con cảm thấy phát mệt với tất cả những thứ mang tính lý trí rồi và hè này con sẽ để trí tưỏng tượng của mình thả sức bay bổng. Ôi, bác không cần lo lắng, bác Marilla. Con sẽ chỉ để nó bay bổng trong giới hạn hợp lý thôi. Nhưng hè này con muốn có một thời gian thật sự vui vẻ dễ chịu, vì có thể đây là hè cuối cùng con được làm một cô bé. Bà Lynde nói nếu cứ tiếp tục lớn phổng như thế này thì năm sau con sẽ phải mặc váy dài hơn. Bà ấy nói con lớn nhanh như thổi ấy. Và khi mặc váy dài hơn con sẽ cảm thấy mình phải cư xử cho xứng đáng và phải rất đường hoàng. Con e rằng đến lúc đó còn không được tin vào thần tiên nữa; vì vậy hè này con sẽ tin vào chuyện đó bằng cả trái tim. Con nghĩ chúng con sẽ có một kỳ nghỉ rất vui. Sắp tới Ruby Gillis sẽ tổ chức sinh nhật còn tháng sau sẽ có buổi picnic trường học Chủ nhật và buổi hòa nhạc của hội truyền giáo. Ông Barry nói tối nào đó ông ấy sẽ đưa con và Diana đến khách sạn White Sands dùng bữa. Buổi tối người ta tổ chức tiệc ở đó, bác biết đấy. Hè năm ngoái Jane Andrews đến đó một lần và bạn ấy nói thật là một cảnh tượng rực rỡ với đèn điện, hoa và mọi khách nữ đều mặc những bộ váy xinh đẹp. Jane nói đó là cái nhìn đầu tiên của bạn ấy vào cuộc sống thượng lưu và bạn ấy sẽ không bao giờ quên cho đến tận cuối đời."

Chiều hôm sau bà Lynde tới thăm để xem tại sao bà Marilla không đến dự buổi họp của hội Cứu tế hôm thứ Năm. Khi bà Marilla không tới buổi họp của hội Cứu tế, mọi người đều biết hẳn phải có gì không ốn ở Chái Nhà Xanh.

"Hôm thứ Năm Matthew bị đau tim," bà Marilla giải thích, "và tôi không muốn rời anh ấy. Ôi, vâng, giờ anh ấy ổn rồi, nhưng dạo này anh ấy bị đau thường xuyên hơn nên tôi lo lắm. Bác sĩ nói không được để anh ấy bị kích động. Chuyện đó cũng dễ thôi, vì Matthew không đi loanh quanh tìm kiếm sự kích động dưới bất kỳ hình thức nào và cũng chẳng bao giờ bị kích động, nhưng anh ấy không được làm bất kỳ việc nặng nhọc nào mà bảo Matthew không làm việc thì cũng ngang bằng bảo anh ấy đừng thở vậy. Tới đây để đồ xuống đi, Rachel. Chị ngồi lại dùng trà nhé?"

"Thôi được, vì cô tha thiết quá nên chắc tôi sẽ ở lại," bà Rachel nói, vốn chẳng có chút xíu dự định nào khác.

Bà Rachel và bà Marilla ngồi thoải mái ở phòng khách trong lúc Anne pha trà và phục vụ món bánh bích quy nóng hổi vừa mềm vừa trắng đến nỗi đủ sức thách thức ngay cả lời chỉ trích của bà Rachel.

"Phải nói rằng Anne đã thật sự trở nên khéo léo rồi," bà Rachel thừa nhận khi bà Marilla tiễn bà đến cuối con đường mòn dưới ánh hoàng hôn. "Con bé hẳn đỡ đần cô nhiều lắm." "Vâng," bà Marilla nói, "con bé giờ đã thật sự chín chắn và đáng tin cậy. Tôi từng sợ nó sẽ không bao giờ khắc phục được cái kiểu đầu óc trên mây của mình nhưng con bé đã làm được, và giờ thì tôi sẵn lòng tin tưởng nó bất cứ chuyện gì."

"Ngày đầu tiên tôi đến đây ba năm trưòc, tôi chưa từng nghĩ nó sẽ trở nên được như vậy," bà Rachel nói. "Thật lòng, tôi sẽ không bao giờ quên được cơn giận đó của nó! Tối đó khi về nhà tôi đã nói với Thomas, ‘Nhớ lời em nhé, Thomas, Marilla Cuthbert sẽ phải hối hận cả đời vì hành động của mình.’ Nhưng tôi đã nhầm và tôi thật lòng vui vì điều đó. Tôi không phải loại người không bao giờ chịu thừa nhận sai lầm của mình, Marilla. Không, tính tôi không bao giờ như thế, ơn trời. Tôi từng phạm sai lầm khi đánh giá Anne, nhưng chuyện đó không có gì lạ, vì đó là con bé kỳ quặc chưa từng thấy, vậy đó. Không thể giải mã nó bằng những quy tắc vốn hữu dụng với những đứa trẻ khác. Thật kỳ diệu khi con bé tiến bộ biết bao nhiêu trong vòng ba năm qua, đặc biệt là về bề ngoài. Nó đã trở nên thật sự xinh đẹp, mặc dù tôi không thể nói tôi quá thích cái kiểu da trắng mắt to như vậy. Tôi thích vẻ sắc sảo và rực rỡ hơn, như Diana Barry hay Ruby Gillis. Vẻ ngoài của Ruby Gillis thật rực rỡ. Nhưng không hiểu làm sao - tôi chẳng biết tại sao lại thế, nhưng khi Anne và chúng đứng cạnh nhau, dù con bé không xinh đẹp bằng một nửa hai đứa kia nhưng nó lại làm cho chúng trông có vẻ tầm thường và quá lố - tựa như con bé là bông lưu ly tháng Sáu trắng muốt, như cách nó gọi hoa thủy tiên, đặt bên cạnh đóa mẫu đơn lớn đỏ rực, vậy đó."
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 31. Nơi sông suối gặp nhau
Anne đã có mùa hè "dễ chịu" và toàn tâm tận hưởng nó. Con bé cùng Diana gần như chỉ sống ngoài trời, tận hưởng tất cả niềm vui mà đường Tình Nhân, Bong Bóng Của Nữ Thần Rừng, hồ Liễu và đảo Victoria đem lại. Bà Marilla không phản đối kiểu lêu lổng của Anne. Một chiều đầu hè, vị bác sĩ Spencervale, người đã tới vào đêm Minnie May bị bệnh đã gặp Anne tại nhà một bệnh nhân, quan sát con bé bằng ánh mắt sắc sảo, chép miệng, lắc đầu và nhờ người nhắn tin cho bà Marilla Cuthbert. Đó là: "Hãy giữ cô bé tóc đỏ của bà ở chỗ không khí trong lành cả mùa hè, đừng để nó đọc sách nữa cho đến khi mỗi bước chân đều tràn trề sinh lực."

Mẩu tin này làm bà Marilla sợ chết khiếp. Bà như đọc được trong đó lời đảm bảo Anne sẽ chết vì viêm phối nếu bà không tuân theo chỉ dẫn từng ly từng tí. Kết quả là Anne đã có một mùa hè quý báu của cuộc đời, tự do và vui vẻ hết mức. Con bé đi dạo, chèo thuyền, hái quả, mơ mộng thỏa thích; và khi tháng Chín đến mắt con bé lại sáng lấp lánh, lanh lợi, với bước chân sẽ làm hài lòng bác sĩ Spencervale cùng một trái tim lại một lần nữa tràn đầy tham vọng và say mê.

"Con cảm thấy thích học với cả tinh thần và sức lực của mình," con bé tuyên bố khi đem đống sách từ gác xép xuống. "Ôi, đám bạn cũ này, thật mừng khi lại thấy những gương mặt thân thuộc của tụi bay - à, cả mi nữa, hình học. Con đã có một mùa hè đẹp tuyệt, bác Marilla, và bây giò con vui mừng như một người mạnh khỏe tham gia chạy đua, như ông Allan đã nói hôm Chủ nhật tuần trước. Chẳng phải ông Allan thuyết giảng rất tuyệt vời sao? Bà Lynde nói ông ấy tiến bộ từng ngày và điều đầu tiên chúng ta biết là một nhà thờ nào đó trên thành phố sẽ nẫng mất ông ấy, rồi chúng ta sẽ bị bỏ lại, phải tìm kiếm và đụng trúng một ông giảng đạo nhạt nhẽo khác. Nhưng con không thấy lo lắng giữa chừng vậy thì có ích gì, phải không, bác Marilla? Con nghĩ tốt hơn hết cứ tận hưởng ông Allan khi chúng ta còn có ông ấy. Nếu là đàn ông chắc con sẽ làm mục sư. Họ có thể gây được ảnh hưởng tốt lên người khác, nếu thần học của họ vững vàng; và hẳn phải rất đáng rùng mình khi thuyết giảng rất hay và khuấy động trái tim người nghe. Tại sao phụ nữ không thể làm mục sư, bác Marilla? Con hỏi bà Lynde chuyện đó khiến bà ấy bị sốc và nói rằng như thế là phỉ báng. Bà ấy nói có thể ở Mỹ có nữ mục sư và bà tin là có thật, nhưng ơn trời ở Canada chúng ta chưa đi đến bước đó và bà ấy hy vọng là sẽ không bao giờ. Nhưng con không hiểu tại sao. Con nghĩ phụ nữ có thể thành những mục sư tuyệt vời. Mỗi khi có hội họp hay tiệc trà nhà thờ hay bất cứ hoạt động gì để quyên góp tiền, phụ nữ lại phải gánh vác. Con chắc chắn bà Lynde có thể cầu nguyện tốt y như Giám thị Bell và rõ ràng chỉ cần luyện tập một chút là bà ấy có thể thuyết giảng được."

"Ừ, ta tin bà ấy có thể," bà Marilla nói khô khan. "Bà ấy cũng thuyết giáo không chính thức nhiều rồi mà. Không ai ở Avonlea có cơ hội phạm sai lầm nếu được Rachel giám sát."

"Bác Marilla," Anne buột miệng tâm sự. "Con muốn kể cho bác nghe một chuyện và hỏi ý kiến bác. Nó làm con lo lắng khủng khiếp... vào các chiều Chủ nhật, nghĩa là lúc con đặc biệt suy nghĩ về những vấn đề như vậy. Con thật sự muốn trở nên ngoan ngoãn; khi ở bên bác, cô Allan hay cô Stacy con mong muốn điều đó hơn bao giờ hết và muốn được làm những điều khiến các bác vui lòng, làm những việc mà các bác tán thành. Nhưng cứ khi nào ở với bà Lynde là con lại cảm thấy mình hư đến mức vô phương cứu chữa và cứ như thể muốn đi làm chính những điều bà ấy bảo con không được làm. Con cảm thấy bị cám dỗ không cưỡng được phải làm chuyện đó. Vậy, bác nghĩ đâu là lý do khiến con có cảm giác đó ạ? Bác có nghĩ là vì con thật sự xấu và không cải tạo nổi không?"

Trong một thoáng trông bà Marilla có vẻ mơ hồ.Rồi bà bật cười.

"Nếu con mà là người như thế thì ta cũng chẳng khác gì, Anne ạ, vì Rachel cũng thường có ảnh hưởng tương tự đối với ta. Đôi khi ta nghĩ bà ấy sẽ có ảnh hưởng tốt hơn, theo cách nói của con đó, nếu bà ấy không luôn miệng cằn nhằn người ta phải cư xử cho đúng. Lẽ ra phải có một lời răn đặc biệt chống lại chuyện cằn nhằn. Nhưng thôi, ta không nên nói vậy. Rachel là một con chiên ngoan đạo và bà ấy chỉ có ý tốt thôi. Ở Avonlea chẳng có ai tử tế hơn đâu mà bà ấy cũng chưa từng né tránh phần việc của mình."

"Con rất mừng vì bác cũng có cảm giác tương tự," Anne nói vẻ kiên quyết. "Nó khích lệ con rất nhiều. Sau này con sẽ không lo lắng thái quá về chuyện đó nữa. Nhưng con dám chắc sẽ có những thứ khác làm con lo lắng. Chúng lúc nào cũng giữ được sự mới mẻ - những thứ làm bác rối trí, bác biết đó. Bác giải quyết xong một câu hỏi và ngay sau đó lại nảy ra một câu hỏi khác. Có quá nhiều thứ để suy ngẫm, để quyết định khi ta bắt đầu trưởng thành. Lúc nào con cũng phải bù đầu suy đi nghĩ lại và quyết định điều gì là đúng. Trưởng thành chẳng phải vấn đề quan trọng sao, bác Marilla? Nhưng khi có những người bạn tốt như bác, bác Matthew, cô Allan và cô Stacy thì con phải trưởng thành một cách hiệu quả, và con chắc chắn sẽ chỉ là lỗi của con nếu con không được như vậy. Con cảm thấy đó là trách nhiệm to lớn vì con chỉ có duy nhất một cơ hội. Nếu không trưởng thành một cách đúng đắn, con sẽ không thể quay về làm lại từ đầu. Hè này con cao thêm hai phân rồi, bác Marilla. Ông Gillis đã đo cho con ở bữa tiệc của Ruby. Con rất mừng vì bác may váy mới của con dài hơn. Cái màu xanh đậm đẹp vô cùng và bác thật dễ thương khi may thêm đường viền ren. Dĩ nhiên con biết nó không thật sự cần thiết nhưng thu này viền ren đang rất mốt và chiếc váy nào của Josie Pye cũng có viền ren. Con biết con có thể học tốt hơn nhờ cái váy của mình. Con sẽ ghi sâu cảm giác dễ chịu về đường viền ren đó trong tâm trí."

"Được vậy thì nó cũng đáng," bà Marilla thừa nhận.

Cô Stacy trở lại trường Avonlea và thấy tất cả học trò của mình lại đều háo hức học tập. Đặc biệt cả lớp Queen đều sẵn sàng lao vào cuộc chiến mà dù tận cuối năm học tới mới diễn ra nhưng giờ đã lờ mờ ngả bóng lên con đường của chúng rồi dần hiện lên thành vấn đề quyết định mang tên "thi tuyển", để rồi mỗi lần nghĩ về nó, từng cá nhân và tất cả mọi người đều cảm thấy tim mình chùng xuống. Lỡ mình không đậu! Suy nghĩ đó ám ảnh Anne suốt mùa đông, kể cả những chiều Chủ nhật, gần như ám ảnh đến cả những vấn đề tinh thần và tâm linh. Khi gặp ác mộng, Anne thấy mình đau khổ nhìn chằm chằm danh sách thí sinh thi đỗ, nơi tên của Gilbert Blythe được tuyên dương trên đầu còn tên nó không hề xuất hiện.

Nhưng đó là một mùa đông vui vẻ, bận rộn, qua mau.Việc học hành vẫn thú vị và cuộc ganh đua trong lớp vẫn thu hút như ngày xưa.Những thế giới mới của suy nghĩ, cảm xúc, tham vọng và những miền kiến thức mới mẻ hấp dẫn chưa được khai phá dường như đang mở ra trước đôi mắt háo hức của Anne.

Đồi trải sau đồi và núi mọc sau núi.

Hầu hết những điều này có được là nhờ sự hướng dẫn khéo léo, cẩn thận và khoáng đạt của cô Stacy. Cô dẫn dắt cả lớp tự tư duy, tự tìm tòi khám phá và khuyến khích chúng tách khỏi những lối mòn cũ rích với một mức độ khiến bà Lynde và các ủy viên nhà trường, vốn quen nhìn mọi sự đối mới những phương pháp quy chuẩn bằng con mắt nghi ngờ, phải choáng váng.

Ngoài việc học, Anne mở rộng các mối quan hệ xã hội, vì bà Marilla, canh cánh lời quả quyết của bác sĩ Spencerville, không còn ngăn cấm các buổi vui chơi đặc biệt nữa. Câu lạc bộ hùng biện hoạt động sôi nổi và tổ chức vài buổi hòa nhạc; có một hai bữa tiệc gần như chỉ đề cập đến những vấn đề trong giai đoạn trưởng thành, có rất nhiều buổi đi xe trượt và trượt băng vui nhộn.

Trong lúc đó Anne ngày một lớn hơn, nhanh đến nỗi một hôm, khi hai bác cháu đứng cạnh nhau, bà Marilla sửng sốt nhận ra con bé đã cao hơn bà.

"Ôi, Anne, con đã lớn thế này rồi!," bà nói với giọng gần như không tin nổi. Theo sau câu nói là một tiếng thở dài. Bà Marilla cảm thấy một sự nuối tiếc kỳ lạ về chiều cao của Anne. Đứa trẻ mà bà học cách yêu thương đã tan biến theo cách nào đó và giờ đây ở vị trí của nó là một cô gái mười lăm tuổi cao ráo, với đôi mắt kiên nghị, đôi lông mày trầm ngâm và cái đầu luôn ngẩng lên kiêu hãnh. Bà Marilla yêu thương cô thiếu nữ cũng nhiều như bà yêu thương đứa trẻ, nhưng bà ý thức được một cảm giác mất mát u sầu kỳ lạ.Tối đó, khi Anne dự lễ cầu nguyện với Diana, bà Marilla ngồi một mình trong ánh chạng vạng mùa đông và cho phép mình yếu đuối đến bật khóc. Ông Matthew, đang xách đèn bước vào nhà, bắt gặp cảnh tuợng đó và chằm chằm nhìn bà với vẻ kinh hoàng đến nỗi bà Marilla phải bật cưòi trong nước mắt."Em đang nghĩ đến Anne," bà giải thích. "Nó đã trở thành một cô gái lớn vậy rồi... và mùa đông tới có lẽ nó sẽ xa chúng ta. Em sẽ nhớ nó khủng khiếp."

"Con bé có thể về nhà thường xuyên mà." Ông Matthew an ủi, đối với ông Anne vẫn và sẽ mãi luôn là cô bé háo hức, bé bỏng mà ông đã đem từ Bright River về nhà vào buổi tối tháng Sáu bốn năm về trước. "Đến lúc đó một nhánh đường sắt sẽ được xây tới Carmody."

"Làm sao giống với việc lúc nào cũng có nó ở nhà," bà Marilla thở dài não nề, kiên quyết tận hưỏng nỗi buồn khó chịu đang tràn ngập này. "Thế đấy, đàn ông hiểu sao được những chuyện như thế này chứ!"

Trong Anne, có những thay đổi khác không kém phần thực tế hơn những thay đổi về thể chất. Một trong số đó là con bé trở nên lặng lẽ hơn. Có lẽ nó vẫn suy nghĩ và mơ mộng nhiều như từ trước đén nay, nhưng rõ ràng ít nói hơn. Bà Marilla đã để ý và cũng bình luận về điều này.

"Con không ba hoa bằng một nửa trước đây, Anne, cũng không dùng từ đao to búa lớn bằng một nửa hồi xưa. Chuyện gì xảy ra với con vậy?"

Anne đỏ mặt và khẽ cười thành tiếng trong lúc đặt cuốn sách xuống rồi mơ màng nhìn qua cửa sổ, nơi những nụ kim ngân mập mạp đỏ thắm đang bung cánh đáp lại sự cám dỗ của ánh nắng mùa xuân.

"Con không biết... con không muốn nói nhiều," con bé nói, ngón tay trỏ tì lên cằm vẻ nghĩ ngợi. "Sẽ tuyệt hơn nhiều nếu nghĩ đến những điều đẹp đẽ thân yêu và giữ chúng trong tim như báu vật. Con không thích người khác cười nhạo hay băn khoăn kinh ngạc về chúng. Và không hiểu sao con cũng không thích dùng từ đao to búa lớn nữa.Cũng thật đáng tiếc, phải không ạ, vì giờ con đã lớn đủ để nói những điều đó nếu con muốn. Xét ở mặt này mặt khác, thật vui khi sắp trưởng thành, nhưng nó không phải niềm vui con mong đợi, bác Marilla.Có quá nhiều thứ để học, để làm và suy nghĩ đến nỗi không còn thời gian cho những từ đao to búa lớn. Hơn nữa, cô Stacy nói rằng ngôn ngữ ngắn gọn sẽ mạnh mẽ và hay hơn. Cô dạy chúng con viết tất cả bài luận của mình một cách đơn giản hết mức. Lúc đầu khó lắm. Con vẫn thường nhồi nhét vào bài luận tất cả những từ đao to búa lớn mà con có thể nghĩ ra - mà con nghĩ nhiều từ như vậy lắm. Nhưng bây giờ con quen rồi và con thấy nó tốt hơn nhiều."

"Câu lạc bộ kể chuyện của con ra sao rồi? Đã lâu ta không nghe con nói về nó?"

"Câu lạc bộ kể chuyện không còn tồn tại nữa. Chúng con không có thời gian cho nó, và dù sao con nghĩ tụi con cũng mệt mỏi với nó rồi. Thật ngốc nghếch khi cứ viết về tình yêu, giết người, về chuyện trốn nhà theo trai và các bí ẩn. Thỉnh thoảng cô Stacy bảo chúng con viết một cầu chuyện để luyện kỹ năng sáng tác, nhưng cô ấy không để chúng con viết gì ngoài những chuyện có thể xảy ra ở Avonlea trong chính cuộc sống của tụi con, cô ấy phê bình bài viết rất khắt khe và cũng cho tụi con tự phê bình nữa. Con chưa bao giờ nghĩ sáng tác của mình lại có nhiều lỗi đến vậy cho đến khi con bắt đầu tự mình tìm chúng. Con thấy xấu hố đến nỗi muốn từ bỏ tất cả, nhưng cô Stacy nói con có thể học được cách viết cho hay, chỉ cần con rèn luyện để trở thành người phê bình nghiêm khắc nhất đối với chính bản thân mình. Và con đang cố gắng được như vậy."

"Con chỉ còn hơn hai tháng nữa là thi rồi," bà Marilla nói. "Con có nghĩ mình sẽ qua được không?"

Anne rùng mình.

"Con không biết nữa. Đôi khi con nghĩ mình sẽ ổn thôi... và rồi con lại cảm thấy sợ hãi khủng khiếp. Chúng con đã học hành chăm chỉ và cô Stacy đã chỉ bảo tụi con rất tận tình, nhưng có thể tụi con vẫn không qua được. Mỗi đứa đều có một hòn đá ngáng chân. Với con dĩ nhiên là môn hình học, Jane là môn Latin, Ruby và Charlie là Đại số, còn Josie là số học. Moody Spurgeon nói nó cảm thấy chắc chắn nó sẽ rớt môn lịch sử Anh. Tháng Sáu này cô Stacy sẽ cho chúng con thi thử với đề khó tương đương kỳ thi tuyển và chấm điểm gắt như vậy, để tụi con hình dung được chút nào đó. Con ước gì tất cả qua rồi, bác Marilla. Nó cứ ám ảnh con. Đôi khi con thức dậy giữa đêm và tự hỏi mình sẽ làm gì nếu không trúng tuyển."

"Sao nào, thì năm sau lại tới trường thử lần nữa," bà Marilla nói không cần suy nghĩ.

"Ôi, con không tin mình có lòng dạ nào làm vậy. Thật nhục nhã nếu bị rớt, đặc biệt nếu Gil... nếu những người khác trúng tuyển. Mà con sẽ lo lắng trong khi thi đến nỗi có lẽ sẽ làm rối tung mọi thứ lên. Con ước gì mình có thần kinh như Jane Andrews. Không gì lay chuyển được bạn ấy."

Anne thở dài, bứt cái nhìn ra khỏi sự quyến rũ của thế giới mùa xuân, của một ngày xanh trong trẻo đang vẫy gọi và của tất cả những tạo vật xanh mơn mởn đang nảy nở trong vườn để cương quyết vùi đầu vào sách vở. Sẽ có những mùa xuân khác, nhưng nếu không qua được kỳ thi tuyển, Anne cảm thấy chắc chắn mình sẽ chẳng bao giờ hồi phục trọn vẹn để tận hưởng chúng nữa.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 32. Danh sách trúng tuyển
Những ngày cuối tháng Sáu đến cùng lúc với thời điểm kết thúc học kì và kết thúc luôn thời kì cô Stacy ở lại trường Avonlea. Tối đó Anne và Diana về nhà trong tâm trạng quả thực rất trang nghiêm. Những đôi mắt đỏ hoe và khăn tay ướt sũng là bằng chứng thuyết phục chứng tỏ những lời tạm biệt của cô Stacy hẳn cũng cảm động như của thầy Phillips trong hoàn cảnh tương tự ba năm về trước. Diana ngoái nhìn ngôi trường từ chân ngọn đồi linh sam và thở dài nặng nề.

"Giống như là tận cùng của mọi thứ vậy, có phải không?" con bé nói giọng u sầu.

"Cậu không thể cảm thấy tồi tệ bằng một nửa mình đâu," Anne nói, hoài công tìm kiếm một chỗ khô trên khăn tay của mình. "Cậu sẽ trở lại đây mùa đông tới, còn mình có lẽ sẽ rời khỏi ngôi trường cũ kĩ thân thương này mãi mãi... nghĩa là nếu mình may mắn."

"Sẽ không thể giống như trước được. Cô Stacy sẽ không có ở đây, có lẽ sẽ không có cả cậu, cả Jane và Ruby nữa. Mình sẽ phải ngồi một mình, vì ngoài cậu ra mình không thể chấp nhận được một ai khác ngồi cùng bàn. Ôi, chúng ta đã có những thời gian vui vẻ, phải không, Anne? Thật là khủng khiếp khi nghĩ rằng chúng đã qua rồi."

Hai giọt lệ to tướng lăn qua mũi Diana.

"Nếu cậu nín thì mình mới không khóc được," Anne nói giọng nài nỉ. "Cứ ngay lúc mình cất khăn tay đi là lại thấy cậu long lanh nước mắt vậy nên mình lại sục sùi tiếp. Như bà Lynde đã nói. ‘Nếu bạn không thể vui, hãy gắng vui hết mức có thể.’ Rốt cuộc, mình dám nói năm sau mình sẽ trở lại đây thôi. Đây là một trong những lần mình biết mình không thể trúng tuyển. Những lần như thế này càng lúc càng trở nên thường xuyên đến mức đáng lo ngại."

"Sao vậy, cậu đã xuất sắc vượt qua kì thi cô Stacy tổ chức mà."

"Ừ, nhưng những kì thi như vậy không làm mình lo lắng. Khi mình nghĩ đến thi thật cậu không thể tưởng tượng được trái tim mình đã bị bóp nghẹt bởi một cảm giác dao động lạnh lẽo khủng khiếp đến thế nào đâu. Số báo danh của mình là mười ba và Josie Pye nói nó rất xui xẻo. Mình không mê tín nên mình biết nó không có gì khác biệt cả. Nhưng mình vẫn ước gì nó không phải số mười ba."

"Mình ước gì có thể đi cùng bạn," Diana nói. "Chẳng phải chúng ta sẽ có một khoảng thời gian tuyệt vời sao? Nhưng mình đoán buổi tối cậu sẽ phải ôn thi."

"Không, cô Stacy bắt tụi mình hứa sẽ không mở quyển sách nào ra cả. Cô nói làm vậy chỉ khiến bọn mình mệt mỏi và rối trí thôi nên bọn mình sẽ ra ngoài tản bộ, không nghĩ gì đến thi cử cả và đi ngủ sớm. Đó là một lời khuyên đúng đắn, nhưng mình e là khó làm theo được; mình thấy lời khuyên đúng đắn thường khó được tuân theo thì phải. Prissy Andres nói với mình, cả tuần trước kì thi hôm nào chị ấy cũng thức đến tận nửa đêm để ôn thi trối chết; mình quyết định sẽ thức ít nhất cũng phải bằng chị ấy. Dì Josephine của cậu thật tốt bụng khi mời mình lưu lại Beechwood trong thời gian mình ở thị trấn."

"Cậu sẽ viết thư cho mình khi ở đó chứ?"

"Tối thứ Ba mình sẽ viết thư kể cho cậu biết ngày đầu tiên thế nào," Anne hứa.

"Thứ Tư mình sẽ quanh quẩn ở bưu điện," Diana thề.

Anne xuống thị trấn hôm thứ Hai tuần sau và đến thứ Tư, Diana ra bưu điện như đã hứa, và nhận được thư.

"Diana yêu quý [Anne viết]

Giờ là tối thứ Ba và mình đang viết thư trong thư viện ở Beechwood. Tối qua mình cô đơn khủng khiếp vì chỉ có một mình trong phòng và ước ao biết bao là cậu có ở đây cùng mình. Mình không thể ôn thi vì đã hứa với cô Stacy rồi, nhưng cố không mở cuốn Lịch sử ra là một việc cũng khó ngang với chuyện ngày xưa cố không đọc truyện trước khi học xong bài vậy.

Sáng nay cô Stacy đến thăm mình và hai cô trò cùng đến trường học, trên đường đi rủ thêm Jane, Ruby và Josie nữa. Ruby bảo mình chạm thử vào tay bạn ấy xem và nó lạnh như đá vậy. Josie nói mình trông như thể cả đêm không chợp mắt và bạn ấy không tin mình đủ sức khỏe để chịu nổi áp lực từ khóa học của thầy cho dù mình có trúng tuyển đi nữa. Có những lúc ngay cả mình cũng cảm thấy mình học hành cũng giậm chân tại chỗ không khác gì Josie Pye!

Khi tụi mình đến trường, rất nhiều học sinh từ khắp nơi trên đảo đã tụ tập về đây. Người đầu tiên mình trông thấy là Moody Spurgeon đang ngồi trên bậc thềm lẩm nhẩm một mình. Jane hỏi cậu ấy đang làm cái quái gì vậy và cậu ấy bảo đang nhẩm đi nhẩm lại bảng cửu chương để giữ bình tĩnh và vì Chúa, đừng có phá rối cậu ta, chỉ cần dừng lại một khoảnh khắc thôi là cậu ta sẽ hoảng sợ rồi quên hết những gì từng biết, nhưng bảng cửu chương giữ cho toàn bộ ý thức của cậu ta ở nguyên vị trí!

Khi tụi mình được gọi vào phòng thì cô Stacy phải đi chỗ khác. Jane và mình ngồi cạnh nhau và Jane bình tĩnh đến nỗi mình phải ghen tị. Chẳng cần đến bảng cửu chương Jane vẫn thật nhạy bén, vững vàng, thoải mái! Mình tự hỏi liệu vẻ ngoài của mình có giống như cảm giác trong lòng mình không và liệu mọi người có nghe thấy tiếng tim mình đập thình thịch vang vọng khắp phòng không. Rồi một người đàn ông bước vào, bắt đầu phát giấy thi môn tiếng Anh. Lúc cầm đề thi lên tay mình lạnh ngắt còn đầu óc quay mòng mòng. Đúng là giây phút khủng khiếp – Diana, mình cảm thấy y như bốn năm về trước lúc mình hỏi bác Marilla liệu mình có được ở lại Chái Nhà Xanh không – rồi tâm trí mình tỉnh táo hơn còn tim bắt đầu đập trở lại – mình quên nói rằng nó đã ngừng đập rồi – vì mình biết dù sao mình cũng có thể làm gì đó với tờ giấy đó.

Buổi trưa tụi mình về nhà ăn trưa rồi đến chiều trở lại thi Sử. Đề thi khá khó còn mình lẫn lộn ngày tháng một cách tệ hại. Tuy nhiên, mình nghĩ hôm nay mình làm khá tốt. Nhưng ôi, Diana, mai thi hình học rồi và cứ nghĩ đến nó là mình phải kiên quyết lắm mới không mở cuốn Euclid ra. Nếu nghĩ tới bảng cửu chương mà giúp được gì thì mình sẽ đọc nó từ giờ cho đến tận sáng hôm sau.

Tối nay mình đã đi thăm các bạn gái khác. Trên đường đi mình gặp Moody Spurgeon đang lơ đãng đi lang thang. Cậu ấy bảo cậu ấy đã biết rớt môn Lịch sử rồi, rằng cậu ấy sinh ra đã là nỗi thất vọng cho cha mẹ và cậu ấy sẽ về nhà ngay chuyến tàu sáng mai, và dù sao làm bồi bàn dễ hơn làm mục sư nhiều. Mình an ủi và thuyết phục cậu ấy ở lại đến cùng vì nếu không sẽ thật bất công với cô Stacy. Đôi khi mình đã ước mình là con trai, nhưng khi thấy Moody Spurgeon thì mình luôn mừng vì được là con gái và không phải chị em của cậu ấy.

Khi mình đến nhà trọ thì Ruby đang trong cơn hoảng loạn, bạn ấy vừa phát hiện ra một lỗi khủng khiếp trong bài thi tiếng Anh. Khi bạn ấy bình tĩnh lại cả nhóm bèn lên phố ăn kem. Tụi mình mong cậu có mặt ở đó biết chừng nào.

Ôi, Diana, phải chi bài thi hình học đã kết thúc! Nhưng thế đấy, như bà Lynde đã nói, mặt trời sẽ vẫn tiếp tục mọc và lặn cho mình có rớt môn hình học hay không. Điều đó đúng, nhưng không thoải mái chút nào. Mình nghĩ nếu mình rớt thì thà nó đừng tiếp tục thì hơn!

Bạn thân của cậu,
Anne"

Môn hình học và tất cả các môn thi khác đều kết thúc theo đúng lịch, Anne về nhà tối thứ Sáu, khá mệt nhưng khuôn mặt toát lên vẻ đắc thắng cố kìm nén. Diana sang Chái Nhà Xanh khi con bé vừa về và chúng gặp nhau cứ như thể đã xa cách hàng năm.

"Bạn cũ thân yêu, thật tuyệt vời biết bao khi thấy cậu trở về. Dường như đã cả năm trôi qua kể từ khi cậu xuống thị trấn và ôi, Anne, mọi chuyện như thế nào rồi?"

"Mình nghĩ tất cả đều khá tốt, trừ môn hình học. Mình không biết liệu có qua nổi môn này hay không và mình có một dự cảm sởn gai ốc rằng không. Ôi, tuyệt vời biết bao khi được về nhà. Chái Nhà Xanh là nơi đáng yêu nhất, thân thiết nhất trên đời."

"Những người khác thì sao?"

"Mấy bạn gái nói các bạn ấy biết sẽ không trúng tuyển, nhưng mình nghĩ họ làm bài cũng tốt lắm. Josie nói bài hình học dễ đến mức trẻ lên mười cũng làm được! Moody Spurgeon vẫn nghĩ sẽ rớt môn sử còn Charlie nói cậu ấy rớt đại số. Nhưng tụi mình không thật sự biết gì cho đến khi có danh sách trúng tuyển. Mà thế thì phải hai tuần nữa. Cứ tưởng tượng đến việc sống hai tuần trong sự hồi hộp như thế mà xem! Mình ước gì có thể đi ngủ và không bao giờ tỉnh dậy cho đến khi mọi thứ đã kết thúc."

Diana biết chẳng ích gì nếu hỏi tình hình của Gilbert Blythe nên chỉ khuyên: "Ôi, cậu sẽ qua thôi mà. Đừng lo!"

Mình thà không trúng tuyển còn hơn không thể trúng với điểm cao," Anne nói nhanh, đầy ẩn ý – và Diana hiểu ẩn ý đó – rằng thành công sẽ không trọn vẹn và cay đắng sẽ tăng thêm nếu nó không thể đứng trên Gilbert Blythe.

Chính viễn cảnh này đã khiến Anne căng thẳng thần kinh trong suốt kỳ thi. Gilbert cũng vậy. Chúng lướt qua nhau trên đường hàng tá lần mà không có bất cứ dấu hiệu quen biết nào, mỗi lần như thế Anne đều ngẩng cao đầu hơn một chút, ước ao thiết tha hơn một chút là mình đã làm bạn với Gilbert khi cậu đề nghị, và thề với sự quyết tâm hơn một chút là sẽ vượt qua cậu trong kỳ thi. Nó biết tất cả học trò ở Avonlea đều đang băn khoăn đứa nào sẽ đạt điểm cao hơn; thậm chí nó còn biết Jimmy Glover và Nes Wright đã đặt cược cho câu hỏi đó, và rằng Josie Pye đã nói đương nhiên Gilbert sẽ đứng trên; vậy nên con bé cảm thấy nếu mình thất bại thì sự nhục nhã sẽ lên đến mức không chịu đựng nổi.

Nhưng con bé còn có một động cơ khác cao quý hơn để mong làm tốt. Con bé muốn " đạt điểm cao" vì ông Matthew và bà Marilla – đặc biệt là Matthew. Ông Matthew đã tuyên bố chắc nịch là ông tin nó sẽ "đánh bại cả đảo". Điều đó, theo cảm nhận của Anne, là một điều quá ngốc nghếch để hi vọng ngay cả trong những giấc mơ phóng túng nhất. Nhưng con bé tha thiết hy vọng ít nhất cũng được ở trong Top mười, như vậy nó có thể thấy đôi mắt nâu hiền lành của ông Matthew lấp lánh niềm tự hào trước thành công của nó. Điều đó, theo cảm nhận của con bé, quả thật sẽ là một phần thưởng ngọt ngào cho tất cả sự chăm chỉ học hành và kiên nhẫn cày xới hàng bao phương trình và liên kết toán học khô khốc.

Ngày cuối cùng trong thời hạn hai tuần đó, Anne cũng "quanh quẩn" ở bưu điện, với sự đồng lõa điên cuồng của Jane, Ruby và Josie, mở thùng thư hàng ngày gửi từ Charlottetown với những bàn tay run run và cảm giác lạnh buốt tồi tệ y như trong tuần thi tuyển. Charlie và Gilbert cũng chẳng khá hơn, nhưng Moody Spurgeon thì kiên quyết tránh xa.

"Mình không có can đảm để đến đó và bình thản nhìn tờ giấy đó," nó nói với Anne. "Mình sẽ chỉ chờ khi người nào đó đến và thình *** h thông báo mình trúng tuyển hay không thôi."

Khi ba tuần đã trôi qua mà danh sách trúng tuyển vẫn không xuất hiện, Anne bắt đầu cảm thấy mình không thể chịu đựng căng thẳng lâu hơn. Khẩu vị của con bé suy giảm và hứng thú dành cho các công việc ở Avonlea cũng phai nhạt. Bà Lynde muốn biết liệu ta có thể chờ đợi gì khác khi đất nước được điều hành bởi một nhà quản lí giáo dục thuộc đảng Bảo thủ, còn ông Matthew, để ý thấy sự xanh xao, dửng dưng và những bước chân uể oải của Anne từ bưu điện về nhà mỗi chiều, bắt đầu nghiêm túc tự hỏi liệu ông có nên bầu cho đảng Cấp tiến trong kì bầu cử tới không.

Nhưng một tối kia tin tức đến. Anne đang ngồi bên khung cửa sổ mở toang, nhất thời quên đi tất cả mọi lo lắng về thi cử và những mối quan tâm đến cuộc sống vì mải đắm chìm trong vẻ đẹp của hoàng hôn mùa hè, với hương hoa ngọt ngào tỏa ra từ khu vườn bên dưới và tiếng những cây dương cựa mình xào xạc. Bầu trời đằng Đông bên kia rặng vân sam phơn phớt một màu hồng được phản chiếu từ phía Tây, và Anne đang mơ màng tự hỏi nàng tiên màu sắc trông như thế nào thì thấy Diana chạy như bay qua rừng linh sam, qua cây cầu gỗ rồi phóng lên dốc với một tờ báo phấp phới trong tay.

Anne bật dậy, biết ngay tờ báo có gì. Danh sách trúng tuyển có rồi! Đầu con bé quay mòng mòng và tim đập mạnh đến đau nhói. Nó không di chuyển được bước nào. Cứ như cả giờ trôi qua trước khi Diana vội vã băng qua hành lang và đâm bổ vào phòng mà không thèm gõ cửa, hết sức phấn khích.

"Anne, cậu trúng rồi," con bé la lên, "trúng thủ khoa... cả cậu và Gilbert... các cậu đồng hạng... nhưng tên cậu viết trước. Ôi, mình hãnh diện quá!"

Diana thảy tờ báo lên bàn, quăng mình lên giường Anne, gần như tắt thở và không thể nói thêm gì nữa. Anne thắp đèn, làm đổ hộp diêm và phải xài hết nửa tá diêm trước khi bàn tay run rẩy có thể hoàn thành nhiệm vụ. Rồi con bé vồ lấy tờ báo. Phải, nó đã trúng tuyển – tên nó đứng ngay đầu danh sách hai trăm người! Một khoảng khắc đáng để sống vì nó.

"Cậu thật tuyệt, Anne," Diana hổn hển khi đã gom đủ sức để ngồi dậy cất tiếng, còn Anne, mắt lấp lánh và vui sướng vô ngần, không thốt được lời nào. "Cha đem tờ báo từ Bright River về mới chừng mười phút trước thôi – cậu cũng biết nó về theo chuyến tàu chiều, còn thư sẽ không tới đây được đây trước ngày mai – và khi nhìn thấy danh sách trúng tuyển, mình liền chạy như điên. Các cậu trúng tuyển hết, tất cả các cậu, Moody Spurgeon và tất cả, mặc dù cậu ấy đậu vớt môn sử. Jane và Ruby làm khá tốt – đứng ở nửa đầu – Charlie cũng vậy. Josie chỉ thừa ba điểm, nhưng cậu sẽ thấy nó khoác lác cứ như thể mình dẫn đầu. Cô Stacy chắc sẽ vui lắm? Ôi, Anne, cảm giác tên mình đứng đầu danh sách thế nào? Nếu là mình, chắc mình sẽ điên lên vì sung sướng. Mình đã gần như điên lên rồi đây, mà cậu vẫn bình tĩnh và điềm đạm như tối mùa xuân vậy."

"Mình chỉ bối rối trong lòng," Anne nói. "Mình muốn nói cả trăm điều mà không tìm được lời gì để nói. Mình chưa bao giờ mơ đến chuyện này – phải, mình có mơ đến, chỉ một lần thôi! Mình cho phép bản thân run rẩy nghĩ đúng một lần, ‘Nếu mình đỗ thủ khoa thì sao?’, vì có vẻ quá kiêu căng và hợm hĩnh khi nghĩ rằng mình có thể đứng đầu cả đảo. Cho mình một phút nhé, Diana. Mình phải chạy ra đồng kể với bác Matthew đây. Rồi chúng mình sẽ lên đường báo tin tốt lành này cho những người khác."

Chúng chạy nhanh đến đồng cỏ phía dưới chuồng bò nơi Matthew đang cuộn cỏ, và may mắn thay, bà Lynde đang nói chuyện với bà Marilla ở hàng rào bên đường.

"Ôi, bác Matthew," Anne thốt lên. "Con đậu rồi và đậu thứ nhất – hay một trong những người đứng nhất! Con không kiêu căng mà rất biết ơn!"

"À ừ, ta luôn luôn nói vậy mà," ông Matthew nói, vui mừng nhìn danh sách. "Ta biết con có thể dễ dàng đánh bại tất cả."

"Phải nói là con làm rất tốt, Anne," bà Marilla nói, cố che dấu sự hãnh diện tột cùng về Anne trước đôi mắt soi mói của bà Rachel. Nhưng tâm hồn tử tế đó đã nhiệt thành nói: "Ta chắc là con bé đã làm tốt, và ta còn lâu mới ngần ngại khi nói điều này. Con là niềm tự hào của bạn bè, Anne, thật vậy, tất cả chúng ta đều hãnh diện vì con."

Đêm đó, kết thúc buổi tối hạnh phúc bằng một cuộc nói chuyện ngắn gọn nghiêm túc với cô Allan ở nhà mục sư, Anne ngoan ngoãn quỳ bên khung cửa sổ rộng mở dưới ánh trăng chan hòa, thầm thì một lời cầu nguyện biết ơn và khát khao hi vọng xuất phát từ trái tim. Trong lời cầu nguyện đó có sự tri ân với quá khứ cùng sự thỉnh cầu cung kính cho tương lai; và khi con bé thiếp ngủ trên chiếc gối trắng, những giấc mơ của nó trong sáng, rạng rỡ và đẹp như khát khao của những cô thiếu nữ.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 33. Buổi hòa nhạc ở khách sạn
Kiểu gì thì cũng phải mặc cái váy bằng vải phin trắng của cậu nhé, Anne," Diana khuyên với vẻ dứt khoát.

Chúng đang cùng ở trong căn phòng chái Đông; ngoài trời mới chập choạng tối – cái chập choạng xanh vàng đáng yêu với bầu trời trong xanh không một gợn mây. Một vầng trăng tròn to, đang dần dần chuyển từ màu vàng nhạt sang ánh bạc lấp lánh, lơ lửng trên rừng Ma Ám; không khí tràn ngập những âm thanh mùa hè ngọt ngào – tiếng chim lích chích, gió vi vu, tiếng nói cười xa xa. Nhưng trong phòng Anne rèm đã kéo và đèn đã thắp, vì một cuộc trang điểm quan trọng đang diễn ra.

Chái Đông đã khác nhiều so với cái đêm bốn năm trước, khi Anne cảm nhận sự trống trải của nó len lỏi vào tận xương tủy mang theo cái giá lạnh không hề hiếu khách. Những thay đổi, mà bà Marilla buộc lòng phải nhắm mắt làm ngơ, đã xâm nhập từng bước một cho đến khi căn phòng biến thành một cái tổ xinh xắn đáng yêu mà bất cứ cô thiếu nữ nào cũng khao khát.

Tấm thảm nhung in hình hoa hồng và rèm lụa hồng trong tưởng tượng ngày nào của Anne không bao giờ được thành hiện thực; nhưng những giấc mơ của Anne vẫn sánh bước cùng sự trưởng thành của cô bé và nó chẳng có lí do gì để than van về chúng. Sàn được trải thảm dễ thương, rèm vải muslin màu xanh nhạt đầy nghệ thuật bay bay theo cơn gió lang bạt, mang vẻ mềm mại đến cho khung cửa sổ cao. Tường không treo thảm thêu kim tuyến vàng và bạc mà dán giấy in hoa táo thanh nhã, được tô điểm bằng mấy bức tranh đẹp do cô Allan tặng Anne. Bức tranh của cô Stacy ngự trên một vị trí danh dự và xuất phát từ tình cảm của mình, Anne cảm thấy lúc nào cũng phải có hoa tươi trên cái kệ đặt phía dưới. Tối nay, một cành ly trắng thoang thoảng tỏa hương khắp phòng giống như trong giấc mơ về hương thơm đó. Không có "nội thất bằng gỗ gụ" nhưng có một kệ sách sơn trắng chật ních sách, một ghế bập bênh phủ nệm đan bằng liễu gai, một bàn trang điểm phủ vải muslin trắng, một chiếc gương từng được treo ở phòng ngủ dành cho khách trông hơi cổ kính có khung mạ vàng, trên đỉnh gương hình vòng cung là các hình thần Cupid mập mạp màu hồng và những chùm nho tím, và một chiếc giường trắng thấp.

Anne đang thay quần áo để dự buổi hòa nhạc ở khách sạn White Sands. Khách trọ ở khách sạn tổ chức buổi hòa nhạc này nhằm giúp đỡ bệnh viện Charlottetown và đã săn lùng mọi tài năng nghiệp dư ở các quận xung quanh để mời đến góp sức. Bertha Sampson và Pearl Clay từ dàn đồng ca của nhà thờ Baptist White Sands được mời song ca một bài; Milton Clark từ Newbridge độc tấu violin; Winnie Adella Blair từ Carmody hát một bài ballad Scotland còn Laura Spencer từ Spencervale và Anne Shirley từ Avonlea sẽ ngâm thơ

Như Anne từng nói, đây là "một kỉ nguyên trong đời con bé" và nó rùng mình dễ chịu với niềm phấn khích này. Ông Matthew vui sướng vô ngần bởi niềm kiêu hãnh được thỏa mãn trước vinh dự lớn lao mà Anne của ông được ban tặng và bà Marilla cũng vui không kém, mặc dù bà thà chết chứ không chịu thừa nhận điều này, bà còn nói việc một đám thanh niên tụ tập trong khách sạn mà không người có trách nhiệm nào đi kèm thì chẳng có gì đúng đắn.

Anne cùng Diana đi nhờ trong chiếc xe ngựa hai chỗ của hai anh em Billy và Jane Andrews; một số thanh thiếu niên Avonlea khác cũng sẽ đi. Có một buổi tiệc dành cho khách khứa ngoài thị trấn và sau buổi hòa nhạc sẽ có bữa tối cho các diễn viên.

"Cậu có nghĩ cái váy bằng vải phin đẹp nhất thật không?" Anne lo lắng hỏi. "Mình không nghĩ nó đẹp bằng bộ muslin hoa xanh – và nó chắc hẳn không thời trang lắm."

"Nhưng nó hợp với cậu hơn nhiều," Diana nói. "Nó rất mềm, có diềm xếp nếp và bó sát nữa. Cái bằng muslin hơi cứng và làm cậu có vẻ chải chuốt quá. Nhưng bộ bằng vải phin cứ như được dành riêng cho cậu vậy."

Anne thở dài đầu hàng. Diana đang ngày càng nổi tiếng về khiếu ăn mặc của mình, và rất nhiều người muốn nhận được lời khuyên của con bé về những vấn đề thế này. Trong buổi tối đặc biệt này trông con bé vô cùng xinh xắn trong chiếc váy màu hoa hồng dại đáng yêu, một thứ mà Anne bị cấm vĩnh viễn; nhưng Diana không tham gia vào buổi hòa nhạc nên sự hiện diện của nó không mấy quan trọng. Toàn bộ công sức của con bé đều được dành cho Anne, người mà, nó long trọng tuyên bố rằng vì danh dự của Avonlea nên phải ăn mặc, chải tóc và trang điểm theo thị hiếu của Nữ hoàng.

"Kéo cái diềm xếp ra một chút nữa – đúng thế, đây, để mình thắt dây lưng cho; còn giờ là giày bệt. Mình sẽ tết tóc cậu thành hai búi dày, buộc lưng chừng bằng hai cái nơ trắng to, không, đừng thả mỗi một lọn tóc quăn trước trán – chỉ để phủ lơ thơ thôi. Kiểu tóc của cậu chẳng hợp gì cả, Anne, cô Allan nói cậu trông cứ như Đức Mẹ khi rẽ tóc như thế. Mình sẽ cài bông hồng trắng nhỏ nhắn này ngay dưới tai cậu. Đây là bông duy nhất trong bụi hồng nhà mình đấy, và mình để dành nó cho cậu."

"Mình có thể đeo chuỗi hạt ngọc trai không?" Anne hỏi. "Tuần trước bác Matthew mua cho mình một chuỗi hạt trên phố, mình biết bác thích mình đeo nó."

Diana cong môi lên, nghiêng mái đầu đen nhánh sang một bên đánh giá rồi cuối cùng tuyên bố thích chuỗi hạt và đeo nó lên chiếc cổ mảnh mai trắng như sữa của Anne.

"Cậu có nét gì đó rất thanh lịch, Anne," Diana nói với vẻ ngưỡng mộ không gợn chút ghen tị. "Cậu ngẩng đầu với cái phong thái đó. Mình nghĩ đó là dáng vẻ của cậu. Mình thì cứ lùn tịt. Mình lúc nào cũng sợ chuyện đó, và bây giờ mình biết chuyện đó đúng rồi. À, mình nghĩ mình đành cam chịu thôi."

"Nhưng cậu có những lúm đồng tiền như thế kia mà," Anne nói, mỉm cười trìu mến với gương mặt xinh đẹp lanh lợi bên cạnh mình. "Những lúm đồng tiền đáng yêu như những chỗ lõm nhỏ trên lớp kem. Mình từ bỏ mọi hi vọng về lúm đồng tiền rồi. Giấc mơ lúm đồng tiền của mình sẽ không bao giờ thành hiện thực, nhưng đã có quá nhiều giấc mơ của mình thành hiện thực rồi nên mình chẳng thể than phiền gì nữa. Giờ mình đã sẵn sàng chưa?"

"Sẵn sàng rồi," Diana trấn an khi bà Marilla xuất hiện trên ngưỡng cửa, một hình dáng gầy gò với mái tóc dày sợi hoa râm hơn xưa và góc cạnh không hề ít hơn, nhưng khuôn mặt dịu dàng hơn nhiều. "Đến ngắm chuyên gia diễn thuyết của bác cháu mình xem này, bác Marilla. Bạn ấy trông đáng yêu không kìa?"

Bà Marilla phát ra một âm thanh nửa khịt mũi nửa càu nhàu.

"Con bé nhìn gọn gàng và đứng đắn. Ta thích cách để tóc đó. Nhưng ta e con bé sẽ phá hỏng cái váy khi đi trong bụi và sương thế này, nó có vẻ quá mỏng manh cho những buổi tối ẩm ướt thế này. Dù sao vải phin cũng là thứ vải kém tiện dụng nhất trên đời, ta đã nói với Matthew như vậy khi anh ấy mua nó. Nhưng thời buổi này nói gì với Matthew cũng vô ích thôi. Đã qua cái thời anh ấy nghe theo lời khuyên của ta rồi, giờ thì anh ấy cứ thế mà mua cho Anne chẳng thèm cân nhắc gì cả, và đám con buôn ở Carmody biết thừa họ có thể nhét bất cứ thứ gì vào tay anh ấy. Chỉ cần nói với anh ấy là món đó đẹp lắm, thời trang lắm, vậy là Matthew vung tiền mua liền. Cẩn thận đừng để váy vướng vào bánh xe, Anne, mặc áo ấm nữa."

Rồi bà Marilla bước xuống nhà, hãnh diện nghĩ Anne trông dễ thương đến mức nào với ánh trăng tỏa rạng từ trán tới đỉnh đầu và nuối tiếc vì không thể đích thân đến buổi hòa nhạc nghe cô gái của mình ngâm thơ.

"Không biết trời có quá ẩm ướt đối với cái váy không?" Anne lo lắng hỏi.

"Không hề," Diana nói, kéo rèm cửa lên. "Đây là một buổi tối hoàn hảo, sẽ chẳng sương siếc gì đâu. Nhìn ánh trăng kìa."

"Mình rất mừng là cửa sổ phòng mình quay hướng đông về phía mặt trời mọc," Anne nói, đi đến chỗ Diana. "Thật tuyệt biết bao khi được nhìn bình minh ló dạng qua những ngọn đồi trải dài đó và tỏa sáng qua những ngọn linh sam nhọn. Mỗi buổi sáng đều mới mẻ và mình cảm thấy như được gột sạch tâm hồn trong nắng sớm mai. Ôi, Diana, mình yêu căn phòng nhỏ bé này quá. Mình không biết làm sao có thể chịu được nếu không có nó khi xuống thị trấn tháng tới."

"Tối nay đừng nhắc đến chuyện cậu ra đi," Diana năn nỉ. "Mình không muốn nghĩ tới nó, nó làm mình đau khổ mà tối nay mình lại muốn được vui vẻ. Cậu sẽ ngâm bài gì, Anne? Cậu có hồi hộp không?"

"Không chút nào. Mình ngâm thơ trước đông người thường xuyên quá nên giờ không còn cảm giác đó nữa. Mình quyết định sẽ ngâm ‘Lời thề thiếu nữ’. Nó cảm động quá. Laura Spencer sẽ ngâm một bài thơ hài, nhưng mình muốn làm mọi người khóc hơn cười.""Vậy cậu sẽ ngâm gì nếu người ta mời cậu trình diễn thêm một lần nữa?"

"Họ sẽ không mơ tưởng tới chuyện mời mình diễn lại đâu," Anne đùa, mặc dù không phải không có chút hi vọng thầm kín về điều đó và đã vẽ sẵn ra viễn cảnh sẽ kể lại toàn bộ chuyện đó cho ông Matthew nghe ở bàn ăn sáng mai. "Billy và Jane tới rồi kìa – mình nghe tiếng bánh xe. Đi nào."

Billy Andrews cứ nài Anne lên ngồi ghế trước với anh ta, nên con bé miễn cưỡng nghe theo. Nó thích ngồi sau ngồi sau với lũ con gái hơn nhiều để có thể cười đùa tán chuyện thoải mái. Không có nhiều thứ để cười đùa hay tán chuyện với Billy. Anh ta là một chàng trai chừng hai mươi tuổi, mập mạp, lù -censor- với gương mặt tròn ngây ngây và có khả năng nói chuyện kém cỏi đến đau lòng. Nhưng anh ta ngưỡng mộ Anne cực độ, và vênh váo tự hào trước viễn cảnh đánh xe đến White Sands với dáng hình mảnh mai, ngồi thẳng lưng đó bên cạnh mình.

Anne vẫn xoay xở để tận hưởng chuyến đi bất chấp mọi chuyện, cho dù cứ phải nói vọng lại phía sau mãi với mấy đứa con gái và thình thoảng nói vài câu cho phải phép với Billy – người cứ nhăn nhăn nhở nhở, cười khúc khích và không bao giờ nghĩ ra được câu trả lời nào mãi đến khi quá trễ. Đó là đêm dành cho sự thích thú. Đường phố đông nghịt xe ngựa, tất cả đều hướng tới khách sạn, tiếng cười trong như bạc vang vọng khắp nơi. Khi họ tới khách sạn thì nơi này là một luồng sáng rực rỡ khắp từ chân lên đến đỉnh. Họ được mấy người phụ nữ trong ủy ban hòa nhạc đón tiếp, một người trong số đó dẫn Anne tới phòng trang điểm của diễn viên lúc này đã chật ních các thành viên của Câu lạc bộ Nhạc giao hưởng Charlottetown mà ở giữa những người đó, Anne đột nhiên cảm thấy ngượng ngùng, sợ hãi và quê mùa. Bộ váy của con bé lúc ở chái Đông trông đẹp đẽ xinh xắn đến vậy giờ lại thật đơn giản xuềnh xoàng – quá đơn giản xuềnh xoàng, con bé nghĩ, giữa tất cả những lụa là, đăng ten lấp lánh sột soạt xung quanh. Làm sao chuỗi hạt ngọc trai của con bé so được với những viên kim cương của quý bà đẫy đà, xinh đẹp bên cạnh? Và bông hồng trắng nhỏ xíu của nó trông tội nghiệp làm sao bên cạnh những bông hoa nhà kính mà những người khác cài! Anne cởi mũ và áo khoác ra, khổ sở lui vào một góc. Nó ước chi mình được trở lại căn phòng trắng ở Chái Nhà Xanh.

Mọi thứ còn tệ hơn nữa trên bục hòa nhạc trong hội trường khách sạn rộng rãi, nơi con bé đang đứng. Ánh điện làm chói mắt nó, mùi nước hoa và tiếng nói chuyện làm nó hoang mang. Con bé chỉ mong sao mình đang đứng lẫn trong đám khán giả dưới kia cùng Diana và Jane, hai đứa dường như đang có khoảng thời gian hay ho. Con bé bị lèn giữa một quý bà đẫy đà mặc váy lụa hồng và một con bé dáng cao vẻ khinh khỉnh mặc váy trắng viền đăng ten. Quý bà đẫy đà thỉnh thoảng quay thẳng đầu lại quan sát Anne qua đôi mắt kính cho đến khi con bé, nhạy cảm sâu sắc với việc bị săm soi như vậy, cảm thấy mình phải hét lớn lên; còn cô nàng váy trắng diềm đăng ten thì cứ toang toác với người bên cạnh về những "đứa nhà quê" và "hoa khôi nông thôn" trong số khán giả, uể oải đoán trước "sự khôi hài" từ những màn trình diễn của các tài năng địa phương trong chương trình. Anne tin rằng mình sẽ ghét con bé mặc váy trắng diềm này cho đến hết đời.

Không may cho Anne, một nhà diễn thuyết chuyên nghiệp đang trọ ở khách sạn và đồng ý lên ngâm thơ. Bà là một phụ nữ mắt đen yểu điệu, mặc chiếc váy len xám lung linh tuyệt đẹp như được dệt từ ánh trăng, đá quý đeo trên cổ và đính trên mái tóc đen nhánh. Bà có giọng nói uyển chuyển tuyệt dịu cùng sức mạnh biểu cảm tuyệt vời; khán giả phát điên với phần trình diễn của bà. Anne, trong khoảng khắc quên cả bản thân lẫn những rắc rối của mình, lắng nghe với ánh mắt lấp lánh niềm vui; nhưng khi màn ngâm thơ kết thúc con bé đột nhiên đưa tay lên che mặt. Nó không thể lên ngâm thơ sau màn trình diễn đó – không bao giờ? Nó từng nghĩ mình có thể ngâm thơ sao? Ôi, giá như nó được trở lại Chái Nhà Xanh!

Ngay thời điểm không thích hợp này, tên con bé được xướng lên. Không hiểu bằng cách nào, Anne – không để ý đến cái giật mình ngạc nhiên có phần tội lỗi của đứa con gái váy trắng diềm đăng ten, và cũng không hiểu được sự ngợi khen kín đáo ngầm ẩn trong đó, nếu cô nàng đó có ý như vậy thật – cũng đứng được lên rồi choáng váng bước về phía trước. Con bé nhợt nhạt đến nỗi Diana và Jane, ở dưới khu vực khán giả, nắm chặt tay nhau trong sự đồng cảm bồn chồn.

Anne là nạn nhân của một cơn choáng ngợp vì sợ hãi sân khấu. Dù hay ngâm thơ trước đông người nhưng con bé chưa từng đối mặt với khán giả nào tầm cỡ thế này nên khung cảnh đó làm tê liệt hoàn toàn năng lượng của nó. Mọi thứ đều quá lạ lẫm, quá rực rỡ và quá choáng váng – những hàng phụ nữ mặc váy dạ tiệc, những gương mặt khó đăm đăm, toàn bộ bầu không khí giàu có và kiểu cách quanh con bé. Rất khác so với những hàng ghế đơn sơ ở câu lạc bộ hùng biện, nơi đông đúc những gương mặt thân thiện đáng mến của bạn bè và hàng xóm. Những người này, con bé nghĩ, sẽ là những nhà phê bình tàn nhẫn. Có lẽ, giống như đứa con gái váy trắng diềm, họ trông chờ một trò giải trí từ những nỗ lực "quê mùa" của con bé. Anne cảm thấy xấu hổ và khổ sở một cách tuyệt vọng, vô phương cứu chữa. Đầu gối nó run lên bần bật, tim đập loạn lên vì kích động, một cơn choáng váng khủng khiếp trùm lên người nó; con bé không thốt nổi lời nào và suýt nữa đã lao ra khỏi sân khấu bất chấp sự nhục nhã mà nó cảm thấy sẽ đeo đẳng cả đời nếu nó làm vậy.

Nhưng đột nhiên, khi cặp mắt mở to sợ hãi của nó quét quanh khán giả, nó thấy Gilbert Blythe ở cuối phòng, đang cúi người về trước với nụ cười trên mặt – một nụ cười mà Anne cảm giác sặc mùi châm chọc và đắc thắng. Thật nó không hề có màu sắc đó. Gilbert chỉ thuần túy cười vì hài lòng với toàn bộ buổi diễn nói chung và vì tác động của dáng hình mảnh mai màu trắng và khuôn mặt thần thánh của Anne nổi bật trên phông nền hình cây cọ nói riêng. Josie Pye, người cậu ta đưa tới, ngồi kế bên, và gương mặt nó thì đích thực toát lên vẻ vừa đắc thắng vừa châm chọc. Nhưng Anne không nhìn thấy Josie và cho dù có thấy thì cũng chẳng quan tâm. Con bé hít một hơi dài, hất đầu kiêu hãnh, lòng can đảm và sự quyết tâm đang rộn lên khắp người nó như cơn sốc điện. Nó sẽ không thất bại trước mặt Gilbert Blythe – cậu ta sẽ không bao giờ có thể cười nó, không bao giờ, không bao giờ! Nỗi sợ hãi và lo lắng của con bé biến mất; nó bắt đầu ngâm thơ, giọng trong trẻo ngọt ngào vọng đến tận góc xa nhất của căn phòng, không hề run rẩy và không lúc nào đứt khoảng. Sự tự chủ của con bé đã được khôi phục hoàn toàn, và để đáp trả giây phút bất lực kinh hoàng kia, con bé ngâm thơ như chưa bao giờ ngâm như thế. Khi con bé kết thúc, những tràng pháo tay chân thành bùng nổ. Anne đang bước về chỗ, mặt đỏ bừng vì thẹn thùng và vui sướng, thì quý bà đẫy đà váy lụa hồng nắm chặt tay nó mà lắc lấy lắc để.

"Cưng ơi, con thật tuyệt," bà hổn hển. "Ta đã khóc như một đứa trẻ, thật vậy đấy. Kìa, họ đang yêu cầu con diễn lại kìa... họ muốn con trở lại!"

"Ôi, con không đi được đâu," Anne bối rối nói. "Nhưng... con phải quay lại thôi, nếu không bác Matthew sẽ thất vọng. Bác ấy nói họ sẽ yêu cầu con diễn lại."

"Vậy thì đừng làm Matthew thất vọng," người phụ nữ váy hồng vừa cười vừa nói.

Miệng mỉm cười, má ửng hồng, mắt trong veo, Anne bước trở lại ngâm một bài thơ ngắn ngộ nghĩnh, và còn chiếm được tình cảm của khán giả nhiều hơn nữa. Phần còn lại của buổi tối thật là một chiến thắng nhỏ cho con bé.

Khi buổi hòa nhạc kết thúc, người phụ nữ đẫy đà váy hồng – vốn là vợ của một triệu phú Mĩ – dẫn nó đi giới thiệu với mọi người; và ai cũng tử tế với con bé. Nhà diễn thuyết chuyên nghiệp, bà Evans, tới trò chuyện với con bé và bảo nó có giọng nói truyền cảm và "thể hiện" phần trình diễn của mình rất hay. Ngay cả con bé váy trắng diềm đăng ten cũng thoáng tỏ thái độ khen ngợi Anne. Họ dùng bữa tối trong phòng ăn rộng trang trí đẹp đẽ, Diana và Jane cũng được mời vì chúng đi cùng Anne, nhưng Billy thì trốn mất tăm mất dạng vì sợ chết khiếp trước lời mời đó. Tuy nhiên, cậu ta cùng cỗ xe đã đợi sẵn chúng khi mọi chuyện xong xuôi, và ba cô gái vui vẻ bước ra ngoài trời, hòa mình vào ánh trăng sáng trắng, bình yên. Anne thở sâu, ngước mắt lên bầu trời trong vắt đằng sau những rặng linh sam tối sẫm.

Ôi, thật tuyệt vời khi lại được ở ngoài trời giữa sự trong lành và yên tĩnh của buổi tối! Mọi thứ mới hay ho, tĩnh mịch, và tuyệt vời làm sao, với tiếng biển thì thầm xuyên qua không trung và những vách đá tối sẫm ngoài xa trông như những gã khổng lồ dữ tợn đang canh giữ bờ biển bị yểm bùa.

"Đây chẳng phải một khoảng thời gian vô cùng tuyệt diệu sao?" Jane thở dài khi cả nhóm đang trên đường về nhà. "Ước gì mình là một người Mĩ giàu có để có thể nghỉ hè ở khách sạn, đeo nữ trang, mặc váy cổ trễ, ăn kem và salad gà mỗi ngày tốt lành. Mình chắc chắn nó sẽ vui hơn dạy học nhiều. Anne, phần trình diễn của cậu quá tuyệt vời, mặc dù lúc đầu mình đã tưởng cậu sẽ không bao giờ bắt đẩu. Mình nghĩ nó còn hay hơn phần trình diễn của bà Evans nữa."

"Ôi, không, đừng nói vậy, Jane," Anne vội nói, "vì nghe ngốc nghếch lắm. Nó không thể hay hơn của bà Evans được, cậu biết đó, vì bà ấy là người chuyên nghiệp còn mình chỉ là một nữ sinh tập tành kể chuyện thôi. Chỉ cần mọi người hơi thích phần kể chuyện của mình là mình đã rất hài lòng rồi."

"Mình biết một lời khen dành cho cậu, Anne," Diana nói. "Ít ra mình nghĩ nó hẳn là một lời khen vì giọng ông ta lúc nói câu đó. Dù sao thì cũng có một phần. Có một người Mĩ ngồi ngay sau mình và Jane – chính là người đàn ông trông rất lãng mạn, mắt đen láy và tóc đen như mun đó. Josie Pye nói ông ta là một nghệ sĩ có hạng, và rằng một người họ hàng bên đằng ngoại của cậu ta ở Boston cưới một người từng học chung trường với ông ta. Vậy đấy, chúng mình nghe ông ấy nói – phải không, Jane" – ‘Cô gái đứng trên sân khấu với mái tóc Titian rực rỡ đó là ai vậy? Cô ấy có gương mặt tôi muốn vẽ.’ Vậy đó, Anne. Nhưng tóc Titian nghĩa là gì vậy?"

"Mình đoán nó có nghĩa là tóc đỏ," Anne bật cười. "Titian là một nghệ sĩ rất nổi tiếng, thích vẽ phụ nữ tóc đỏ."

"Cậu có thấy tất cả mớ kim cương những quý bà đó đeo không?" Jane thở dài "Chúng đến là lấp lánh. Các cậu không muốn giàu có sao?"

"Chúng ta giàu có đấy chứ," Anne nói giọng chắc chắn. "Sao nào, chúng ta có mười sáu năm tận hưởng, chúng ta vui vẻ như những bà hoàng và chúng ta ít nhiều đều có trí tưởng tượng. Nhìn mặt biển đằng kia xem, các cậu – tất thảy ánh bạc, bóng tối và hình ảnh tưởng tượng về những thứ mắt thường không nhìn thấy. Chúng ta chẳng thể tận hưởng sự đáng yêu của chúng nữa nếu chúng ta có cả triệu đô la và hàng chuỗi kim cương. Cậu sẽ không đổi chỗ cho bất kì phụ nữ nào trong số đó dù cậu có thể. Cậu có muốn trờ thành con bé váy đăng ten trắng đó và cả đời đeo bộ mặt cáu kỉnh cứ như sinh ra để hếch mũi lên với đời? Hay là quý bà váy hồng, dù tử tế và dễ chịu nhưng mập lùn đến nỗi không nhận ra được dáng vóc gì cả? Hay ngay cả bà Evans, với ánh mắt u sầu đến thế? Bà ấy hẳn từng trải qua những chuyện bất hạnh khủng khiếp nên mới có ánh mắt đó. Bạn biết bạn sẽ không đổi, Jane Andrews!"

"Mình không biết... chính xác," Jane ngập ngừng nói. "Mình nghĩ kim cương có thể an ủi người ta rất nhiều."

"Thế đấy, mình không muốn làm bất cứ ai ngoài chính mình, cho dù suốt cả đời mình không được an ủi bằng kim cương," Anne tuyên bố. "Mình rất hài lòng khi là Anne của Chái Nhà Xanh, với chuỗi hạt ngọt trai của mình. Mình biết bác Matthew đã tặng nó cho mình kèm theo một tình yêu thương sâu sắc mà đám trang sức của Quý Bà Váy Hồng đó không bao giờ có được."
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 34. Cô gái trường Queen
Ba tuần tiếp theo là ba tuần bận rộn ở Chái Nhà Xanh, vì Anne phải chuẩn bị đến trường Queen, còn quá nhiều việc may vá phải hoàn thành, nhiều vấn đề phải bàn thảo và sắp xếp. Trang phục của Anne vừa nhiều vừa đẹp vì ông Matthew đã đích thân lo liệu còn bà Marilla thì lần này chẳng phản đối bất cứ thứ gì ông mua hay đề nghị. Hơn thế nữa - một tối bà lên chái Đông ôm theo đống vải màu xanh lơ nhã nhặn.

"Anne, có một chiếc váy sáng màu xinh xắn cho con này. Ta không nghĩ con thật sự cần nó; con đã có nhiều váy đẹp rồi; nhưng ta nghĩ có thể con sẽ thích một cái thật lộng lẫy để mặc nếu được mời đi đâu đó trong thị trấn vào buổi tối, tới một buổi tiệc hay đại loại thế. Ta nghe nói Jane, Ruby và Josie đều có "đầm dạ tiệc", như cách chúng gọi đó, và ta không muốn con bị thua kém. Tuần trước ta đã nhờ cô Allan giúp ta chọn vải trên thị trấn, rồi chúng ta nhờ Emily Gillis may cho con. Emily rất có khiếu thẩm mỹ, tài cắt may của cô ấy thì không ai sánh được."

"Ôi, bác Marilla, nó đáng yêu quá," Anne nói."Cám ơn bác rất nhiều. Con không tin được bác lại tốt với con thế này - nó làm con càng ngày càng thấy khó ra đi hơn."

Chiếc váy xanh được may với số đường viền, diềm và nếp bèo tối đa theo sở thích của Emily. Một tối, để chiều lòng ông Matthew và bà Marilla, Anne mặc nó rồi ngâm "Lời thề thiếu nữ" cho họ nghe trong bếp. Khi ngắm nhìn khuôn mặt sáng sủa, linh hoạt cùng những động tác duyên dáng đó, bà Marilla nhớ lại buổi tối Anne đến Chái Nhà Xanh, và ký ức gợi lại hình ảnh sống động của một đứa bé kỳ quặc, sợ hãi trong chiếc váy ngớ ngẩn bằng vải pha len màu nâu ố vàng, đôi mắt đẫm lệ hiện rõ vẻ đau khổ. Một điều gì đó trong ký ức làm nước mắt bà ứa ra.

"Con tuyên bố, tiết mục ngâm thơ của con đã làm bác khóc, bác Marilla," Anne vui vẻ nói, sà xuống ghế của Marilla để hôn phớt lên má bà. "Giờ, con gọi đó là chiến thắng tuyệt đối."

"Không, ta không khóc vì bài thơ của con," bà Marilla nói, cảm thấy sẽ bị coi thường nếu để lộ sự yếu đuối như vậy chỉ vì mấy thứ thơ với thẩn. "Chỉ là ta không thể không nghĩ tới con hồi còn bé, Anne à. Và ta ước chi con cứ mãi là một cô bé, ngay cả với toàn bộ cung cách kỳ quặc của con. Giờ con lớn rồi và sắp đi mất; con trông cao ráo, hợp mốt và quá... quá... khác biệt trong cái váy đó - cứ như thể con không hề thuộc về Avonlea - chỉ là ta thấy cô độc khi nghĩ rằng tất cả đã kết thúc."

"Bác Marilla!" Anne ngồi xuống vạt váy ca rô của bà Marilla, ôm lấy khuôn mặt nhăn nheo của bà bằng cả hai tay,rồi dịu dàng và nghiêm trang nhìn thẳng vào mắt bà. "Con chẳng thay đổi chút nào - thật sự không. Con chỉ được tỉa tót và đâm cành vươn nhánh ra thôi. Con người thật sự của con - ngay lúc này đây - cũng vẫn như vậy. Cho dù con có đi bất cứ đâu hoặc bên ngoài con có thay đổi thế nào thì vẫn không có gì khác cả, từ tận đáy lòng con sẽ mãi mãi là Anne bé bỏng của bác, người sẽ yêu bác, yêu bác Matthew và Chái Nhà Xanh thân thương mỗi ngày một nhiều hơn và sâu sắc hơn cho đến tận cuối đời."

Anne áp bầu má trẻ trung mơn mởn của mình lên gò má già cỗi của bà Marilla rồi với tay ra khẽ vỗ vai ông Matthew. Ngay lúc đó, bà Marilla sẵn sàng đánh đổi tất cả để có thể sở hữu sức mạnh diễn đạt cảm xúc bằng lời nói của Anne; nhưng bản tính và thói quen đã hướng nó theo cách khác, vậy là bà chỉ có thể vòng tay qua cô gái của mình, dịu dàng ôm cô vào lòng, ước gì không bao giờ phải để cô ra đi.

Ông Matthew, mắt ươn ướt một cách đáng ngờ, đứng lên đi ra ngoài. Dưới bầu trời sao của đêm hè thăm thẳm, ông bối rối bước qua sân đến bên cánh cổng nằm dưới hàng phong.

"À ừ, mình nghĩ con bé đã không bị nuông chiều thành hư," ông tự hào lẩm bẩm. "Mình nghĩ rốt cuộc chuyện mình thỉnh thoảng can thiệp cũng không gây hại gì lắm. Con bé thông minh xinh xắn, lại biết yêu thương nữa, điều này mới là tuyệt vời nhất. Con bé là một phép lành với mình và Marilla, và chẳng bao giờ có sai lầm nào may mắn hơn sai lầm mà bà Spencer đã phạm – nếu nó là may mắn. Mình không tin nó thuộc kiểu đó. Nó là Định mệnh, vì Đấng Toàn Năng nhận thấy mình và Marilla cần con bé, mình cho là thế."

Cuối cùng ngày Anne phải lên tỉnh cũng đến. Cô và ông Matthew lên đường trong một sáng tháng Chín đẹp trời, sau màn chia tay đẫm lệ với Diana và cuộc chia tay không nước mắt - ít nhất là về phía bà Marilla - với bà Marilla. Nhưng khi Anne đi rồi, Diana lau khô nước mắt rồi tham gia chuyến picnic bãi biển ở White Sands với mấy người họ hàng Carmody của mình, nơi cô gái tìm đủ mọi cách để có thể chơi đùa khá vui vẻ; trong lúc đó bà Marilla điên cuồng vùi đầu vào những công việc không cần thiết, cứ như thế cả ngày với nỗi đau khổ cay đắng nhất - nỗi đau cháy bỏng, gặm nhấm và không thể gột rửa bằng những giọt lệ đong đầy trong mắt. Nhưng tối đó, khi đi ngủ, nhận thức được một cách sâu sắc và đau khổ rằng căn phòng nhỏ đầu hồi ở cuối hành lang không còn là nơi trú ngụ của bất cứ sức sống trẻ trung sôi nôi nào, cũng không còn được khuấy động bởi bât cứ tiếng thở khẽ khàng nào, bà Marilla vùi mặt vào gối khóc cho cô gái của mình, nức nở thảm thiết đến mức khiến bà thất kinh hồn vía khi đã đủ bình tĩnh lại để nhớ ra rằng hẳn không hay ho gì khi xúc động đến thế vì một sinh linh tội lỗi.

Anne và những học sinh Avonlea còn lại tới thị trấn vừa kịp giờ đến trường. Ngày đầu tiên trôi qua khá dễ chịu trong một vòng xoáy phấn khích, gặp tất cả sinh viên mới, học cách nhận diện các giáo sư và được phân loại sắp xếp vào các lớp. Anne định theo chương trình Năm Hai theo lời khuyên của cô Stacy, Gilbert Blythe cũng vậy. Điều này có nghĩa nếu thành công, cả hai sẽ nhận được bằng giáo viên Lớp Một trong một năm thay vì hai, nhưng cũng đồng nghĩa với việc phải học nhiều và chăm chỉ hơn. Jane, Ruby, Josie, Charlie và Moody Spurgeon, không bận tâm đến mấy thứ tham vọng như vậy, hài lòng theo học Lớp Hai. Anne ý thức được nỗi cô đơn đột ngột khi thấy mình ở trong phòng học với năm mươi sinh viên khác mà trong số đó cô không biết một ai, ngoại trừ tên con trai dong dỏng, tóc nâu bên kia phòng, và quen biết theo cái kiểu của mình thì cũng chẳng giúp ích gì nhiều, cô gái bi quan nhớ lại. Tuy vậy hiển nhiên cô vui mừng khi cả hai học cùng lớp; những đua tranh cũ có lẽ vẫn tiếp tục, và Anne gần như không biết phải làm gì nếu thiếu chuyện đó.

"Mình sẽ không thoải mái nếu không có chuyện đó," cô nghĩ."Gilbert có vẻ cả quyết đến ghét. Mình chắc ngay lúc này đây, cậu ta đã quyết định phải đạt được huy chương! Cậu ta có cái cằm mới đẹp làm sao chứ! Trước đây mình chưa từng để ý đến nó.Mình ước gì Jane và Ruby cũng vào Lớp Một. Tuy vậy, mình nghĩ khi đã quen rồi mình sẽ không thấy quá lạc lõng nữa. Không biết trong những cô gái ở nơi này, ai sẽ trở thành bạn của mình đây. Quả thực là một suy đoán rất thú vị. Dĩ nhiên mình đã hứa với Diana rằng không cô gái trường Queen nào, cho dù được mình thích đến đâu, có thể trở nên thân thiết với mình như bạn ấy; nhưng mình có rất nhiều tình yêu thứ hai để trao tặng. Mình thích dáng vẻ của cô gái mắt nâu váy đỏ. Cô ấy trông thật hồng hào khỏe khoắn; còn cả cô gái xanh xao đang dán mắt ra ngoài cửa sổ nữa. Tóc cô ấy thật đáng yêu và có vẻ cô ấy cũng biết đôi chút về các giấc mơ. Mình muốn quen biết cả hai - quen biết thân tình - đủ thân để mình có thể ôm eo họ mà đi và gọi họ bằng biệt danh. Nhưng bây giờ mình không quen họ và họ không quen mình, có lẽ còn chẳng muốn quen mình nữa. Ôi, cô đơn biết bao!"

Nỗi cô đơn còn lớn hơn khi chiều tối hôm đó Anne thấy mình chỉ có một mình trong phòng ngủ. Anne không trọ cùng ai, mấy người bạn gái đều có họ hàng ở thị trấn quan tâm. Bà Josephine Barry muốn cho cô ở trọ nhưng Beechwood xa trường quá nên chẳng phải bàn đến nữa, vì vậy bà Barry đã tìm một nhà trọ, đảm bảo với ông Matthew và bà Marilla rằng đó là nơi phù hợp với Anne.
"Bà chủ nhà là một quý tộc sa sút," bà Barry giải thích."Chồng bà ta là sĩ quan Anh, và bà ta rất kỹ tính khi nhận khách trọ. Anne sẽ không gặp bất kỳ kẻ chướng tai gai mắt nào dưới mái nhà của bà ấy. Bàn ghế còn tốt, nhà lại nằm trong một khu dân cư yên tĩnh gần trường."

Tất cả điều này có lẽ đều là sự thật, và quả thực, chúng đều là sự thật, nhưng căn bản chẳng giúp gì được cho Anne trong lúc cô bị bủa vây lần đầu tiên trong nỗi nhớ nhà da diết. Cô rầu rĩ nhìn khắp lượt căn phòng nhỏ hẹp, với những bức tường không tranh ảnh dán giấy chán ngắt, cái khung giường sắt nhỏ và kệ sách trống trơn; và một cảm giác nghẹn ngào khủng khiếp thít chặt cổ họng Anne khi cô nghĩ tới căn phòng trắng ở Chái Nhà Xanh, nơi cô ý thức được một cách dễ chịu về màu xanh vẫn bát ngát bên ngoài khung cửa, đậu hoa đang mọc ngoài vườn, ánh trăng đang rọi lên vườn cây ăn trái, về dòng suối dưới con dốc và những bụi vân sam xào xạc trong gió đêm, về bầu trời sao bao la và ánh đèn từ cửa sổ phòng Diana nhấp nháy xuyên qua khe hở giữa những hàng cây. Ở đây chẳng có thứ gì cả; Anne biết rõ bên ngoài cửa sổ phòng mình là một con đường cứng nhắc, với một mạng lưới dây điện thoại chằng chịt trên trời, tiếng bước chân nặng nề của những người xa lạ, và cả ngàn ánh sáng lấp lánh trên những bộ mặt không quen biết. Anne biết mình sẽ òa khóc nên cố gắng cưỡng lại.

"Mình không khóc.Thật ngốc nghếch - và yếu đuối - đây là giọt nước mắt thứ ba rớt xuống mũi mình rồi. Còn bao nhiêu giọt đang chảy ra nữa này! Mình phải nghĩ tới chuyện gì vui để ngăn chúng lại. Nhưng chẳng có gì vui ngoài những chuyện liên quan tới Avonlea, như thế chỉ làm mọi thứ tệ thêm thôi... bốn... năm... thứ Sáu tuần sau mình sẽ về nhà, nhưng cứ như cả trăm năm vậy. Ôi, bác Matthew giờ đã gần về đến nhà rồi... và bác Marilla ở cổng, dõi mắt xuống đường mòn chờ bác ấy... sáu... bảy... tám, ôi, đếm chúng chẳng ích gì! Chúng tuôn như lũ rồi. Mình không thể vui lên được... mình không muốn vui lên.Thà đau khố còn dễ chịu hơn!"

Trận lũ nước mắt chắc chắn đã kéo đến nếu Josie Pye không xuất hiện đúng lúc đó. Trong niềm vui được nhìn thấy một gương mặt thân quen, Anne quên mất rằng không có nhiều tình cảm giữa nó và Josie.Với tư cách là một phần của cuộc sống Avonlea, ngay cả Pye cũng được hoan nghênh.

"Mình rất vui vì cậu đến," Anne nói chân thành.

"Cậu đang khóc," Josie bình phẩm với vẻ thương hại đến là đáng ghét. "Mình nghĩ cậu nhớ nhà - một số người có khả năng kiềm chế bản thân ở phương diện này rất kém. Mình có thể nói là mình không có ý định nhớ nhà gì hết. Thị trấn quá vui vẻ so với cái xứ Avonlea già cỗi chật chội đó. Không hiểu sao mình có thể tồn tại ở đó lâu đến vậy. Cậu không nên khóc, Anne; không hợp đâu, vì mắt mũi sẽ đỏ lên, rồi cậu sẽ thấy cái gì cũng đỏ. Hôm nay ỏ trường mình đã có khoảng thời gian tuyệt diệu. Giáo sư tiếng Pháp của mình đúng là một con vịt. Bộ ria mép của ông ấy sẽ làm cậu giật mình đấy. Cậu có cái gì ăn được ở đây không, Anne? Mình quả thật rất đói. À, mình đoán thể nào bác Marilla cũng nhồi cho cậu cả đống bánh. Vậy nên mình mới tạt qua đây. Bằng không mình đã đi cùng Frank Stocley đến công viên nghe ban nhạc chơi rồi. Cậu ta trọ cùng chỗ với mình và vui vẻ lắm. Hôm nay cậu ta nhìn thấy cậu trong lớp và hỏi mình con bé tóc đỏ là ai vậy. Mình bảo cậu ta rằng cậu là đứa bé mô côi được nhà Cuthbert nhận nuôi, còn trước đó cậu như thế nào thì chẳng ai biết hết."

Anne đang tự hỏi rốt cuộc liệu nỗi cô độc và nước mắt có đúng là không dễ chịu hơn sự đồng hành của Josie Pye không thì Jane và Ruby xuất hiện, mỗi người đeo cổ một dải ruy băng mang màu sắc của trường Queen - tím và đỏ - hãnh diện cài lên áo khoác. Vì Josie không "nói chuyện" với Jane nên ngay lúc đó nó phải lẳng lặng rút lui.

"Ái chà," Jane nói kèm theo tiếng thở dài, "Từ sáng đến giờ mình cảm thấy như đã trải qua hàng bao nhiêu tháng rồi. Mình phải ở nhà nghiên cứu Virgil - cái ông giáo sư già dễ sợ đó đã bắt tụi mình học tận hai mươi dòng để ngày mai bắt đầu. Nhưng tối nay mình không thể bình tâm học hành được. Anne, mình nghĩ mình thấy vệt nước mắt kìa. Nếu cậu đang khóc thì cứ khóc nốt đi. Nó sẽ gỡ lại tự trọng cho mình, vì mình đã khóc như mưa trước khi Ruby tới. Mình không cần biết mình ngốc nghếch đến thế nào miễn là người khác cũng ngốc nghếch giống mình. Bánh à? Cậu cho mình một miếng nhỏ được không? Cám ơn. Nó mang hương vị Avonlea đích thực."

Ruby, nhìn thấy cuốn lịch thường niên của trường Queen nằm trên bàn, muốn biết liệu Anne có định giành huy chương vàng không.

Anne đỏ mặt thừa nhận mình có nghĩ tới.

"Ô, cái đó nhắc mình nhớ," Josie nói. "Cuối khóa trường Queen sẽ có một học bổng Avery. Hôm nay vừa có thông báo. Frank Stockley nói với mình - cậu của cậu ấy là thành viên Ban quản trị, cậu biết đấy. Chuyện này sẽ được thông báo ở trường ngày mai."

Học bổng Avery! Anne cảm thấy tim mình đập nhanh hơn và những chân trời khát vọng của con bé chuyển đổi và mở rộng như có phép màu. Trước khi Josie nói tin đó, khát vọng cao nhất của Anne là tấm bằng giáo viên tỉnh lẻ, Lớp Một, vào cuối năm, và có lẽ cả huy chương! Nhưng giờ đây, khi tiếng vọng của những lời Josie nói còn chưa kịp tắt, trong một thoáng, Anne thấy mình giành học bổng Avery, theo học Cử Nhân ở trường Redmond rồi tốt nghiệp với áo thụng và mũ cử nhân. Vì học bổng Avery là về tiếng Anh, và Anne cảm thấy như cá gặp nước.

Một nhà công nghiệp giàu có ở New Brunswick đã chết và để lại một phần gia sản để cấp một số lượng lớn học bổng phân bổ giữa các trường cấp ba và trường cao đẳng trong tỉnh Maritime, tùy theo danh tiếng của trường. Có nhiều hoài nghi về chuyện trường Queen sẽ nhận được học bổng, nhưng vấn đề cuối cùng đã được giải quyêt, và đến cuối năm người tốt nghiệp với điểm tiếng Anh và văn học Anh cao nhất sẽ giành học bổng - hai trăm năm mươi đô la một năm trong vòng bốn năm ở đại học Redmond. Không có gì lạ là tối đó Anne đi ngủ với đôi má râm ran.

"Mình sẽ giành được học bổng đó nếu chăm chỉ," cô gái quyết tâm."Chẳng phải bác Matthew sẽ tự hào nếu mình được nhận bằng cử nhân văn chương sao? Ôi, thật vui khi có khát vọng. Mình mừng là mình có nhiều khát vọng như thế. Và chúng dường như chẳng bao giờ có điểm dừng - đó là điều tốt nhất. Ngay khi đạt được khát vọng này ta lại thấy khát vọng khác lấp lánh nơi cao hơn.Nó làm cho cuộc sống thú vị biết bao nhiêu."
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 35. Mùa đông ở trường Queen
Nỗi nhớ nhà của Anne đã nguôi ngoai, phần lớn là nhờ những chuyến thăm nhà cuối tuần. Miễn thời tiết ấm áp, các sinh viên Avonlea có thể đến Carmody bằng đường sắt mới mỗi tối thứ Sáu. Diana và một số thanh niên Avonlea khác đã đợi sẵn và cả nhóm vui vẻ cùng dạo bước về Avonlea. Anne nghĩ, những buổi tối thứ Sáu lang thang trên các ngọn đồi mùa thu trong không khí mát lành vàng rực, với ánh đèn từ những ngôi nhà ở Avonlea nhấp nháy xa xa, là thời gian đẹp nhất và thân thương nhất trong cả tuần.

Gilbert Blythe hầu như lúc nào cũng đi chung với Ruby Gillis và còn mang túi xách cho cô. Ruby giờ đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, luôn nghĩ là mình đã lớn thật rồi; cô mặc váy dài hết cỡ được mẹ cho phép và bới tóc cao lúc ở thị trấn, mặc dù lại phải thả xuống khi về nhà. Cô có đôi mắt to, xanh lơ, nước da sáng và thân hình đầy đặn ưa nhìn. Cô cười rất nhiều, vui vẻ, thuần tính và chân thành tận hưởng những niềm vui trong cuộc sống.

"Nhưng mình không nghĩ bạn ấy là kiểu con gái Gilbert thích," Jane thầm thì với Anne. Anne cũng không nghĩ vậy nhưng vì học bổng Avery nên không nói ra. Cô cũng không thể không nghĩ rằng sẽ rất dễ chịu nếu có một người bạn như Gilbert để chơi đùa, trò chuyện và trao đối ý kiến về sách vở, học hành và tham vọng. Gilbert có nhiều tham vọng, cô biết, và Ruby Gillis có vẻ không phải kiểu người để thảo luận tới nơi tới chốn những chuyện như vậy.

Không có chút tình cảm khờ dại nào trong những ý nghĩ của Anne về Gilbert. Đối với Anne, cánh con trai, trong những lúc cô nghĩ về họ, chỉ đơn thuần là bạn tốt. Nếu cô và Gilbert là bạn, cô sẽ không quan tâm chuyện cậu có bao nhiêu người bạn khác hay cậu đi cùng ai. Anne là một thiên tài trong việc kết bạn và có rất nhiều bạn gái, nhưng cô lờ mờ nhận thức được tình bạn với người khác phái có lẽ cũng là cơ hội để hoàn thiện khái niệm về tình bằng hữu và trang bị những quan điểm phóng khoáng hơn trong đánh giá và so sánh. Không phải Anne có thể định nghĩa cảm xúc của mình về những chuyện đó rõ ràng như vậy. Nhưng cô nghĩ nếu có thể cùng Gilbert đi từ ga về nhà qua cánh đông xào xạc, dọc những con đường nhỏ mọc dày dương xỉ, họ có thể sẽ có nhiều cuộc trò chuyện vui vẻ thú vị về thế giới mới đang rộng mở chung quanh, về hy vọng và tham vọng của mình. Gilbert là một thanh niên thông minh, có suy nghĩ độc lập cùng một quyết tâm giành được những gì tốt đẹp nhất trong cuộc sống cũng như mang đến cho cuộc sống những gì tốt đẹp nhất. Ruby Gillis nói với Jane Andrews là cô không hiểu được đến một nửa những gì Gilbert Blythe nói; cậu nói giống hệt những khi Anne Shirley trầm ngâm; còn về phần mình cô chẳng thấy vui thú gì khi bận tâm đến sách hay đến bất cứ thứ gì mình vốn không phải lo đến. Frank Stockley hăng hái và cởi mở hơn nhiều nhưng không đẹp trai bằng một nửa Gilbert nên cô không thể quyết định mình thích ai nhất!

Ở trường, Anne dần hút được về phía mình một nhóm nhỏ bạn bè, những sinh viên nhiều tham vọng, giàu trí tưỏng tượng và hay suy tư như chính cô. Với cô gái "màu hồng" Stella Maynard và "cô gái mơ mộng" Priscilla Grant, Anne nhanh chóng trở nên thân thiết, nhận ra cô thiếu nữ Grant xanh xao có vẻ sống nội tâm thật ra lại đầy trò nghịch phá, chọc ghẹo và vui vẻ, trong khi Stella mắt đen, sôi nổi lại có một trái tim tràn ngập mơ mộng và các hình ảnh tưỏng tượng lãng mạn rực rỡ giống của Anne.

Sau kỳ nghỉ Giáng sinh, các sinh viên từ Avonlea bỏ buổi về nhà thứ Sáu để ở lại học hành chăm chỉ. Đến thời điểm này tất cả sinh viên trường Queen đều đã khẳng định vị trí của mình trên bảng xếp hạng, một số lớp đã thể hiện được sự khác biệt và định hình những sắc thái riêng. Một số chuyện đã được công nhận rộng rãi. Mọi người đều thừa nhận rằng ứng cử viên cho huy chương nhìn chung giới hạn trong ba người - Gilbert Blythe, Anne Shirley và Lewis Wilson; còn học bổng Avery thì khó đoán hơn, có đến một phần sáu sinh viên có thể là người chiến thắng. Huy chương đồng môn toán gần như chắc chắn sẽ về tay một cậu bé người đất liền mập mạp nhìn tức cười với trán dô ra và áo khoác vá chằng vá đụp.

Ruby Gillis là hoa khôi của trường năm đó, còn trong các lớp học Năm Hai thì Stella Maynard được bầu là người xinh nhất, cùng với một thiểu số tuy nhỏ nhưng vô cùng nhiệt thành ủng hộ Anne Shirley. Ethel Marr được tất cả những giám khảo công tâm nhất thừa nhận là người cò kiểu tóc thời trang nhất, còn Jane Andrews - cô Jane giản dị, cần cù, chu đáo - nhận vinh dự trong những môn nữ công gia chánh. Ngay cả Josie Pye cũng được coi là cô gái miệng lưỡi sắc bén nhất trường Queen. Vì vậy có thể nói một cách công bằng rằng các học trò cũ của cô Stacy đều giữ vững được vị trí của mình trong môi trường cao đẳng rộng lớn hơn môi trường cũ nhiều.

Anne học đều và chăm chỉ. Cuộc cạnh tranh với Gilbert vẫn quyết liệt như hồi còn ở Avonlea, dù không được công khai trong lớp, nhưng không hiểu vì sao sự cay đắng đã biến mất. Anne không còn mong chiến thắng vì muốn đánh bại Gilbert nữa mà vì ý thức được một cách vô cùng tự hào về một chiến thắng đẹp trước đối thủ xứng tầm. Cũng đáng để phấn đấu chiến thắng, nhưng cô không còn nghĩ nếu không thắng thì sẽ không sống nổi nữa.

Bất chấp việc học hành, các sinh viên vẫn kiếm được cơ hội thư giãn. Anne dành rất nhiều thời gian rảnh rỗi để đến Beechvvood, thường xuyên ăn bữa tối Chủ nhật ở đó và đến nhà thờ cùng bà Barry. Chính bà cũng phải thừa nhận mình đã già đi, nhưng đôi mắt đen của bà vẫn chưa mờ và miệng lưỡi cũng chẳng hề giảm sức mạnh. Nhưng bà không bao giờ sắc giọng trước mặt Anne, cô gái cho đến giờ vẫn là người được bà cụ khó tính này yêu quý nhất.
"Con bé Anne đó luôn luôn tiến bộ," bà nói. "Ta thấy mệt mỏi với những đứa con gái khác - đứa nào cũng một kiểu đều đều đơn điệu chẳng bao giờ thay đổi đến là khó chịu. Anne nhiều sắc màu như cầu vồng, màu nào cũng tỏa sáng đẹp hết mức. Ta không thấy con bé ngộ nghĩnh như ngày còn nhỏ, nhưng nó khiến ta yêu nó và ta thích những người làm ta yêu họ. Ta tránh được rất nhiều rắc rối khi khiến mình yêu những người đó."

Rồi, hầu như chưa ai kịp nhận ra thì mùa xuân đã đến, ở Avonlea hoa tháng Năm bung cánh hồng trên những mảnh đất cằn nơi tuyết vẫn còn nấn ná; và "tấm màn xanh" đã buông trên những cánh rừng và trong thung lũng. Nhưng ở Charlottetown, những sinh viên trường Queen đang lo lắng thì chỉ nghĩ và nói về thi cử.

"Chẳng giống như học kỳ sắp kết thúc chút nào," Anne nói."Sao kia chứ, mùa thu năm trước dường như quá dài để mà trông ngóng tới... cả một mùa đông học hành trường lớp. Còn giờ thì chúng ta đang ở đây, với kỳ thi sẽ lù lù xuất hiện vào tuần tới. Các cậu này, đôi khi mình cảm thấy như thể những kỳ thi này là tất cả, nhưng khi mình nhìn những chồi cây mập mạp vươn mình trên những cây dẻ kia và không khí xanh xanh mờ sương ở cuối phố, chúng chẳng còn quan trọng đến một nửa."

Jane, Ruby và Josie, những đứa vừa tạt qua chơi, không hiểu nổi cách nhìn này. Đối với chúng những kỳ thi sắp tới quả thật vẫn luôn rất quan trọng - quan trọng hơn nhiều so với chồi dẻ hay sương mù tháng Năm. Với Anne thì tất cả đều vô cùng ổn thỏa, vì chắc chắn ít nhất sẽ thi đỗ nên có những lúc cô đánh giá thấp chuyện thi cử, nhưng một khi cả tương lai bạn phụ thuộc vào chúng - như cách suy nghĩ chân thành của những cô gái kia - bạn không thể nhìn chúng một cách thản nhiên cho được.

"Mình đã giảm bảy pound trong hai tuần vừa rồi," Jane thở dài."Có nói đừng lo lắng cũng chẳng ích gì. Mình sẽ lo lắng. Lo lắng cũng có giúp ta được chút đỉnh đấy chứ - khi ta lo lắng thì cũng giống như ta đang làm gì đó. Thật kinh khủng nếu mình không lấy được bằng sau khi đi học ở Queen cả mùa đông và tiêu tốn bao nhiêu tiền như thế."

"Mình chẳng quan tâm," Josie Pye nói."Nếu năm nay mình không đậu thì năm sau mình sẽ trở lại. Cha mình thừa tiền cho mình đi học. Anne này, Frank Stockley nói giáo sư Tremaine bảo rằng Gilbert Blythe chắc chắn sẽ được huy chương còn Emily Clay nhiều khả năng sẽ giành được học bổng Avery."

"Ngày mai chuyện đó có thế làm mình buồn, Josie," Anne cười thành tiếng, "còn ngay lúc này thật tình mình cảm thấy chỉ cần biết hoa violet vẫn đang nở tím cả thung lũng bên dưới Chái Nhà Xanh và những cây dương xỉ con vẫn nhô đầu lên trên đường Tình Nhân, chuyện mình có giành được Avery hay không chẳng có gì khác biệt cả. Mình đã cố hêt sức và mình bắt đầu hiểu được cái gọi là "niềm vui tranh đấu". Ngay sau việc cố gắng và chiến thắng thì điều tốt nhất chính là cố gắng và thất bại. Các cậu, đừng nói về thi cử nữa! Hãy nhìn vòm trời xanh nhạt bên trên những ngôi nhà kia và tưỏng tượng ra mình đang ngước lên nhìn những rừng sồi tím sẫm sau Avonlea."

"Cậu sẽ mặc gì trong lễ tốt nghiệp, Jane?" Ruby hỏi một cách thực tế.

Jane và Josie đồng thanh trả lời và cuộc trò chuyện nghiêng về chủ đề thời trang. Nhưng Anne, khuỷu tay chống trên thành cửa sổ, bầu má mềm mại tì lên bàn tay nắm chặt, đôi mắt ngập tràn ảo ảnh, nhìn vô ưu qua những mái nhà thành thị rồi vút lên trên vòm trời hoàng hôn huy hoàng đó, dệt những giấc mơ của tương lai từ tấm vải vàng của sự lạc quan tuổi trẻ. Mọi cái ở Bên Kia đều là của cô cùng với tất cả khả năng của nó đang ẩn nấp một cách đáng hy vọng trong những năm tháng sắp tới – mỗi năm, một bông hồng triển vọng sẽ được kết vào vòng hoa vĩnh cửu.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 36. Vinh quang và mơ mộng
Vào buổi sáng kết quả cuối cùng của cả kỳ thi được dán lên bảng thông báo ở trường Queen, Anne và Jane cùng nhau bước xuống phố. Jane mỉm cười hạnh phúc; kỳ thi đã qua và cô cảm thấy chắc chắn một cách dễ chịu rằng ít nhất mình cũng đậu, những tính toán sâu xa hơn không hề làm phiền Jane; cô không có khát vọng cao xa nên không bị ảnh hưởng bởi những lo âu đi kèm theo nó. Vì chúng ta phải trả giá cho mọi thứ chúng ta nhận được hoặc lấy đi trong thế giới này; và cho dù cũng đáng để có tham vọng nhưng chúng lại không dễ gì để đạt được bên cạnh đó còn đòi hỏi ở người ta rất nhiều cố gắng và hy sinh, rất nhiều sự lo lắng và nản lòng. Anne nhợt nhạt và lặng lẽ; trong mười phút nữa cô sẽ biết ai giành được huy chương và ai nhận được học bổng Avery. Ngay lúc này, ngoài mười phút đó ra, dường như không còn gì đáng gọi là Thời gian nữa.

"Dĩ nhiên dù sao cậu cũng được một trong hai phần thưởng đó thôi," Jane nói, không thể hiểu được sẽ bất công đến thế nào nếu có một kết quả khác.

"Mình không hy vọng gì ở học bổng Avery," Anne nói. "Mọi người đều nói Emily Clay sẽ giành được. Và mình sẽ không diễu tới bảng thông tin để xem ngay trước mặt mọi người đâu. Mình không có can đảm. Mình sẽ đi thẳng tới phòng thay đồ nữ.Cậu phải đọc thông báo rồi đến nói cho mình biết nhé, Jane.Và mình xin cậu hãy vì tình bạn bao năm nay của chúng mình mà làm điều đó càng nhanh càng tốt. Cứ nói thẳng nếu mình thất bại, không cần cố dùng từ nào nhẹ nhàng hơn; và cho dù thế nào cũng đừng tỏ ra thông cảm với mình. Hứa với mình đi, Jane."

Jane trang trọng hứa; nhưng, thật ngẫu nhiên, không cần phải có một lời hứa như vậy. Khi bước lên bậc tam cấp ở cửa ra vào của trường Queen, cả hai nhìn thấy hành lang đông nghịt bọn con trai đang công kênh Gilbert Blythe trên vai và la hét hết cỡ, "Hu ra Blythe, giành huy chương rồi!" Trong một khoảnh khắc Anne thấy đau nhói bởi cảm giác thua cuộc và thất vọng. Vậy là cô đã thua còn Gilbert thắng! Vậy đấy, bác Matthew sẽ tiếc lắm - ông vẫn chắc chắc cô sẽ thắng.

Và rồi!

Ai đó la lớn: "Ba tràng vỗ tay cho cô Shirley, người giành học bổng Avery!"

"Ôi, Anne," Jane thở hổn hển, khi họ lao tới phòng thay đồ nữ giữa tiếng hoan hô nhiệt liệt. "Ôi, Anne, mình tự hào biết bao nhiêu! Chẳng tuyệt vời sao?"

Và rồi đám con gái xúm lại quanh hai cô bạn và Anne lọt giữa nhóm người cười đùa, chúc tụng. Mọi người thụi vai,lắc mạnh tay cô. Cô bị đẩy, bị kéo, bị ôm hôn và trong lúc đó cố hết sức để thì thầm với Jane: "Ôi, bác Matthew và bác Marilla sẽ hài lòng lắm! Mình phải báo tin về nhà ngay."

Lễ tốt nghiệp là sự kiện quan trọng tiếp theo. Buổi lễ diễn ra trong hội trường lớn.Các bài diễn văn được trình bày, luận văn được đọc, những bài ca cất lên, các văn bằng, giải thưỏng và huân chương được phát.

Ông Matthew và bà Marilla ở đó, tai và mắt chỉ tập trung vào một sinh viên duy nhất trên sân khấu - một cô gái cao dong dỏng trong bộ váy xanh lơ, hai má ửng hồng và đôi mắt sáng lấp lánh, người đọc bài luận xuất sắc nhất và được mọi người chỉ chỏ, thầm thì bàn tán vì đã giành được học bổng Avery.

"Chắc hẳn em rất mừng vì chúng ta đã giữ con bé lại phải không, Marilla?" ông Matthew thầm thì khi Anne vừa kết thúc bài luận, lần đầu tiên lên tiếng kể từ lúc bước chân vào hội trường.

"Đây có phải lần đầu tiên em vui mừng đâu," bà Marilla trả miếng. "Anh cứ thích nhai đi nhai lại, Matthew Cuthbert." Bà Barry đang ngồi hàng sau bèn rướn người lên phía trước và lấy ô thúc vào lưng bà Marilla.

"Cô không hãnh diện vì con bé Anne đó hả? Ta thì có đây," bà nói.

Tối đó Anne về Avonlea cùng ông Matthew và bà Marilla. Từ tháng Tư đến nay cô gái chưa hề đặt chân về nhà và cảm thấy không thể chờ thêm ngày nào nữa. Hoa táo đã nở và cả thế giới đều mới mẻ trẻ trung. Diana đến Chái NhàXanh gặp cô. Trong căn phòng nhỏ màu trắng của mình, nơi bà Marilla đã đặt một lọ hoa hồng bên bệ cửa sổ, Anne nhìn ngắm xung quanh và thở một hơi dài hạnh phúc.

"Ôi, Diana, tuyệt vời biết bao khi được quay trở lại. Tuyệt vời biết bao khi được nhìn thấy những ngọn linh sam đang chĩa thẳng lên bâu trời hồng... cả vườn cây ăn quả trắng xóa kia và Nữ Hoàng Tuyết già nữa. Hương bạc hà thoang thoảng chẳng dễ chịu lắm sao? Và cây hoa trà kia nữa - ôi, đó là sự kết hợp hài hòa của một bài hát, một hy vọng và một lời cầu nguyện. Và thật tuyệt biết bao khi được gặp lại cậu, Diana!"

"Mình tưỏng cậu thích cái cô Stella Maynard đó hơn mình chứ," Diana nói giọng trách móc. "Josie Pye nói với mình như vậy. Josie nói cậu mê tít cô ta."

Anne bật cười rút bông "loa kèn tháng Sáu" đã tàn ra khỏi bó hoa rồi ném vào người Diana.

"Stella Maynard là cô gái thân thiết nhất trên thế giới sau một người và người đó là cậu, Diana," cô nói. "Mình yêu cậu hơn bao giờ hết và có rất nhiều chuyện để kể với cậu. Nhưng giờ mình cảm thấy dường như chỉ cần ngồi đây nhìn cậu cũng đã đủ vui rồi. Có lẽ mình mệt rồi - mệt mỏi vì học hành và tham vọng. Ngày mai mình muốn dành ít nhất hai tiếng nằm trên bãi cỏ trong vườn, tuyệt đối không nghĩ ngợi gì."

"Cậu đã làm rất tuyệt, Anne. Chắc bây giờ cậu sẽ không đi dạy khi đã được học bổng Avery đâu nhỉ?"
"Không. Tháng Chín mình sẽ tới trường Redmond. Chẳng tuyệt vời sao? Lúc đó mình sẽ có cả kho tham vọng mới sau ba tháng hè rực rỡ, hạnh phúc. Jane và Ruby sẽ đi dạy. Chẳng tuyệt sao khi nghĩ tới chuyện tất cả chúng mình đều qua hết, ngay cả Moody Spurgeon và Josie Pye?"

"Hội đồng trường Nevvbridge đã mời Jane vào trường họ rồi," Diana nói. "Gilbert Blythe cũng sẽ đi dạy. Cậu ấy phải làm thế thôi. Rốt cuộc, cha cậu ấy không đủ tiền cho cậu ấy đi học đại học năm sau, nên cậu ấy định tự kiếm tiền. Mình hy vọng cậu ấy sẽ được dạy ở đây nếu cô Ames quyết định rời đi."

Anne cảm nhận thấy một nỗi ngạc nhiên buồn bã kỳ lạ. Cô không biết chuyện này; cô đã mong rằng Gilbert sẽ cùng đến Redmond. Cô biết làm gì đây khi không còn cuộc cạnh tranh truyền cảm hứng giữa hai người? Chẳng phải mọi việc, cho dù tại một trường đại học cộng đồng với viễn cảnh về một tấm bằng đích thực, sẽ có phần tẻ nhạt khi cô không còn người bạn đối thủ nữa?

Hôm sau lúc ăn sáng, Anne đột nhiên nhận thấy ông Matthew trông không được khỏe. Chắc chắn tóc ông đã bạc hơn nhiều so với một năm trước.

"Bác Marilla," cô ngần ngừ hỏi khi ông đã ra ngoài, "bác Matthew có khỏe không ạ?"

"Không, bác ấy không khỏe lắm," bà Marilla lo lắng nói, "Xuân này, bác ấy đã bị vài cơn đau tim khá nguy kịch vậy mà vẫn chẳng chịu nghỉ ngơi lấy một chút. Ta thật sự lo lắng cho bác ấy, nhưng dạo gần đây bác ấy có khá hơn và chúng ta đã có một người làm thuê khá được việc, nên ta hy vọng bác ấy sẽ nghỉ ngơi và hồi phục. Có thể bây giờ bác ấy sẽ được như thế khi con đã về nhà. Con luôn làm bác ấy vui lên."

Anne vươn người qua bàn và đưa hai tay ôm lấy khuôn mặt bà Marilla.

"Chính bác trông cũng không khỏe như con muốn, bác Marilla. Bác có vẻ mệt mỏi rồi. Con e bác đã làm việc cực quá. Giờ con về nhà rồi, bác phải nghỉ ngơi đi. Con sẽ chỉ dành một ngày hôm nay để đi thăm tất cả nơi chốn thân quen cũ và tìm lại những giấc mơ xưa, rồi sẽ đến lượt bác lười biếng trong khi con làm việc."

Bà Marilla mỉm cười trìu mến với cô gái của mình. "Không phải tại công việc đâu - tại đầu ta đấy. Dạo gần đây ta thường xuyên bị đau - ở đằng sau mắt ấy. Bác sĩ Spencer đã làm ầm lên về chuyện đeo kính, nhưng cũng chẳng làm ta khá lên chút nào. Có một bác sĩ nhãn khoa rất giỏi sẽ tới đảo cuối tháng Sáu và bác sĩ Spencer nói ta phải đi gặp ông ấy. Chắc ta phải làm thế thôi. Giờ ta không thể đọc hay may vá thoải mái được nữa. À, Anne, phải nói là con đã thực sự học rất tốt ở Queen. Lấy bằng Lớp Một trong một năm và giành được học bổng Avery... ái chà, bà Lynde nói kiêu hãnh đi trước thất bại và bà ấy không hề tin tưởng vào chuyện phụ nữ học cao, bà ấy nói như vậy không phù hợp với thiên chức phụ nữ. Ta không mảy may tin chuyện đó. Nhắc đến Rachel mới nhớ - gần đây con có nghe nói gì về ngân hàng Abbey không, Anne?"

"Con nghe nói nó đang nguy kịch," Anne trả lời. "Sao vậy ạ?".

"Rachel đã nói chuyện đó. Tuần trước bà ấy lên đây và nói có một số tin đồn về ngân hàng. Bác Matthew thật sự lo lắng. Tất cả tiền tiết kiệm của chúng ta đều gửi ở ngân hàng đó - từng xu một. Lúc đầu ta muốn bác Matthew gửi tiền vào ngân hàng Savings nhưng ông cụ Abbey là bạn thân của cha chúng ta và cha luôn gửi tiền ở ngân hàng của ông ấy. Bác Matthew nói ngân hàng nào do ông ấy lãnh đạo cũng đủ tin cậy đối với bất cứ ai."

"Con nghĩ nhiều năm nay ông ấy chỉ lãnh đạo trên danh nghĩa thôi," Anne đáp."Ông ấy đã già lắm rồi, cháu ông ấy mới là người điều hành đích thực."

"Vậy đấy, khi Rachel nói chuyện đó, ta muốn Matthew đi rút tiền ngay và bác ấy bảo sẽ suy nghĩ. Nhưng hôm qua ông Russel vừa nói với bác ấy rằng ngân hàng vẫn ổn."

Anne có một ngày tốt lành trong sự bao bọc của thế giới bên ngoài. Cô không bao giờ quên ngày hôm đó, trời vô cùng sáng sủa, vàng rực và trong lành, không hề vướng một bóng râm nào và hoa nở bạt ngàn. Anne dành một vài giờ huy hoàng của ngày hôm đó cho vườn cây ăn quả; cô tới Bong Bóng Thần Rừng, hồ Liễu và thung lũng Tím; cô ghé qua nhà mục sư và có một buổi trò chuyện mãn nguyện với cô Allan; cuối cùng, vào buổi tối, cô cùng ông Matthew lùa bò qua đường Tình Nhân về bãi cỏ sau nhà. Khắp khu rừng rực rỡ ánh tà dương và sự huy hoàng ấm áp của nó tuôn trào xuống những khe đồi phía Tây. Ông Matthew cúi đầu bước chầm chậm; Anne, cao và dáng thẳng, điều chỉnh bước chân để bước sóng đôi với ông.

"Hôm nay bác đã làm việc rất vất vả, bác Matthew," cô nói giọng trách móc."Sao bác không thư thả hơn một chút?".

"À ừ, có vẻ như ta không thể," ông Matthew nói khi mở cửa sân cho đàn bò vào. "Chỉ là ta già đi thôi, Anne, mà lại hay quên mất điều đó. Thế đấy, ta đã luôn luôn làm việc vất vả và ta thà gục xuống khi đang làm việc."

"Nếu con là đứa bé trai mà bác đề nghị," Anne nói giọng tiếc nuối, "thì giờ con đã có thể giúp bác rất nhiều để bác rảnh tay trong cả trăm việc. Con thật tâm ước gì mình được như thế, chỉ cần thế thôi."

"À ừ, ta thà là có con còn hơn có cả tá con trai, Anne à," ông Matthew vừa nói vừa vỗ vỗ vào cánh tay cô gấi. "Chỉ cần con nhớ điều đó thôi - còn hơn có cả tá con trai. À ừ, ta nghĩ một đứa con trai thì không lấy được học bổng Avery đúng không? Chỉ có con gái - con gái của ta - đứa con gái mà ta tự hào."

Ông trao cho cô gái nụ cười bẽn lẽn quen thuộc trong lúc bước vào sân. Anne mang theo ký ức về nụ cười này khi trở về phòng tối hôm đó và ngồi rất lâu bên khung cửa sổ rộng mở, nghĩ về quá khứ rồi mơ tới tương lai. Bên ngoài, Nữ Hoàng Tuyết mờ trắng trong ánh trăng, ếch nhái ca vang trong đầm phía bên kia Dốc Vườn Cây Ăn Quả. Anne luôn ghi nhớ vẻ đẹp yên bình, óng ánh màu bạc và sự tĩnh lặng thơm ngát đêm hôm đó. Đó là đêm cuối cùng trước khi nỗi đau thương chạm vào cuộc đời cô, và cuộc đời không bao giờ còn giống như xưa được nữa khi cái chạm thần thánh lạnh lùng đó lướt qua.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 37. Lưỡi hái mang tên tử thần
“Matthew, Matthew, anh sao vậy? Matthew, anh ốm à?”

Đó là tiếng bà Marilla, từng từ được dằn mạnh đều toát lên sự hốt hoảng. Anne băng qua hành lang, tay ôm đầy thủy tiên trắng – sẽ rất lâu nữa Anne mới có thể yêu lại hình dáng hay mùi hương của thủy tiên trắng – đúng lúc nghe được tiếng bà và nhìn thấy ông Matthew đứng trên hiên, tay cầm một mảnh giấy gập lại, khuôn mặt buồn bã và xám xịt một cách kỳ lạ. Anne thả rơi hoa và lao qua bếp đến bên ông cùng lúc với bà Marilla. Cả hai đều đến quá trễ; trước khi họ tới nơi, ông Matthew đã ngã lăn qua ngưỡng cửa.

“Bác ấy xỉu rồi,” bà Marilla thở hổn hển. “Anne, chạy đi tìm Martin – nhanh, nhanh lên! Ông ấy ở chuồng ngựa ấy.”

Martin, người làm thuê, vừa đánh xe từ bưu điện về nhà, lập tức đi mời bác sĩ, trên đường đi ghé qua Dốc Vườn Cây Ăn Quả nhắn ông bà Barry sang. Bà Lynde đang ở đó làm mấy chuyện lặt vặt, cũng đến luôn. Họ thấy Anne và bà Marilla đang điên cuồng cố làm cho ông Matthew tỉnh dậy.

Bà Lynde nhẹ nhàng đẩy họ ra, bắt mạch rồi ghé tai lên tim ông. Bà đau đớn nhìn những gương mặt lo lắng của họ và nước mắt ứa ra.

“Ôi, Marilla,” bà nghiêm giọng. “Tôi không nghĩ… chúng ta có thể làm gì cho ông ấy nữa.”

“Bà Lynde, bà không nghĩ rằng… bà không thể nghĩ rằng bác Matthew đã… đã… ” Anne không thể thốt ra cái từ khủng khiếp đó; cô tái nhợt và như sắp gục.

“Bé à, phải, ta e là vậy. Nhìn khuôn mặt ông ấy đi. Khi con nhìn thấy vẻ mặt đó thường xuyên như ta thì con sẽ hiểu nó có nghĩa là gì.”

Anne nhìn gương mặt bất động, trên đó đã có dấu niêm phong của Đấng Toàn Năng.

Khi bác sĩ đến, ông nói cái chết đến tức thời và có lẽ không đau đớn, rất có khả năng bắt nguồn từ một cơn sốc đột ngột nào đó. Bí mật về cơn sốc được khám phá ra trong mảnh giấy ông Matthew cầm, vốn do Martin đem về từ bưu điện sáng đó. Nó là thông báo phá sản của ngân hàng Abbey.

Tin tức nhanh chóng lan khắp Avonlea, suốt cả ngày bạn bè và hàng xóm kéo đến đông nghịt Chái Nhà Xanh, đỡ đần lo cho cả người đã khuất và người còn sống. Lần đầu tiên ông Matthew Cuthbert nhút nhát, lặng lẽ trở thành nhân vật quan trọng nhất; bóng trắng tử thần đã chụp lấy ông và tách ông ra khỏi những người khác bằng cú chạm cuối cùng.

Khi buổi tối êm đềm lặng lẽ trùm lên Chái Nhà Xanh, căn nhà cũ kỹ lại trở nên im ắng, tĩnh mịch. Trong phòng khách, Matthew Cuthbert nằm trong cỗ quan tài, mái tóc hoa râm dài ôm lấy khuôn mặt bình thản vẫn còn đọng lại nụ cười hiền từ cứ như ông chỉ đang ngủ, mơ những giấc mơ êm đềm. Quanh ông có rất nhiều hoa – những bông hoa từ thời xa xưa thơm ngát mà mẹ ông đã trồng trong vườn vào ngày cưới của bà vẫn được ông Matthew dành cho một tình yêu bí mật không lời. Anne đã hái chúng đem đến cho ông, đôi mắt đau buồn không một giọt lệ sáng rực trên khuôn mặt trắng bệch của cô. Đây là điều cuối cùng cô có thể làm được cho ông.

Đêm đó gia đình Barry và bà Lynde ở lại với hai bác cháu. Diana đi đến chái Đông, nơi Anne vẫn ngồi bên cửa sổ, dịu dàng nói: “Anne yêu dấu, cậu có muốn mình ngủ với cậu tối nay không?”

“Cám ơn, Diana,” Anne nghiêm nghị nhìn khuôn mặt bạn. “Mình nghĩ cậu sẽ không hiểu lầm nếu mình nói mình muốn ở một mình. Mình không sợ đâu. Mình chưa phút nào được ở một mình kể từ khi chuyện đó xảy ra… và mình muốn được vậy. Mình muốn được thật yên lặng, thật bình tĩnh và cố gắng chấp nhận chuyện này. Mình không thể chấp nhận nổi. Một nửa quãng thời gian vừa qua, mình vẫn thấy như bác Matthew không thể chết, còn nửa khác thì mình lại thấy như bác ấy đã mất lâu lắm rồi và mình đã phải chịu nỗi đau khủng khiếp đến vô tri vô giác này suốt từ đó.”

Diana không hiểu lắm. Nỗi đau buồn mãnh liệt của bà Marilla, phá vỡ mọi giới hạn của tính dè dặt bẩm sinh và thói quen cả đời, trong sự bùng nổ của nó, nỗi đau đó Diana còn có thể hiểu rõ hơn sự đau đớn không nước mắt của Anne. Nhưng cô vui lòng rời đi, để Anne ở lại một mình với đêm trắng đau buồn đầu tiên của mình.

Anne hy vọng nước mắt sẽ đến trong cô độc. Đối với cô, dường như thật khủng khiếp khi không thể nhỏ lấy một giọt nước mắt cho ông Matthew, người cô vô cùng yêu quý và đối xử với cô tốt biết bao, ông Matthew người vừa tản bộ với cô chiều tối hôm qua và giờ đây đang nằm trong căn phòng mờ tối bên dưới với sự an bình khủng khiếp trên vầng trán. Nhưng lúc đầu không giọt nước mắt nào chảy ra, ngay cả khi cô quỳ bên cửa sổ cầu nguyện trong bóng tối, nhìn lên những vì sao bên kia đồi – không nước mắt, chỉ có nỗi đau đớn khổ sở khủng khiếp vô tri vô giác quen thuộc vẫn tiếp tục nhức nhối cho đến khi cô thiếp đi, kiệt sức vì sự đau buồn và kích động của cả một ngày.

Giữa đêm cô tỉnh giấc, xung quanh là sự tĩnh lặng và bóng tối, rồi ký ức về ngày hôm đó tràn về như một làn sóng đau buồn. Cô có thể thấy hình ảnh ông Matthew đang mỉm cười với cô như ông đã mỉm cười khi hai bác cháu chia tay ở cổng tối hôm trước – cô có thể nghe tiếng ông nói, “Con gái của ta – đứa con gái ta mà ta tự hào”. Rồi nước mắt rơi xuống và Anne khóc nức khóc nở. bà Marilla nghe tiếng cô khóc bèn nhẹ nhàng bước vào an ủi.

“Này… này… đừng khóc nữa, con ơi. Khóc cũng không đem bác ấy về được. Không… không đúng khi khóc vậy đâu. Hôm nay ta biết điều này, nhưng ta không thể kiềm chế được. Bác đấy đã luôn là một người anh trai hiền lành tốt bụng với ta – nhưng Chúa biết rõ hơn ai hết.”

“Ôi, cứ để con khóc, bác Marilla,” Anne sụt sùi. “Nước mắt không làm tổn thương con như nỗi đau đó. Bác hãy ở đây với con một lát và ôm con trong vòng tay bác – như vậy đó. Con không thể để Diana ở lại, bạn ấy tốt bụng, tử tế và dịu dàng – nhưng đó không phải nỗi đau của bạn ấy – bạn ấy ở ngoài đó và bạn ấy không thể đến gần tim con đủ để giúp con. Đây là nỗi buồn của chúng ta – của bác và con. Ôi, bác Marilla, chúng ta biết làm gì khi không có bác ấy nữa?”

“Chúng ta còn có nhau. Anne. Ta không biết mình sẽ làm gì nếu không có con ở đây – nếu con chưa bao giờ tới đây. Ôi Anne, ta biết có lẽ ta đã hơi nghiêm khắc và khó tính với con, nhưng con đừng nghĩ ta không yêu con như bác Matthew. Ta muốn nói với con bây giờ khi còn có thể. Ta không bao giờ dễ dàng nói ra những điều từ trái tim, nhưng những lúc như thế này thì dễ hơn. Ta yêu con như thể con chính là máu thịt của ta và kể từ khi đến Chái Nhà Xanh, con chính là niềm vui, niềm an ủi của ta.”

Hai ngày sau, họ đưa Matthew Cuthbert qua ngưỡng cửa nhà ông, rời khỏi cánh đồng ông từng cày cấy, vườn cây ăn quả mà ông yêu mến và những cái cây ông đã vun trồng, rồi sau đó Avonlea trở lại nhịp sống thanh bình thường lệ, ngay mọi việc ở Chái Nhà Xanh cũng trượt về với lối mòn quen thuộc, các công việc được hoàn thành, các nhiệm vụ được thực hiện một cách đều đều như trước, mặc dù luôn luôn kèm theo cảm giác đau đớn “mất đi tất cả những gì thân thương”. Anne vẫn chưa nguôi nỗi đau, nghĩ rằng thật đáng buồn khi mọi chuyện có thể như vậy – khi họ vẫn có thể đi tiếp con đường cũ mà không có ông Matthew. Cô nhận thấy một cảm giác gì đó gần như xấu hổ và ăn năn khi khám phá ra rằng cảnh bình minh phía sau rặng linh sam và những nụ hoa phớt hồng nở trong vườn vẫn mang đến cho cô niềm vui dạt dào xưa cũ mỗi khi cô nhìn thấy chúng… rằng những chuyến viếng thăm của Diana thật dễ chịu với cô, rằng những lời nói và cung cách vui vẻ của Diana vẫn làm cô bật cười – rằng, tóm lại, thế giới tươi đẹp của hy vọng, tình yêu và tình bạn vẫn không hề đánh mất khả năng thỏa mãn trí tưởng và làm rung động trái tim cô, rằng cuộc đời vẫn mời gọi cô bằng nhiều giọng nói khẩn khoản.
“Không hiểu sao, dường như là sự phản bội đối với bác Matthew khi con vẫn tìm thấy niềm vui trong những thứ này mặc dù bác ấy đã ra đi,” cô đăm chiêu nói với cô Allan vào một buổi tối họ ngồi bên nhau trong khu vườn nhà mục sư. “Con nhớ bác ấy nhiều lắm – lúc nào cũng vậy – nhưng ôi, cô Allan, thế giới và cuộc sống dường như vẫn rất đẹp và thú vị đối với con. Hôm nay Diana nói một chuyện rất nhộn và con nhận ra mình bật cười. Khi chuyện đó xảy ra, con cứ tưởng mình sẽ chẳng bao giờ cười nữa. Và không hiểu sao có vẻ như con không thể như vậy được.”

“Khi còn sống Matthew rất thích nghe tiếng con cười và muốn biết rằng con đã tìm thấy niềm vui từ những điều thú vị quanh mình,” cô Allan nói dịu dàng. “Giờ đây bác ấy chỉ đi xa thôi và bác ấy muốn biết mọi chuyện vẫn không có gì thay đổi. Ta chắc chắn chúng ta không nên đóng cửa trái tim mình trước những khả năng hàn gắn mà tự nhiên ban tặng chúng ta. Nhưng ta có thể hiểu cảm giác của con. Ta nghĩ tất cả chúng ta đều phải trải qua chuyện đó tương tự. Chúng ta phẫn nộ khi nghĩ rằng bất cứ thứ gì cũng có thể làm ta vui khi người ta yêu mến đã không còn ở đây để chia sẻ niềm vui đó, và chúng ta gần như cảm thấy mình đã phản bội lại nỗi buồn của mình khi nhận ra những hứng thú trong đời lại quay về với ta.”

“Chiều nay con đã xuống nghĩa trang trồng một bụi hồng trước mộ bác Matthew,” Anne nói mơ màng. “Con lấy một cành từ bụi hồng trắng Scotland mà mẹ bác ấy đem từ Scotland về cách đây lâu lắm rồi; bác Matthew luôn thích những bông hồng đó nhất – chúng bé bỏng và thơm ngát biết bao trên những cái cuống đầy gai. Con thấy vui vì có thể trồng nó bên mộ bác ấy – cứ như thể con đã làm được một điều hẳn sẽ làm vui lòng bác Matthew khi mang chúng lại gần bác ấy. Con hy vọng bác ấy có những bông hồng như vậy trên thiên đường. Có lẽ linh hồn của tất cả những bông hồng trắng bé nhỏ mà bác ấy yêu thương trong biết bao mùa hè đều ở đó để gặp bác. Con phải về nhà đây. Bác Marilla chỉ có một mình và sẽ thấy cô đơn lúc chạng vạng.”

“Ta e rằng bác ấy sẽ lại cô đơn hơn nữa khi con lại đi học” cô Allan nói.

Anne không trả lời, cô chào tạm biệt rồi chậm rãi quay về Chái Nhà Xanh. Bà Marilla đang ngồi trên ngưỡng cửa phía trước nhà và Anne ngồi xuống cạnh bà. Cánh cửa sau lưng họ mở bung, được giữ lại bởi một vỏ ốc to màu hồng chất chứa ánh hoàng hôn của biển giữa những vòng xoắn nhẵn thín bên trong.

Anne lượm vài nhánh kim ngân vàng nhạt cài lên tóc. Cô thích mùi hương dịu ngọt như một lời ban phúc từ trên không đó thoang thoảng phía trên tóc mỗi lúc cô di chuyển.

“Bác sĩ Spencer đã ở đây trong lúc con vắng nhà,” bà Marilla nói. “Ông ấy bảo ngày mai vị chuyên gia sẽ tới tỉnh nhà và cứ nhất định bảo ta phải đến đó kiểm tra mắt. Có lẽ tốt hơn hết ta nên đi và kết thúc chuyện này thôi. Ta sẽ biết ơn hơn nhiều nếu ông đó có thể cho ta cái kính phù hợp. Con sẽ không ngại ở đây một mình khi ta đi chứ? Martin sẽ lái xe đưa ta đi, mà còn phải ủi đồ và nướng bánh nữa.”

“Con sẽ ổn thôi. Diana sẽ đến chơi với con. Con sẽ ủi đồ và nướng bánh đâu vào đấy – bác không cần phải lo con hồ bột khăn tay hay nêm bánh bằng dầu xoa bóp đâu.”

Bà Marilla cười lớn.

“Không hiểu hồi đó con như thế nào mà lại phạm những lỗi đó được chứ, Anne. Con luôn luôn vướng vào rắc rối. Ta từng nghĩ chắc con bị ám quẻ rồi. Con có nhớ cái lần con nhuộm tóc không?”

“Có chứ ạ. Con sẽ không bao giờ quên được,” Anne mỉm cười, chạm tay vào bím tóc dày thả từ mái đầu cân đối. “Bây giờ thỉnh thoảng con vẫn bật cười khi nghĩ lại con từng lo lắng thế nào về mái tóc của mình – nhưng con không cười nhiều lắm, vì hồi đó nó thật sự là một nỗi phiền toái. Con từng đau khổ khủng khiếp vì mái tóc và tàn nhang của mình. Tàn nhang của con đã hoàn toàn biến mất, và mọi người đều rất dễ thương khi nói với con rằng giờ tóc con đã hung vàng – tất cả, trừ Josie Pye. Hôm qua nó vừa thông báo với con là nó nghĩ tóc con đỏ hơn bao giờ hết, hay ít nhất là cái váy đen của con làm tóc trông đỏ hơn, rồi nó hỏi con liệu những người tóc đỏ có thể chấp nhận nổi việc tóc mình như thế không. Bác Marilla, con gần như đã quyết định từ bỏ việc cố gắng thích Josie Pye rồi. Con đã làm điều mà con từng gọi là nỗ lực anh dũng để thích nó, nhưng Josie Pye không thể ưa nổi.”

“Josie là một kẻ nhà Pye,” bà Marilla nói gay gắt, “nên không thể nào không khó chịu với nó được. Ta nghĩ loại người như thế cũng có vai trò hữu dụng nào đó trong xã hội, nhưng phải nói rằng ta không biết nó có gì nhiều hơn so với công dụng của cây kế không. Josie sẽ đi dạy phải không?”

“Không ạ, năm sau nó sẽ trở lại trường Queen. Moody Spurgeon và Charlie Sloane cũng vậy. Jane và Ruby sẽ đi dạy, cả hai đều có trường nhận rồi – Jane ở Newbridge còn Ruby ở trường nào đó trên phía Tây.”

“Gilbert Blythe cũng sẽ đi dạy chứ, phải không?”

“Vâng” – một cách ngắn gọn.

“Cậu ta trông mới bảnh làm sao chứ,” bà Marilla lơ đãng nói. “Chủ nhật vừa rồi ta nhìn thấy nó trong nhà thờ, nó có vẻ cao ráo và nam tính. Nó trông giống hệt cha mình lúc ở tuổi đó. John Blythe là một cậu chàng dễ thương. Chúng ta từng là bạn rất tốt, ông ấy và ta. Mọi người còn gọi ông ấy là bồ của ta nữa.”

Anne nhìn lên với vẻ hứng thú bất ngờ.

“Ôi bác Marilla… rồi chuyện gì xảy ra?... sao bác không… ”

“Chúng ta cãi nhau. Ta không tha thứ khi ông ấy cầu xin ta. Ta cũng định tha thứ rồi chứ, sau một lúc… nhưng ta lại hờn dỗi, giận dữ và muốn trước hết trừng phạt ông ấy đã. Ông ấy đã không bao giờ trở lại – người nhà Blythe lúc nào cũng vô cùng độc lập. nhưng ta luôn cảm thấy… có phần nuối tiếc. Ta luôn mong ước giá mình tha thứ cho ông ấy khi có cơ hội.”

“Vậy thì bác cũng đã có một chút lãng mạn trong đời,” Anne nói dịu dàng.

“Phải, ta nghĩ con có thể gọi như thế. Con không nghĩ vậy khi nhìn ta phải không? Nhưng con không bao giờ có thể đánh giá đúng người khác nếu chỉ dựa vào vẻ bề ngoài. Mọi người đã quên hết chuyện ta và John. Bản thân ta cũng quên mất. Nhưng tất cả lại ùa về khi ta thấy Gilbert vào Chủ nhật tuần trước.”
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chương 38. Khúc rẽ trên đường
Hôm sau bà Marilla lên tỉnh và trở về vào buổi tối. Anne đến Dốc Vườn Quả với Diana và lúc trở về thì thấy bà Marilla trong bếp, tựa đầu trên tay, ngồi lên bàn. Trong vẻ chán nản của bà có điều gì đó khiến trái tim Anne đột nhiên lạnh buốt. Cô chưa bao giờ thấy bà Marilla ngồi yếu ớt uể oải như thế.

"Bác có mệt lắm không, bác Marilla?"

"Có… không… ta không biết," bà Marilla vừa ngước mắt lên vừa uể oải đáp. "Ta tưởng mình mệt nhưng thật ra ta chưa từng nghĩ đến nó. Không phải vậy."

"Bác gặp bác sĩ mắt chưa? Ông ấy nói gì?" Anne lo lắng hỏi.

"Rồi, ta gặp ông ấy rồi. Ông ấy khám mắt cho ta. Ông ấy nói nếu ta bỏ hoàn toàn việc đọc sách, khâu vá và tất cả những hoạt động khiến mắt phải điều tiết nhiều, nếu ta cố không rơi nước mắt và đeo kính mà ông ấy đưa cho, có thể mắt ta sẽ không tệ hơn mà chứng đau đầu cũng được chữa. Nhưng nếu ta không tuân theo thì ông ấy nói chỉ sáu tháng nữa chắc chắn ta bị mù hoàn toàn. Mù! Anne, nghĩ thử coi!"

Trong một phút, sau khi bật ra tiếng kêu thất thần, Anne im lặng. Cô cảm thấy như mình không thể nói được. Rồi, cô dũng cảm lên tiếng, nhưng trong giọng nói có chút ngập ngừng: "Bác Marilla, đừng nghĩ tới chuyện đó. Bác biết là ông ấy đã mang hy vọng đến cho bác mà. Nếu cẩn thận, bác sẽ không hoàn toàn mất thị giác đâu, và nếu kính của ông ấy chữa được chứng đau đầu của bác thì cũng là chuyện tốt mà."

"Ta không gọi đó là hy vọng," bà Marilla cay đắng nói. "Ta biết sống vì cái gì đây nếu không thể đọc sách, may vá hay làm chuyện gì tương tự? Ta thà bị mù… hay chết đi. Còn về chuyện khóc, ta không thể không khóc khi thấy cô độc. Nhưng thôi, có nói cũng chẳng ích gì. Nếu con lấy cho ta một tách trà ta sẽ cảm ơn lắm. Ta sắp kiệt sức rồi. Dù sao thì trước mắt đừng nói chuyện này cho bất cứ ai biết. Ta không thể chịu nổi nếu mọi người cứ đến đây hỏi han, tỏ vẻ thông cảm rồi bàn tán chuyện đó."

Khi bà Marilla dùng bữa xong, Anne thuyết phục bà đi ngủ. Rồi Anne đi lên chái Đông ngồi bên cửa sổ trong bóng tối, một mình với nước mắt và trái tim trĩu nặng. Mọi chuyện đã thay đổi một cách đáng buồn biết bao kể từ buổi tối cô ngồi đây sau khi về nhà! Lúc đó trong cô tràn ngập hy vọng và niềm vui, tương lai tươi sáng đầy hứa hẹn. Anne cảm thấy như thể mình đã sống qua bao nhiêu năm kể từ lúc đó, nhưng trước khi cô đi ngủ, nụ cười đã lại nở trên môi và sự bình an đã về trong tim. Cô dũng cảm đối diện với trách nhiệm của mình và nhận ra đó là một người bạn - trách nhiệm lúc nào cũng vậy nếu chúng ta chịu đối diện thẳng với nó.

Một buổi chiều vài ngày sau, bà Marilla chậm rãi bước vào từ sân trước, nơi bà vừa nói chuyện với một vị khách - Anne nhận ra đó là ông Sadler ở Carmody. Anne tự hỏi không biết ông ta đã nói gì khiến gương mặt bà Marilla trở nên như thế.

"Ông Sadler muốn gì vậy, bác Marilla?"

Bà Marilla ngồi xuống bên cửa sổ rồi nhìn Anne. Lệ ứa ra trong mắt bà bất chấp sự cấm đoán của bác sĩ và giọng bà vỡ òa khi nói: "Ông ấy nghe nói ta sắp bán Chái Nhà Xanh nên muốn mua nó."

"Mua nói! Mua Chái Nhà Xanh?" Anne tự hỏi liệu mình có nghe nhầm không. "Ôi, Marilla, bác không định bán Chái Nhà Xanh đó chứ!"

"Anne, ta không biết phải làm gì khác nữa. Ta nghĩ kỹ lắm rồi. Nếu mắt khỏe ta có thể ở lại đây, xoay sở coi sóc mọi thứ với một người làm tốt. Nhưng như thế này thì không thể. Ta có thể mất hoàn toàn thị lực, mà dù sao ta cũng không phù hợp với việc điều hành. Ôi, ta chưa bao giờ nghĩ mình sống để thấy cái ngày phải bán căn nhà của mình. Nhưng mọi thứ sẽ chỉ càng ngày càng tệ hơn thôi, cho đến khi không ai muốn mua nó nữa. Toàn bộ tiền của chúng ta đều ở trong ngân hàng đó, chỉ còn vài đồng bạc Matthew đưa từ mùa thu năm ngoái. Bà Lynde khuyên ta bán trang trại rồi đến đâu đó ở - với bà ấy chẳng hạn. Cũng không nhiều nhặn gì - trang trại thì nhỏ mà nhà cũng cũ rồi. Nhưng ta đoán cũng đủ cho ta trang trải. Ơn trời là con nhận được suất học bổng đó, Anne. Ta rất tiếc vì con sẽ không có nhà để về trong kỳ nghỉ, vậy thôi, nhưng ta nghĩ con có thể xoay sở được không cách này thì cách khác."

Bà Marilla kiệt sức khóc cay đắng.

"Bác không được bán Chái Nhà Xanh," Anne kiên quyết nói.

"Ôi, Anne, ước gì ta không phải làm vậy. Nhưng tự con cũng thấy mà. Ta không thể sống ở đây một mình được. Ta sẽ phát điên với mớ rắc rối và nỗi cô đơn. Và thị lực của ta sẽ mất - ta biết thế."

"Bác sẽ không phải ở đây một mình, bác Marilla. Con sẽ ở với bác. Con không đến Redmond nữa."

"Không đến Redmond!" Bà Marilla nhấc khuôn mặt bơ phờ ra khỏi lòng bàn tay rồi nhìn Anne.

"Sao, ý con là gì?"

"Là như con nói đó. Con sẽ không nhận học bổng. Con quyết định như thế vào buổi tối bác từ thị trấn về. Chắc chắn bác không nghĩ rằng sau tất cả những gì bác làm cho con, con sẽ bỏ bác lại một mình với đống rắc rối chứ, bác Marilla. Con đã suy nghĩ và lên kế hoạch rồi. Để con nói bác nghe kế hoạch của con. Bác Barry muốn thuê trang trại cho năm sau. Vì vậy bác không cần lo chuyện đó. Còn con sẽ đi dạy. Con nộp đơn vào trường ở đây rồi - nhưng con không mong sẽ nhận được vì con hiểu hội đồng đã hứa với Gilbert Blythe rồi. Nhưng con còn có trường Carmody - tối qua ông Blair đã nói với con như vậy ở trong cửa hàng bách hóa. Dĩ nhiên dạy ở đó sẽ không dễ chịu hay thuận tiện như dạy ở trường Avonlea. Nhưng con có thể sống tại nhà và tự đánh xe đến Carmody rồi trở về, ít nhất là trong thời tiết ấm áp. Ngay cả trong mùa đông thì con vẫn có thể về nhà vào thứ Sáu. Chúng ta sẽ dành một con ngựa cho chuyện đó. Ồ, bác Marilla, con đã sắp xếp cả rồi. Con sẽ đọc sách cho bác và làm bác vui lên. Bác sẽ không chán nản hay cô đơn đâu. Ở đây, chúng ta sẽ thật ấm cúng và hạnh phúc bên nhau, bác và con."

Bà Marilla lắng nghe như người trong mộng.

"Ôi, Anne, ta biết mình thực sự có thể xoay sở ổn thỏa khi có con ở đây. Nhưng ta không thể để con hy sinh bản thân như vậy vì ta. Thật khủng khiếp!"

"Vớ vẩn," Anne bật cười vui vẻ. "Chẳng có hy sinh gì hết. Không gì có thể tồi tệ hơn việc từ bỏ Chái Nhà Xanh… không gì có thể làm tổn thương con nhiều hơn. Chúng ta phải giữ gìn chốn xưa thân thiết này. Ý con đã quyết rồi bác Marilla. Con sẽ không tới Redmond và con sẽ ở đây dạy học. Bác đừng lo lắng cho con."

"Nhưng tham vọng của con và…"

"Con vẫn nhiều tham vọng như mọi khi thôi. Chỉ là con đã chuyển mục tiêu tham vọng rồi. Con sẽ là một giáo viên giỏi - và con sẽ bảo vệ thị lực của bác. Hơn nữa, con đã dự định học ở nhà và tự theo một khóa học đại học ngắn. Ôi, con có cả tá kế hoạch, bác Marilla. Con đã nghĩ ra chúng từ cả tuần nay rồi. Con nên trao cho cuộc sống ở đây những gì tốt đẹp nhất của mình, và con tin nó cũng sẽ đền đáp bằng cách trao cho con những gì tốt đẹp nhất của nó. Khi con rời trường Queen, tương lai dường như trải rộng phía trước như một con đường thẳng tắp. Con từng nghĩ mình có thể dõi mắt ra xa hàng bao cây số dọc con đường đó. Giờ đây có một ngã rẽ trên đó. Con không biết cái gì nằm quanh ngã rẽ đó, nhưng con sẽ tin rằng đó là những điều tốt nhất. Nó cũng có sức mê hoặc riêng, cái ngã rẽ đó, bác Marilla. Con tự hỏi con đường phía sau nó sẽ thế nào - sẽ có gì trong màu xanh huy hoàng, trong bóng tối và trong ánh sáng dịu nhẹ đan thành hình ô bàn cờ - những phong cảnh mới nào - những vẻ đẹp mới nào - những con đường uốn lượn cùng đồi và thung lũng nào xa hơn."

"Ta không nghĩ mình nên để con bỏ nó" bà Marilla nói, nhắc đến suất học bổng.

"Nhưng bác không thể ngăn con. Con đã mười sáu tuổi rưỡi rồi, ‘bướng như lừa’, giống lời bà Lynde từng nói," Anne bật cười. "Ôi, bác Marilla, đừng thương hại con. Con không thích bị thương hại, không cần phải như vậy. Con thật tâm vui mừng khi nghĩ đến việc ở lại Chái Nhà Xanh. Không ai có thể yêu nó bằng bác và con - vì vậy chúng ta phải giữ nó."

"Cái con ranh này!" bà Marilla nói, đầu hàng. "Cứ như con đã cho ta một cuộc đời mới vậy. Ta nghĩ mình phải đánh liều bắt con đến trường - nhưng ta biết mình không thể, nên sẽ không cố làm gì. Nhưng ta sẽ đền bù cho con, Anne."

Khi khắp Avonlea đồn ầm lên chuyện Anne Shirley từ bỏ ý định học đại học mà sẽ ở nhà đi dạy, đã có rất nhiều tranh cãi. Hầu hết những hàng xóm tốt bụng, không biết chuyện mắt của bà Marilla, đều nghĩ con bé thật ngốc nghếch. Cô Allan thì không. Cô nói vậy với Anne bằng giọng tán thành làm cô gái ứa nước mắt sung sướng. Bà Lynde tốt bụng cũng không. Một tối bà lên chơi, thấy Anne và bà Marilla ngồi ở cửa ra vào dưới hoàng hôn mùa hè ấm áp đậm mùi hương. Họ thích ngồi đó khi ánh chạng vạng buông xuống, lũ bướm đêm trắng bay vòng vòng quanh vườn và mùi bạc hà thấm đẫm trong không khí ướt sương.

Bà Rachel đặt thân hình to lớn của mình xuống băng ghế đá bên cửa, phía trước một hàng thục quỳ cao hoa đỏ và vàng, thở một hơi dài nửa uể oải nửa nhẹ nhõm.

"Phải nói là ta rất mừng khi được ngồi xuống. Ta đã rong ruổi trên đôi chân cả ngày rồi, và hai trăm pound hơi nặng để hai chân có thể gánh được. Thật phúc đức biết bao khi không bị mập, Marilla. Chị hy vọng em biết ơn chuyện đó. Nào, Anne, ta nghe nói con đã bỏ ý định đến trường đại học. Ta rất mừng khi nghe chuyện đó. Tới giờ này thì con đã được giáo dục khá nhiều so với nhu cầu của một phụ nữ rồi. Ta không ủng hộ chuyện con gái đến trường đại học cùng cánh đàn ông, rồi nhồi nhét vào đầu đầy những tiếng Latin, tiếng Hy Lạp và đủ thứ vớ vẩn."

"Nhưng con cũng sẽ học tiếng Latin và Hy Lạp như vậy thôi, bà Lynde" Anne vừa nói vừa cười."Con sẽ học môn Nghệ thuật ngay tại Chái Nhà Xanh này và học mọi thứ giống như ở trường."

Bà Lynde kinh hoàng đưa tay lên "Anne Shirley, con sẽ tự giết mình đấy."

"Không một chút nào. Con sẽ trưởng thành nhờ điều đó. Ồ, con sẽ không làm việc quá sức đâu. Như ‘vợ của Josiah Allen’ nói, con sẽ ‘ở vị trí trung gian’. Nhưng con sẽ có nhiều thời gian rảnh trong suốt những tối mùa đông dài dằng dặc, và con không tưởng tượng gì hết. Con sẽ đi dạy ở Carmody, bà biết đấy."

"Ta không biết chuyện đó. Ta tưởng con sẽ dạy ở ngay Avonlea này. Hội đồng đã quyết định sẽ nhận con vào trường."

"Bà Lynde!" Anne hét lên, bật dậy vì bất ngờ. "Sao lại thế được, con nghĩ họ đã hứa nhận Gilbert Blythe rồi!"

"Họ có hứa. Nhưng ngay khi nghe tin con cũng nộp đơn thì Gilbert đã đến - tối qua họ có cuộc họp ở trường, con biết đó - rồi nói với họ rằng cậu ta rút lại đơn xin việc của mình và đề nghị họ nhận con. Cậu ta nói cậu ta sẽ dạy ở White Sands. Dĩ nhiên cậu ta từ bỏ trường này chỉ vì muốn giúp đỡ con, vì cậu ta biết con muốn được ở lại với Marilla đến thế nào, và phải nói rằng ta nghĩ cậu ta thật tử tế và biết quan tâm đến người khác, vậy đó. Một sự hy sinh bản thân thực sự, vì cậu ta sẽ phải trả tiền trọ ở White Sands, mà mọi người đều biết cậu ta phải kiếm tiền vào học đại học. Vậy là hội đồng đã quyết định chọn con. Ta hết sức hài lòng khi Thomas kể lại với ta."

"Con không nghĩ mình nên nhận nó," Anne lẩm bẩm. "Ý con là… con không nghĩ mình nên để Gilbert hy sinh như vậy vì… vì con."

"Ta nghĩ bây giờ thì con chẳng cản được cậu ấy đâu. Cậu ta đã ký giấy tờ với hội đồng White Sands rồi. Nên giờ con có từ chối cũng chẳng có ích lợi gì cho cậu ta. Dĩ nhiên con sẽ nhận trường. Con sẽ làm tốt thôi vì bây giờ không có đứa Pye nào ở đó nữa. Josie là đứa cuối cùng của nhà đó rồi, thật may nó là đứa cuối, vậy đó. Hai mươi năm đã có vài người nhà Pye tới trường Avonlea và ta đoán sứ mệnh của chúng là nhắc cho các giáo viên nhớ rằng thế giới này không phải nhà của chúng. Cầu phúc cho tim ta! Cái ánh nhấp nháy ở chái nhà Barry là gì vậy?"

"Diana ra hiệu cho con sang bên đó." Anne bật cười. "Bà biết chúng con vẫn giữ những thói quen cũ mà. Con xin phép chạy sang đó xem bạn ấy muốn gì nhé."

Anne chạy như một chú hươu xuống dốc cỏ ba lá rồi biến mất trong bóng linh sam của Rừng Ma Ám. Bà Lynde nhìn theo cô với vẻ bao dung.

"Ở một số mặt, con bé vẫn còn con nít lắm."

"Ở những mặt khác, nó còn nhiều chất phụ nữ hơn," bà Marilla trả miếng, nhất thời trở lại với tính cả quyết ngày xưa.

Nhưng cả quyết không còn là tính cách nổi bật của bà Marilla nữa. Như bà Lynde nói với Thomas của bà tối đó.

"Marilla Cuthbert đã chín chắn rồi. Vậy đó."

Tối hôm sau Anne tới khu nghĩa trang nhỏ của Avonlea để đặt hoa tươi lên mộ ông Matthew và tưới nước cho bụi hồng Scotland. Cô chần chừ ở đó mãi đến lúc chiều tà, thích sự an bình yên tĩnh của nơi nhỏ bé này, với những cây phong xào xạc giống như chuyện trò khẽ khàng thân thiện, và cả những ngọn cỏ rì rầm mọc tràn lan quanh mộ. Khi cô cuối cùng cũng rời khỏi nơi đó, thả bộ xuống ngọn đồi dài dốc tới Hồ Nước Lấp Lánh thì hoàng hôn vừa tắt và cả Avonlea trải ra trước mắt cô trong ánh hồng huyền ảo của bầu trời khi vầng thái dương đã lặn - "nỗi ám ảnh về sự an bình ngàn xưa." Không khí trở nên mát rượi sau khi có một ngọn gió thổi qua cánh đồng cỏ ba lá ngọt ngào. Ánh đèn nhấp nháy đây đó giữa những hàng cây trong nông trại. Xa xa là biển cả mờ tím trong sương, với tiếng thì thầm ám ảnh, khôn nguôi của nó. Ở phía Tây là vẻ huy hoàng rực rỡ của những sắc màu êm dịu pha trộn với nhau và mặt hồ phản chiếu tất cả chúng thành những sắc màu còn êm dịu hơn. Tất thảy vẻ đẹp đó làm trái tim Anne rung lên và cô cảm kích mở rộng cánh cửa tâm hồn đón nhận.

"Thế giới thân thuộc ơi," cô thì thầm. "Bạn đáng yêu lắm, và mình mừng vì được sống trong bạn."

Trên đường xuống đồi một tên con trai dáng cao vừa huýt sáo vừa bước qua cánh cổng nông trại nhà Blythe. Đó là Gilbert, và tiếng huýt sáo tắt ngấm trên môi khi cậu nhận ra Anne. Cậu lịch sự ngả mũ chào, nhưng có lẽ sẽ im lặng đi tiếp nếu Anne không dừng lại và chìa tay ra.

"Gilbert," cô nói, hai má đỏ bừng "mình muốn cảm ơn cậu đã bỏ trường vì mình. Cậu quá tốt - và mình muốn cậu biết là mình rất cảm kích."

Gilbert hăm hở nắm lấy bàn tay chìa ra.

"Mình chẳng đặc biệt tốt gì đâu, Anne. Mình rất vui khi có thể làm điều nhỏ bé gì đó cho cậu. Từ giờ chúng ta sẽ là bạn chứ? Cậu thật sự tha thứ cho những lỗi lầm cũ của mình chứ?"

Anne cười thành tiếng và cố gắng rút tay ra nhưng chỉ hoài công.

"Mình đã tha thứ cho cậu từ hôm ở bên hồ rồi, mặc dù mình không biết điều đó. Mình thật là một con ngỗng con bướng bỉnh. Mình đã - có lẽ mình cũng nên thú tội cho trọn - mình đã hối hận suốt từ ngày đó."

"Chúng ta sẽ là những người bạn tốt nhất" Gilbert hân hoan nói. "Chúng ta sinh ra là để làm bạn tốt mà, Anne. Cậu ngáng trở định mệnh đủ rồi đấy. Mình biết chúng ta có thể giúp nhau trên nhiều phương diện. Cậu vẫn tiếp tục việc học đó chứ? Mình cũng vậy. Đi nào, mình sẽ đưa cậu về."

Bà Marilla tò mò nhìn Anne khi cô bước vào bếp.

"Ai đi cùng con trên đường thế, Anne?"

"Gilbert Blythe," Anne trả lời, bực tức nhận ra mình đang đỏ mặt. "Con gặp cậu ấy trên đồi nhà Barry."

"Ta không nghĩ con với Gilbert là bạn tốt đến mức con đứng hơn nửa giờ ngoài cổng nói chuyện với cậu ấy đấy," Marilla nói kèm theo một nụ cười tỉnh queo.

"Chúng con không phải… chúng con từng là địch thủ tốt. Nhưng chúng con đã quyết định là sẽ đúng đắn hơn nhiều nếu làm bạn tốt trong tương lai. Có thật là chúng con ở ngoài đó nửa giờ không? Có vẻ như mới vài phút đây thôi vậy. Nhưng bác thấy đấy, chúng con phải gỡ lại những cuộc trò chuyện đã đánh mất trong suốt năm năm mà, bác Marilla."

Tối đó Anne ngồi bên cửa sổ với niềm vui phơi phới. Gió thổi nhẹ nhàng qua những cành anh đào và hương bạc hà bay đến chỗ cô. Những vì sao nhấp nháy bên trên hàng linh sam ngọn nhọn hoắt trong thung lũng và ánh đèn phòng Diana lập lòe xuyên qua những khoảng trống cũ.

Các chân trời của Anne đã khép lại kể từ đêm cô ngồi đó sau khi từ trường Queen về nhà, nhưng cho dù con đường trải ra trước chân mình quá hẹp, cô biết những bông hoa của hạnh phúc thanh bình vẫn nở bên đường. Niềm vui của công việc đích thực, của khát vọng xứng đáng và tình bạn tâm đầu ý hợp vẫn ở bên cô, không gì có thể cướp đoạt của cô quyền được tưởng tượng hay thế giới mơ mộng lý tưởng của nó. Và luôn luôn có ngã rẽ trên đường!

"Lạy Chúa trên thiên đường, vạn sự trên đời vẫn ổn," Anne dịu dàng thì thầm.
 


Top