Tuyển tập truyện Tủ sách Tuổi Hoa | VN-Zoom | Cộng đồng Chia Sẻ Kiến Thức Công Nghệ và Phần Mềm Máy Tính

Adblocker detected! Please consider reading this notice.

We've detected that you are using AdBlock Plus or some other adblocking software which is preventing the page from fully loading.

We don't have any banner, Flash, animation, obnoxious sound, or popup ad. We do not implement these annoying types of ads!

We need money to operate the site, and almost all of it comes from our online advertising.

Please add https://vn-z.vn to your ad blocking whitelist or disable your adblocking software.

×

Tuyển tập truyện Tủ sách Tuổi Hoa

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Tủ sách Tuổi Hoa được thành lập trước năm 1975 và do những cây bút chuyên viết cho các tạp chí như Thiếu Nhi, Thằng Bờm, Tuổi Hoa cộng tác.

Các tác phẩm của Tủ sách Tuổi Hoa được chia làm 3 loại:
  1. Loại hoa đỏ: phiêu lưu, mạo hiểm, trinh thám.
  2. Loại hoa xanh: tình cảm nhẹ nhàng như tình gia đình, bạn bè.
  3. Loại hoa tím: dành cho tuổi 16 - 18.
Những tác phẩm này đã từng một thời là "món ăn tinh thần " của thanh thiếu niên Việt Nam vì nó không những giáo dục những đức tính tốt cho con người mà còn giúp thanh thiếu niên tập trau chuốt lời văn để học văn tốt hơn.

Ngoài ra, Bán Nguyệt San Tuổi Hoa cũng là một tờ báo đã đi vào lòng của thanh thiếu niên Việt Nam vào thập niên 60, đầu thập niên 70. Những giá trị tinh thần do Bán Nguyệt San Tuổi Hoa đem lại rất nhiều và hầu như các truyện dài được đăng trong Bán Nguyệt San Tuổi Hoa đều được Nhà xuất bản Tuổi Hoa in thành sách, chính là các truyện loại hoa đỏ, hoa xanh và hoa tím mà chúng ta đang sưu tầm.

Hiện nay Tủ Sách Tuổi Hoa và Bán Nguyệt San Tuổi Hoa đang bị mai một nên có lẽ đến một ngày nào đó sẽ không ai còn nhớ và còn biết trong văn hóa Việt Nam có một giai đoạn thịnh hành của sách báo Thiếu Nhi, đã góp phần trong việc giáo dục tạo nên một thế hệ Thanh thiếu niên ưu tú. Việc sưu tầm và tái lập Tủ sách Tuổi Hoa cũng như Bán Nguyệt San Tuổi Hoa sẽ giúp chúng ta ghi dấu lại giai đoạn đáng nhớ đó và mặc dù hiện giờ các tác phẩm của Tủ Sách Tuổi Hoa và các Bán Nguyệt San Tuổi Hoa bị thất lạc rất nhiều nhưng mong rằng với thời gian và với công sức của tất cả những người đã, đang và sắp là fans của Tuổi Hoa, chúng ta sẽ cùng nhau tái lập lại đầy đủ các tác phẩm, các tập san của Tuổi Hoa khi xưa.

Cám ơn quý tác giả của Tủ sách Tuổi Hoa, dù không trực tiếp gửi sách nhưng những giá trị tinh thần của các tác phẩm mà quý vị cho ra đời thật là vô giá. Mong rằng quý vị sẽ thông cảm và bỏ qua cho việc không xin phép của chúng tôi khi đưa các tác phẩm của quý vị vào website bởi vì sau bao nhiêu sự thăng trầm, khó mà tìm lại được quý vị.

Chân thành cám ơn.
Lời giới thiệu từ nhóm đang sưu tầm/scan lại tủ sách Tuổi Hoa ([email protected])
---------
Mình đăng lại những cuốn thuộc Tủ sách Tuổi Hoa lên Vn-Zoom với hi vọng diễn đàn sẽ là nơi lưu giữ lại sách trong trường hợp trang nguồn bên Google Sites
Mã:
https://sites.google.com/site/tusachtuoihoa/
có sự cố hoặc ngừng hoạt động. Hi vọng những cuốn sách này sẽ tiếp cận được với bạn đọc xưa và nay!

Còn dưới đây là danh mục các sách mình đã đưa lên diễn đàn, giúp bạn tìm kiếm và phân loại dễ dàng hơn.

Tủ sách Tuổi Hoa - Loại Hoa Đỏ

  1. Anh Hùng Sơn Cước - Thùy Hương
  2. Ánh nắng nhiệm màu - Chân Phương
  3. Bên đường biên giới - Nguyễn Trường Sơn
  4. Bên kia chiếc cầu - Nguyễn Thị Mỹ Thanh
  5. Bí mật dầu lửa - Nguyễn Hiến Lê
  6. Biệt thự Hoàng Lan - Thùy Hương
  7. Bộ khuy kỳ lạ - Nam Quân
  8. Bóng người dưới ánh trăng - Nguyễn Trường Sơn
  9. Bông Uất Kim Hương Đen - Xuân Thu
  10. Bức mật thư - Nam Quân
  11. Bức tranh dòng họ Nguyễn - Chân Phương
  12. Chim Phụng Thái Lan
  13. Chuỗi ngọc Trường Sinh
  14. Cô gái Chúc Sơn
  15. Cô giáo Thu Trang
  16. Con rắn của lão tù trưởng
Tổng hợp bởi RS_Lyly2009 - Vn-Zoom.Org
 
Sửa lần cuối:

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chim phụng Thái Lan
Tác giả:
Xuân Quang
Loại Hoa: Hoa đỏ
Sưu tầm & Đánh máy: Mary Gold, Dien Tranthi, Uyenthy Luong
27736336799_50c1bce0da_o.png


Chương 1. Giáo sư Vũ Anh
Đồng hồ quả lắc trên tường gõ một tiếng buồn nản. Một giờ khuya, Hoàng Minh trằn trọc không ngủ được, chàng càu nhàu nho nhỏ:

- Chắc tại mình uống cà phê đen đậm quá… Lần sau thì có lẽ tấm lòng trinh bạch từ đây xin chừa.

Tính tình vui vẻ nên ngay lúc bực mình vì mất ngủ chàng vẫn… nói đùa với chính mình được. Hoàng Minh ngả đầu xuống gối, nhắm mắt lại, cố dỗ giấc ngủ. Sự yên lặng và bóng đêm bao trùm gian phòng làm Minh dễ chịu. Chàng khoan khoái mỉm cười thú vị nhớ đến câu nói đùa của các bạn:

- Thằng Minh có nước lên rừng mà ở. Nó chỉ thích cô độc. Có rất nhiều bạn bè nhưng chẳng bao giờ có người bạn thân, dù rằng có rất nhiều người muốn được làm bạn thân với nó.

Bản chất của Minh như thế. Nhưng vẻ bề ngoài của chàng khác hẳn. Vui tính, hoạt bát, thông minh và dí dỏm, luôn luôn chàng chiếm được cảm tình người đối diện trong phút đầu tiên gặp gỡ. Điều ấy có lợi cho nghề nghiệp hiện tại của chàng: trinh thám tư.

Reng…reng…reng…reng…

Chuông điện thoại reo vang trên bàn ngủ. Minh bật đèn mờ, với tay cầm ống liên hợp. Một giọng quen quen vọng lại từ đầu dây bên kia:

- Anh Minh đó phải không? Tôi, Vũ Anh đây…

- Hân hạnh được tiếp chuyện với Giáo sư giờ này…

Nghe câu trả lời đầy trách móc, Giáo sư cười ha hả, đắc ý:

- Dễ gì chọc được bạn tôi nổi giận. Nhưng lần này có lẻ anh Minh nổi giận thật đó. Vì một giờ khuya tôi gọi điện thoại đến anh để… nói chuyện chơi cho đỡ buồn… tôi không ngủ được…

Hoàng Minh là bạn học cùng lớp với Giáo sư từ bậc tiểu học. Lớn lên, một người du học ngoại quốc và trở thành nhà bác học nổi tiếng thế giới về các công trình nghiên cứu Y học, người kia phiêu bạc giang hồ nhiều năm, sau cùng về mở văn phòng Trinh Thám. Minh không buồn cho mình, trái lại chàng còn luôn hãnh diện:

- Mỗi người có một cuộc đời…và đời ta không phải là loại bị cầm tù trong phòng thí nghiệm.

Đôi bạn hiểu nhau lắm. Nên Minh nghe giọng nói của Giáo sư là biết ngay ông ta có chuyện quan trọng muốn nói:

- Anh cứ nói, Vũ Anh. Tôi không phiền đâu…

- Bạn năn nỉ tôi phải không? Được, tôi bắt đầu nhé – Giáo sư thấp giọng, thở dài rất khẽ - tôi đang bị đe dọa vì phát minh mới nhất của tôi, một loại thuốc dùng bồi bổ sức khỏe con người, nhất là đối với đại chúng lao động nghèo khổ.

Hoàng Minh thắc mắc:

- Anh nói mau đi? Phát minh một thần dược như thế lại là một tội lỗi hay sao? Ai đe dọa anh?

- Không ai cả…

- ……

- Tôi linh cảm thấy như thế. Tôi muốn ngạt thở rồi. Một sự nặng nề chết chóc bao phủ quanh tôi. Có những người lạ mặt đang lảng vảng quanh biệt thự “LÚA VÀNG” của tôi. Nhất là mới hồi chiều, tôi bắt gặp cặp mắt chăm chú kỳ lạ của Tiểu Phụng…

- Tiểu Phụng?

- À, tôi quên nói anh hay: Tiểu Phụng là con nhỏ người lai Thái, con gái của ông Nguyễn Viễn Đăng, bạn thân của tôi. Bà vợ lớn của ông ta ghen quá, ông không dám mang con riêng về sợ bị hành hạ, ngỏ ý muốn nhờ tôi. Tôi thấy con bé dễ thương, nhận lời…

- Từ bao giờ?

- Tuần lể nay thôi. Vợ ông ta là người Thái Lan, Tiểu Phụng giống mẹ như hệt.

- Con nhỏ biết nói tiếng Việt không?

- Dĩ nhiên là có. Cha nó là người Việt mà. Anh sao lẩn thẩn…tôi nói tiếp nhé. Tôi mới chế ra một loại thuốc có thể rút ngắn giấc ngủ của con người mà người ấy vẫn khỏe mạnh như thường. Thí dụ: hàng đêm anh phải ngủ đủ tám giờ đồng hồ sáng mai mới khỏi ngáp, chảy nước mắt… thì nay anh chỉ cần một giờ là đủ.

- Một giờ?

- Phải. Giấc ngủ trong đêm của con người có nhiều gian đoạn: lúc bắt đầu ngủ, bao giờ cũng chập chờn, tiếp theo là ngủ say và thật say, sau đó nhạt dần và tỉnh giấc buổi sáng, đó là theo tiến trình tự nhiên, còn nếu dùng đồng hồ báo thức thì cũng tương tự. Nếu giấc ngủ bị tiếng chuông cắt ngang lúc đang say giấc thì rất hại, vì có ảnh hưởng đến sự yên nghỉ của những “ nơ ron”, tế bào thần kinh.

Ngưng một lúc Giáo sư tiếp:

- Thuốc của tôi có tác dụng đưa con người vào cõi vô thức ngay lập tức và họ ngủ say gấp hai, ba lần lúc ngủ say nhất của một giấc bình thường. Thuốc không hại như những loại thuốc ngủ hay thuốc mê từ trước tới nay vì động tác của mi mắt khép lại trong một phút bất động sẽ tạo ra một chuỗi phản ứng sinh hóa chớp nhoáng, người dùng thuốc ngủ ngay sau 10 giây…

- Nghĩa là muốn ngủ, tôi uống thuốc, nhắm mắt một phút và mười giây rồi ngủ thật ngon?

- Đúng. Giấc ngủ không mộng mị, không chập chờn. Ngủ say. Chỉ một giờ đồng hồ là quá đủ. Hai mươi ba giờ đồng hồ còn lại trong ngày có thể làm việc nặng nhọc mà không biết mệt.

Hoàng Minh riễu:

- Bác Học ơi! Ông biến người ta thành cái máy mất rồi…

Vũ Anh quả quyết:

- Xứ nghèo nếu muốn tiến bộ, phải làm việc và làm việc. Còn thực tế, những người nghèo khổ có thể nhờ thuốc của tôi làm thêm nhiều giờ phụ trội, gia đình họ sẽ sung túc hơn. Anh có biết hiện giờ trong các xưởng kỹ nghệ như xưởng dệt chẳng hạn, ta rất thiếu công nhân chuyên môn không?

Hoàng Minh phản đối:

- Trong lúc thế giới đang cố giảm số giờ làm việc hằng ngày, hằng tuần mà anh lại muốn con người làm việc 23/24 giờ. Tôi không đồng ý.

- Một công dụng nữa là thuốc của tôi có thể trị được cả chứng mất ngủ nan y. Tôi đã trắc nghiệm ở nhiều nhà thương và thành công mỹ mãn.

- À. Trở về với Tiểu Phụng đi. Con nhỏ chùng bao nhiêu tuổi?

- Mười hai. Tôi đâm ra sợ đôi mắt sáng quắc của Tiểu Phụng. Nó quyết tâm làm một điều gì bí mật, không cho tôi biết, gạn hỏi cách nào cũng không nói. Nó không ngủ ngon như mọi khi, ngược lại đêm nay mới mê hoảng, hét lên ú ớ… bằng tiếng Thái Lan. Tôi hiểu sơ hình như nó gọi mẹ nó…

Hoàng Minh gượng đùa cho bớt sự căng thẳng sợ hãi đang bao quanh nhà bác học ở đầu dây kia.

- Sao anh không thử cho nó uống thuốc mới của anh? Nó sẽ ngủ ngon một tiếng đồng hồ… rồi trở dậy theo dõi anh 23 giờ liền. Anh đừng nghĩ ngợi, chắc nó có việc chi lo lắng nên hơi lạ thường thế thôi.

- Không hiểu tại sao tôi vẫn có cảm giác bất ổn?

- Hay tôi lại ngủ chung với anh nhé? Hai người bớt sợ.

- Trời ơi!

- Cái gì đó Vũ Anh?

- Một cái đầu đen vừa nhô lên qua khung cửa kính? Hay là tôi hoa mắt?

- Tiểu Phụng?

- Không. Một gã mặt rỗ như hung thần… Giáo sư thở phào… nhưng cái đầu biến đi rồi… tôi phải thú nhận với anh sống một mình trong ngôi biệt thự mênh mông nhiều khi muốn điên lên được. Anh Minh này, sáng mai anh lại thăm tôi nhé. 8 giờ đúng...

Đầu dây kia nín bặt. Hoàng Minh nhận biết đầu dây chưa cúp bấm nút giục liên hồi. Im lặng một cách khó hiểu 5 giây đồng hồ. Rồi có tiếng Giáo sư vừa nói vừa thở hổn hển:

- Minh… Minh… tôi bắt gặp cặp mắt nâu qua khe cửa sổ… cặp mắt của Tiểu Phụng…

Hoàng Minh hơi bực mình, gắt nhỏ:

- Làm gì anh sợ đứa nhỏ quá vậy. Nó là người chớ có phải ma đâu.

- Ma? Người? Tôi không biết. Nhưng đêm nay tôi sẽ không chợp mắt được.

- Làm sao tôi giúp anh bây giờ? Xe hơi của tôi hư rồi. Hay để tôi gọi Cảnh sát đến anh?

- Không, đừng gọi vô ích. Tôi có thể tự xoay sở giải quyết lấy được. Nhưng sáng mai anh lại tôi nhé. 8 giờ. Chào anh.

Lần này thì máy cúp thật. Hoàng Minh bỏ ống nghe, thẩn thờ. Giáo sư hôm nay như người bị ma ám, nói năng lộn xộn khó nghe. Thứ thuốc điên cuồng của ông ta đã làm ông lâm vào tình trạng bi thảm thế sao? Tiểu Phụng là ai?

Minh nằm vào giường với ý nghĩ sau cùng:

- Dù sao, thuốc mới của Giáo sư sẽ làm cho con người phí mất 1/24 của cuộc đời để ngủ thay vì phải tốn đến 8/24 của đời người.

Chương 2. Tiểu Phụng
Tám giờ sáng hôm sau, Hoàng Minh bấm chuông nhà giáo sư Vũ Anh. Biệt thự “LÚA VÀNG” hửng sáng đỏ hồng dưới ánh nắng chói chan của ban mai. Thật ngoài ý liệu của chàng khi chú làm vườn ra cổng trả lời:

- Thưa ông Minh, ông chủ tôi mới đi khỏi.

Minh từng đến đây nhiều lần nên chú đã quen mặt. Minh nhìn lại đồng hồ tay, chép miệng:

- 8 giờ.

- Dạ, đúng 8 giờ. Thưa ông có chuyện gì không?

Hoàng Minh không có thói quen tiết lộ cho người khác tất cả những điều mình biết nên lờ luôn vụ giáo sư hẹn chàng lại thăm ông lúc 8 giờ. Chàng nói cho xuôi:

- Tôi lấy làm lạ vì thường ông bạn tôi ít đi chơi trước 8 giờ… ông ấy thích phòng thí nghiệm hơn cả… người yêu nữa mà. Chú nghe chừng nào đám cưới?

- Chắc cũng còn lâu. Vì giáo sư bận và thích làm việc quá. Cô Lan hơi buồn nhưng phải đành chấp nhận vậy.

Lan là người yêu của giáo sư Vũ Anh. Nàng cũng đẹp, bướng bỉnh một cây nhưng khi gặp giáo sư thì đành nhượng bộ vì ông là một khối nước đá khi đã muốn làm điều gì thì có trời cản được ông. Minh hỏi ướm:

- Có phải cô Lan rủ giáo sư đi chơi không?

- Không? Hai người đàn ông trung niên xin vào gặp giáo sư lúc 7giờ 30. Ba người hình như có cãi vã đôi phút rồi giáo sư theo họ ra xe đi ngay.

- Chú mở cửa cho tôi vào phòng khách. Mau lên.

Minh đoán ngay ra sự thật: Phòng khách còn in hằn dấu vết một cuộc xô xát nho nhỏ chứng tỏ giáo sư chống cự rồi bị dẫn đi. Tấm thảm chùi chân bị xô lệch một góc, những dấu giầy lờ mờ trên thảm và…gần bên giỏ đựng giấy vụn, sót lại một mảnh vải tetoron hàng may áo nổi tiếng của Nhật bản. Vải hơi hôi mùi…da thịt của người và không phải là của giáo sư Vũ Anh. Vậy là của ai? Của bọn gian mới đột nhập vào biệt thự “LÚA VÀNG” chăng?

- Sao chú không lên phòng khách xem giáo sư có bị hại gì không? Trời ơi!

Chú làm vườn cãi:

- Tôi không được phép lên nhà trên. Cửa kính phòng khách kín mít, tôi làm sao nghe được tiếng động mà biết có xô xát như vầy? Hơn nữa, giáo sư chịu đi theo họ mà.

Hoàng Minh muốn hét lên: “Ngu như bò” về lối cãi của chú ta nhưng dằn lại kịp. Mắt chàng sáng lên khi thấy một con sóc nhỏ, lông xám thu hình trong góc. Con vật ngộ nghĩnh, nhí nhảnh, tình cờ lại là… nhân chứng duy nhất của cuộc bắt cóc này. Nhưng con sóc không biết nói.

- Chú ra mở cổng cho họ phải không?

- Vâng, nếu bây giờ gặp lại họ, tôi bảo đảm sẽ nhận ra họ.

Hoàng Minh lắc đầu:

- Vô ích. Vì họ thừa thông minh để biết hóa trang trước khi vào đây. Để tôi điện thoại cho cảnh sát.

Dây điện thoại bị cắt đứt ngay. Hoàng Minh vội rút ngay chiếc khăn mu soa sạch gói mảnh tetoron vào trong, đút túi và vội vã đi ra. Qua cổng sắt, chàng thấy vết bánh xe là lạ trên cát sát lề đường nhựa. Con đường vắng, chiếc xe taxi đưa Hoàng Minh đến không thể tạo ra những vết bánh xe như thế này. Vết bánh rất dầy, loại xe du lịch thể thao mắc tiền, 10.000 đô la một chiếc. Có lẽ là xe bọn gian.

- Giáo sư không lái xe hơi đi hả?

- Không. Xe của giáo sư bỏ garage lâu rồi. Ông nói để ở nhà thêm chật chổ và ông cũng không cần đi đâu.

- Cám ơn chú, tôi đi nhé.

Cánh cổng sắt đóng và khóa cẩn thận, chú làm vườn sợ xảy ra vụ bắt cóc thứ hai mà đề phòng chăng? Hoàng Minh mỉm cười, xòe tay đo ướm chiều ngang vệt bánh xe trên cát: 30cm

Xe taxi trờ đến. Hoàng Minh ngoắc lại, trèo vào. Khi xe đến trạm điện thoại công cộng, chàng ra lệnh:

- Tốp…

Xe chưa kịp thắng, Minh đổi ý:

- Thôi, chạy luôn đến Sở Cảnh sát Trung ương. Mau lên.

Sở Cảnh sát cách đây chừng 5 phút đường xe chạy. Chàng đã định gọi điện thoại nhưng rồi tính toán thấy chậm trể 5 phút mà được gặp mặt nói chuyện thẳng với ông cò vẫn lợi hơn nên đổi ý. Thình lình, Minh gọi lớn:

- Vũ Anh ! Giáo sư Vũ Anh !

Kìa, giáo sư Vũ Anh bằng xương bằng thịt đang rảo bước ra khỏi Ngân hàng Hong Kong, tay xách theo một gói nặng. Ông ta đi một mình, trèo lên một chiếc taxi xanh vàng vọt đi. Hoàng Minh mới kịp hét taxi của chàng bám theo thì…mắc kẹt đèn đỏ ngừng lại:

- Trời ơi, làm sao đuổi kịp bây giờ? Giá xe hơi của ta không hư?

Tiếng còi hụ dồn dập rất gấp quen thuộc của xe Hồng thập tự vang ra: tất cả xe cộ vội nép vào lề, nhường chỗ. Hoàng Minh nhìn ra đường: chiếc Toyota 2600 trắng mới tinh sơn dấu thập đỏ lao vút vội vàng. Xe cấp cứu của bệnh viện Phúc Kiến của người Trung Hoa. Số xe không nhìn rõ vì số kẻ rất dài và hẹp trên bảng thiếc xanh.



***



Ông cò lắc đầu, bảo Minh:

- Không có gì mới lạ về giáo sư Vũ Anh. Tôi rất tiếc là cuộc điều tra phải kéo dài.

Hoàng Minh cười trừ:

- Cám ơn ông Cò. Ông cho tôi mượn điện thoại chút nhé… A lô, a lô…cho tôi nói chuyện với ông Giám đốc Ngân hàng Hong Kong có việc gấp.

Minh vào đề ngay:

- Tôi là Minh, ở Sở Cảnh sát Trung Ương, muốn ông Giám đốc cho biết về trương mục của giáo sư Vũ Anh. Mong ông Giám đốc vui lòng hợp tác với chúng tôi vì nhu cầu điều tra…

- Ông đợi một chút, tôi hỏi phòng phát ngân…

Minh nheo mắt cười với ông cò:

- Suýt chút nữa tôi quên khuấy việc giáo sư vào Ngân hàng Hong Kong. Xin lỗi ông Cò nhé.

Ông Cò có vẻ bực mình, chắc ông nghĩ Hoàng Minh thiếu tinh thần hợp tác với Sở Cảnh sát. Nhưng thực sự là Hoàng Minh đã nói cho ông Cò nghe việc ấy và ông đã điện thoại qua Ngân hàng hỏi một lần nhưng đường dây bị bận. Lần thứ hai cũng bị bận. Ông tức mình gác luôn điện thoại. Và hai người, Hoàng Minh và ông Cò cùng không nhớ đến Ngân hàng Hong Kong nữa cho đến bây giờ.

Tiếng rè rè ở đầu dây bên kia vang lên:

- 8 giờ 10 phút sáng nay, giáo sư Vũ Anh đã lấy hết số bạc của ông gởi trong Ngân hàng, kể cả trương mục tiết kiệm và hoạt kỳ. Tổng cộng 20 triệu 800 ngàn đồng. Ông thỏa mãn chưa?

- Ông có biết giáo sư còn gởi tiền nơi đâu nữa không?

- Không. Giáo sư Vũ Anh rất tín nhiệm Ngân hàng Hong Kong của chúng tôi, ông gởi tất cả tiền vào một ngân hàng mà thôi. Chúng tôi làm ăn rất đứng đắn…

- Cám ơn ông. Chúc ông Giám đốc nhiều may mắn.

Ông Cò nhịp nhè nhẹ trên mặt bàn:

- Giáo sư Vũ Anh bị bắt cóc? Tại sao ông lại rút hết tiền gởi ngân hàng ra?

- Ông nghi là giáo sư dàn cảnh trốn nợ?

Thấy Hoàng Minh nói có ý không bằng lòng. Ông Cò vội bảo:

- Tôi không có ý ấy nhưng mọi giả thiết đều nên được đặt ra trong khi điều tra. Rồi chúng ta sẽ loại bỏ dần.

- Tôi tình nguyện đi hỏi giáo sư Vũ Anh trong đám bạn bè, họ hàng của ông là ông có nợ nần ai không?

- Cám ơn ông Minh.

Ngay lúc ấy một viên Thiếu úy cảnh sát đưa vào một bản báo cáo của Sở Phân chất và Giảo nghiệm. Ông Cò đọc qua, bảo:

- Chúng không để lại một dấu vết nào cả ngoại trừ vết giày trên tấm thảm.

- Và chúng chỉ việc liệng bỏ những đôi giày đã sử dụng sáng nay vào một bãi rác nào đó là xong.

- Đúng thế.

Hoàng Minh từ biệt ông Cò. Chàng trở lại biệt thự “LÚA VÀNG”. Nhân viên cảnh sát cho chàng vào. Minh vào phòng khách, gọi chú làm vườn lên hỏi:

- Từ sáng đến giờ có ai rời khỏi biệt thự này chưa?

- Thưa chưa.

- Thật không? Kể cả mấy đứa nhỏ?

- Vâng. Tiểu Phụng không được phép đi học như thường lệ. Mấy ông cảnh sát canh gác bảo thế.

Minh ngập ngừng một giây rồi bảo chú:

- Tôi muốn nói chuyện với Tiểu Phụng. Chú kêu nó xuống đây.

Con bé xinh xắn, da trắng, mắt nâu, dáng người mảnh khảnh. Minh chú ý đến nó nhất ở điểm đôi mắt sáng quắc một cách lạ lùng. Nó tỏ ra thông minh, ứng đáp rất nhanh nhẹn:

- Cháu là Tiểu Phụng?

- Thưa ông vâng. Ông ở sở Cảnh sát?

Minh cười lắc đầu:

- Không, chú là bạn của giáo sư Vũ Anh thôi. Cháu biết giáo sư Vũ Anh không?

Chàng nhắc tới tên Vũ Anh hai lần vì thấy mắt con bé lại càng sáng lên quyết liệt mỗi khi nghe nhắc đến tên giáo sư. Tại sao thế? Hoàng Minh đang tìm lời giải đáp.

- Vâng, cháu sống chung với giáo sư hàng ngày mà, không biết sao được. Cháu…

Tiểu Phụng ngắt ngang câu nói. Mắt con bé hơi sầm lại và đỏ. Minh nhẹ nhàng vuốt tóc nó:

- Cháu ghét giáo sư lắm hả?

- …Không…

Tiếng phủ nhận kém mạnh mẽ kia đồng nghĩa với một lời xác nhận. Minh tiếp:

- Giáo sư thương cháu lắm mà. Còn Dũng và Y Shroe làm bạn với cháu nữa chứ. Cháu buồn, tại sao cháu buồn?

- Giáo sư thương cháu nhưng ông ta…

- Ông ta làm sao?

- Cháu không thể nói được. Cháu thù ghét ông ta.

Minh biết lúc này nên chuyển đề tài cho câu chuyện vui vẻ thì hơn. Chàng cười nhẹ:

- Chú là bạn với ba cháu, ông Nguyễn Viễn Đăng đấy. Cháu có…nhận ra chú không? Chú đến chơi từ lúc cháu còn nhỏ xíu và có lẽ chưa về nước nữa…A, trong số các con ông Đăng, không có đứa nào dễ thương bằng cháu đâu, Tiểu Phụng ạ…Chú có gặp cháu một lần, cách đây 5 năm ở Thái Lan. Cháu nhớ ra chưa?

Tiểu Phụng ngẫm nghĩ. Con bé rụt rè:

- Chú…hồi xưa chú húi cua và mập lắm phải không?

- Đúng rồi. Cháu nhớ thêm chút nữa tên chú là gì nào?

- Chú Minh.

Minh biết ngay chú làm vườn đã cho Tiểu Phụng biết chàng tên Minh nên chàng lại gật đầu:

- Minh là tên hiện thời thôi. Chú có nhiều tên lắm. Cháu nhớ lại tên hồi xưa của chú kìa?

- Chú là…chú Văn. Trời ơi! Sao chú không bảo ngay cho cháu mừng? Chú Văn?

Con bé ôm choàng lấy Hoàng Minh. Lần này chàng biết nó nói thực. Nó đã lầm chàng với chú Văn nào đó bạn của ông Viễn Đăng trong thời gian ông buôn bán ở Thái Lan. Minh sẵn sàng đóng vai Văn với Tiểu Phụng một thời gian để điều tra được dễ dàng.

- Cháu không ở lại Thái Lan với má? Bỏ má một mình buồn chết.

Phụng khóc nức nở:

- Má cháu không buồn được nữa… má cháu chết rồi!

- Trời đất ? Sao ba cháu không nói chú biết ? Anh Đăng tệ thật…Cháu đừng buồn, đời người ai cũng phải chết một lần, má cháu chết đi là được sung sướng lắm đó.

Tiểu Phụng không nói gì. Hoàng Minh gọi to:

- Dũng ơi! Y-Shroc ơi ! Xuống đây chú bảo.

Phụng lẳng lặng đi vào nhà trong. Minh không giữ lại. Nửa phút sau thấy có tiếng chân chạy xuống thang gác rầm rập: Dũng và Y-Shroc hiện ra mừng rỡ.

Dũng hét lên:

- Chú Minh ! Tụi cháu bị giam trong nhà chán quá. Không được phép ra vườn nữa. Chú nói dùm với mấy ông cảnh sát cho tụi cháu đi chơi với chú đi.

Dũng mười hai tuổi, bằng tuổi Tiểu Phụng và là cháu ruột của giáo sư Vũ Anh. Y-Shroc cũng kêu:

- Tụi cháu được nghỉ học mà không vui chút nào.

Thằng bé sau này mười một, người Thượng nhưng cũng thông minh, chăm học và là bạn thân của Dũng. Giáo sư Vũ Anh giàu có, không để ý đến tiền bạc bằng lòng cho Y-Shroc ở biệt thự Lúa Vàng làm bạn với Dũng. Con sóc xám hồi nảy của Y-Shroc đó.

- Y-Shroc !

- Dạ. Chú dạy gì ?

- Con sóc của cháu đẹp ghê hả? Nó có khôn không Y-Shroc?

Y-Shroc cười khoe hàm răng đều, trắng và to như hạt bắp rừng:

- Không hiểu nó có khôn không nhưng nó đánh hơi giỏi lắm chú ơi. Hơn chó xa lắc.

- Chà, con sóc của cháu đặc biệt quá. Nhưng làm sao mà Y-Shroc biết là nó đánh hơi giỏi?

- Chú thử coi. Chú gặp nó rồi phải không?

- Rồi.

- Chú bồng nó đi.

Con sóc lập tức ôm cánh tay Minh và thè lưởi liếm áo chàng. Y-Shroc giải thích:

- Nếu người lạ gặp nó lần đầu, mà bồng nó sẽ bị cắn chảy máu ngay. Nó cũng…không hiền lắm đâu.

Trong óc Hòang Minh lóe lên tia sáng của hướng điều tra vụ bắt cóc giáo sư Vũ Anh. Trong ấy con sóc sẽ đóng một vai quan trọng trong việc “nhận diện” thủ phạm. Con sóc hay hơn con người ở điểm nó có thể nhận được người ta dù khuôn mặt đã thay đổi.

- Tiểu Phụng dễ thương chứ Y-Shroc?

- Dễ thương nhưng lắm lúc nó làm phách lắm. Không thèm nói chuyện với cháu đó chú.

- Thì để chú bảo Phụng. Chắc tại nó mới vào sống trong biệt thự nên còn nhát.

Dũng xen lời:

- Chú Minh ! Cháu bắt gặp Tiểu Phụng hay rình ngoài cửa sổ phòng chú Vũ Anh. Cháu hỏi nó rình làm gì nó không nói, lại còn…

Minh đoán ngay:

- Phụng dữ lắm hả?

- Nó cấu cháu đau điếng và hăm nếu cháu méc với chú Vũ Anh nó sẽ nghỉ chơi cháu ra.

Minh đùa:

- Cần gì chơi với Phụng, phải không Y-Shroc?

- Đúng đó chú. Cháu bảo hoài mà thằng Dũng không nghe.

Mặt Dũng đỏ lên, thằng bé chống chế:

- Nhà có ba đứa mà chia rẽ thì buồn chết.

- Dũng nói phải. Chú giỡn chơi cho vui thôi. Dũng gọi Tiểu Phụng ra đây chú bảo.

Tiểu Phụng đi ra. Hình như con bé nấp ở phòng trong nghe lỏm hết câu chuyện rồi nên nét mặt nó không vui, Minh chặn đầu ngay:

- Phụng này, con gái lớn rồi nghe lén chuyện người ta nói không tốt đâu nhé.

Nó lúng túng:

- Làm sao chú biết?

- Cái gì chú chả biết. Bây giờ chú nói cả ba cháu phải nghe lời, nhà có ba đứa, các cháu nên xem nhau như anh em, chơi đùa vừa phải và nhất là đừng bao giờ cãi nhau nhé.

- Vâng.

Ba đứa trẻ vâng ngoan như bụt. Minh nói tiếp:

- Các cháu đã biết, chú Minh làm thám tử nghĩa là phải đi tìm cho ra chú Vũ Anh bị bắt cóc. Các cháu có bổn phận phải tiếp tay với chú làm việc này. Bao giờ các cháu thấy có gì lạ, báo ngay chú biết. Các cháu biết gọi điện thoại chứ?

- Thưa chú biết.

- Số máy của chú đây này. Chú mong nhất là Phụng đó. Nếu cháu…nhìn được qua cửa sổ trong phòng giáo sư thấy có gì lạ bảo chú nhé.

- Cháu…cháu sẽ không làm vậy nữa chú Văn.

Đối với Dũng và Y-Shroc, Minh là Minh. Còn với Tiểu Phụng, Minh là Văn.

Minh lắc đầu thân mật:

- Nên làm nữa chứ, sao lại thôi Tiểu Phụng. Cháu có muốn làm thám tử tí hon không? Cháu có dịp may mắn lắm đó. Thôi ba đứa ở chơi, chú phải về.



Minh nắm tay Dũng, dắt thằng bé ra vườn, ghé tay nó bảo mấy câu thì thầm rồi đi ra đường. Lúc trở vào mắt Dũng sáng lên và nó luôn liếc nhìn Tiểu Phụng với cặp mắt khó hiểu.

Chương 3. Nhân chứng bị bắt giữ
Ông Cò gọi điện thoại mời Hoàng Minh đến Sở cảnh sát. Chàng vào văn phòng gặp một người đàn ông to béo, hồng hào nhưng vẻ mặt u sầu đang ngồi bất động trước bàn giấy ông Cò.

Chàng reo lên:

- Chào ông Bùi Thịnh. Ông vẫn khỏe?

- Vâng, cám ơn ông Minh.

Bùi Thịnh có vẻ nhạt nhẽo ra mặt. Ông Cò mới từ tốn bắt đầu câu chuyện:

- Chúng tôi điều tra và được biết hai ngày trước đây, ông có đến biệt thự Lúa Vàng.

- Vâng … nhưng tôi vô can trong vụ bắt cóc này mà.

Ông Cò gật đầu:

- Vâng, chúng tôi chỉ mời ông đến lấy lời khai với tư cách một nhân chứng thuần túy mà thôi. Ông vui lòng?

Bùi Thịnh im lặng.

- Ông đến chơi với giáo sư Vũ Anh hay có chuyện gì?

- Tôi đến chơi ….

- Ông là bạn với giáo sư?

- Không chúng tôi chưa hề quen nhau. Nhưng tôi hâm mộ tài năng của giáo sư và cách đây hai hôm tôi tới để bày tỏ lòng hâm mộ đó.

Minh cười nhạt:

- Tôi hết sức khâm phục ông Bùi Thịnh. Ông là thương gia áp phe nổi tiếng, thì giờ của ông là vàng bạc mà ông lại tới gặp giáo sư chỉ để tỏ lòng hâm mộ xuông thôi. Ông có biết rằng giáo sư Vũ Anh mới phát minh ra một loại thần dược chăng?

- Tôi … tôi có biết qua báo chí vì giáo sư dự định sẽ tổ chức một buổi thuyết trình về phát minh mới của ông tại Hội Trường Trung Tâm Văn Hóa Pháp tháng tới đây….

- À, ông Bùi Thịnh, hình như ông có phần hùn trong Viện Bào chế FERMOSE ở Sài Gòn phải không?

- Phải.

- Ông không nghĩ đến việc … bào chế thứ thuốc mới của giáo sư Vũ Anh sao? Tôi chắc hốt bạc lắm chứ vì giáo sư nổi tiếng thế giới kia mà.

Mặt ông Bùi Thịnh đỏ bừng. Rồi tái nhợt. Rồi ông nói với giọng trầm buồn:

- Lúc đầu đến đây, tôi định giấu các ông vì sợ liên lụy đến thân. Nhưng bây giờ tôi phải nói thực, tất cả sự thực: Tôi đến biệt thự LÚA VÀNG gặp giáo sư Vũ Anh để điều đình mua lại công thức chất thuốc mới của ông.

Ông Cò hỏi thêm:

- Ông cho biết công việc điều đình đi đến đâu?

- Chẳng đến đâu cả vì giáo sư không bằng lòng bán. Ông nhất quyết rằng phát minh của ông sẽ được tặng cho quốc gia sử dụng để phục vụ sức khỏe quần chúng và gia tăng sản xuất quốc gia.

- Giáo sư là một con người có lý tưởng. Và ông trả lời lập trường của giáo sư ra sao?

- Tôi biết điều đình thành công sẽ có lời lớn nhờ danh vọng của giáo sư. Nên tôi đành tăng giá tiền dần lên: mười triệu, mười lăm rồi hai mươi, sau cùng năm mươi triệu. Giáo sư vẫn không đổi ý. Ông còn bực mình bảo thẳng tôi rằng ông không thiếu ăn, cần tiền.

- Rồi ông ra về?

- Vâng, câu chuyện chỉ có thế thôi. Tôi đã nói hết những điều tôi biết. Bây giờ thì tôi về được chứ?

Ông Cò trầm ngâm giây lát:

- Tôi mong ông vui lòng lưu lại Sở cảnh sát 24 giờ để tiện việc điều tra.

- Tôi phản đối.

Ông Cò nhã nhặn:

- Chúng tôi luôn luôn làm đúng theo luật pháp. Xin ông thông cảm để chúng tôi làm phận sự.

Bùi Thịnh được dẫn đi rồi còn lại Minh và ông Cò trong văn phòng. Ông Cò hỏi:

- Anh Minh, theo anh Bùi Thịnh có dính líu gì đến việc giáo sư Vũ Anh mất tích chăng? Ông ta đến điều đình mua công thức chất thuốc mới, không xong nên tính dùng biện pháp mạnh chăng?

Hoàng Minh quả quyết:

- Theo linh tính của tôi, điều đó không đúng. Vả lại thực tế cho thấy tuy Bùi Thịnh là người lý tài nhưng ông ta rất nhát, sợ vào tù. Vào tù… ai hưởng dùm cho ông ta của cải thế gian?

- Đồng ý với anh Minh nhưng mình vẫn nên đề phòng những trường hợp ngoại lệ xảy ra. Hơn nữa tôi nghĩ rất có thể Bùi Thịnh dính líu đến vụ bắt cóc giáo sư Vũ Anh một cách gián tiếp.

- Nghĩa là? .....

- Nghĩa là ông ta không tổ chức bắt cóc nhưng vì hay tin ông ta đến điều đình mua công thức, một địch thủ thương mãi của ông ta bắt cóc giáo sư để Bùi Thịnh bị bắt vì tình nghi, tha hồ chúng múa tay trong bị, hạ đường dây thương mãi của Bùi Thịnh trong thời gian ông ta vắng mặt và mất hết uy tín.

- Ông Cò nói đúng lắm. Bây giờ chúng ta chờ đợi sự việc xảy ra để kiểm chứng. Nhưng còn việc giáo sư Vũ Anh lãnh hơn 20 triệu ra khỏi Ngân hàng làm gì? Ông ta có thật sự bị bắt cóc không? Tôi bây giờ lại hồ nghi tất cả và thấy rằng phải làm lại từ đầu.

Ông Cò cười xòa, vỗ vai Hoàng Minh:

- Thử lòng tôi đấy ư? Ông bạn đồng nghiệp? Tôi đồng ý với anh là giáo sư bị bắt cóc. Còn việc giáo sư lãnh tiền là chuyện tôi không thể hiểu được.

- Có thể người khác giả dạng giáo sư chăng? ….. Không ổn lắm, để tôi gọi điện qua Ngân hàng xem sao.

Hai phút sau, Minh buông ống nói, chán nản:

- Giáo sư … tự mình đến Ngân hàng, đứng dựa vào nền dốc, rút tập chi phiếu ký ngay trước mặt nhân viên phát ngân xin rút hết tiền gởi hơn 20 triệu. Còn giả thế nào được. Chuyên viên bút tự trong Ngân hàng thừa sức phân biệt chữ ký thật, giả.

- Có ai uy hiếp ông ta không?

- Không, chính tôi tận mắt thấy ông ta đi một mình bằng xe taxi.

- Thế là hết.

Hết hy vọng tìm ra bí ẩn vụ bắt cóc giáo sư Vũ Anh và cũng hết manh mối để khám phá ra sự thật: Một nhân viên cảnh sát vừa lên báo cáo với ông Cò: Bùi Thịnh đã chết. Chết vì một ly cà phê ông ta nhờ nhân viên cảnh sát mua từ quán nước bên ngoài.

Năm phút sau, sở Phân chất trình kết quả: trong cà phê có chất thạch tín (Arsenic) với một lượng đủ làm chết một con bò mộng.
Chương 4. Bí mật quanh Tiểu Phụng
Hoàng Minh đi mướn một căn phòng trong Khách sạn đối diện với biệt thự Lúa Vàng. Theo lời đề nghị của chàng, ông Cò đã ra lệnh cho nhân viên giải tỏa ngôi biệt thự từ chiều.

Hoàng Minh đã đi thuê một chiếc Chevrolet cũ kỹ để tiện xử dụng từ một garage quen. Vì xe hơi của chàng hư, chưa sửa kịp và số xe có lẽ bọn gian đã biết. Tốt hơn là dùng xe mới.

Trên phòng khách sạn có cửa sổ kính trông ra đường, Hoàng Minh võ trang một ống nhòm cực mạnh có gắn bộ phận hồng ngoại tuyến có khả năng xuyên thủng bóng đêm. Chàng còn mang vào phòng thêm…một ít bánh mì và đồ nguội để đàn áp sự nổi dậy của bao tử trong đêm dài thức trắng sắp tới.

Trời hoàng hôn rồi sẫm tối. Bóng đen nhá nhem trên mọi vật vẽ nên nhiều hình ảnh quái dị. Chưa có gì lạ cả. Rình chán Minh trở vô giường nằm nhắm mắt dưỡng thần một lát. Bọn gian có lẽ đến khuya hẳn mới hành động.

Thình lình Minh thấy mặt chàng nong nóng. Một cảm giác bị soi mói vô cùng khó chịu mà chàng không tìm thấy nguyên do. Minh rảo mắt quanh phòng và sau cùng mắt chàng đọng lại ở lỗ khóa cửa phòng. Một con mắt là lạ chăm chú bất động từ đó chiếu vào mặt Minh.

- Tông cửa ra ư ? Hắn chạy mất làm sao nhận ra được ? À…

Mắt Minh sáng lên khi thấy lọ mực trên bàn ngủ. Nhẹ nhàng, chàng vuốt ve lọ mực nghịch ngợm như đứa trẻ con. Và trong một cái chớp mắt, lọ mực bay vút vào lỗ khóa vỡ tan.

Xoảng…rào…rào…rào….

Mảnh thủy tinh vỡ rơi xuống sàn. Minh tông cửa phòng chạy ra. Không có ai đứng ngoài hành lang. Nhưng một vài tia mực còn sót chạy dài đứt quãng trên nền gạch. Minh lần dấu và kịp đứng trên lầu ba nhìn xuống mặt đất, bắt gặp mộ người đang dụi mắt bước lên một chiếc taxi…chiếc taxi xanh vàng quen thuộc chàng đã gặp ở đâu…A ! chiếc taxi bạn chàng, giáo sư Vũ Anh đã trèo lên khi lãnh 20 triệu ra khỏi Ngân hàng Hong Kong.

Bảng số xe bấm lên thay trong vài giây. Minh cười xòa :

- Thế mà sáng mình ân hận mãi rằng không nhìn kịp số xe. Xe taxi của bọn gian thật mà.

Chiếc Chevrolet chồm lên phóng nhanh như tên bắn. Vỏ ngoài cũ kỹ nhưng máy xe rất tốt và mạnh. Trong năm phút Minh đã đuổi lên gần bắt kịp chiếc taxi khả nghi kia. Đường bắt đầu rộng và thưa thớt, Hoàng Minh mừng rỡ nhấn thêm ga, chiếc taxi cũng chạy nhanh thêm và giữ khoảng cách trước xe chàng độ năm mươi thước. Khi kim đồng hồ tốc độ chỉ đến 140km/h thì hai xe đến Thủ Đức.

Xe taxi quẹo cua rất gấp. Vừa qua cua thì thân cột điện lăn ra ngang đường nhựa chắn ngang xe Chevrolet, Minh vội nhấn thắng.

Ầm…ầm…ầm…

Chiếc Chevrolet như con thú dữ xổng chuồng lao vút cán qua thân cây, mất thăng bằng lật nghiêng. Thắng xe đã đứt dây chuyền sức, Hoàng Minh tông kịp cửa xe nhảy ra ngoài trong khi xe bắt đầu bốc cháy.

Chân chàng đau nhói. Đầu đập vào đống đá xanh trải đường xếp thành hình khối chop bên lề xa lộ.

Minh không còn biết gì nữa.

***


Người đến thăm Minh ở nhà thương đầu tiên là Tiểu Phụng. Con bé đi vào cùng với ông Cò và nó hấp tấp xô cửa phòng vào trước. Mắt nó ngấn lệ.

- Chú Văn cháu là Tiểu Phụng đây nè.

Toàn thân Minh quấn băng trắng toát, chàng nói phều phào :

- Chú biết…

- Chú bị đụng xe hả ? Có đau lắm không ?

- Dĩ nhiên là đau rồi. Nhưng chú không bị đụng xe mà là…dây thắng xe hơi của chú bị cắt gần đứt, chỉ cần thắng gấp là xe lật nhào như ở xa lộ.

Viên bác sĩ vào phòng, xem xét qua loa rồi ra cửa nói chuyện với ông Cò, lát sau ông Cò nói với Minh :

- Anh may mắn lắm đó. Trường hợp tai nạn lật xe kể trên trung bình chỉ có 2/100 sống sót và có thể phục hồi sức khỏe. Anh ở trong số 2/100 đó.

- Bao giờ tôi xuất viện được ?

Ông Cò ngần ngừ. Minh dục :

- Ông cứ nói. Tôi không buồn đâu.

- Tôi không quen nói dối. Viện bác sĩ dặn tôi đừng cho anh biết sự thật vì sợ ảnh hưởng tâm lý gây nguy hại cho vết thương. Nhưng tôi phải nói để anh tiện thu xếp công việc: anh còn nằm trên giường này ít ra 3 tháng nữa.

- Lâu quá ! Tôi…tôi…

Minh nghĩ ngợi gì đó rồi nói với ông Cò :

- Nhờ ông liên lạc với sở Bưu Điện rồi mắc cho tôi một điện thoại trong phòng này, được không ?

- Được chứ.

- Cám ơn ông Cò. Tiểu Phụng, cháu đi về gọi Dũng và Y-Sroc lại thăm chú nghe. Nhớ nói là chú đã mạnh rồi. Mau lên Phụng, chú có việc gấp lắm.

Lúc Phụng ra rồi, ông Cò mới bảo Minh :

- Nhân viên của tôi bắt gặp 12 giờ đêm hôm qua, con bé này lẻn ra sân thượng phía sau biệt thự Lúa Vàng, dùng đèn bấm màu đỏ ra hiệu bằng ánh sáng liên lạc với một chiếc xuồng gắn máy đậu ở bờ sông bên kia. Con sông phía sau biệt thự đó, anh biết không ?

- Tôi vẫn ngờ là Tiểu Phụng có dính líu gì với bọn gian. Ông Cò biết không, chính giáo sư Vũ Anh đã nói với tôi anh ấy bị Tiểu Phụng theo dõi, rình rập khi ông làm việc trong phòng. Cả Dũng cũng xác nhận thế. Nhưng theo tôi, ông Cò khoan bắt giữ Phụng vì bọn gian còn đó, bứt mây động rừng.

- Tôi định cho theo dõi Phụng chứ chưa bắt giữ. Nhưng ai là người theo dõi bé hữu hiệu nhất bây giờ ? Nhân viên cảnh sát có canh chừng là ở bên ngoài biệt thự Lúa Vàng thôi.

Minh nở một nụ cười…méo xệch vì những vòng băng trắng quấn đầy làm cứng khuôn mặt :

- Vì thế tôi cho gọi Dũng và Y-Sroc đến. Hai thằng bé này được việc lắm.

Chương 5. Con đường biên giới
Hơn một tuần lễ nữa trôi qua mà chưa có thêm manh mối nào giúp ích cho cuộc điều tra, nghĩa là người ta vẫn chưa nhìn thấy cuối đường hầm. Tiểu Phụng bây giờ ngoan hiền còn hơn Dũng và Y-Sroc nữa. Hàng ngày đi học, tối về …chơi đùa với hai bạn và đi ngủ sớm. Cây đèn báo hiệu màu đỏ đặc biệt kia vẫn còn đó nhưng việc Phụng xử dụng liên lạc với bọn gian trở thành một giấc mơ. Theo thời gian, Phụng càng lúc càng mến chú Minh, có một lúc nằm trên giường bệnh Minh nghe con bé nói :

- Chỉ tại mình…

Minh đã hỏi ngay :

- Có chuyện gì hả Phụng ? Chú giúp gì được cho Phụng không ? Nói chú nghe đi.

- Không được chú Minh à.

Tiểu Phụng quen miệng và theo Dũng với Y-Sroc gọi Minh là Minh chứ không là Văn như mấy hôm đầu nữa. Minh mới bịa chuyện :

- Hôm qua chú nằm mơ thấy má cháu hiện về báo mộng…

Lời chàng nói có kết quả ngay. Tiểu Phụng chú ý đến từng chữ, từng âm thanh thốt ra khỏi miệng Minh :

- Chú, chú kể cháu nghe nhé.

- Dĩ nhiên, chú đâu thích dấu như Phụng – Con bé hơi đỏ mặt – Má cháu mặc bộ quần áo lụa sặc sỡ, cổ đeo xâu chuỗi lóng lánh, mắt đỏ hoe như sắp khóc. Má cháu nhờ chú chăm nom cho Tiểu Phụng vì giáo sư Vũ Anh đã mất tích và ba cháu thì…còn đang bận chuyện gia đình…

- Hừ…ba cháu…chuyện gia đình…Cháu bực lắm, tại sao người lớn lại hay làm khổ trẻ con hở chú ?

- Chú sẽ trả lời Phụng sau. Bây giờ chú thuật tiếp giấc mơ: má cháu bảo cho Phụng làm con nuôi của chú, Phụng chịu không ?

- Trời ơi ! Thật hả chú ? Phụng sung sướng quá…Ba, ba của con.

- Phụng…con..ấy mà không được, Phụng ạ. Để chú chính thức hỏi lại anh Đăng nữa chứ. Có sự đồng ý của ba Phụng sẽ danh chánh ngôn thuận hơn…

- Chỉ cần má Phụng nói là đủ rồi.

Minh hơi thẹn trong lòng vì nào có ai báo mộng cho chàng đâu. Vì muốn cứu bạn là Giáo sư Vũ Anh và muốn dứt Tiểu Phụng ra khỏi tay bọn gian mà chàng phải…lấy cả tình mẫu tử thiêng liêng của Phụng ra làm phương tiện điều tra…Nhưng là để phục vụ cho mục đích tốt thì với lương tâm, Minh không có gì xấu hổ.

- Tiểu Phụng phải nghe lời chú. Đừng trách ba. Ba Phụng cũng khổ tâm lắm khi phải xa con. Phụng hiểu chưa ?

- Vâng.

- Má Phụng nhờ chú nói lại với Phụng là đừng bao giờ xử dụng cây đèn đỏ? Chú không hiểu điều gì cả ?

- Cây đèn đỏ? Má bảo…

Phụng thất sắc khi nghe đến cây đèn đỏ. Minh vờ như vô tình hỏi :

- Đèn gì thế hả cháu ?

- Cây đèn…đèn để liên lạc…Phụng ấp úng.

- Liên lạc với ai ?

Phụng bỗng quả quyết :

- Cháu xin lỗi là đã dấu chú chuyện này từ bấy lâu nay. Nhưng cháu tưởng là chuyện không đáng gì. Có một bọn người Thái Lan, đồng hương với với má cháu liên lạc với cháu để muốn đánh cắp tài liệu khảo cứu của giáo sư Vũ Anh…

- Chúng cho cháu cái gì ?

- Chúng đưa bằng cớ chính giáo sư Vũ Anh là người giết mẹ cháu bằng liều thuốc độc đặc biệt, nhà chức trách không khám phá ra được vì ngay sau khi máu đông đặc, chất thuốc ấy đã tan biến, không lưu bã lại trong cơ thể…

- Chúng nói gạt Phụng đấy. Bằng cớ đâu ?

Tiểu Phụng cãi :

- Có thật mà chú Minh. Chúng đưa ra cho Phụng coi một cuốn phim dài chừng 5 phút, chiếu giáo sư Vũ Anh uống rượu cùng với má Phụng, sau đó má Phụng gục đầu rũ xuống ghế chết, giáo sư bồng má Phụng vào giường đặt nằm ngay ngắn như đang ngủ rồi ra đi, miệng cười khoái trá…

Con bé nói lộ rõ vẻ căm thù, tưởng chừng nếu có giáo sư Vũ Anh trước mặt nó có thể ăn tươi nuốt sống ông ngay. Minh kêu nho nhỏ :

- Phụng…Phụng…Bình tĩnh nghe chú nói: cuốn phim ấy là giả đấy. Chúng dùng xảo thuật ghép phim chụp để vu oan cho giáo sư. Có bao giờ Phụng nghe đến việc ghép phim chưa?

- Chưa…mà nếu ghép phim tại sao ta lại thấy hình ảnh liên tục ?

Hoàng Minh phải giải thích bằng khoa học thực nghiệm :

- Tiểu Phụng, cháu chưa học đến nên chưa biết. Những hình ảnh ta nhìn thấy ngoài lưu lại trên võng mô của ta từ 1/10 đến 1/50 giây nữa. Vì thế nếu có nhiều hơn 50 kích thích đến với mắt trong một giây đồng hồ, ta sẽ thấy hình ảnh liên tục. Như trường hợp cuộn phim kia chẳng hạn, chúng chỉ việc chụp và ghép hình từng tấm một rồi chiếu nhanh, hơn 50 hình 1 giây, tự nhiên cháu tưởng là thật.

Phụng có vẻ chưa tin lời Minh lắm. Chàng nhắc thêm :

- Cháu được đi xem cine chưa ?

- Chưa.

- Vậy thì để lúc chú lành bệnh sẽ dẫn Phụng đi xem cho biết. Nhất là phim hoạt họa thì thấy những hình ảnh ghép rõ ràng lắm.

- Hay lắm không chú ?

- Hay chứ. Cháu sẽ muốn ít nhất mỗi tuần đi cine một lần. Điều đó tốt vì có học phải có giải trí, nếu không rất dễ biến thành đứa trẻ ngu đần.

Chợt vui đó rồi nghĩ lại việc mình làm, Tiểu Phụng buồn ngay :

- Thế mà cháu tưởng thật, tiếp tay với bọn chúng làm hại giáo sư Vũ Anh.

- Hả ? Cháu để bọn chúng bắt cóc giáo sư ?

- Vâng, và hơn thế nữa, cháu cung cấp giờ giấc, thói quen, chỗ để tài liệu của giáo sư…

- Cháu biết mặt chúng nó không ?

Phụng nhịp ngón tay nhè nhẹ xuống mặt nệm :

- Có cũng như không vì chúng hóa trang. Có một lần một tên làm…rớt râu giả xuống cháu mới biết.

- Hai tên bắt cóc giáo sư thường đến gặp cháu hả ?

- Vâng.

- Cháu đoán ra ?

- Không, cháu nhận biết giọng nói của chúng.

- Và cháu dùng cây đèn đỏ hôm đó để liên lạc ra dấu cho bọn chúng biết trong nhà không còn tài liệu gì của giáo sư Vũ Anh ?

Tiểu Phụng tròn mắt :

- Chú đoán đúng quá. Từ hôm ấy, bọn chúng cắt đứt liên lạc luôn và cháu cũng không muốn gặp lại họ nữa…Cháu dần dần nhận biết họ là những người xấu, rất xấu dù rằng là đồng hương của má cháu.

Con thường nặng tình với mẹ hơn cha, nhất là con gái như Tiểu Phụng. Lại còn trường hợp cha…hai vợ, làm khổ con gái như ông Viễn Đăng thì làm sao cho Phụng khỏi thương mẹ nhiều hơn? Do đó, con bé cứ tưởng những người đồng hương với mẹ cũng là người tốt. Nào ngờ…

Lời tiết lộ của Phụng quá chậm. Vì sau đó, những cuộc bủa vây của Cảnh sát hướng về bọn người Thái Lan vô danh kia không thành công. Viên đá đã chìm xuống đáy ao bùn đọng, không để lại dấu vết gì.

***



Y-Sroc nhận được một bức thư màu xanh, dấu bưu điện đóng là một Tỉnh khỉ ho cò gáy ở Cao Nguyên miền Trung, nơi giáp biên giới Lào Miên và có một xưởng ráp xe hơi Toyota mới mở: Kontum. Bức thơ đề gởi cho Dũng nên Y-Sroc mang thơ vào mà không xé ra đọc ngay. Tính thằng nhỏ rất nóng nảy và háo hức, nhưng được cái lịch sự.

Dũng đọc to lên những dòng nguệch ngoạc như vầy :


Dũng mến,

Tớ là Luân gởi thơ về thăm bồ đây. Kể từ ngày ba tớ đổi lên Kontum, xa bồ tớ buồn lắm. Ba tớ làm việc ở xưởng ráp xe hơi nổi tiếng mới thiết lập. Cực nhọc lắm, quần quật suốt ngày. Đến tối về ba tớ ngủ ngay không có thời giờ hỏi han trò chuyện với các con như xưa. Giá có bồ lên chơi tớ mừng chết đi được.

Từ một tuần nay, Ông Giám Đốc xưởng ra lệnh cho mọi người ở luôn trong hãng làm việc suốt đêm, ngủ 1 giờ và làm việc 23/24 giờ. Tớ cứ sợ ba gầy ốm bị bệnh, thì tớ và các em hết nhờ, ngờ đâu ba vẫn mạnh cùi cụi, hồng hào, đỏ da thắm thịt. Ba lãnh về một mớ tiền phụ trội, mua cho tớ một quần “din” mới, mặc vừa lắm. Ba má mong từ rày có dịp làm phụ trội vậy hoài để trong nhà có đồng ra đồng vào.

Hè này nếu bồ có dịp nhớ lên chơi với tớ nhé. Chúc bồ học giỏi, mạnh khỏe, vui vẻ sống lâu.

Bạn thân.

Luân.


Đập ngay vào mắt Y-Sroc và Dũng là con số 23/24. 23 giờ làm việc 1 giờ ngủ…đó chẳng phải là kết quả sự phát minh của giáo sư Vũ Anh là gì? Xưởng ráp xe Toyota này liên hệ gì với bọn gian bắt cóc giáo sư? Phải vào hỏi ý kiến chú Minh mới được.

Hoàng Minh khuyên Dũng và Y-Sroc đi Kontum ngay. Cả Tiểu Phụng nữa. Tuy nhiên con bé phải cẩn thận vì quen mặt với bọn lưu manh người Thái Lan kia rồi. Ông Cò liền gởi điện văn xuống Ty Cảnh Sát Kontum sẵn sàng hành động.

Tiểu Phụng, Y-Sroc và Dũng đi máy bay xuống Cao Nguyên miền Trung vào đêm hôm ấy, vùng ngã ba biên giới Việt, Miên, Lào đầy âm u, bí mật.

Chương 6. Komtum

Ba đứa trẻ xách va li bước xuống phi cơ. Trời tờ mờ sáng. Đến đúng 7 thì có xe ca của Hàng Không Việt Nam đưa ra khỏi phi trường. Và chúng thuê taxi đến nhà Luân, bạn của Dũng.

“Tốc, tốc, tốc”

Một người đàn bà trẻ tuổi, có dáng ngái ngủ bước ra mở cửa:

- Cậu hỏi ai?

- Thưa bà tôi muốn hỏi anh Luân.

- Không có ai tên Luân ở đây cả.

Cánh cửa sập lại, Tiểu Phụng ngơ ngác:

- Sao kỳ vậy hở Dũng. Đúng số nhà mà?

Dũng nhìn lại bảng số nhà rồi đập cửa lần thứ hai. Lần này cánh cửa không mở nữa, tiếng bà chủ nhà vọng ra, hơi gắt gỏng:

- Gì nữa đó?

- Thưa bác anh Luân có tên gọi ở nhà là Xạo.

- Thằng Xạo hả? Trời ơi! Để bác mở cửa. Lâu ngày không dùng đến cơ hồ bác quên luôn tên của nó trong giấy khai sanh. Các cháu đừng phiền nhá.

- Bác dạy quá lời.

Xạo được dựng đầu dậy lập tức, nó mừng muốn khóc:

- Mày đó hả Dũng? Chà, dạo này đen đi, tao nhìn không muốn ra.

- Không phải tao đen mà tại mày ở vùng cao nguyên lạnh trông trắng trẻo ra. Này Luân, mày vẫn còn giữ tên Xạo trong nhà hả? Mà tao hỏi thật, mày còn Xạo nữa không?

Luân cười nhe hàm răng sún:

- Vẫn còn đều đều.

Y-Shroc châm chọc:

- Mày còn lười đánh răng hơn tao nữa Luân. Mồm xạo tía lia thì được mà sao … sợ đánh răng cho răng sún thế này?

Luân nhìn thằng “mọi” đen đủi mà hàm răng trắng đều như răng anh Bảy chà Hynos, xấu hổ cúi đầu:

- Không phải tao ở dơ … nhưng sao tao ngại quá đi … mồm đầy xà bông cay xé….

- Mày lấy mỗi lần ít thuốc thôi … răng sạch hay không là do mình chà kỹ.

Dũng giảng hòa:

- Bỏ qua chuyện đó đi. Ba đứa tao lên đây thăm mày. Trời đất, mãi nói quên cả giới thiệu, đây là Y-Shroc, Tiểu Phụng, bạn tao ….

Luân cúi mình chào một cách hài hước:

- Còn đây là Luân, tự Xạo, nổi tiếng là nói dối hay như Cuội, thầy giáo cũng không bắt bẻ được

Bốn đứa trẻ làm thân với nhau rất mau. Dũng đề cập ngay vấn đề thực tế:

- Mày cho tao ở nhờ tuần lễ chơi được không? Mày cũng gần nghỉ Noel rồi mà?

- Phải đấy. Tụi mày ăn Giáng Sinh với tao trên núi nhé,

- Ba má mày có …. vui lòng không?

Luân khoa tay:

- Yên trí. Trăm điều cũng cứ trông vào một ta ….

- Mày học lóm câu Kiều ở đâu vậy?

- Thì giở cuốn Kiều ra mà học.

Rồi Luân vào nhà trong nói chuyện với ba má. Chỉ hai phút sau, bà mẹ đã chạy ra bảo ba đứa:

- Các cháu cũng như thằng Xạo con bác, đừng ngại gì hết. Thăm thằng Xạo và hai bác là quí lắm rồi.

Mắt bà sáng rỡ nhìn vào chiếc đồng hồ đeo tay của Dũng, miệng không ngớt trầm trồ:

- Cháu có chiếc đồng hồ đẹp quá … có mắc tiền không, hở cháu? Lúc nào khá, bác mua cho thằng Xạo một cái…

Biết gặp phải con người lý tài, Tiểu Phụng vội vàng ghé tai Dũng thì thầm mấy câu. Dũng gật đầu, hào sảng tháo chiếc đồng hồ đeo vào cổ tay Xạo:

- Mày lấy đeo chơi. Tụi tao lên bất ngờ không có quà gì cho mày. Mày nhận đi cho tao vui, không đáng bao nhiêu.

Luân ngần ngại:

- Ai lấy kỳ quá vậy. Tao biết đồng hồ này bây giờ hơn mười ngàn.

Bà mẹ nói hớt:

- Con đừng từ chối kẻo cậu Dũng buồn. Má cho phép con nhận mà, lo gì.

Dũng tươi cười:

- Tụi cháu còn phải nhờ bác nhiều trong những ngày sắp tới. Bác tử tế, vui vẻ và …. thành thực lắm. Tụi cháu quí những người như bác.

Bà gật đầu, vẻ niềm nở, hiếu khách ngời lên ánh mắt:

- Có bác đây các cháu đừng lo chi cả. Đủ hết, nơi ăn, chốn ngủ, bàn học nữa … nếu các cháu muốn …..

- Cám ơn bác, tụi cháu lên đây chơi với anh Xạo, đâu phải để học.

Kể từ lúc ấy, ba đứa trẻ trở thành khách quí của ông bà Mạnh, ba má Luân. Luân dẫn cả bọn đi chơi khắp vùng. Y-Shroc một lần tỏ vẻ nóng ruột:

- Xạo này, mày dẫn tụi tao vào thăm xưởng ráp xe hơi được không?

- Để tao về hỏi lại ba tao. , hình như xin phép khó lắm … Mày thích máy móc hả Y-Shroc?

- Ừ. Tao chỉ được xem hình thôi bây giờ muốn thấy tận mắt để lúc về Sài Gòn lòe tụi bạn chơi …

Tiểu Phụng “thổi” Luân lên cho nó phổng mũi:

- Cái gì chớ về cái nói xạo là Y-Shroc phải học với Xạo rồi.

- Đúng. Xạo xác nhận với một vẻ thích thú, hãnh diện.

Cả bọn nằm dài nghỉ ngơi trên một bãi cỏ thấp, cọc còi xơ xác. Dũng mở túi xách, lấy một ổ bánh mì lớn và bốn miếng phó mát phân phát:

- Mỗi đứa một … Chúng mình bình đẳng. Tiểu Phụng đừng sợ tụi tôi con trai ăn nhanh hơn ngoạm hết phần nhé.

- Đâu có.

Dũng và Xạo nằm sát bên nhau nói chuyện về những ngày xưa còn học chung trường, chung lớp. Y-Shroc lại gần Tiểu Phụng:

- Tiểu Phụng có biết đây là quê hương của Y-Shroc không?

Phụng ngạc nhiên:

- Thật sao? Từ hôm lên đây sao không nghe Y-Shroc nói gì cả?

Y-Shroc thấp giọng:

- Nếu không phải mình đi để lột mặt nạ bọn Thái Lan mà là đi chơi thật, Y-Shroc sẽ dẫn Phụng và Dũng về sóc chơi vui hơn đây nhiều, nhất là không có chuyện …. tháo đồng hồ ….

Tiểu Phụng cắt ngang:

- Y-Shroc đừng nói thế, Luân nó buồn. Luân tốt lắm, nhưng ba má nó là người nghèo khổ, người ta hay ao ước những gì người ta không có. Huống chi tặng quà cho bạn là một hành vi đẹp. Y-Shroc đừng để tâm.

- Tôi không những để tâm mà còn chú ý hoài hoài nữa.

Y-Shroc đã nổi giận. Tiểu Phụng vội dịu dàng dỗ dành:

- Sóc của Y-Shroc có những gì đẹp, nói cho Phụng nghe đi? Cái gì đẹp nhất đó?

Thằng nhỏ đen đủi ngẫm nghĩ giây lát rồi reo lên:

- Đẹp nhất thì Y-Shroc không biết vì có nhiều thứ đẹp quá. Nhưng thú vị nhất trong các trò chơi của Y-Shroc là đi tắm suối ….

Má Tiểu Phụng đỏ hồng. Y-Shroc hiểu ra vội xin lỗi:

- Phụng không tắm suối được hả? Phụng biết bơi không? Không biết thì nguy lắm. Y-Shroc vô tư quá….

Tiểu Phụng lắc đầu:

- Biết bơi chứ vì ở bên Thái, Phụng vẫn đi tắm suối thường mà …

Y-Shroc kể tiếp:

- Tắm suối xong, chặn suối bắt cá. Phải lấy cây khá to, khúc bằng bắp vế chặn ngang dòng suối lại. Tụi trẻ như Y-Shroc và các bạn bắt cá tài tử chỉ cần chặn một cây phía hạ lưu. Nước đến khúc cây, chảy chậm lại, cá động ở đó bắt tha hồ.

- Cá bắt xong rồi Y-Shroc làm gì?

- Nướng. Nướng thơm hơn luộc nhiều. Có điều hôm nào muối không có thì ăn nhạt vì muối ở sóc khó kiếm và mắc lắm.

- Phụng biết.

Tiếng người nói xí xô một tràng rất lạ tai. Cả bốn đứa ngưng nói chuyện, vểnh tai nghe. Mắt Y-Shroc sáng lên?

- Họ ở cùng một sóc với Y-Shroc đó.

- Thế hả? Xạo hỏi. Sao Y-Shroc biết?

- Thì họ nói Y-Shroc nghe hiểu mà.

Y-Shroc thừa thông minh để hiểu rằng ngôn ngữ sóc mình tự nó đã là một thứ mật ngữ, nghĩa là nói ra người ngoài không thể hiểu được. Chính vì ỷ y như thế mà hai người đội nón cối kia nói chuyện bô bô như chổ không người. Mà trong óc họ, có lẽ không người thật vì họ chưa nhìn thấy bốn đứa trẻ.

Y-Shroc hỏi Xạo:

- Người có sẹo đội nón cối mặc quần áo vàng kia là ai?

- Ông Đạt đấy.

- Đạt là ông nào?

- Ông Phó Giám Đốc Xưởng ráp xe Toyota.

Y-Shroc gật đầu, nháy mắt ra hiệu cho Dũng và Tiểu Phụng. Xạo thắc mắc:

- Mày hỏi làm gì?

- Thì cho biết vậy mà.

Dũng đỡ lời cho Y-Shroc:

- Nom ông ta oai phong, lẫm liệt.

Xạo cười:

- Chúng mày có muốn gặp ông ta không? Tao đưa lại nhưng đừng bao giờ hy vọng lấy được của ông ta một cục kẹo, một cái bánh hay cả …. một cái xoa đầu. Ông Đạt hà tiện từ lời nói, tiền bạc lẫn cử chỉ tỏ lòng trìu mến.

- Có thế mới chơi được với mày, Xạo. Thương mày không được đâu, cho bánh mày một lần là kỳ tới mày tìm cách …. moi túi người ta lấy cho kỳ hết tiền bạc đi mua bánh mới thôi. Mày là Xạo, gạt người ta tài lắm mà.

Xạo không giận, trái lại nó nhún vai cười rất tỉnh:

- Tao thế đó, mà đành bó tay trước mấy lão này.

- Nhà ông Đạt ở đâu? Tao không thấy?

Xạo bĩu môi:

- Thấy thế nào được? Khu vực riêng biệt dành cho các viên chức tay tổ trong nhà máy mà. Này nhé, Giám đốc và Phó Giám đốc ở trong hai biệt thự song lập rộng hơn hai ngàn thước, Quản lý xưởng có một biệt thự trệt. các Kỹ sư mỗi ông một căn nhà gạch đục màu đỏ. Còn các người thợ … như ba tao thì sống như thế đó …

Dũng an ủi:

- Mày đừng buồn. Tao thấy nhà mày đầy đủ tiện nghi lắm chứ. Nếu như ở Sài Gòn, trị giá bạc triệu.

Hai người đàn ông bỏ đi, Tiểu Phụng đề nghị:

- Thôi chúng mình về nhà. Tôi đói bụng quá rồi.

Xạo không bỏ lỡ cơ hội:

- Con gái háu đói ghê nhỉ. Mới ăn bánh mì phó mát đây mà.

Nhưng ba đứa trẻ còn lại không phản ứng gì về lời nói của Xạo. Chúng như đang bận tâm suy nghĩ điều gì. Xạo buồn so hỏi:

- Tao có giúp chúng mày được gì không? Thú thực tao có cảm tưởng là không phải tụi mày lên chơi với tao … có lẽ việc riêng …

- Không, lên thăm mày thật đấy. Bỗng Dũng lấy vẻ mặt nghiêm trang hỏi Xạo:

- Mày có biết giữ bí mật không?

Xạo cười:

- Lời nói của tao có ai tin là thật thì giữ bí mật hay không ăn thua gì?

- Tao không đùa.

- Tao xin thề sẽ không tiết lộ điều mày nói cho bất cứ ai, kể cả ba má và các em tao.

Dũng bắt đầu vào đề:

- Bọn tao ba đứa nay kết nạp thêm người thứ tư là mày, chúng tao lên đây đi tìm chú Vũ Anh, tác giả của phương thức làm việc 23/24 mày viết trong thư ….

- Ông Giám đốc đâu phải tên Vũ Anh? Ông ấy tên Vương.

- Nhưng ông Vương chỉ có thể nghĩ ra điều ấy khi … đã có loại thuốc ngủ đặc biệt của chú tao … và hiện giờ chú Vũ Anh đã bị bắt cóc. Một bọn người Thái Lan dính vào vụ này đã đào tẩu mất dạng. Tụi tao đi tìm dấu vết bọn gian.

Y-Shroc xen vào:

- Tao không giấu mày điều chi cả. Mới đây ông Phó Giám dốc của mày để lộ nhiều dấu hiệu đáng ngờ.

- Cái gì?

- Ông ta hẹn tên kia đến nhà ông 5 giờ sáng mai đừng để ai trông thấy, không tốt. Thế là nghĩa lý gì?

- …. Không có nghĩa gì cả. Tao không biết.

Tiểu Phụng mạnh dạn:

- Tại sao ông ta không muốn để thiên hạ trông thấy? Ông ta có điều chi phải giấu diếm? Ồ …. Hay ông ta có vợ bé?

Dũng nhìn Phụng lộ vẻ thương hại:

- Ừ, biết đâu đó hả Phụng. Nhưng có lẽ không phải, tôi linh cảm như thế. Xạo … mày dò xét dùm tao việc làm của ông Phó Đạt được không? Mày ở đây lâu quen biết nhiều người lắm mà? Hay mày vào nhà ông ta chơi đi … rồi về kể tao nghe.

- Ba má tao biết được rầy chết.

Y-Shroc giơ ngón tay trỏ lên :

- Không rầy đâu, tao bảo đảm. Ba má mày còn khen nữa là khác. Vào nhà ông Phó Giám đốc đâu phải dễ. Có … bị đòn tụi tao nói đỡ cho.

- Mày bàn cũng như không? Thôi được rồi, tao dẫn tụi bây lại nhà ông Phó Giám đốc chiều nay.

Giờ tan sở bắt đầu. Một giờ đồng hồ sau, Luân, Dũng và Y-Shroc đến trước cổng sắt nhà ông Phó. Tiểu Phụng … nhiên cảm thấy đau bụng phải ở nhà nằm nghỉ theo lời khuyên của Dũng. Con bé ngại chạm mặt với ông Đạt, nếu người “quen” thì gặp ngay lúc này bất lợi.

Gia nhân của ông Phó mời cả ba vào phòng khách. Điều rất lạ là ông phó Giám đốc khả kính lại chịu thân đi tiếp chuyện với mấy đứa trẻ con. Ông không phải người yêu trẻ, cũng chẳng vui tính trẻ trung. Vậy đây là một hân hạnh đặc biệt dành cho Xạo, Dũng và Y-Shroc chăng?

Vẻ mặt ông Phó Giám đốc không tươi lắm nhưng ông vội đổi thái độ bảo ba đứa:

- Tôi xin lỗi đang có chuyện bực mình trong nhà. Các cháu đừng để ý nhé. Hai cháu từ Sài Gòn lên chơi với Luân hả ?

- Vâng. Cháu là Dũng còn bạn cháu là Y-Shroc.

- Y-Shroc?

Thằng bé đen đũi cười:

- Ông Phó … nói chuyện có duyên lắm. Cháu ở cao nguyên xuống Sài Gòn học và là bạn cùng lớp với Dũng.

Y-Shroc lập tức được ông Đạt chú ý nhiều nhất. Ông hỏi:

- Cháu ở sóc nào?

- Thưa …. cháu ở dưới Ban Mê Thuột, sóc của mẹ Lầm.

Xạo cười thích chí. Y-Shroc đã học được “tài năng” đặc biệt của nó năm ba phần. Nhưng con người của ông Đạt, không dễ gì ai lường gạt được. Ông bỗng nhìn thẳng vào mắt Y-Shroc nói rất lớn một câu dài lạ tai, giọng đe dọa hung dữ,

Dũng điếng hồn ngồi yên không nhúc nhích. Xạo cũng đờ người đợi phản ứng của Y-Shroc. Không hiểu thằng bạn nhỏ thật thà kia có qua cầu nổi không. Nếu biến sắc bất thường ông ta sẽ biết ngay Y-Shroc nói dối, Y-Shroc chính là người của sóc địa phương này.

Nhưng thằng bé ngơ ngác như mán về thành phố. Nó không khiếp sợ cũng chẳng hoảng hốt. Ông Đạt không bắt nọn được gì, bèn quay sang vui vẻ nói bằng tiếng Việt với ba đứa:

- Các cháu không biết tiếng địa phương của đồng bào Thượng ở đây hả? Vui lắm và giản dị lắm. Các cháu muốn học, tôi dạy cho lúc gặp họ tha hồ nói chuyện.

- Cám ơn ông … hiện giờ chắc ông cũng đang bận nhiều việc …

- Bận thì lúc nào chẳng bận. Tự nhiên … tôi thấy mến các cháu lắm. Lúc nào muốn học, các cháu cứ bảo tôi nhé.

- Vâng.

Giữa lúc ấy trong nhà ông Phó có chuyện cãi vã ồn ào. Câu chuyện về cái giếng nước chung thì phải. Không đợi ba đứa hỏi, ông Đạt đã thở dài tâm sự:

- Bên tôi và ông Giám đốc có đào một cái giếng chung. Các cháu đã biết nước ở đây thật trong sạch khó kiếm lắm. Nước suối có chứa những lá rừng từ nguồn, chẳng may nếu gặp lá độc, uống vào có thể chết được. Máy bơm sẽ đưa nước lên một hồ cao và hai nhà xài chung. Nhưng sáng nay, mấy đứa trẻ bên ấy xả đồ dơ xuống giếng …

- Ông có bảo họ biết không?

- Có chứ. Nhưng anh Giám đốc thì xin lỗi còn chị vợ … bênh con. Và hai nhà cãi vả từ sáng đến giờ. Chuyện trẻ con mất lòng người lớn, tôi buồn lắm.

Dũng xin phép ông Đạt ra về. Lúc ra vườn ngang qua một aquarium (bồn kính) nó để ý thấy những con cá nhỏ bằng ngón tay màu sắc rực rỡ rất đẹp. Vây lưng và bụng to bản, xòe ra như hai cánh bướm. Nó toan hỏi ông Đạt nhưng nghĩ sao lại thôi. Ông ta đang bận suy nghĩ, không chú ý đến mấy đứa nhỏ.

Ra đường rồi còn nghe tiếng ông ta dặn với:

- Quên nữa, các cháu nhớ lại ăn Réveillon với tôi đêm Giáng Sinh nhé.

- Tụi cháu … không dám hứa chắc. Xin cám ơn ông.

Chương 7. Con sóc xám
Người đưa thơ hôm nay lại đưa cho Y-Shroc một cái thùng gỗ nhỏ, bắt nó ký tên nhận lãnh đàng hoàng. Dấu bưu điện từ Sài Gòn, không đề tên người gởi chỉ ký hai chữ tắt H.M. Ồ, tên quen thuộc này nó còn lạ gì H.M có nghĩa là Hoàng Minh, chú Minh thám tử … đang nằm nhà thương đấy. Y-Shroc muốn khóc. Tội nghiệp chú Minh quá.

Bên trong thùng gỗ có vật gì động đậy và đang kêu chít chít. Trời ơi! Con sóc yêu quí! Con sóc của Y-Shroc ở Sài Gòn! Cám ơn chú Minh không quên gởi đến cho thằng bé người bạn thân mến của nó trong những ngày ở Kontum.

Trong thùng gỗ không còn gì cả. Y-Shroc tìm mãi cho ra lá thư tưởng tượng – Nó nghĩ chú Minh có gởi thư cho ba đứa nữa – và đành thất vọng. Tiểu Phụng cũng ra tới, bồng con sóc lên vuốt ve và bảo Y-Shroc:

- Chú Minh giúp chúng ta điều tra mau lẹ đó.

- Bằng cách nào?

- Y-Shroc quên là con sóc này có thể nhận “diện” thủ phạm sao. Vẻ mặt con người có thể hóa trang, giọng nói cố đổi khác đi được còn … hơi người thì vô phương.

Y-Shroc reo lên:

- Đúng rồi … Nhưng ở rừng đi săn thú với dân sóc. Y-Shroc vẫn thấy họ chà nát một thứ lá bôi lên người để mất mùi da thịt, thú rừng không đánh hơi được mà.

- Hy vọng là vì bất ngờ, bọn chúng không đề phòng kịp mà bôi thuốc lên da. Trời phải giúp chúng ta vì chúng ta lương thiện, phải không Y-Shroc?

Trong khi đó Dũng và Xạo đang “dạo chơi” trong bãi cỏ cằn cỗi hôm trước. Chúng chia nhau lục soát để tìm những dấu vết khả nghi còn để lại của cuộc nói chuyện giữa ông Phó Giám đốc và người lạ mặt. Chỉ có những vết chân trên cỏ … dẫn ra bờ suối sâu và mất hút.

Một vật gì lấp lánh nhỏ xíu phản chiếu ánh mặt trời làm lóa mắt Xạo: một con chim Phụng tí hon bằng bạc chạm trổ tinh vi, khắc chữ nhỏ mắt thường không phân biệt được. Nếu phân biệt cũng chẳng đọc được vì không phải tiếng Việt Nam. Tại sao lại có món đồ trang sức đó ở nơi đây?

Một cách máy móc, Xạo nhặt lên đút túi. Dũng bàn:

- Chim phụng nhỏ … Tiểu Phụng … không chừng về nhà hỏi Tiểu Phụng nó biết.

Xạo gật đầu đồng ý:

- Dầu sao con chim phụng cũng không phải là một biểu vật trang sức của bộ lạc Thượng vùng này. Tao biết thế vì có mấy thằng bạn tao là Thượng, y như thằng Y-Shroc vậy đó. Tụi nó đeo những vòng đồng chạm hình ngôi sao và đầu người.

Một chiếc xuồng ghé lại bên bờ suối. Hai người đàn ông ì ạch khiêng một thùng cây nặng trĩu tay lên bờ. Dũng suýt la lên: một trong hai tên đó đã nói chuyện với ông Phó Giám đốc Đạt hôm qua.

Qua ngọn cỏ thấp, hai người đi rất chậm và rất xa. Thỉnh thoảng họ ngừng lại, có lẽ để nghỉ mệt và để xem đồng hồ. Dũng bảo thế vì mỗi lần đặt thùng xuống họ đều đưa tay lên xem đồng hồ. Xạo bảo:

- Có lẽ họ chờ ai chăng? Thùng gỗ phải có người nhận chớ? Tay không khiêng hoài sao nổi?

Họ từ từ tiến lại gần Dũng và Xạo. Hai đứa nằm mọp xuống đất ướt, không dám ngửng đầu lên. Mùi cỏ xanh tươi thoang thoảng lẫn với những lá cỏ vàng úa mục nát ngai ngái khó chịu. Một con kiến vàng quái ác bám lấy mặt Dũng và … chích. Thằng bé muốn nhảy nhỏm lên vì đau mà … không dám nhúc nhích vì sợ bị lộ, đành nằm chịu trận. Nó phải liếc chừng về hướng bọn kia năm bảy lượt mới dám đưa bàn tay lên gỡ con kiến ... giết chết ngay trả thù.

Mặt Dũng nhăn như bị rách. Đã thế Xạo lại thì thào:

- Mày hết đẹp trai rồi, Dũng ạ.

Dũng nổi sùng:

- Nói nữa tao đập mày. Nhức thấy mồ … từ giờ tao không dám nằm úp mặt xuống cỏ nữa.

Một chiếc xe ngựa còm cõi lọc cọc tiến lại gần bên đường mòn. Gã đánh xe râu quai nón ló mặt ra hỏi vài câu thổ ngữ rồi nhận hàng lên xe. Trong vài phút, chiếc xe đã khuất đàng xa.

Chiếc thuyền cũng rời bờ suối. Xạo và Dũng về nhà vừa kịp lúc ăn trưa. Ba Xạo, ông Mạnh lầm lì cúi đầu và cơm. Xạo hỏi:

- Ba có việc … khó chịu ở sở phải không? Để con đoán xem nhé … ông Phó Giám đốc gắt gỏng nhiều lắm hả ba?

Vẫn im lặng. Xạo tiếp:

- Con biết ông Giám đốc và ông Phó Giám đốc có chuyện xích mích.

Ông Mạnh thật sự ngạc nhiên:

- Tại sao mày biết?

- Con đến nhà ông Phó chơi mà. Ông Phó phàn nàn về mấy đứa con ông Giám đốc đổ đồ dơ xuống giếng nước chung?

- Ai tiếp mày hả Xạo? Tao không tin được?

- Thật mà, ba hỏi anh Dũng và Y-Shroc xem? Ông phó còn dặn con đến ăn … tiệc nữa đêm Giáng sinh ở nhà ông ta đó.

Má Xạo thích lắm:

- Con tôi giỏi quá. Ông Đạt khó tính thế làm sao con chiều được?

Xạo chưa kịp trả lời thì ông Mạnh sầm mặt bảo:

- Chưa chắc thân với ông phó là điều hay đâu bà. Vì mình cấp nhỏ sống trên đe dưới búa. Ông giám đốc nổi giận thì mình … bể nồi cơm.

Bà Mạnh thở dài:

- Tôi chỉ muốn mình có thêm thời giờ làm phụ trội như mấy hôm trước là hay. Mình … nghèo quá mà sao chỉ làm thêm có một tuần lễ thôi hả ông?

- Ừ, ông giám đốc tạm ngưng lại để chờ quyết định của thượng cấp.

Không khí nặng nề làm Tiểu Phụng nuốt cơm không muốn trôi. Con bé nhạy cảm và hay tủi thân chớ không lì được như những đứa trẻ bạn trai. Tỉnh nhất là Y-Shroc. Một phần tính nó vô tâm, phần nữa là sáng nay nó mới nhận được con sóc yêu quí nên vui vẻ khác thường.

Bữa cơm chấm dứt . Tiểu Phụng thở phào đứng lên. Dũng đi theo bạn, nó an ủi:

- Phụng không ăn được hả? Để chiều mình đi ăn mì, Dũng mới biết có một xe mì vịt ngon lắm.

Phụng lắc đầu:

- Không phải chuyện ấy đâu Dũng … Phụng buồn thấy hối hận về việc giáo sư Vũ Anh bị bắc cóc. Phụng cứ tưởng chính giáo sư đã giết má Phụng nên trả thù … ai ngờ …

- Chuyện qua rồi nghĩ ngợi không ích gì. Tiểu Phụng?

- Việc gì đó Dũng?

Dũng lẳng lặng đưa ra con chim phụng bạc cho bạn. Tiểu Phụng mặt lợt lạt, mãi sau mới nói được:

- Đúng bọn chúng rồi …

- Bọn nào? Bọn người Thái Lan hả?

Phụng ấp úng:

- Tiểu Phụng cũng có một con chim như vầy của má Phụng truyền lại. Con chim có ý nghĩa: Hãy tuân lệnh Thượng Đế …

Dũng ngơ ngác:

- Thượng Đế biết truyền lệnh?

- Và Thượng Đế ra lệnh qua người Tù trưởng. Má Phụng cũng là dân sơn cước bên Thái Lan, bọn người này là cùng trong bộ lạc với má Phụng … Bây giờ Dũng phải làm gấp việc này: đem con chim phụng để lại bãi cỏ sáng nay đi.

- Để làm gì?

- Để ta có thể tiếp tục theo dõi được. Trên cánh chim phụng có 3 vạch mờ: đúng 3 giờ chiều nay sẽ có người đến nhận vật này.

Dũng hoảng hốt phóng đi tìm Xạo: đồng hồ chỉ đã 2 giờ 30. Còn nửa tiếng nữa thôi. Hai thằng bé chạy như ma đuổi về hướng bãi cỏ.

Mồ hôi thấm ướt áo. Chân tay rời rã vì gắng sức quá độ. Sau cùng, hai đứa thành công, làm xong việc lúc 3 giờ thiếu 10 phút. Và chúng phục xuống dưới bãi cỏ chờ đợi người nhận chim phụng bạc xuất hiện.

3 giờ thiếu 5. Quá sốt ruột, Xạo phải tìm câu chuyện nói với Dũng cho bớt lâu:

- Tao hỏi mày tại sao người nhận kia biết 3 giờ chiều mà đến đây lấy? Hắn có cầm được chim phụng lên đâu mà nhìn được 3 vạch mờ trên cánh.

- Mày phải hỏi Tiểu Phụng … Con bé mới rành về phong tục, biểu vật của người Thái Lan, sao mày hỏi tao?

Xạo giơ ngón cái lên:

- Lần này mày phải khen tao nhé: ba vạch mờ kia chỉ là để có vật cụ thể chỉ giờ định giấc, lỡ sau này có chuyện bất hòa chúng có bằng cớ nói chuyện với nhau. Khẩu thuyết vô bằng.

- Còn thật ra chúng đã được thông báo giờ hẹn bằng cách khác rồi?

- Dĩ nhiên.

Dũng cười:

- Và tao cũng có thể đoán chắc không sai rằng: những chữ Thái Lan khắc trên chim phụng là điều chúng muốn nói với nhau. Những chữ ấy mới là quan trọng, tối quan trọng.

- Tiểu Phụng đã đọc chưa?

- Tao … không để ý nữa …

- Suỵt …

Người đội nón cối có sẹo trên mặt cúi đầu đi trên đường mòn của bãi cỏ. Ông ta chính là Đạt, Phó giám đốc xưởng ráp xe hơi và vẫn mặc bộ quần áo vàng hôm qua. Dũng liếc nhìn đồng hồ ở tay Xạo: 3 giờ đúng.

Nó chợt nhớ ra, nói nhanh:

- Mày bỏ đồng hồ vào túi áo đi. Ánh mặt trời phản chiếu trên mặt đồng hồ sẽ tố cáo tụi mình với ông Đạt.

Ông ta cúi mình trên bãi cỏ, tìm kiếm một hồi lâu … rồi cầm một vật sáng bạc lên tay: con chim phụng. Không xem xét, ông ta đút ngay vào túi áo, trở gót đi về.

Dũng chợt nhớ ra, nhắc Xạo:

- Mày sao không nói gì với tao về vụ 5 giờ sáng nay ?

- Bạn tao bảo rằng không có ai đến cả. Chắc có việc bất thường.

Dũng vẫn không yên tâm:

- Mày hay xạo lắm. Mày nhờ ai rình dùm cho tụi mình?

- Thằng nhỏ bạn tao mà. Má nó là … người làm công trong nhà ông Đạt.

- Chắc thằng đó ngủ mất tiêu rồi nói ẩu.

Xạo quả quyết:

- Không có đâu. Nó giữ lời lắm. Chỉ có tao hay xạo, nếu tao đã không xạo với mày thôi, nó đáng tin cậy mà … Cũng có khi tên kia không lại được mới thông tin cho ông Đạt ra bãi cỏ này nhận tín vật là con chim phụng bạc.

- A, sao mày không bảo trước? Có lý lắm. Mày … dẫn tụi tao vào xưởng lắp xe đi, tao không thích lại nhà ông Đạt nữa.

Xạo nửa đùa nửa thật:

- Hôi dầu nhớt lắm mày chịu được không?

- Sao lại không? Tao không phải dân công tử?

Xưởng ráp xe đang làm việc tấp nập. Ông Đạt bằng lòng cho ba đứa trẻ vào xem chơi. Những cái giàn khổng lồ chạy bằng đường rầy sắt trên mặt đất hay treo lơ lửng đồ sộ trên không tạo thành một dây chuyền kim khí hoạt động rất vui mắt. Mỗi người thợ chỉ làm một việc đơn giản mà thôi. Vặn bù long, bắt dây điện, ráp thắng xe … họ làm nhanh và gọn. Ông Đạt giải thích:

- Phương pháp dây chuyền này được nghĩ ra đầu tiên bởi một người Mỹ là ông Taylor? Để tôi nhớ lại? Phải rồi ông Taylor. Ông ta thí nghiệm và loại hết tất cả những động tác dư thừa của người thợ, dùng phim chiếu chậm giữ lại những phần tối cần thiết cho công việc từ những người thợ khéo …

Một anh thợ áo xanh chạy đến lễ phép:

- Thưa ông phó giám đốc có điện thoại.

- Các cháu chờ tôi một chút.

- Vâng

Y-Shroc và Dũng đứng lại hỏi han những người thợ làm việc. Còn Xạo biến mất dạng. Nó đi đâu? Thằng bé theo dấu ông Đạt, thấy ông ta bước vào trong một văn phòng cửa kính đồ sộ, rộng thênh thang và … cài cửa cẩn thận. Chuông điện thoại đang reo. Ông cầm lấy ống nghe đưa lên tai.

Xạo nép vào một xó tối dõi mắt qua những tấm chớp bằng nhựa của cửa sổ kính dầy. Rất khó nghe lọt âm thanh bên trong nên Xạo phải dùng đến cả đôi mắt nhìn đôi môi mấp máy của ông Đạt đoán nghĩa:

- Alô, tôi Phó giám đốc … anh Vương đó hả … vụ đó tôi đã bàn với anh rồi mà …

Cặp lông mày rậm của ông Đạt nhíu lại gần chạm nhau, vết nhăn hằn trên trán:

- Tôi bảo không được. Nếu anh muốn thì cứ làm theo ý anh, tôi chỉ là … Phó giám đốc đâu có quyền quyết định.

Hình như ông Đạt được vuốt ve tự ái nên vui trở lại:

- Vụ xe cứu thương đó hả? Anh thấy không: mình ráp thêm một ghế mỗi xe ngay trên tàu thành 13 ghế, thoát khỏi nộp thuế theo xe du lịch mà hưởng quy chế xe thực dụng … phải rồi, ghế giả bên cạnh tài xế ấy mà … Tuần trước, mình phải ráp thêm một ghế nữa là 14 mới đủ điều kiện xe thực dụng và bây giờ cũng không được nữa thì … như tôi đã đề nghị, anh cho lệnh tháo tất cả ghế trong xe ném xuống biển.

- Tôi … tôi không điên mà là để biến xe của mình thành xe cứu thương, miễn thuế nhập nội. Loại xe nhỏ 2.600 mới du lịch tôi cũng đề nghị mình làm theo cách ấy. Anh đồng ý chứ? Còn chiếc xe mẫu hả? Tôi cho sơn dấu hồng thập tự thật rồi để mình có tấm bình phong trưng ra cho thiên hạ thấy? Nhưng tôi không dùng nó để cứu thương thật đâu. Bái bai!

Ông mở cửa văn phòng đi ra, Xạo vội quay mặt đi. May mắn, ông không trông thấy nó. Và nó giả vờ đang nói đùa với mấy người cai xưởng gần đó. Ông Đạt không nghi ngờ gì.

Xạo và Dũng ra sở cảnh sát địa phương xin nhờ điện thoại nói chuyện với Hoàng Minh … trên giường bệnh. Vì có chỉ thị của ông Cò từ Sài Gòn nên họ giúp đỡ hai đứa tích cực. Năm phút sau đường dây điện thoại liên lạc được, có tiếng Minh khàn khàn nói từ đầu dây bên kia:

- Alô, ai đó? Dũng phải không?

- Không, Xạo đây.

Dũng vội nói ghé vào máy:

- Xạo là bạn cháu, thằng Luân ở Kontum viết thư về cho cháu đó chú Minh. Nó sắp nói chú nghe chuyện hay lắm.

- Chuyện gì?

Xạo nói nhanh:

- Chú Minh, Công Ty Ráp Xe Hơi Toyota mưu toan trốn thuế chính phủ …

Nó thuật lại hết câu chuyện nghe được qua máy điện thoại văn phòng ông Đạt. Nó kết luận:

- Họ đi thoát một lần xe lớn rồi bây giờ sắp áp dụng đối với xe du lịch 2.600

- ToyoTa 2.600?

Vâng họ cũng biến thành xe cứu thương sơn dấu thập đỏ đàng hoàng. Ông Đạt còn bảo rằng ông đã cho sơn chiếc xe làm mẫu …

Trong óc Minh bấy giờ lóe lên hình ảnh chiếc Toyota 2.600 cứu thương của bệnh viện Phúc Kiến. Chiếc xe hụ còi vượt đèn đỏ và đi cùng một đường với chiếc xe taxi chở giáo sư Vũ Anh. Còn mối liên hệ của ông Đạt với bọn người Thái lan, với Tiểu Phụng và biểu vật con chim phụng bạc. Theo suy luận của chàng bấy nhiêu đó quá đủ để bắt tất cả bọn người gian ác nhưng … về mặt luật pháp phải có bằng chứng cụ thể.

Ông Cò bịt ống nói, thì thầm vào tai Minh:

- Giáo sư Vũ Anh chắc đang ở trong tay bọn chúng.

Minh gật đầu, ra dấu cho ông Cò chú ý theo dõi cuộc nói chuyện trở lại – hai điện thoại của chàng và của ông mắc theo lối song song:

- Alô, trong năm đầu Xưởng Ráp Xe vẫn được phép nhập cảng phải không?

- Vâng, năm thứ hai tỷ lệ thay thế là 20/100 năm thứ ba …

- Thôi đủ rồi, bây giờ các cháu phải làm sao … đo được kích thước các bánh xe của chiếc Toyota mẫu cứu thương đó nhé. Chú sẽ gởi xuống một con rệp làm bạn với con sóc của Y-Shroc. Chào các cháu.

Chương 8. Con rệp của chú Minh

Tiểu Phụng đứng hóng gió bên khuôn cửa sổ. Gió hơi lạnh nhưng có thấm gì với hai ba lần áo len của Phụng. Hoàng hôn đổ xuống vùng núi đồi đỏ au màu máu. Phong cảnh đẹp một cách man rợ và tàn bạo.

Con sóc ngoan ngoãn nằm lim dim mắt nhưng buồn ngủ trong tay Phụng. Y-Shroc không xích nó bao giờ và nó cũng chẳng hề làm phiền ai. Lúc buồn thì nhí nhảnh chuyền cây leo cành một mình, rồi trở vào nhà phóng lên mặt bàn, đầu tủ cao nằm ngủ hay … vờ ngủ. Y-Shroc bắt nó từ lúc mới lọt lòng mẹ trong rừng, đem về Sài Gòn nuôi làm bạn cho đỡ buồn những ngày đầu tiên xa quê hương. Thấm thoát đã gần năm.

Những dòng chữ Thái Lan trên con chim phụng bạc làm con bé phân vân mãi:

“Món hàng bí mật sẽ được đưa đến tối mai. Báo động khẩn cấp để bảo vệ vì quan trọng số 1. Giờ hẹn 2 giờ đêm mai. Hết”

Món hàng ấy là gì? Những thuốc ngủ đặc chế của giáo sư Vũ Anh? … hay chính là giáo sư? Khó đoán quá. Xạo, Dũng và Y-Shroc cũng đành chịu thua không đoán được.

Xạo bỗng gợi chuyện:

- Phụng có biết trong thùng gỗ nặng nề kia có chứa những gì? Ít ra Phụng còn biết hơn tụi tôi … vì đã từng biết cách thức họ làm việc mà.

- Họ câm như hến. Chỉ mở miệng những lúc tối cần phải phát biểu ý bằng lời nói. Hai tên Thái Lan thường xuyên đến gặp Phụng bao giờ cũng … chỉ để truyền lệnh chứ đâu phải để tâm sự, theo ý Phụng chính hai tên này cũng không biết mặt cấp chỉ huy cao hơn.

Dũng nhanh nhẹn:

- Phải rồi. Cứ xem cách họ liên lạc bằng tín vật là đủ biết. Chúng làm việc phi pháp phải bảo mật để tránh … trường hợp bị cảnh sát túm trọn ổ.

Tiểu Phụng mắt sáng ngời:

- Phụng phải nắm trọn ổ bọn chúng để chuộc lại lỗi lầm giáo sư Vũ Anh bị bắt cóc. Vả chăng … không chừng má Phụng bị chính bọn chúng giết chết.

- Hoan hô Tiểu Phụng.

Có tiếng huýt sáo ngoài đường. Xạo tung tăng:

- Hình như bạn tao đó Dũng. Đi ra tao giới thiệu cho, thằng nhỏ ở nhà ông Đạt đó mà.

- Ừ thì đi.

Tiểu Phụng cúi đầu đi ra sân sau. Đất rộng, người thưa nên ở vùng cao nguyên mỗi nhà đều có sân, vườn mênh mông. Y-Shroc không biết nghĩ gì, nhìn theo Phụng gần khuất bóng vội vàng theo sau.

Y-Shroc thấy mắt hoa lên. Một bóng đen từ xó tối nhảy ra, chập chờn nhanh như ma không nhìn rõ kịp, chộp lấy Tiểu Phụng mang đi. Con bé dẫy dụa ú ớ không ra hơi. Có tiếng chim rừng rúc một hồi dài nghe rất lạ tai. Quen với cảnh sắc thiên nhiên lâu ngày, Y-Shroc biết ngay không phải tiếng chim. Mà là tiếng người nhái giả làm chim. Tên đang hành động vội rúc đáp lại.

Rất bình tĩnh, Y-Shroc nhảy tới ba bước, chộp lấy một cây gậy dài, đầu có móc dùng hái trái trong vườn nhà thằng Xạo, giáng luôn vào đầu kẻ địch. Hắn gục xuống, Tiểu Phụng ngã nằm dài trên mặt đất. Y-Shroc hét to:

- Dũng ơi! Xạo ơi! Lại đây mau.

Tên bị đập vùng lên gượng chạy. Dũng và Xạo vừa đến, Y-Shroc chỉ theo hướng bọn gian vừa chạy cho bạn đuổi theo nhưng không kịp. Xạo vừa thở vừa trách:

- Chúng nó có xe gắn máy … mà Y-Shroc sao mày không đuổi theo chúng?

- Bỏ Tiểu Phụng ở đây một mình à? Nếu chúng còn đồng đảng nữa phục ở lại thì chỉ việc ra tay lần nữa là xong.

Dũng khen:

- Hôm nay thằng Y-Shroc không những có sức mạnh mà còn có đầu óc.

- Ở với thằng Xạo lâu ngày, tao cũng phải khôn ra. Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.

Xạo lắc đầu le lưỡi:

- Thằng mọi này đối đáp ghê quá. Mày ở đây thêm tuần lễ nữa là trở thành sư phụ của tao.

Dũng đã đỡ Tiểu Phụng ngồi lên trên một rễ cây khá lớn. Con bé chỉ một phen hoảng sợ thôi chứ không sao cả. Dũng tính toán:

- Phụng này, bọn chúng đã biết Tiểu Phụng ở đây?

- Làm sao che được mắt thế gian. Hình như … chú Minh muốn cho Phụng xuất hiện úp mở gây bối rối cho bọn chúng. Dũng ạ. Vì thật tình tụi mình có thể giấu được những tên gian không quanh khu vực hạn chế của Xưởng Ráp Xe Toyota này? Dũng nghĩ lại xem.

Y-Shroc đang rủ Xạo kéo tay. Xạo biết nó mạnh, kéo không lại nhưng bị khích ức quá, nhận lời. Hai đứa nằm dài trên mặt đất, vẽ hai vòng tròn nhỏ trên cát ấn định giới hạn vị trí cùi chõ.

Một, hai, ba … Xạo đếm và nó kéo trước nhưng cánh tay Y-Shroc vẫn trơ như đúc bằng đá xanh. Nó sợ quá, dùng cả hai tay kéo trì với sức nặng của thân hình … ốm tong teo của nó. Dũng phản đối dùm Y-Shroc:

- Đâu có được. Thằng Xạo ăn gian.

Y-Shroc bình tĩnh:

- Chấp nó mà. Ăn thua gì. Chuẩn bị nghe Xạo. Bây giờ đến lượt tao.

Cả hai tay Xạo bẹp dí xuống đất. Y-Shroc đắc thắng, vẻ hí hửng của nó làm Dũng bật cười?

- Để hôm nào tao kéo tay cho mày thắng cười toát miệng nghe Y-Shroc. Thôi tụi mình làm ồn quá, ra rửa tay chân rồi đi ngủ.

Những ống luồng lớn dẫn nước cạn khô. Dũng rủ:

- Ra suối đi tụi bây.

Xạo ngại quá:

- Mày không nhớ đến ... tên gian phi ban nãy sao?

- Mày sợ hả? Đêm nào trước khi đi ngủ mình không ra suối rửa. Mang bình theo hứng nước uống nữa nghe.

Bốn đứa trẻ đi chậm chạp hướng về con suối. Gần bên bờ cát phẳng bỗng nước quẫy mạnh lạ lùng. Mặt nổi sóng lăn tăn với những đường rẽ ngang rẽ dọc. Y-Shroc nhìn kỹ rồi la lên:

- Đừng rửa chân tụi bây ơi! Có cá dữ!

Xạo trả thù:

- Mày học được thói xạo của tao rồi? Đâu cá dữ đâu?

Y-Shroc chỉ nhưng cả bọn không thấy gì ngoài những vệt nước quái gở kia.

- Cá lội chìm dưới nước. Ở sóc tao đã có lần một người bị … các rỉa hết thịt lòi xương ống chân trắng hếu. Tụi bây không tin … thử coi.

Chẳng có đứa nào dám thử. Trăng âm u soi mặt nước những con thoi bạc dài bằng ngó tay trẻ con, lấp lánh rất đẹp. Những đôi cánh dài, dịu nhĩu như cánh bướm sặc sỡ, vài cục u nhỏ và nổi lên trên lưng. Dũng trợn mắt:

- Thứ cá trong aquarium nhà ông Đạt đấy. Tao để ý biết ngay. Này Xạo, có phải con suối này từ xưa vẫn có loài cá này không?

- Đâu có. Tao ở đây lâu lắm, từ lúc xưởng ráp xe chưa thành lập, tao biết rõ lắm. Ông Đạt phải mua giống cá này từ bên Mã Lai về nuôi làm cảnh, chăm chút, hàng ngày bắt thằng bạn tao đào giun, hớt quăng nuôi chúng mà.

- Vậy là cá đó từ nhà ông Đạt ra đây. Nhưng chúng có công dụng gì?

Xạo quay sang hỏi Y-Shroc:

- Mày biết không?

- Không.

- Vậy bây giờ phải thử.

Một con chuột chù hôi hám lấp ló ở đầu hang. Y-Shroc nhanh như chớp chụp dính con vật thả xuống suối. Con chuột lội qua, đàn cá bướm bao quanh.

Chít, chít, chít … con chuột không ngớt kêu lên đau đớn rồi chìm luôn xuống dòng suối. Xạo, Y-Shroc bẻ cây đập xuống nước đuổi đàn cá đi rồi khều xác con chuột đưa vào bờ. Những con cá lì lợm này chỉ hơi lảng ra xa một chút rồi trở lại ngay. Mắt chúng đỏ au dữ tợn. Tiểu Phụng nhìn thấy rùng mình.

Xác con chuột đen kịt da thịt khi vạch phần lông thưa bên ngoài ra. Những cục u trên lưng con cá có kèm theo những ngòi chích nọc rất độc, có lẽ có khả năng làm chết một con người trong vài phút. Ai đã thả cá này ở khúc suối sau nhà thằng Xạo đây? Chỉ biết rằng những con cá ấy được nuôi trong bồn kính nhà ông Đạt.

Đêm hôm ấy cả bốn đứa trẻ cảm thấy khó ngủ. Thao thức nhiều nhất là Tiểu Phụng.

***



Một thằng bé con chừng 7, 8 tuổi tờ mờ sáng gõ cửa nhà ông Mạnh. Bà ra hỏi, nó bảo:

- Cháu muốn gặp anh Dũng.

Và nó rút túi lấy một hộp nhựa cứng, bọc giấy cẩn thận bên ngoài trao cho Dũng.

- Anh Dũng, quà của ông Minh đấy.

Dũng nhận ngay, vào nhà tìm chổ kín đáo mở ra xem: bò chậm chạp tức cười trong hộp là một con rệp màu xanh, hai hàng chân đỏ tím rất ngộ. Quan trọng hơn hết là một tờ giấy mỏng được gài trong lần giấy bao, nguệch ngoạc nét chữ Hoàng Minh:


“Dũng mến,

Chú dặn cháu cách sử dụng con rệp này. Con rệp thuộc loài đánh hơi thính đặc biệt, giống như loài rệp vẫn được Quân Đội Hoa Kỳ sử dụng trước đây trong những cuộc hành quân diệt địch. Nó có khả năng phát giác hơi của người quen, chú nhấn mạnh người quen, trong khoảng cách 50 thước tây. Chú đã tập cho nó ngửi hơi của mảnh tétoron bị rách, tang vật vụ bắt cóc giáo sư Vũ Anh. Đó không phải mảnh áo của giáo sư đâu, mà là của một tên gian phi đó. Khi nào thấy nó sục sạo, hai râu dựng đứng lên là con rệp đã khám phá được người “quen”, cháu nhớ lấy”

Thơ này chú gởi theo hệ thống riêng để bảo mật. Cháu chuyển lời chú hỏi thăm đến Y-Shroc, Tiểu Phụng và nhất là Xạo. Chú vẫn mạnh.

Chú.
Minh”


Một con cá lạ đêm hôm qua vẫn thản nhiên bơi lội trong bình nước suối bốn đưa trẻ đã đem về. Con cá vô cùng lộng lẫy nhưng cũng độc kinh hồn. Nếu không nhờ kinh nghiệm đường rừng của Y-Shroc có lẽ thế nào cũng có đứa bỏ mạng bên bờ suối. Nghĩ lại hú hồn.

Hôm nay là một ngày quan trọng. Hay đúng hơn đêm hôm nay là một đêm quan trọng. Dũng đánh thức Tiểu Phụng, Xạo và Y-Shroc cho đọc bức thư của chú Minh rồi châu đầu bàn tính.

- Bây giờ việc cần nhất là phải đo cho bằng được kích thước bánh xe của chiếc Toyota 2.600 cứu thương. Làm thế nào lọt được vào trong garage để xe mẫu bây giờ?

- Cứ đến hãng rồi liệu sau. Tiểu Phụng nói. Không chừng có yếu tố bất ngờ giúp ta thành công,

Nhưng chẳng có yếu tố bất ngờ nào cả. Garage của xưởng đóng kín cửa sắt lại, bên trong bật đèn sáng choang giữa ban ngày, có tiếng sơn xì phun ra dưới áp lực hơi ép. Bọn họ định giở trò gì đây mà, sơn xe lại? Xe mới tinh hảo, sáng láng như gương soi mặt mà.

Xạo lộn ra, định hỏi chuyện moi bí mật của garage chứa xe mẫu của xưởng với anh thợ thì bắt gặp cặp mắt gườm gườm dữ tợn vội rút lui. Dũng và Y-Shroc cũng nhận xét được rằng hình như anh ta đang canh gác cửa garage vì anh không làm gì cả, chỉ đốt thuốc hút hết điếu này tiếp nối điếu kia.

Tiểu Phụng lẳng lặng quan sát trong sân trống. Sân không đậu một xe hơi nào và cũng không có ngã rẽ ngang cho xe hơi khu xưởng bên kia vào đậu nữa. Chỉ có một đường đi thẳng từ đường vào garage. Và chiếc xe duy nhất đang đậu bên trong garage ấy là xe mẫu.

Đêm hôm qua không mưa nhưng sân sạch sáng bóng như chùi. Ai đã ra lệnh cọ sân đúng lúc, xóa tất cả những vết bánh của chiếc xe cứu thương? Điều này chứng tỏ bọn gian được huấn luyện kỹ lưỡng.

Nơi góc sân còn một khoảng cọ dối … lờ mờ dấu vết bánh xe rất lớn ngang chừng 30 cm. Phụng suýt chút nữa đã la lên mừng rỡ: bánh xe để lại những vết đơn, gai nhỏ không phải loại vận tải. Vậy là xe du lịch. Xe có bánh rộng khác thường, loại xe Toyota 2.600 tối tân mới sang đây … có một chiếc để làm mẫu, chiếc xe của bệnh viện Phúc Kiến chú Minh đã nói.

Phụng ngoắc tay vẫy ba bạn trai trơ ra đường phố, Nó cười rất tươi:

- Không cần phải xem tận mắt chiếc Toyota mẫu nữa, các bạn ạ. Vì khi xe de vào garage, đã để lại những vệt bánh ngang đúng 30 cm.

- Phải báo chú Minh ngay.

Và Dũng được lệnh của Minh:

- Tiếp tục theo dõi ông Đạt và những người khả nghi trong xưởng đến 2 giờ đêm nay.

Chương 9. Cuộc đi chơi với ông Đạt

Ông Đạt đến xưởng trước giờ làm việc. Thấy bốn đứa trẻ: Y-Shroc, Dũng, Luân và một đứa con gái lạ mặt nữa, ông tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Các cháu đến xưởng sớm thế? Sao không báo trước tôi biết, tôi lấy xe hơi ghé qua nhà chở các cháu đi luôn.

- Cám ơn ông Phó giám đốc. Chúng cháu không dám làm phiền ông nhiều quá.

Ông Đạt ân cần:

- Các cháu đứng đợi tôi chút xíu. Tôi vào văn phòng xem qua công việc.

- Xin ông cứ tự nhiên.

Dũng chờ đợi ông Đạt … bước vào trong garage nhưng không toại ý. Vì ông lại mở cửa văn phòng nghe điện thoại, lần này mắt ông nhìn đăm đăm ra cửa khiến Xạo không thể nào tiến tới gần mà nghe trộm được.

Một người đàn ông trạc ngũ tuần, mặc áo vest, cravate xám mở cửa xe hơi bước xuống. Ông ta có dáng người dong dỏng cao, bộ điệu từ tốn, dịu dàng dễ gây cảm tình hơn ông Đạt. Mắt ông luôn luôn nhìn thẳng, hướng lên tỏ rõ sự tự tin và lịch thiệp của mình.

Ông Đạt trở ra, giới thiệu:

- Thưa ông giám đốc, đây là bốn em nhỏ rất dễ thương: Y-Shroc, Dũng, Luân và …

Ông không biết, hay cố ý không biết, tên Tiểu Phụng. Con bé cúi đầu chào ông giám đốc:

- Thưa ông cháu là Tiểu Phụng.

Ông Giám đốc lơ là, đưa tay bắt từng đứa một. Y-Shroc nhận ra rằng tay ông run run. Tại sao thế? Câu hỏi ám ảnh hoài trong đầu óc thằng nhỏ.

Y-Shroc không có thói quen giữ kín một việc bí mật trong lòng lâu. Nó bảo ngay với Phụng một giọng trầm:

- Phụng này, tại sao tay ông giám đốc lại run?

- Tại Y-Shroc bắt mạnh quá chứ gì?

- Không phải. Đầu tiên ông ta bắt rất mạnh mẽ. Chợt ông ta nhìn qua Tiểu Phụng rồi tự nhiên run tay.

- Các cháu ở chơi vui nhé. Tôi phải vào làm việc ngay. Chào anh Đạt.

- Kính chào ông Giám đốc.

Ông ta bỏ đi không bắt tay Tiểu Phụng. Ông Đạt ra dáng mời tất cả lên xe hơi.

- Hôm nay tôi chở các cháu dạo mát buổi sáng một vòng. Nào, ta khởi hành.

Thằng Xạo đi đi lại lại ra vẻ khó nghĩ. Nó đi ra đến đường, bỗng gật đầu quay lại, hớn hở nói với ông Đạt:

- Cháu lúc đầu sợ đi xa không xin phép trước ba má khi về sẽ bị mắng. Nhưng bây giờ cháu đã nghĩ ra: ông Phó giám đốc sẽ xin dùm cháu nhé.

- Rất vui lòng.

Tiểu Phụng từ xa tiến lại nhập bọn. Nó có vẻ khó nghĩ. Dũng, Y-Shroc cũng chẳng hỏi han vì trong xe chật hẹp. Lúc ra đường vắng xuống dưới đèo dốc, ông Đạt luôn nhìn vào kính chiếu hậu.

- Tụi cháu được đi chơi đâu hả ông Phó giám đốc.

- Đi rất xa cho một bữa thỏa thích cho các cháu vui … Tôi … rất yêu trẻ.

Nhớ đến những con cá độc hại trong dòng suối đêm qua, Tiểu Phụng rùng mình. Ông ta yêu trẻ … bằng cách muốn cho chúng bay về Thiên Đàng. Chẳng ai ham. Chẳng hiểu tại sao thằng Xạo lại nhận lời đi chơi xe hơi với ông Đạt. Lỡ ông giở trò gì ở quãng đường vắng thì sao? Nó có điên không?

Dẫu sao. Tiểu Phụng biết chắc ông Đạt không phải là một trong hai tên đã liên lạc thường xuyên với nó trước kia. Nhưng ông Vương Giám đốc xưởng ráp xe thì chính là … kẻ đã bị mất một mảnh áo tétoron trong phòng khách nhà giáo sư Vũ Anh. Tiểu Phụng đi xa chỗ các bạn và ông Đạt nói chuyện lúc còn trong sân hãng, tiến đến gần ông Vương như vô tình và kín đáo đưa hộp rệp lên quan sát. Con rệp lồng lên, hai râu dựng đứng. Nó có vẻ cáu kỉnh. Bằng cớ quá hiển nhiên, con rệp bực mình vì gặp người “quen” có mùi hôi trong mảnh vải áo hành hạ nó trong hộp nhốt kín hàng bao nhiêu ngày trước đây.

Ông Đạt lái xe cực nhanh. Đường núi mà kim tốc độ lên 90 rồi 100 Km/giờ. Tiểu Phụng la lên:

- Ông Phó giám đốc cho xe chậm lại đi. Cháu sợ quá.

Ông nhấc bàn chân khỏi ga, xe chậm lại. Ông xin lỗi:

- Tôi mãi suy nghĩ không để ý đến tốc độ. Các cháu đừng sợ tôi lái xe bảo đảm mà.

Càng lúc xe càng xa thành phố. Một hai chiếc xe đò thưa thớt ngược chiều. Ông gợi chuyện:

- Tiểu Phụng, cháu … Tôi hơi tò mò quá, cháu người lai phải không?

- Thưa ông vâng. Ba cháu là người Việt, má cháu là người Thái.

Ông thốt một tràng thổ ngữ. Chỉ có Y-Shroc hiểu nhưng nó vờ không biết. Quen với sự hiểm nguy trong rừng từ lúc nhỏ Y-Shroc có thể kém mồm miệng nhưng có thừa lòng can đảm. Nó thản nhiên như không. Lần ông Đạt đe dọa trong gian phòng khách: “Thằng mọi con! Tao biết mày là ai rồi. Tao bóp mũi mày như nghóe” và lần này “Mấy đứa nhãi ghê thiệt! Dám xưng danh họ đương đầu với ta. Thái hay Việt gì chúng mày cũng sẽ chết”.

Điếc không sợ sấm. Không hiểu nên không sợ. May cho cả bọn thằng Xạo không biết thổ ngữ nên nó ngồi yên được, nếu nó hiểu thì cả lũ đã lòi đuôi. Ông Đạt tiếp tục câu chuyện, giọng đều đều buồn tẻ:

- Tôi thích nuôi súc vật làm cảnh lắm, nhất là cá kiểng. Các cháu có để ý bồn kính cá bướm nhà tôi không?

Á, ông ướm dò đây mà, Xạo nhanh miệng:

- Nghe ông nhắc cháu mới nhớ: những con cá ấy đẹp lắm. Nuôi có tốn kém lắm không ông?

Ông chưa kịp trả lời thì Tiểu Phụng nhặt từ dưới sàn xe một vật vàng ánh đưa trả ông:

- Thưa, của ông Phó giám đốc làm rớt?

Đó là một con bướm, không phải, một con cá bướm chạm trổ tinh vi bằng vàng tây đắt tiền. Loại cá của ông Đạt nuôi trong bồn kính. Ông nhìn qua, gượng cười:

- Của tôi đấy.

Tiểu Phụng săm soi, thích thú như đứa trẻ chơi với con búp bê. Một hàng chữ Thái Lan li ti bên góc đuôi cá. Ông Đạt nhìn con bé với cặp mắt nghi ngờ. Nó nhanh trí khôn trao trả con cá vàng cho ông:

- Thưa ông có những dấu gì nhỏ quá cháu không nhìn rõ.

- Cháu có biết chữ Thái Lan không?

- Thưa không. Cháu được má cháu cho đi học hồi ở bên ấy nhưng lười quá, trốn học hoài nên bây giờ “năm nay quên hết nên chưa biết gì”.

Mấy đứa trẻ phá lên cười nhạo Tiểu Phụng:

- Ông Đạt không biết, Phụng lớn thế mà học lớp ba đấy. Phụng … học dốt không tả được.

Y-Shroc thêm:

- Ngay Y-Shroc học còn giỏi hơn.

Ông Đạt thương hại:

- Con gái đâu cần học giỏi, phải không cháu Phụng.

Mấy lần ông định làm điều chi rồi lại ngừng. Luân nhìn đồng hồ tay thấy 11 giờ rồi nên bảo ông:

- Chúng cháu muốn về, ông Phó giám đốc.

Ông Đạt như sực tỉnh, gật đầu dễ dãi:

- Ờ thì về.

Lần thứ ba, ông nói thổ ngữ. Y-Shroc nghe được nhiều tiếng … chửi thề bực dọc, rủa ông Vương bắt ông phải làm điều nguy hiểm. Y-Shroc hoang mang: Điều nguy hiểm ấy là gì? Hay ông Đạt được lệnh giết cả bốn đứa trẻ sau khi ám hại bằng cá độc không thành.

Bỗng ông Đạt cương quyết móc trong túi áo một hộp thuốc viên màu hồng, lấy một viên bỏ miệng. Ông vừa giải thích vừa đưa tay bấm vào một nút nhỏ trong xe hơi:

- Tôi bị bệnh suyễn và mỗi khi đi xa phải uống thuốc chặn trước thì lái xe mới …

Y-Shroc, Tiểu Phụng và Dũng, Luân không còn nghe rõ những lời sau nữa. Tự nhiên chúng nó buồn ngủ một cách lạ lùng. Bốn đứa trẻ gục xuống ghế ngồi, ông Đạt mỉm cười vừa chua chát vừa hài lòng:

- Con người như ta phải khó khăn vất vả mới hạ được tụi nhỏ? Mà tại sao ta cứ được lệnh phải chính tay giết tụi nó? Thằng Vương giỏi thì sao nó không làm?

Ông quẹo vào một con đường nhỏ dẫn đến một thác nước khá cao gần biên giới. Từ đây, ông chỉ việc bồng từng đứa nhỏ thảy xuống thác là xong. Chiếc Toyota chạy chậm dần rồi dừng lại. Thác nước sừng sững trước mặt.

Tiếng còi hụ vang lên rất gấp đàng sau. Một xe jeep của cảnh sát công lộ xịch đến, hai nhân viên đeo súng tiến lại gần:

- Xin ông cho biết lý do tại sao dừng xe tại vùng cấm? Ông không biết là nơi đây cấm du khách vì đá trơn nguy hiểm lắm sao?

Ông Đạt bình tĩnh:

- Tôi xin chịu phạt vì … không biết luật lệ cấm ở đây. Tôi và các cháu nhỏ định picnic một buổi ai ngờ các cháu bị đau … tôi tính về thì xe hư …

- Con của ông?

- Không, con một người bạn hàng xóm nhưng tôi thương các cháu như con ruột.

Viên chỉ huy xe jeep sốt sắng:

- Chúng tôi thông cảm, không phạt ông đâu. Để … chúng tôi đưa giúp các cháu về nhà? Số mấy? Đường gì? À … được rồi còn ông có cần chúng tôi sửa giúp xe hơi không?

Ông Đạt vội đáp:

- Cám ơn các ông, tôi có thể tự sửa lấy được.

Khi chiếc xe jeep chở Dũng, Tiểu Phụng, Y-Shroc, và Luân vừa đi khuất là xe Toyota của ông Đạt cũng trở về xưởng.

Chương 10. Buổi câu cá đêm của ông Đạt & ông Vương

Cơm nước xong, ông Đạt đánh xe Toyota sang nhà ông giám đốc rủ đi câu cá. Hai ông lớn nhất xưởng đã làm lành với nhau từ chiều. Các nhân viên giúp việc mừng rỡ vì họ sẽ được hưởng một bầu không khí nhẹ nhàng thoải mái hơn trong những ngày làm việc sắp tới.

Khi bốn đứa trẻ được cứu tỉnh dậy, Xạo đã rú lên biểu lộ vui mừng vì còn sống:

- Các anh đến kịp lúc quá. Tụi em đã ngờ đến hành động lão Đạt nhưng không chống đỡ kịp.

Vị chỉ huy sung sướng:

- Các anh theo dõi, bám sát xe hắn từ lúc rời khỏi xưởng thế mà thằng cha cũng còn chối được. Các anh có thể bắt nó ngay lúc đó nhưng không cần, để 2 giờ đêm nay tóm trọn ổ.

Tiểu Phụng loan báo:

- Những chữ Thái Lan trên con cá bướm chỉ nơi hẹn đêm nay của chúng: Suối Kinh, nơi giáp ranh với biên giới Lào. Các anh có biết Suối Kinh không?

- Biết chứ. Chúng đừng hòng thoát khỏi lưới an ninh kỳ này. Chúng khôn lắm khi chọn Suối Kinh sát biên giới, nhưng ta sẽ phối hợp với Cảnh sát Quốc Gia bạn để hành động. Cám ơn em Tiểu Phụng.

- Anh đừng khen, em xấu hổ lắm. Em chỉ mong các anh tìm lại được giáo sư Vũ Anh thôi.

- Em không đáng trách và theo tin riêng của bọn anh… chính bên trong thùng gỗ hai em Dũng và Luân đã trông thấy là giáo sư Vũ Anh.

- Chúng nhốt chú Vũ Anh để làm gì? Dũng nóng nảy.

- Anh không biết nhưng chắc chắn là ông vẫn còn sống, sống để sẽ tiếp tục phát minh cho thế giới được hạnh phúc no ấm.

Vợ con ông Đạt và ông Vương đã rời khỏi nhà trên một xe Toyota Microbus 15 phút trước hai ông chồng. Ông Vương dặn tài xế lái đi đâu không rõ rồi chính tay ông cầm lái, lên xe đưa ông Đạt và những dụng cụ đi câu hướng thẳng về vùng hoang vu. Có một người thợ ngã nón chào, hai ông lớn vui vẻ đáp lời:

- Chúng tôi đi câu cá gần đây thôi. Phải đêm cá mới lên.

Ai nghe câu này cũng thắc mắc: câu cá ban đêm? Mới nghe nói đến lần đầu trong đời. Giới ngư phủ thì không lạ những loài cá ăn đêm nên ông Mạnh bảo vợ:

- Hồi còn ngoài Nha Trang theo mành tôi biết. Cá ăn đêm rất nhiều. Nhưng… câu cá thể thao mà chịu khó đi đêm hôm thì có lẽ ở Việt Nam chỉ có hai ông này.

Phụng mua biếu hai ông bà rất nhiều vải vóc, đồ ăn hồi chiều nên hai ông bà vui lòng cho Luân đi theo ba bạn ngay. Chúng nói là vào tận sóc xa thăm một người bạn cùng lớp ở đây với Luân, mai về. Không thể nói là đến suối Kinh vây bắt bọn gian vì lý do bảo mật.

Y-Shroc mang theo cả con sóc xám. Những nhân viên an ninh bố trí chặt chẽ nhưng vô cùng tự nhiên ở quanh khu vực suối từ trưa. Mặt trời xuống thấp rồi lặn mất sau đỉnh núi xa. Bóng tối bắt đầu phủ chụp toàn thể núi rừng. Dòng suối vẫn lách tách theo một điệu nhạc riêng của nó.

Thời gian từ từ trôi. Màng lưới cũng từ từ khép lại. Ông Cò đã gởi từ Sở Cảnh sát Trung ương một số ống nhòm hồng ngoại tuyến nhìn được trong đêm tăng cường phương tiện cho cơ quan địa phương. Họ có thể nhìn thấy bọn gian mà chúng sẽ không thấy họ. Một kẻ sáng và một người mù trong bóng tối.

Chiếc Toyota đến suối Kinh lúc 9 giờ tối. Hai ông Vương và Đạt, xuống xe, mở “cốp” lấy dụng cụ cắm lều, đun nước và sửa soạn cần câu máy thả vào lòng suối. Một bếp lửa đơn sơ dựng gần lều, mỗi khi có cá họ nướng nhậu ngay.

Hình như cả hai không dùng rượu mạnh. Bia mang theo được uống cầm chừng. Có tiếng ông Đạt ngáp:

- Tôi ngủ trước, anh Vương nhé. 12 giờ anh gọi tôi dậy và đến phiên anh ngủ.

- Yên chí.

Ông Vương lấy khẩu súng săn, kéo quy lát lên đạn vào nòng rồi ngồi im lặng trước cửa lều. Ông cũng rút túi lấy một ống nhòm nhỏ xíu đưa lên mắt quan sát chung quanh. Viên chỉ huy giật mình:

- Bọn chúng cũng có ống nhòm hồng ngoại tuyến. Nguy hiểm quá.

Lập tức các nhân viên bố trí được lệnh cẩn thận và kín đáo siết chặt thêm vòng vây. Muỗi bay vo ve châm chích nhức nhối. Tiểu Phụng lấy bình thuốc chống côn trùng bôi lên mặt mũi chân tay, và truyền đi cho mọi người xài.

- Con gái có khác. Tiểu Phụng chu đáo quá. Dũng khen.

Phụng trả lời:

- Dũng nhát muỗi thì có, các anh cảnh sát đến đây trước mình mà có bận tâm vì muỗi đâu. Các anh ấy chịu đựng quen rồi.

- Y-Shroc cũng không cần dùng thuốc. Muỗi gặp Y-Shroc sẽ bay lảng tránh mà.

Không để ý những lời ngạo mạn của Xạo, Y-Shroc lẳng lặng đưa tay với lấy bình thuốc, miệng nói cụt ngủn:

- Có thuốc vẫn hơn.

Đúng nữa đêm bầu trời lấm tấm sao mờ và thưa. Gió đêm lành lạnh. Tiểu Phụng cảm thấy buồn ngủ, mơ hồ cảm giác đang nằm trong lòng mẹ và… không có mặt cha. Ông Vương vào trong lều, lay gọi bạn rồi ông Đạt gà gật bước ra cửa tiếp lấy khẩu súng. Ông ta không được tận tâm như ông Vương, chẳng thèm động đến ống nhòm làm mọi người mừng muốn chết.

1 giờ…1 giờ 30… rồi 2 giờ thiếu 10. Ông Vương được giục dậy luôn, cả hai thu lều, cuốn cần câu xếp gọn vào thùng xe Toyota. Họ sẵn sàng rời bỏ nơi này. Các nhân viên an ninh báo động theo lúc nghe từ xa, tiếng máy xe hơi nổ dòn, hai đèn “code” từ từ tiến gần, chớp tắt 2 lần.

Xe Toyota cũng mở đèn “code” chớp tắt đáp lễ bốn lần. Máy xe rồ lớn, từ xa mới đến nhảy xuống 6 người lực lưỡng, hai tên trong bọn khiêng một thùng cây dài và nặng: chiếc thùng Dũng và Xạo đã trông thấy hôm qua.

Những đèn rọi bố trí bí mật khắp nơi bỗng đồng loạt bật sáng làm chói mắt những kẻ gian. Còi cảnh sát lanh lảnh huýt vang rất xa trong đêm trường tịch mịch vùng suối hoang vu. Súng trường và súng lục nhất loạt lên cò lắc rắc kèm tiếng hô dõng dạc:

- Giơ tay lên tất cả. Các anh bị bao vây rồi… Kháng cự là chết.

Tám cặp còng sáng loáng khóa lại trong một giây đồng hồ kết liễu cuộc đời ngang dọc của những tay chọc trời khuấy nước. Con sóc làm việc ngay nhưng không đem kết quả: Người ta không xác định được tên thứ hai đột nhập vào biệt thự Lúa Vàng cùng với ông Vương bắt cóc giáo sư Vũ Anh. Thế nghĩa là có ít nhất một tên đã thoát khỏi màng lưới cảnh sát lần này.

Một cách vội vã, chiếc thùng gỗ bị cậy ra bằng xà beng: Giáo sư Vũ Anh nằm bất động như chết giữa một đống chai lọ đựng thuốc bỏ ngổn ngang. Tất cả sách vở, tài liệu của giáo sư mất đi được lót dưới đáy thùng. Và Tiểu Phụng còn bới lấy lên được một chai thuốc nhỏ xíu rất lạ:

- Sở Phân chất sẽ cho biết kết quả về dược chất này. À, sẵn có xe “Hồng thập tự” đây để chở giáo sư về tỉnh ngay.

Chiếc xe mới đến chính là cái Toyota 2.600 cứu thương tối tân, bánh dầy 30cm, cái xe mẫu cho xưởng ráp. Ông Vương cười buồn:

- Chúng tôi thay xe dọc đường nên cái Toyota đến đây.

- Chiếc xe kia là Traction đen số EK 10009 phải không?

- Tôi…tôi không còn gì nói thêm nữa.

Những chiếc xe jeep và 2 Toyota lầm lủi rời Suối Kinh trong đêm tối.
[/FONT]
Chương 11. Tiểu Phụng mất tích

Tại trụ sở cảnh sát Kontum, vị chỉ huy đang bực mình vì để xẩy mất con cá lớn. Chính tên thứ hai kia mới là một kẻ chỉ huy rất quan trọng điều hành và kiểm soát tất cả công tác của bọn gian. Con sóc xám sợ hãi nép mình thu gọn vào một góc bàn đang rung chuyển từng cơn theo nhịp đập tay liên tiếp của vị chỉ huy xuống mặt gỗ.
Y-Shroc tiến đến, bồng lấy sóc lui ra. Nó vuốt ve, an ủi sóc mãi:

- Đừng sợ. Y-Shroc sẽ bảo vệ cho sóc.

Dũng và Xạo lại gần bạn, ba đứa trẻ quây quần trò chuyện. Tuổi trẻ vô tư chỉ trong chốc lát chúng đã quên mất nỗi bực mình lây với vị chỉ huy lúc nãy. Câu chuyện nở như bắp rang. Xạo chép miệng:

- Tao buồn ngủ quá rồi. Chúng mày có đồng ý với tao không?

- Tao thấy…thèm ăn lạc rang thôi. Tự nhiên sao cảm thấy mồm miệng lạt như nước ốc.

Y-Shroc phê bình Dũng và Xạo:

- Tụi bây một thằng tham ngủ, một thằng tham ăn vặt như con gái.

Chữ “con gái” vừa thốt ra khỏi miệng Y-Shroc là Dũng nhảy nhổm lên, hoảng hốt.

- Mày có gặp Tiểu Phụng không?

- Sao mày hỏi tao? Tao không gặp Phụng lúc trở về thành phố, cứ tưởng con bé đi chung với mày.

Xạo xen vào:

- Tao gặp Phụng…

- Nói nhanh lên, tụi tao sốt ruột lắm.

- Phụng bảo tao là nó thích đi chung một xe với anh chỉ huy cảnh sát để hỏi tin tức chú Minh.

Vị chỉ huy vừa đi ra khỏi văn phòng làm việc. Dũng rượt theo, hỏi vài tiếng ngắn ngủi và… đón nhận ở ông ta một cái lắc đầu. Cả hai lập tức rối rít điện thoại khắp trụ sở và đến khu nhà thợ thuyền xem Tiểu Phụng có về đi ngủ trước hay chăng? Nhưng con bé vẫn mất hút như bóng chim trời.

Y-Shroc năn nỉ:

- Anh cho xe chở tụi em lại suối Kinh. Em đoán chắc Tiểu Phụng không lên xe về kịp hay bị lạc lối…

- Có lý nào? Trước khi rời suối Kinh anh đã ra lệnh huýt còi tập họp rồi mà.

Phải! Vị chỉ huy đã ra lệnh tập họp nhưng lệnh hoàn toàn vô hiệu đối với kẻ…cố ý không biết đến việc trở về thành phố.

Tiểu Phụng một lần nữa đã cất bước ra đi trên đường phiêu bạt. Lần trước nó đi cùng với cha, bây giờ một mình một bóng. Con bé có một lòng can đảm phi thường nó muốn vượt biên giới trở về quê mẹ và…thăm mộ mẹ.

Bóng tối âm u của vùng rừng núi biên giới luôn luôn giam giữ Tiểu Phụng dày đặc với sương mù lạnh giá. Con bé có nhìn những tinh tú mờ nhạt trên trời tìm phương hướng sang Lào… Bước đầu không khó lắm nhưng những bước tiếp theo dường như quanh quẩn, lắm lúc Phụng có cảm tưởng nó trở về đúng chốn cũ, suối Kinh nơi bọn gian đền tội.

Tiểu Phụng cố gắng lết đi. Hai chân mỏi rời rã, bước như bước chân ai. Thể xác cực nhọc song tinh thần con bé hoàn toàn thơ thới, bay bổng lên chín từng mây. Nó đã trả được món nợ nghĩa ân của giáo sư Vũ Anh, trút bỏ mặc cảm phạm tội và có thể an lòng tìm về với mẹ. Nó không quan tâm đến việc mẹ nó còn sống hay đã chết, vì một người mẹ đang ở thế giới bên này hoặc bên kia vẫn là một người mẹ.

Tiểu Phụng không đi được nữa. Nó mệt nhọc vì phí sức quá độ, gục xuống bên một góc đại thụ khổng lồ, nhắm mắt lướt vào một giấc ngủ êm đềm nhiều mộng đẹp.



***


Cuộc lục soát vùng suối Kinh không đem lại ánh sáng nào về Tiểu Phụng. Có lẽ bị bắt cóc sang Lào.Vị chỉ huy đoán thế vì ông cùng ba bạn trẻ không ngờ Tiểu Phụng dám vượt biên giới tìm về Thái Lan.

Xạo đã “ vẽ rồng vẽ rắn” quanh vấn đề nóng bỏng:

- Tên gian phi thoát khỏi lưới chúng ta quả thật là lợi hại. Em cá mười ăn một với anh là chính hắn đã thừa cơ ra tay bắt cóc Tiểu Phụng mong thực hiện với chúng ta một sự trao đổi để giải thoát cho đồng bọn.

- Bắt cóc Tiểu Phụng bằng cách nào? Anh không tưởng tượng ra nổi sự việc diễn tiến âm thầm trong bóng tối đêm qua ra sao. Nhưng… anh có lỗi rất nặng là không…điểm danh từng người trước khi ra về.

Vị chỉ huy không tưởng tượng được nhưng với Xạo thì trái lại. Lần này nó không cố ý nói xạo gạt gẫm thiên hạ cho một trận cười thỏa thích, chính nó cũng thương Tiểu Phụng lắm, nhưng có lẽ vì bẩm sinh óc tưởng tượng của Xạo quá phong phú rất dễ dàng… đưa đến những giả thiết hoang đường.

Y-Shroc và Dũng không muốn tin Xạo nhưng sau cùng bắt buộc phải tin bạn phần nào, vì không có cách giải thích nào khác về sự mất tích bí mật của Tiểu Phụng. Vị chỉ huy chưa bị lung lạc hẳn nhưng dần dần mất niềm tin:

- Rất có thể Xạo nói đúng. Tiểu Phụng bị bắt cóc. Nếu trường hợp này xảy ra, tên gian phi ắt phải vượt biên giới sang Lào, tìm chổ giấu Tiểu Phụng thật kín đáo rồi sẽ thông tin cho chúng ta đề nghị trao đổi. Chúng ta hãy chờ xem.

Nhưng giây phút chờ đợi kéo dài nhất trong đời. Hết đứng lại ngồi. Hết ngồi lại đứng mà kim đồng hồ hình như vẫn không nhúc nhích. Trời dần ngã về chiều, vầng kim ô khuất nửa sau rặng núi xa xa. Vị chỉ huy ái ngại nhìn ba đứa trẻ:

- Các em có đói không? Đi ăn cơm với anh cho vui.

Miệng nói vui mà cả bốn người đều cười gượng. Ba đứa còn ngần ngừ thì ông tiếp:

- Một bữa cơm ngon sẽ giúp thời gian qua nhanh hơn, các em ạ.

Mười phút sau bốn người ngồi ở một tiệm ăn Tàu sang trọng. Y-Shroc bồng sóc theo, hỏi “người anh” cảnh sát:

- Con sóc ăn chung với ta nhé?

Ông đùa cho không khí bớt căng thẳng:

- Sóc này, sóc có thưởng thức cơm tàu không?

Một người đàn ông thường phục bổng từ ngoài quán tạt vào đi thẳng đến bàn của vị chỉ huy làm câu chuyện ngắt ngang. Ông đưa tai sát miệng người lạ nghe hắn nói. Tay ông nhận mảnh giấy nhỏ xíu, nguệch ngoạc vài nét bút chì xám liếc sơ qua rồi bỏ vào túi. Một bất ngờ vô cùng xảy đến, con sóc dể thương nhảy lên lòng kẻ lạ, liếm áo hắn và ôm cứng lấy hắn một cách thân mật. Ba đưa trẻ há hốc mồm chưa kịp phản ứng thì hắn ta thụt lùi một bước, hai bước và…toan chạy trốn ra cửa. Vị chỉ huy móc súng lục, bắn chỉ thiên “đoàng” một tiếng khô khan.

Hắn tiếp tục chạy như bay. Nhưng một phát đạn ghim vào bắp đùi làm hắn ngã sấp xuống đất, tứ chi quờ quạng dẫy dụa như người điên:

- Con sóc ! Con sóc quỉ quái ! Con sóc…

- Đừng nhiều lời. Tôi đã biết tất cả…Anh Phu quả tình tôi không ngờ..

Các cảnh sát viên đổ sô đến tiếp tay với viên chỉ huy đưa hắn lên băng ca chở vào bệnh viện Cảnh sát. Y-Shroc cứ ngẩn tò te làm Dũng phải giải thích:

- Có gì đâu ? Con sóc của Y-Shroc mà Y-Shroc không biết tính nó sao? Các nhân viên cảnh sát ở đây đều…không có cái hân hạnh được nó liếm vì họ mới gặp nó lần đầu. Ta cũng chưa gặp mặt tên Phu kia bao giờ, con sóc lại…nhận ra hắn là người quen thế thì…

Y-Shroc buồn bã:

- Tên cuối cùng trong tổ chức gian manh đã bị bắt nhưng có chắc ta tìm lại được Tiểu Phụng không?

- Sao tao linh cảm thấy điều không hay, Dũng à.

Xạo cuối mặt thở dài.


***

Mặc dầu bị thẩm vấn rất gắt, Phu một mực khai là không hề bắt cóc Tiểu Phụng vì hắn đang bị thương nên chưa thể diễn hành cuộc điều tra một cách tích cực được. Hắn ta cũng là một con người và giữa con người với con người còn có tình nhân loại. Hắn đã hai ba lần kể công:

- Tôi mới lầm lỡ một lần xin các anh tha cho. Tôi cũng đã từng công tác rất thiện chí với cơ quan cảnh sát…

- Phải, anh là mật báo viên của cảnh sát. Nhưng anh đi hàng hai và công là công, tội là tội. Trường hợp của anh sẽ được tòa an xét xử phân minh, anh đừng lo.

Bộ tham mưu cửa sở cảnh sát Kontum lại họp tại văn phòng rất khẩn cấp để tìm cho ra Tiểu Phụng. Và sau cùng một lệnh hành quân tại vùng suối Kinh được ban ra lần thứ hai.


***

Tiểu Phụng choàng mắt ngồi dậy trước ánh sáng mặt trời. Ngày đã lên từ lâu, bóng đêm biến mất theo những vì sao sáng trên trời. Vài đám mây xanh và trắng theo gió trôi nhẹ nhàng biến hóa rất nhanh ra những hình ảnh đẹp mắt, chói lọi như tỏa ánh hào quang. Tiểu Phụng hơi thẹn nhìn áo quần nhàu nát. Đêm hôm qua nó đã ngủ mê mệt đến thế kia ư?

Đường ta, ta cứ đi. Phụng lại cất bước nhưng không hăng hái lắm vì…bụng đói cồn cào. Nó chưa ăn sáng và đêm qua đã phí sức nhiều. Rừng nhiều cây cỏ thực nhưng nào phải thứ để ăn. Rừng Thái Lan có lẽ dể kiếm củ và trái lót bụng hơn rừng này. Tiểu Phụng thân mật, yêu dấu cả đến rừng rú bên quê mẹ vì yêu lòng mẹ, yêu người yêu cả đường đi.

Một ổ chim rừng bằng rơm rạ, cành cây nhỏ chênh vênh nơi cháng ba đàng kia. Tiểu Phụng tiến lại gần thấy chim mẹ mớm cho con những con sâu nhỏ xíu trắng mập màu sữa. Lũ chim con cứ hả miệng kêu chíp chíp…chờ ăn. Mồi sâu đã hết.Chim mẹ bay đi như mũi tên trong gió mạnh tìm thức ăn cho đàn con.

Tiểu Phụng vuốt ve từng con chim non một. Chúng trụi lũi, lông lá mới mọc lởm chởm. Chúng chưa biết lạ, được vuốt ve luôn miệng kêu ríu rít những âm thanh vui vẻ thì thầm trong cổ họng. Chúng đang vui cái vui của tuổi dại được âu yếm và che chở trong đôi cánh của mẹ…Tiểu Phụng lại ứa nước mắt tủi thân.

Trời nắng gắt, Phụng thấy hai bàn chân rát và sưng lên, mọng nước mà không dám nghỉ ngơi. Vì nó sợ dừng lại sẽ không có can đảm đi tiếp thêm nữa. Và cũng lạc lối quay về mất rồi. Chi bằng cứ gắng đi đến đâu hay đến đó. Mẹ…mẹ sẽ phò hộ cho Phụng tìm về được đến quê hương xa xôi của mẹ.

Một chùm trái đỏ ối, bóng láng ngon lành trên cành cao một cây khá lớn. Phụng chẳng biết là trái gì song nó biết chắc là không độc. Mẹ Phụng ngày xưa dã dạy cho con gái phân biệt những trái ăn được và trái độc trong rừng theo kinh nghiệm truyền lại từ lâu đời nên khá chính xác. Phụng hái xuống ăn ngon lành. Ăn hết chùm này đến chùm kia cho đến khi no.

Trái cây ăn đói dễ xót ruột. Phụng phải tìm nước suối uống một bụng rồi…ngồi nghỉ. Nó thiếp đi lúc nào không biết.

- Má, má…

Phụng kêu “má” rất lớn rồi tỉnh giấc. Nó bàng hoàng tiếc những phút giây hạnh phúc trong mộng. Trời chiều. Phụng đứng lên mà miệng vẫn gọi:

- Má, Phụng đây nè má.

Phụng chợt nhận ra điều vô lý của chính mình, mỉm cười vu vơ. Tại sao mình cất tiếng gọi “má” mà lại có trong ý nghĩ danh từ “mẹ” ? Đành rằng “má” hay “mẹ” chỉ là một người đàn bà thân yêu sinh thành ra mình nhưng… tại sao lại thế? Một phút sau, Phụng tìm ra lý do “mẹ” là tiếng gọi của ba, còn “ má” là tiếng nói của chú Minh. Phụng sống với ba lâu ngày nên chữ “mẹ” ăn sâu vào tâm trí, còn Phụng mến chú Minh nên “nhiễm” cách nói chuyện của chú từ bao giờ không hay.

Một dãy nhà lụp xụp cao cẳng của dân thiểu số hiện ra trước mắt. Phụng quyết định xin chủ nhân cho ngủ nhờ một đêm. Nó ngán ngủ ngoài rừng lạ lắm rồi. Lỡ bị cảm vì sương gió đêm hôm làm sao tiếp tục đi được sang Thái Lan?

Phụng nói tiếng Việt Nam. Bà già mọi không hiểu. Nó nói tiếng Thái Lan bà ta cũng lắc đầu. May và vừa lúc đó, một người dàn ông lực lưỡng đi vào nhà sau buổi làm việc mệt nhọc, mồ hôi thấm ướt đẫm lưng trần. Anh ta hiểu tiếng Thái Lan và bằng lòng cho Phụng ở lại.

Phụng cám ơn và muốn tặng cho chủ nhân một vật kỷ niệm nhưng… nó lại không còn gì cả ngoài bộ quần áo đang mặc trên người. Nó lại được mời ăn buổi tối. Cơm lam với gà luộc thật ngon. Phụng ăn rất “thực thà” để mai còn lấy sức băng rừng lướt bụi trên con đường thiên lý.

Phụng ngủ dưới sàn nhà. Đám khói mỏng từ đống trấu ủ bốc lên xua đuổi muỗi tạo một bầu không khí ngột ngạt nhưng ấm áp dể chịu. Phụng có cảm tưởng như mình đang sống chung với mẹ trong đêm dài ở quê hương xa vời.

Phụng tỉnh dậy vì tiếng người nói thì thào. Họ cố gắng hạ thấp giọng…để khỏi làm mất giấc ngủ của khách chăng? Dường như không phải. Vì có tiếng một người lạ đang xúi bảo anh mọi ban chiều bằng thiếng Thái:

- Anh vặn họng con bé cho tôi. Chúng ta bị tụi Thái áp bức ăn hiếp quá nhiều rồi, bây giờ là lúc ta trả thù. Con bé đó là người Thái Lan mà, anh không thấy nó nói tiếng Thái rành như người Thái sao?

- …Có lẽ anh nói đúng.

Phụng hoảng hồn, choàng dậy, đứng nép vào bên cửa. Hai người đàn ông ùa vào, họ không mang theo đuốc chi cả vì tin chắc sẽ tóm Phụng một cách dễ dàng. Nhưng Phụng khôn ngoan chờ họ vừa bước lọt vào trong căn nhà tối là luồn mình ra khỏi cửa, xuống thang rất nhanh lẩn vào rừng như bóng ma. Ba phút sau, có tiếng chân người thình thịch phía sau. Hai gã mê muội kia đã phát giác hướng đi của Phụng và đang rượt theo.

Phụng không còn hồn vía nào nữa. Hai người bây giờ đang cầm hai cây đuốc lung linh ánh sáng xông thẳng vào rừng sâu. Phụng nhanh nhẹn như con thỏ, nhờ thân hình thấp bé, ẩn sau những thân cây cố gắng tìm về cõi sống. Hai gã mọi không đuổi kịp Phụng nhưng con bé không tài nào bỏ rơi chúng lạc hướng được và chúng lần dấu rất giỏi.

Trời sáng rõ từ lâu. Cuộc “cút bắt” hào hứng nhưng bi thảm này vẫn tiếp diễn. Hai người rượt theo không cần đến đuốc nữa. Họ phóng chạy hết sức để tóm Phụng bằng được. Con bé thở hồng hộc. Từ giờ nếu không nhờ vào một lòng tin tuyệt đối vào sự phù hộ của mẹ và một ý chí phấn đấu phi thường, nó đã bỏ cuộc buông xuôi. Nhưng giờ đây nó không chạy được nữa. Phụng gần ngất đi. Tròng ánh mắt hoa lên, nó nhìn thấy con suối Kinh với những nhân viên cảnh sát và ba đứa bạn trẻ đang chờ đón nó. Họ vừa bước xuống xe Jeep.

Một hồi còi cảnh sát hú lên điếc tai. Hai gã mọi lẩn nhanh trở vào rừng.

Chương 12. Hết

Hoàng Minh đã khá nhiều, chàng có thể đi lấy từng bước một mình chung quanh phòng bệnh viện. Sáng nay, ông Cò hiện ra ở cửa rất sớm thăm hỏi:
- Anh Minh khỏe chưa ? Tôi dạo này bận quá…

- Tôi không trách ông Cò đâu… giáo sư Vũ Anh cũng thường lui tới thăm hỏi nên tôi không buồn lắm. Còn về phần dược liệu lạ lùng của bọn gian thì kết quả phân chất ra sao ?

Ông Cò nhún vai:

- Một thứ thuốc sai khiến rất mạnh, tiêu diệt hoàn toàn ý thức và ý chí con người tức khắc để chịu sự sai khiến của người khác, giáo sư Vũ Anh hôm ấy đã lãnh tiền trong trạng thái vô thức dù bề ngoài ông ấy rất tỉnh táo.

- Tội nghiệp bạn tôi quá… anh ấy có mất tiền không ?

- May mắn là không…và tôi chỉ tội nghiệp cho anh Minh, vì bạn mà nằm luôn mấy tháng trời…

Minh cũng đùa lại:

- May cho tôi là có hãng bảo hiểm trả tiền nhà thương…

Cửa phòng bật mở, giáo sư Vũ Anh bước vào, tay giắt theo Tiểu Phụng và một người đàn ông lạ, đon đả giới thiệu với Hoàng Minh.

- Anh Minh, anh Nguyễn Viễn Đăng, bạn thân của tôi.

Tiểu Phụng nhăn mặt không nói cười với Minh như thường lệ.

Chàng hỏi:

- Phụng nhức đầu hả ? Để chú lấy thuốc cho uống chứ đừng nhăn nhé.

- Không, cháu không nhức đầu.

Minh thừa biết con bé giận cha. Chàng phớt lờ, hỏi chuyện ông Đăng:

- Ông ở Thái Lan lâu lắm hả ? Tôi có nghe nói ông buôn bán ngày càng phát đạt, tha hồ cả sông đông chợ lắm vợ nhiều con.

Giáo sư Vũ Anh vội nói đưa đi:

- Anh Minh bạn tôi tính nết trẻ trung hay đùa cợt lắm. Anh Đăng muốn nói gì với anh Minh cứ thẳng thắn thật tình nhé. Tôi sẽ giúp anh nữa mà.

Minh nháy mắt với bạn:

- Anh Vũ Anh đưa Tiểu Phụng đi xi nê một lát nhé…Anh giúp tôi, tôi đã hứa với Tiểu Phụng rồi mà còn…mang bệnh, chưa đi được.

Ông Cò cũng rút lui. Ông Đăng mở lời:

- Khó nhất là Tiểu Phụng không chịu về sống với tôi và vợ tôi. Nói đến là nó khóc hoài, nó đòi ở với ông là bố nuôi vì mẹ nó bảo thế. Nó vẫn không tin mẹ nó mất vì bạo bệnh.

- Trời ơi ! Minh nghe nói mới nhớ ra lời nói dối của chàng có một hậu quả lâu dài quá sức tưởng tượng. Thì ra Tiểu Phụng không phải là đứa trẻ dễ quên.

- Bây giờ ông nghĩ sao ?

- Ông yên tâm, tôi sẽ bảo Phụng về sống chung với ông. Điều kiện là vợ ông phải đổi tính nết, coi Phụng như con ruột. Dù sao cũng không nên ghen với một người…đã khuất.

- Ước gì vợ tôi hiểu biết như ông.

- Tôi có được phép gặp bà nói chuyện chốc lát chăng ?

- Rất vui lòng.

Ông Đăng điện thoại và xuống tầng dưới của bệnh viện để đón vợ vào. Tưởng bà Nguyễn Viễn Đăng là ai xa lạ, ngờ đâu lại là cô Hồng, bạn của em gái Hoàng Minh. Lập tức câu chuyện dễ dàng đi nhiều:

- Anh Minh ! Bây giờ Vân ở đâu anh ? Anh cho địa chỉ lúc nào…tôi đến thăm Vân.

Hồng vẫn còn xem Minh như người anh lớn. Cô ta xưng tôi hơi ngượng ngập. Ông Đăng lịch sự ra ngoài phòng bệnh ngay từ nãy. Minh khuyên nhủ Hồng ngay:

- Hồng nên thương Tiểu Phụng nhé. Nó dễ thương và thông minh lắm. Nó lại…mới mồ côi mẹ. Tôi nhớ ngày nào đến để giúp Hồng làm đám táng bà cụ, Vân khóc mãi.

Bà cụ là mẹ Hồng. Hồi ấy chàng và cô em gái còn đang đi học. Nghe nhắc kỷ niệm cũ, Hồng rơm rớm nước mắt.

- Nhưng nhắc đến mẹ nó…tôi vẫn tức. Và mẹ nào con nấy. Con gái phải giống mẹ chứ.

Hoàng Minh lắc đầu trước lý luận của Hồng, một thứ lý luận theo bản năng chứ không cuộc thương thuyết giữa Minh và… Tiểu Phụng cũng gay go không kém. Minh đã bảo với Tiểu Phụng:

- Bà ấy muốn nhận Phụng làm con mà ngại…mở lời. Phụng được sống gần ba nữa. Thích chưa ?

- Phụng không cần ba.

Một lần nữa Minh phải dùng xảo thuật. Chàng lấy trong túi ra một đồng bạc cắc hai chục, đưa cho Phụng coi một mặt chữ, một mặt hình, bảo:

- Tùy ý Phụng chọn mặt nào thuận, mặt nào không thuận rồi cầu má giúp ý kiến. Chú gieo giúp cho Phụng nhé.

Con bé ngần ngừ rồi gật đầu. Dĩ nhiên Minh tung ba lần đều thuận cả - chàng có học qua lớp ảo thuật – Phụng nghiêm trang:

- Con xin nghe lời má dậy.

- Vậy Phụng ra ngoài gặp “má” đi. Vui lên nhé.

Giáo sư Vũ Anh bước vào, cười như hoa nở. Bên cạnh ông là Lan:

- Tôi đến phục anh tài dối gạt trẻ con. Nhưng cũng hơn sự nghiên cứu điên khùng của tôi, tôi quyết định là sẽ chỉ dùng thuốc ấy cho những bệnh nhân mất ngủ. Còn vấn đề gia tăng số giờ làm việc…chắc không được vì sẽ xảy ra sự lạm dụng của chủ nhân. Anh có biết tụi gian phi toan tính gì không ? Chúng bắt cóc tôi chế tạo thuốc ấy để biến những nhân công của chúng thành cái máy, ăn ít làm nhiều. Nếu tôi bị đưa qua biên giới thì giờ này không biết…đang phiêu lưu nơi đâu nữa.

- Anh phiêu lưu nơi đâu cũng được miễn luôn có chị Lan bên cạnh.

Chưa dứt câu, có điện thoại reo. Minh nghe rồi gác máy:

- Tội nghiệp cho Bùi Thịnh. Ông Cò mới cho tôi biết, tên Đạt đã thú nhận chính hắn ta lén bỏ thạch tín vào ly cà phê đen, tham lời hợp tác với chúng thành ra thiệt thân.

Hai thằng bé…không ba thằng bé tung cửa ùa vào. Không cần phải nói, ai cũng đoán ra là Y-Shroc, Dũng và…Xạo.

Y-Shroc mắt đỏ hoe:

- Không có Tiểu Phụng chơi với tụi cháu nữa, buồn quá chú Minh.

Minh vỗ vai nó:

- Con sóc đâu rồi ? Trời ơi ! Y-Shroc bắt nó lại mau đi, coi chừng nó cắn rách của chú Minh một mảnh áo…nhà thương bây giờ ?


XUÂN QUANG

1973
 
Sửa lần cuối:

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Chuỗi ngọc trường sinh
Tác giả: Thùy Hương
Loại hoa: Hoa đỏ
Sưu tầm: Đèn Biển
38987684254_900f2e3c89_o.jpg


Chương 1
Một tiếng hú kinh hồn làm Cảnh và Phúc giựt mình. Hai cậu học sinh đang đứng trước tấm cửa biệt thự nhà họ Trịnh ở vùng Phú Lâm mà chưa dám thò tay mở. Dưới ánh trăng suông, ngôi biệt thự cổ xưa, với những bức tường đầy rêu phủ, có một vẻ hoang vu, huyền bí lạ thường.
Vai đeo một máy ghi âm, Cảnh đang nói vào máy để mô tả cảnh vật trước mắt, thì bỗng cậu ngưng lại để nhận xét:
- Phúc này! Nhiều người đồn rằng tòa biệt thự này có ma. Hoài của, hồi đó nhà đạo diễn Lê Thanh cần gấp một ngôi nhà có ma, mà tụi mình không nghĩ đến tòa biệt thự này.
- Ừ nhỉ! Chắc ông Lê Thanh khoái chỗ này lắm, để quay một cuốn phim ly kỳ. Nhưng cậu phải biết, ông ấy và tụi mình đâu có cùng một sở thích. Thôi tụi mình nên chuồn cho mau, vì…
“Hú u u u u u u u…”
Một tiếng hú khủng khiếp nữa làm hai cậu sởn tóc gáy.
- Nghe thấy chưa, cậu? – Phúc nói – Thôi chuồn lẹ đi.
- Khoan đã nào! – Cảnh đáp, tuy hắn ta cũng muốn chuồn theo bạn – Nếu xếp Linh ở đây thì chắc hắn đã thâu được tiếng hú này rồi.
Linh, Cảnh và Phúc là ba cậu học sinh đồng chí hướng, đã thành lập một văn phòng thám tử được hơn năm nay để các cậu tiêu khiển ngoài giờ học tập, và hoạt động hăng say nhất vào vụ nghỉ hè mà không lấy thù lao. Linh được tôn lên làm xếp, vì cậu ta có một khối óc suy luận rất tinh vi, sắc bén.
- Chính vì hắn không có ở đây thì tụi mình mới thừa dịp chuồn êm chứ! – Phúc đáp.
Nhưng ngay lúc đó, Cảnh đã xoay máy ghi âm về phía biệt thự vắng vẻ.
“Hú u u u u u u u…”. Tiếng hú khủng khiếp lại vang lên lần nữa.
- Thôi, thâu như thế đủ rồi, chuồn đi! – Phúc dục bạn.
Lần này Cảnh không phản đối nữa và hai cậu chạy thật lẹ đến chỗ để xe đạp.
Nhưng chưa được mấy bước thì các cậu đụng một bọn người đi tới hỏi:
- Cái gì ầm ĩ thế mấy em?
- Chúng cháu vừa nghe mấy tiếng ma hú – Phúc đáp
- Bậy nào! Chắc là ai bị đụng xe đấy chứ – người kia nói.
Bọn người vừa tới gồm năm sáu ông đã đứng tuổi. Họ bàn tán với nhau mà không thèm để ý tới hai cậu nhỏ nữa. Họ ăn bận lịch sự, có lẽ ở gần đâu đây.
- Ta phải vào nhà này mới được – một ông mang bộ râu mép và tiếng nói trầm trầm đề nghị – Chúng ta muốn thăm cái biệt thự này trước khi nó bị san phẳng thì đây là một dịp tốt còn gì nữa. Trong nhà có người bị thương không biết chừng.
- Nên báo cảnh sát là hơn – một ông khác đề nghị – Đó là công việc của họ mà.
- Thế mình đợi cho nạn nhân chết hay sao? – Ông trước trả lời với giọng bực tức.
- Đúng – một ông mang mục kỉnh nói – Chúng ta cứ vào quan sát đi.
- Thì ông vào đi, tôi đi kêu cảnh sát.
Một ông khác tay bế một con chó xinh xinh nói:
- Nếu bên trong chỉ có một con mèo hoặc một con chim gì đó trú ẩn, mà ông lại đi kêu cảnh sát thì nực cười chết!
- Nhưng…
- Quí vị này! – một ông cao lớn nhất trong bọn nói – Nhân số bọn ta đến nửa tá, lại có cả đèn bấm. Vậy ta hãy vào trong nhà thăm thú, rồi nếu cần, ta sẽ kêu cảnh sát cũng không muộn. Còn hai cậu nhỏ kia, các cậu nên về đi, chúng tôi không cần đến các cậu.
Nói đoạn, ông ta bước về hướng biệt thự. Sau giây phút do dự, những ông khác cũng bước theo. Phúc bảo Cảnh:
- Thôi tụi mình rút lui đi, ông cao lớn nói phải đó, họ không cần đến tụi mình.
- Có lẽ, nhưng nếu mình về nhà mà chẳng biết là ai đã hú như thế thì chắc xếp Linh sẽ phải kêu trời. Thế tụi mình không phải là thám tử hay sao? Đông người thế này thì sợ quái gì?
Nói xong, Cảnh chạy theo bọn người kia. Phúc thấy vậy cũng chạy theo nốt.
Tới cửa, bọn người dừng lại, do dự. Rồi ông cao lớn thò tay vặn quả nắm. Cánh cửa mở ra, để lộ một căn phòng tiền đình rộng thênh thang, chìm trong bóng tối âm u.
- Đèn bấm, đèn bấm! – Ông cao lớn ra lệnh.
Rồi ông ta bấm đèn của mình và bước vào trong. Mọi người cùng tiến vào. Cảnh và Phúc lẹ làng bước theo.
Dưới ánh đèn bấm phóng lên tứ phía, người ta thấy những bức tường căng đầy gấm vóc Tầu.
Một cầu thang vươn lên tầng trên theo một đường cong rất uy nghi.
- Chính từ trên lầu kia mà ông già Trịnh Thường đã té xuống từ sáu chục năm nay – một ông vừa nói vừa chiếu đèn lên cầu thang – Và ngôi nhà này vẫn đóng im ỉm từ hồi đó. Mùi mốc hôi hám quá.
- Nhiều người đồn rằng ngôi nhà này có ma – một ông khác nói – Điều đó chẳng có chi lạ, nhưng tôi ước mong rằng tối nay chúng ta sẽ không thấy ma.
- Bây giờ chúng ta đi quan sát từng dưới đã – Thay vì bàn cãi, ông cao lớn quyết định, vì lúc này ông đã đương nhiên trở thành người chỉ huy cả bọn.
Nhiều căn phòng đứng san sát thông ra tiền đình đều trống không. Sàn nhà bị phủ một lớp bụi dầy, chái nhà bên tay mặt thì thông ra khoảng không vì thợ đã bắt đầu tháo gỡ tường.
Bọn người bèn quay sang chái bên kia sau khi đi qua một dãy phòng vắng vẻ mà một tiếng động nhỏ cũng vang dội lên. Họ tiến vào một phòng khách rộng lớn. Bọn người đứng tụ lại giữa phòng, trong bầu không khí nặng nề khó thở.
- Công việc mình đang làm thật là vô ích – một ông nói thì thào – Phải kêu cảnh sát mới được.
- Suỵt!
Mọi người đứng yên lặng như những pho tượng.
- Tôi vừa nghe thấy tiếng động. Có lẽ một con vật gì. Chúng ta thử tắt đèn coi.
Các đèn bấm được tắt hết. Phòng khách chìm trong bóng tối. Ánh trăng lọt qua mấy lỗ cửa trên cao, chiếu lờ mờ xuống sàn nhà trông thật hiu hắt.
- Coi kìa! – một ông hớt hải thốt lên.
Mọi người vội quay nhìn về phía cửa vào. Một bóng người lờ mờ xanh đứng đó, rung rinh như bóng sương đêm.
- Ma, ma, chính là ông Trịnh Thường!
- Bật đèn lên! – Ông cao lớn ra lệnh – Chiếu vào hiện tượng đó coi!
Ông ta chưa dứt lời thì bóng ma đã lướt bên tường và biến sau cái cửa. Ba ánh đèn bật lên chỉ kịp bao vây một khoảng không…
- Có lẽ vừa rồi là ánh đèn pha xe hơi đó, quí vị ạ! – Một ông nói – Chúng mình trở lại tiền đình coi.
Về tới phòng tiền đình, chẳng ai thấy gì cả. Đèn bấm lại được tắt đi và mọi người đứng im lặng, chờ đợi. Con chó của ông nọ thỉnh thoảng rít lên mấy tiếng nho nhỏ.
Lần này, Phúc trông thấy bóng ma trước nhất. Lờ mờ xanh như lần trước, nó đứng ở khoảng giữa cầu thang.
- Nó kìa! – cậu học sinh kêu lên.
Mọi người đều quay nhìn. Bóng ma lướt từ bậc nọ lên bậc kia rồi biến vào bóng tối trên lầu.
- Chúng ta đuổi theo đi! – Ông cao lớn ra lịnh – Chắc lại có kẻ nào muốn giỡn bọn mình một trò hề đấy mà!
Mọi người tranh nhau đuổi bắt con ma. Lên tới cầu thang, lại chẳng thấy chi hết.
Suy luận như Linh vẫn thường làm, Cảnh đề nghị:
- Cháu có một ý kiến. Sàn nhà này đầy bụi, nếu có tên hề nào định giỡn thì chắc phải có vết chân, chúng ta có thể theo sát nó được.
- Đúng! – ông bế con chó đáp – Để soi đèn bấm dưới sàn coi nào.
Đèn được chiếu xuống, nhưng bụi sàn vẫn y nguyên, không thấy một vết chân nào cả.
- Vậy thì nó đã đi lối nào? – Một ông hỏi. Chẳng ai trả lời.
- Thôi ta lại bắt đầu đi và chờ đợi vậy – một ông khác đề nghị.
- Chúng mình nên rời khỏi nơi này là hơn.
Tuy nhiên, vì chẳng ai muốn thú nhận là mình đã bắt đầu sợ sệt, mọi người vẫn đứng yên vị. Tất cả bọn có tám hay chín người, kể cả Phúc và Cảnh. Bỗng một ông thì thầm:
- Trông bên trái kìa, ngay ở lầu này…
Một bóng lờ mờ xanh vừa hiện ra gần đó, cạnh một khuôn cửa. Dần dần bóng xanh rõ thêm, và hiện thành một bóng người, bận một chiếc áo xanh dài rộng, như áo một quan đại thần ngày xưa.
- Chớ làm hắn sợ, để coi hắn làm gì…
Mọi người đứng im lặng.
Bóng chuyển động từ từ, lướt theo bức tường tới đầu hành lang. Rồi nó rẽ vào khúc quanh và biến mất.
- Chúng ta nên chậm chậm theo hắn.
- Coi xem dưới đất có dấu chân hay không – Cảnh nhắc.
Hai ngọn đèn bấm được bật lên và sục sạo trong bóng tối.
- Chẳng có vết chân nào cả. Có lẽ tên hề này nó đi trên không khí.
- Vậy chúng ta đi theo nó – ông cao lớn nói.
Rồi ông ta bước đi, mọi người đi theo sau. Tới một lối ngang thì thấy hai cái cửa ngỏ. Đèn lại được tắt đi. Một lát sau, bóng ma từ một cái cửa hiện ra, đi tới đầu kia rồi biến mất.
- Coi như nó chui qua tường… – Cảnh thì thầm – Mà sàn thì vẫn không có vết chân.
*
Khi nhận được tin trình báo, viên thanh tra cảnh sát Duy Đức dẫn ngay nhân viên tới điều tra tại ngôi biệt thự, nhưng chẳng tìm thấy ai lẩn trốn bên trong, đến một con thú vật bị thương cũng không thấy.
Thanh tra Duy Đức là một người đứng đắn, chưa hề trông thấy ma bao giờ trong nghề trinh thám của ông. Nên ông ta chẳng dám phúc trình lên tượng cấp những sự việc đã xảy ra đêm qua mà người ta đã kể lại với ông, sợ làm trò cười cho cấp trên.
Nhưng ông ta cũng thấy khó nghĩ, vì có tới tám nhân chứng đáng tin cậy đã trông thấy ma sau khi nghe tiếng hú rùng rợn trong tòa biệt thự.

Chương 2.
Hú u u u u u u u…”
Lại có tiếng ma hú. Nhưng lần này nó chẳng làm cho ai hoảng sợ, vì nó từ trong máy ghi âm của Cảnh phát ra.
Ba cậu thám tử đang hội họp tại bản doanh bí mật để nghe cuốn băng đã ghi được hôm trước.
- Xếp Linh ạ, không còn tiếng hú nào khác nữa – Cảnh nói – Chỉ còn cuộc đối thoại giữa những người hiện diện. Mình đã tắt máy khi mọi người đã vào hết trong biệt thự.
Tuy nhiên, Linh vẫn chú ý nghe cuốn băng cho đến hết. Rồi cậu tắt máy đi, tay bóp môi ra vẻ suy nghĩ lung lắm.
- Tiếng hú này – cậu nói – minh cho là tiếng một người. Một người đang chạy xuống cầu thang và ngưng lại khi hết hơi.
- Đúng vậy! – Cảnh nói – Cậu nên nhớ rằng sự thực đã xảy ra đúng như thế. Ông Trịnh Thường đã té từ trên đầu cầu thang xuống và bị gãy cổ. Trong khi ngã, có thể ông đã hú lên.
- Tốp – Phúc vội nói xen vào – Sự việc đó đã xảy ra từ sáu chục năm nay thì bây giờ ông lão còn hú thế nào được nữa!
- Ấy, tiếng hú mà các cậu đã nghe thấy có thể là tiếng dội xa xưa của một tiếng hú đã vang lên từ trên nửa thế kỷ nay – Linh nói với một giọng đầy chữ nghĩa.
- Ôi! Thôi đi xếp! Những tiếng hú đã già sáu chục tuổi mà nay còn nghe thấy. Xin thú thật là mình không thích chuyện đó đâu nhé.
- Cảnh! Cậu là quản thủ thư viện kiêm thông tín viên. Vậy yêu cầu cậu lập cho một phúc trình đầy đủ về vụ này – Linh nói.
- Tuân lệnh! – Cảnh đáp – Vì có tin là ngôi biệt thự đó sắp bị phá hủy, mình thấy có thể viết một thiên phóng sự cho tờ báo của trường, nên mình đã quyết định đi thăm nó cùng với Phúc. Tụi này có mang theo máy ghi âm để đọc cảm tưởng vào đó thay vì ghi chép.
Tụi này tới đó chừng năm phút thì trăng lên. Bầu không khí có vẻ ghê rợn mà hai đứa lại nghe thấy tiếng hú tới hai lần rồi, nên trong lòng cũng thấy hoang mang. Mặc dầu vậy, tụi này cũng vẫn bấm cho máy chạy, hy vọng là con ma sẽ hú lên lần thứ ba. Thì quả nhiên đúng như thế, tiếng hú ghi vào cuốn băng là tiếng hú thứ ba vậy.
- Tốt lắm – Linh nói – Cậu đã phản ứng như một thám tử chính cống vậy. Rồi sao nữa?
Cảnh bèn thuật lại việc gặp bọn người đi tới và tất cả các biến chuyển đã xảy ra trong biệt thự.
- Cậu nên để ý : không thấy có một vết chân nào cả – Phúc xác định.
- Thế có bao nhiêu người đã mục kích bóng ma cùng với hai cậu? – Linh hỏi.
- Sáu người – Phúc đáp.
- Bảy người – Cảnh đính chính.
- Không, sáu người, mình nhớ chắc chắn, vì mình đã đếm cẩn thận. Này nhé : ông cao lớn, ông nói giọng trầm trầm, ông bế cho chó xinh xinh, ông đeo mục kỉnh và hai ông nữa.
- Ừ, có lẽ cậu nói đúng – Cảnh nhìn nhận – Mình đã đếm tới ba lần, nhưng đếm trong khi mọi người đang đi quan sát trong nhà. Mình thấy một lần sáu người và hai lần bảy người.
- Điều này có lẽ ít quan hệ – Linh nhận xét, và cậu quên mất cái thước ngọc của nhà trinh thám : “Trong một vụ án ly kỳ, chính những chi tiết nhỏ nhặt lại là quan hệ”. – Bây giờ xin cậu Cảnh cho mình biết tiếp lịch sử ngôi biệt thự đi.
- Thực ra thì mình không biết gì nhiều đâu. Sau khi bóng ma biến mất, số người đã chia làm hai bọn : Một bọn đi khỏi và một bọn đi báo nhà chức trách. Cảnh sát đã tới ngay sau đó để điều tra, vì sáng nay các báo chí toàn đăng chuyện bóng ma vùng Phú Lâm. May quá, họ cũng có đăng cả lịch sử của ngôi nhà, vì mình đã lục lọi trong thư viện mà chẳng kiếm ra tài liệu chi cả.
Theo báo chí, ngôi biệt thự đã được xây cất từ 70 hay 80 năm nay. Chủ nhân là ông Trịnh Thường, hồi đó là chủ một chiếc tàu chạy đường Hồng Kông, Thượng Hải để buôn bán với Trung Quốc. Ông là một nhân vật ghê gớm, hay là kỳ bí thì đúng hơn. Ông đã gặp sự gì rắc rối trên đất Tầu và đã hấp tấp trở về Việt Nam, mang theo một cô vợ trẻ người Trung Hoa, con nhà quý tộc và có sắc đẹp diễm lệ. Người thì nói ông sợ sự trả thù của một gia đình quý tộc Trung Hoa, có lẽ là gia đình nhà vợ, người lại nói ông có sự bất hòa với người em dâu ở Chợ Lớn. Dầu sao ông cũng đã tới ẩn dật ở vùng Phú Lâm này, hồi đó còn hoang vu.
Ông đã sống ở đây một đời sống vương giả với một bọn gia nhân người Hoa kiều. Thường ông hay bận một chiếc áo gấm xanh dài rộng, như những nhà quí phái Mãn Châu. Một hôm, có người mang lương thực từ Chợ Lớn đến giao tại biệt thự, thấy nhà bỏ trống mà xác ông Trịnh Thường thì nằm sóng sượt chết ở chân cầu thang, cổ bị gẫy.
Cảnh sát đã tới điều tra và kết luận rằng chủ nhân đã uống rượu say, bị ngã từ trên lầu xuống và các gia nhân đã bỏ trốn hết vì sợ liên lụy, còn bà vợ ông cũng mất tích luôn.
Hình như tất cả bọn người này đã ra ẩn náu trong khu Hoa kiều ở Chợ Lớn.
Người em dâu đã được thừa hưởng cái gia tài của ông Trịnh Thường để lại. Với số tiền mặt, bà đã tậu một đồn điền trà ở Bảo Lộc. Nhưng bà không chịu bán hoặc về ở tại ngôi biệt thự Phú Lâm bao giờ cả. Sau đó bà qua đời và người con là bà Ngọc Sương bây giờ đã bán ngôi biệt thự cho một hãng thầu. Họ bắt đầu cho thợ đập phá để xây cất những nhà cửa tối tân.
- Bản phúc trình của cậu đầy đủ lắm – Linh khen ngợi – Bây giờ thì chúng ta điểm báo.
Linh giở ba tờ báo ra bàn, họ đã in những tít lớn như sau:
MỘT BÓNG MA KHỦNG BỐ VÙNG PHÚ LÂM.
MỘT BÓNG MA TẨU THOÁT KHỎI NGÔI BIỆT THỰ ĐANG BỊ PHÁ HỦY.
NẠN THIẾU NHÀ ĐANG ĐE DỌA CÁC HỒN MA.
Ba cậu đang thảo luận sôi nổi thì có tiếng của bà cô từ dưới nhà gọi lên:
- Cảnh ơi! Ba cháu kêu, cả Phúc nữa. Xuống đây mau, việc thượng khẩn.

Chương 3
Hú u u u u u u u…”
Lại có tiếng ma hú. Nhưng lần này nó chẳng làm cho ai hoảng sợ, vì nó từ trong máy ghi âm của Cảnh phát ra.
Ba cậu thám tử đang hội họp tại bản doanh bí mật để nghe cuốn băng đã ghi được hôm trước.
- Xếp Linh ạ, không còn tiếng hú nào khác nữa – Cảnh nói – Chỉ còn cuộc đối thoại giữa những người hiện diện. Mình đã tắt máy khi mọi người đã vào hết trong biệt thự.
Tuy nhiên, Linh vẫn chú ý nghe cuốn băng cho đến hết. Rồi cậu tắt máy đi, tay bóp môi ra vẻ suy nghĩ lung lắm.
- Tiếng hú này – cậu nói – minh cho là tiếng một người. Một người đang chạy xuống cầu thang và ngưng lại khi hết hơi.
- Đúng vậy! – Cảnh nói – Cậu nên nhớ rằng sự thực đã xảy ra đúng như thế. Ông Trịnh Thường đã té từ trên đầu cầu thang xuống và bị gãy cổ. Trong khi ngã, có thể ông đã hú lên.
- Tốp – Phúc vội nói xen vào – Sự việc đó đã xảy ra từ sáu chục năm nay thì bây giờ ông lão còn hú thế nào được nữa!
- Ấy, tiếng hú mà các cậu đã nghe thấy có thể là tiếng dội xa xưa của một tiếng hú đã vang lên từ trên nửa thế kỷ nay – Linh nói với một giọng đầy chữ nghĩa.
- Ôi! Thôi đi xếp! Những tiếng hú đã già sáu chục tuổi mà nay còn nghe thấy. Xin thú thật là mình không thích chuyện đó đâu nhé.
- Cảnh! Cậu là quản thủ thư viện kiêm thông tín viên. Vậy yêu cầu cậu lập cho một phúc trình đầy đủ về vụ này – Linh nói.
- Tuân lệnh! – Cảnh đáp – Vì có tin là ngôi biệt thự đó sắp bị phá hủy, mình thấy có thể viết một thiên phóng sự cho tờ báo của trường, nên mình đã quyết định đi thăm nó cùng với Phúc. Tụi này có mang theo máy ghi âm để đọc cảm tưởng vào đó thay vì ghi chép.
Tụi này tới đó chừng năm phút thì trăng lên. Bầu không khí có vẻ ghê rợn mà hai đứa lại nghe thấy tiếng hú tới hai lần rồi, nên trong lòng cũng thấy hoang mang. Mặc dầu vậy, tụi này cũng vẫn bấm cho máy chạy, hy vọng là con ma sẽ hú lên lần thứ ba. Thì quả nhiên đúng như thế, tiếng hú ghi vào cuốn băng là tiếng hú thứ ba vậy.
- Tốt lắm – Linh nói – Cậu đã phản ứng như một thám tử chính cống vậy. Rồi sao nữa?
Cảnh bèn thuật lại việc gặp bọn người đi tới và tất cả các biến chuyển đã xảy ra trong biệt thự.
- Cậu nên để ý : không thấy có một vết chân nào cả – Phúc xác định.
- Thế có bao nhiêu người đã mục kích bóng ma cùng với hai cậu? – Linh hỏi.
- Sáu người – Phúc đáp.
- Bảy người – Cảnh đính chính.
- Không, sáu người, mình nhớ chắc chắn, vì mình đã đếm cẩn thận. Này nhé : ông cao lớn, ông nói giọng trầm trầm, ông bế cho chó xinh xinh, ông đeo mục kỉnh và hai ông nữa.
- Ừ, có lẽ cậu nói đúng – Cảnh nhìn nhận – Mình đã đếm tới ba lần, nhưng đếm trong khi mọi người đang đi quan sát trong nhà. Mình thấy một lần sáu người và hai lần bảy người.
- Điều này có lẽ ít quan hệ – Linh nhận xét, và cậu quên mất cái thước ngọc của nhà trinh thám : “Trong một vụ án ly kỳ, chính những chi tiết nhỏ nhặt lại là quan hệ”. – Bây giờ xin cậu Cảnh cho mình biết tiếp lịch sử ngôi biệt thự đi.
- Thực ra thì mình không biết gì nhiều đâu. Sau khi bóng ma biến mất, số người đã chia làm hai bọn : Một bọn đi khỏi và một bọn đi báo nhà chức trách. Cảnh sát đã tới ngay sau đó để điều tra, vì sáng nay các báo chí toàn đăng chuyện bóng ma vùng Phú Lâm. May quá, họ cũng có đăng cả lịch sử của ngôi nhà, vì mình đã lục lọi trong thư viện mà chẳng kiếm ra tài liệu chi cả.
Theo báo chí, ngôi biệt thự đã được xây cất từ 70 hay 80 năm nay. Chủ nhân là ông Trịnh Thường, hồi đó là chủ một chiếc tàu chạy đường Hồng Kông, Thượng Hải để buôn bán với Trung Quốc. Ông là một nhân vật ghê gớm, hay là kỳ bí thì đúng hơn. Ông đã gặp sự gì rắc rối trên đất Tầu và đã hấp tấp trở về Việt Nam, mang theo một cô vợ trẻ người Trung Hoa, con nhà quý tộc và có sắc đẹp diễm lệ. Người thì nói ông sợ sự trả thù của một gia đình quý tộc Trung Hoa, có lẽ là gia đình nhà vợ, người lại nói ông có sự bất hòa với người em dâu ở Chợ Lớn. Dầu sao ông cũng đã tới ẩn dật ở vùng Phú Lâm này, hồi đó còn hoang vu.
Ông đã sống ở đây một đời sống vương giả với một bọn gia nhân người Hoa kiều. Thường ông hay bận một chiếc áo gấm xanh dài rộng, như những nhà quí phái Mãn Châu. Một hôm, có người mang lương thực từ Chợ Lớn đến giao tại biệt thự, thấy nhà bỏ trống mà xác ông Trịnh Thường thì nằm sóng sượt chết ở chân cầu thang, cổ bị gẫy.
Cảnh sát đã tới điều tra và kết luận rằng chủ nhân đã uống rượu say, bị ngã từ trên lầu xuống và các gia nhân đã bỏ trốn hết vì sợ liên lụy, còn bà vợ ông cũng mất tích luôn.
Hình như tất cả bọn người này đã ra ẩn náu trong khu Hoa kiều ở Chợ Lớn.
Người em dâu đã được thừa hưởng cái gia tài của ông Trịnh Thường để lại. Với số tiền mặt, bà đã tậu một đồn điền trà ở Bảo Lộc. Nhưng bà không chịu bán hoặc về ở tại ngôi biệt thự Phú Lâm bao giờ cả. Sau đó bà qua đời và người con là bà Ngọc Sương bây giờ đã bán ngôi biệt thự cho một hãng thầu. Họ bắt đầu cho thợ đập phá để xây cất những nhà cửa tối tân.
- Bản phúc trình của cậu đầy đủ lắm – Linh khen ngợi – Bây giờ thì chúng ta điểm báo.
Linh giở ba tờ báo ra bàn, họ đã in những tít lớn như sau:
MỘT BÓNG MA KHỦNG BỐ VÙNG PHÚ LÂM.
MỘT BÓNG MA TẨU THOÁT KHỎI NGÔI BIỆT THỰ ĐANG BỊ PHÁ HỦY.
NẠN THIẾU NHÀ ĐANG ĐE DỌA CÁC HỒN MA.
Ba cậu đang thảo luận sôi nổi thì có tiếng của bà cô từ dưới nhà gọi lên:
- Cảnh ơi! Ba cháu kêu, cả Phúc nữa. Xuống đây mau, việc thượng khẩn.

Chương 4.
Hôm sau, tại bản doanh, Phúc ngồi cắm cúi cắt những hình ảnh và bài vở liên hệ đến sự việc, trong khi Cảnh thì dán lên một cuốn sổ. Mặc dầu cố chiều ý ông Thanh Tra Duy Đức, ký giả Hồng Phong cũng không thể ngăn ngừa các báo chí đăng tải câu chuyện bóng ma hiện hình.
Nếu chỉ có chuyện con ma thì có lẽ người ta cũng quên lãng nó đi, nhưng việc khám phá ra căn phòng bí mật, bộ hài cốt và chuỗi ngọc huyền diệu là những đề tài hấp dẫn lôi cuốn độc giả trong nhiều ngày.
Một số ký giả thuật lại thân thế và sự nghiệp của ông Trịnh Thường như một nhà hàng hải gan dạ khinh thường bão tố, đồng thời cũng là một thương gia táo bạo, luôn luôn xông xáo vào những vụ giao thương phức tạp với Trung Quốc.
Ông Trịnh Thường lại là bạn thân của những nhà qui tộc Mãn Châu và được họ tặng những món quà rất đế vương. Nhưng chuỗi ngọc huyền diệu không phải là của ông ta, mà đã do ông đánh cắp được trước khi rời khỏi đất Tầu, mang theo người vợ kiều diễm về ẩn dật ở tòa biệt thự Phú Lâm.
- Dầu sao thì cũng là câu chuyện của một nhân vật thuộc quận mình – Cảnh nói – Thế cậu có biết ba Cảnh và ông Thanh Tra Duy Đức đã suy luận ra sao không?
Những tiếng người đi tới làm ngưng câu chuyện của hai cậu. Bỗng Linh, mồ hôi nhễ nhại, tiến vào:
- Gớm, cái nóng chết người!
Rồi hắn thêm:
- Mình vừa mới suy nghĩ.
- Đừng suy nghĩ nhiều quá, xếp ơi! – Phúc khuyên – Cậu đang nóng nực, nếu còn suy nghĩ, khối óc tuyệt xảo của cậu có thể cháy và cậu sẽ trở thành một gã tầm thường như tụi này mất thôi.
Cảnh cười lăn. Phúc thì rất hãnh diện có một thằng bạn thông minh như Linh. Nhưng mỗi khi có dịp trêu hắn thì không bao giờ Phúc để lỡ cơ hội. Điều này không làm cho Linh bực tức chút nào cả, vì hắn vẫn tự tin vào khả năng của hắn.
- Phải – Linh tiếp – mình vừa suy đoán những sự việc đã xảy ra tại biệt thự nhà họ Trịnh.
- Nhọc công làm chi vô ích – Cảnh nói – ba mình và ông Thanh Tra Duy Đức đã suy đoán cả rồi.
- Rõ ràng – Linh nói – là trước hết, ngôi biệt thự đó…
- Ba Cảnh và ông Thanh Tra Duy Đức đã nghĩ rằng bà Trịnh Thường đã chết vì bệnh tật. Vì không muốn xa bà ta, ông chồng để xác bà vào chiếc quan tài quí giá đó, đặt quan tài vào căn phòng bí mật rồi xây tường kín lại. Như vậy, luôn luôn ông có cảm tưởng rằng bà vợ vẫn ở bên cạnh ông. Rồi một ngày kia, ông đã bị ngã từ trên cầu thang xuống và bị gãy cổ chết.
Khi thấy ông chết bất đắc kỳ tử như vậy, các gia nhân hoảng sợ bèn trốn đi, người thì ẩn náu tại khu Hoa Kiều Chợ Lớn, người thì hồi hương về Trung Quốc.
- Sau này, khi công việc phá hủy ngôi biệt thự bắt đầu – Phúc nói tiếp – hồn ma của ông Trịnh Thường đã nổi giận. Do đó, chúng ta đã nghe thấy tiếng ông hú, và thấy ông tới thăm bà vợ một lần chót rồi ông biến mất.
Linh có vẻ hơi khó chịu, vì các điều suy đoán của ông Thanh Tra Duy Đức và của ký giả Hồng Phong cũng không khác gì của hắn.
- Thế cậu có chắc là một bóng ma thật không đã? – Linh hỏi với giọng hơi chua chát – Và cậu có chắc là bóng ma của ông Trịnh Thường không đã?
- Chính mắt mình đã nom thấy nó – Phúc đáp – Đó là một bóng ma chính cống mà chưa bao giờ mình gặp trước.
- Nếu không phải là một bóng ma thì là cái gì? – Cảnh hỏi – Xếp Linh này, nếu cậu tìm ra được lời giải đáp khác, chắc chắn ông Thanh tra Duy Đức sẽ phải tưởng thưởng cho cậu xứng đáng.
- Ừ, ừ – Linh nói với vẻ mặt tươi tắn trở lại – Mình thấy đây là một câu chuyện rất hấp dẫn. Bọn ta có thể lãnh lấy việc điều tra, dù chỉ để giúp cho ông Thanh tra mà thôi.
- Nhưng mà… nhưng mà… – Phúc phản đối – nếu là chuyện ma thì mình chẳng thích làm đâu.
- Cách ngôn của chúng ta – Cảnh nói – là “Điều tra” thì sao lại gạt chuyện ma ra ngoài? Vả lại, mình cũng thích tiêu khiển bằng một chuyện mà chính mình được chứng kiến tận mắt. Nhưng mà, xếp Linh ơi, làm thế nào để tóm được một vật linh dị như thế?
- Ta phải hành động có thứ tự – Linh đáp – Trước hết, các cậu cho mình biết đêm qua có ai trông thấy ma nữa không?
- Không – Cảnh đáp – Ông Thanh tra Duy Đức đã xác nhận với ba mình rằng ông không nhận được báo cáo nào mới khác.
- Tại sao bọn người hôm trước lại cùng đi thăm ngôi biệt thự?
- Hình như là hai người đi dạo chơi qua đó. Khi gặp những người khác, họ bèn đề nghị vào thăm ngôi biệt thự dưới ánh trăng, trước khi nó bị phá hủy. Khi họ đang vào lối cổng thì họ nghe thấy tiếng hú. Câu chuyện tiếp theo như thế nào thì xếp đã biết.
- Hiện giờ, công việc phá hủy còn tiếp tục không?
- Lúc này tạm ngưng – Cảnh đáp – ông Thanh tra đang cho lục lọi để tìm kiếm thêm những phòng bí mật, nhưng chưa có kết quả. Hình như nhà thầu trước định chia lô, nhưng bây giờ họ lại do dự, vì họ sợ rằng sẽ không ai dám đến ở một khu có hồn ma lẩn quất.
Linh ngồi suy nghĩ một lát rồi nói:
- Bây giờ ta nên nghe lại một lần nữa cuốn băng của Cảnh.
Cảnh bèn ấn nút cho máy chạy. Tiếng hú kinh hồn vang lên xé tan bầu không khí yên lặng. Rồi đến cuộc đối thoại của bọn người. Bỗng Linh chau mày nói:
- Một ý kiến đang quay cuồng trong đầu óc mình, nhưng mình chưa thể nhận thức được nó. Mình nghe trong băng có tiếng chó, là chó nào vậy?
- Điều đó thì có gì là quan hệ? – Phúc hỏi.
- Cái gì cũng quan hệ tất cả – Linh đáp với giọng nghiêm trọng.
- Đó là một con chó Bắc Kinh nhỏ. Thế xếp định kết luận ra sao đó?
Linh đành thú nhận là chưa thể kết luận gì được cả. Rồi ba cậu lại tiếp tục nghe lại cuốn băng vài lần nữa. Xếp Linh vẫn chưa nhận thức được cái ý kiến đang quay lộn trong đầu óc hắn. Sau cùng, họ cất máy đi và ngồi nghiên cứu các bài đã cắt trong báo chí. Phúc nói với vẻ mặt thỏa mãn:
- Thật vậy, con ma này đã dọn đi nơi khác rồi. Vì người ta muốn phá hủy ngôi nhà của nó thì nó phải đi ở chỗ khác, hợp lý lắm.
Bỗng chuông điện thoại reo vang. Linh nhấc ống nghe hỏi : “A lô?”
Một máy khuếch đại âm thanh đã được gắn vào máy điện thoại, nên những ai có mặt trong phòng này đều nghe được cuộc đàm thoại.
- Có người gọi liên tỉnh cho ông Cảnh – cô bưu điện viên trả lời.
Ba cậu học sinh nhìn nhau ngơ ngác. Đây là lần đầu tiên mà một cậu trong bọn nhận được lời gọi liên tỉnh.
Cảnh cầm lấy ống nghe:
- A lô! Tôi là Cảnh.
- Chào cậu Cảnh, tôi là bà Ngọc Sương ở đồn điền Thanh Lâm đây.
Bà Ngọc Sương! Cháu ông Trịnh Thường mà hồn ma đã hiện ra trước mắt Cảnh và Phúc bữa trước.
- Dạ, kính chào bà, cháu xin nghe ạ.
- Tôi muốn nhờ cậu chút việc. Cậu có thể cùng với cậu Phúc lên thăm tôi tại đồn điền này không?
- Thưa, lên tận đồn điền của bà ạ?
- Vâng, tôi muốn nói chuyện về bác Trịnh Thường tôi đó. Hai bữa trước đây, các cậu đã được mục kích hồn ma của cụ. Tôi muốn được nghe lời minh chứng của cậu ra sao, vì bóng ma đã về đồn điền này rồi. Tối hôm qua, bóng ma đã hiện ngay trong phòng tôi!

Chương 5
Cảnh liếc nhìn Linh, thấy Linh gật gật đầu, cậu bèn tiếp:
- Thưa bà, chúng cháu xin vâng, nếu được ba má chúng cháu cho phép ạ.
- À, như vậy thì tốt lắm! Ban nãy, tôi đã vừa kêu điện thoại để xin phép các bác bên nhà, và tôi tin rằng không có chi trở ngại. Đồn điền Thanh Lâm dễ chịu lắm. Thằng Châu, cháu tôi, sẽ bầu bạn với các cậu. Nó đã sống từ thủa nhỏ trên đất Tầu và mới về đây được hơn một năm.
Rồi, các chi tiết hành trình được xếp đặt rất mau. Trưa nay thì các cậu đi xe đò lên Bảo Lộc. Châu sẽ đợi các cậu ở đó để hướng dẫn về đồn điền.
Đặt ống nói xuống, Cảnh reo lên:
- A! Thú vị đấy, lại đi coi ma! Nhưng này xếp Linh, bà ấy không mời cậu! Sao bất công vậy?
- Thế là phải chứ, vì mình có được trông thấy ma đâu – Linh vừa đáp vừa cố che giấu nỗi thất vọng – Vả lại, dù bà có mời, mình cũng chẳng thể đi được, vì mai cô chú mình phải đi Biên Hòa để mua hàng, mình phải gác nhà.
- Đành vậy, nhưng chúng ta là một “ê kíp” – Phúc nói – Không nên tách rời ra như thế, nhất là trong vấn đề đi tìm ma.
Linh bóp môi nói:
- Mình nghĩ rằng sự việc diễn tiến có nhiều thuận lợi đó. Vì bóng ma đã dọn lên đồn điền Thanh Lâm thì các cậu cứ lên đó mà điều tra cho ông thanh tra Duy Đức, còn tôi ở nhà để điều tra chuyện khác. Chúng mình đã thiết lập thành văn phòng là tiện lợi như vậy đó.
Linh nói nghe cũng có lý. Phúc và Cảnh bèn từ giã Linh để về nhà sửa soạn. Trong va li, họ không quên mang theo mỗi cậu một chiếc đèn bấm và một cục phần mầu : xanh cho Cảnh và tím cho Phúc.
Tới trưa, Linh tiễn hai bạn ra bến xe và dặn;
- Cảnh, cậu sẽ kêu dây nói về cho mình để báo cáo sự việc diễn tiến. Văn phòng mình có được một ít tiền để dành nên có thể trả phí tổn điện thoại liên tỉnh. Nếu các cậu thấy ma, mình sẽ tìm cách lên sau.
Bà Hồng Phong cũng dặn dò Cảnh:
- Con phải nhớ cư xử đúng mẫu con nhà gia giáo đấy nhé. Mẹ rất vui nếu con có thể giúp ích cho bà Ngọc Sương. Bà là người rất lịch sự, chu đáo, mẹ rất quí mến. Mẹ cũng mong con sẽ có dịp giải trí : hình như đồn điền có nuôi ngựa đua, các con có thể cỡi đi du ngoạn với người cháu của bà.
Một lát sau, xe khởi hành, và khoảng 5 giờ chiều thì tới Bảo Lộc. Bên đường, một cậu học sinh thấp hơn Phúc một chút nhưng to ngang hơn, đang đợi hai cậu.
- Tôi là Châu, ở đồn điền trà Thanh Lâm của bà Ngọc Sương. Tôi đang đợi các anh.
Sau khi lấy hành lý trên xe đò xuống, Châu dắt hai cậu tới một chiếc xe hơi có tài xế chờ sẵn.
- Bác Quí – Châu giới thiệu – đây là khách của nhà : cậu Phúc và cậu Cảnh. Bây giờ ta về đồn điền đi.
- Dạ, dạ!
Bác tài xế bèn xếp hành lý vào sau xe rồi lên cầm lái. Ba cậu cùng ngồi ở ghế sau.
Trên con đường đồi, Phúc và Cảnh vừa nói chuyện với Châu vừa ngắm nhìn phong cảnh miền sơn cước.
- Đây là con đường tốt nhất để đi tới đồn điền – Châu giải thích – Đồn điền này do bà cô tôi quản trị nhưng bà cô tôi coi như nó thuộc quyền sở hữu của tôi. Tuy nhiên, tôi không muốn lấy lại đồn điền này, cả đến khi tôi tới tuổi trưởng thành cũng vậy.
Từ trước, hai cậu thám tử vẫn chưa biết rằng đồn điền trà này chính là của Châu, cháu tứ đại của ông Trịnh Thường. Châu tiếp tục kể lai lịch của hắn cho hai cậu nghe.
Trước khi kết duyên với người thiếu nữ Trung Hoa, ông Trịnh Thường đã có một người vợ Việt Nam, vẫn theo ông đi đây đi đó trong các cuộc viễn du. Bà đã sinh hạ một người con trai tên Sử và qua đời sau đó ít lâu.
Vì công việc làm ăn, ông Trịnh Thường không thể bận bịu về cậu con trai, bèn gởi cậu vào một tu viện ở Hồng Kông. Ít lâu sau, nhà hàng hải lão thành bị rắc rối do vụ trộm chuỗi ngọc huyền diệu nên đã rời khỏi đất Tầu, mang theo người vợ trẻ người Trung Hoa về Việt Nam. Người con trai ông vẫn được gởi ở Hồng Kông.
Khi lớn lên, ông Sử lập nghiệp ở Hồng Kông. Châu là cháu nội ông Sử và nay thì cha mẹ hắn cũng như ông Sử đã qua đời tất cả. Hắn về đồn điền Thanh Lâm với bà Ngọc Sương trên một năm nay.
- Từ hồi đó – Châu nói – tôi vẫn ở đây với bà. Bà tốt với tôi quá nên tôi muốn giúp đỡ bà, vì lúc này bà cần được giúp đỡ hơn lúc nào hết. Chú Thuận thì khi ở Sàigòn, khi ở trên này. Bây giờ hồn ma cụ tứ đại tôi đã hiện về, tình hình lại thêm rắc rối. Thôi, để các anh coi vấn đề ra sao. Tôi không thể nói gì về những điều mà tôi chưa hiểu rõ.
Cảnh muốn hỏi một đôi câu, nhưng cả ngày hôm nay đã xảy ra bao nhiêu là biến chuyển, nên trước khi cậu cất tiếng nói thì cậu đã ngủ gục.
Xe quặt vào đồn điền, Cảnh giựt mình tỉnh dậy. Mặt trời đã lặn ở đầu non. Chiếc xe tới đậu trước một tòa nhà hai tầng cất bằng đá và gỗ thông, chung quanh có đồi núi bao bọc. Trong bóng hoàng hôn, Cảnh và Phúc nhận thấy ngàn vạn cây trà, mọc khắp sườn đồi và thung lũng.
Ba cậu xuống xe. Châu đi trước dẫn lộ, trèo lên một cầu thang bằng gỗ tiếp đến cửa chính.
Vào tới phòng khách, một bà đứng tuổi, dáng người yếu ớt nhưng cốt cách rất phong lưu, tiến ra đón khách.
- Chào các cậu. Tôi rất vui mừng được tiếp các cậu. Cuộc hành trình có mệt lắm không?
- Kính chào bà, cuộc hành trình tốt lắm ạ, xin cám ơn bà.
Rồi nữ chủ nhân đưa khách vào phòng ăn.
- Tôi chắc các cậu từ xa tới đói lắm. Vậy mời các cậu dùng cơm với em Châu đây, rồi mai chúng ta sẽ nói chuyện. Bữa nay tôi hơi mệt nên muốn đi nghỉ sớm.
Bà gõ một tiếng trên cái cồng bằng đồng đen, một a xẩm đi vào.
- Lý à! Dọn cơm để các cậu xơi đi.
Lúc đó, một ông mà các cậu nhận ra là ông Thuận, cũng vừa vào tới, vẻ mặt đăm chiêu.
- Chào các cậu! – ông nói với một giọng trong trẻo. Chúng ta đã gặp nhau trong trường hợp rất lạ lùng, hôm qua… Tôi thấy tất cả câu chuyện đó thật là khó hiểu, mà không phải chỉ có một mình tôi.
- Cậu Phúc và cậu Cảnh, chúc các cậu ngủ ngon – bà Ngọc Sương nói – Cháu Thuận ơi! Đưa cô lên lầu đi.
- Thưa cô vâng.
Rồi hai người cùng ra. Châu vừa bật đèn vừa nói:
- Đêm ở đây xuống quá mau. Bên ngoài đã tối mịt rồi. Vậy bây giờ chúng ta ngồi vào bàn và nói chuyện. Các anh có thể đặt câu hỏi.
Lúc đó, a xẩm đẩy vào một cái bàn đầy các thứ thịt, rau, khoai, củ cải v.v… Cảnh thấy bụng đói như cào.
Ba cậu vừa ngồi xuống ghế thì nghe thấy tiếng kêu ré lên từ trên lầu đưa xuống. Tiếp theo là một sự im lặng đầy đe dọa.
- Đó là tiếng bà Ngọc Sương kêu! Để tôi lên coi – Châu vừa nói vừa nhảy lên cầu thang.
Cảnh, Phúc, xẩm Lý và mấy người gia nhân nữa cũng lên theo.
Cầu thang dẫn tới một hành lang, đằng cuối là một cánh cửa ngỏ. Đèn thắp sáng trong phòng bà Ngọc Sương. Bà nằm sóng soài trên giường. Ông Thuận đang vuốt cổ tay cho bà và nói với một giọng lo lắng.
- Cô Ngọc Sương, cô Ngọc Sương! Cô tỉnh lại đi!
Khi thấy mọi người chạy tới, ông liền ra lệnh:
- Xẩm Lý à! Lấy cho tôi lọ thuốc muối của bà đi.
A xẩm chạy tới phòng rửa mặt rồi trở lại với một cái lọ nhỏ, mở nút ra, đặt dưới mũi bà Ngọc Sương.
Một lát sau thì bà cử động tứ chi và tỉnh lại. Bà thều thào:
- Tôi xin lỗi nhé. Tôi đã kêu lên và ngất đi. Kỳ dị quá, lần đầu tiên việc này xảy đến cho tôi.
- Thưa bà, chuyện gì đó ạ? – Châu hỏi với một giọng lo âu – Sao bà phải kêu lên?
- Tôi đã thấy bóng ma – bà Ngọc Sương đáp và cố giữ cho giọng khỏi run – Khi tôi vừa bảo cháu Thuận trở xuống và tôi bước vào phòng, chưa kịp bật đèn, thì tôi nhìn về phía kia…
Rồi bà giơ tay chỉ về chỗ tường thụt vào, cạnh khung cửa sổ.
- Bóng ma rất rõ. Nó bận một chiếc áo xanh dài, rộng như chiếc áo của chú Trịnh Thường. Tôi chắc là đúng chú, tuy mặt trông lờ mờ.
Rồi bà nói tiếp, thấp giọng:
- Chú giận tôi, tôi biết lắm. Từ nhiều năm, má tôi đã hứa với chú rằng sau khi chú thất lộc, ngôi biệt thự ở Phú Lâm sẽ đóng cửa lại vĩnh viễn. Tất cả khu đất trống cũng như ngôi nhà sẽ không được bán đi hoặc sửa chữa theo một kiến trúc nào khác. Và lời hứa đó, tôi đã không giữ, tôi đã thỏa thuận bán ngôi nhà. Do đó, giấc ngủ nghìn thu của bà cô tôi đã bị xáo trộn. Chú Trịnh Thường yêu quí bà lắm. Chắc không bao giờ chú tha tội cho tôi.

Chương 6

Mặc dầu có những biến chuyển xảy ra vừa rồi, ba cậu vẫn ăn uống ngon lành và chuyện trò không ngớt.
Bà Ngọc Sương đã nằm nghỉ sau khi uống một viên thuốc an thần. Các gia nhân đều được lệnh xuống nhà dưới và không được hở ra đến ngoài câu chuyện vừa rồi. Nhưng sự vâng lời của họ không có gì bảo đảm lắm.
Ông Thuận trở lại phòng ăn, vẻ mặt bối rối.
- Thưa ông – Phúc hỏi – ông có trông thấy bóng ma vừa rồi không ạ?
Ông Thuận lắc đầu:
- Tôi đã đưa cô Ngọc Sương tới cửa phòng. Cầu thang không có đèn nên trên lầu tối. Cô vào phòng một mình. Tôi vừa quay xuống thì nghe thấy cô kêu. Lộn lại, tôi thấy cửa phòng hé mở và ánh đèn bật lên. Tôi đoán rằng ngón tay cô đã để trên hãm đèn và khi cô nom thấy hiện tượng đó thì cô bật đèn lên. Dĩ nhiên, dưới ánh đèn thì không còn trông thấy bóng ma nữa.
Lúc đó cô Sương hoảng hốt quá, tôi vội chạy tới thì cô ngất đi và tôi chỉ kịp đỡ cô khỏi ngã.
Ông Thuận lấy tay quệt mồ hôi trên trán rồi tiếp:
- Thế nào bọn gia nhân cũng sẽ tiết lộ tin này, khó thể ngăn cản được. Mai thì cả vùng này đều biết là có hồn ma hiện lên trong đồn điền.
- Thưa ông, có ngại báo chí sẽ đăng tin vụ này không? – Cảnh hỏi.
- Báo chí à? Thì họ đã làm mình điêu đứng mấy ngày nay rồi đó. Tôi lo là lo công nhân của đồn điền kia. Cô Sương đã nói với các cậu trong điện thoại rằng cô có nom thấy bóng ma trong phòng đêm trước phải không?
Cảnh và Phúc gật đầu.
- Không phải một mình cô, mà còn hai chị gia nhân cũng thấy bóng ma ở vườn cảnh. Tôi đã cố thuyết phục để họ tin là một chuyện ảo giác nhưng hôm nay thì cả thung lũng chỉ bàn tán về chuyện bóng ma từ Phú Lâm lên đây để quấy nhiễu đồn điền này.
- Thưa chú, chắc chú e ngại rằng các công nhân sẽ không chịu làm cho đồn điền có ma? – Châu hỏi.
- Đúng, cháu ạ, bóng ma này sẽ làm cho chúng ta phá sản mất.
Trở lại bình tĩnh hơn, ông Thuận nói tiếp:
- Nhưng, chúng ta chẳng nên làm phiền các vị khách đây với khía cạnh của vấn đề. Bây giờ các cậu có muốn xem kỹ lại chuỗi ngọc đã tìm thấy bữa qua không?
- Dạ có – cảnh và Phúc đáp với vẻ háo hức.
Luật sư Thuận bèn dẫn ba cậu qua phòng làm việc, có kê một bàn giấy, mấy ngăn tủ hồ sơ và một tủ sắt đựng bạc.
Ông Thuận ngồi xuống trước tủ sắt, xoay chữ, mở tủ rồi thò tay lôi ra một chiếc hộp giấy. Ông lấy chuỗi ngọc ra đặt trên tờ giấy thấm xanh đậm, chuỗi ngọc nổi bật lên với tất cả vẻ đẹp riêng của nó.
Cảnh và Phúc cúi xuống để ngắm nghía, Châu cũng làm theo.
Những viên ngọc tuy lớn nhưng không tròn đều, và mang một mầu sắc xám mờ rất kỳ lạ. Nó không giống như những viên ngọc tròn đều, sáng bóng, hồng hồng như má cậu Cảnh thường vẫn đeo.
- Ngọc gì mà mầu sắc lạ vậy? Phúc hỏi.
- Lạ thật đó! – ông Thuận đáp – Loại ngọc này đã tìm được ở một vùng nhỏ thuộc Ấn Độ Dương và bây giờ thì cũng hết rồi, nên nó thành vô giá. Người Á Đông chúng ta chuộng những viên ngọc có hình dáng và mầu sắc như thế này, tôi cũng không hiểu sao. Bây giờ chuỗi ngọc này cũng đáng giá hàng nửa tỷ bạc.
- Vậy thưa chú – Châu nói – bà Ngọc Sương sẽ có thể trả hết nợ nần và giữ lại cái đồn điền này ạ?
- Điều đó chưa lấy gì làm chắc. Bởi vì cụ Trịnh Thường đã tặng chuỗi ngọc này cho cụ bà. Vậy người thừa kế chuỗi ngọc phải là thân nhân gần nhất của cụ ông.
- Nhưng, thưa chú, cụ bà đã bị gia đình từ bỏ rồi kia mà? Vả lại, tất cả những nhà quý tộc Trung Hoa đã bị sát hại hết trong cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) tại Trung Quốc.
- Có thể còn một số nào đó đã trốn được ra ngoại quốc. Dù sao, chú mới nhận được của một đồng nghiệp trạng sư ở Sàigòn một văn thư cho biết ông có thân chủ là thân nhân của cụ bà Trịnh Thường muốn đòi lấy chuỗi ngọc. Như vậy là mình phải đi theo kiện và chưa biết đến bao giờ tòa án mới có thể xác định ai là người được quyền thụ hưởng chuỗi ngọc này.
Châu sầm mặt lại và đang sắp muốn nói thì có tiếng gõ cửa.
- Cứ vào – ông Thuận đáp.
Cửa mở ra. Một người đàn ông đứng tuổi, to lớn, da đen sạm và đôi mắt thật sắc, bước vào, vừa thở hồng hộc vừa nói:
- Thưa luật sư, có ba người cai vừa trông thấy bóng ma ở kho số 1. Sự kinh khủng đã lan tràn trong đồn điền.
- Trời ơi! Chết thật thôi! Tôi tới ngay bây giờ, bác Ngưu!
Dứt lời, ông Thuận cất chuỗi ngọc vào tủ sắt, đóng cửa tủ lại và chạy ra ngoài cùng ba cậu học sinh. Một chiếc jeep đậu trước thềm. Tất cả nhẩy lên xe. Cảnh phải ngồi lên đùi Phúc. Bác Ngưu cầm lái, quay xe ra và lao như gió vào đêm tối.
Cảnh và Phúc còn lo ngồi cho khỏi ngã, nên không còn thời giờ đâu mà ngắm nhìn cảnh vật chung quanh. Chiếc Jeep nhẩy chồm chồm trên khúc đường gồ ghề sống trâu chạy ngang con đường đất. Bỗng xe dừng lại trước một căn nhà kho, đèn pha chiếu sáng những bức tường mới xây.
Mọi người nhẩy xuống. Hương trà từ trong kho bốc ra thơm ngào ngạt.
- Bác Ngưu là quản lý đồn điền – Châu nói với hai bạn – Bác chỉ huy công việc khai thác trà.
Quản lý tắt đèn pha. Bỗng một công nhân quần áo lam lũ tiến lại.
- Thế nào, Minh? – Bác Ngưu hỏi với giọng nạt nộ – Có ai trông thấy ma sau khi ta đi khỏi đây không?
- Thưa ông quản lý, không ạ.
- Ba người cai đâu?
- Thưa ông, con không rõ. Các bác ấy đi khỏi rồi, có lẽ qua làng bên kia để uống cà phê và đang kể lể cho mọi người nghe họ đã trông thấy bóng ma.
- Chính là cái điều cần phải tránh. Sao anh không cản họ lại?
- Thưa ông, con đã cố nói phải trái, nhưng họ vẫn có vẻ sợ hãi lắm.
- Bây giờ – ông Thuận nói – tốt hơn hết là bác quản lý nên chạy ngay tới làng bên kia và nói cho họ yên dạ.
- Thưa Luật sư, vâng. Bây giờ tôi hãy đưa ông về nhà trước đã?
- Được.
Bỗng ông Thuận vỗ trán kêu lên:
- Trời ơi! Châu, cháu có nhớ là chú đã khóa tủ sắt cẩn thận sau khi cất chuỗi ngọc không?
- Thưa chú, cháu không rõ vì lúc đó chú ngồi che khuất cửa tủ, cháu không nom thấy gì cả.
- Cháu thấy – Phúc kêu lên – Lúc đó ông đóng cửa rồi ông vặn quả nắm.
- Phải, phải, nhưng tôi có xoay chữ để khóa không?
Phúc suy nghĩ một lát rồi đáp:
- Thưa, có lẽ không xoay chữ.
- Ừ, tôi cũng nghĩ như vậy. Lúc đó vội đi nên tôi đã để chuỗi ngọc trong tủ sắt không khóa. Bác Ngưu ơi, đưa tôi về nhà gấp. Lát nữa bác sẽ quay lại đây đón các cậu.
- Vâng. Cậu Châu! Cậu giữ lấy chiếc đèn bấm này.
Chiếc xe khởi hành và biến vào bóng tối.
- Kỳ lạ thật! – Cảnh nói – Con ma này ở khắp mọi nơi. Nhưng anh Châu cho tôi biết tại sao mọi người lại sợ thiên hạ bàn tán đến thế.
Ba cậu học sinh đứng chụm vào nhau trong đêm tối. Không khí im lặng, chỉ có tiếng côn trùng rên rỉ.
- Lý do vì mùa trà đã tới – Châu đáp – Chúng tôi cần phải hái búp và phơi sấy trong những ngày sắp tới. Trà để già quá không được. Nhân công phải mướn trong vùng này. Họ nghèo khó, ít học, lại mê tín dị đoan.
Mấy ngày nay, họ tỏ vẻ lo sợ khi được tin một hồn ma của gia đình này đã hiện lên tại biệt thự Phú Lâm. Nhưng bây giờ thì họ sợ quá đến nỗi họ sẽ bỏ việc. Trong khi đó thì không mướn được nhân công khác nên mùa trà này sẽ mất. Đó là một tai họa lớn, vì bà cô tôi đã nợ nần đến tận cổ rồi.
- Quả thật anh thiếu may mắn – Phúc nói với giọng ái ngại – Khánh tận vì lỗi của một con ma!
- Không – Châu đáp – tôi không muốn tin điều đó. Hương hồn của cụ nội tôi chắc không bao giờ muốn làm hại con cháu. Có lẽ đây là một con quỷ nó muốn làm hại chúng tôi.
Châu nói với một giọng đầy tin tưởng nên Cảnh cũng muốn tin như thế. Nhưng nếu ai trông thấy bóng ma lờ mờ bận một chiếc áo xanh dài rộng thì tất phải tin rằng ông Trịnh Thường đã hiện về để quấy nhiễu những người sống.
Rồi Cảnh nói:
- Vì mấy người cai đã trông thấy bóng ma ở đây thì chúng ta thử tìm kiếm xem nó đâu.
- Tôi thấy chẳng ích lợi gì mấy – Phúc đáp – Dầu sao mình cũng đã trông thấy nó rồi. Cậu muốn bắt nó chăng?
Vừa lúc đó, ánh đèn pha xuyên thủng màn đêm và chiếc Jeep đã chạy tới đậu cạnh ba cậu học sinh.
- Lên nhanh đi các cậu – bác Ngưu mời – Tôi đưa các cậu về nhà rồi tôi phải qua làng bên kia để kiếm ba anh cai.
- Cám ơn bác Ngưu – Châu đáp – Thôi để chúng tôi đi bộ cũng được, có non hai cây số ấy mà. Đây, trả lại bác chiếc đèn bấm. Trăng đang lên, chúng tôi thấy đường rõ lắm.
- Vâng, xin tùy ý các cậu. Tôi mong rằng sự kinh dị chưa lan tràn mọi chỗ, nếu không thì sáng mai sẽ chẳng còn mống công nhân nào tới làm nữa.
Rồi chiếc Jeep gầm lên, vọt về phía làng xóm có vài ánh sáng lập lòe.
Ba cậu học sinh bèn tiến vào con đường đất, mầu trắng lờ mờ dưới ánh trăng. Mùi hương trà bốc lên tứ phía. Châu im lặng. Một lát sau cậu mới nói:
- Xin lỗi đã để các anh buồn tẻ. Vừa rồi tôi nghĩ đến bà cô tôi. Cái đồn điền này, công việc khai thác này đối với bà cô tôi rất lưu luyến! Bà cụ thân mẫu và bà cô tôi đã dành tất cả cuộc đời để gây dựng nó lên. Và ngày nay, tất cả cơ nghiệp này có thể bị mang đoạn mại để trả nợ. Chỉ còn một hy vọng duy nhất : Chứng minh rằng chuỗi ngọc huyền diệu là thuộc quyền sở hữu của chúng tôi và bán nó đi để trả nợ.
- Tôi chắc rằng anh sẽ đạt được ước nguyện – Phúc khuyến khích – Nhưng anh Châu, có thật anh tin là một con quỷ đã cải trang thành bóng ma của ông cụ nội hay không?
- Tôi dám tin chắc. Bên Tàu, người nào cũng tin có quỷ, nhưng có quỷ thiện và quỷ ác. Con quỷ này chắc nó ác lắm.
Ba cậu đã về tới nhà. Ánh đèn còn sáng ở nơi phòng khách vắng vẻ.
- Gia nhân đã đi ngủ cả rồi – Châu nói – Nhưng không hiểu sao chú Thuận lại không đợi chúng ta. Chú muốn đặt với các anh vài câu hỏi, chắc chú đang ở trong phòng làm việc.
Ba cậu đi qua hành lang tới gõ cửa phòng làm việc. Bỗng họ nghe thấy tiếng rên rỉ bên trong.
Châu vừa mở cửa ra thì mọi người trông thấy ông Thuận bị trói chân tay nằm dưới đất, đầu phủ một cái túi giấy.
- Chú Thuận! – Châu kêu lên.
Rồi cậu chạy tới giựt cái túi ra. Bộ mặt nhăn nhó của ông Luật sư lộ ra, nhưng ông không nói lên được vì miệng bị bịt kín bằng chiếc khăn.
Châu bèn rút con dao trong túi ra cắt đôi cái khăn bịt miệng của ông. Rồi trong khi ông Thuận đang thở, cậu cắt luôn dây trói ở chân tay. Ông Thuận ngồi lên và bóp cổ tay cho máu chạy đều.
- Thưa ông, chuyện gì đã xảy ra? – Phúc hỏi.
- Khi tôi vừa bước vào phòng này, một tên gian phi nấp sau cánh cửa nhẩy ra nắm lấy tôi, trong khi một tên khác bịt miệng và trói chân tay tôi lại. Rồi chúng đặt tôi nằm xuống đất và trùm cái túi này lên đầu tôi. Sau đó, tôi nghe cánh cửa tủ sắt mở và…
Như đoán biết sự gì đã xảy ra, ông Thuận vội chạy tới chiếc tủ sắt hé cánh, mở rộng thêm, thò tay vào rồi rút tay ra…
- Trống rỗng!
Nỗi thất vọng hiện trên nét mặt, ông than thở:
- Những viên ngọc huyền diệu đã bị chúng lấy mất rồi!

Chương 7
Mặc dầu có những biến chuyển xảy ra vừa rồi, ba cậu vẫn ăn uống ngon lành và chuyện trò không ngớt.
Bà Ngọc Sương đã nằm nghỉ sau khi uống một viên thuốc an thần. Các gia nhân đều được lệnh xuống nhà dưới và không được hở ra đến ngoài câu chuyện vừa rồi. Nhưng sự vâng lời của họ không có gì bảo đảm lắm.
Ông Thuận trở lại phòng ăn, vẻ mặt bối rối.
- Thưa ông – Phúc hỏi – ông có trông thấy bóng ma vừa rồi không ạ?
Ông Thuận lắc đầu:
- Tôi đã đưa cô Ngọc Sương tới cửa phòng. Cầu thang không có đèn nên trên lầu tối. Cô vào phòng một mình. Tôi vừa quay xuống thì nghe thấy cô kêu. Lộn lại, tôi thấy cửa phòng hé mở và ánh đèn bật lên. Tôi đoán rằng ngón tay cô đã để trên hãm đèn và khi cô nom thấy hiện tượng đó thì cô bật đèn lên. Dĩ nhiên, dưới ánh đèn thì không còn trông thấy bóng ma nữa.
Lúc đó cô Sương hoảng hốt quá, tôi vội chạy tới thì cô ngất đi và tôi chỉ kịp đỡ cô khỏi ngã.
Ông Thuận lấy tay quệt mồ hôi trên trán rồi tiếp:
- Thế nào bọn gia nhân cũng sẽ tiết lộ tin này, khó thể ngăn cản được. Mai thì cả vùng này đều biết là có hồn ma hiện lên trong đồn điền.
- Thưa ông, có ngại báo chí sẽ đăng tin vụ này không? – Cảnh hỏi.
- Báo chí à? Thì họ đã làm mình điêu đứng mấy ngày nay rồi đó. Tôi lo là lo công nhân của đồn điền kia. Cô Sương đã nói với các cậu trong điện thoại rằng cô có nom thấy bóng ma trong phòng đêm trước phải không?
Cảnh và Phúc gật đầu.
- Không phải một mình cô, mà còn hai chị gia nhân cũng thấy bóng ma ở vườn cảnh. Tôi đã cố thuyết phục để họ tin là một chuyện ảo giác nhưng hôm nay thì cả thung lũng chỉ bàn tán về chuyện bóng ma từ Phú Lâm lên đây để quấy nhiễu đồn điền này.
- Thưa chú, chắc chú e ngại rằng các công nhân sẽ không chịu làm cho đồn điền có ma? – Châu hỏi.
- Đúng, cháu ạ, bóng ma này sẽ làm cho chúng ta phá sản mất.
Trở lại bình tĩnh hơn, ông Thuận nói tiếp:
- Nhưng, chúng ta chẳng nên làm phiền các vị khách đây với khía cạnh của vấn đề. Bây giờ các cậu có muốn xem kỹ lại chuỗi ngọc đã tìm thấy bữa qua không?
- Dạ có – cảnh và Phúc đáp với vẻ háo hức.
Luật sư Thuận bèn dẫn ba cậu qua phòng làm việc, có kê một bàn giấy, mấy ngăn tủ hồ sơ và một tủ sắt đựng bạc.
Ông Thuận ngồi xuống trước tủ sắt, xoay chữ, mở tủ rồi thò tay lôi ra một chiếc hộp giấy. Ông lấy chuỗi ngọc ra đặt trên tờ giấy thấm xanh đậm, chuỗi ngọc nổi bật lên với tất cả vẻ đẹp riêng của nó.
Cảnh và Phúc cúi xuống để ngắm nghía, Châu cũng làm theo.
Những viên ngọc tuy lớn nhưng không tròn đều, và mang một mầu sắc xám mờ rất kỳ lạ. Nó không giống như những viên ngọc tròn đều, sáng bóng, hồng hồng như má cậu Cảnh thường vẫn đeo.
- Ngọc gì mà mầu sắc lạ vậy? Phúc hỏi.
- Lạ thật đó! – ông Thuận đáp – Loại ngọc này đã tìm được ở một vùng nhỏ thuộc Ấn Độ Dương và bây giờ thì cũng hết rồi, nên nó thành vô giá. Người Á Đông chúng ta chuộng những viên ngọc có hình dáng và mầu sắc như thế này, tôi cũng không hiểu sao. Bây giờ chuỗi ngọc này cũng đáng giá hàng nửa tỷ bạc.
- Vậy thưa chú – Châu nói – bà Ngọc Sương sẽ có thể trả hết nợ nần và giữ lại cái đồn điền này ạ?
- Điều đó chưa lấy gì làm chắc. Bởi vì cụ Trịnh Thường đã tặng chuỗi ngọc này cho cụ bà. Vậy người thừa kế chuỗi ngọc phải là thân nhân gần nhất của cụ ông.
- Nhưng, thưa chú, cụ bà đã bị gia đình từ bỏ rồi kia mà? Vả lại, tất cả những nhà quý tộc Trung Hoa đã bị sát hại hết trong cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) tại Trung Quốc.
- Có thể còn một số nào đó đã trốn được ra ngoại quốc. Dù sao, chú mới nhận được của một đồng nghiệp trạng sư ở Sàigòn một văn thư cho biết ông có thân chủ là thân nhân của cụ bà Trịnh Thường muốn đòi lấy chuỗi ngọc. Như vậy là mình phải đi theo kiện và chưa biết đến bao giờ tòa án mới có thể xác định ai là người được quyền thụ hưởng chuỗi ngọc này.
Châu sầm mặt lại và đang sắp muốn nói thì có tiếng gõ cửa.
- Cứ vào – ông Thuận đáp.
Cửa mở ra. Một người đàn ông đứng tuổi, to lớn, da đen sạm và đôi mắt thật sắc, bước vào, vừa thở hồng hộc vừa nói:
- Thưa luật sư, có ba người cai vừa trông thấy bóng ma ở kho số 1. Sự kinh khủng đã lan tràn trong đồn điền.
- Trời ơi! Chết thật thôi! Tôi tới ngay bây giờ, bác Ngưu!
Dứt lời, ông Thuận cất chuỗi ngọc vào tủ sắt, đóng cửa tủ lại và chạy ra ngoài cùng ba cậu học sinh. Một chiếc jeep đậu trước thềm. Tất cả nhẩy lên xe. Cảnh phải ngồi lên đùi Phúc. Bác Ngưu cầm lái, quay xe ra và lao như gió vào đêm tối.
Cảnh và Phúc còn lo ngồi cho khỏi ngã, nên không còn thời giờ đâu mà ngắm nhìn cảnh vật chung quanh. Chiếc Jeep nhẩy chồm chồm trên khúc đường gồ ghề sống trâu chạy ngang con đường đất. Bỗng xe dừng lại trước một căn nhà kho, đèn pha chiếu sáng những bức tường mới xây.
Mọi người nhẩy xuống. Hương trà từ trong kho bốc ra thơm ngào ngạt.
- Bác Ngưu là quản lý đồn điền – Châu nói với hai bạn – Bác chỉ huy công việc khai thác trà.
Quản lý tắt đèn pha. Bỗng một công nhân quần áo lam lũ tiến lại.
- Thế nào, Minh? – Bác Ngưu hỏi với giọng nạt nộ – Có ai trông thấy ma sau khi ta đi khỏi đây không?
- Thưa ông quản lý, không ạ.
- Ba người cai đâu?
- Thưa ông, con không rõ. Các bác ấy đi khỏi rồi, có lẽ qua làng bên kia để uống cà phê và đang kể lể cho mọi người nghe họ đã trông thấy bóng ma.
- Chính là cái điều cần phải tránh. Sao anh không cản họ lại?
- Thưa ông, con đã cố nói phải trái, nhưng họ vẫn có vẻ sợ hãi lắm.
- Bây giờ – ông Thuận nói – tốt hơn hết là bác quản lý nên chạy ngay tới làng bên kia và nói cho họ yên dạ.
- Thưa Luật sư, vâng. Bây giờ tôi hãy đưa ông về nhà trước đã?
- Được.
Bỗng ông Thuận vỗ trán kêu lên:
- Trời ơi! Châu, cháu có nhớ là chú đã khóa tủ sắt cẩn thận sau khi cất chuỗi ngọc không?
- Thưa chú, cháu không rõ vì lúc đó chú ngồi che khuất cửa tủ, cháu không nom thấy gì cả.
- Cháu thấy – Phúc kêu lên – Lúc đó ông đóng cửa rồi ông vặn quả nắm.
- Phải, phải, nhưng tôi có xoay chữ để khóa không?
Phúc suy nghĩ một lát rồi đáp:
- Thưa, có lẽ không xoay chữ.
- Ừ, tôi cũng nghĩ như vậy. Lúc đó vội đi nên tôi đã để chuỗi ngọc trong tủ sắt không khóa. Bác Ngưu ơi, đưa tôi về nhà gấp. Lát nữa bác sẽ quay lại đây đón các cậu.
- Vâng. Cậu Châu! Cậu giữ lấy chiếc đèn bấm này.
Chiếc xe khởi hành và biến vào bóng tối.
- Kỳ lạ thật! – Cảnh nói – Con ma này ở khắp mọi nơi. Nhưng anh Châu cho tôi biết tại sao mọi người lại sợ thiên hạ bàn tán đến thế.
Ba cậu học sinh đứng chụm vào nhau trong đêm tối. Không khí im lặng, chỉ có tiếng côn trùng rên rỉ.
- Lý do vì mùa trà đã tới – Châu đáp – Chúng tôi cần phải hái búp và phơi sấy trong những ngày sắp tới. Trà để già quá không được. Nhân công phải mướn trong vùng này. Họ nghèo khó, ít học, lại mê tín dị đoan.
Mấy ngày nay, họ tỏ vẻ lo sợ khi được tin một hồn ma của gia đình này đã hiện lên tại biệt thự Phú Lâm. Nhưng bây giờ thì họ sợ quá đến nỗi họ sẽ bỏ việc. Trong khi đó thì không mướn được nhân công khác nên mùa trà này sẽ mất. Đó là một tai họa lớn, vì bà cô tôi đã nợ nần đến tận cổ rồi.
- Quả thật anh thiếu may mắn – Phúc nói với giọng ái ngại – Khánh tận vì lỗi của một con ma!
- Không – Châu đáp – tôi không muốn tin điều đó. Hương hồn của cụ nội tôi chắc không bao giờ muốn làm hại con cháu. Có lẽ đây là một con quỷ nó muốn làm hại chúng tôi.
Châu nói với một giọng đầy tin tưởng nên Cảnh cũng muốn tin như thế. Nhưng nếu ai trông thấy bóng ma lờ mờ bận một chiếc áo xanh dài rộng thì tất phải tin rằng ông Trịnh Thường đã hiện về để quấy nhiễu những người sống.
Rồi Cảnh nói:
- Vì mấy người cai đã trông thấy bóng ma ở đây thì chúng ta thử tìm kiếm xem nó đâu.
- Tôi thấy chẳng ích lợi gì mấy – Phúc đáp – Dầu sao mình cũng đã trông thấy nó rồi. Cậu muốn bắt nó chăng?
Vừa lúc đó, ánh đèn pha xuyên thủng màn đêm và chiếc Jeep đã chạy tới đậu cạnh ba cậu học sinh.
- Lên nhanh đi các cậu – bác Ngưu mời – Tôi đưa các cậu về nhà rồi tôi phải qua làng bên kia để kiếm ba anh cai.
- Cám ơn bác Ngưu – Châu đáp – Thôi để chúng tôi đi bộ cũng được, có non hai cây số ấy mà. Đây, trả lại bác chiếc đèn bấm. Trăng đang lên, chúng tôi thấy đường rõ lắm.
- Vâng, xin tùy ý các cậu. Tôi mong rằng sự kinh dị chưa lan tràn mọi chỗ, nếu không thì sáng mai sẽ chẳng còn mống công nhân nào tới làm nữa.
Rồi chiếc Jeep gầm lên, vọt về phía làng xóm có vài ánh sáng lập lòe.
Ba cậu học sinh bèn tiến vào con đường đất, mầu trắng lờ mờ dưới ánh trăng. Mùi hương trà bốc lên tứ phía. Châu im lặng. Một lát sau cậu mới nói:
- Xin lỗi đã để các anh buồn tẻ. Vừa rồi tôi nghĩ đến bà cô tôi. Cái đồn điền này, công việc khai thác này đối với bà cô tôi rất lưu luyến! Bà cụ thân mẫu và bà cô tôi đã dành tất cả cuộc đời để gây dựng nó lên. Và ngày nay, tất cả cơ nghiệp này có thể bị mang đoạn mại để trả nợ. Chỉ còn một hy vọng duy nhất : Chứng minh rằng chuỗi ngọc huyền diệu là thuộc quyền sở hữu của chúng tôi và bán nó đi để trả nợ.
- Tôi chắc rằng anh sẽ đạt được ước nguyện – Phúc khuyến khích – Nhưng anh Châu, có thật anh tin là một con quỷ đã cải trang thành bóng ma của ông cụ nội hay không?
- Tôi dám tin chắc. Bên Tàu, người nào cũng tin có quỷ, nhưng có quỷ thiện và quỷ ác. Con quỷ này chắc nó ác lắm.
Ba cậu đã về tới nhà. Ánh đèn còn sáng ở nơi phòng khách vắng vẻ.
- Gia nhân đã đi ngủ cả rồi – Châu nói – Nhưng không hiểu sao chú Thuận lại không đợi chúng ta. Chú muốn đặt với các anh vài câu hỏi, chắc chú đang ở trong phòng làm việc.
Ba cậu đi qua hành lang tới gõ cửa phòng làm việc. Bỗng họ nghe thấy tiếng rên rỉ bên trong.
Châu vừa mở cửa ra thì mọi người trông thấy ông Thuận bị trói chân tay nằm dưới đất, đầu phủ một cái túi giấy.
- Chú Thuận! – Châu kêu lên.
Rồi cậu chạy tới giựt cái túi ra. Bộ mặt nhăn nhó của ông Luật sư lộ ra, nhưng ông không nói lên được vì miệng bị bịt kín bằng chiếc khăn.
Châu bèn rút con dao trong túi ra cắt đôi cái khăn bịt miệng của ông. Rồi trong khi ông Thuận đang thở, cậu cắt luôn dây trói ở chân tay. Ông Thuận ngồi lên và bóp cổ tay cho máu chạy đều.
- Thưa ông, chuyện gì đã xảy ra? – Phúc hỏi.
- Khi tôi vừa bước vào phòng này, một tên gian phi nấp sau cánh cửa nhẩy ra nắm lấy tôi, trong khi một tên khác bịt miệng và trói chân tay tôi lại. Rồi chúng đặt tôi nằm xuống đất và trùm cái túi này lên đầu tôi. Sau đó, tôi nghe cánh cửa tủ sắt mở và…
Như đoán biết sự gì đã xảy ra, ông Thuận vội chạy tới chiếc tủ sắt hé cánh, mở rộng thêm, thò tay vào rồi rút tay ra…
- Trống rỗng!
Nỗi thất vọng hiện trên nét mặt, ông than thở:
- Những viên ngọc huyền diệu đã bị chúng lấy mất rồi!

Chương 8
Sáng hôm đó, trong khi Linh đang bận khách tíu tít ở cửa hàng thì Cảnh, Phúc và Châu rủ nhau đi thăm đồn điền trà và hang đá. Các cậu chẳng ngờ rằng những sự phiêu lưu nguy hiểm đang đợi chờ các cậu.
Bữa đó, lý do chính là các cậu không muốn có mặt ở nhà, vừa vô ích vừa có hại.
Vô ích, vì nếu nhân viên cảnh sát đoán đúng thì việc điều tra ở đồn điền sẽ chẳng mang lại được kết quả gì : chuỗi ngọc đã bị quân gian mang về Sàigòn rồi.
Có hại, vì một số phóng viên nhà báo đã kéo tới đồn điền để săn tin. Nếu họ nhận thấy sự hiện diện của ba cậu học sinh, bà Ngọc Sương sợ rằng họ sẽ dùng làm đề tài để đăng những tin tức hấp dẫn.
Vì vậy ba cậu chỉ ăn uống qua loa rồi chạy ra chuồng ngựa thắng yên cương cho ba con. Đúng ra là Châu làm cả, vì Cảnh và Phúc không thạo công việc đó.
Nhẩy lên lưng ngựa, các cậu tiến về phía Nam, đèn bấm giắt ở thắt lưng.
Họ đi dọc theo những luống trà đã trổ búp ra chi chít.
Châu có vẻ buồn rầu nói:
- Đáng lẽ phải có đến sáu chục công nhân để hái trà hôm nay, mà hiện chỉ thấy độ mươi người. Những người khác không tới vì sợ ma. Nếu tình trạng này kéo dài thì bà cô tôi không thể nào trả được nợ và sẽ bị khánh tận.
Cảnh và Phúc tìm câu gì nói để trấn an tinh thần anh bạn.
- Xếp của tụi tôi là anh Linh rất tài ba – Phúc nói – Nếu anh tìm ra biện pháp để xua đuổi bóng ma thì các công nhân sẽ trở lại làm việc.
- Nếu vậy phải hành động gấp rút – Châu đáp – Để chận họ sẽ đi làm nơi khác. Sáng nay xẩm Lý có ý nói tất cả lỗi là do tôi : chính tôi đã mang tai họa tới cho gia đình này kể từ khi tôi từ Hồng Kông về đây, trên một năm nay. Vậy có lẽ tôi phải trở lại bên đó.
- Anh nghĩ lầm rồi! – Cảnh nói – Sao lại có thể mang tai họa đến cho một người khi anh chỉ muốn làm điều tốt cho người đó?
- Tôi không rõ – Châu gật đầu đáp – Một điều chắc chắn là từ khi tôi trở về đây, nhiều sự rủi ro đã xảy đến. Nào là kho bị cháy, máy điện hư, máy cày trục trặc, trà bị hư mốc v.v…
- Nhưng đâu phải lỗi ở anh? – Phúc cãi.
- Cái đó còn tùy. Nếu tôi trở lại Hồng Kông, có lẽ bóng ma sẽ rời đây cùng với tôi và sự thịnh vượng lại trở về với đồn điền. Bất cứ vì lý do gì, tôi không muốn làm cho bà cô tôi bị thua thiệt.
Cảnh lái câu chuyện sang đầu đề khác:
- Anh kêu bà Ngọc Sương là bà cô và ông Thuận là chú. Thế dây liên hệ như thế nào? Cụ Trịnh Thường có phải là ông nội của anh không?
- Đó là cụ nội tôi, còn bà Ngọc Sương là bà cô tôi và ông Thuận là người cháu họ xa của bà. Tôi gọi ông là chú cho nó thân. Ngoài ra, không còn người thân thích nào khác.
Phúc ngắm nhìn thung lũng bao la, ngoắt ngoéo, trồng đầy những cây trà.
- Vậy tất cả những đất đai này là của anh?
- Đâu có, đây là của bà Sương, bà muốn cho tôi tất cả, nhưng tôi từ chối. Bây giờ bà lại muốn giao cho tôi quyền sử dụng, nhưng tôi muốn chia một nửa cho chú Thuận. Dầu sao thì chú cũng đã giúp bà Sương để làm cho đồn điền này đạt tới mức quan trọng hiện tại. Tuy nhiên, nếu phải bán đi để trả nợ, thì chẳng còn ai được chút gì nữa.
Một chiếc xe jeep chạy tới. Ba cậu kỵ mã vội đứng dẹp sang một bên để nhường lối. Châu cưỡi con Huyền Anh, lông đen như mun trông thật hùng vỹ. Phúc cưỡi con Đạm Vân, vóc dáng rất lanh lẹ, còn Cảnh cưỡi con Ngọc Hồng, có vẻ hiền hòa nhất đám.
Xe dừng lại, bác Ngưu thò cổ ra:
- Chào cậu Châu! Sáng nay quá ít công nhân tới làm, phải không cậu?
Châu gật đầu.
- Chỉ vì ba chú cai của mình đó. Tôi rán tuyển một số công nhân khác để thay vào, nhưng chưa chắc có kết quả. Tôi phải về phúc trình với bà chủ. Chuyện này không phải chơi đâu cậu ạ.
Rồi chiếc xe jeep phóng đi. Ba cậu lại giựt cương cho ngựa đi. Châu cố xua đuổi nỗi buồn.
Ba cậu tiếp tục lần theo thung lũng. Quá trưa, họ thấy đói bụng và nhớ tới gói bánh mì, bình nước họ mang theo, cùng vài bó rơm cho ngựa.
- Tôi biết một chỗ này mát mẻ dễ chịu lắm – Châu nói.
Rồi cậu dẫn hai bạn tới một ngôi nhà đã cổ, cạnh con đường nhỏ bên sườn phía Tây thung lũng. Những khối đá dựng xiên trải nhiều bóng mát. Ba cậu xuống ngựa buộc vào gốc cây, rồi lấy rơm cho chúng ăn. Xong, họ vào trong nhà, ngồi xuống đất để nghỉ. Ở đây, không khí mát rượi. Họ vừa ăn vừa nhìn ra ngoài thung lũng, vừa chuyện trò vui vẻ.
Châu kể cho hai bạn nghe cuộc đời vui tươi của cậu ở Hồng Kông, có nhiều bạn bè, không thui thủi một mình như ở đây.
Bỗng các cậu trông thấy một chiếc xe vận tải chạy tới đậu trước các kho dùng để ủ trà đen và chứa các máy cày, cách đó vài trăm thước. Mươi người từ trên xe nhảy xuống, đứng tụ tập như chờ đợi cái gì.
- Lúc này đáng lẽ họ phải đang hái trà chứ? – Châu chau mày nói – Sao lại ở không thế này?
Chiếc xe jeep của bác Ngưu cũng vừa tới đậu cạnh đó, rồi bác tiến vào trong kho, bọn người kia theo sau.
- Có lẽ họ vào sửa chữa máy cày – Châu nói – Kỳ cục! Sao lại làm công việc đó hôm nay? Tôi không thích bác Ngưu lắm, vì tuy bác thạo nghề và có uy quyền với công nhân, nhưng bác hơi hung dữ… Bây giờ chúng ta lại lên đường, các bạn đi!
Phúc đứng vùng dậy, chẳng may chiếc đèn bấm của cậu tuột ra rơi xuống đất. Nhặt lên, cậu thấy bóng và kính đã vỡ.
- Chết chửa, đèn tôi bị hư rồi.
- Hai chiếc đèn có lẽ cũng đủ – Châu nói – Tuy nhiên…
Thấy chiếc xe jeep của bác Ngưu vẫn đậu trước dãy nhà kho, cậu đề nghị:
- Hay là anh lại mượn chiếc đèn bấm của bác Ngưu, mà bác đưa tôi mượn tối qua đó. Nó nằm luôn luôn trong hộp đồ nghề của bác ở trên xe. Chiều về ta sẽ trả lại bác. Để tôi đi lấy cho.
- Không, không, tôi đã vô ý để vỡ chiếc đèn này thì để tôi đi mới phải.
Châu bèn viết vài chữ cho bác Ngưu để bác rõ.
- Bác ta không ưa bị phiền nhiễu trong khi đang làm việc. Vậy anh chỉ việc để mảnh giấy này vào hộp đồ nghề của bác là đủ. Vả lại, chiếc đèn này là của bà Ngọc Sương, chúng ta cũng có quyền sử dụng chứ.
Phúc lên ngựa và chạy tới chỗ xe jeep đậu. Một tay, cậu mở nắp hộp và thò vào lục lọi. Chiếc đèn bấm nằm ở một góc hộp. Cậu cầm lên giắt vào thắt lưng, rồi cậu để mảnh giấy của Châu vào thay thế. Để bác Ngưu trông thấy, cậu cứ để hộp mở nắp. Xong xuôi, cậu trở lại chỗ hai bạn đang đợi.
Vừa đi được lối trăm thước, cậu nghe thấy tiếng người kêu. Quay lại, cậu thấy bác Ngưu đang đứng cạnh xe jeep, vừa vẫy cậu vừa hét to.
Phúc bèn giơ cao chiếc đèn bấm lên và chỉ tay vào chiếc hộp đồ nghề, để bác Ngưu hiểu mà đọc mảnh giấy. Nhưng không, bác ta vội nhẩy lên xe và phóng đuổi theo Phúc. Những công nhân trong kho đổ ra xem cuộc rượt bắt.
Phúc thấy bác Ngưu muốn đuổi bắt mình, cậu bèn hãm ngựa lại đứng đợi.
Con Đam Vân bước sang một bên, hai tai cụp xuống, có vẻ sốt ruột. Nó cứ nhìn trừng trừng vào chiếc xe jeep đang chạy tới, tiếng máy kêu ầm ĩ.
Bác Ngưu thắng rít lại, nhẩy xuống đất như người bị bật từ ghế lên, rồi xông lại chỗ Phúc.
- Đồ ăn cắp, đồ mất dạy! – Bác hét to – Tao sẽ cho mày một bài học!
Con Đạm Vân thấy vậy phát hoảng vội cất vó phóng nước đại qua nhiều vườn trà về phía núi cao. Phúc chẳng biết làm thế nào để kìm ngựa lại.
Cậu phải lấy hai đùi kẹp chặt lấy mình ngựa, hai tay thì nắm lấy cuống yên cho khỏi ngã.

Chương 9.
Sáng hôm đó, trong khi Linh đang bận khách tíu tít ở cửa hàng thì Cảnh, Phúc và Châu rủ nhau đi thăm đồn điền trà và hang đá. Các cậu chẳng ngờ rằng những sự phiêu lưu nguy hiểm đang đợi chờ các cậu.
Bữa đó, lý do chính là các cậu không muốn có mặt ở nhà, vừa vô ích vừa có hại.
Vô ích, vì nếu nhân viên cảnh sát đoán đúng thì việc điều tra ở đồn điền sẽ chẳng mang lại được kết quả gì : chuỗi ngọc đã bị quân gian mang về Sàigòn rồi.
Có hại, vì một số phóng viên nhà báo đã kéo tới đồn điền để săn tin. Nếu họ nhận thấy sự hiện diện của ba cậu học sinh, bà Ngọc Sương sợ rằng họ sẽ dùng làm đề tài để đăng những tin tức hấp dẫn.
Vì vậy ba cậu chỉ ăn uống qua loa rồi chạy ra chuồng ngựa thắng yên cương cho ba con. Đúng ra là Châu làm cả, vì Cảnh và Phúc không thạo công việc đó.
Nhẩy lên lưng ngựa, các cậu tiến về phía Nam, đèn bấm giắt ở thắt lưng.
Họ đi dọc theo những luống trà đã trổ búp ra chi chít.
Châu có vẻ buồn rầu nói:
- Đáng lẽ phải có đến sáu chục công nhân để hái trà hôm nay, mà hiện chỉ thấy độ mươi người. Những người khác không tới vì sợ ma. Nếu tình trạng này kéo dài thì bà cô tôi không thể nào trả được nợ và sẽ bị khánh tận.
Cảnh và Phúc tìm câu gì nói để trấn an tinh thần anh bạn.
- Xếp của tụi tôi là anh Linh rất tài ba – Phúc nói – Nếu anh tìm ra biện pháp để xua đuổi bóng ma thì các công nhân sẽ trở lại làm việc.
- Nếu vậy phải hành động gấp rút – Châu đáp – Để chận họ sẽ đi làm nơi khác. Sáng nay xẩm Lý có ý nói tất cả lỗi là do tôi : chính tôi đã mang tai họa tới cho gia đình này kể từ khi tôi từ Hồng Kông về đây, trên một năm nay. Vậy có lẽ tôi phải trở lại bên đó.
- Anh nghĩ lầm rồi! – Cảnh nói – Sao lại có thể mang tai họa đến cho một người khi anh chỉ muốn làm điều tốt cho người đó?
- Tôi không rõ – Châu gật đầu đáp – Một điều chắc chắn là từ khi tôi trở về đây, nhiều sự rủi ro đã xảy đến. Nào là kho bị cháy, máy điện hư, máy cày trục trặc, trà bị hư mốc v.v…
- Nhưng đâu phải lỗi ở anh? – Phúc cãi.
- Cái đó còn tùy. Nếu tôi trở lại Hồng Kông, có lẽ bóng ma sẽ rời đây cùng với tôi và sự thịnh vượng lại trở về với đồn điền. Bất cứ vì lý do gì, tôi không muốn làm cho bà cô tôi bị thua thiệt.
Cảnh lái câu chuyện sang đầu đề khác:
- Anh kêu bà Ngọc Sương là bà cô và ông Thuận là chú. Thế dây liên hệ như thế nào? Cụ Trịnh Thường có phải là ông nội của anh không?
- Đó là cụ nội tôi, còn bà Ngọc Sương là bà cô tôi và ông Thuận là người cháu họ xa của bà. Tôi gọi ông là chú cho nó thân. Ngoài ra, không còn người thân thích nào khác.
Phúc ngắm nhìn thung lũng bao la, ngoắt ngoéo, trồng đầy những cây trà.
- Vậy tất cả những đất đai này là của anh?
- Đâu có, đây là của bà Sương, bà muốn cho tôi tất cả, nhưng tôi từ chối. Bây giờ bà lại muốn giao cho tôi quyền sử dụng, nhưng tôi muốn chia một nửa cho chú Thuận. Dầu sao thì chú cũng đã giúp bà Sương để làm cho đồn điền này đạt tới mức quan trọng hiện tại. Tuy nhiên, nếu phải bán đi để trả nợ, thì chẳng còn ai được chút gì nữa.
Một chiếc xe jeep chạy tới. Ba cậu kỵ mã vội đứng dẹp sang một bên để nhường lối. Châu cưỡi con Huyền Anh, lông đen như mun trông thật hùng vỹ. Phúc cưỡi con Đạm Vân, vóc dáng rất lanh lẹ, còn Cảnh cưỡi con Ngọc Hồng, có vẻ hiền hòa nhất đám.
Xe dừng lại, bác Ngưu thò cổ ra:
- Chào cậu Châu! Sáng nay quá ít công nhân tới làm, phải không cậu?
Châu gật đầu.
- Chỉ vì ba chú cai của mình đó. Tôi rán tuyển một số công nhân khác để thay vào, nhưng chưa chắc có kết quả. Tôi phải về phúc trình với bà chủ. Chuyện này không phải chơi đâu cậu ạ.
Rồi chiếc xe jeep phóng đi. Ba cậu lại giựt cương cho ngựa đi. Châu cố xua đuổi nỗi buồn.
Ba cậu tiếp tục lần theo thung lũng. Quá trưa, họ thấy đói bụng và nhớ tới gói bánh mì, bình nước họ mang theo, cùng vài bó rơm cho ngựa.
- Tôi biết một chỗ này mát mẻ dễ chịu lắm – Châu nói.
Rồi cậu dẫn hai bạn tới một ngôi nhà đã cổ, cạnh con đường nhỏ bên sườn phía Tây thung lũng. Những khối đá dựng xiên trải nhiều bóng mát. Ba cậu xuống ngựa buộc vào gốc cây, rồi lấy rơm cho chúng ăn. Xong, họ vào trong nhà, ngồi xuống đất để nghỉ. Ở đây, không khí mát rượi. Họ vừa ăn vừa nhìn ra ngoài thung lũng, vừa chuyện trò vui vẻ.
Châu kể cho hai bạn nghe cuộc đời vui tươi của cậu ở Hồng Kông, có nhiều bạn bè, không thui thủi một mình như ở đây.
Bỗng các cậu trông thấy một chiếc xe vận tải chạy tới đậu trước các kho dùng để ủ trà đen và chứa các máy cày, cách đó vài trăm thước. Mươi người từ trên xe nhảy xuống, đứng tụ tập như chờ đợi cái gì.
- Lúc này đáng lẽ họ phải đang hái trà chứ? – Châu chau mày nói – Sao lại ở không thế này?
Chiếc xe jeep của bác Ngưu cũng vừa tới đậu cạnh đó, rồi bác tiến vào trong kho, bọn người kia theo sau.
- Có lẽ họ vào sửa chữa máy cày – Châu nói – Kỳ cục! Sao lại làm công việc đó hôm nay? Tôi không thích bác Ngưu lắm, vì tuy bác thạo nghề và có uy quyền với công nhân, nhưng bác hơi hung dữ… Bây giờ chúng ta lại lên đường, các bạn đi!
Phúc đứng vùng dậy, chẳng may chiếc đèn bấm của cậu tuột ra rơi xuống đất. Nhặt lên, cậu thấy bóng và kính đã vỡ.
- Chết chửa, đèn tôi bị hư rồi.
- Hai chiếc đèn có lẽ cũng đủ – Châu nói – Tuy nhiên…
Thấy chiếc xe jeep của bác Ngưu vẫn đậu trước dãy nhà kho, cậu đề nghị:
- Hay là anh lại mượn chiếc đèn bấm của bác Ngưu, mà bác đưa tôi mượn tối qua đó. Nó nằm luôn luôn trong hộp đồ nghề của bác ở trên xe. Chiều về ta sẽ trả lại bác. Để tôi đi lấy cho.
- Không, không, tôi đã vô ý để vỡ chiếc đèn này thì để tôi đi mới phải.
Châu bèn viết vài chữ cho bác Ngưu để bác rõ.
- Bác ta không ưa bị phiền nhiễu trong khi đang làm việc. Vậy anh chỉ việc để mảnh giấy này vào hộp đồ nghề của bác là đủ. Vả lại, chiếc đèn này là của bà Ngọc Sương, chúng ta cũng có quyền sử dụng chứ.
Phúc lên ngựa và chạy tới chỗ xe jeep đậu. Một tay, cậu mở nắp hộp và thò vào lục lọi. Chiếc đèn bấm nằm ở một góc hộp. Cậu cầm lên giắt vào thắt lưng, rồi cậu để mảnh giấy của Châu vào thay thế. Để bác Ngưu trông thấy, cậu cứ để hộp mở nắp. Xong xuôi, cậu trở lại chỗ hai bạn đang đợi.
Vừa đi được lối trăm thước, cậu nghe thấy tiếng người kêu. Quay lại, cậu thấy bác Ngưu đang đứng cạnh xe jeep, vừa vẫy cậu vừa hét to.
Phúc bèn giơ cao chiếc đèn bấm lên và chỉ tay vào chiếc hộp đồ nghề, để bác Ngưu hiểu mà đọc mảnh giấy. Nhưng không, bác ta vội nhẩy lên xe và phóng đuổi theo Phúc. Những công nhân trong kho đổ ra xem cuộc rượt bắt.
Phúc thấy bác Ngưu muốn đuổi bắt mình, cậu bèn hãm ngựa lại đứng đợi.
Con Đam Vân bước sang một bên, hai tai cụp xuống, có vẻ sốt ruột. Nó cứ nhìn trừng trừng vào chiếc xe jeep đang chạy tới, tiếng máy kêu ầm ĩ.
Bác Ngưu thắng rít lại, nhẩy xuống đất như người bị bật từ ghế lên, rồi xông lại chỗ Phúc.
- Đồ ăn cắp, đồ mất dạy! – Bác hét to – Tao sẽ cho mày một bài học!
Con Đạm Vân thấy vậy phát hoảng vội cất vó phóng nước đại qua nhiều vườn trà về phía núi cao. Phúc chẳng biết làm thế nào để kìm ngựa lại.
Cậu phải lấy hai đùi kẹp chặt lấy mình ngựa, hai tay thì nắm lấy cuống yên cho khỏi ngã.

Chương 10
Vào tới bên trong, hang trở nên rộng rãi hơn, rồi tiếp đến một đường hầm sâu hút. Vài tảng đá nằm ngổn ngang giữa lối đi.
- Bây giờ, kế hoạch của tôi như thế này – Châu nói – Đây là cả một hệ thống đường hầm, ăn thông sang sườn núi bên kia, cách nhà ta độ hai cây số.
- Anh muốn nói là trong khi chúng ta đang len lỏi trong các đường hầm này thì tên Ngưu vẫn tìm kiếm chúng ta bên ngoài? – Phúc hỏi.
- Đúng, và trước khi hắn tóm được ta thì ta đã kịp tố cáo hắn rồi. Có một vài quãng khó vượt qua : chỉ một người nhỏ con hay một đứa trẻ mảnh khảnh có thể lách qua. Nhưng lần trước cách đây 6 tháng, tôi đã đi rồi và không gặp trở ngại.
- Ta có nên đánh dấu lối đi không? – Cảnh vừa hỏi vừa rờ miếng phấn xanh mà cậu vẫn để trong túi áo – Mình cũng có thể lạc được chớ!
- Ta sẽ không lạc được đâu – Châu đáp – Nếu ta đánh dấu, tên Ngưu sẽ có thể kiếm được ta chẳng khó khăn gì.
Châu có vẻ tự tin lắm. Nhưng Cảnh biết rằng người ta thường bị lạc khi ít ngờ tới. Phúc cũng vậy.
- Dấu hiệu mật của ta là một dấu hỏi – Phúc nói – Ta có thể dùng nó để đánh dấu đường đi, nhưng đồng thời ta sẽ vẽ cả nhũng mũi tên chỗ này chỗ kia để đánh lạc hướng tên Ngưu nếu hắn đuổi theo chúng ta.
- Đồng ý – Châu đáp – Nhưng chưa chắc tên Ngưu đã vào đường hầm này vì hắn không ngờ tới. Vậy ta không nên để dấu tích gì bên ngoài cửa hang để hắn biết, còn bên trong thì ta có thể trộn cả dấu hỏi lẫn mũi tên.
Rồi ba cậu tiến vào đường hầm. Nhiều chỗ lối đi thắt nhỏ lại, nhiều chỗ lại có đường hầm khác chạy sang. Cảnh giữ công việc đánh dấu lối đúng bằng dấu hỏi và lối sai bằng mũi tên.
Đi được một lúc lâu, họ tới một chỗ hầm sụt, muốn vượt qua phải bò.
- Để tôi đi trước cho – Châu nói.
Rồi cậu đưa cho Phúc chiếc đèn bấm cũ, trong ruột có đựng chuỗi ngọc.
- Anh cầm hộ tôi cái này, vì nếu tôi phải đào bới đất để mở đường, cái đèn này sẽ vướng lắm.
- Được rồi – Phúc vừa đáp vừa gài chiếc đèn quí giá vào thắt lưng – Nó lại không sáng được, uổng quá đi mất!
- Uổng thật – Châu đáp – Chúng ta chỉ có hai chiếc đèn. Vậy anh Cảnh đưa chiếc của anh cho anh Phúc. Tôi sẽ đi đầu với chiếc đèn của tôi. Anh Cảnh theo sát tôi. Còn anh Phúc sẽ đi đoạn hậu. Như vậy, ba chúng ta đều có ánh sáng.
Trên một quãng dài tới khoảng một trăm thước, ba cậu, lúc thì phải bò bằng tứ chi, lúc thì phải bò sát dưới mặt đất. Nhiều chỗ, Châu phải đào bới thêm cho đường hầm rộng ra mới chui lọt. Có khi, một tảng đá rụng trên lưng Cảnh làm cậu bị mắc kẹt. Trong khi cậu còn quờ quạng để thoát chỗ kẹt, Phúc ở phía sau phải giúp cậu để đẩy hòn đá ra.
Quãng đường hiểm hóc đã vượt qua, các cậu tới chỗ rộng rãi bèn nằm dài trên đá để nghỉ xả hơi. Trên đầu các cậu, những thanh gỗ trống nằm ngang đã bị võng xuống dưới sức nặng của quả núi. Các cậu tưởng chừng như nó sắp sụp bất cứ lúc nào, ấy thế mà nó vẫn đứng nguyên như vậy từ bao nhiêu năm nay.
- Chúng ta đã vượt qua chặng gay go nhất – Châu nói – Còn một quãng nữa cũng khó nhưng không mệt bằng. Và có một điều chắc chắn là tên Ngưu không thể đuổi theo sát ta được vì hắn quá to con.
Rồi ba người lại tiếp tục cuộc hành trình. Cảnh vẫn đánh dấu lối đi bằng những dấu hỏi và mũi tên. Một lần, Châu có vẻ do dự trước ba lối đi. Cậu chọn lối bên phải, nhưng đi được 300 thước thì tới một bức tường chắn ngang.
- Tôi lầm – Châu nói.
Khi cậu chiếu đèn vào một góc hầm thì thấy vật gì như một bộ xương người. Nhìn kỹ lại, các cậu nhận ra nó là bộ xương con lừa. Có lẽ xưa kia người ta mang nó vào hầm, để chở quặng mỏ uranium, nhưng vì hầm sụt, nó ra không lọt nên bị chết khô.
Cảnh rùng mình khi nom thấy cái sọ con lừa, cậu bèn vội vã bước theo Châu.
Đi một lát nữa, Châu dừng lại nói:
- Bây giờ ta đã tới Cuống Họng rồi.
- Cuống họng ai? – Phúc hỏi.
- Ở đây người ta dùng danh từ đó để chỉ một kẽ nứt của núi đá. Do lối đó ta sẽ có thể đi thông sang sườn núi bên kia. Lối đi này hẹp và khó qua lắm.
Chiếc đèn của Châu soi thấy một cái khe nằm giữa hai vách đá mà một người lớn không thể đi lọt. Một người nhỏ có thể lách qua với điều kiện là phải đi ngang như cua.
- Quãng này phải đi ngang! – Châu nói, khi nhận thấy vẻ bán tín bán nghi của hai bạn.
- Thế anh có chắc nó dẫn tới đâu không? – Cảnh hỏi.
- Chắc chứ. Tôi đã đi qua một lần rồi. Anh không thấy luồng gió thổi từ đầu kia sang hay sao? Chúng mình tiến lên! Tôi sẽ đi trước, tới đầu bên kia tôi sẽ tắt đèn và bật đèn ba lần. Anh cảnh đi tiếp theo. Khi anh tới nơi thì tôi cũng làm hiệu như thế. Rồi anh Phúc sẽ đi chót. Đồng ý?
Mọi người đồng ý. Tay phải cầm đèn, Châu lách vào Cuống Họng trước. Cậu tiến chậm chạp, chân bước ngang rất cẩn thận, vì sợ một cử động hấp tấp sẽ có thể làm cho cậu bị mắc kẹt giữa hai vách đá.
Phúc và Cảnh đứng nhìn chiếc đèn xa dần. Châu tiến cũng khá mau nhưng hai bạn vẫn tưởng như không bao giờ tới. Sau cùng, ngọn đèn tắt đi và bật lên ba lần.
- Tốt lắm – Phúc nói – Bây giờ đến lượt Cảnh. Cậu gầy có lẽ đi dễ dàng hơn.
- Chắc vậy – cảnh đáp – Đây cũng là một trò giải trí chớ sao!
Rồi cậu nghiêng người lách vào. Cuống Họng, có đèn của Phúc và của Châu soi sáng hai đầu. Cậu từ từ lách đi, người cậu che lấp khe hở nên Phúc không còn nom thấy ánh đèn của Châu nữa.
Để nom mật hiệu cho rõ, Phúc tắt ngọn đèn của mình đi và chờ đợi.
Cậu đợi một lúc lâu. Bỗng một tiếng hét vọng lại nghe rất kỳ dị, do âm vang của Cuống Họng truyền tới.
- Phúc, coi ch…
Rồi im hẳn, như thể một bàn tay cứng ngắc đã bịt lấy miệng người kêu mà Phúc đã đoán biết là ai. “Coi chừng”. Châu muốn nói như thế.
Phúc chau mày, chờ xem biến chuyển ra sao. Rõ ràng cậu trông thấy mật hiệu của ánh đèn. Ba lần, rồi ba lần nữa.
Nhưng nhịp độ lại khác trước. Châu không bật đèn và tắt đèn mau như thế lần đầu. Vậy là không phải Châu đã làm mật hiệu.
Chẳng cần phải là phù thủy mới đoán biết sự gì đã xảy ra : Châu và Cảnh đã bị đối phương bắt cầm tù.

Chương 11
Vào tới bên trong, hang trở nên rộng rãi hơn, rồi tiếp đến một đường hầm sâu hút. Vài tảng đá nằm ngổn ngang giữa lối đi.
- Bây giờ, kế hoạch của tôi như thế này – Châu nói – Đây là cả một hệ thống đường hầm, ăn thông sang sườn núi bên kia, cách nhà ta độ hai cây số.
- Anh muốn nói là trong khi chúng ta đang len lỏi trong các đường hầm này thì tên Ngưu vẫn tìm kiếm chúng ta bên ngoài? – Phúc hỏi.
- Đúng, và trước khi hắn tóm được ta thì ta đã kịp tố cáo hắn rồi. Có một vài quãng khó vượt qua : chỉ một người nhỏ con hay một đứa trẻ mảnh khảnh có thể lách qua. Nhưng lần trước cách đây 6 tháng, tôi đã đi rồi và không gặp trở ngại.
- Ta có nên đánh dấu lối đi không? – Cảnh vừa hỏi vừa rờ miếng phấn xanh mà cậu vẫn để trong túi áo – Mình cũng có thể lạc được chớ!
- Ta sẽ không lạc được đâu – Châu đáp – Nếu ta đánh dấu, tên Ngưu sẽ có thể kiếm được ta chẳng khó khăn gì.
Châu có vẻ tự tin lắm. Nhưng Cảnh biết rằng người ta thường bị lạc khi ít ngờ tới. Phúc cũng vậy.
- Dấu hiệu mật của ta là một dấu hỏi – Phúc nói – Ta có thể dùng nó để đánh dấu đường đi, nhưng đồng thời ta sẽ vẽ cả nhũng mũi tên chỗ này chỗ kia để đánh lạc hướng tên Ngưu nếu hắn đuổi theo chúng ta.
- Đồng ý – Châu đáp – Nhưng chưa chắc tên Ngưu đã vào đường hầm này vì hắn không ngờ tới. Vậy ta không nên để dấu tích gì bên ngoài cửa hang để hắn biết, còn bên trong thì ta có thể trộn cả dấu hỏi lẫn mũi tên.
Rồi ba cậu tiến vào đường hầm. Nhiều chỗ lối đi thắt nhỏ lại, nhiều chỗ lại có đường hầm khác chạy sang. Cảnh giữ công việc đánh dấu lối đúng bằng dấu hỏi và lối sai bằng mũi tên.
Đi được một lúc lâu, họ tới một chỗ hầm sụt, muốn vượt qua phải bò.
- Để tôi đi trước cho – Châu nói.
Rồi cậu đưa cho Phúc chiếc đèn bấm cũ, trong ruột có đựng chuỗi ngọc.
- Anh cầm hộ tôi cái này, vì nếu tôi phải đào bới đất để mở đường, cái đèn này sẽ vướng lắm.
- Được rồi – Phúc vừa đáp vừa gài chiếc đèn quí giá vào thắt lưng – Nó lại không sáng được, uổng quá đi mất!
- Uổng thật – Châu đáp – Chúng ta chỉ có hai chiếc đèn. Vậy anh Cảnh đưa chiếc của anh cho anh Phúc. Tôi sẽ đi đầu với chiếc đèn của tôi. Anh Cảnh theo sát tôi. Còn anh Phúc sẽ đi đoạn hậu. Như vậy, ba chúng ta đều có ánh sáng.
Trên một quãng dài tới khoảng một trăm thước, ba cậu, lúc thì phải bò bằng tứ chi, lúc thì phải bò sát dưới mặt đất. Nhiều chỗ, Châu phải đào bới thêm cho đường hầm rộng ra mới chui lọt. Có khi, một tảng đá rụng trên lưng Cảnh làm cậu bị mắc kẹt. Trong khi cậu còn quờ quạng để thoát chỗ kẹt, Phúc ở phía sau phải giúp cậu để đẩy hòn đá ra.
Quãng đường hiểm hóc đã vượt qua, các cậu tới chỗ rộng rãi bèn nằm dài trên đá để nghỉ xả hơi. Trên đầu các cậu, những thanh gỗ trống nằm ngang đã bị võng xuống dưới sức nặng của quả núi. Các cậu tưởng chừng như nó sắp sụp bất cứ lúc nào, ấy thế mà nó vẫn đứng nguyên như vậy từ bao nhiêu năm nay.
- Chúng ta đã vượt qua chặng gay go nhất – Châu nói – Còn một quãng nữa cũng khó nhưng không mệt bằng. Và có một điều chắc chắn là tên Ngưu không thể đuổi theo sát ta được vì hắn quá to con.
Rồi ba người lại tiếp tục cuộc hành trình. Cảnh vẫn đánh dấu lối đi bằng những dấu hỏi và mũi tên. Một lần, Châu có vẻ do dự trước ba lối đi. Cậu chọn lối bên phải, nhưng đi được 300 thước thì tới một bức tường chắn ngang.
- Tôi lầm – Châu nói.
Khi cậu chiếu đèn vào một góc hầm thì thấy vật gì như một bộ xương người. Nhìn kỹ lại, các cậu nhận ra nó là bộ xương con lừa. Có lẽ xưa kia người ta mang nó vào hầm, để chở quặng mỏ uranium, nhưng vì hầm sụt, nó ra không lọt nên bị chết khô.
Cảnh rùng mình khi nom thấy cái sọ con lừa, cậu bèn vội vã bước theo Châu.
Đi một lát nữa, Châu dừng lại nói:
- Bây giờ ta đã tới Cuống Họng rồi.
- Cuống họng ai? – Phúc hỏi.
- Ở đây người ta dùng danh từ đó để chỉ một kẽ nứt của núi đá. Do lối đó ta sẽ có thể đi thông sang sườn núi bên kia. Lối đi này hẹp và khó qua lắm.
Chiếc đèn của Châu soi thấy một cái khe nằm giữa hai vách đá mà một người lớn không thể đi lọt. Một người nhỏ có thể lách qua với điều kiện là phải đi ngang như cua.
- Quãng này phải đi ngang! – Châu nói, khi nhận thấy vẻ bán tín bán nghi của hai bạn.
- Thế anh có chắc nó dẫn tới đâu không? – Cảnh hỏi.
- Chắc chứ. Tôi đã đi qua một lần rồi. Anh không thấy luồng gió thổi từ đầu kia sang hay sao? Chúng mình tiến lên! Tôi sẽ đi trước, tới đầu bên kia tôi sẽ tắt đèn và bật đèn ba lần. Anh cảnh đi tiếp theo. Khi anh tới nơi thì tôi cũng làm hiệu như thế. Rồi anh Phúc sẽ đi chót. Đồng ý?
Mọi người đồng ý. Tay phải cầm đèn, Châu lách vào Cuống Họng trước. Cậu tiến chậm chạp, chân bước ngang rất cẩn thận, vì sợ một cử động hấp tấp sẽ có thể làm cho cậu bị mắc kẹt giữa hai vách đá.
Phúc và Cảnh đứng nhìn chiếc đèn xa dần. Châu tiến cũng khá mau nhưng hai bạn vẫn tưởng như không bao giờ tới. Sau cùng, ngọn đèn tắt đi và bật lên ba lần.
- Tốt lắm – Phúc nói – Bây giờ đến lượt Cảnh. Cậu gầy có lẽ đi dễ dàng hơn.
- Chắc vậy – cảnh đáp – Đây cũng là một trò giải trí chớ sao!
Rồi cậu nghiêng người lách vào. Cuống Họng, có đèn của Phúc và của Châu soi sáng hai đầu. Cậu từ từ lách đi, người cậu che lấp khe hở nên Phúc không còn nom thấy ánh đèn của Châu nữa.
Để nom mật hiệu cho rõ, Phúc tắt ngọn đèn của mình đi và chờ đợi.
Cậu đợi một lúc lâu. Bỗng một tiếng hét vọng lại nghe rất kỳ dị, do âm vang của Cuống Họng truyền tới.
- Phúc, coi ch…
Rồi im hẳn, như thể một bàn tay cứng ngắc đã bịt lấy miệng người kêu mà Phúc đã đoán biết là ai. “Coi chừng”. Châu muốn nói như thế.
Phúc chau mày, chờ xem biến chuyển ra sao. Rõ ràng cậu trông thấy mật hiệu của ánh đèn. Ba lần, rồi ba lần nữa.
Nhưng nhịp độ lại khác trước. Châu không bật đèn và tắt đèn mau như thế lần đầu. Vậy là không phải Châu đã làm mật hiệu.
Chẳng cần phải là phù thủy mới đoán biết sự gì đã xảy ra : Châu và Cảnh đã bị đối phương bắt cầm tù.

Chương 12
Cảnh và Châu được mang tới một căn phòng, tường quét vôi trắng, không cửa sổ. Cánh cửa ra vào đã bị khóa kỹ.
Hai cậu không bị bạc đãi, trái lại, còn được thưởng thức một bữa cơm Tầu thịnh soạn. Quá đói bụng, các cậu cắm cúi ăn, không kịp trao đổi cảm tưởng. Sau khi no nê và tỉnh táo rồi, các cậu mới bắt đầu xem xét tình thế.
- Không hiểu hiện giờ tụi mình ở đâu? – Cảnh nói với vẻ bình tĩnh.
- Chúng ta ở trong một cái phòng dưới hầm, tại một thành phố như Chợ Lớn – Châu đáp.
- Sao anh biết? Chúng ta đã bị bịt mắt thì có thể họ đã mang tới bất cứ nơi nào, chứ không riêng gì Chợ Lớn!
- Khi còn ở bên ngoài, tôi cảm thấy mặt đất rung chuyển, như những xe cam-nhông lớn chạy trên mặt đất, đó là dấu hiệu một thành phố lớn. Những gia nhân toàn là khách trú, vậy có thể đoán rằng ta đang ở một căn phòng bí mật trong một tòa nhà của một Hoa kiều giầu lớn.
- Sao lại giầu lớn?
- Thì coi bữa cơm mình vừa ăn xong đó. Toàn là món ăn Tầu chính cống do một đầu bếp thượng thặng nấu nướng. Phải là tay tỉ phú mới có đầu bếp như thế chứ.
- Anh có lẽ rất hợp với Linh, vì anh cũng giỏi suy luận như hắn. Tôi hy vọng rằng một ngày kai anh sẽ về sống tại Sàigòn và gia nhập hội thám tử của chúng tôi.
- Được vậy thì còn gì bằng nữa! – Châu đáp với vẻ hơi buồn rầu – Ở đồn điền Thanh Lâm, tôi thấy quá cô độc, không như trước kia ở Hồng Kông có bạn bè vui lắm. Mai mốt tôi sẽ lớn, tôi phải trông nom đồn điền và khai thác việc trồng trà như bà cô tôi vẫn mong muốn.
Cậu ngập ngừng một lát rồi tiếp:
- Nếu tôi còn sống tới khi đó.
Cảnh hiểu anh bạn muốn nói gì, và cậu nhớ lại những lời Linh đã nói bữa trước : Cái vụ mà ba cậu đang điều tra nó vượt hẳn ra ngoài khuôn khổ những bóng ma hiện hình, và những sự bất trắc gặp phải có thể rất quan hệ chớ không phải tầm thường.
Vừa lúc đó, cánh cửa mở ra. Một người khách trú già hiện ra.
- Lại đây! – hắn nói.
- Đi đâu vậy? – Châu điềm nhiên hỏi.
- Con chuột nhắt có bao giờ hỏi “đi đâu vậy?” lúc con đại bàng tha nó hay không? – Người kia đáp – Thôi, lên đường!
Với vẻ hiên ngang, Châu tiến ra cửa. Cảnh bước theo, cũng hiên ngang không kém.
Người khách trú dẫn hai cậu theo một hành lang tới cầu thang máy. Mọi người bước vào, thang máy chạy lên cao rồi đậu lại trước một tấm cửa đỏ. Người kia mở cửa đẩy hai cậu vào.
- Vô đi, ranh con! – hắn ra lệnh – Và tụi bay phải khai sự thật, nếu không thì chim đại bàng sẽ nuốt tươi.
Cảnh và Châu thấy mình đang ở trong một căn phòng rất rộng, hình mặt nguyệt, trên tường trang trí toàn thảm đỏ thêu kim tuyến. Cảnh say sưa ngắm nhìn, thấy nào rồng, nào phượng, nào sơn thủy hữu tình với những cành liễu thướt tha trước gió.
Bỗng có tiếng ho của một ông già, các cậu giựt mình quay lại thì thấy ở cuối phòng một ông Tầu già đang ngồi trong một chiếc ghế bành chạm trổ bọc nệm gấm.
Ông già bận một chiếc áo dài giống như áo của các vì thiên tử vẽ trên những bức tranh Tầu. Khuôn mặt ông nhỏ, gầy, trông chẳng khác nào một trái lê nhăn nheo. Đôi mắt ông rất sáng, đang nhìn hai cậu qua cặp mục kỉnh gọng vàng.
- Các người lại gần đây và ngồi xuống ghế – ông ra lệnh.
Cảnh và Châu bước tới. Hai chiếc ghế đẩu đã được kê sẵn trước cái ghế bành. Hai cậu ngồi xuống, không ngớt nhìn ông già kỳ lạ bằng những cặp mắt ngạc nhiên.
- Các người gọi ta là ông già Lâm Kiệt, và nhớ rằng năm nay ta đã 107 tuổi rồi đó.
Cảnh không lấy làm ngạc nhiên, vì chưa bao giờ cậu thấy một người già hơn ông này. Tuy nhiên, ông không có vẻ gì là yếu đuối.
Ông già nhìn Châu một lát rồi nói với giọng điềm tĩnh:
- Loài sâu bọ kia, giòng máu của những người đồng hương của ta đang chảy trong huyết quản của ngươi. Gia đình ngươi cũng như gia đình ta, đều thuộc nước Trung Hoa cổ. Cụ tứ đại của ngươi đã quyến rũ một nàng công chúa nước ta, nhưng điều đó không sao. Việc quan hệ là hắn còn chiếm đoạt một vật quí giá hơn : một chuỗi ngọc.
Lần đầu tiên, nét mặt ông già Lâm Kiệt để lộ vẻ giận dữ.
- Một chuỗi ngọc huyền diệu! – ông nói tiếp – Từ sáu chục năm nay, nó đã biến mất và nay nó đã được phát hiện ra. Ta cần phải có chuỗi ngọc đó.
Ông già cúi người về phía trước và nói to hơn:
- Nghe thấy chưa, bọn chuột nhắt? Ta nhất định phải có chuỗi ngọc đó.
Cảnh bắt đầu cảm thấy bối rối, vì cậu biết rằng chuỗi ngọc mà ông già Lâm Kiệt đang đòi hỏi thì cậu không thể nào đưa ra được, vì lý do: cậu không có.
Cậu tự hỏi không biết Châu đang nghĩ gì về vụ này.
Châu đáp nhanh một cách mạnh bạo:
- Thưa cụ, chúng cháu hiện không có chuỗi ngọc đó. Anh bạn cháu đang giữ nó thì đã thoát khỏi tay các thủ hạ của cụ, và anh ấy sẽ mang trả lại cho bà cô cháu. Nếu cụ muốn lấy vì tính cách nó là một đồ vật đặc biệt chớ không phải vì trị giá của nó, thì cháu sẽ thưa với bà cô cháu để nhượng lại cho cụ. Miễn là thân nhân của cụ bà Trịnh Thường đã nhờ luật sư đòi hỏi chuỗi ngọc đó, không phải là sở hữu chủ thật sự.
- Không phải, người đó không phải là sở hữu chủ, ta biết! – Ông già Lâm Kiệt lớn tiếng đáp, mặt tái đi vì giận dữ – Họ gởi bức thư đó với mục đích gây rối ren tình hình mà thôi. Ta đã giầu mà hắn còn giầu hơn, nên chắc chắn bà cô ngươi sẽ bán chuỗi ngọc cho hắn nếu ta không chiếm được nó trước. Tụi bay hiểu chưa?
- Thưa cụ, chúng cháu chỉ là lũ chuột nhắt nên không thể làm vừa lòng cụ được. Các thủ hạ của cụ đã bắt được chúng cháu nhưng lại không bắt được anh bạn của chúng cháu. Hắn gan dạ lắm và hắn sẽ trốn thoát.
- Đó là bọn ăn hại – ông già Lâm Kiệt nói sẵng giọng – Tối qua, khi tên Ngưu kêu dây nói trình ta biết rằng hắn đã lấy được chuỗi ngọc về và hôm nay sẽ mang tới, ta bảo hắn phải hết sức đề phòng. Vậy mà hắn còn để sơ xuất. Bây giờ…
Bỗng có tiếng chuông reo. Ông già Lâm Kiệt bèn thò tay vào dưới nệm ghế và lôi ra một cái máy nói, dưới con mắt ngạc nhiên của Cảnh. Ông già đưa lên tai nghe một lát, không đáp một lời nào, rồi cất máy vào chỗ cũ.
- Một chuyển biến đã thay đổi cục diện – ông già nói – Phải đợi một lát.
Rồi cả ba người ngồi đợi trong sự im lặng nghẹt thở.
Một lát sau, tấm cửa mở ra, một người mặt mũi lem luốc, quần áo đầy bụi đất, bước vào.
Người đó là Phúc!

Chương 13
Cảnh và Châu được mang tới một căn phòng, tường quét vôi trắng, không cửa sổ. Cánh cửa ra vào đã bị khóa kỹ.
Hai cậu không bị bạc đãi, trái lại, còn được thưởng thức một bữa cơm Tầu thịnh soạn. Quá đói bụng, các cậu cắm cúi ăn, không kịp trao đổi cảm tưởng. Sau khi no nê và tỉnh táo rồi, các cậu mới bắt đầu xem xét tình thế.
- Không hiểu hiện giờ tụi mình ở đâu? – Cảnh nói với vẻ bình tĩnh.
- Chúng ta ở trong một cái phòng dưới hầm, tại một thành phố như Chợ Lớn – Châu đáp.
- Sao anh biết? Chúng ta đã bị bịt mắt thì có thể họ đã mang tới bất cứ nơi nào, chứ không riêng gì Chợ Lớn!
- Khi còn ở bên ngoài, tôi cảm thấy mặt đất rung chuyển, như những xe cam-nhông lớn chạy trên mặt đất, đó là dấu hiệu một thành phố lớn. Những gia nhân toàn là khách trú, vậy có thể đoán rằng ta đang ở một căn phòng bí mật trong một tòa nhà của một Hoa kiều giầu lớn.
- Sao lại giầu lớn?
- Thì coi bữa cơm mình vừa ăn xong đó. Toàn là món ăn Tầu chính cống do một đầu bếp thượng thặng nấu nướng. Phải là tay tỉ phú mới có đầu bếp như thế chứ.
- Anh có lẽ rất hợp với Linh, vì anh cũng giỏi suy luận như hắn. Tôi hy vọng rằng một ngày kai anh sẽ về sống tại Sàigòn và gia nhập hội thám tử của chúng tôi.
- Được vậy thì còn gì bằng nữa! – Châu đáp với vẻ hơi buồn rầu – Ở đồn điền Thanh Lâm, tôi thấy quá cô độc, không như trước kia ở Hồng Kông có bạn bè vui lắm. Mai mốt tôi sẽ lớn, tôi phải trông nom đồn điền và khai thác việc trồng trà như bà cô tôi vẫn mong muốn.
Cậu ngập ngừng một lát rồi tiếp:
- Nếu tôi còn sống tới khi đó.
Cảnh hiểu anh bạn muốn nói gì, và cậu nhớ lại những lời Linh đã nói bữa trước : Cái vụ mà ba cậu đang điều tra nó vượt hẳn ra ngoài khuôn khổ những bóng ma hiện hình, và những sự bất trắc gặp phải có thể rất quan hệ chớ không phải tầm thường.
Vừa lúc đó, cánh cửa mở ra. Một người khách trú già hiện ra.
- Lại đây! – hắn nói.
- Đi đâu vậy? – Châu điềm nhiên hỏi.
- Con chuột nhắt có bao giờ hỏi “đi đâu vậy?” lúc con đại bàng tha nó hay không? – Người kia đáp – Thôi, lên đường!
Với vẻ hiên ngang, Châu tiến ra cửa. Cảnh bước theo, cũng hiên ngang không kém.
Người khách trú dẫn hai cậu theo một hành lang tới cầu thang máy. Mọi người bước vào, thang máy chạy lên cao rồi đậu lại trước một tấm cửa đỏ. Người kia mở cửa đẩy hai cậu vào.
- Vô đi, ranh con! – hắn ra lệnh – Và tụi bay phải khai sự thật, nếu không thì chim đại bàng sẽ nuốt tươi.
Cảnh và Châu thấy mình đang ở trong một căn phòng rất rộng, hình mặt nguyệt, trên tường trang trí toàn thảm đỏ thêu kim tuyến. Cảnh say sưa ngắm nhìn, thấy nào rồng, nào phượng, nào sơn thủy hữu tình với những cành liễu thướt tha trước gió.
Bỗng có tiếng ho của một ông già, các cậu giựt mình quay lại thì thấy ở cuối phòng một ông Tầu già đang ngồi trong một chiếc ghế bành chạm trổ bọc nệm gấm.
Ông già bận một chiếc áo dài giống như áo của các vì thiên tử vẽ trên những bức tranh Tầu. Khuôn mặt ông nhỏ, gầy, trông chẳng khác nào một trái lê nhăn nheo. Đôi mắt ông rất sáng, đang nhìn hai cậu qua cặp mục kỉnh gọng vàng.
- Các người lại gần đây và ngồi xuống ghế – ông ra lệnh.
Cảnh và Châu bước tới. Hai chiếc ghế đẩu đã được kê sẵn trước cái ghế bành. Hai cậu ngồi xuống, không ngớt nhìn ông già kỳ lạ bằng những cặp mắt ngạc nhiên.
- Các người gọi ta là ông già Lâm Kiệt, và nhớ rằng năm nay ta đã 107 tuổi rồi đó.
Cảnh không lấy làm ngạc nhiên, vì chưa bao giờ cậu thấy một người già hơn ông này. Tuy nhiên, ông không có vẻ gì là yếu đuối.
Ông già nhìn Châu một lát rồi nói với giọng điềm tĩnh:
- Loài sâu bọ kia, giòng máu của những người đồng hương của ta đang chảy trong huyết quản của ngươi. Gia đình ngươi cũng như gia đình ta, đều thuộc nước Trung Hoa cổ. Cụ tứ đại của ngươi đã quyến rũ một nàng công chúa nước ta, nhưng điều đó không sao. Việc quan hệ là hắn còn chiếm đoạt một vật quí giá hơn : một chuỗi ngọc.
Lần đầu tiên, nét mặt ông già Lâm Kiệt để lộ vẻ giận dữ.
- Một chuỗi ngọc huyền diệu! – ông nói tiếp – Từ sáu chục năm nay, nó đã biến mất và nay nó đã được phát hiện ra. Ta cần phải có chuỗi ngọc đó.
Ông già cúi người về phía trước và nói to hơn:
- Nghe thấy chưa, bọn chuột nhắt? Ta nhất định phải có chuỗi ngọc đó.
Cảnh bắt đầu cảm thấy bối rối, vì cậu biết rằng chuỗi ngọc mà ông già Lâm Kiệt đang đòi hỏi thì cậu không thể nào đưa ra được, vì lý do: cậu không có.
Cậu tự hỏi không biết Châu đang nghĩ gì về vụ này.
Châu đáp nhanh một cách mạnh bạo:
- Thưa cụ, chúng cháu hiện không có chuỗi ngọc đó. Anh bạn cháu đang giữ nó thì đã thoát khỏi tay các thủ hạ của cụ, và anh ấy sẽ mang trả lại cho bà cô cháu. Nếu cụ muốn lấy vì tính cách nó là một đồ vật đặc biệt chớ không phải vì trị giá của nó, thì cháu sẽ thưa với bà cô cháu để nhượng lại cho cụ. Miễn là thân nhân của cụ bà Trịnh Thường đã nhờ luật sư đòi hỏi chuỗi ngọc đó, không phải là sở hữu chủ thật sự.
- Không phải, người đó không phải là sở hữu chủ, ta biết! – Ông già Lâm Kiệt lớn tiếng đáp, mặt tái đi vì giận dữ – Họ gởi bức thư đó với mục đích gây rối ren tình hình mà thôi. Ta đã giầu mà hắn còn giầu hơn, nên chắc chắn bà cô ngươi sẽ bán chuỗi ngọc cho hắn nếu ta không chiếm được nó trước. Tụi bay hiểu chưa?
- Thưa cụ, chúng cháu chỉ là lũ chuột nhắt nên không thể làm vừa lòng cụ được. Các thủ hạ của cụ đã bắt được chúng cháu nhưng lại không bắt được anh bạn của chúng cháu. Hắn gan dạ lắm và hắn sẽ trốn thoát.
- Đó là bọn ăn hại – ông già Lâm Kiệt nói sẵng giọng – Tối qua, khi tên Ngưu kêu dây nói trình ta biết rằng hắn đã lấy được chuỗi ngọc về và hôm nay sẽ mang tới, ta bảo hắn phải hết sức đề phòng. Vậy mà hắn còn để sơ xuất. Bây giờ…
Bỗng có tiếng chuông reo. Ông già Lâm Kiệt bèn thò tay vào dưới nệm ghế và lôi ra một cái máy nói, dưới con mắt ngạc nhiên của Cảnh. Ông già đưa lên tai nghe một lát, không đáp một lời nào, rồi cất máy vào chỗ cũ.
- Một chuyển biến đã thay đổi cục diện – ông già nói – Phải đợi một lát.
Rồi cả ba người ngồi đợi trong sự im lặng nghẹt thở.
Một lát sau, tấm cửa mở ra, một người mặt mũi lem luốc, quần áo đầy bụi đất, bước vào.
Người đó là Phúc!

Chương 14
Khi thấy hai người đã ra khỏi phòng, Châu bèn nhắc nhở các bạn:
- Ta chớ nên nói điều gì bí mật ở đây vì họ nghe hết. Nhưng chúng ta phải nói thật nhiều để làm kế hoãn binh.
- Vậy hai anh hãy kể cho tôi nghe bị bắt ra sao – Phúc nói.
- Bọn chúng đợi tôi ở đầu Cuống Họng – Châu đáp – và định bắt cả ba đứa mình. Khi tôi trông thấy bóng dáng một đứa, chúng biết bị lộ bèn nhảy tới. Vì thế, tôi đã hét lên để báo tin cho anh biết. Lát sau, tôi bị bịt miệng và trói tay.
- Rồi chúng lập mưu cho cậu vào bẫy nốt – Cảnh nói tiếp – Chúng bèn làm hiệu bằng đèn bấm để lừa cậu sang. Tới khi cậu đoán biết và không sang thì tên Ngưu đã tức lên ruột. Hắn bèn bảo một tên thủ hạ lách qua Cuống Họng để bắt cậu đứa nào cũng từ chối vì bọn chúng to con sợ mắc kẹt.
- Điều mà tôi không hiểu – Phúc nói – là tại sao tên Ngưu đã đoán biết rằng tụi mình đã dùng lối đường hầm để định thoát đi.
- Ấy là vì hắn đã theo chúng ta sát hơn là chúng ta tưởng, và khi chúng ta tới Hang thì hắn đã nom thấy, nên hắn đã đặt người ở hai đầu đường hầm để đón bắt.
- Vậy là ta gặp rủi ro – Phúc nói – Nhưng trong cái rủi lại có cái may, đúng với câu “Họa trung hữu phúc”. Bây giờ thì anh Châu đã biết rõ tên Ngưu là một tên đại gian manh và các công nhân đều là tay sai của nó ; sự việc này đã giải thích các tai họa xảy ra cho đồn điền.
- Nhưng cũng chưa giải thích được hết, vì tôi tự hỏi, tên Ngưu và thủ hạ đã hành động với mục đích gì? Các tai họa đã xảy ra từ hơn một năm nay. Hồi đó thì ai đã biết là có chuỗi ngọc huyền diệu?
- Phải, thật là kỳ bí – Cảnh đáp – Khi chúng tôi vừa bị bắt thì một tên chạy tới nói với tên Ngưu rằng tất cả thung lũng và hệ thống đường hầm đã đầy người đi tìm chúng tôi. Tên Ngưu tỏ ra bực tức lắm. hắn bèn dùng một mẹo : hắn bỏ Châu và tôi mỗi đứa vào một cái thùng trà rồi đóng đanh lại. Xong, hắn xếp lên cam-nhông chở đi.
- Phải nhìn nhận mưu của hắn cũng cao lắm chứ – Châu nói – Lúc đi đường, tôi nghe thấy một người hỏi tên Ngưu có trông thấy bọn tôi đâu không thì hắn đáp rằng không, nhưng có người đã trông thấy bọn tôi trên con đường nhỏ đi Bảo Lộc hay Sàigòn gì đó. Vì thế, hắn cũng sẽ đi tìm bọn tôi tại hai nơi đó và có thể hắn sẽ về trễ. Như vậy là đầy đủ lý do về sự vắng mặt của hắn tại đồn điền, anh thấy chưa?
Phúc gật đầu nói:
- Ngưu là một tên gian ác, nhưng nó ngu như bò ấy.
- Chiếc cam-nhông đã dừng lại cách đồn điền Thanh Lâm vài cây số – Cảnh nói tiếp – Họ mở thùng cho chúng tôi chui ra và đặt chúng tôi nằm trong một chiếc xe nhỏ hơn, bên trên phủ một tấm chăn. Trừ mấy tên đi áp tải chúng tôi, tên Ngưu hạ lệnh cho những thủ hạ khác phải trở lại đồn điền, rồi trà trộn vào đám người đang kiếm chúng tôi để tìm cách đánh lạc hướng. Hắn còn ra lệnh rằng nếu bắt được anh Phúc thì phải chở về Chợ Lớn, tại địa chỉ hắn đã đưa cho.
- Chúng đã bắt được tôi, nhưng chúng vẫn không đoạt được chuỗi ngọc – Phúc kiêu hãnh đáp.
- Chiếc xe chở chúng tôi đã phá tất cả kỷ lục đường trường – Châu nói – Khi tới Chợ Lớn, nó chạy vào một nhà xe dưới hầm. Ở đó, một số gia nhân người Tầu đã túc trực sẵn. Chúng mở trói cho chúng tôi, mang nước cho chúng tôi rửa mặt mũi sạch sẽ, cho chúng tôi đánh một bữa cơm thịnh soạn rồi đưa chúng tôi vào yết kiến ông già Lâm Kiệt.
- Phải nói đây là một chương trình xếp đặt rất thần tình – Phúc phê bình – Tôi cũng muốn họ khoản đãi tôi một bữa cơm thịnh soạn mà sao không thấy! Chuyện của tôi thì như thế này : Khi tôi nghe tiếng kêu của Châu và tôi nhìn thấy ánh đèn mật hiệu vụng về của tên Ngưu, tôi đã đoán biết ngay những gì đã xảy ra cho anh. Lúc đó tôi chỉ còn “tẩu vi thượng sách”. Và rất may là Cảnh đã đánh dấu con đường đã đi qua lúc trước.
Cảnh bèn giơ tay vừa vẽ lên không khí một cái dấu hỏi vừa nói:
- Tôi cũng đã đánh dấu chiếc thùng mà họ dùng để nhốt tôi. Nhưng ai mà nghĩ đến chuyện đi tìm cái dấu đó trong một chiếc thùng lẫn lộn với hằng trăm chiếc khác?
- Chắc Linh cũng không ngờ tới đống thùng đó để mà tìm kiếm – Phúc đáp.
Rồi cậu tiếp tục kể chuyện mình. Sau khi bị bắt, cậu đã trả lời bên kia rằng chiếc đèn bấm hãy còn để trong hầm ở một chỗ mà họ không thể đi tới được. Sau khi vặn tay cậu để bắt cung khai thêm, bọn chúng lấy khăn bịt mắt cậu lại, lôi cậu ra một chiếc xe đã đợi sẵn ở gần đó và chở về địa chỉ mà tên Ngưu đã cho. Theo lời bàn tán của bọn chúng mà cậu nghe được, chúng đã tập trung cuộc tìm kiếm ở khu đồng hoang, quá ranh giới đồn điền và rất xa cái hang mà ba cậu đã bỏ ngựa.
Châu nói với vẻ nghiêm trọng:
- Chắc bà cô tôi và chú Thuận đang chết dở vì lo âu. Vả lại, chúng ta chẳng hy vọng gì thoát khỏi tay ông già Lâm Kiệt vì ông ta có quyền lực vô biên. Vậy chỉ còn một điều ta có thể làm được, là nạp cho ông chuỗi ngọc mà thôi.
- Sau bao nhiêu khó nhọc mà mình đã trải qua? – Phúc nói với giọng tức bực.
- Tôi tin lời nói của ông – Châu đáp – Ban nãy ông có hứa rằng chúng ta sẽ không bị hãm hại và những sự khó khăn của bà Sương sẽ chấm dứt nếu ta nạp cho ông chuỗi ngọc. Chúng ta còn muốn gì hơn nữa?
- Thế anh có cho rằng ông tin tưởng các viên ngọc là bài thuốc “trường sinh bất lão” không? – Phúc hỏi – Chuyện này xem ra có vẻ hoang đường làm sao ấy!
- Nào ai biết? – Châu đáp – Ông già Lâm Kiệt có vẻ tin tưởng điều ấy lắm, nhưng ai có thể xác định được là ông lầm hay không. Mới đây, những nhà bác học Âu Châu vừa khám phá ra rằng làn da một giống cóc có chứa đựng một chất quí giá, trong khi người Á Đông đã biết nó từ bao nhiêu thế kỷ nay rồi. Hơn nữa, trong lãnh vực y khoa, lòng tin tưởng nhiều khi còn hiệu nghiệm hơn là vị thuốc. Vậy chỉ cần ông già Lâm Kiệt tin tưởng vào năng lực của viên ngọc để nó giúp ông sống lâu thêm.
- Điều mà tôi thắc mắc – Cảnh nói – là có sự liên quan gì giữa chuỗi ngọc và bóng ma, vì cả hai thứ đó đã xuất hiện cùng một lúc ở cùng một nơi?
Tới đây, Châu nói to để ông già nghe thấy:
- Thưa cụ Lâm Kiệt, chúng cháu đã quyết định xong rồi ạ!
Vừa lúc đó, tấm màn được vén ra, ông già Lâm Kiệt tiến vào, theo sau có tên Ngưu và ba tên gia nhân.
Ngươi đã quyết định gì, Tiểu Long? – ông hỏi.
Có lẽ ông đã nghe được tất cả cuộc bàn luận của các cậu, trừ những câu nói thì thầm, nhưng Châu cũng tuyên bố điều quyết định:
- Thưa cụ, chuỗi ngọc vẫn còn ở trong hầm, chúng cháu sẽ giao cho bác Ngưu để mang về đây hầu cụ.
- Ồ, không! – ông già nói với giọng ôn tồn – Các ngươi chỉ cần nói cho Ngưu biết chuỗi ngọc giấu ở chỗ nào để một mình hắn đi lấy cũng được. Trong khi chờ đợi, các ngươi là khách của ta. Rồi, nếu mọi việc được tốt đẹp, các ngươi sẽ được phóng thích, và ta cũng không đòi hỏi các ngươi phải giữ kín cuộc phiêu lưu vừa rồi. Có lẽ người ta sẽ tin lời các ngươi, nhưng chẳng có thể tìm kiếm ra ta được.
- Thưa cụ, vấn đề không dễ dàng như cụ nghĩ – Phúc nói – Bác Ngưu to con quá, không thể vượt qua lối đó được. Chỉ một đứa trẻ hay một người nhỏ con mới…
- Ta sẽ kiếm được một người nhỏ con – tên Ngưu đáp.
Cụ già Lâm Kiệt vội phác một cử chỉ giận dữ:
- Ngươi im đi loài ong kiến! Ngươi phải đích thân mang chuỗi ngọc về cho ta, vì ta không tin một ai khác. Hãy để xem tên này nói sao đã.
Ông già quay lại nhìn Phúc, luồng nhỡn tuyến của ông mạnh đến nỗi Phúc cảm thấy không đủ can đảm để nói dối.
- Có đúng không? – Ông già Lâm Kiệt hỏi – Ngưu không thể một mình đi lấy chuỗi ngọc hay sao?
- Thưa cụ đúng – Phúc đáp.
- Chuỗi ngọc để trong ruột một chiếc đèn bấm cũ, phải không?
- Thưa cụ phải.
- Thế ngươi đã giấu chiếc đèn ở đâu?
- Thưa cụ dưới một tảng đá.
- Tảng đá nào?
- Thưa cụ, cháu khó thể cắt nghĩa để cụ hiểu được. Cháu có thể tìm thấy chiếc đèn nhưng cháu không thể vẽ một họa đồ ra đây.
- Ta hiểu rồi – ông già chậm rãi nói với vẻ mặt suy tư – Ngưu, vấn đề rõ ràng rồi đó, một người lớn không thể qua được. Vậy ngươi dẫn cả bọn này đi để chúng vô lấy ngọc đưa cho ngươi.
- Thưa cụ, như vậy nguy hiểm lắm – tên Ngưu đáp – Lúc về tới đồn điền, chắc mọi người còn đang tìm kiếm trong hang.
- Không được nói là nguy hiểm, mà phải nói là bất trắc – ông già Lâm Kiệt đáp sẵng giọng – Sau khi mấy tên này nạp cho ngươi chuỗi ngọc ngươi phải thả chúng ra.
- Như vậy chúng sẽ khai hết! Chúng sẽ làm cho con bị bắt.
- Ta sẽ che chở cho ngươi, không lo. Ngươi sẽ lãnh số tiền thưởng và một giấy thông hành ra ngoại quốc. Không ai biết các thủ hạ của ngươi thì chúng không thể gây tai hại gì cho ngươi được. Còn ta thì chẳng ai có thể tìm ra, mà có tìm ra chăng nữa thì cũng chẳng có bằng cớ chi hết. Ngươi hiểu chưa?
- Thưa cụ vâng, con xin tuân lệnh. Tuy nhiên, nếu bọn này tìm cách lật con? Nếu chúng không nạp cho con chuỗi ngọc thì sao?
Im lặng một lát, cụ già Lâm Kiệt mỉm cười đáp:
- Trong trường hợp đó, ta chẳng cần đến chúng nữa. Ngươi cứ việc thanh toán chúng rồi cao chạy xa bay. Tuy nhiên, ta không tin rằng chúng lại dám lật ngươi : Chúng cũng ham sống lắm chứ.
Nghe vậy, Cảnh thấy rợn tóc gáy.
Phúc thì tự hỏi không biết sẽ hành động ra sao vì chuỗi ngọc không còn trong ruột chiếc đèn nữa, mà cậu dám cam kết trả lại chiếc đèn… Dầu sao, các cậu sắp được trở lại đồn điền Thanh Lâm cũng là một điều hay.
- Thôi, bây giờ phải đi gấp – ông già ra lệnh.
- Vâng, để con trói bọn này lại đã, vì…
Tên Ngưu vừa nói tới đây thì ông già đã cắt ngang:
- Khỏi cần, ta có cách khác tốt hơn, mà lại dễ chịu cho tất cả mọi người.
Rôi ông quay lại Châu:
- Tiểu Long, hãy nhìn ta!
Mặc dầu không muốn, Châu vẫn phải nhìn vào đôi mắt ông già. Luồng nhãn quang của ông lúc đó có một mãnh lực mà không ai cưỡng nổi được.
- Tiểu Long, ngươi đang buồn ngủ – ông già nói như đọc thần chú – Ngươi mệt mỏi rồi! Giấc ngủ sẽ ngon lành biết bao! Giấc ngủ đang xâm chiếm thể xác ngươi… Đôi mắt ngươi đang nhắm lại…
Cảnh và Phúc thấy đôi mắt Châu chớp chớp một lúc. Rồi cậu lại cố gắng mở mắt ra.
- Đôi mắt ngươi đang nhắm lại! – Ông già nhắc như truyền lệnh – Ngươi không thể kháng lại ta. Ý muốn của ta là ý muốn của ngươi. Ngươi đã cảm thấy nặng nề, mỏi mệt.
Tới đây, Cảnh và Phúc thấy đôi mắt Châu đã nhắm lại. Ông già Lâm Kiệt nói tiếp với một giọng êm dịu, thiết tha:
- Ngươi đang buồn ngủ, mỗi lúc một nhiều hơn. Giấc ngủ xuống với ngươi như một làn sóng âm u… Ngươi đang bị chìm đắm trong giấc ngủ… Một lát nữa, ngươi sẽ ngủ thật say và ngươi chỉ thức dậy khi nào người ta ra lệnh. Ngủ đi, Tiểu Long, ngủ đi… ngủ đi… ngủ đi…
Lúc đó, đôi mắt Châu đã nhắm nghiền và cậu sắp ngã vật xuống. Một tên gia nhân vội bước ra đỡ lấy cậu mang đi.
Ông già Lâm Kiệt quay lại Phúc:
- Bây giờ đến lượt ngươi, kẻ đã giấu chuỗi ngọc! Nhìn ta đây!
Phúc cố tránh cái nhìn thôi miên của ông già đang thu hút đôi mắt cậu như hai cục nam châm. Cậu hết sức đấu tranh chống lại giấc ngủ đang xâm chiếm người cậu, trong khi ông già Lâm Kiệt đọc thần chú. Sau vài phút, một sự mệt mỏi chưa bao giờ thấy đã lan tràn đến tứ chi của cậu, rồi cậu ngã vào tay tên gia nhân đang đứng lạnh lùng chờ đợi.
Biết rằng đây là một phương pháp rất khoa học, mà một số nhà giải phẫu dùng làm thuốc mê, Cảnh không hề thấy sợ sệt khi ông già Lâm kiệt quay lại phía cậu:
- Bây giờ tới lượt ngươi, một kẻ bé nhất nhưng ngang tàng nhất. Đến lượt ngươi cũng phải ngủ như các bạn… Ngủ đi… ngủ đi… ngủ đi…
Cảnh nhắm mắt, sắp ngã gục xuống phía trước thì một tên gia nhân bước ra đỡ lấy mang đi.
Ông già Lâm Kiệt bảo tên Ngưu:
- Chúng sẽ ngủ cho đến khi anh về tới nơi. Lúc đó, anh sẽ gọi chúng dậy thì chúng sẽ thức tỉnh. Nếu chúng nạp cho anh chuỗi ngọc, anh phải thả chúng ra. Nếu không…
Ông già phác một cử chỉ đầy ý nghĩa:
- Nếu không, anh có thể chặt cổ chúng.

Chương 15.
Khi thấy hai người đã ra khỏi phòng, Châu bèn nhắc nhở các bạn:
- Ta chớ nên nói điều gì bí mật ở đây vì họ nghe hết. Nhưng chúng ta phải nói thật nhiều để làm kế hoãn binh.
- Vậy hai anh hãy kể cho tôi nghe bị bắt ra sao – Phúc nói.
- Bọn chúng đợi tôi ở đầu Cuống Họng – Châu đáp – và định bắt cả ba đứa mình. Khi tôi trông thấy bóng dáng một đứa, chúng biết bị lộ bèn nhảy tới. Vì thế, tôi đã hét lên để báo tin cho anh biết. Lát sau, tôi bị bịt miệng và trói tay.
- Rồi chúng lập mưu cho cậu vào bẫy nốt – Cảnh nói tiếp – Chúng bèn làm hiệu bằng đèn bấm để lừa cậu sang. Tới khi cậu đoán biết và không sang thì tên Ngưu đã tức lên ruột. Hắn bèn bảo một tên thủ hạ lách qua Cuống Họng để bắt cậu đứa nào cũng từ chối vì bọn chúng to con sợ mắc kẹt.
- Điều mà tôi không hiểu – Phúc nói – là tại sao tên Ngưu đã đoán biết rằng tụi mình đã dùng lối đường hầm để định thoát đi.
- Ấy là vì hắn đã theo chúng ta sát hơn là chúng ta tưởng, và khi chúng ta tới Hang thì hắn đã nom thấy, nên hắn đã đặt người ở hai đầu đường hầm để đón bắt.
- Vậy là ta gặp rủi ro – Phúc nói – Nhưng trong cái rủi lại có cái may, đúng với câu “Họa trung hữu phúc”. Bây giờ thì anh Châu đã biết rõ tên Ngưu là một tên đại gian manh và các công nhân đều là tay sai của nó ; sự việc này đã giải thích các tai họa xảy ra cho đồn điền.
- Nhưng cũng chưa giải thích được hết, vì tôi tự hỏi, tên Ngưu và thủ hạ đã hành động với mục đích gì? Các tai họa đã xảy ra từ hơn một năm nay. Hồi đó thì ai đã biết là có chuỗi ngọc huyền diệu?
- Phải, thật là kỳ bí – Cảnh đáp – Khi chúng tôi vừa bị bắt thì một tên chạy tới nói với tên Ngưu rằng tất cả thung lũng và hệ thống đường hầm đã đầy người đi tìm chúng tôi. Tên Ngưu tỏ ra bực tức lắm. hắn bèn dùng một mẹo : hắn bỏ Châu và tôi mỗi đứa vào một cái thùng trà rồi đóng đanh lại. Xong, hắn xếp lên cam-nhông chở đi.
- Phải nhìn nhận mưu của hắn cũng cao lắm chứ – Châu nói – Lúc đi đường, tôi nghe thấy một người hỏi tên Ngưu có trông thấy bọn tôi đâu không thì hắn đáp rằng không, nhưng có người đã trông thấy bọn tôi trên con đường nhỏ đi Bảo Lộc hay Sàigòn gì đó. Vì thế, hắn cũng sẽ đi tìm bọn tôi tại hai nơi đó và có thể hắn sẽ về trễ. Như vậy là đầy đủ lý do về sự vắng mặt của hắn tại đồn điền, anh thấy chưa?
Phúc gật đầu nói:
- Ngưu là một tên gian ác, nhưng nó ngu như bò ấy.
- Chiếc cam-nhông đã dừng lại cách đồn điền Thanh Lâm vài cây số – Cảnh nói tiếp – Họ mở thùng cho chúng tôi chui ra và đặt chúng tôi nằm trong một chiếc xe nhỏ hơn, bên trên phủ một tấm chăn. Trừ mấy tên đi áp tải chúng tôi, tên Ngưu hạ lệnh cho những thủ hạ khác phải trở lại đồn điền, rồi trà trộn vào đám người đang kiếm chúng tôi để tìm cách đánh lạc hướng. Hắn còn ra lệnh rằng nếu bắt được anh Phúc thì phải chở về Chợ Lớn, tại địa chỉ hắn đã đưa cho.
- Chúng đã bắt được tôi, nhưng chúng vẫn không đoạt được chuỗi ngọc – Phúc kiêu hãnh đáp.
- Chiếc xe chở chúng tôi đã phá tất cả kỷ lục đường trường – Châu nói – Khi tới Chợ Lớn, nó chạy vào một nhà xe dưới hầm. Ở đó, một số gia nhân người Tầu đã túc trực sẵn. Chúng mở trói cho chúng tôi, mang nước cho chúng tôi rửa mặt mũi sạch sẽ, cho chúng tôi đánh một bữa cơm thịnh soạn rồi đưa chúng tôi vào yết kiến ông già Lâm Kiệt.
- Phải nói đây là một chương trình xếp đặt rất thần tình – Phúc phê bình – Tôi cũng muốn họ khoản đãi tôi một bữa cơm thịnh soạn mà sao không thấy! Chuyện của tôi thì như thế này : Khi tôi nghe tiếng kêu của Châu và tôi nhìn thấy ánh đèn mật hiệu vụng về của tên Ngưu, tôi đã đoán biết ngay những gì đã xảy ra cho anh. Lúc đó tôi chỉ còn “tẩu vi thượng sách”. Và rất may là Cảnh đã đánh dấu con đường đã đi qua lúc trước.
Cảnh bèn giơ tay vừa vẽ lên không khí một cái dấu hỏi vừa nói:
- Tôi cũng đã đánh dấu chiếc thùng mà họ dùng để nhốt tôi. Nhưng ai mà nghĩ đến chuyện đi tìm cái dấu đó trong một chiếc thùng lẫn lộn với hằng trăm chiếc khác?
- Chắc Linh cũng không ngờ tới đống thùng đó để mà tìm kiếm – Phúc đáp.
Rồi cậu tiếp tục kể chuyện mình. Sau khi bị bắt, cậu đã trả lời bên kia rằng chiếc đèn bấm hãy còn để trong hầm ở một chỗ mà họ không thể đi tới được. Sau khi vặn tay cậu để bắt cung khai thêm, bọn chúng lấy khăn bịt mắt cậu lại, lôi cậu ra một chiếc xe đã đợi sẵn ở gần đó và chở về địa chỉ mà tên Ngưu đã cho. Theo lời bàn tán của bọn chúng mà cậu nghe được, chúng đã tập trung cuộc tìm kiếm ở khu đồng hoang, quá ranh giới đồn điền và rất xa cái hang mà ba cậu đã bỏ ngựa.
Châu nói với vẻ nghiêm trọng:
- Chắc bà cô tôi và chú Thuận đang chết dở vì lo âu. Vả lại, chúng ta chẳng hy vọng gì thoát khỏi tay ông già Lâm Kiệt vì ông ta có quyền lực vô biên. Vậy chỉ còn một điều ta có thể làm được, là nạp cho ông chuỗi ngọc mà thôi.
- Sau bao nhiêu khó nhọc mà mình đã trải qua? – Phúc nói với giọng tức bực.
- Tôi tin lời nói của ông – Châu đáp – Ban nãy ông có hứa rằng chúng ta sẽ không bị hãm hại và những sự khó khăn của bà Sương sẽ chấm dứt nếu ta nạp cho ông chuỗi ngọc. Chúng ta còn muốn gì hơn nữa?
- Thế anh có cho rằng ông tin tưởng các viên ngọc là bài thuốc “trường sinh bất lão” không? – Phúc hỏi – Chuyện này xem ra có vẻ hoang đường làm sao ấy!
- Nào ai biết? – Châu đáp – Ông già Lâm Kiệt có vẻ tin tưởng điều ấy lắm, nhưng ai có thể xác định được là ông lầm hay không. Mới đây, những nhà bác học Âu Châu vừa khám phá ra rằng làn da một giống cóc có chứa đựng một chất quí giá, trong khi người Á Đông đã biết nó từ bao nhiêu thế kỷ nay rồi. Hơn nữa, trong lãnh vực y khoa, lòng tin tưởng nhiều khi còn hiệu nghiệm hơn là vị thuốc. Vậy chỉ cần ông già Lâm Kiệt tin tưởng vào năng lực của viên ngọc để nó giúp ông sống lâu thêm.
- Điều mà tôi thắc mắc – Cảnh nói – là có sự liên quan gì giữa chuỗi ngọc và bóng ma, vì cả hai thứ đó đã xuất hiện cùng một lúc ở cùng một nơi?
Tới đây, Châu nói to để ông già nghe thấy:
- Thưa cụ Lâm Kiệt, chúng cháu đã quyết định xong rồi ạ!
Vừa lúc đó, tấm màn được vén ra, ông già Lâm Kiệt tiến vào, theo sau có tên Ngưu và ba tên gia nhân.
Ngươi đã quyết định gì, Tiểu Long? – ông hỏi.
Có lẽ ông đã nghe được tất cả cuộc bàn luận của các cậu, trừ những câu nói thì thầm, nhưng Châu cũng tuyên bố điều quyết định:
- Thưa cụ, chuỗi ngọc vẫn còn ở trong hầm, chúng cháu sẽ giao cho bác Ngưu để mang về đây hầu cụ.
- Ồ, không! – ông già nói với giọng ôn tồn – Các ngươi chỉ cần nói cho Ngưu biết chuỗi ngọc giấu ở chỗ nào để một mình hắn đi lấy cũng được. Trong khi chờ đợi, các ngươi là khách của ta. Rồi, nếu mọi việc được tốt đẹp, các ngươi sẽ được phóng thích, và ta cũng không đòi hỏi các ngươi phải giữ kín cuộc phiêu lưu vừa rồi. Có lẽ người ta sẽ tin lời các ngươi, nhưng chẳng có thể tìm kiếm ra ta được.
- Thưa cụ, vấn đề không dễ dàng như cụ nghĩ – Phúc nói – Bác Ngưu to con quá, không thể vượt qua lối đó được. Chỉ một đứa trẻ hay một người nhỏ con mới…
- Ta sẽ kiếm được một người nhỏ con – tên Ngưu đáp.
Cụ già Lâm Kiệt vội phác một cử chỉ giận dữ:
- Ngươi im đi loài ong kiến! Ngươi phải đích thân mang chuỗi ngọc về cho ta, vì ta không tin một ai khác. Hãy để xem tên này nói sao đã.
Ông già quay lại nhìn Phúc, luồng nhỡn tuyến của ông mạnh đến nỗi Phúc cảm thấy không đủ can đảm để nói dối.
- Có đúng không? – Ông già Lâm Kiệt hỏi – Ngưu không thể một mình đi lấy chuỗi ngọc hay sao?
- Thưa cụ đúng – Phúc đáp.
- Chuỗi ngọc để trong ruột một chiếc đèn bấm cũ, phải không?
- Thưa cụ phải.
- Thế ngươi đã giấu chiếc đèn ở đâu?
- Thưa cụ dưới một tảng đá.
- Tảng đá nào?
- Thưa cụ, cháu khó thể cắt nghĩa để cụ hiểu được. Cháu có thể tìm thấy chiếc đèn nhưng cháu không thể vẽ một họa đồ ra đây.
- Ta hiểu rồi – ông già chậm rãi nói với vẻ mặt suy tư – Ngưu, vấn đề rõ ràng rồi đó, một người lớn không thể qua được. Vậy ngươi dẫn cả bọn này đi để chúng vô lấy ngọc đưa cho ngươi.
- Thưa cụ, như vậy nguy hiểm lắm – tên Ngưu đáp – Lúc về tới đồn điền, chắc mọi người còn đang tìm kiếm trong hang.
- Không được nói là nguy hiểm, mà phải nói là bất trắc – ông già Lâm Kiệt đáp sẵng giọng – Sau khi mấy tên này nạp cho ngươi chuỗi ngọc ngươi phải thả chúng ra.
- Như vậy chúng sẽ khai hết! Chúng sẽ làm cho con bị bắt.
- Ta sẽ che chở cho ngươi, không lo. Ngươi sẽ lãnh số tiền thưởng và một giấy thông hành ra ngoại quốc. Không ai biết các thủ hạ của ngươi thì chúng không thể gây tai hại gì cho ngươi được. Còn ta thì chẳng ai có thể tìm ra, mà có tìm ra chăng nữa thì cũng chẳng có bằng cớ chi hết. Ngươi hiểu chưa?
- Thưa cụ vâng, con xin tuân lệnh. Tuy nhiên, nếu bọn này tìm cách lật con? Nếu chúng không nạp cho con chuỗi ngọc thì sao?
Im lặng một lát, cụ già Lâm Kiệt mỉm cười đáp:
- Trong trường hợp đó, ta chẳng cần đến chúng nữa. Ngươi cứ việc thanh toán chúng rồi cao chạy xa bay. Tuy nhiên, ta không tin rằng chúng lại dám lật ngươi : Chúng cũng ham sống lắm chứ.
Nghe vậy, Cảnh thấy rợn tóc gáy.
Phúc thì tự hỏi không biết sẽ hành động ra sao vì chuỗi ngọc không còn trong ruột chiếc đèn nữa, mà cậu dám cam kết trả lại chiếc đèn… Dầu sao, các cậu sắp được trở lại đồn điền Thanh Lâm cũng là một điều hay.
- Thôi, bây giờ phải đi gấp – ông già ra lệnh.
- Vâng, để con trói bọn này lại đã, vì…
Tên Ngưu vừa nói tới đây thì ông già đã cắt ngang:
- Khỏi cần, ta có cách khác tốt hơn, mà lại dễ chịu cho tất cả mọi người.
Rôi ông quay lại Châu:
- Tiểu Long, hãy nhìn ta!
Mặc dầu không muốn, Châu vẫn phải nhìn vào đôi mắt ông già. Luồng nhãn quang của ông lúc đó có một mãnh lực mà không ai cưỡng nổi được.
- Tiểu Long, ngươi đang buồn ngủ – ông già nói như đọc thần chú – Ngươi mệt mỏi rồi! Giấc ngủ sẽ ngon lành biết bao! Giấc ngủ đang xâm chiếm thể xác ngươi… Đôi mắt ngươi đang nhắm lại…
Cảnh và Phúc thấy đôi mắt Châu chớp chớp một lúc. Rồi cậu lại cố gắng mở mắt ra.
- Đôi mắt ngươi đang nhắm lại! – Ông già nhắc như truyền lệnh – Ngươi không thể kháng lại ta. Ý muốn của ta là ý muốn của ngươi. Ngươi đã cảm thấy nặng nề, mỏi mệt.
Tới đây, Cảnh và Phúc thấy đôi mắt Châu đã nhắm lại. Ông già Lâm Kiệt nói tiếp với một giọng êm dịu, thiết tha:
- Ngươi đang buồn ngủ, mỗi lúc một nhiều hơn. Giấc ngủ xuống với ngươi như một làn sóng âm u… Ngươi đang bị chìm đắm trong giấc ngủ… Một lát nữa, ngươi sẽ ngủ thật say và ngươi chỉ thức dậy khi nào người ta ra lệnh. Ngủ đi, Tiểu Long, ngủ đi… ngủ đi… ngủ đi…
Lúc đó, đôi mắt Châu đã nhắm nghiền và cậu sắp ngã vật xuống. Một tên gia nhân vội bước ra đỡ lấy cậu mang đi.
Ông già Lâm Kiệt quay lại Phúc:
- Bây giờ đến lượt ngươi, kẻ đã giấu chuỗi ngọc! Nhìn ta đây!
Phúc cố tránh cái nhìn thôi miên của ông già đang thu hút đôi mắt cậu như hai cục nam châm. Cậu hết sức đấu tranh chống lại giấc ngủ đang xâm chiếm người cậu, trong khi ông già Lâm Kiệt đọc thần chú. Sau vài phút, một sự mệt mỏi chưa bao giờ thấy đã lan tràn đến tứ chi của cậu, rồi cậu ngã vào tay tên gia nhân đang đứng lạnh lùng chờ đợi.
Biết rằng đây là một phương pháp rất khoa học, mà một số nhà giải phẫu dùng làm thuốc mê, Cảnh không hề thấy sợ sệt khi ông già Lâm kiệt quay lại phía cậu:
- Bây giờ tới lượt ngươi, một kẻ bé nhất nhưng ngang tàng nhất. Đến lượt ngươi cũng phải ngủ như các bạn… Ngủ đi… ngủ đi… ngủ đi…
Cảnh nhắm mắt, sắp ngã gục xuống phía trước thì một tên gia nhân bước ra đỡ lấy mang đi.
Ông già Lâm Kiệt bảo tên Ngưu:
- Chúng sẽ ngủ cho đến khi anh về tới nơi. Lúc đó, anh sẽ gọi chúng dậy thì chúng sẽ thức tỉnh. Nếu chúng nạp cho anh chuỗi ngọc, anh phải thả chúng ra. Nếu không…
Ông già phác một cử chỉ đầy ý nghĩa:
- Nếu không, anh có thể chặt cổ chúng.

Chương 16.
Khi thấy hai người đã ra khỏi phòng, Châu bèn nhắc nhở các bạn:
- Ta chớ nên nói điều gì bí mật ở đây vì họ nghe hết. Nhưng chúng ta phải nói thật nhiều để làm kế hoãn binh.
- Vậy hai anh hãy kể cho tôi nghe bị bắt ra sao – Phúc nói.
- Bọn chúng đợi tôi ở đầu Cuống Họng – Châu đáp – và định bắt cả ba đứa mình. Khi tôi trông thấy bóng dáng một đứa, chúng biết bị lộ bèn nhảy tới. Vì thế, tôi đã hét lên để báo tin cho anh biết. Lát sau, tôi bị bịt miệng và trói tay.
- Rồi chúng lập mưu cho cậu vào bẫy nốt – Cảnh nói tiếp – Chúng bèn làm hiệu bằng đèn bấm để lừa cậu sang. Tới khi cậu đoán biết và không sang thì tên Ngưu đã tức lên ruột. Hắn bèn bảo một tên thủ hạ lách qua Cuống Họng để bắt cậu đứa nào cũng từ chối vì bọn chúng to con sợ mắc kẹt.
- Điều mà tôi không hiểu – Phúc nói – là tại sao tên Ngưu đã đoán biết rằng tụi mình đã dùng lối đường hầm để định thoát đi.
- Ấy là vì hắn đã theo chúng ta sát hơn là chúng ta tưởng, và khi chúng ta tới Hang thì hắn đã nom thấy, nên hắn đã đặt người ở hai đầu đường hầm để đón bắt.
- Vậy là ta gặp rủi ro – Phúc nói – Nhưng trong cái rủi lại có cái may, đúng với câu “Họa trung hữu phúc”. Bây giờ thì anh Châu đã biết rõ tên Ngưu là một tên đại gian manh và các công nhân đều là tay sai của nó ; sự việc này đã giải thích các tai họa xảy ra cho đồn điền.
- Nhưng cũng chưa giải thích được hết, vì tôi tự hỏi, tên Ngưu và thủ hạ đã hành động với mục đích gì? Các tai họa đã xảy ra từ hơn một năm nay. Hồi đó thì ai đã biết là có chuỗi ngọc huyền diệu?
- Phải, thật là kỳ bí – Cảnh đáp – Khi chúng tôi vừa bị bắt thì một tên chạy tới nói với tên Ngưu rằng tất cả thung lũng và hệ thống đường hầm đã đầy người đi tìm chúng tôi. Tên Ngưu tỏ ra bực tức lắm. hắn bèn dùng một mẹo : hắn bỏ Châu và tôi mỗi đứa vào một cái thùng trà rồi đóng đanh lại. Xong, hắn xếp lên cam-nhông chở đi.
- Phải nhìn nhận mưu của hắn cũng cao lắm chứ – Châu nói – Lúc đi đường, tôi nghe thấy một người hỏi tên Ngưu có trông thấy bọn tôi đâu không thì hắn đáp rằng không, nhưng có người đã trông thấy bọn tôi trên con đường nhỏ đi Bảo Lộc hay Sàigòn gì đó. Vì thế, hắn cũng sẽ đi tìm bọn tôi tại hai nơi đó và có thể hắn sẽ về trễ. Như vậy là đầy đủ lý do về sự vắng mặt của hắn tại đồn điền, anh thấy chưa?
Phúc gật đầu nói:
- Ngưu là một tên gian ác, nhưng nó ngu như bò ấy.
- Chiếc cam-nhông đã dừng lại cách đồn điền Thanh Lâm vài cây số – Cảnh nói tiếp – Họ mở thùng cho chúng tôi chui ra và đặt chúng tôi nằm trong một chiếc xe nhỏ hơn, bên trên phủ một tấm chăn. Trừ mấy tên đi áp tải chúng tôi, tên Ngưu hạ lệnh cho những thủ hạ khác phải trở lại đồn điền, rồi trà trộn vào đám người đang kiếm chúng tôi để tìm cách đánh lạc hướng. Hắn còn ra lệnh rằng nếu bắt được anh Phúc thì phải chở về Chợ Lớn, tại địa chỉ hắn đã đưa cho.
- Chúng đã bắt được tôi, nhưng chúng vẫn không đoạt được chuỗi ngọc – Phúc kiêu hãnh đáp.
- Chiếc xe chở chúng tôi đã phá tất cả kỷ lục đường trường – Châu nói – Khi tới Chợ Lớn, nó chạy vào một nhà xe dưới hầm. Ở đó, một số gia nhân người Tầu đã túc trực sẵn. Chúng mở trói cho chúng tôi, mang nước cho chúng tôi rửa mặt mũi sạch sẽ, cho chúng tôi đánh một bữa cơm thịnh soạn rồi đưa chúng tôi vào yết kiến ông già Lâm Kiệt.
- Phải nói đây là một chương trình xếp đặt rất thần tình – Phúc phê bình – Tôi cũng muốn họ khoản đãi tôi một bữa cơm thịnh soạn mà sao không thấy! Chuyện của tôi thì như thế này : Khi tôi nghe tiếng kêu của Châu và tôi nhìn thấy ánh đèn mật hiệu vụng về của tên Ngưu, tôi đã đoán biết ngay những gì đã xảy ra cho anh. Lúc đó tôi chỉ còn “tẩu vi thượng sách”. Và rất may là Cảnh đã đánh dấu con đường đã đi qua lúc trước.
Cảnh bèn giơ tay vừa vẽ lên không khí một cái dấu hỏi vừa nói:
- Tôi cũng đã đánh dấu chiếc thùng mà họ dùng để nhốt tôi. Nhưng ai mà nghĩ đến chuyện đi tìm cái dấu đó trong một chiếc thùng lẫn lộn với hằng trăm chiếc khác?
- Chắc Linh cũng không ngờ tới đống thùng đó để mà tìm kiếm – Phúc đáp.
Rồi cậu tiếp tục kể chuyện mình. Sau khi bị bắt, cậu đã trả lời bên kia rằng chiếc đèn bấm hãy còn để trong hầm ở một chỗ mà họ không thể đi tới được. Sau khi vặn tay cậu để bắt cung khai thêm, bọn chúng lấy khăn bịt mắt cậu lại, lôi cậu ra một chiếc xe đã đợi sẵn ở gần đó và chở về địa chỉ mà tên Ngưu đã cho. Theo lời bàn tán của bọn chúng mà cậu nghe được, chúng đã tập trung cuộc tìm kiếm ở khu đồng hoang, quá ranh giới đồn điền và rất xa cái hang mà ba cậu đã bỏ ngựa.
Châu nói với vẻ nghiêm trọng:
- Chắc bà cô tôi và chú Thuận đang chết dở vì lo âu. Vả lại, chúng ta chẳng hy vọng gì thoát khỏi tay ông già Lâm Kiệt vì ông ta có quyền lực vô biên. Vậy chỉ còn một điều ta có thể làm được, là nạp cho ông chuỗi ngọc mà thôi.
- Sau bao nhiêu khó nhọc mà mình đã trải qua? – Phúc nói với giọng tức bực.
- Tôi tin lời nói của ông – Châu đáp – Ban nãy ông có hứa rằng chúng ta sẽ không bị hãm hại và những sự khó khăn của bà Sương sẽ chấm dứt nếu ta nạp cho ông chuỗi ngọc. Chúng ta còn muốn gì hơn nữa?
- Thế anh có cho rằng ông tin tưởng các viên ngọc là bài thuốc “trường sinh bất lão” không? – Phúc hỏi – Chuyện này xem ra có vẻ hoang đường làm sao ấy!
- Nào ai biết? – Châu đáp – Ông già Lâm Kiệt có vẻ tin tưởng điều ấy lắm, nhưng ai có thể xác định được là ông lầm hay không. Mới đây, những nhà bác học Âu Châu vừa khám phá ra rằng làn da một giống cóc có chứa đựng một chất quí giá, trong khi người Á Đông đã biết nó từ bao nhiêu thế kỷ nay rồi. Hơn nữa, trong lãnh vực y khoa, lòng tin tưởng nhiều khi còn hiệu nghiệm hơn là vị thuốc. Vậy chỉ cần ông già Lâm Kiệt tin tưởng vào năng lực của viên ngọc để nó giúp ông sống lâu thêm.
- Điều mà tôi thắc mắc – Cảnh nói – là có sự liên quan gì giữa chuỗi ngọc và bóng ma, vì cả hai thứ đó đã xuất hiện cùng một lúc ở cùng một nơi?
Tới đây, Châu nói to để ông già nghe thấy:
- Thưa cụ Lâm Kiệt, chúng cháu đã quyết định xong rồi ạ!
Vừa lúc đó, tấm màn được vén ra, ông già Lâm Kiệt tiến vào, theo sau có tên Ngưu và ba tên gia nhân.
Ngươi đã quyết định gì, Tiểu Long? – ông hỏi.
Có lẽ ông đã nghe được tất cả cuộc bàn luận của các cậu, trừ những câu nói thì thầm, nhưng Châu cũng tuyên bố điều quyết định:
- Thưa cụ, chuỗi ngọc vẫn còn ở trong hầm, chúng cháu sẽ giao cho bác Ngưu để mang về đây hầu cụ.
- Ồ, không! – ông già nói với giọng ôn tồn – Các ngươi chỉ cần nói cho Ngưu biết chuỗi ngọc giấu ở chỗ nào để một mình hắn đi lấy cũng được. Trong khi chờ đợi, các ngươi là khách của ta. Rồi, nếu mọi việc được tốt đẹp, các ngươi sẽ được phóng thích, và ta cũng không đòi hỏi các ngươi phải giữ kín cuộc phiêu lưu vừa rồi. Có lẽ người ta sẽ tin lời các ngươi, nhưng chẳng có thể tìm kiếm ra ta được.
- Thưa cụ, vấn đề không dễ dàng như cụ nghĩ – Phúc nói – Bác Ngưu to con quá, không thể vượt qua lối đó được. Chỉ một đứa trẻ hay một người nhỏ con mới…
- Ta sẽ kiếm được một người nhỏ con – tên Ngưu đáp.
Cụ già Lâm Kiệt vội phác một cử chỉ giận dữ:
- Ngươi im đi loài ong kiến! Ngươi phải đích thân mang chuỗi ngọc về cho ta, vì ta không tin một ai khác. Hãy để xem tên này nói sao đã.
Ông già quay lại nhìn Phúc, luồng nhỡn tuyến của ông mạnh đến nỗi Phúc cảm thấy không đủ can đảm để nói dối.
- Có đúng không? – Ông già Lâm Kiệt hỏi – Ngưu không thể một mình đi lấy chuỗi ngọc hay sao?
- Thưa cụ đúng – Phúc đáp.
- Chuỗi ngọc để trong ruột một chiếc đèn bấm cũ, phải không?
- Thưa cụ phải.
- Thế ngươi đã giấu chiếc đèn ở đâu?
- Thưa cụ dưới một tảng đá.
- Tảng đá nào?
- Thưa cụ, cháu khó thể cắt nghĩa để cụ hiểu được. Cháu có thể tìm thấy chiếc đèn nhưng cháu không thể vẽ một họa đồ ra đây.
- Ta hiểu rồi – ông già chậm rãi nói với vẻ mặt suy tư – Ngưu, vấn đề rõ ràng rồi đó, một người lớn không thể qua được. Vậy ngươi dẫn cả bọn này đi để chúng vô lấy ngọc đưa cho ngươi.
- Thưa cụ, như vậy nguy hiểm lắm – tên Ngưu đáp – Lúc về tới đồn điền, chắc mọi người còn đang tìm kiếm trong hang.
- Không được nói là nguy hiểm, mà phải nói là bất trắc – ông già Lâm Kiệt đáp sẵng giọng – Sau khi mấy tên này nạp cho ngươi chuỗi ngọc ngươi phải thả chúng ra.
- Như vậy chúng sẽ khai hết! Chúng sẽ làm cho con bị bắt.
- Ta sẽ che chở cho ngươi, không lo. Ngươi sẽ lãnh số tiền thưởng và một giấy thông hành ra ngoại quốc. Không ai biết các thủ hạ của ngươi thì chúng không thể gây tai hại gì cho ngươi được. Còn ta thì chẳng ai có thể tìm ra, mà có tìm ra chăng nữa thì cũng chẳng có bằng cớ chi hết. Ngươi hiểu chưa?
- Thưa cụ vâng, con xin tuân lệnh. Tuy nhiên, nếu bọn này tìm cách lật con? Nếu chúng không nạp cho con chuỗi ngọc thì sao?
Im lặng một lát, cụ già Lâm Kiệt mỉm cười đáp:
- Trong trường hợp đó, ta chẳng cần đến chúng nữa. Ngươi cứ việc thanh toán chúng rồi cao chạy xa bay. Tuy nhiên, ta không tin rằng chúng lại dám lật ngươi : Chúng cũng ham sống lắm chứ.
Nghe vậy, Cảnh thấy rợn tóc gáy.
Phúc thì tự hỏi không biết sẽ hành động ra sao vì chuỗi ngọc không còn trong ruột chiếc đèn nữa, mà cậu dám cam kết trả lại chiếc đèn… Dầu sao, các cậu sắp được trở lại đồn điền Thanh Lâm cũng là một điều hay.
- Thôi, bây giờ phải đi gấp – ông già ra lệnh.
- Vâng, để con trói bọn này lại đã, vì…
Tên Ngưu vừa nói tới đây thì ông già đã cắt ngang:
- Khỏi cần, ta có cách khác tốt hơn, mà lại dễ chịu cho tất cả mọi người.
Rôi ông quay lại Châu:
- Tiểu Long, hãy nhìn ta!
Mặc dầu không muốn, Châu vẫn phải nhìn vào đôi mắt ông già. Luồng nhãn quang của ông lúc đó có một mãnh lực mà không ai cưỡng nổi được.
- Tiểu Long, ngươi đang buồn ngủ – ông già nói như đọc thần chú – Ngươi mệt mỏi rồi! Giấc ngủ sẽ ngon lành biết bao! Giấc ngủ đang xâm chiếm thể xác ngươi… Đôi mắt ngươi đang nhắm lại…
Cảnh và Phúc thấy đôi mắt Châu chớp chớp một lúc. Rồi cậu lại cố gắng mở mắt ra.
- Đôi mắt ngươi đang nhắm lại! – Ông già nhắc như truyền lệnh – Ngươi không thể kháng lại ta. Ý muốn của ta là ý muốn của ngươi. Ngươi đã cảm thấy nặng nề, mỏi mệt.
Tới đây, Cảnh và Phúc thấy đôi mắt Châu đã nhắm lại. Ông già Lâm Kiệt nói tiếp với một giọng êm dịu, thiết tha:
- Ngươi đang buồn ngủ, mỗi lúc một nhiều hơn. Giấc ngủ xuống với ngươi như một làn sóng âm u… Ngươi đang bị chìm đắm trong giấc ngủ… Một lát nữa, ngươi sẽ ngủ thật say và ngươi chỉ thức dậy khi nào người ta ra lệnh. Ngủ đi, Tiểu Long, ngủ đi… ngủ đi… ngủ đi…
Lúc đó, đôi mắt Châu đã nhắm nghiền và cậu sắp ngã vật xuống. Một tên gia nhân vội bước ra đỡ lấy cậu mang đi.
Ông già Lâm Kiệt quay lại Phúc:
- Bây giờ đến lượt ngươi, kẻ đã giấu chuỗi ngọc! Nhìn ta đây!
Phúc cố tránh cái nhìn thôi miên của ông già đang thu hút đôi mắt cậu như hai cục nam châm. Cậu hết sức đấu tranh chống lại giấc ngủ đang xâm chiếm người cậu, trong khi ông già Lâm Kiệt đọc thần chú. Sau vài phút, một sự mệt mỏi chưa bao giờ thấy đã lan tràn đến tứ chi của cậu, rồi cậu ngã vào tay tên gia nhân đang đứng lạnh lùng chờ đợi.
Biết rằng đây là một phương pháp rất khoa học, mà một số nhà giải phẫu dùng làm thuốc mê, Cảnh không hề thấy sợ sệt khi ông già Lâm kiệt quay lại phía cậu:
- Bây giờ tới lượt ngươi, một kẻ bé nhất nhưng ngang tàng nhất. Đến lượt ngươi cũng phải ngủ như các bạn… Ngủ đi… ngủ đi… ngủ đi…
Cảnh nhắm mắt, sắp ngã gục xuống phía trước thì một tên gia nhân bước ra đỡ lấy mang đi.
Ông già Lâm Kiệt bảo tên Ngưu:
- Chúng sẽ ngủ cho đến khi anh về tới nơi. Lúc đó, anh sẽ gọi chúng dậy thì chúng sẽ thức tỉnh. Nếu chúng nạp cho anh chuỗi ngọc, anh phải thả chúng ra. Nếu không…
Ông già phác một cử chỉ đầy ý nghĩa:
- Nếu không, anh có thể chặt cổ chúng.

Chương 17
Khi thấy hai người đã ra khỏi phòng, Châu bèn nhắc nhở các bạn:
- Ta chớ nên nói điều gì bí mật ở đây vì họ nghe hết. Nhưng chúng ta phải nói thật nhiều để làm kế hoãn binh.
- Vậy hai anh hãy kể cho tôi nghe bị bắt ra sao – Phúc nói.
- Bọn chúng đợi tôi ở đầu Cuống Họng – Châu đáp – và định bắt cả ba đứa mình. Khi tôi trông thấy bóng dáng một đứa, chúng biết bị lộ bèn nhảy tới. Vì thế, tôi đã hét lên để báo tin cho anh biết. Lát sau, tôi bị bịt miệng và trói tay.
- Rồi chúng lập mưu cho cậu vào bẫy nốt – Cảnh nói tiếp – Chúng bèn làm hiệu bằng đèn bấm để lừa cậu sang. Tới khi cậu đoán biết và không sang thì tên Ngưu đã tức lên ruột. Hắn bèn bảo một tên thủ hạ lách qua Cuống Họng để bắt cậu đứa nào cũng từ chối vì bọn chúng to con sợ mắc kẹt.
- Điều mà tôi không hiểu – Phúc nói – là tại sao tên Ngưu đã đoán biết rằng tụi mình đã dùng lối đường hầm để định thoát đi.
- Ấy là vì hắn đã theo chúng ta sát hơn là chúng ta tưởng, và khi chúng ta tới Hang thì hắn đã nom thấy, nên hắn đã đặt người ở hai đầu đường hầm để đón bắt.
- Vậy là ta gặp rủi ro – Phúc nói – Nhưng trong cái rủi lại có cái may, đúng với câu “Họa trung hữu phúc”. Bây giờ thì anh Châu đã biết rõ tên Ngưu là một tên đại gian manh và các công nhân đều là tay sai của nó ; sự việc này đã giải thích các tai họa xảy ra cho đồn điền.
- Nhưng cũng chưa giải thích được hết, vì tôi tự hỏi, tên Ngưu và thủ hạ đã hành động với mục đích gì? Các tai họa đã xảy ra từ hơn một năm nay. Hồi đó thì ai đã biết là có chuỗi ngọc huyền diệu?
- Phải, thật là kỳ bí – Cảnh đáp – Khi chúng tôi vừa bị bắt thì một tên chạy tới nói với tên Ngưu rằng tất cả thung lũng và hệ thống đường hầm đã đầy người đi tìm chúng tôi. Tên Ngưu tỏ ra bực tức lắm. hắn bèn dùng một mẹo : hắn bỏ Châu và tôi mỗi đứa vào một cái thùng trà rồi đóng đanh lại. Xong, hắn xếp lên cam-nhông chở đi.
- Phải nhìn nhận mưu của hắn cũng cao lắm chứ – Châu nói – Lúc đi đường, tôi nghe thấy một người hỏi tên Ngưu có trông thấy bọn tôi đâu không thì hắn đáp rằng không, nhưng có người đã trông thấy bọn tôi trên con đường nhỏ đi Bảo Lộc hay Sàigòn gì đó. Vì thế, hắn cũng sẽ đi tìm bọn tôi tại hai nơi đó và có thể hắn sẽ về trễ. Như vậy là đầy đủ lý do về sự vắng mặt của hắn tại đồn điền, anh thấy chưa?
Phúc gật đầu nói:
- Ngưu là một tên gian ác, nhưng nó ngu như bò ấy.
- Chiếc cam-nhông đã dừng lại cách đồn điền Thanh Lâm vài cây số – Cảnh nói tiếp – Họ mở thùng cho chúng tôi chui ra và đặt chúng tôi nằm trong một chiếc xe nhỏ hơn, bên trên phủ một tấm chăn. Trừ mấy tên đi áp tải chúng tôi, tên Ngưu hạ lệnh cho những thủ hạ khác phải trở lại đồn điền, rồi trà trộn vào đám người đang kiếm chúng tôi để tìm cách đánh lạc hướng. Hắn còn ra lệnh rằng nếu bắt được anh Phúc thì phải chở về Chợ Lớn, tại địa chỉ hắn đã đưa cho.
- Chúng đã bắt được tôi, nhưng chúng vẫn không đoạt được chuỗi ngọc – Phúc kiêu hãnh đáp.
- Chiếc xe chở chúng tôi đã phá tất cả kỷ lục đường trường – Châu nói – Khi tới Chợ Lớn, nó chạy vào một nhà xe dưới hầm. Ở đó, một số gia nhân người Tầu đã túc trực sẵn. Chúng mở trói cho chúng tôi, mang nước cho chúng tôi rửa mặt mũi sạch sẽ, cho chúng tôi đánh một bữa cơm thịnh soạn rồi đưa chúng tôi vào yết kiến ông già Lâm Kiệt.
- Phải nói đây là một chương trình xếp đặt rất thần tình – Phúc phê bình – Tôi cũng muốn họ khoản đãi tôi một bữa cơm thịnh soạn mà sao không thấy! Chuyện của tôi thì như thế này : Khi tôi nghe tiếng kêu của Châu và tôi nhìn thấy ánh đèn mật hiệu vụng về của tên Ngưu, tôi đã đoán biết ngay những gì đã xảy ra cho anh. Lúc đó tôi chỉ còn “tẩu vi thượng sách”. Và rất may là Cảnh đã đánh dấu con đường đã đi qua lúc trước.
Cảnh bèn giơ tay vừa vẽ lên không khí một cái dấu hỏi vừa nói:
- Tôi cũng đã đánh dấu chiếc thùng mà họ dùng để nhốt tôi. Nhưng ai mà nghĩ đến chuyện đi tìm cái dấu đó trong một chiếc thùng lẫn lộn với hằng trăm chiếc khác?
- Chắc Linh cũng không ngờ tới đống thùng đó để mà tìm kiếm – Phúc đáp.
Rồi cậu tiếp tục kể chuyện mình. Sau khi bị bắt, cậu đã trả lời bên kia rằng chiếc đèn bấm hãy còn để trong hầm ở một chỗ mà họ không thể đi tới được. Sau khi vặn tay cậu để bắt cung khai thêm, bọn chúng lấy khăn bịt mắt cậu lại, lôi cậu ra một chiếc xe đã đợi sẵn ở gần đó và chở về địa chỉ mà tên Ngưu đã cho. Theo lời bàn tán của bọn chúng mà cậu nghe được, chúng đã tập trung cuộc tìm kiếm ở khu đồng hoang, quá ranh giới đồn điền và rất xa cái hang mà ba cậu đã bỏ ngựa.
Châu nói với vẻ nghiêm trọng:
- Chắc bà cô tôi và chú Thuận đang chết dở vì lo âu. Vả lại, chúng ta chẳng hy vọng gì thoát khỏi tay ông già Lâm Kiệt vì ông ta có quyền lực vô biên. Vậy chỉ còn một điều ta có thể làm được, là nạp cho ông chuỗi ngọc mà thôi.
- Sau bao nhiêu khó nhọc mà mình đã trải qua? – Phúc nói với giọng tức bực.
- Tôi tin lời nói của ông – Châu đáp – Ban nãy ông có hứa rằng chúng ta sẽ không bị hãm hại và những sự khó khăn của bà Sương sẽ chấm dứt nếu ta nạp cho ông chuỗi ngọc. Chúng ta còn muốn gì hơn nữa?
- Thế anh có cho rằng ông tin tưởng các viên ngọc là bài thuốc “trường sinh bất lão” không? – Phúc hỏi – Chuyện này xem ra có vẻ hoang đường làm sao ấy!
- Nào ai biết? – Châu đáp – Ông già Lâm Kiệt có vẻ tin tưởng điều ấy lắm, nhưng ai có thể xác định được là ông lầm hay không. Mới đây, những nhà bác học Âu Châu vừa khám phá ra rằng làn da một giống cóc có chứa đựng một chất quí giá, trong khi người Á Đông đã biết nó từ bao nhiêu thế kỷ nay rồi. Hơn nữa, trong lãnh vực y khoa, lòng tin tưởng nhiều khi còn hiệu nghiệm hơn là vị thuốc. Vậy chỉ cần ông già Lâm Kiệt tin tưởng vào năng lực của viên ngọc để nó giúp ông sống lâu thêm.
- Điều mà tôi thắc mắc – Cảnh nói – là có sự liên quan gì giữa chuỗi ngọc và bóng ma, vì cả hai thứ đó đã xuất hiện cùng một lúc ở cùng một nơi?
Tới đây, Châu nói to để ông già nghe thấy:
- Thưa cụ Lâm Kiệt, chúng cháu đã quyết định xong rồi ạ!
Vừa lúc đó, tấm màn được vén ra, ông già Lâm Kiệt tiến vào, theo sau có tên Ngưu và ba tên gia nhân.
Ngươi đã quyết định gì, Tiểu Long? – ông hỏi.
Có lẽ ông đã nghe được tất cả cuộc bàn luận của các cậu, trừ những câu nói thì thầm, nhưng Châu cũng tuyên bố điều quyết định:
- Thưa cụ, chuỗi ngọc vẫn còn ở trong hầm, chúng cháu sẽ giao cho bác Ngưu để mang về đây hầu cụ.
- Ồ, không! – ông già nói với giọng ôn tồn – Các ngươi chỉ cần nói cho Ngưu biết chuỗi ngọc giấu ở chỗ nào để một mình hắn đi lấy cũng được. Trong khi chờ đợi, các ngươi là khách của ta. Rồi, nếu mọi việc được tốt đẹp, các ngươi sẽ được phóng thích, và ta cũng không đòi hỏi các ngươi phải giữ kín cuộc phiêu lưu vừa rồi. Có lẽ người ta sẽ tin lời các ngươi, nhưng chẳng có thể tìm kiếm ra ta được.
- Thưa cụ, vấn đề không dễ dàng như cụ nghĩ – Phúc nói – Bác Ngưu to con quá, không thể vượt qua lối đó được. Chỉ một đứa trẻ hay một người nhỏ con mới…
- Ta sẽ kiếm được một người nhỏ con – tên Ngưu đáp.
Cụ già Lâm Kiệt vội phác một cử chỉ giận dữ:
- Ngươi im đi loài ong kiến! Ngươi phải đích thân mang chuỗi ngọc về cho ta, vì ta không tin một ai khác. Hãy để xem tên này nói sao đã.
Ông già quay lại nhìn Phúc, luồng nhỡn tuyến của ông mạnh đến nỗi Phúc cảm thấy không đủ can đảm để nói dối.
- Có đúng không? – Ông già Lâm Kiệt hỏi – Ngưu không thể một mình đi lấy chuỗi ngọc hay sao?
- Thưa cụ đúng – Phúc đáp.
- Chuỗi ngọc để trong ruột một chiếc đèn bấm cũ, phải không?
- Thưa cụ phải.
- Thế ngươi đã giấu chiếc đèn ở đâu?
- Thưa cụ dưới một tảng đá.
- Tảng đá nào?
- Thưa cụ, cháu khó thể cắt nghĩa để cụ hiểu được. Cháu có thể tìm thấy chiếc đèn nhưng cháu không thể vẽ một họa đồ ra đây.
- Ta hiểu rồi – ông già chậm rãi nói với vẻ mặt suy tư – Ngưu, vấn đề rõ ràng rồi đó, một người lớn không thể qua được. Vậy ngươi dẫn cả bọn này đi để chúng vô lấy ngọc đưa cho ngươi.
- Thưa cụ, như vậy nguy hiểm lắm – tên Ngưu đáp – Lúc về tới đồn điền, chắc mọi người còn đang tìm kiếm trong hang.
- Không được nói là nguy hiểm, mà phải nói là bất trắc – ông già Lâm Kiệt đáp sẵng giọng – Sau khi mấy tên này nạp cho ngươi chuỗi ngọc ngươi phải thả chúng ra.
- Như vậy chúng sẽ khai hết! Chúng sẽ làm cho con bị bắt.
- Ta sẽ che chở cho ngươi, không lo. Ngươi sẽ lãnh số tiền thưởng và một giấy thông hành ra ngoại quốc. Không ai biết các thủ hạ của ngươi thì chúng không thể gây tai hại gì cho ngươi được. Còn ta thì chẳng ai có thể tìm ra, mà có tìm ra chăng nữa thì cũng chẳng có bằng cớ chi hết. Ngươi hiểu chưa?
- Thưa cụ vâng, con xin tuân lệnh. Tuy nhiên, nếu bọn này tìm cách lật con? Nếu chúng không nạp cho con chuỗi ngọc thì sao?
Im lặng một lát, cụ già Lâm Kiệt mỉm cười đáp:
- Trong trường hợp đó, ta chẳng cần đến chúng nữa. Ngươi cứ việc thanh toán chúng rồi cao chạy xa bay. Tuy nhiên, ta không tin rằng chúng lại dám lật ngươi : Chúng cũng ham sống lắm chứ.
Nghe vậy, Cảnh thấy rợn tóc gáy.
Phúc thì tự hỏi không biết sẽ hành động ra sao vì chuỗi ngọc không còn trong ruột chiếc đèn nữa, mà cậu dám cam kết trả lại chiếc đèn… Dầu sao, các cậu sắp được trở lại đồn điền Thanh Lâm cũng là một điều hay.
- Thôi, bây giờ phải đi gấp – ông già ra lệnh.
- Vâng, để con trói bọn này lại đã, vì…
Tên Ngưu vừa nói tới đây thì ông già đã cắt ngang:
- Khỏi cần, ta có cách khác tốt hơn, mà lại dễ chịu cho tất cả mọi người.
Rôi ông quay lại Châu:
- Tiểu Long, hãy nhìn ta!
Mặc dầu không muốn, Châu vẫn phải nhìn vào đôi mắt ông già. Luồng nhãn quang của ông lúc đó có một mãnh lực mà không ai cưỡng nổi được.
- Tiểu Long, ngươi đang buồn ngủ – ông già nói như đọc thần chú – Ngươi mệt mỏi rồi! Giấc ngủ sẽ ngon lành biết bao! Giấc ngủ đang xâm chiếm thể xác ngươi… Đôi mắt ngươi đang nhắm lại…
Cảnh và Phúc thấy đôi mắt Châu chớp chớp một lúc. Rồi cậu lại cố gắng mở mắt ra.
- Đôi mắt ngươi đang nhắm lại! – Ông già nhắc như truyền lệnh – Ngươi không thể kháng lại ta. Ý muốn của ta là ý muốn của ngươi. Ngươi đã cảm thấy nặng nề, mỏi mệt.
Tới đây, Cảnh và Phúc thấy đôi mắt Châu đã nhắm lại. Ông già Lâm Kiệt nói tiếp với một giọng êm dịu, thiết tha:
- Ngươi đang buồn ngủ, mỗi lúc một nhiều hơn. Giấc ngủ xuống với ngươi như một làn sóng âm u… Ngươi đang bị chìm đắm trong giấc ngủ… Một lát nữa, ngươi sẽ ngủ thật say và ngươi chỉ thức dậy khi nào người ta ra lệnh. Ngủ đi, Tiểu Long, ngủ đi… ngủ đi… ngủ đi…
Lúc đó, đôi mắt Châu đã nhắm nghiền và cậu sắp ngã vật xuống. Một tên gia nhân vội bước ra đỡ lấy cậu mang đi.
Ông già Lâm Kiệt quay lại Phúc:
- Bây giờ đến lượt ngươi, kẻ đã giấu chuỗi ngọc! Nhìn ta đây!
Phúc cố tránh cái nhìn thôi miên của ông già đang thu hút đôi mắt cậu như hai cục nam châm. Cậu hết sức đấu tranh chống lại giấc ngủ đang xâm chiếm người cậu, trong khi ông già Lâm Kiệt đọc thần chú. Sau vài phút, một sự mệt mỏi chưa bao giờ thấy đã lan tràn đến tứ chi của cậu, rồi cậu ngã vào tay tên gia nhân đang đứng lạnh lùng chờ đợi.
Biết rằng đây là một phương pháp rất khoa học, mà một số nhà giải phẫu dùng làm thuốc mê, Cảnh không hề thấy sợ sệt khi ông già Lâm kiệt quay lại phía cậu:
- Bây giờ tới lượt ngươi, một kẻ bé nhất nhưng ngang tàng nhất. Đến lượt ngươi cũng phải ngủ như các bạn… Ngủ đi… ngủ đi… ngủ đi…
Cảnh nhắm mắt, sắp ngã gục xuống phía trước thì một tên gia nhân bước ra đỡ lấy mang đi.
Ông già Lâm Kiệt bảo tên Ngưu:
- Chúng sẽ ngủ cho đến khi anh về tới nơi. Lúc đó, anh sẽ gọi chúng dậy thì chúng sẽ thức tỉnh. Nếu chúng nạp cho anh chuỗi ngọc, anh phải thả chúng ra. Nếu không…
Ông già phác một cử chỉ đầy ý nghĩa:
- Nếu không, anh có thể chặt cổ chúng.
 
Sửa lần cuối:

malemkhoang

Rìu Chiến
Tuổi hoa nhà mình là mực tím, còn đương thả thính bắt gấu.
Tuổi hoa nhà bạn không bận thả thính bắt gấu thì đọc được bao nhiêu trong số những sách này?
 

malemkhoang

Rìu Chiến
xin 1 slot cảm nhận.
Ai đánh mất 1 phần tuổi thơ hay muốn 1 vé đi tuổi thơ trong tâm hồn thì tủ sách này vô giá.
{cry}

Tuổi thơ không thèm ghé qua đây.
Hết tuổi thơ có thể ghé qua đây.
Bị mất tuổi thơ không biết có nơi này.
Đánh mất tuổi thơ làm sao biết nơi này.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Cập nhật thêm 15 chương truyện Chuỗi ngọc trường sinh
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Cô gái Chúc Sơn
Tác giả:
Chân Phương
Tủ sách Tuổi Hoa 1974
Loại Hoa: Hoa Đỏ
Nguồn: ĐÈN BIỂN
SvpWy7bL7CDIGrzrD8v_AHvXlpV1TVdmFX85Zi8CvC2iy4JV8wC8TzWuidhVFYf4uFwZ0TIsIcxqqYydsfUl4ezieHaXCVRnPKdHRid3mCrbnksJfMb27A9KbyJNufyfGUiqKl4Gmc8R2Sk-AvLPkMU4uI_WPSaicHADyayIIEZpReGl-Og99pgu2H2FbR6EqJRmDgGkD82gzaCUJWTuwEyIq09syhP87C2dVmUIjgKpfuKGmTHTPtbp4MP0YFUcuq9ufraE4fjB8Jq4L9UA5SXEQu4CUQC5Rcy_vpejV6mmt5sYnpsyPRzZg0wiRM7FY3EgFRhTQYwwYZr1fxEemSAskpHmSdNwARmBvLCuznlzO9vrJnsh6Em0ViFKxpkWoePHQRpPoLKu1XVb_UuJ-D15w1iaPZPneYoneVbATFX9p8dtIZBCO-Csitcx-610PCxp9uX7xorj0cRI253ubmTMYVsoCBESStG888CSvhwyzMtWw4TwrdIIf7K-v_JL1lx3CZRmysQOqaqB3RUr_KTqDmTBtbo-m4kk87GLDvqasE_J-qEH-v7zLatdxRfRltM4MCA4j5rKM4hYO2CoFwe8wOkt6Blq14otomV3JV18SQAKzSIVGQ=w460-h635-no


Chương 1. Bến Đò Mai Lĩnh
Mới hạ tuần tháng chín, trời chưa hẳn sang đông mà đã giá căm căm. Trên mặt sông lạnh tanh từ sáng đến trưa, con đò ngang mới chở được vài ba chuyến, mỗi chuyến lèo tèo dăm sáu người.
Cảnh ngược xuôi tấp nập trên đường đê rộng thênh thang lượn dài theo con sông Đáy cũng không còn nữa.
Trong túp lều tranh nhỏ xíu dựng nép bên đường, bà hàng tóc bạc phơ buồn bã ngó con đê vắng ngắt, giòng sông lạnh lẽo với con đò bơ vơ.
Ngồi co ro trong tấm áo bông cánh còn mới, bà cụ chít lại chiếc khăn vuông nâu cho thật kín và nhớ lại những ngày đông vui đã qua. Nào mấy bà người làng te tái từ dưới bến lên vào uống bát nước chè tươi cho ấm bụng, nào mấy ông khách buôn, tay nải khoác chĩu một bên vai, sà xuống ghế làm một cút (1) rượu nhắm với đĩa lòng béo ngậy…
Bà cụ nhớ cả những tiếng dép da trâu lẹp kẹp trên mặt đường, những tiếng nói chuyện ồn ào của những ông lái, bà lái không bao giờ ghé vào trong quán. Họ phải gồng gánh nặng và luôn luôn phải chạy gằn từng thôi (2) thẳng cho kịp giờ họp chợ.
Nhớ cả đám trẻ con nô đùa dức lác… Chỉ có nghịch, chỉ có phá, nhưng mà vui.
Còn bây giờ, nguyên cả một nồi chè đậu đãi chưa ai động đến với già nữa chõ xôi ngon thật là ngon. Cứ cái cung cách này chắc tối nay cả nhà phải ăn xôi chè trừ bữa…
Có tiếng vang lên cùng với tiếng chân người bước tới.
- Có nắng rồi !... Cũng sắp có đò nữa !
Hai người đàn ông hăm hở bước vào trong quán. Cả hai cùng cao lớn, vạm vỡ. Nét mặt và cử chỉ cùng lanh lợi. Và họ cùng đảo mắt xoi mói khắp nơi trong quán hẹp trước khi bóc mấy tấm bánh nếp ra ăn.
Họ chỉ đưa mắt cho nhau chứ không nói chuyện bằng lời và chỉ ậm ự khi bà hàng đon đả mời họ dùng thêm thứ này thứ khác.
Dưới sông, con đò đã gần sang tới bến.
Họ trả tiền, đứng dậy. Mấy chiếc lá gói bánh bay lào xào, đuổi nhau trên mặt đê. Bà hàng ngước mặt lên nhìn khách :
- Hai ông sang đò ?
- Phải !
Đó là tiếng nói độc nhất mà một trong hai người đã miễn cưỡng buông ra trong quán nước. Y có một bộ râu quai nón khá đẹp.
Họ bước xuống con đường dốc. Một tên ngoái lại nhìn thấy có ba người từ phía nam đi tới sắp bước vào trong quán.
Bà hàng vồn vã :
- Mời ba ông vào nghỉ chân sơi nước.
Nắng xiên khoai chiếu vào đầy quán. Cả chủ lẫn khách khoan khoái ngâm mình trong ánh vàng ấm áp.
Bà hàng một tay vươn ra lật ngửa mấy chiếc bát ở sát mép chõng, một tay ngoái ra đàng sau cầm cái gáo dài múc nước chè tươi rót cho khách. Hình ảnh ngộ nghĩnh y như một người đang quờ quạng bơi trong nắng. Bà suýt soa :
- Mới tháng chín mà trời đã rét ngọt ! Đi đường lúc này chắc vất vả lắm, thưa ba ông ?
- Phải !... Hàng có gì ăn không, bà cụ ?
Ông khách có gương mặt nho nhã nhất lên tiếng hỏi. Bà hàng ân cần đáp, vẻ mừng hiện rõ trên đôi môi ăn trầu cắn chỉ (3) :
- Thưa có ạ. Xôi lạc ngon lắm. Cả chè đậu đãi nữa. Xôi tôi để nguyên trong chõ, nóng hôi hổi. Để tôi cơi (4) ra đĩa, ba ông sơi thử.
Người cao lớn nhất ngồi ngoài cùng cười nói oang oang :
- Thôi, bà cụ cơi cho ông thầy tôi đây một đĩa xôi và hai chén chè là đủ. Còn bao nhiêu bà cụ cứ để đấy, hai anh em tôi lo cho.
Hai người lực lưỡng như hai ông hộ pháp ăn như rồng cuốn nước trước sự ngạc nhiên và mừng rỡ của bà hàng. Tuy nhiên, những gì xẩy ra chung quanh cũng không qua được tai mắt họ.
Dưới bến, chiếc đò ngang đã tới. Cô lái, người cao dong dỏng, cắm chiếc sào dài xuống đất cho thuyền ghé sát bờ. Khách quá giang ngưng bặt câu chuyện đang nói dở khi họ thấy hai người bịt khăn tùm hụp từ mặt đê xuống tới nơi. Họ lên bờ, lặng lẽ.
Tên có hàm râu quai nón nhẩy tót xuống thuyền, nhẹ như chiếc lá. Mặt y lầm lì trong khi gã bạn đồng hành nhe hàm răng trắng nhởn cười nham nhở và làm bộ quờ quạng nắm cổ tay trắng nõn của cô lái như phải có một điểm tựa mới bước được lên thuyền.
Sợ hãi, người con gái vội rụt tay lại và kéo theo luôn cả con sào. Mũi thuyền quay ngang hắt tên vô lễ lăn tòm xuống nước.
Tiếng cười khoái trá vang trên mặt đê. Cười lớn nhất là hai ông khách ăn mạnh như hùm trong quán.
Ông khách nho nhã vuốt chòm râu đen nhánh khen :
- Hà hà ! Cô bé cũng là tay đáo để đấy chứ, phải không hai chú ?
- Dạ. Thân thủ (5) khá lắm.
Người thứ hai tiếp lời :
- Còn phải nói ! Con gái Chúc Sơn mà !
- Ờ, trông cách cô bé gỡ tay rồi bước xéo chân khiến cho con thuyền tạt ngang, êm cứ như ru, cũng biết cô bé có nghệ chân truyền.
- Vâng. Ngón nghề cô bé vào hạng cừ khôi đó, thưa thầy.
Bà hàng bỗng thấy cao hứng, tươi cười nói xen vô :
- Con gái họ Hoàng mà, thưa ba ông. Lúc thường thì ăn nói dịu dàng, dễ thương hết sức. Nhưng lúc cần dụng võ thì, nói ba ông bỏ lỗi, con trai lực điền cũng không bằng.
Ông khách ngồi ngoài cùng ngó xuống mé sông, thích chí cười ha hả :
- Chả thế mà hai tên kia biết thân phải ngồi yên một phép !
- Rét mướt thế này mà tên kia ướt như chuột lột… Kìa, cu cậu phải ngồi thu hình vào một xó cho đỡ lạnh, trông thảm hại chưa !
- Cho thế mới đáng đời !
- Hai đứa cũng là tay võ nghệ, sao chúng không gây sự nhỉ ?
Bà hàng tươi cười giải thích :
- Chúng nó không dám đâu ông ơi ! Một thằng là người làng làm chó săn cho giặc. Tôi nhận ra ngay khi nó mới bước chân vào trong quán. Còn thằng kia là Tầu. Đánh nhau trên bộ không biết sao, chứ giở giỏi ra trên thuyền thì chết với cô gái.
- À, ra thế ! Có phải cô ấy là cô Sơn Ca không bà cụ ?
Bà hàng ngạc nhiên :
- Phải. Mà sao ông biết ?
- Chúng tôi nghe người ta đồn. Bà hàng nhỉ, sao từ nẫy đến giờ, không thấy cô ta hát ?
Nở một nụ cười cởi mở khi thấy hai ông hộ pháp đã ăn sạch nhẵn cả chõ xôi lẫn nồi chè, bà hàng kể rành rọt :
- “Sơn Ca” không phải là tên thật cô ấy đâu, ông thầy ạ. Tên thật cô bé ấy là Mai, con ông Hương trưởng Tùng. Ngày nhỏ, nó hay hát, hát véo von suốt ngày nên người làng gọi đùa là con Sơn Ca, lâu dần thành tên. Nhớn lên, thấy nước nhà hoạn nạn, giặc lại hay sục sạo làm điều càn rỡ, bọn con gái biết lo không cười đùa ca hát nữa. Họ theo gót cha anh tập võ. Cụ Cử Chúc Sơn khen con bé Sơn Ca giỏi vào hạng nhất nhì làng tôi đấy.
Ba thầy trò chưa kịp gợi chuyện thêm, bà cụ đã ướm lời hỏi trước :
- Tôi già nua lẫn cẫn hỏi thế này khí không phải, ba ông bỏ lỗi cho nhé. Nghe nói ở đường trong, Bình Định Vương đã đánh đến Tây Đô (6) chả biết đến bao giờ Người mới dẹp được Đông Quan (7) để cho con dân được yên ổn làm ăn ?
Ông khách nho nhã cười khiêm tốn đỡ lời :
- Ấy chết ! Sao cụ lại hỏi chúng tôi điều ấy ? Chúng tôi cũng là con nhà làm ăn buôn bán như cụ, biết đâu được những việc xa xôi.
- Các ông giấu già này cũng chả được. Nhác trông một cái già biết liền. Có điều già muốn nói ra hay không nói ra mà thôi. Này nhé, ba ông là người ngoài ta nhưng ở lâu trong ấy, giọng đã hơi nặng, tinh ý một chút là nhận ra ngay. Bàn tay của ông thầy trông xa cũng thấy là bàn tay cầm bút. Còn hai ông đây đúng là hai ông hổ tướng. Đố ai dám bảo các ông là người buôn bán hay làm việc thổ mộc (8) !
Một người tấm tắc khen :
- Bà cụ vậy mà cũng biết xem tướng nữa cơ đấy !
- Chẳng qua là thói quen đấy thôi, các ông ạ. Chả là tôi bán quán đã lâu, khách cũng đông, mỗi người một vẻ, chả ai giống ai, mà tôi nhận xét ít khi lầm lẫn.
Một người nói bâng quơ :
- Ờ ! Chả trách người ta hay lập quán ăn để dò xét những người qua lại !
- Chính thế đấy, ông thầy ạ. Như hai tên ở đây ra lúc nẫy đố khỏi là hai tên do thám của quân Minh. Một đứa từ lúc vào đến lúc ra chỉ nói vỏn vẹn có một tiếng “Phải !”, tôi cũng nhận ra ngay thằng Hoạt, con ông bà Cả Phục ở Chúc Sơn. Còn một đứa ngậm câm luôn, tôi đoán nó là một thằng Tầu chưa nói sõi tiếng ta nên không dám mở miệng. Chúng nó qua sông chém chết cũng không khỏi vụ dò la mấy làng Chúc Sơn hay Tụy Động, Lương Xá.
Ông thầy khen :
- Bà cụ đã có tuổi mà nhìn người cũng không sai mấy. Chả nói giấu gì cụ, tôi thực không phải là dân thương mại. Tôi làm thầy địa lý, chuyên để đất cất mộ cho người ta ấy mà, cụ. Nhờ chịu khó đi đây đi đó, hết đường trong đến đường ngoài nên cũng có được tí tiền. Cụ tính, thời buổi này, đi xa xem đất, xem cát mà không có người đi theo che chở như hai chú nó đây, có lúc chết mất mạng chứ đâu phải chuyện chơi…
Thấy bà cụ chưng hửng cũng hơi tội nghiệp, ông ta nói tiếp :
- Chúng tôi ở đường trong mới ra, cũng có biết lõm bõm chuyện đánh nhau, câu được câu chăng, kể hầu cụ nghe nhé.
“Bình Định Vương đã đến hồi phấn phát rồi cụ ạ. Từ khi Vương ở Lư Sơn vào đánh Nghệ An đến giờ, trận nào cũng được, thanh thế lừng lẫy, quân Minh khiếp sợ. Hiện nay, quân của Vương vây đánh thành Tây Đô rất gấp. Lại nghe đồn Người sắp thân chinh ra Bắc liệu thế đánh lấy đứt hẳn Đông Đô.”
“Hễ hạ được thành Đông Quan thì là yên đấy, cụ ạ.
- Vâng. Lạy giời cho chóng yên hàn (9). Nhưng, thưa ba ông, tôi nghe nói giặc nó còn mạnh lắm. Chúng đóng quân từ huyện Thạch Thất đến huyện Thanh Oai, đồn lũy liên tiếp hàng mấy chục dặm. Tôi sợ cả đến Chúc Sơn đây rồi cũng khó lòng yên nữa cơ đấy.
Cả ba thầy trò địa lý cùng giật mình, nhìn thẳng mặt người đối thoại mà họ không ngờ có một cái nhìn rộng và sâu sắc như vậy.
- Có thể thế lắm, thưa cụ. May còn có cái bến đò này cản đường cho cũng đỡ. Giặc có tới đây, cũng còn phải sửa soạn chán mới sang sông được. Dân làng nghe tin tạm tránh đi mươi ngày là xong…
_________________________
(1) Cút : loại chai nhỏ dùng để đong rượu.
(2) Thôi : đoạn đường dài.
(3) Cắn chỉ : có hằn màu hồng ở môi.
(4) Cơi : xới, đơm.
(5) Thân thủ : các động tác của thân mình và chân tay.
(6) Tây Đô : Thanh Hoá bây giờ.
(7) Đông Quan hay Đông Đô : Hà Nội bây giờ.
(8)Thổ mộc : đất và gỗ. Việc thổ mộc : việc nặng nhọc làm bằng chân tay.
(9) Yên hàn : yên ổn, hết giặc giã.

Chương 2. Ông thầy địa lý
Ông thầy địa lý ngoảnh nhìn hai bạn đồng hành :
- Ô ! Thế mà đã quá mùi (1) sang thân (2) rồi đấy. Ta liệu sang sông đi thì vừa kẻo tối.
Chuyến đò này vắng. Đợi một lúc không thêm được một người khách thứ tư, cô lái đành nhổ mạnh chiếc sào cho thuyền tách bến. Một mình cô lèo lái chiếc đò sấn lên trên những đợt sóng lô nhô mầu bạc lẫn mầu hồng để tiến ra giữa giòng sông. Vuông khăn mỏ quạ mầu nâu non chít thấp đã không che giấu được chút nào mà còn tôn thêm vẻ đẹp của gương mặt trái soan với đôi mắt bồ câu đen nhánh, hai gò má ửng hồng và đôi môi tươi như thoa son. Trời lạnh là thế mà cô chỉ mặc phong phanh có một chiếc áo dài nâu may đổi vai (3) che không hết tấm áo cánh cũng mầu nâu. Chiếc thắt lưng nhiễu bạc mầu không giữ được những tà áo khỏi tung bay trong gió như hai cánh bướm.
Những cử động nhịp nhàng của đôi tay, đôi chân, của mái chèo ăn khớp với những đợt sóng triền miên từ mạn trên cuồn cuộn tới. Con đò mảnh mai lướt đi êm thắm như, ở lưng trời, một đàn chim không vỗ cánh bay nhẹ về phía Phụng Hoàng Sơn.
Thuyền ra đến giữa giòng, gió thổi lồng lộng, ba ông khách giữ chặt chiếc nón che gần kín mặt. Cô lái mỉm cười ngó ngay ông khách có khuôn mặt thanh tú nhất, dạn dĩ như muốn nhận diện một người quen.
- Thưa ông, ông bỏ lỗi cho cháu, cháu trông ông ngờ ngợ…
Ông khách vuốt lại bộ râu bay phần phật trong gió, ngạc nhiên nhìn cô lái, mỉm cười :
- Cô lái nhầm rồi. Hôm nay tôi mới qua bến đò này là một.
Cô gái tò mò hỏi gặng :
- Chắc ông có người quen bên kia sông ?
- Phải.
Im lặng. Mặt vẫn tươi như hoa, cô gái suy nghĩ tìm cách nói chuyện cho bằng được.
- Đò này cháu chở đến giữa giờ dậu (4) mới cắm sào nghỉ.
- Thế à !
- Nhỡ chuyến đò sau cùng, khách phải đợi đến giờ mão (5) sáng mai đấy, thưa ông.
-Phải.
- Nếu ông cần qua sông ngay chiều nay cho được việc, ông cứ dặn, cháu đợi được đến cuối giờ dậu.
- Không… Giã ơn cô.
- Nói vậy, chiều nay ông chưa về ?
Con bé này đáo để thật ! Biết không ai nỡ mắng, nó cứ tọc mạch hỏi tới hoài. Chả trách người ta hay dùng con gái đẹp làm gián điệp !... Kệ ! Thử xem con nhỏ còn tò mò đến mức nào…
- Phải. Tôi còn ở chơi bên kia vài ba hôm.
Con nhỏ làm bộ ngạc nhiên :
- Ô ! Sao cháu không thấy ba ông mang theo hành lý nhỉ ?
- Nghỉ lại nhà bà con vài hôm mà hành lý nỗi gì ! Tôi xem đất cát cho người ta thì thầy trò tôi cần cái gì, nhà chủ phải chu biện (6) tất.
Cô gái reo lên, nụ cười hồng hé lộ hàm răng đều đặn, đen nhánh như hạt huyền :
- A ! Nói vậy ông là thầy địa lý ?
- Phải.
- Đúng rồi ! Cháu nghe các cụ nói ở bên Lương Xá cũng như ở mạn Phụng Hoàng Sơn có nhiều kiểu đất quý lắm. Dễ thường ba ông đi Lương Xá ?
- Phải.
Làm bộ ngây thơ, cô gái lẩm nhẩm như tự hỏi :
- Lạ nhỉ ! Ông thầy để đất cho ai bên ấy kìa ?
Đò gần đến bến, ông khách thấy đã đến lúc kết thúc trò đùa ;
- Tôi tìm đất cho người Tầu mà, cô.
Cô gái kinh ngạc hỏi giật giọng :
- Ngưòi Tầu ?
- Phải.
- Người Tầu nhờ ông để đất ?
- Không. Người Việt ta nhờ chứ.
- Kỳ quái không ! Người Việt ta nhờ ông tìm đất cát cho người Tầu ?
- Phải. Có chi là kỳ quái ?
- Thưa ông, cháu thấy lạ là vì chưa từng thấy thế bao giờ. Ở bên Lương Xá, cháu quen nhiều, nhưng chẳng biết ai lại thân với người Tầu đến như vậy.
- Thế à ?
- Chả dám nào…
- Cô cứ nói.
- Giá ông cho cháu biết tên, may ra cháu hay thầy cháu ở nhà có quen…
- Được. Người nhờ tôi họ Lê. Và tìm đất cho người họ Đại.
Cô gái lắc đầu chịu phép :
- Bên Lương Xá, có họ Trần nổi tiếng nhất. Cháu không biết có ai họ Lê hay họ Đại.
- Vậy hả ? Để tôi nói rõ hơn, cô đoán xem nhé.
- Vâng.
- Cái ông nhờ tôi họ Lê, tên Ta. Tên họ đầy đủ là Lê dân Ta.
- Lê dân Ta ?
- Phải. Còn đất thì để chôn người họ Đại, tên Minh. Tên họ đầy đủ của y là Đại quân Minh.
- Đại quân Minh ?
- Phải.
Đò vừa cặp bến. Bến vắng tanh. Cô lái cắm mạnh cây sào xuống đất, chắp tay vái ông khách :
- Lạy bác ạ. Cháu được lạy chào Nguyễn quân sư ở đây thật là vạn hạnh… Mới thoạt trông thấy bác, cháu đã ngờ ngợ mà nghĩ mãi không ra.
- Cháu đã gặp bác bao giờ đâu mà ngờ ngợ được ?
- Vâng, cháu chưa được gặp. Nhưng anh cháu về thăm nhà có nói.
- À, anh Cả Trúc ?
- Vâng ạ. Anh cả cháu có tả rõ hình dáng của Ức Trai (7) tiên sinh cho thầy cháu nghe. Cháu nghe lỏm và ghi nhớ. Lúc nãy nghe bác nói đến “dân ta” và “quân Minh”, cháu bỗng tỉnh ngộ và nhận ra bác ngay. Cùng lúc ấy, cháu nhận luôn ra hai chú, chú Trí và chú Lực, không lúc nào rời xa bác.
Cô gái khúc khích cười, nhìn hai ông tướng lực lưỡng đứng sau lưng nhà nho tầm thước.
- Anh cháu bảo chú Trí có cặp mắt xếch rất oai là “Mã tiền Trương Bảo” còn chú Lực có bộ râu quai nón bất hủ là “Mã hậu Vương Hoành” (8) !
- Ờ, cháu bác cũng thông minh đấy !
Vị quân sư họ Nguyễn khen rồi quay bảo Trí :
- Chú Bẩy giao cho cháu thư nhà của Cả Trúc đi.
Cô gái năn nỉ :
- Chả mấy thuở bác và hai chú qua đây, mời bác và hai chú ghé qua nhà cháu để thầy cháu được…
Nguyễn Trãi vội gạt đi :
- Không được đâu cháu. Bác phải đi xem đất, xem cát, sắp đặt các cái nội trong một ngày cho xong. Rồi còn phải đi nơi khác… Để sau này yên hàn, bác về chơi thăm thầy cháu và cụ Cử cũng không muộn.
Ba ông khách nhẩy vội lên bờ. Cô gái cũng nhẩy theo, đôi gót chân son nổi bật dưới gấu chiếc quần sồi thô kệch.
Họ Nguyễn ân cần căn dặn :
- Bác đi chuyến này là để mưu một trận đánh thật to. Có thắng được là nhờ công sức của các tướng, của ba quân. Nhưng một phần phải nhờ cháu và những người như cháu. Vậy nay mai ông Trần Kiện bên Lương Xá… À, cháu biết ông Trần Kiện chứ ?
- Thưa bác, vâng. Chú Trần có họ gần với đẻ cháu.
- Thế thì tốt. Khi nào chú Trần nhờ cháu việc gì, cháu phải chịu khó giúp cho tất lực nhé. Vì đó là việc chỉ có cháu mới làm nổi.
Mai hớn hở :
- Vâng. Xin bác tin ở cháu.
Nàng đứng ngây người, ngước mắt rõi ba thầy trò rảo bước trên con đường chạy dài về hướng tây cho đến khi mất hút.
____________________________
(1) Giờ Mùi : từ 1 đến 3 giờ trưa.
(2) Giờ Thân : từ 3 đến 5 giờ chiều.
(3) Áo đổi vai : áo thay một vai bằng vải hơi khác màu (vì tiết kiệm).
(4) Giờ Dậu : từ 5 đến 7 giờ tối.
(5) Giờ Mão : từ 5 đến 7 giờ sáng.
(6) Chu biện : lo đầy đủ.
(7) Ức Trai tiên sinh : tên hiệu của Nguyễn Trãi.
(8) Mã tiền Trương Bảo, Mã hậu Vương Hoành : Nhạc Phi, một danh tướng nhà Tống có 2 tướng cận vệ trung thành là Trương Bảo chạy ở trước ngựa (mã tiền) và Vương Hoành chạy ở sau ngựa (mã hậu).

Chương 3. Chú bé họ Trần
Nguyễn Trãi và hai viên tướng tùy tùng đi đứng thật tự nhiên trên con đường cái chạy thẳng tắp từ bến đò Mai Lĩnh về hướng tây.
Đường thưa thớt người qua lại. Ai cũng có vẻ vội vã và sợ sệt. Không gian như bàng bạc một điềm sát khí.
Như dân địa phương đã thuộc lối, họ rẽ xuống con đường nhỏ phía trái dẫn quanh co tới làng Lương Xá.
Hai bên đường, mênh mông toàn những ruộng chiêm, vắng tanh không một bóng người
Một đám đất đột nhiên cao đưa tới một khu rừng nhỏ. Qua tấm bình phong xanh ngắt này, cảnh vật chắc còn âm u ảm đạm hơn nhiều.
Ba người khách bộ hành vội vàng dấn bước. Họ rất đỗi ngạc nhiên và mừng rỡ khi ra khỏi cụm rừng, họ đặt chân vào một thế giới mới, vui tươi và sống động. Đó đây loáng thoáng bóng dáng mấy con trâu ung dung nhai cỏ và nhìn đời bằng những cặp mắt mơ màng. Từ xa vẳng lại những tiếng nô đùa trong trẻo của trẻ con.
Không ai bảo ai, họ cùng đi chầm chậm lại để xem cho thích mắt một quang cảnh mới lạ đang diễn ra trong một bầu không khí họ hoàn toàn không ngờ tới.
Trên một khoảnh đất rộng bao la ngập ánh nắng chiều, ba bốn chục thiếu niên vào trạc 16 tuổi trở lại đang chia ra hai phe quần thảo với nhau. Cậu nào cũng mình trần trùng trục, vừa la hét, vừa chạy nhẩy đấm đá.
Ba người khách lạ phương xa đứng dừng hẳn bên gốc một cây đa già khi một chú bé tuổi chừng 14, toàn thân đen trùi trũi và rắn bóng như đồng, đã hạ được một lúc tám chín cậu cao lớn hơn.
Nhiều tiếng vỗ tay khen ngợi xen lẫn những tiếng la :
- Hay ! Hay tuyệt !
- Diễn lại ngọn đá liên hoàn coi !
- Còn ngón “Đại bàng vượt núi”, mày bay nhanh quá, Tráng à. Lần này, mày phải phi thân chầm chậm lại một tí cho cánh tao học mót với chứ.
Chú bé đồng đen tươi cười giải thích :
- Được rồi. Tao đánh thong thả cho chúng mày bắt chước nhé. Nhưng tao nói trước, ngón đá liên hoàn của họ nhà tao trông dữ dằn thế mà dễ học, chứ cái phép bay qua gò của họ Phạm khó lắm, phải khổ luyện cả năm mới thành. Thầy tao kể chuyện ngày xưa cụ Điện tiền Thượng tướng (1) lúc còn hàn vi đã nghĩ ra phép này và đã phải tập liền liền trong ba tháng mới đến nơi đến chốn.
Đợi các bạn bầy trận xong, chú bé hô :
- Nào !
Ba cậu đứng gần xông tới, ba mặt đánh tới tấp. Nó xoay người, bung chân đá liền liền sáu ngọn, ngọn nào cũng cao ngang mặt đối phương. Ba cậu này vừa dãn ra để tránh thì nhanh như cắt, nó đã bay qua một mô đất, cao suýt soát đầu người, đón đánh ba cậu khác.
Ba cậu sau thua rồi, tiếp tới ba cậu nữa tập kích sau một cái gò kế cận. Vẫn những cái nhún người bay bổng như chim, vẫn những miếng đá xoay tròn như chong chóng.
Lũ trẻ mải chơi không để ý đến những người lạ đứng xem. Chúng hò hét bầy những trò chơi khác.
Ba ông khách ý hẳn muốn thưởng thức trò vui cho đến khi mãn cuộc nên ngồi bệt xuống cái rễ cây đa chạy ngoằn ngoèo dưới gốc. Họ ngồi thu hình dưới chiếc nón đội sùm sụp như những người dân quê chất phác nhất thích nghỉ mệt hơn là xem lũ trẻ nô đùa.
Đàng kia, những cậu bé nhất, yếu nhất lại thường hăng hái nhất. Chúng đua nhau la :
- Chơi tiếp trò đấu sức hôm qua đi, các anh.
- Đúng rồi. Hôm qua đẩy roi ba hiệp hoà cả ba. Hôm nay phải chơi trò khác.
- Đến bao giờ có kẻ được, người thua rõ ràng mới thôi.
- Phải đấy. Anh Tráng Trâu Lăn thử chơi trò kéo trâu với anh Toàn Trâu Nước đi, xem ai được ai thua nào.
Cả bọn vỗ tay ầm ầm phụ hoạ :
- Hay ! Trâu Nước đấu với Trâu Lăn mới xứng tay ! Xem trò này mới khoái tỉ !
Chúng chạy ù ra bụi tre dắt hai con trâu mộng lại. Tráng lắc đầu :
- Không nổi đâu, chúng mày ơi. Anh Toàn liệu có kham được không đây ?
Toàn lớn hơn Tráng độ hai tuổi, cao hơn và cũng to sầm sầm hơn Tráng nhiều. Nét mặt hiền lành nếu không nói là hơi chất phác. Y cười nói :
- Trâu Nước cũng chịu thua luôn. Của này phải để dành cho người nhớn. Mình chơi tạm với mấy con nghé được rồi.
Nghé đang độ lớn mạnh không kém trâu bao nhiêu, chúng còn hăng hơn trâu nữa là khác.
Tráng và Toàn thay phiên nhau trổ tài. Xuống tấn thật thấp, chúng hai tay nắm đuôi hai con nghé ghì lại trong khi bạn chúng reo hò cổ võ và lấy roi đập vào mông hai con vật. Chúng cứ thế ghì thật lâu, đôi nghé lồng lộn đến đâu rút cục cũng đành chịu phép đứng yên.
- Lại hoà !
Vẫn mấy chú bé con chịu khó sáng chế ra trò mới :
- Bây giờ cho chủ nghé nào cưỡi nghé ấy đi. Rồi ra roi cho nghé chạy mới sướng !
- Phải đấy ! Phải đấy !
Thằng Thọ, thằng Ngoạn khoái chí nhẩy phóc lên lưng chú nghé của mình, quay đầu lại hỏi :
- Anh nào “làm” trước đây ?
Tráng vội lên tiếng :
Vừa rồi Toàn làm trước. Giờ để Tráng làm trước cho công bằng.
Y nghiến răng, nín thở, cánh tay, ngực, lưng và vế bắp thịt nổi lên cuồn cuộn. Thọ và Ngoạn mặc sức ra roi, hai con nghé vẫn không tiến được một bước nào. Hiệp này thật gay go vì đám khán giả đếm đến một trăm mới thôi.
Đến lượt Toàn, y chịu được đến 90 thì phải buông tay cho hai con vật lồng lên và phóng chạy như bay. Y cố gắng để cho hai đầu gối hơi run khỏi quỵ xuống.
Tráng vội chạy lại đỡ Toàn và phân bua giùm bạn :
- Tại hai cái thằng nhãi cứ như hai thằng điên, đập hai con nghé đau quá. Lúc nẫy đâu có dữ dội như vậy !
Như đã đủ ghiền, lũ trẻ hè nhau chạy ùa về hướng tây, vừa chạy vừa la :
- Đi tắm một cái cho mát, anh em ơi ! Sắp tối rồi !
Xa xa, một mảnh đầm mặt sáng như gương đang ngâm mặt trời chiều trong đáy nước.
Tráng sắp chạy theo Toàn và các bạn, bỗng nghe có tiếng gọi đằng sau :
- Cậu Tráng ! Lại cho tôi hỏi thăm một tí.
Ngạc nhiên, Tráng quay lại thấy ba người lạ đứng dưới gốc cây đa, tuy ăn mặc xuềnh xoàng nhưng phong thái uy nghi như những hình tượng thường được vẽ trong những bức tranh thờ.
Người đứng giữa, mắt sáng, râu dài, ba đình đều đặn, có vẻ phong lưu tiêu sái như một vị thần tiên trong khi hai vị đứng hai bên lẫm liệt như hai viên mãnh tướng.
Tráng chắp tay chào, e dè :
- Thưa ông gọi cháu ?
- Phải. Thầy cháu có ở nhà không ?
- Thưa ông, có ạ.
Y đánh bạo hỏi lại :
- Thưa, ông quen thầy cháu ?
- Ta chưa được quen biết ông Trần Lương Xá nhưng đã ngưỡng mộ uy danh ông từ lâu. Cháu dẫn bọn ta về nhà được chứ ?
- Thưa ông, được ạ. Nhưng…
- Có điều gì áy náy, cháu cứ hỏi tự nhiên.
- Vâng ạ. Ông đã cho phép, cháu xin hỏi. Tại sao ông biết cháu là con của ông Trần Lương Xá ?
Nguyễn Trãi vuốt râu, cười hà hà :
- Có gì mà không biết ! Xem mấy thế võ cháu vừa phô diễn là đủ rõ lai lịch của cháu rồi. Này nhé, phép đá liên hoàn của cháu có chỗ hao hao với lối đánh của nhiều họ khác nên ta chưa dám đoán chắc cháu là con cháu họ Trần. Nhưng môn “Đại bàng vượt núi” của cháu là môn chân truyền của họ Phạm ở làng Phù Ủng. Môn này khó, học lỏm không được. Ngoài họ Phạm ra, cụ Điện tiền Thượng tướng chỉ dậy cho con cháu họ Trần vì có tình thông gia (2). Ta đoan quyết cháu là dòng dõi Đức Hưng Đạo Vương là vì thế.
Tráng sung sướng vái ông khách, tỏ ý bội phục. Y nói thêm :
- Nghe ông chỉ dậy, cháu có cảm tưởng như ông là Nguyễn quân sư…
- Ta là một ông thầy địa lý.
- Ông đi để đất cho người ta ?
- Phải. Ta đi xem địa thế vùng này…
- Thưa ông, thầy cháu có nói nhiều người khen vùng này có nhiều kiểu đất phát to lắm.
- Chính thế !... Cháu về thưa với thầy cháu rằng bọn ta ba người đi xem đất lỡ độ đường, muốn vào chơi và quấy quả một bữa chén nhé !
Đến đầu ngõ, Tráng chạy ù về nhà. Thoáng cái đã thấy một tráng sĩ trung niên khăn áo chỉnh tề bước ra đón khách.
___________________
(1) Điện tiền Thượng tướng : chức của Phạm Ngũ Lão.
(2) Tình thông gia : Phạm Ngũ Lão là rể của Hưng Đạo vương.

Chương 4. Hai cái túi
Người làng Lương Xá kháo nhau :
- Ông Trần Kiện vừa đón được một ông thầy địa lý có vẻ tiên phong đạo cốt ghê.
- Thảo nào ! Tôi thấy nhà ông ta có khách, đãi đằng trọng vọng lắm.
- Phải rồi, tu nhân tích đức như ông ta, giời có thí bỏ cho một ngôi đất tốt cũng là xứng đáng.
Họ yên trí về chuyện mồ mả đất cát nên không một chút hoài nghi khi thấy bốn người, cả chủ lẫn khách, đều say mê nghiên cứu thuật phong thủy ở ngoài trời.
Từ sáng sớm tinh sương cho đến tối mịt, bốn người cưỡi bốn con ngựa khoẻ đi dạo khắp nơi khắp chốn trong vùng. Hết Lương Xá đến Quảng Bị, Tụy Động. Xa hơn nữa, đến Chúc Sơn, rồi đến Phượng Hoàng Sơn.
Vị quân sư họ Nguyễn có vẻ hài lòng sau khi đã có một cái nhìn tổng quát về khu vực mà ông đã lựa chọn.
Tối đến, ngồi bên mâm rượu trong thư phòng biệt tịch, ông nâng chén tâm sự với chủ nhà :
- Bình Định Vương khởi nghĩa ở Lam Sơn từ mùa xuân năm mậu tuất (1). Bây giờ còn mấy tháng nữa là hết năm bính ngọ (2). Tính ra đã được chín năm. Và phần thắng lợi đã nghiêng hẳn về ta.
“Trước thanh thế lẫy lừng của quân ta, vua nhà Minh đã phải thay tướng thêm binh nhưng tựu chung quân thế của chúng chỉ còn ở trong mấy cái thành bị vây mà thôi.
“Đó là nói ở mạn trong, thành Nghệ An và thành Tây Đô bị ta vây đánh rất gấp.
“Nhưng còn ở mạn ngoài, chúng có đến mười vạn ở quanh thành Đông Quan, đồn lũy đóng liên tiếp dài mấy chục dặm từ Thạch Thất cho đến Từ Liêm, Thanh Oai.
“Ý tôi muốn diệt gọn mấy vạn tinh binh này trong một trận thật khốc liệt.
“Đánh thắng xong trận quyết định này, ta sẽ hạ các thành bị vây một cách dễ dàng. Và công đại định ở ngay tầm tay với. Ý ông nghĩ sao ?
Trần Kiện hăng hái đáp :
- Dân chúng cũng mong ước như vậy lắm. Ai cũng muốn đánh những trận thật to, thật quyết liệt cho nó xong đi. Xong thì dân tình mới đỡ khổ. Nhưng…
- Ông ngại điều gì ? Sợ quân ta ít chăng ?
- Vâng. Tôi ngại quân ta quá ít. Quân sư có thể cho biết…
Nguyễn Trãi ngắt lời :
- Tôi trọng ông như các tướng tâm phúc của Bình Định Vương nên không có điều gì phải giấu diếm.
“Hiện giờ quân của Vương Thông dàn ra ở ba phía, phía tây, phía tây nam và phía nam thành Đông Quan. Để cự với ba đạo quân ấy, tôi nhờ ba ông Lý Triện, Đinh Lễ và Nguyễn Xí, mỗi ông có một nghìn quân.
- Một nghìn quân thật là quá ít so với mười vạn tinh binh của giặc. Tuy nhiên, nếu quân sư có lòng tin sai tôi cầm số quân nhỏ nhoi ấy đánh bất cứ đạo quân Tầu nào, tôi cũng xin liều chết lĩnh mệnh. Nhưng nếu quân sư buộc phải tiêu diệt mười vạn quân giặc thì tôi xin thú thật không tài nào đương nổi.
Vỗ vai người tráng sĩ họ Trần, Nguyễn Trãi nói cười hỉ hả :
- Lực lượng hai bên quá chênh lệch, một mình ta không đủ sức quật ngã được chúng thì ta mượn thêm quân chứ có gì là khó.
Trần Kiện ngạc nhiên :
- Thưa, mượn thêm quân ?
- Phải.
- Tôi ngại…
Họ Nguyễn xua tay gạt phắt đi :
- Không có gì đáng ngại đâu, ông Trần. Tôi thân hành đến đây không ngoài mục đích nhờ ông giúp cho một tay trong việc mượn binh đó. Rồi đây ông sẽ hiểu.
Tuy không mấy tin tưởng ở kế cầu viện, họ Trần cũng gượng cười đáp :
- Vâng. Lúc nào tôi cũng sẵn sàng tuân theo những lời chỉ giáo của quân sư.
Trải một tờ giấy bản rộng lên trên văn kỷ, Ức Trai tiên sinh chậm rãi vẻ ra một tấm bản đồ, ngòi bút lông bay lượn đến đâu, ông cắt nghĩa đến đấy.
- Đây là địa thế toàn thể khu vực chúng ta đã quan sát ngày hôm nay.
“Phía bắc có con sông Cái chắn ngang, nước đổ về Đông Đô ở phía đông, mạnh như thác.
“Sông này có hai nhánh cách nhau mấy chục dặm, chạy song song về phía nam. Nhánh bên tả là con sông Đáy chạy tuốt xuống phía nam huyện Mỹ Lương ta và gặp con sông Bùi ở ngã ba Thá.
“Nhánh bên hữu chạy dọc vùng Phượng Hoàng Sơn đến con đường này. Đây chính là con đường cái chạy thẳng về thành Đông Quan qua bến đò Tích Giang trên con sông Bùi và bến đò Mai Lĩnh trên con sông Đáy.
“Ông Trần nhìn kỹ xem có phải khu vực vừa vẽ đây giống y như một cái túi hình chữ nhật mà ba cạnh là sông và một cạnh là đường bộ không nào ?
“Nói cho rõ ràng hơn thì mặt bắc khu vực này là sông Cái, mặt đông là sông Đáy, mặt tây là một nhánh sông Nhị Hà. Duy có mặt nam là con đường cái quan chạy từ bến đò Tích Giang đến bến đò Mai Lĩnh.
- Vâng vâng, tôi thấy rồi, Phượng Hoàng Sơn và Chúc Động thuộc địa phận huyện Chương Đức đều nằm gọn trong cái túi rộng nhớn này.
- Chính thế. Còn một cái túi nữa, nhỏ hơn, ở phía nam đường cái.
Trần Kiện vỗ tay reo, mắt sáng lên :
- Vâng vâng. Mặt bắc túi nhỏ này vẫn là con đường cái quan lúc nãy. Mặt đông và mặt nam là sông Đáy, mặt tây là sông Bùi. Hai con sông này gặp nhau ở ngã ba Thá. Đây là khu vực của tôi, tôi thuộc rất rành, thưa quân sư. Làng Lương Xá tôi đây cũng như các làng Quảng Bị, Tụy Động kế bên thuộc huyện Mỹ Lương đều nằm gọn trong cái túi thứ hai này.
Vị quân sư họ Nguyễn nâng chén, uống một hớp rượu, khà một tiếng khoan khoái trước khi phê phán :
- Điều đáng chú ý là đất cả hai nơi đều rất thấp.
- Dạ dạ. Là vì ở đây toàn ruộng chiêm. Đất ở Lương Xá chúng tôi còn thấp hơn ở Chúc Sơn nhiều đó, thưa quân sư.
- Vâng, tôi thấy. Và tất cả bốn chúng ta đều đã thấy. Vậy bây giờ tôi hỏi ba ông câu này nhé : “Ta nên lùa mười vạn quân Tầu vào cái túi nào ? Túi nhớn ở trên hay túi nhỏ ở dưới ?”
Lương hữu Trí lên tiếng trước tiên :
- Túi nhớn ở trên e quá rộng, mà quân ta thì quá ít. Sợ đối phó không nổi.
Lý đại Lực tiếp lời, giọng áy náy :
- Còn cái túi nhỏ ở dưới, tôi lại e quá hẹp. Quân giặc lại quá đông. Chúng nó lấy thịt đè người, mình chết bẹp, hết chỗ cựa quậy !...
Trầm ngâm một lúc lâu, Trần Kiện mới dè dặt góp ý :
- Theo ý ngu của tôi thì túi nhỏ tiện hơn. Có điều ta phải thêm quân…
Nguyễn Trãi vỗ đùi reo :
- Đúng đấy. Viện binh bao nhiêu cũng có. Ở cả trong tay chúng ta, hay nói rõ hơn, ở trong tay ông Trần chứ đâu xa !
Trước sự ngạc nhiên của ba người đối thoại, họ Nguyễn đột ngột bắt sang chuyện đời xưa ;
- Ba ông có nhớ, trong truyện Tam Quốc, cái khúc Quan Vũ tháo nước sông Tương bắt Vu Cấm và Bàng Đức không ?
Ba nguời nghe cùng tỉnh ngộ. Hữu Trí gật gù buông mấy tiếng :
- Dạ có. Trận đó kêu là “Vu nhập Khoái khẩu.” Đúng là Cá vào miệng Đó !
Đại Lực ngó tấm bản đồ, lẩm nhẩm :
- Hai khu vực này quả thực là hai cái đó. Cái đó nhỏ cũng rộng rãi hơn cái đó của Quan Công nhiều.
Trần Kiện tiếp lời, giọng gượng gạo lúc nãy đã đổi sang giọng vô cùng tin tưởng :
- Bây giờ tôi mới vỡ lẽ. Thì ra viện binh quân sư nói vừa rồi là nước hai con sông, sông Bùi và sông Đáy. Phải rồi, binh thư đã chỉ rành rành : Sức quân không đủ thì mượn sức lửa, sức nước thế vào.
Hạ thấp giọng, Nguyễn Trãi dặn :
- Mẹo này ta phải giữ cho thật kín. Hơi lộ ra một tí là hỏng việc đấy. Chúng nó sinh nghi không dám chui đầu vào trong thì mẹo ta hết đường thi thố. Và quân ta sẽ lâm vào thế yếu.
Lời dặn dò của Ức Trai tiên sinh mỗi lúc một nhỏ dần. Chỉ một mình Trần Kiện ngồi ngay bên cạnh mới nghe được hết, còn Hữu Trí và Đại Lực ngồi mé dưới dù có lắng tai cũng chỉ nghe lõm bõm được từng khúc rời rạc :
- … Vào rừng, chặt tre, đan thuyền thúng… Thật nhiều bao cát… Đưa dân đi… Giấu hết thóc lúa… Tên bắn bao nhiêu cũng có…
Giọng nói dần dần trở lại mức bình thường :
- Ấy đó, những việc khác tôi giao cho các ông Đinh, Nguyễn, Lý được, nhưng những việc vừa rồi tôi phải sở cậy vào ông. Ngoài ông ra, không ai làm được vì ông là người duy nhất có đầy đủ uy tín ở địa phương này.
Trần Kiện khẳng khái nhận lời :
- Vâng. Quân sư đã giao phó cho tôi việc hệ trọng, tôi xin cố hết sức làm cho tròn để khỏi phụ lòng tin cậy của quân sư.
“Nói cho ngay, việc cũng chẳng lấy gì làm khó khăn lắm. Các vị trưởng thượng mấy làng quanh đây đều có giao tình với tôi rất hậu. Tôi bầy tỏ các nhẽ lợi hại, chắc họ nghe ra ngay. Còn bọn trai tráng, phần nhớn là học trò của tôi, tôi sai bảo được. Cả đến lũ trẻ nhỏ bằng trạc tuổi thằng cháu…
- Quý hoá lắm đấy, ông Trần. Chiều hôm qua, tôi đã thấy các cậu ấy nô đùa và diễn võ. Đánh lộn khoẻ như trâu và bơi lội tài như cá. Các cậu ấy sẽ được việc vô cùng…
Tiệc tàn. Chủ khách ra tràng kỷ ngồi ăn trầu, hút thuốc, đợi cho người nhà lên triệt (3) bát đĩa xong mới nối tiếp câu chuyện dở dang.
Trần Kiện tần ngần thấy những điều cần nói thật là khó nói :
- Tôi sợ không dụ nổi đại quân Minh đâu, thưa quân sư. Chỉ ngại bẫy giương ra thật to tát cốt bắt sống cả một đàn cọp mà rồi rút cục chỉ tóm được một vài chú thỏ quèn, đã chẳng bõ công mà còn hại lây đến bách tính (4) nữa.
Hữu Trí cũng đánh bạo tiếp lời :
- Đúng thế. Tôi cũng lo điều ấy. Nhất là bên kia vẫn còn tên Trần Hiệp làm Tham tán quân vụ. Nó là một con cáo già ở nước ta đã lâu, thông thuộc cả thiên thời, địa thế, nhân tình nước mình, lừa được nó không phải là chuyện dễ. Cứ xem như cái vụ các tên Trần Trí và Phương Chính bị cách tuốt hết cả chức tước mà tên Trần Hiệp không hề hấn gì thì đủ rõ. Nó là bộ óc của quân Minh, quân sư chớ nên coi thường.
Đặt chiếc xe điếu xuống án thư, vị nhà nho ngửa cổ nhả từng ngụm khói lên thượng lương (5) với một vẻ khoan khoái khác thường trước khi chậm rãi buông ra một câu thật bất ngờ :
- Mẹo tôi bầy ra chỉ cốt để đánh lừa tên Trần Hiệp.
Không để cho người nghe kịp ngạc nhiên, ông nói tiếp :
- Trong các cuộc tranh hùng, lợi hại nhất là đấu trí. Cái trò này biến ảo khôn lường, sơ sẩy một chút là không xong. Lại còn phải tùy người đối địch với mình mà lập mưu. Là vì có những cái mẹo chỉ đánh lừa được mấy kẻ tầm thường chứ không qua mặt nổi người tài giỏi. Ngược lại, có những kế gạt được những tay thao lược nhưng vô hiệu đối với bọn lục lục thường tài.
“Nói ngay chuyện Tam Quốc cho vui và dễ hiểu. Như vụ Khổng Minh đốt lửa ở đường hẹp Hoa Dung để dụ Tào Tháo. Tên gian hùng này vì quá thông minh và quá thuộc binh thư, quá thuộc binh pháp nên mới chui đầu vào bẫy rập.
“Mẹo nhỏ của tôi cũng vậy. Những tên bất tài mới đánh hơi thấy đã vội lảng xa, nhưng Trần Hiệp là một tay túc trí đa mưu sẽ đâm đầu vào tròng. Rồi các ông xem, tôi tính không sai đâu…
Nhắp chén trà ướp ngâu thơm ngát, ông kết thúc câu chuyện :
- Nói tóm lại, tôi nhờ ông Trần lĩnh giùm công việc đan một cái đó cho thật chắc chắn. Còn việc lùa cá vào đó cho đầy, để chúng tôi lo. Lâm sự, nếu cá không chịu vào trong đó thì lỗi ở chúng tôi. Nhược bằng cá có vào mà lọt đi mất vì đó đan không khít thì trách nhiệm nơi ông Trần. Có phải thế không ạ ?
Trần Kiện hăng hái đáp :
- Quân sư dạy chí lý. Việc của tôi, tôi xin lo nội trong ba hôm là chu tất.
Đêm khuya, Nguyễn Trãi nằm trằn trọc nhớ đến quê nhà, làng Nhị Khê, cách đó chẳng bao xa mà không về thăm được. Trong khi ấy, ba người kia thao thức tự hỏi không biết ông quân sư tài ba của họ làm cách nào dụ được một con thịt kếch sù bằng một miếng mồi nhỏ xíu.
___________________________
(1) Mậu tuất : 1418
(2) Bính ngọ : 1426
(3) Triệt : thu dọn hết.
(4) Bách tính : trăm họ, toàn dân.
(5) Thượng lương : cây xà chính ở nóc nhà (kiến trúc xưa).

Chương 5. Bức cẩm nang
Sáng sớm hôm mồng một tháng mười, bà Lý Cốc ra quán hàng trễ hơn thường lệ.
Bà đang lúi húi xếp những tấm bánh giò nóng hổi trên chiếc sạp tre thì có tiếng người nhẹ nhàng bước vào trong quán cùng với tiếng cười trong trẻo :
- Thím Lý có gì cho con ăn không đấy ?
- Ồ, con Sơn Ca đấy hả ? Đi đâu sớm thế ? Bánh giò tao gói, nhân thịt nạc, mộc nhĩ nấm hương ngon lắm. Tao bóc mấy cái, ăn mở hàng cho tao nhé ?
- Vâng. Thím bóc cho con hai tấm ăn lót lòng. Còn hai tấm, thím lấy lạt buộc lại cho con mang đi ăn đường.
- Giời rét ngọt thế này, tội thân gì mà mày đi đâu sớm thế ?
- Ở nhà thầy đẻ con cần tiền, con phải đi Thanh Đàm mua bát họ (1) về tiêu.
- Ừ, giời đất này, phải có sẵn đồng tiền trong tay, nhỡ có phải đi đâu cũng đỡ khổ… À, Sơn Ca này, đêm hôm qua mày có nghe thấy gì không ?
Mai suýt soa :
- Úi giời ơi ! Cả đêm hôm qua, con sợ quá. Cả nhà có ai chợp mắt được tí nào đâu.
- Phải rồi. Nhà tao cũng thế. Tiếng người quát tháo, tiếng ngựa hí bên này sông, nghe cứ rõ mồn một. Tao ghê quá, cứ ngỡ là giặc. Sau thấy yên, tao độ chừng là quân mình sang sông. Sáng ra, tao cũng cứ đi liều, may chả có gì… Thấy con Lãm chở đò, tao tưởng mày đau ốm làm sao cơ chứ !
Mai cười cười :
- Tuy chưa đau ốm nhưng lo muốn chết đấy, thím ơi !
Rồi nàng ghé tai bà Lý nói nhỏ :
- Con nghe đồn Đức Bình Định Vương sắp ra đóng quân ở mạn này để đánh vào thành Đông Quan đấy. Chưa biết đóng ở bên Chúc Sơn mình hay ở bên Tụy Động. Đạo quân đêm qua không rõ đóng ở đâu, thím nhỉ ?
Bà Lý cũng thì thào, giọng lo ngại thì ít mà thích thú thì nhiều vì tin mới lạ và gay cấn vừa nghe được :
- Quân của Bình Định Vương ở đâu thì tao không biết. Nhưng quân đêm hôm qua không vào làng mình thì một là vào trong Lương Xá, Tụy Động, hai là đi tuốt lên Phượng Hoàng Sơn.
- Vâng, chắc thế.
- Mà mày có biết quân đêm qua là quân của ai không ?
- Có mấy anh trong làng trông thấy hiệu cờ của Lý tướng quân. Vậy là quân của ông Lý Triện.
Bà hàng kinh ngạc :
- Quân của ông Lý Triện hả ? Sao tao thấy hôm qua bọn lái buôn kháo nhau ông Lý Triện vừa đánh được thằng Mã Kỳ một trận to ở Mọc (2) ? Nghe đâu ông ấy chỉ có một nghìn quân mà ông ấy lập mẹo phục binh rồi đổ ra chém được hơn một nghìn cái đầu giặc và bắt sống được hơn năm trăm mạng nữa. Thế có giỏi không ?
- Vâng, con cũng nghe thấy thế. Nhưng chuyện binh đao được thua là một sự thường mà thím. Có điều đêm hôm tăm tối, sông rộng nước chẩy xiết, mà quân đóng bè sang sông không loạn, đủ thấy đó không phải là một đạo quân thua. Hoặc giả có thua nhưng mà không thiệt.
- Ừ, mày nói đúng. Tao thấy tối như đêm 30 – đêm qua đúng là đêm 30 chứ còn gì nữa ! – mà họ đông đến một nghìn người sang đò cứ êm như ru… Đáng mừng ở chỗ tướng ta giỏi và quân ta giỏi.
. . . . . .

Tướng ta tài quân ta giỏi thật mặc dầu Lý Triện và Đỗ Bí vừa thua một trận ở bến Cổ Sở.
Dưới ánh sáng chập chờn của mấy chục bó đuốc soi cho quân lính đẵn tre đóng bè, Lý Triện tâm sự với viên phó tướng bằng một giọng nói ngượng ngập :
- Ông Đỗ à, tại tôi quá nông nổi nên mới có trận thua này. Cũng may là ông còn sáng suốt gọi giựt tôi lại và cương quyết ra lệnh lui quân. Bây giờ hồi tưởng, tôi còn giật mình vì chỉ chậm một khắc nữa toàn quân mình không tài nào thoát khỏi vòng vây. Người, ngựa, và cả voi nữa, sẽ không còn một mống về đây.
Viên phó tướng họ Đỗ an ủi :
- Đã đánh nhau thì phải có lúc thua, có lúc được, chứ xưa nay có danh tướng nào dám tự hào không thua một trận nào đâu. Nếu đem so sánh thì ta còn “trên chân” tụi Tầu nhiều.
Họ Lý cười chua chát :
- Vừa được một ván ở Nhân Mục, lại thua ngay một ván ở Cổ Sở, thế là hoà.
“Chỉ tức một nỗi là giặc nó dùng ngay cái mẹo mình vừa dùng xong mà mình vẫn mắc để cho nó quật lại mình ! Đau quá !...
“Chẳng những thế, mình lại bỏ mất chỗ Ninh Kiều rộng rãi về chui rúc nơi đây. Thế là kém nước thì có chứ trên chân cái nỗi gì ?
- Đâu có thể luận như vậy được, tướng quân ! Này nhé, ta thắng một trận lớn ở làng Mọc, chém hơn một nghìn giặc, bắt sống hơn năm trăm tên, đến nỗi Mã Kỳ phải một người một ngựa chạy bán sống bán chết mới thoát thân. Còn như thua ở Cổ Sở, ta có thiệt gì đâu. Người ngựa còn nguyên. Mấy thớt voi cũng không suy suyển.
- Cái đó hoàn toàn là công của ông. Ông quả thật có tài. Và quân sư quả có con mắt tinh đời.
Họ Đỗ ngạc nhiên hỏi viên chủ tướng :
- Quân sư nói sao về tôi, thưa tướng quân ?
- Dạo ấy, đã lâu rồi, quân mình còn thua tới tấp phải chạy về Chí Linh. Một hôm, luận về tài năng các tướng, quân sư khen ông trước mặt chúa công. Chúa công lấy làm lạ vì ông còn trẻ chưa từng một mình đánh thắng được một trận nhớn nào. Quân sư giảng giải cho chúa công và chúng tôi nghe : Khi có lợi thế, bất cứ ông tướng nào cũng có thể thừa thắng xông lên được. Nhưng lúc thất thế, phải là một tướng có tài mới điều khiển được một cuộc lui quân không hỗn loạn. Quân không loạn thì dù có lui, giặc cũng không làm gì được. Đỗ Bí tuy ít tuổi nhưng đã biết tiến lui đúng phép, sau này sẽ là một vị tướng tài…
“Chúng tôi không mấy ai tin lời nói ấy. Hôm nay vào việc mới thấy lời quân sư phê phán bữa ấy thật hay.
Cuối canh ba, Lý Triện là người sau chót qua sông. Một ngàn người thản nhiên nằm ngồi ở ven đường chờ tướng lệnh.
Viên chủ tướng giục ngựa tiến lên hàng đầu tìm viên phó tướng. Hai người sóng cương bàn bạc :
- Ông Đỗ à ! Bây giờ ông tính ta nên đóng quân ở đâu ? Qua Chúc Sơn hay vào Tụy Động ?
- Bộ ông quên bức cẩm nang của quân sư rồi hay sao ?
Một lần nữa, ông tướng họ Lý giật mình, tỉnh mộng :
- Tôi thật là một kẻ dũng phu, hễ say đòn là quên hết mọi sự. Không có ông nhắc cho, nhỡ hết việc còn gì ! Phải rồi, khi giao bức cẩm nang cho tôi, quân sư có dặn khi nào qua bến đò Mai Lĩnh hãy mở ra xem.
- Vâng. Khi chúng ta còn đóng ở Ninh Kiều, quân sư đã đoán trước được trận đại thắng ở Nhân Mục và trận lui quân ở Cổ Sở.
Lý kinh ngạc thốt :
- Lại có chuyện “thần thánh” như vậy sao ?
- Không. Có thần thánh gì đâu. Quân sư chỉ suy luận và quyết đoán.
- Tôi không hiểu. Xin ông giảng rõ hơn.
- Đầu đuôi thế này. Bữa nọ, sau khi đi thăm ba đạo quân của ta đang cầm cự với ba đạo quân của giặc, quân sư có nói riêng với tôi một câu : “Hai ông Đinh Lễ và Nguyễn Xí rất trầm tĩnh có thể cầm cự được lâu dài mặc dầu quân số của ta và của giặc quá chênh lệch. Nhưng ông Lý Triện thì không thế, ông ta nóng nẩy hơn và cũng hăng hái lập công hơn. Đó là cái hay lẫn lộn với cái dở. Hay vì thế nào ông ta cũng cố nghĩ ra một mẹo để đánh thắng cho kỳ được một trận ra trò mới nghe. Còn dở là vì được một trận nhớn rồi, thế nào ông ấy cũng ỷ tài, rồi chui vào bẫy giặc. Vậy điều tôi cậy ông là khi nào ông ta sắp mắc kẹt, ông nhanh tay gỡ giùm…”.
“Trước khi từ biệt về Lỗi Giang, quân sư còn dặn đi dặn lại : “Nếu có thua thì bỏ Ninh Kiều, về Mai Lĩnh mà đóng quân. Mở cẩm nang ra xem, sẽ có kế vạn toàn”.
Lần đầu tiên trong ngày, Lý Triện nở một nụ cười và thở ra nhẹ nhõm :
- Thì ra quân sư đã tính trước cho chúng ta những mấy nước cờ. Nào, thử xem những nước kế tiếp ra sao.
Hai người châu đầu vào nhau đọc bức cẩm nang vừa được trịnh trọng mở ra. Họ nhẩm đi nhẩm lại những lời chỉ dẫn cho đến lúc nhập tâm (3) mới châm tờ giấy vào ngọn đuốc bập bùng đốt cháy từng đêm đen như mực.
Họ Lý thắc mắc hỏi bạn :
- Quân sư chỉ dạy thật rõ ràng. Nếu cứ nhắm mắt tuân theo thì chẳng lấy gì làm khó. Nhưng thú thật, tôi chưa hiểu được cái ý sâu sắc của quân sư. Phó tướng nghĩ sao ?
- Thưa, tôi cũng vậy. Nước cờ sắp tới của quân sư thật khó đoán.
- Tôi biết ý muốn quân sư dụ chúng chui vào trong một cái túi mà bắt cho gọn. Dụ thì dễ, nhưng bắt mới khó. Vì chúng quá đông. Rủi “vẽ hổ không thành” (4), mình chưa tóm được chúng, chúng đã tóm lại mình, cái ấy mới chết !
Đỗ Bí trả lời với giọng tin tưởng :
- Nếu chúng ta hiểu được nước cờ sâu sắc của quân sư thì giặc chúng nó cũng hiểu được, và như vậy còn làm sao đánh lừa được chúng !
Theo tôi nghĩ, cái khéo của quân sư là cố ý hớ hênh để cho giặc nhìn thấy cái chỗ nhược (5) của bên ta. Chúng sẽ đắn đo, cân nhắc, rồi sau rốt nhận định rằng cái chỗ nhược ấy chúng ta không tài nào khắc chế được. Do đó, chúng sẽ dương dương tự đắc lấy kế của chúng ta làm kế của chúng và yên tâm đâm đầu vào chỗ chết.
Họ Lý nửa lo ngại, nửa bông lơn :
- Song nếu chúng ta vụng tính thì chính chúng ta vướng bẫy trước. Hết đường ra đấy, ông Đỗ ạ !
- Vâng. Thì cũng như mình đấu võ, cố ý để hở bụng cho đối phương đá thốc vào. Nếu không đủ bản lĩnh chặt chân đối thủ thì chính mình sẽ bị nó đá ngã lăn chiêng…
Bàn định xong, hai vị tướng lãnh hạ lệnh cho quân sĩ từ từ tiến về phía làng Lương Xá.
Suốt đêm, họ băn khoăn không hiểu cái nhược điểm to tát của quân ta sẽ được hoá giải bằng cách nào. Và họ mong chóng có một cuộc đụng độ.
__________________________
(1) Mua bát họ : hốt hụi.
(2) Mọc : tên nôm của làng Nhân Mục ở Hà đông.
(3) Nhập tâm : thuộc lòng.
(4) Vẽ hổ không thành : làm chuyện lớn không xong.
(5) Chỗ nhược : chỗ yếu kém.

Chương 6. Cô hàng bánh cuốn
Từ Thanh Đàm đến Đông Quan, đường càng xa càng vắng người đi lại. Không khí chiến tranh như bàng bạc đâu đây khiến cho kẻ yếu bóng vía không dám ra khỏi cửa.
Tuy nhiên, từ sáng sớm tinh sương người ta đã thấy một cô hàng bánh cuốn lặn lội vượt qua những chặng đường thưa thớt ở gần làng đến những trạm canh phòng nghiêm mật sát thành Đông Quan.
Đến đây, cô mới cất tiếng rao lanh lảnh :
- Ai bánh cuốn Thanh Trì ra mua !
Âm thanh trong trẻo thu hút người ta đến độ mấy chú lính Tầu mới nghe thấy đã phải ngẩn ngơ giương mắt ngó.
- Hầy ! Cái nị lại tây !
Lời gọi chưa dứt, chúng đã nhăn mặt, hất tay ra hiệu cho đi gấp :
- Thôi ! Ti ti !
Là vì cô hàng chỉ có mỗi một tiếng rao là điểm dễ thương. Còn mặt mũi chân tay toàn một mầu nghệ vàng khè. Vuông khăn mỏ quạ bạc thếch chít sùm sụp kín gần hết mặt, cặp áo nâu và chiếc quần vải thâm vá chằng vá đụp, cái thắt lưng nhuộm vỏ dà và đôi dép quai ngang mỏng dính lê quèn quẹt cho thấy cô là một thiếu phụ nghèo mới ở cữ xong đã phải xông pha sương gió lo việc mưu sinh.
Đến cổng thành, cổ nàng rụt xuống dưới sức nặng của thúng bánh từ sáng chưa bán được đồng nào. Một tên lính nham nhở vừa thò tay định vuốt má cô hàng bỗng rụt phắt tay lại trước miếng vải điều cũ kỹ che trước mắt nàng. Y quát :
- Tau mắt hả ? Ti ti !
Mới nằm chỗ xong, lại đau mắt nặng nữa, thế mà cô hàng bây giờ đi phăng phăng đến những phố quen với thúng bánh đội trên đầu.
- Ai bánh cuốn Thanh Trì ra mua… nào !
- Bánh cuốn !
- Bánh cuốn ! Lại đây, tôi gọi trước !
Tiếng rao quen thuộc được đáp ứng bằng hai ba tiếng gọi cùng một lúc. Cô hàng mỉm cười, bước vào trong một nhà kín đáo nhất, hạ thúng bánh xuống giường. Chủ nhà, một thiếu phụ trạc bốn mươi tuổi, phát vào vai nàng, mắng yêu :
- Con khỉ ! Người ngợm gì mà trông phát khiếp !
- Con nỡm nó độn bụng có khéo không ? Cứ y như người mới đẻ xong xổ bụng !
- Có thế mới thoát khỏi bàn tay sờm sở của tụi lính chứ !
Hai ba người tranh nhau nói trong khi Thoa, thực tế hơn, nhắc cô hàng :
- Cuốn bánh đi chứ, Mai. Đằng này thèm lắm rồi !
Mai, cô gái đáo để ở bến đò Mai Lĩnh, cười trêu :
- Tưởng đằng ấy ghê không dám ăn chứ !
Bánh cuốn xếp thành tảng được bóc ra từng tấm mỏng tanh, trắng bóng, điểm lưa thưa mấy lát hành xanh trông như những miếng bạch ngọc nổi vân.
Cô hàng có một mình xếp bánh không kịp cho số người chầu chực khá đông. Trong khi chờ đợi, họ nói chuyện cho đỡ thèm.
- Đã lâu không được ăn bánh cuốn Thanh Trì , nhớ quá !
- À, nước mắm gì đây, Mai ? Trông trong như hổ phách !
- Nước mắm Vạn Vân đấy ! Ngon tuyệt trần. Ăn quên chết luôn !
- Nói láo ! Thời buổi này làm gì có nước mắm Vạn Vân !
- Ai bảo thế đấy cô ?
Mai ghé gần tai cô bạn, nói tuy khẽ song cũng đủ cho tất cả những người có mặt cùng nghe :
- Nước mắm chính cống gánh từ xứ Nghệ gánh ra. Tụi lái buôn ranh mãnh theo gót quân Đức Vua ra Bắc mà !
Bà chủ nhà cẩn thận vội bảo cô con gái lớn :
- Con Trâm chạy ù ra đóng cửa lại đi đã. Tai vách mạch rừng…
Rồi mỗi người một câu, bọn đàn bà con gái đua nhau tọc mạch :
- Có thật Đức Vua ra không đã ?
- Sao lại không thật ! Đức Bình Định Vương Lê Lợi mà.
- Thế Vua ra bao giờ ?
- Mới được mấy hôm nay thôi.
- Ở đâu ? Chính mắt mày có trông thấy không đã ? Hay cô ả chỉ nghe hơi nồi chõ ! (1)
- Ứ ừ ! Nghe hơi thế nào được ! Chính mắt tao trông thấy này !
Nhiều tiếng hỏi dồn :
- Ở đâu ? Bao giờ ?
- Ông vua mặt mũi ra sao ? Ăn mặc thế nào ? Nói nghe đi.
Ra vẻ bí mật và trịnh trọng, Mai thì thầm :
- Chuyện này kín lắm, bà con nghe sao biết vậy, chớ có đồn ầm lên mà chết cả lũ đấy nhé… Cách đây mấy hôm, trẻ con bên làng Tụy Động bép xép với nhau rằng mới có vua ra ở trong làng Lương Xá. Tôi tò mò muốn xem chúng nó nói có thực không…
- Thế có thực không ?
- Mày im cái mồm đi để cho người ta nói có đầu có đuôi nào.
- Ừ, con Sơn Ca nó nói phải đấy. Lặng yên mà nghe, đừng đứa nào hỏi đâm ngang nữa.
Mắt lấm lét nhìn ra cửa, Mai tiếp tục thì thào kể, tiếng nhỏ tiếng to. Mấy người ngồi bao quanh phải lắng tai mới nghe rõ được từ đầu chí cuối :
- Xưa nay, người Chúc Sơn mình sang chơi các làng bên kia đường cái dễ dàng như đi chợ, đâu có ai hỏi han gì. Thế mà bây giờ bên ấy canh phòng cẩn mật quá chừng.
“Giữ việc tuần canh là những người lạ mặt, giọng nói nặng chình chịch, đặc là dân xứ Nghệ. Họ làm như dân Chúc Sơn mình đều là những kẻ đáng nghi nên hỏi căn hỏi vặn : Đến nhà ai ? Đến để làm gì ? Họ hàng thân thuộc thế nào với ông ấy, bà ấy ? Lôi thôi đủ thứ…
“Tức mình, định thèm vào đi nữa, ai ngờ may mắn làm sao gặp ngay thằng Tráng, con ông Trần Kiện. Nó nhận tôi là chị họ, nói một tiếng là tôi được vào ngay.
“Thì ra vua ở trong nhà nó, có ghê không ?
“Mới qua khu rừng nhỏ cạnh đầm Minh Nguyệt đã thấy phấp phới mấy lá cờ. Người đi lại rầm rập, ngựa chiến cả đàn, có cả mấy ông voi nữa.
“Thằng Tráng chỉ cho biết mặt mấy ông tướng, nào Lý Triện, nào Đỗ Bí, ông nào trông cũng oai phong lẫm liệt. Nhiều tướng đi hộ giá từ Nghệ mới ra, nó chưa biết tên…
Thoa không nhịn được, bật lên tiếng hỏi :
- Có thấy ông Nguyễn Trãi không ? Ông này đẹp giai và nói giọng Bắc.
- Ai còn lạ gì ! Cụ Cử, thầy tao vẫn nhắc đến Ức Trai tiên sinh, người huyện Thượng Phúc mà. Tao cứ tưởng tượng chỗ nào có ông Lê Lợi là có ông Nguyễn Trãi , nhưng sự thực không phải thế. Thằng Tráng bảo rằng ông ấy còn bận chỉ huy mặt trận Tây Đô, chỉ có Bình Định Vương ngự giá thân chinh ra lấy Đông Đô thôi.
Trâm tò mò không kém Thoa, hỏi một câu cốt tử (2) :
- Mà mày có thấy mặt vua không ?
- Sao lại không ? Lúc thường, ông ấy ăn mặc như các tướng vậy thôi. Chỉ khi nào họp bàn chính sự, mới khoác thêm chiếc áo vàng có thêu rồng và đội mũ triều thiên.
“Tao phải năn nỉ thằng Tráng mãi, nó mới chịu dẫn tao vào coi trộm một tí. Vì lộ ra là mất đầu chứ đâu phải chuyện chơi.
“Ông ấy có cặp mắt thật oai, tiếng nói sang sảng như chuông. Râu ba chòm thật đẹp…
Bánh cuốn Thanh Trì lâu không được ăn, ai mà không nhớ. lại thêm có nước mắm Vạn Vân trông như hổ phách và vài giọt cà cuống thơm dịu dàng mà ngon thấm thía. Cánh trẻ tuổi còn dầm thêm một quả ớt chỉ thiên cay xé lưỡi, vừa ăn vừa suýt soa, vừa chẩy nước mắt ra mới thấy tuyệt vời.
Cả nhà ăn một bữa bánh trừ cơm. Lại nghe được một chuyện hay ho, đáng đồng tiền bát gạo.
Cô hàng hoan hỉ đội thúng bánh sang một nhà quen khác.
Vẫn những câu hỏi tò mò, vẫn những lời thổ lộ kín đáo, và vẫn những lời dặn dò vô ích : tin tức bí mật, đừng nói cho ai biết đấy nhé !
- Tao nghe thằng Tráng nói lại những nhời của thầy nó là ông Trần Kiện mới hiểu rõ nội tình của bên ta. Ông Ức Trai chủ trương hạ Nghệ An xong sẽ hạ Tây Đô, rồi mới đánh dần dần ra Bắc. Trái lại, Bình Định Vương chủ trương một mặt đánh cầm chừng ở mạn trong, còn mặt khác đánh mạnh ở ở mạn ngoài. Hễ hạ được thành Đông quan là các thành khác phải đổ theo.
“Quân sư cho như vậy là liều lĩnh vì ông ấy ưa ăn chắc và không dám mạo hiểm.
“Bình Định Vương đành phải để quân sư ở lại cầm chân giặc ở Tây Đô, còn Vương thì dẫn hết các tướng tài ra Bắc tìm cách đánh thốc vào thành Đông Quan…
Bà chủ nhà suýt soa :
- Kể ra Bình Định Vương cũng liều lĩnh nhỉ ?
- Chuyện ! Đánh giặc thì phải liều chứ. Có vào hang hùm mới bắt được cọp con mà. Vả lại ông ấy đã trải nhiều trận gian nguy nên coi thường mọi chuyện hiểm nghèo.
- Thế tướng tá, quân sĩ có nhiều không ?
- Nhiều lắm. Có đến một vạn quân chứ không ít. Tướng cũng vô khối, ông nào trông cũng ghê ghê là.
Nhàn, con gái nhớn chủ nhà, hỏi bạn :
- Họ có đóng lan sang bên Chúc Sơn mình không ?
- Không. Nhưng sợ rồi sẽ có đánh nhau to. Tụy Động mà cháy thành thì Chúc Sơn cũng bị vạ lây. Vì thế thầy đẻ tao định tạm lánh về Thanh Trì…
Mai quay sang hỏi bà Tư, chủ nhà :
- Chết chưa ! Nãy giờ mải nói chuyện quên hết mọi sự. Chú Tư con đâu hả thím ? Cả cậu Thanh nữa ?
- À, chú mày lại đằng cửa Nam ăn giỗ ở một nhà quen, tối mới về. Còn thằng Thanh thì đi đâu với cậu Lịch từ sáng sớm… Này, cậu Lịch vẫn hỏi thăm mày đấy. Tội nghiệp, nó vẫn thương mày như trước. Hơn trước nữa cũng có ! Mà sao mày…
Mai giẫy nẩy ngắt lời :
- Con không biết đâu. Mặc kệ anh ấy chứ !...
Nàng rầu rầu đứng dậy, đội thúng bánh lên đầu, mặc cho bà Tư và cái Nhàn, cái Nhã thở dài thườn thượt.
- Thôi, con xin phép thím chạy sang bên con Thắm một tí. Rồi còn về kẻo tối.
____________________
(1) Nghe hơi nồi chõ : nghe phong thanh, nghe đồn.
(2) Cốt tử : quan trọng bậc nhất.

Chương 7. Chén trà thơm
Khác với mọi lần, cửa nhà Thắm hôm nay chỉ mở hé. Không khéo nó đi vắng. hay là cả nhà đi đâu chơi, nó có một mình nên không dám mở toang cả hai cánh cửa. Nếu thế, thì càng hay, tha hồ nói chuyện. Cả làng, chỉ có con Lãm và con Thắm là dễ thương nhất !
Nàng đắn đo mãi rồi mới ngập ngừng lên tiếng :
- Thắm có ở trong nhà không, Thắm ơi !
Gọi đến hai câu mới thấy có tiếng động lịch kịch. Cánh cửa vừa mở rộng đã có tiếng reo mừng rỡ :
- A ! Cô Mai ! Mời cô vào chơi !
Ngỡ ai, hoá ra anh chàng Rực, dạo này mặt mũi sáng sủa hơn, ăn nói dạn dĩ hơn.
- Cái Thắm có nhà không, anh Rực ?
- Có. Nó chạy lên phố một tí tẹo về ngay bây giờ ấy mà. Cô Mai vào chơi…
- Thôi, tôi đợi đây cũng được.
- Ồ, ai lại đội thúng đứng ngoài đường như vậy, trông sao được ! Hay là cô chê nhà tôi tối tăm, dơ bẩn ?
Y mở toang hai cánh cửa, đứng nép một bên, nói thêm :
- Bà con trong họ ngoài làng cả, chả mấy khi gặp nhau, cô cho hỏi thăm một vài nhời là quý…
Cha ! Cái anh chàng này bây giờ mồm miệng cũng bẻo lẻo ra trò ! Ừ, vào thì vào sợ gì. Có giở võ ra cũng không ăn đứt được gái này cơ mà !
- Thôi được, để tôi vào chờ nó một tí vậy. Anh cứ để tự nhiên. Anh lo làm việc của anh đi.
Rực cười hề hề :
- Tôi có bận bịu gì đâu. À, để tôi thắp cái đèn cho sáng nhé.
Mai giật mình. Mải nói chuyện ở đàng thím Tư, xế chiều lúc nào không hay. Làm sao về kịp đây ?
Nàng nóng nẩy, vừa ngồi xuống ghế đã đứng phắt dậy, ôm thúng bánh :
- Thôi, giời tối rồi, tôi phải về. Để khi khác tôi lại thăm hai bác và cái Thắm vậy.
- Tối rồi, về không kịp đâu. Ra cửa thành cũng rắc rối lắm. Cô Mai chịu khó nán lại một chút, thầy đẻ tôi và cái Thắm về ngay bây giờ chứ có lâu la gì…
Sực nhớ ra một điều, y tươi hẳn nét mặt :
- À, lâu lắm không được trông thấy bánh Thanh Trì, cô Mai chịu khó cuốn cho tôi mấy cái ăn cho… đỡ nhớ. Được không ?
Lần thứ hai, Mai giật mình. Thằng này hôm nay lại đưa ra cái giọng nửa nạc nửa mỡ, định giở trò gì đây ?
Nàng quắc mắt nhìn. A, cái miệng cười lẳng lơ, đôi mắt lại có ý gian… Phải coi chừng thằng này mới được !
Bất đắc dĩ, nàng phải đáp lời :
- Anh Rực không đợi cả nhà về cùng ăn sao ?
- Đợi cũng được. Cô Mai muốn tôi đợi thì tôi xin đợi…
Y say sưa đứng ngắm từ đôi bàn tay cô những ngón thon dài, đến khuôn mặt trái soan ẩn dưới chiếc khăn vuông tùm hụp. Tia mắt sắc sảo của y lột bỏ hết lớp vàng nghệ bên ngoài để chỉ thấy mầu da trắng hồng quen thuộc bên trong.
- Chết chưa ! Khách quý tới nhà mà không có được một chén nước chè !
Y khẽ la lên rồi quay ngay vào bàn nước, loay hoay một lát, đoạn bưng ra hai chén trà bốc khói.
- Cô Mai uống nước đi, xem trà đẻ tôi ướp có ngát bằng ở đằng nhà không.
- Anh mặc tôi.
Rực nâng chén của mình lên uống mấy hớp và săn đón hỏi :
- Lâu nay cô Mai có gặp anh Lịch không ?
- Không.
- Lịch dạo này làm ăn khá lắm. Trần Tham Tán tin dùng anh ta nhất đấy !
- Thì cũng như Vương đại tướng tin dùng anh chứ gì !
- Như làm sao được mà như !
- Sao vậy ?
- Vì… anh Lịch giúp họ Trần chuyên hơn. Chắc cô Mai còn nhớ, tôi làm việc này là do cụ Cử sai. Mục đích chính là giúp họ Lê, là giúp nước. Chứ không như anh Lịch, tự ý anh ấy làm việc cho họ Trần…
Mai gắt, giọng nàng lạc hẳn đi :
- Thôi, anh đừng bắt tôi nghe những chuyện ấy nữa.
Bỗng nhiên, nàng thấy khát khô cả cổ. Bên kia bàn, Rực cầm chén nước uống một hơi. Bất giác, nàng cũng nâng chén, nhắp vài ngụm nhỏ. Vừa uống vừa nghe, không thấy gì lạ, nàng uống gần cạn chén.
Trầm ngâm, Rực nói, buông từng tiếng như rót vào tai người đẹp :
- Anh Lịch là con người không ra gì như vậy, mà xem chừng Mai vẫn còn quyến luyến. Còn tôi, tôi yêu Mai vô cùng, sao Mai cứ luôn luôn hờ hững ?
Xoáy cặp mắt quan sát người đối thoại, y nở một nụ cười tinh quái, từ từ đứng dậy, đi vòng quanh chiếc án thư đến cạnh cô gái, giơ tay khẽ vuốt má nàng.
Mai giật mình và như vừa thoát khỏi một cơn mê, nàng phản ứng nhanh như chớp. Tiếng quát lanh lảnh của nàng chưa dứt, cổ tay Rực đã bị đánh trúng, đau như tiện, và nàng đã đứng lùi ra phía cửa thủ thế.
Rực vẫn đứng nguyên chỗ cũ, không nhúc nhích, mỉm cười trơ trẽn.
Ô hay ! Sao lại choáng váng thế này ? Mắt nàng hoa lên, cố gắng lắm mới không ngã quỵ. Thôi chết rồi ! Thế là mắc mưu tên khốn kiếp. Nó lén bỏ thuốc mê vào chén nước của mình. Nó đâu có bỏ vào trong ấm tích mà mình đợi nó uống trước ! Trời ơi ! Ngu ơi là ngu !
Vừa sợ vừa tức, mồ hôi toát ra như tắm. Nàng thấy dễ chịu. hay là hơi thuốc cũng thoát ra theo ? Nghiến chặt hai hàm răng, nàng rán trấn tĩnh, rán tự chủ, rán đứng cho thật vững.
Cách xa mấy bước, tên kia vẫn cười nham nhở :
- Thế nào ? Cô đã nghĩ kỹ chưa ?
Rồi với một giọng ngọt ngào, y thả lời dụ dỗ :
- Cô thử so sánh lại cho kỹ xem tôi thua kém thằng Lịch ở điểm nào. Từ gia thế cho đến cái mẽ con người, cả nghề văn, nghiệp võ nữa, nếu nó tám lạng thì tôi cũng nửa cân.
“Nó theo giặc, cô tuyệt vọng, nhưng cô vẫn thương yêu nó một cách mù quáng. Còn tôi, tôi vì thầy, vì làng, vì nước, chịu khuất thân với giặc mà cô vẫn dửng dưng, hờ hững. Tại sao vậy ? Cô có thấy bất công và tàn nhẫn với tôi không ?
Mồ hôi cứ vã ra, không có gió mà người như gấy lạnh. Hai chân dường như không chống nổi thân hình sắp lao đao. Bao nhiêu ý chí còn lại đều dồn vào câu thuyết phục sau cùng :
- Tôi không có duyên nợ với anh. Đừng đeo đuổi tôi làm gì, vô ích. Anh Lịch dù sao vẫn là một… hình ảnh tôi tôn thờ. Tôn thờ cho đến… lúc chết !
Tiếng cười, giọng nói đối phương từ dịu dàng cám dỗ bỗng đổi thành tàn độc, nham hiểm :
- Hừ ! Tử tế, cô không muốn ! Cô muốn tôi tàn nhẫn. Được !... Này tôi bảo cho mà biết. Khôn hồn thì ưng thuận tôi đi. Không thì tôi trói cô lại, đem cho tên Vương Thông… làm thịt !
Như bị một quả đấm tống vào mặt, nàng rú lên một tiếng, lùi lại một bước loạng choạng.
Được thể, tên kia bức bách, giọng thô lỗ cộc cằn :
- Mai ! Trả lời ngay một tiếng. Có thuận lấy tôi không ?
- Không ! Không đời nào !
- Ha ha ! Ha ha ! Người đẹp Chúc Sơn thích làm tì thiếp của Vương Thông !
- Khốn kiếp !
Tuy tức giận đến cùng cực, nàng còn một điểm sáng suốt trong đầu để rán tìm phương thoát hiểm. Hai cánh cửa ra đường đã đóng chặt rồi. Cửa đi xuống nhà dưới tuy khép hờ nhưng tên Rực đứng trấn thế kia thì chạy làm sao nổi.
Bỗng có tiếng động ở sau cánh cửa này. Một tiếng động khá mạnh, cả Rực cả nàng cùng nhận thấy. Thật là một cơ hội bằng vàng khó thể bỏ qua.
Rực vừa ngoái cổ lại xem thì nhanh như cắt nàng đã ra một đòn chí tử. Trúng ngọn đá thần sầu này, tên kia chỉ có nước gục !
Nhưng ngọn đá chỉ bay được nửa vời, tay chân nàng đã rời rã, và chính nàng mới là người gục xuống, bất lực, hoàn toàn bất lực.
Bằng một cố gắng vô vọng, nàng chống lại cơn hôn mê ập tới, tai còn nghe văng vẳng tiếng cười bỉ ổi của tên vô sỉ, mắt còn lờ mờ thấy y tiến tới, tiến tới và sắp đụng đến người nàng.
Đột nhiên cánh cửa, nơi có tiếng động lúc nẫy, bật tung, một bóng đen bay vào cùng với một tiếng quát mắng :
- Khốn kiếp !
Bóng đen bay vào như một cây than hầm có cánh. Rực chưa kịp giở tay đã lãnh một đòn vào mặt, mạnh như trời giáng. Y ngã xuống, lăn long lóc, bất tỉnh.
Trong cơn mê chập chờn, Mai còn lờ mờ thấy một khuôn mặt đen thui, lởm chởm một hàm râu quai nón, cúi xuống nhìn nàng. Còn nghe như có tiếng gọi “Mai ! Mai !” êm đềm. Còn cảm thấy một giọt nước mắt rỏ xuống môi mằn mặn, và một đôi tay cứng rắn nhưng dịu dàng bồng nàng.
Tiếng gọi “Mai ! Mai !” nghe quen quen và mỗi lúc một rõ dần. Nàng mở mắt ra và thấy hai chị em Nhàn , Nhã cùng mừng rỡ reo lên :
- Tỉnh rồi ! Chị Mai tỉnh rồi ! Chị mê lâu, em sợ quá !
- Ai cứu chị ? Sao chị lại nằm đây ?
Nhàn cười nhẹ :
- Ông than hầm, râu chổi xể cứu chị đó !
- Quen nhà ta à ?
- Chắc thế.
- Tên ông ta là gì ?
- Em… không biết.
- Cậu Thanh đâu ?
- Anh em ngủ rồi. Đi đâu cả ngày về mệt, ăn qua loa vài chén, nước chưa kịp uống, mắt đã díp lại rồi.
Mai nắm tay Nhàn, nhỏ nhẹ dỗ dành :
- Nhàn kể cho chị nghe đầu đuôi câu chuyện đi. Chóng ngoan.
Nhàn dịu dàng dỗ lại :
- Chị hãy dậy ăn tí cơm lấy sức, rồi thư thả em sẽ kể chị nghe.
- Không. Nhàn không chịu nói, chị không ăn đâu.
Nhàn, Nhã cùng cười khúc khích. Nhã quẹt ngón tay vào má mình, ngạo :
- Ứ ừ, nhớn đầu còn làm nũng ! Chị Nhàn đây chứ có phải anh Lịch đâu mà cô nương nũng nịu ! Lêu lêu ! Xấu hổ !...
Nghe con nhỏ cắc cớ nhắc đến tên anh Lịch, nàng hồi tưởng lại bóng đen cúi xuống mặt nàng. Tiếng gọi “Mai ! Mai !” nghe sao mà thắm thiết ! Không nhẽ đó là chàng ! Chàng là một trang thanh niên tuấn tú, chứ đâu có mặt mũi đen thui và râu ria sồm soàm trông gớm chết !
Nàng mơ màng nghĩ trong khi Nhàn cũng mơ màng kể :
- Cả nhà vừa ăn cơm xong thì nghe có tiếng động ở dưới vườn. Cửa lên nhà trên không đóng nên chưa ai kịp chạy xuống xem cái gì lục đục dưới ấy đã thấy một bóng đen to lù lù bước lên, tay ẵm một người bất tỉnh.
“Bóng đen là một người cao lớn, mặt như chôn chảo, râu quai nón đâm tua tủa như gai. Y bảo anh Thanh : “Cô Mai uống phải nước chè có thuốc mê, suýt nữa thì lâm nguy ở nhà thằng Rực. Đổ cho cô ấy một liều thuốc giải. Tối nay, cửa thành đóng mất rồi, không về được đâu. Sáng mai, phải giục cô ấy ra về cho sớm, kẻo thằng Rực tỉnh dậy, nó cản trở thì rắc rối to…
Mai ngạc nhiên :
- Nói vậy, người ấy biết chị sao ?
- Cố nhiên rồi ! Nếu không, ai hơi đâu mà dặn dò kỹ thế !
- Ai vậy ? Nhàn cho chị biết tên đi.
Nhàn đáp sau một tiếng thở dài :
- Trước sau gì rồi chị cũng biết…
- Chị muốn biết ngay bây giờ cơ.
- Không được đâu. Cả nhà em đã hứa với người ấy phải giữ bí mật tung tích của ông ta.
Mải nghĩ xem người ơn của mình là ai, Mai không để ý đến Nhàn bỗng dưng có một nét mặt rầu rầu nhưng càng buồn càng đẹp.
Người con gái mới nhớn lên này ngước đôi mắt mơ màng nhìn vào chỗ xa xăm để ôn lại những gì nàng giấu bạn. Nàng nhớ từng cử chỉ của người con trai anh tuấn tháo bỏ bộ râu ria bước xuống sân rửa mặt sạch sẽ rồi chạy lên tươi cười bảo Thanh :
- Mày có nhớ lúc chúng mình vừa về nhà đã nghe thím Tư khoe Mai ở đây chơi cả một buổi và vừa đi, nói là lại chơi nhà cái Thắm không ? Tao biết ngay có chuyện chẳng lành vì vào giờ ấy chỉ có một mình thằng Rực ở nhà. Mà bộ mặt thật của thằng này, chúng ta đã biết rõ.
Nàng nắm tay người ấy nhõng nhẽo :
- Làm sao anh Lịch biết anh Rực có một mình ở nhà ?
Lịch cười, cái cười thật tươi trông dễ ghét !
- Khó gì đâu, Nhàn. Ông Cả Sáng đánh tổ tôm ở nhà ông Đội Tiệp từ sáng và còn đang uống rượu say bí tỉ ở đó. Bà cả và cái Thắm thì dắt nhau lên chùa, Thanh và anh vừa gặp hồi chiều. Thế nào chả ăn cỗ chay rồi mới về. Còn thằng Rực ở nhà làm giời làm đất gì ai biết !
Chàng nói thêm :
- Thằng Rực mới nếm có một đòn đã ngất xỉu. Trước khi nhét giẻ vào mồm cu cậu, anh đã đổ cho cu cậu xơi nốt chỗ thuốc mê để quên trên bàn nước. Rồi trói gô cu cậu lại, tống vào trong góc nhà kho tối om om. Sớm lắm thì sáng mai nó mới tỉnh. Thanh liệu tìm cách cho Mai ra khỏi cổng thành sơm sớm nhé.
Rồi chàng còn dặn kỹ càng hai đứa, làm như người ta hãy còn bé bỏng lắm :
- Nhàn , Nhã nhớ kín miệng giùm anh nhé. Thằng Rực mà nghi ngờ bọn anh thì hỏng bét cả đấy !
Trước khi ra về, chàng tần ngần đứng nhìn Mai, thở dài, rồi nhìn Nhàn, nhìn Nhã, mỉm cười. Cứ tưởng người ta là con Lãm, em gái mình, không bằng !
- Nhàn nghĩ gì mà ngây người ra thế ?
Nàng giật mình, ngượng ngập trả lời bạn :
- Không , Nhàn có nghĩ ngợi gì đâu.
- Có, em đừng giấu chị.
- Nếu em có nghĩ thì… em nghĩ chị Mai dù sao cũng là… một người sung sướng.
- Còn em ?
- Em ấy à ? Em mừng khi… người ta vui và em sung sướng khi… người ta sung sướng !

Chương 8. Tính vào hang cọp
Vương Thông và Trần Hiệp họp bàn riêng trong trướng. Quân canh nghiêm mật ở ngoài, bất cứ thân sơ không ai được bén mảng đến gần.
Hai tay đầu não giặc Minh tuy thân mật ngồi sát bên nhau, nhưng đối chọi với nhau như hai thái cực.
Một tên thì mặt tròn vành vạnh như chiếc mâm bằng thịt nạc, lúc thích chí cười vang, cái miệng loe ra trong khi đôi mắt híp lại chỉ còn hai khe ti hí. Hai chòm râu mép như từ hai lỗ mũi trổ ra, chạy một đường vòng quanh mép thành một cặp lưỡi liềm đen nhánh và sắc lẻm.
Còn một tên thì, trái lại, mặt quắt như hai ngón tay tréo có cặp mắt láo liên và đôi môi mỏng dính lúc nào cũng sẵn sàng nhếch một nụ cười lạnh lẽo. Chiếc cằm nhọn hoắt được bộ râu dê kéo dài thêm làm cho bộ mặt thêm phần nham hiểm.
Cả hai gã đều là những con người đáng sợ. Nếu kẻ này có những nét đặc thù của một tên giặc hung tợn và tàn ác thì kẻ kia tượng trưng cho một mẫu người xảo trá, lọc lừa, thâm độc.
Chúng thủ trong tay, mỗi tên một tẩu thuốc bào dài như cây gậy bằng ngọc nổi vân xanh, hai đầu bịt vàng lấp lánh.
Chúng hút liên miên lấy hứng.
Không khí lo âu đặc quánh như có thể cắt được bằng dao. Họ Vương là người đầu tiên cất giọng ồm ồm làm rạn nứt khối yên lặng bao quanh :
- Lê Lợi khởi binh chống nhà Minh ta từ năm mậu tuất (1). Tính đến năm giáp thìn (2) được sáu năm, họ thua không biết bao nhiêu trận đến nỗi phải rút về nương náu ở Chí Linh đến ba lần, tưởng không thể nào ngóc đầu lên được. Vậy mà tại sao chỉ trong vòng có hai năm sau này họ vùng lên được, hết đánh Nghệ An đến vây khốn Tây Đô, nay lại còn tiến ra Đông Đô nữa ?
Viên Tham tán họ Trần giải thích, giọng âm thầm ảo não :
- Đó là vì bọn Trần Trí, Phương Chính tính sai. Hoàng Phúc lại càng sai nữa. Họ Hoàng chỉ say mê có mỗi một việc là làm thế nào đồng hoá hết người nước Nam với người Trung Quốc. Y quên bẵng tính cách quật cường, không bao giờ chịu khuất của dân tộc đối phương. Còn họ Trần, họ Phương thì cứ tưởng quân mình là “binh trời” đánh đâu được đấy, bây giờ mới sáng con mắt !
- Ông Tham tán luận như vậy là chí lý. Ta thua vì ta khinh địch. Nhưng đó là việc đã rồi. Bây giờ thanh thế họ Lê quá lẫy lừng, ta phải tính sao ? Tôi lo quá !
- Tướng quân đừng lo. Tôi đã tính đâu vào đấy cả rồi. Chỉ mấy ngày nữa thôi, ta sẽ xoay chuyển hẳn lại được thế cờ.
Họ Vương tươi hẳn nét mặt, nhổm người lên hỏi :
- Ông tính thế nào ? Xin nói thử cho nghe.
- Tướng quân thừa rõ chiến tranh ăn thua là ở trận cuối cùng. Tôi đang lo bầy một trận quyết liệt sau chót đây.
“Hiện giờ tôi còn chờ một tin do thám xem sự thật có đúng như dự liệu của tôi không. Nếu đúng, có thể nói trận này mười phần ta ăn chắc cả mười.
“Thua trận này, công trình ngót mười năm của họ Lê sẽ tan ra như mây khói và không bao giờ hồi lại được.”
- Ông hãy cho tôi biết đại khái mưu cao ấy đi.
Thay vì trả lời, họ Trần hỏi lại viên chủ tướng :
- Tướng quân có biết sách lược của họ Lê bây giờ ra sao không ?
- Có. Nguyễn Trãi mưu lấn dần dần từ Nam ra Bắc như tằm ăn lá.
- Theo tôi, đó là hạ sách. Thật không đáng quan tâm.
- Nhưng Lê Lợi chủ trương cầm chân ta ở Thanh, Nghệ để đem toàn lực ra hạ ta ở Đông Đô.
- Đấy mới là thượng sách. Và đấy mới là mối lo tâm phúc của ta.
Vương Thông trầm ngâm đáp :
- Tôi cũng nghĩ vậy. Quân tế tác chạy về cho hay hiệu cờ của Nguyễn Trãi đang phấp phới ở ngoài thành Tây Đô. Không thấy hiệu cờ của Lê Lợi ở Thanh cũng như ở Nghệ.
- Vâng. Toán thám mã riêng của tôi cũng báo tin y như vậy. Tuy nhiên, thú thật tôi vẫn không khỏi nghi ngờ.
- Nghi ngờ chuyện chi vậy, ông Tham tán ?
Từ tốn, Trần hiệp giải thích :
- Có ba điểm rất đáng ngại ngùng. Điểm thứ nhất, không nhẽ một người tài trí như Nguyễn Trãi lại thấp mưu đến nỗi không nghĩ đến kế uy hiếp Đông Đô. Điểm thứ hai, không nhẽ Lê Lợi là chủ tướng phải đích thân cầm quân đánh vào Đông Đô. Dưới trướng của y thiếu gì tướng giỏi có thể thực hiện được chủ trương của người đầu não. Và sau hết, điểm thứ ba là không nhẽ bọn họ lại quá vô mưu đến nỗi đưa nhau vào chỗ chết mà đóng quân. Khu Tụy Động ba mặt là sông, khác nào một cái rọ. Chỉ cần vây chặt mặt phía bắc, đánh thốc vào, thì chạy đằng nào cho thoát !
Vương Thông cười, biện luận hăng say khác thường :
- Tưởng gì chứ trong ba điểm ấy tôi thấy chả có điểm nào đáng làm cho ta nghi ngại.
“Trước hết, ta bàn điểm thứ nhất. Nguyễn Trãi là một người cẩn trọng muốn hạ được thành nào ăn chắc thành ấy. Đại quân của ta ở cả Nghệ An. Thành này một khi đổ rồi thì cả Tây Đô lẫn Đông Đô đều lung lay. Chủ trương của họ Nguyễn chưa ắt phải là hạ sách.
Dĩ nhiên, chủ trương của họ Lê lợi hại hơn. Nhưng đánh Đông Đô là một chuyện khó khăn. Nếu không có mặt một trong hai người chủ chốt, vị tất những người dưới đã tất lực (3). Vì thế, hoặc họ Lê hoặc họ Nguyễn, phải có một người nắm quyền điều khiển cánh quân quan trọng này. Tôi thấy Nguyễn Trãi ở lại để Lê Lợi cầm quân đánh Bắc chuyến này chẳng khác chi Lưu Bị ngày xưa hưng binh đi đánh Đông Ngô trong khi Gia Cát Khổng Minh ở lại giữ Thành Đô. Chả có chi là lạ. Đó là điểm thứ hai.
Còn điểm sau rốt. Họ dồn quân ở Tụy Động và có thể tự cho là đắc sách vì không sợ bị đánh vào mặt sau và hai bên sườn. Chỉ cần giữ cho chắc hai cái bến đò Mai Lĩnh và Tích Giang là yên. Khi nào không giữ nổi nữa, cần chạy, họ sẽ chạy tuốt lên mặt Bắc, lẩn trong khu vực Chúc Động và Phượng Hoàng Sơn, rộng gấp mấy bên Tụy Động…
Trần Hiệp vẫn còn áy náy :
- Dù sao tôi vẫn chưa thế nào yên tâm được. Thú thực tôi sợ những sơ hở lộ liễu của giặc. Tôi ngán những nước cờ quá thấp đối với tầm vóc của người cầm quân.
Vương Thông thở ra :
- Nói như ông Tham tán thì đánh chác gì nữa. Nước cờ cao cũng sợ, mà nước cờ thấp cũng sợ luôn ! Vậy đứng dậy, chịu thua đi cho rồi !
- Không phải thế đâu, Vương tướng quân. Tôi sợ đây là sợ cái mưu cao ẩn trong nước đi thấp. Tôi đã thử đặt mình vào địa vị của họ để tính xem họ trông vào những cái gì để đánh thắng mình. Tôi nghĩ đã nát óc mà nghĩ không ra.
- Vâng. Ông Tham tán cẩn thận thế cũng phải. Phần tôi, tôi cho là chẳng có mưu mẹo lừa dối gì đâu. Chủ trương của họ là vậy. Thực lực của họ cũng chỉ có vậy. Tham tán cứ tin ở tôi đi. Đa nghi quá không nên.
Trần Hiệp miễn cưỡng đáp lời :
- Dạ, tôi xin lĩnh ý. Tuy nhiên, xin tướng quân hãy thư cho tôi vài hôm rồi hãy quyết định.
- Nghĩa là…
- Tôi đã cho mấy kẻ chân tay xâm nhập khu Tụy Động dò xét xem có thực Lê Lợi ở đó không ! Và có thực Nguyễn Trãi không có mặt ở đó không.
Họ Vương cười ngạo :
- Tôi xem ý ông chỉ ngán có vị quân sư họ Nguyễn.
- Đúng vậy. Đành rằng đấu trí với một kẻ cao tay là một cái thú, nhưng trong cái thú đó có một mối lo sinh tử. Lo họ có những nước cờ cao mà mình không nghĩ tới. Khi vỡ lẽ ra thì đã quá muộn.
Viên chủ tướng không đáp. Y quơ tay lấy chiếc điếu ngọc đầy vân, nhồi thuốc và châm lửa, bập bập mấy hơi dài.
Câu chuyện được kết thúc sau khi y hả hê phà khói thuốc bào thơm nức.
- Dù sao, ta cũng phải liều một chuyến. Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con ?
Họ Trần, miệng đã ngậm vào điếu, vội nhả ra đáp :
- Cả một bầy hổ lớn chứ cọp con gì !
Y trầm ngâm một lúc khá lâu rồi mới thong thả buông từng tiếng, lẩm nhẩm như nói một mình, que đóm cháy gần đến đầu mấy ngón tay y vẫn không hay :
- Miễn là mình tính không sai ! Bằng không, dám chết luôn cả đám !...
_________________________
(1) Mậu tuất : 1418
(2) Giáp thìn : 1424
(3) Tất lực : hết sức.

Chương 9. Ba gã ăn mày
Mấy ngày rầy, bến đò Mai Lĩnh người ta đi đông như trẩy hội.
Ngôi quán con con của bà Lý Cốc không lúc nào vắng khách. Cô lái đò có tên là Sơn Ca nhưng đã lâu im tiếng hát, cũng ít lúc được ngơi tay. Mỗi ngày nàng chở đi chở về không biết bao nhiêu chuyến.
Mỗi chuyến đò ít ra cũng có một kẻ ăn mày. Nàng thường cười nói với mấy bà trong xóm :
- Sao dạo này ăn mày ở đâu đến mà đông như rươi (1) !
Và nàng tự hỏi :
- Tại sao những tên do thám thích giả dạng làm ăn mày thế nhỉ ?
Chuyến đò sáng sớm hôm nay có những ba tên hành khất.
Nàng chú ý đến tên to lớn nhất. Đối với con người này Tạo Hoá dường như quá khắt khe. Cho y được mỗi cái thân hình vạm vỡ, lại bắt y chịu vô số tật nguyền. Khổ sở nhất là cái lưng gù khiến cho mặt y luôn luôn phải nhìn xuống đất. Nửa người bên trái là nửa người bỏ đi từ cái má sưng u như ngậm hoài trong miệng một quả chám (2) thật to đến cánh tay khoèo có năm ngón tay co quắp. Còn cái chân thọt thì lúc nào cũng kiễng lên như chỉ dám đụng đến mặt đất của loài người bằng một ngón chân cái.
Y cam phận tật nguyền, ngồi ở mạn thuyền, xa lánh mọi người mặc dầu quần áo y có rách rưới mà không hôi hám. Khác hẳn với hai gã cùng đi, mặt mũi nhâng nháo như hãnh diện với cái nghề mà không ai thích giây vào.
Đến bến, hai tên này nhẩy tót lên bờ, gọn và đẹp như những người giỏi võ. Chúng ton ton đi trước để mặc gã loay hoay với một nửa thân hình không mang tật.
Mấy bà có gánh có gồng đã lên hết, vừa đi vừa nói chuyện huyên thuyên. Gã ăn mày chính hiệu rời chiếc đò sau rốt. Cô lái không nề hà giơ một bàn tay từ bi cho y bám vào điểm tựa.
Y cúi đầu thật thấp gật gật mấy cái tỏ ý vái chào trước khi cất bước một cách thật khó khăn.
Cô gái giật mình thấy một mảnh giấy gập vuông thật nhỏ nằm gọn trong lòng bàn tay.
Ái chà ! Tên này hoá trang giỏi thật ! Không ngờ ! Mà y là ai nhỉ ?
Nàng mở tờ thư ra đọc.
Thư viết bằng chữ nôm, nét bút đẹp, trông quen quen :

“Bạn Lĩnh Nam nhã giám,
“Ngày mai là ngày Đại hội ăn mày. Nhờ bạn báo ngay cho các chú Đinh, Ấn, Lạc nghênh tiếp thật long trọng.”
“Sơn Nữ cẩn cáo.”


Mai như người ngủ mê sực tỉnh. Nàng hồi tưởng lại ngày ông quân sư họ Nguyễn sửa soạn xuôi Nam . Ông khẽ dặn, lời ân cần như còn văng vẳng bên tai :
- Cháu Mai à, ngoài bốn ông tướng cai quản ba đạo quân đánh thành Đông Quan, chỉ có ba người biết ta có mặt hôm nay ở đất Bắc. Đó là ông Trần Kiện, cháu và một người lấy tên là Sơn Nữ nằm trong lòng địch.
“Cháu phải giấu thật nhẹm không cho ai biết bác ở chơi bên Lương Xá mấy ngày. Để lộ tin này ra, mẹo của bác tất không hiệu nghiệm và ta sẽ thua trận đấy.
“Nếu Sơn Nữ liên lạc với cháu thì cháu tên là Lĩnh Nam nhé”.
Nàng sực nhớ : ông Trần Kiện và bốn tướng đều có mỗi người một tên giả để phòng thư có lọt vào tay địch, tin tức vẫn không bị tiết lậu và những người tin cẩn không bị lộ diện.
Chạy ù vào một mái tranh gần đó, nàng thì thào :
- Lụa xuống trông đò hộ chị. Chị đi đàng này một lát. Có việc cần lắm.
Trong một thoáng, nàng biến thành một gã thiếu niên mặt đen đúa, đầu quấn chiếc khăn nâu, và mình khoác áo tơi lá mặc dầu trời không mưa. Gã dắt một con ngựa nòi, tót lên yên và cả người lẫn ngựa bay vào làng Lương Xá bằng những con đường tắt.
Trần Kiện trông thấy reo lên :
- Cháu Mai, chắc có tin gì quan trọng ?
- Dạ. May quá, có cả ba chú ở đây.
Trần Kiện, Lý Thiện và Đỗ Bí cùng châu đầu vào đọc một tờ thư chỉ riêng họ mới hiểu được nội dung.
Chú Lạc, tức Đỗ Bí, người dễ dãi nhất, giảng cho cô lái :
- Ngày mai, chúng nó sẽ tung thật nhiều tên dọ thám đi săn tin. Chúng ta sẽ kín đáo phô trương như có vua chúa ở đây.
Lý Triện, hay là chú Ấn, nhắc đi nhắc lại :
- Cháu Mai nhớ dặn tất cả những người bên ấy chớ quên những điều cấm kỵ. Nghĩa là tha hồ kháo chuyện rông rài. Muốn thêu dệt chuyện vua, chuyện tướng gì cũng được hết.
Duy có tên ông Nguyễn Trãi là cấm chỉ (3) không được nhắc đến.
- Vâng, cháu nhớ.

***
Chiều hôm sau, nàng kéo chiếc đò lên bờ khi trời mới nhá nhem. Trái với lệ thường, nàng tất tả trên đường về nhà để kịp ăn vội vàng mấy miếng rồi còn đi họp ở nhà cụ Cử.
Qua khoảnh ruộng chiêm đến một khu rừng nhỏ. Có tiếng người nói chuyện vọng lại. Tiếng chân người đi tới. Hai gã ăn mày hôm trước sóng vai nhau len lỏi trên con đường hẹp.
Tinh mắt, nàng vội tránh vào trong một bụi cây rậm rạp, đợi chúng đi diễn qua trước mặt.
Vô tình, chúng không trông thấy nàng, và vô tình vài câu đối đáp của chúng lọt vào tai kẻ thứ ba :
- Tức quá ! Tìm đúng nhà rồi mà không thấy thằng ranh con ấy đâu.
- Cả con nhãi con kia cũng không thấy nốt !
- Thôi để cho chúng nó sống thêm vài hôm nữa vậy. Thịt lúc nào chả được.
- Ừ, hễ bên kia ta triệt xong thì bên này tính lúc nào hay lúc ấy.
- Hà hà ! Tao thấy chúng nó nằm cả trong rọ mà còn lăng xăng chiêng trống rầm trời, ngựa voi rộn rịp… xem phát tức cười !...
Rón rén bước ra khỏi chỗ nấp, nàng đứng nom theo cho đến lúc hai tên ăn mày rẽ vào con đường bên trái.
Đang phân vân không biết có nên rượt theo chúng hay không, nàng giật thót mình, nghe đàng sau có tiếng người chạy tới. Một bóng đen lướt qua, nhanh như gió. Một cánh tay trong tối vung lên. Nàng chưa kịp nghiêng mình tránh đã cảm thấy như có một vật gì cắm chặt vào khăn, chỗ tóc vấn dầy nhất quanh đầu.
Một mũi phi tiêu nhỏ có một lá thư gấp nhỏ làm cánh. Sợ toát mồ hôi, nàng chạy ù về nhà, ghé vào đèn mở đọc.
A ! Hai thư chứ không phải một. Vẫn nét bút quen quen của anh chàng mang tên Sơn Nữ.

Bạn Lĩnh Nam nhã giám
Tối mai, hai kẻ lạ mặt sẽ nghỉ chân nơi quán Trúc.
Một tên giọng lơ lớ,
Ám hiệu : nheo mắt trái.
Bảo cô Lãm sắm rượu ngon, nhắm tốt và phục cho tất cả đều say.
Nhờ cụ Cử sẵn sàng nghiên bút sao lại tin tối mật.
Sơn Nữ cẩn cáo.


Khá quá ! Anh chàng này không gù như mình tưởng. Y chẳng những đứng thẳng băng mà còn chạy như bay trên đường lạ trong đêm tối. Phép ném phi tiêu cũng tuyệt vời. Nếu không phải là bạn ắt mặt mình…
Nghĩ đến đây, nàng rùng mình trong khi bàn tay thẫn thờ mở tờ giấy thứ hai.
Trời ơi ! Anh Lịch ! Thảo nào !
Nàng chăm chú đọc, lòng rộn một niềm vui trộn lẫn với một nỗi lo khó tả.
Em Mai
Lộng giả thành chân (4), thằng Rực đã theo hẳn Vương Thông và đang tìm cách ám hại anh Hậu trước khi triệt hạ đội dân quân làng ta đấy.
Phải cẩn thận đề phòng và trình cụ Cử biết ngay.
Anh Lịch

___________________________
(1) Rươi : một loại sâu từ dưới đất chui lên vào cuối thu, khi thời tiết thay đổi, trong những ruộng ở miền bể kêu là ruộng rươi. Rươi có thể làm được nhiều món ăn rất ngon.
Đông như rươi : rươi thường xuất hiện đông đặc trong những ruộng rươi.
(2) Quả chám : trái cà na.
(3) Cấm chỉ : cấm ngặt.
(4) Lộng giả thành chân : đùa mãi thành thật.
Chương 10. Một cuộc họp bất thường
Mai tất tả chạy qua sân tập, nhẩy mấy bực thềm, bước vào nhà khách rộng của thầy.
Không khí ở đây đêm nay sao khác lạ : ngoài vườn gió hun hút, lạnh căm căm mà trong phòng như ngột ngạt.
Cụ Cử ngồi chủ vị, im lặng trên chiếc đôn sứ kê ở đầu chiếc án thư bằng gỗ trắc. Hai bên , trên hai chiếc tràng kỷ lim đen bóng có trải nệm bông, là các nhà tai mắt trong làng, vị nào cũng khăn lược áo dài trịnh trọng.
Phía dưới, hai chiếc chõng tre kê hai bên dành cho mấy cậu, mấy cô nhỏ tuổi.
Tất cả đều ngồi im phăng phắc. Trên mặt án thư, ngọn đèn dầu lạc cháy lặng lẽ giữa chiếc điếu bằng bát sứ và cơi trầu sơn son không ai buồn động tới.
Mai rón rén bước vào, cúi đầu chào lặng lẽ. Lãm khẽ nhích người cho bạn ké né ngồi bên cạnh.
Giọng đanh thép song đượm buồn của cụ Cử cất lên phá tan sự yên lặng :
- Tôi mời các cụ và các anh, các chị đến họp gấp tối nay là do nhời yêu cầu của ông Hai ở xóm Chùa. Và cũng để cộng đồng xét xử một việc quan trọng… Nào xin mời ông Hai lên tiếng.
Ông Hai Quang, mặt mũi hiền lành, đứng dậy nói vắn tắt :
- Thưa các cụ, hồi chiều thằng Quý nhà tôi nhận được tin của anh nó là thằng Rực, con bác Cả Sáng, cho biết cậu Hậu làng ta có liên lạc với cậu Lịch…
Ông nhường lời cho cậu con trai trình bày rành mạch :
- Thưa, anh Rực cháu nhắn về cụ Cử hai tin, thực hư thế nào con không rõ. Một là anh Lịch đã tự ý theo giặc, làm tay sai cho tên Trần Hiệp, tham tán quân vụ của Vương Thông. Hai là anh Lịch lén lút thông đồng với anh Hậu để…
Cử tọa nhao nhao phẫn nộ :
- Láo ! Láo !
- Vô lý !
- Hai anh ấy không đời nào làm bậy !
Quý đợi cho cơn giận của mọi người dịu xuống mới cố nói tiếp cho hết ý :
- … để xúi đội dân quân theo giặc, tiếp tay với quân Minh bắt sống Bình Định Vương mà lập công.
Cụ Cử ôn tồn hỏi :
- Rực nó nhờ ai nhắn tin cho anh ? Có giấy má gì không ?
- Thưa cụ không. Anh ấy nhắn miệng hai người giả dạng làm hành khất.
- Hừ ! Anh Hậu nghĩ sao ?
Tự tin và bộc trực, Hậu đứng dậy nói dõng dạc :
- Thưa các cụ, tâm địa (1) của anh Lịch, của anh Rực và của chính con như thế nào, có nhẽ cả làng ta ai cũng biết rõ nhất là cụ Cử là thầy dậy chúng con đã lâu. Riêng con nghĩ, anh Lịch không phải là hạng người chịu làm những việc nhơ nhớp. Từ ngày anh ấy bỏ làng đi, con không được tin gì về anh ấy, làm sao có việc thông đồng, xin các cụ xét cho.
Mấy ông chức việc trong làng bàn :
- Không phải tại không có mặt anh Cả Sáng và cậu Rực ở đây mà chúng tôi nghĩ xấu cho cậu ấy. Chứ cậu Rực nói xưng xưng như vậy, thật không đủ tin.
- Phải. Ta không thể nhẹ dạ tin một nhời tố cáo vu vơ mà nghi ngờ cậu Hậu. Sắp đánh nhau to đến nơi rồi, điều tối kỵ là làm cho lòng người chán nản…
- Đúng thế đấy. Nếu để cho đội dân quân khảng tảng (2) thì làng mình giữ cũng không xong, nói gì đến việc tiếp tay với các làng khác !
Cụ Cử vuốt chòm râu đã điểm nhiều sợi bạc, mỉm cười :
- Chị Mai cách đây mấy hôm có vào thành Đông Quan. Khi về, có trình cho tôi biết anh Rực đã nói ra miệng rằng anh ấy là người thân cận của Vương Thông. Chị Mai suýt nữa bị anh ấy ám hại…
Mọi người, kể cả ông Hai Quang và Quý, vồn vã hỏi đầu đuôi câu chuyện.
Mai kể vắn tắt, giọng bỗng run run khi nàng sống lại giây phút kinh hoàng của một thiếu nữ đứng trước mối nguy mà chân tay đều rũ liệt.
Nàng kết luận :
- Nhời nói của con là sự thật, nhưng dù sao cũng vẫn là “khẩu thuyết vô bằng” (3). Mặt khác lời cáo buộc của anh Rực cũng không chứng cớ. Vậy muốn biết rõ ai ngay, ai gian, chắc phải đợi lúc nào yên hàn mời anh ấy và anh Lịch về đây đối chất.
“Bây giờ, việc làng, việc nước là trọng. Con thiết nghĩ các cụ nên hoàn toàn tin tưởng vào anh Hậu. Con xin bảo lĩnh cho anh ấy. Nếu anh ấy hai lòng, con xin chịu tội.
Ông Hương Tùng, cha của Mai, và ông Trưởng Duyệt, thân sinh của Lịch và Lãm, cùng nói :
- Cả chúng tôi cũng bảo lĩnh cho cậu Hậu nữa.
Ông Lý Đôn cảm tạ hai ông bạn già :
- Lẽ tất nhiên, nếu con tôi làm bậy thì tôi cùng tất cả nhà đều chịu chung một hình phạt của làng.
Cụ Cử thích thú nói đùa :
- Cả thầy của nó đây cũng tránh sao khỏi tội ! Nó lại là trưởng tràng của tôi mới chết chứ !
Quay về phía ông Hai Quang, cụ hỏi :
- Ông Hai nghĩ sao ? cả anh Quý nữa. Có điều gì không phục, xin cứ nói.
- Thưa cụ, cha con tôi quả thật không có điều gì dị nghị. Thằng cháu Rực nhắn tin, không nhẽ không trình các cụ tường, chứ tôi thấy bên trong chắc có điều ẩn khuất…

***
Mai bấm Lãm nấn ná ở lại.
Đợi cho mọi người ra về hết, nàng trình cụ Cử hai bức thư vừa nhận được bằng mũi phi tiêu.
Xem xong, cụ Cử ngạc nhiên hỏi :
- Sao lúc nẫy con không đưa ra trình các cụ, có phải hay không ?
- Thưa cụ, tại con không muốn để lộ hành tung của anh Lịch, con muốn giấu ông bà Trưởng và thầy đẻ con nữa. Sợ các cụ mừng quá mà không kín chuyện.
Thầm phục con bé còn nhỏ tuổi mà cáng đáng công việc có phần cẩn trọng hơn mình, cụ khen :
- Ừ, con nghĩ thế cũng phải. Thôi, vụ ấy coi như đã tạm yên. Còn lo vụ đêm mai nữa. À con, xem nét chữ thì cả hai tờ thư này đều do một người viết. Vậy Sơn Nữ với thằng Lịch là một người sao ?
- Thưa cụ, con đoán… có nhẽ vậy.
Lãm liếc nhìn bạn, mỉm cười thấy nàng ửng hồng đôi má.
- Sao đàn ông con trai lại cắc cớ lấy tên là Sơn Nữ hả chị ?
- Con bé này có ngây thơ không ? Thì để che mắt địch, phòng khi thư lọt vào tay chúng chứ để làm gì nữa !
- Ờ há !
Hai chị em dắt tay nhau ra về, mỗi người mừng vui một cách. Một cô như ngộp trong niềm vui phải giữ kín cho riêng mình, còn một cô thì muốn tỉ tê san sẻ với mẹ ở nhà mà không dám.
_____________________
(1) Tâm địa : lòng dạ.
(2) Khảng tảng : chán nản, rời rã.
(3) Khẩu thuyết vô bằng : miệng nói không bằng cớ.
Chương 11. Như lấy đồ trong túi
Với hai ống điếu dài truyền thống, hai tên đầu sỏ giặc Minh họp bàn riêng lần chót trước khi nhất định đánh một đòn quyết liệt.
Trên mặt bàn phủ gấm Tứ Xuyên, đã bầy sẵn một bình rượu quý bên cạnh một khay chén ngọc. Mỗi kẻ ngồi một bên đối ẩm.
Vương Thông tự tay rót rượu ra cùng bạn khề khà :
- Trông gương mặt quan Tham tán hôm nay có hỉ sắc, tôi đoán chắc mới có tin lành.
Trần Hiệp cười hể hả :
- Quả có thế. Tôi đã thu thập được đầy đủ các tin tức. Nói cho rõ, tôi đã kiểm soát lại tất cả các tin mật báo xem có thật đúng không.
- Có điểm nào đáng nghi ngờ không, quan Tham tán ?
- Không, tuyệt nhiên không. Điều lợi hại thứ nhất là Nguyễn Trãi không có mặt ở trong quân. Ta bớt hẳn được một mối lo then chốt. Điều quan trọng thứ hai là Lê Lợi đang thao luyện quân sĩ ráo riết trong khu Tụy Động. Họ còn xem lịch, chờ ngày tốt mới tiến đánh quân ta. Biết trước, ta làm một mẻ lớn, phá tan sào huyệt, diệt trọn ổ, không sót một mống, thật bõ công. Còn điều thứ ba là hai đạo quân của Đinh Lễ và Nguyễn Xí đã lục tục chui vào rọ cùng với đạo quân của Lý Triện, Đỗ Bí rồi…
Y vỗ tay, cười sằng sặc, tiếp :
- Gọn cho ta biết chừng nào ! Cá trong đó càng nhiều, ta khoắng tay bắt càng dễ !
Khác hơn bữa họp trước, lần này đến lượt Vương Thông ngần ngại :
- Quan Tham tán à ! Họ để lộ quá nhiều sơ hở, tôi thấy như có một cái gì không được ổn. Hay là họ cố ý như vậy để lừa ta ?
- Không phải thế đâu. Xin chủ tướng chớ quá lo xa. Để tôi phân tách kỹ càng cho chủ tướng yên tâm.
“Không phải là họ sơ hở đâu vì thực ra họ chẳng phải là một lũ vô mưu, đánh với ta ngót mười năm, Lê Lợi và các tướng tá của y đều có kinh nghiệm chiến trường và biết đóng quân theo đúng binh pháp.
“Hiện giờ, họ dồn binh ở khu Tụy Động là ỷ vào hai con sông che chở cho ba mặt Đông, Tây và Nam . Chỉ phải lo giữ có một mặt Bắc mà thôi.
- Phải. Đóng quân như vậy có thể gọi là đắc sách.
- Vâng. Họ đắc sách nếu quân số hai bên đối địch sấp sỉ ngang nhau hoặc không quá chênh lệch. Họ quên mất một điều tối quan trọng là quân ta đông hơn quân họ gấp mấy chục lần. Thành thử ba mặt sông không còn là chỗ cho chúng tựa nữa mà biến thành những cản trở khó vượt qua khi chúng bắt buộc phải tháo lui. Đất dụng võ của chúng bỗng hoá ra đất chết. Đắc sách hoá ra thất sách !
Sau khi tần ngần hồi lâu, họ Vương đặt chén nước xuống bàn, áy náy hỏi người đối ẩm :
- Họ kém quân thì họ có thể mượn lửa giúp sức. Ngộ họ lừa mình vào sâu trong hiểm địa rồi đánh hoả công như ngày xưa Gia Cát Khổng Minh đốt đồi Bác Vọng thì sao ?
- Tôi đã nghĩ đến điều đó và thấy chả có gì đáng bận tâm. Bây giờ là tháng mười. Gió bấc thổi ù ù, quân ta từ mặt bắc đổ xuống, họ có điên cách mấy cũng không dám nổi lửa để thấy chính họ bị hoả thiêu trước. Ba mặt sông đã chẹn họ lại và không chừa ra lối nào cho họ chạy thoát kia mà.
- Không mượn được sức lửa, họ mượn sức nước thì quan Tham tán tính sao ?
Chậm rãi nâng ly uống vài hớp rượu lấy hứng, họ Trần vuốt bộ râu dê, đắc chí hỏi ngược lại :
- Họ có thể nghĩ đến điểm lợi hại đó. Nhưng thử hỏi họ sẽ mượn sức nước bằng cách nào ? Lấp sông Đáy, sông Bùi cho nước tràn vào các ruộng chiêm thì được đấy. Song ai lấp và lấp vào lúc nào ? Lấp trước khi ta xông vào thì chính họ chết trước. Lấp sau thì không tài nào kịp !
Họ có độ ba bốn nghìn quân. Ta kéo đi bẩy tám vạn. Trong nháy mắt, ta khoắng tay một cái là tóm được toàn bộ không sót một tên thì lấy ai mà ngăn sông nữa ?
“Nói cho cùng, điều ấy thật quả không đáng lo.
“Vả lại, sống với đồng chiêm, nhà nào cũng có đôi ba chiếc thuyền thúng. Khi cần, ta mạnh hơn, ta đoạt lấy, ta dùng. Chung quy, dù chúng có làm liều tháo nước vào, ta cũng diệt chúng xong trước khi nước tràn tới…
“Trận này, ta chỉ đánh một loáng là xong à !
Đã bị hoàn toàn thuyết phục, viên tướng họ Vương vui vẻ nói theo đà viên Tham tán :
- Ta đã gạt được sức nước, sức lửa thì sức người của chúng hết đáng lo. Dù có phục binh mấy mặt, chúng cũng bị quân ta đè bẹp.
- Vâng. Đè bẹp đến nỗi trong cái túi nhỏ xíu ấy, quân ta quơ tay chỗ nào cũng vớ được một món đồ. Nhưng rồi khối đứa sẽ chưng hửng vì đồ trong túi quá ít trong khi tay khoắng quá nhiều !
Trước khi kéo một hơi thuốc bào cho sảng khoái, Trần Hiệp gõ mấy đầu ngón tay xuống tấm bản đồ trải rộng trên bàn và bình luận :
- Đánh trận này, thú nhất ở chỗ cả hai bên đều cho là mình đắc sách và lừa được đối phương. Chỉ đến lúc bị trói gô lại thành từng xâu dài, chúng mới tỉnh ngộ thì đã muộn. Cũng như người đánh cờ mải tấn công, mãi đến khi bị chiếu bí mới biết mình đi hớ nước.
- Thôi, được rồi ! Ta nhất định đánh một trận to, bắt cho trọn ổ. Nhưng quan Tham tán đã tính điều động…
- Đã, đã. Tôi đã tính toán đâu vào đấy cả rồi.
“Bọn Lý Triện, Đỗ Bí bỏ Ninh Kiều về Tụy Động là phạm phải một lỗi lầm to tát. Tôi đã cho Mã Kỳ đem quân đến đóng ở Ninh Kiều, rồi từ Ninh Kiều y cất quân đi lẻn bằng đường thủy đến con đường cái dẫn đến bến đò sông Tích Giang.
“Bây giờ chắc y đã cho quân bí mật sang sông ẩn nấp vào một chỗ kín đáo và sẵn sàng để đánh tập hậu vào quân của Lý Triện đang trấn đóng ở cửa ngõ khu Tụy Động.
- Ta còn chờ gì mới phát pháo tấn công ?
- Thưa, tôi và tướng Phương Chính đã sẵn sàng, chỉ còn đợi một tin tức sau cùng của tướng Mã Kỳ là cất quân liền. Chúng tôi sẽ độ quân qua sông Đáy ở Mai Lĩnh. Thế là hai cánh quân của ta ép chặt hai đầu con đường cái quan nằm giữa hai khu Chúc Sơn và Tụy Động.
“Lúc nào có ám hiệu, hai cánh cùng đổ quân ra dồn bọn chúng xuống đám ruộng chiêm như người ta lùa cá vào trong một cái giỏ…
“Tha hồ mà chém giết. Tha hồ mà bắt sống dễ như lấy đồ trong túi !
Cả hai tên cùng cười híp mắt, tưởng như đã nắm chắc số phận họ Lê và các tướng tùy tùng ở trong tay.
Họ Vương cao hứng :
- Ông chịu khó đi đánh trận này thật bõ công vận trù quyết sách (1). Tôi ngồi một chỗ cũng thấy ngứa ngáy chân tay. Hay là tôi cũng dẫn một cánh quân đóng ở bên này sông trợ chiến ?
- Thế thì còn gì hay bằng ! Sĩ tốt nghe tiếng trống thúc quân của chủ soái ắt nức lòng xả thân giết giặc.
- Có vậy khi ban sư hồi triều, chúng ta mới xứng đáng nhận lãnh những lời phủ dụ của bề trên.
Cả hai cùng vui cười hể hả và cùng nâng ly rượu đầy ắp uống mừng ngày thành công đã ló dạng sáng ngời như ánh nắng chúng thấy tưng bừng qua kẽ hở giữa hai cánh màn gấm gió thổi lung lay ngoài trướng.
______________
(1) Vận trù quyết sách : lập mẹo hay.
Chương 12. Bức mật thư
Nắng chiều chưa tắt hết, hai chàng trẻ tuổi bước vào một ngôi quán nhỏ ẩn hiện sau một khóm trúc như sau một tấm bình phong khổng lồ bằng ngọc thạch.
Người nọ giới thiệu với người kia :
- Đây là quán Trúc, anh bạn thấy thế nào ?
- Đẹp và u nhã lắm. Không phải tay “thổ công” như bạn làm sao biết được chỗ này !
Họ ngồi xuống ghế. Chàng “thổ công” hỏi cô gái nhỏ bưng trà ra mời khách :
- Các cô chủ đâu, sao không thấy cô nào ở đây nhỉ ?
- Thưa, hai cô cháu ra ngay bây giờ đấy ạ. Dạ, hôm nay các cô có món cháo ám (1) ngon đặc biệt.
Khách lạ nâng chén trà thơm lên nhấp và bỗng nhiên cảm thấy mình như chàng Lưu, chàng Nguyễn (2) vừa lạc vào cõi Thiên Thai. Hai dáng tiên nga vừa xuất hiện và tha thướt lại gần, không ai khác hơn là Mai và Lãm.
Gã ngây người ngắm nụ cười nở lặng lẽ trên cặp môi hồng. Rồi tia nhìn ngây dại chết giấc trên mảng yếm trắng tinh nổi bật giữa hai tà áo nâu non và múi thắt lưng màu hoa lý.
- Hai cô ngồi xuống tây chơi. Tên hai cô là gì nhỉ ?
Nàng nhỏ tuổi lẹ miệng trả lời :
- Thưa, em tên Đẹp.
- Ồ, tẹp, tẹp lắm ! Người tẹp, tên cũng tẹp !
Y quay sang cô kia, sắc sảo hơn :
- Còn em ?
- Em tên Băng Tâm.
- Păng Tâm ! Cô em tẹp như một nàng tiên vậy tó !
Hai nàng tiên mỉm cười. Họ đã nhận ra cái giọng lơ lớ đặc biệt của những người tuy nói tiếng ta thật sõi nhưng vẫn chẳng sớm thì muộn để thò ra cái đuôi “khách trú”.
Họ kín đáo liếc nhìn chàng thanh niên ngồi cạnh. Anh này ngồi lui ra đằng sau một chút và trong thoáng giây cả hai nàng cùng bắt gặp chàng ta nheo con mắt bên tay trái.
Đúng rồi ! Cá đã vào nơm.
Chàng trẻ tuổi hỏi nhanh, tay vỗ vai bạn đồng hành :
- Thế nào, hai cô có rượu ngon, nhắm tốt cho quý khách đây thưởng thức không ?
- Thưa, có ngay bây giờ đấy ạ.
Hai nàng vừa lăng xăng rót trà vừa khoe, thỉnh thoảng lại mỉm cười liếc nhìn hai ông khách :
- Hàng chúng em tuy quê mùa nhưng lúc nào cũng có một bao chè ướp sen và vài bình rượu cúc thượng hảo hạng. Còn thức nhắm thì sẵn có đàn gà mái tơ. Hôm nay lại có mẻ cá đầm nhà vừa đánh xong, tươi roi rói.
- Thế thì quý hoá quá !
Chàng trẻ tuổi khen xong, bạn y nhe hàm răng trắng nhởn tiếp lời :
- Gà mái tơ hả ? Ngộ… à quên, tôi thích gà mái tơ lắm.
Y cười híp mắt, sướng mê tơi với những câu thăm hỏi xã giao của hai cô gái :
- Ông chủ chắc đi buôn to lắm, phải không ạ ?
- Phải zồi ! Ti Puôn to lắm ! Puôn chuyến này xong, tôi sẽ giầu to. Zồi tôi sẽ làm quan to nữa à !
- Ồ, thế thì hân hạnh cho chúng em quá. Biết đâu chúng em chẳng có phận nhờ… Chẳng dám nào, chúng em mong được biết quý tính cao danh, phòng sau này có khi nhờ vả.
- Tược, tược. Tên tôi là Tĩnh. Còn ông bạn này là…
Bạn y vội đỡ lời :
- Sơn. Các cô cứ gọi tôi là Sơn.
Đúng là Sơn Nữ. Đúng là chàng. Cắc cớ, Mai nhìn người yêu, mỉm cười hỏi :
- Còn ông chủ đây, cũng đi buôn để rồi làm quan nữa, phải không ạ ?
- Không có đâu, cô Băng Tâm à. Tôi chỉ đi giúp người ta bắt cá thôi. Lùa cá vào nơm cho thật nhiều, rồi bắt đem về cho hai cô hàng quán Trúc làm món nhắm đãi khách. Vậy có được không cô ?
Mọi người cùng cười, mỗi người hiểu câu nói ỡm ờ theo một ý.
Tiệc đã bầy xong, một mâm thịnh soạn.
Hai ngọn đèn khơi cao chiếu xuống chiếc mâm đồng bóng nhoáng đựng những đĩa thức ăn đầy toả vị thơm ngon.
Băng Tâm tự tay so hai đôi đũa son và đặt hai chiếc bát sứ Giang Tây bịt bạc trước mặt hai người khách. Và chính tay nàng nghiêng bình rượu cúc rót đầy hai cái chén sứ men trắng như ngọc, khuyên mời :
- Rước hai ông xơi rượu.
Hương rượu thơm phức. Tĩnh nâng chén lên định uống, nhưng Sơn kín đáo giữ tay y lại.
- Mời hai cô cùng uống với chúng tôi một chén cho vui.
Tĩnh liếc nhìn bạn, thầm phục anh chàng này thế mà cẩn thận.
- Phải zồi. Có hai cô cùng tối ẩm, tiệc rượu này mới thật là một cuộc họp mặt thần tiên chứ.
Hai nàng chỉ nhấp một chút cho ướt cặp môi hồng để hai gã phóng tâm cạn chén.
- Khà ! Rượu ngon thật !
Đêm đã về khuya, tiệc cũng gần tàn. Hai cô con gái đã gắng gượng uống hết một ly trong khi hai gã sắp cạn hết bình.
Sơn nheo mắt ra hiệu cho hai nàng, rồi trân trọng rót cho mỗi người trong tiệc một tuần rượu chót. Chàng giục bạn :
- Thôi, uống nốt đây thôi, sắp say rồi. Còn ăn cơm chứ !
Hai người cùng nâng ly, cùng nốc cạn và cùng buông một tiếng khà sảng khoái.
- Ơ kìa ! Đã say rồi sao ?
Cả hai cùng ngạc nhiên thấy hai cô quán mặt đỏ bừng, gục xuống bàn, say khướt.
Tĩnh mắt bỗng hoa lên thấy Sơn nằm vật xuống giường, bất tỉnh. Y cố trấn tĩnh, nhủ thầm, tự đắc :
- Thì ra mình vẫn là một tay giỏi rượu nhất !... Ơ kìa ! Mình cũng say chăng ? Không gượng được nữa rồi !...
Y lảo đảo, toàn thân mềm nhũn, ngã sóng soài xuống đất.
Như cái máy, Sơn nhỏm dậy cùng một lúc với hai cô gái. Chàng đích thân lục khắp người tên Tĩnh.
- Đây rồi !
Chàng khẽ reo lên, đưa bức mật thư cho Mai mang vào nhà trong trình cụ Cử.

***
Cụ Cử ung dung ngồi thưởng trà khuya với tướng quân Lý Triện.
Cụ đã sao xong bức mật thư. Những chữ viết đài (3) ra ngoài hàng cụ cũng bắt chước y hệt. Nhưng cả hai người cùng tần ngần chưa muốn giao bản chính lại cho Sơn. Là vì có một điểm mà cả hai người cùng không hiểu.
Lý Triện cau mày, lẩm nhẩm đọc đi đọc lại :

“… Mặt này, chúng tôi đã sang đò và đang phục ở một nơi kín đáo. Mặt kia, xin kéo rốc sang ngay. Lúc nào có súng hiệu “ĐỊA LÔI PHỤC” thì hai mặt đổ ra cùng đánh.”

Ông tướng hỏi nhà nho :
- Mấy chữ “Địa lôi phục” viết đài ra đây có dụng ý gì, thưa cụ ?
- Tôi chưa nghĩ ra. Chẳng nhẽ chúng nó chôn địa lôi trên đường cái !
- Địa lôi phục ! Vô lý nhỉ ?
Cô lái bến đò Mai Lĩnh bỗng lên tiếng hỏi :
- Thưa, cháu chưa được nghe tiếng súng khi hai bên giáp trận bao giờ. Lý tướng quân có thể cho cháu biết quân Tầu thường bắn súng ra làm sao không ạ ?
- Được. Chúng cũng như ta hay dùng súng hỏa mai thay cho pháo hiệu. Chúng bắn khi thì hai phát ngắn liền nhau, lúc thì một phát nổ rền rời rạc.
- Thế thì cháu hiểu rồi !
Nàng quay sang phía cụ Cử, chưa kịp trình thầy thì ngay lúc ấy cụ Cử nghĩ ra nhờ cô học trò gợi ý. Cụ khen :
- Con bé này thế mà sáng dạ đấy ! Mới học sơ qua mấy quẻ đã luận được ra ngay !
Rồi cụ vuốt râu, rung đùi, giải thích :
- Lý tướng quân à ! Chúng làm hiệu ngầm với nhau bằng quẻ Dịch !
- Thế à ? Xin cụ nói rõ cho nghe.
- Vâng. Chắc tướng quân đã rõ trong bát quái, có 8 quẻ, mỗi quẻ được vẽ bằng 3 nét hoặc liền hoặc đứt.
“Trong 8 quẻ ấy, có quẻ KHÔN chỉ ĐẤT (Khôn vi Địa) và quẻ CHẤN chỉ SẤM SÉT (Chấn vi Lôi).
“Quẻ KHÔN được biểu tượng bằng 3 nét đứt.
“Quẻ CHẤN được biểu tượng bằng 2 nét đứt ở trên và 1 nét liền ở dưới.
“Nếu đem trồng quẻ KHÔN (Địa) lên trên quẻ CHẤN (Lôi) ta có một trùng quái có tên là quẻ PHỤC. Để cho dễ nhớ, người ta gộp chung thành phần của trùng quái vào tên của nó và gọi quẻ này là quẻ Địa Lôi Phục (Địa + Lôi : Phục).
“Quẻ này gồm 5 nét đứt ở trên và 1 nét liền ở dưới.
“Như vậy, hiệu súng của chúng là 5 chập, mỗi chập 2 phát liền nhau trước rồi đến 1 phát nổ rền sau cùng.
Lý Triện mừng rỡ :
- Thế thì phải rồi. Ta sẽ lấy kế nó làm kế mình… Thôi cậu Sơn ra ngoài quán, để trả bức mật thư vào chỗ cũ cho nó, rồi cứ mặc nguyên quần áo mà đánh một giấc bên cạnh nó cho có bạn.
- Dạ.
Ông tướng cười hà hà dặn vói thêm :
- Nhớ đánh thức y dậy thật sớm mà đi cho được việc nhé.
Trước khi lên ngựa về doanh, họ Lý nắm tay ông bạn già, cảm tạ :
- Cụ có hai người học trò quý như hai viên ngọc. Trận này thành công, một phần nhớn nhờ cậu Sơn và cô Mai đấy, cụ ạ.
_________________
(1) Cháo ám : một thứ cháo cá.
(2) Chàng Lưu, chàng Nguyễn lạc vào cõi thiên thai : Một chuyện thần tiên kể rằng ngày xưa có một người họ Lưu, và một người họ Nguyễn đi chơi rồi lạc vào động Thiên Thai, nơi tiên ở.
(3) Viết đài ra : viết trệch ra ngoài hàng.

Chương 13. Trận Tụy Động
Đầu tháng mười, thời tiết thay đổi, đang rét ngọt bỗng đổ mưa từng trận nhỏ, lai rai suốt ngày. Đúng là “mưa rươi” như người xưa chiêm nghiệm : “Tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm”.
Đương đầu với mưa lạnh thấu xương, đoàn quân của Mã Kỳ ở mé sông Bùi ngong ngóng chờ ám hiệu xung phong từ canh một.
Hết canh tư, vẫn chưa thấy động tĩnh. Chúng uể oải, mong sớm được rút lui chờ bữa khác giao tranh.
Ở bến đò Mai Lĩnh, quân của Trần Hiệp mỏi mệt không kém. Chúng đã phải vội vã lên đường, vội vã sang đò và yên trí được nghỉ ngơi đến sáng.
Nhưng thình lình, vào giữa canh năm, tiếng súng hiệu nổ vang. Đúng lúc ít ai chờ đợi nhất.
Hai tiếng ngập ngừng 5 chập, rồi một tiếng sau cùng kéo dài như cương quyết xé không gian.
Đúng là súng hiệu nhà ! Họ Mã, Phương thúc quân tiến tới. Từ hai mặt, trên dưới bẩy vạn quân lăn xả vào chỗ không người.
Trong bóng tối mờ mờ, nghe như có tiếng người ngựa xô nhau chạy.
Ruộng chiêm chỗ thấp chỗ cao, chỗ lầy lội rút chân lên không được, chỗ lại trơn như đổ mỡ, chúng nhắm mắt đuổi bừa, ngã lên ngã xuống.
Chỉ có một người quất ngựa xông vào cõi u minh mà thấy hiển hiện trước mắt một trời rực rỡ. Đó chính là Trần Hiệp, linh hồn của giặc.
Bằng ảo giác của một tay nghiện ngập, y thấy trước một chiến tích lẫy lừng trong Minh sử, một chiến công oanh liệt của riêng y. Một đoàn tù binh đang được áp giải đến tận Bắc Kinh và một lễ tiến triều rất mực huy hoàng trong đó y hãnh diện nhận sắc phong Vương tước.
Hàng trăm tiếng nổ long trời bỗng kéo y ra khỏi cơn mê. Rồi tiếng quân reo, tiếng voi gầm, ngựa hí từ mạn Chúc Sơn và Phụng Hoàng đổ xuống.
Kinh hoàng, chúng lắng tai nghe. Có tiếng ào ào như thiên binh vạn mã đuổi theo sau bén gót.
Chết rồi ! Nước từ mặt tây bắc đổ xuống ầm ầm như thác. Bây giờ chúng mới nhớ đến cái cống Đồng Chữ ở gần bến sông Bùi.
Xa xa, mạn chính nam, tiếng gầm thét muôn phần ghê rợn của con sông Đáy, của con sông Bùi tắc nghẽn.
Từ Ngã ba Thá đổ lên, nước quay cuồng giận dữ, phá tung bờ, tràn vào cánh đồng chiêm mạnh như thác lũ.
Quân Minh, đông như kiến cỏ, dẫm đạp lên nhau trong bãi bùn mênh mông, không biết lối nào là lối sống vì bốn phương tám hướng đều có tiếng quân reo và tiếng trống trận thúc liên hồi.
Chốc chốc, tiếng trống lặng im trong khoảnh khắc nhường chỗ cho những tiếng loa :
- Vương Thông ! Trần Hiệp ! Muốn sống hàng đi !
- Phương Chính, Mã Kỳ ! Xuống ngựa, hàng đi !
- Chúng bay mắc mẹo quân sư ta rồi ! Muốn sống về với vợ con thì hàng ngay đi !
Mắc mẹo ! Viên Binh bộ thượng thư họ Trần của nhà Minh há đợi đến khi có tiếng loa nhắc mới biết mình mắc mẹo sao ?
Tuyệt đỉnh thông minh, y thấy ngay thế cờ của Nguyễn Trãi bày ra để hơn y một nước. Trong chớp mắt, y bừng tỉnh ngộ. Ôi thôi ! Ở đây, chẳng có Bình Định Vương nào hết. Tin giả trá chỉ là một miếng mồi thơm nhử cá.
Ở đây, chẳng có một tên quân, chẳng có một mống dân. Họ ngấm ngầm rút khỏi khu vực trống trơn bằng đường thủy.
Y đoán ra, sáng suốt như chính mắt y trông thấy, hoạt động của dân ba làng Lương Xá, Quảng Bị, Tụy Động dưới quyền chỉ huy của Trần Kiện trong mấy ngày đầu tháng. Nào đẵn tre, đan thật nhiều thuyền thúng làm phương tiện tới lui. Nào chuẩn bị bao cát cho thật nhiều để khi nghe tiếng súng hiệu thì ném xuống lấp khúc sông nơi Ngã ba Thá. Nào đồn quân ở phía bên kia đường cái với voi, với ngựa, để đổ xuống phá cống Đồng Chữ, chẹn đứt lối về của đoàn quân vừa mắc bẫy…
Y thầm nghĩ : Thế cờ hiểm hóc cách mấy cũng có thế phá giải. Trong chỗ mười phần chết, thế nào cũng còn một đường sống. Chịu khó tìm, ắt thấy.
Và y bình tĩnh tính toán : Vương Thông còn trong tay trên dưới ba vạn quân. So với lực lượng bao vây, số quân này không phải là ít. Họ Vương có thể đánh thốc qua sông, quét sạch con đường cái dài có mấy chục dặm từ bến đò Mai Lĩnh đến bến đò Tích Giang. Đại quân ta sẽ có lối về sau một hai ngày bị vây khốn là cùng…
Nếu chuyện ấy Vương Thông làm không nổi, ta sẽ tính sau… Sao sao cũng phải tìm ra lối thoát !...
Trời sáng rõ, họ Trần thản nhiên truyền lệnh cho ba quân lên những chỗ đất cao mà đóng.
Kéo vào các làng Quảng Bị, Tụy Động và Lương Xá ẩn mình sau những luỹ tre xanh, chúng ngạc nhiên thấy mấy trăm tên quân tinh nhuệ nằm chết ngổn ngang, rải rác. Thì ra bọn này đã xông vào đây từ lúc cuối canh năm và đã bị những toán dân quân ở lại giữ làng hạ sát trước khi rút cả ra sông.
Nước mỗi lúc một lên, sáu bẩy vạn quân ướt như chuột lột chen chúc ở trong ba làng như ở trên những hòn đảo chơ vơ.
Tụy Động là hòn đảo cao nhất và rộng nhất, nhưng không phải vì thế mà dễ sống nhất. Vì khắp cả ba nơi, không một hạt gạo, không một hạt thóc. Không cả đến một củ khoai, một dây sắn.
Một chiếc thuyền thúng cũng không tìm đâu ra nữa. Quân Minh phải liều chết bơi ra những chỗ khá sâu mong đoạt được một ít thuyền làm phương tiện di chuyển. Nhưng tên nào ra xa là tên ấy bị bắn chết tươi liền.
Hai ngày trôi qua, viện binh vẫn không thấy tới. Đôi khi lắng tai nghe thấy có tiếng trống thúc liên hồi chen lẫn với tiếng reo hò inh ỏi, song chỉ một lát sau lại thấy im lìm. Chắc Vương Thông độ quân sang sông không nổi rồi. Biết tính sao đây ?
Trong lúc cùng quẫn, Trần Hiệp ngồi thừ ra ngẫm nghĩ, bỗng giật mình nghe có người hiến kế :
- Tôi có mẹo nhỏ, nếu quan Tham tán dùng, may ra thoát được.
- À ! Anh Rực ! Mẹo thế nào, nói thử nghe coi !
Rực ghé miệng thì thầm, tay chõ về hướng đông làng Lương Xá. Họ Trần tươi hẳn nét mặt, vỗ vai y :
- Trời chưa nỡ tuyệt ta nên mới xui khiến cho anh ở bên cạnh lúc này… Ta sẽ không quên công lao khó nhọc của anh đâu.
Trần Hiệp nhớ lại việc đã qua như vừa xẩy ra trước mắt. Lúc sắp cất quân, Nguyễn Lịch bỗng nổi cơn đau bụng kinh niên. Lăn giường trên xuống giường dưới. Thiếu Lịch, họ Trần như gẫy một cánh tay. Chưa biết tính sao, bỗng thấy thầy trò Vương Thông tới. Rồi Đặng Rực tình nguyện đi theo họ Trần để làm tai mắt.
Mấy trăm quân còn mạnh khoẻ đẵn cấp tốc mấy chục cây tre và đan cấp tốc lấy mươi chiếc thuyền thúng.
Mỗi thuyền chở được hai người, một lo chèo chống và một lo cự địch.
Những tên đầu sỏ vào hạng nhất leo cả lên thuyền. Đặng Rực cưỡi một chiếc đi đầu, quanh co theo một con đường tắt. Chín chiếc khác nối đuôi theo, rời làng Lương Xá và lướt như bay về giòng sông Đáy ở hướng đông.
- Thế là thoát hiểm !
Chúng vỗ tay reo, sung sướng như đàn cá vừa quẫy mình ra khỏi chậu. Nhưng chợt tiếng trống trận nổi lên quyện theo ngọn gió bấc thổi ù ù tới. Từ thượng lưu sông Đáy, một đoàn mười chiếc thuyền thúng vùn vụt trên mặt nước nhanh như tên bắn.
Chúng đã bị đội tuần tiễu mặt Đông chặn đầu. Và chúng rụng rời cả chân tay khi nghe viên tướng cao lớn cầm siêu đao thét :
- Ta là Trần Kiện ở Lương Xá đây. Muốn sống, hàng đi !
Tiếng thét chưa dứt, thuyền đã lao tới sát thuyền có tên tướng mặt chuột mặc áo bào tía và đội mũ khảm ngọc long lanh.
Ánh đao loé lên phản chiếu ánh sáng mặt trời. Đầu Trần Hiệp được vớt bay sang thuyền Trần Kiện thật ngọt.
Trong thời gian chớp nhoáng ấy, một tướng Minh khác cũng bào tía xênh xang choáng tai khi nghe tiếng thét ở sát thuyền :
- Lý Hậu ở Chúc Sơn đây ! Chết này !
Lưỡi đoản đao phập xuống lúc âm vang của hai tiếng “Chết này” chưa dứt. Đầu nội quan Lý Lượng lăn lông lốc trong lòng thuyền.
Mũi đao của họ Trần, họ Lý chỉ về phía nào, thuyền chuyển vèo vèo sang phía ấy, nhanh như ngựa chạy trên đất bằng.
A ! Thằng giặc bán nước đây rồi !
Thanh siêu đao một lần nữa lại vung lên.
- Đừng giết, chú !
Tiếng la hốt hoảng của Hậu không đủ nhanh để kìm hãm làn đao thần tốc của họ Trần sà xuống vai Đặng Rực.
Hậu nhẩy ùm xuống nước vớt xác gã đồng hương. Chàng thở dài :
- Thôi thế cũng xong ! Bắt sống về cho thầy xử chỉ thêm đau lòng cho gia đình vô tội của y thôi.
Lớp kịch vừa rồi tuy diễn ra trong nháy mắt, cũng đủ cho những thuyền ngăn giặc phân tâm. Lợi dụng thời cơ, 17 tên còn lại hè nhau nhẩy xuống sông sau khi vội vàng thả hết giáp bạc, mũ đồng trôi lều bều trên mặt nước hay quấn quanh những chiếc thuyền vô chủ.
Trần Tráng và Toàn Trâu Nước đâu chịu buông tha. Như hai con rái cá tinh khôn, họ chỉ quẫy mình mấy cái là đã tóm được hai tên quăng lên cho người trên thuyền trói lại, cứ thế cho đến khi không còn một mống.
Trần Kiện cười bảo hai gã sau khi kiểm điểm và tra hỏi tù binh :
- Chúng bay bắt được 15 con cá nhưng vẫn để tuột mất hai con lươn. Hai thằng Mã Kỳ, Phương Chính lùi thoát được, kể cũng là những tay lặn khá !

***
Quân Minh bị bao vây như rắn mất đầu. Nhưng chúng rất đông, và từng đợt, từng đợt, chúng hè nhau chạy tìm đường sống.
Trong bốn năm ngày liền, không một tên nào trốn thoát. Những mũi tên đầy sinh lực của dân quân lúc nào cũng hờm sẵn để chờ đón những kẻ nào liều lĩnh nhất. Những đứa may mắn thoát được họa này lại không đủ sức vượt qua được hàng rào sắt thép trên đường cái quan hay giòng nước vô tình của hai con sông Bùi, sông Đáy.
Đến ngày thứ bẩy, quân Minh hoàn toàn kiệt quệ.
Cống Đồng Chữ được bít lại, những bao cát ở Ngã ba Thá được lấy đi. Mực nước quanh ba làng hạ xuống thật nhanh. Quân ta kéo vào, mặc sức chém giết những tên ương ngạnh còn cầm khí giới trong tay. Những tên sắp chết đói đầu hàng vô số.
Tính ra, trận Tụy Động năm Bính Ngọ (1) thật là một trận ly kỳ. Giặc có bẩy vạn quân và bốn tên đầu sỏ ghê gớm nhất. Ta chém được hai tên là Thượng thư Trần Hiệp và Nội quan Lý Lượng, và để sổng mất hai tên là Phương Chính, Mã Kỳ. Còn bẩy vạn quân thì chết hại đến hơn năm vạn, phần bị tên bắn, giáo đâm, phần giày xéo lẫn nhau mà chết, phần lại ngã xuống sông chết đuối hoặc đói lả gục xuống đám ruộng chiêm ngập nước để không bao giờ đứng lên được nữa.
Số còn lại cả thẩy hơn một vạn người đều bị bắt sống, không một tên nào lọt lưới.
Các đồ đạc khí giới, quân ta thâu được không biết bao nhiêu mà kể.
______________
(1) Bính Ngọ : 1426.
Chương 14. Chim sơn ca lại hót (HẾT)
Trong bữa tiệc khao quân tại Chúc Sơn, Mai khoe với thầy :
- Thưa cụ, nếu không nhờ có anh Hậu sang Lương Xá tiếp tay với chú Trần canh phòng mé Đông, không khéo tụi đầu sỏ quân Minh chạy thoát hết.
- Ừ, ông Trần có kể chuyện ấy cho thầy nghe rồi. Chả là vì ngày trước thằng Rực hay lân la sang bên ấy chơi nên các đường ngang ngõ tắt nó thông thuộc hết.
- Vâng. Mé đông làng Lương Xá ruộng sâu, nước cao và gai góc chằng chịt nên ít đứa dám liều mạng chạy về phía ấy.
Hậu nối lời :
- Chỉ có thằng Rực mới nghĩ ra mẹo chạy luồn ra sông Đáy bằng con lạch nhỏ. Đường bí mật này đâu có ai dùng mà biết đến. Chỉ có tụi trẻ con hay nô đùa bơi lội mới khám phá ra mà thôi.
Cụ Cử thở dài than :
- Thằng Rực dù sao trước kia cũng là học trò thầy. Nó theo giặc làm xằng, thầy cũng mang nhục lây… Vì nó, cuộc vui hôm nay không được trọn.
Mai tìm lời an ủi :
- Nhưng được cái may là cụ không cần phải đưa vụ ông Hai Quang tố cáo hôm nọ ra xử lại mà anh Hậu và anh Lịch tự nhiên được minh oan.
Hậu vội trình tiếp :
- Anh Lịch có dặn con trình với cụ đừng khơi vụ ấy ra làm chi nữa vì anh ấy muốn đóng trọn vai trò của mình cho đến khi thành Đông Quan được hạ xong.
Nghe Hậu nói, Mai chợt nhớ đến một câu dặn dò của Lịch chiều qua khi chàng ghé vội bến đò Mai Lĩnh trong lốt áo nhà buôn :
- Trước khi xuôi Nam , quân sư bảo anh phải giữ kín hành tung cả với những người thân thiết nhất. Quân Minh chưa rút hết về Tầu thì anh còn phải ở lại Đông Quan, quân sư còn có việc dùng đến.
“Như vậy là anh chưa có thể về làng với em được.
“Những khi nhớ nhau, em cứ hát lên cho đỡ nhớ. Còn anh, anh sẽ gửi lòng vào tiếng đàn. Tiếng đàn, tiếng hát sẽ cùng theo gió lên cung trăng…
Cụ Cử vuốt râu, ra chiều toại ý :
- Được, thầy xếp chuyện cũ ấy lại. Chắc ông Hai Quang và thằng Quý còn mừng nữa là đằng khác vì họ đã thừa hiểu tâm địa của thằng Rực và tội lỗi của nó rồi.
“À, thầy nghe nói thằng Rực là chân tay của Vương Thông. Sao trận Tụy Động vừa rồi nó lại đi theo Trần Hiệp?
Hậu cười thưa :
- Chúng nó mắc mưu anh Lịch hết. Sau khi dụ cho chúng yên trí cất quân, anh ấy liền giả vờ đau nặng không đi theo Trần Hiệp được. Trái lại, thằng Rực chắc mẩm quân Minh sẽ thắng mười mươi nên tình nguyện đi thay để thừa dịp lập công.
Cụ Cử đắc chí cười ha hả :
- Thì ra trước khi mắc kế của ta, chúng vẫn đinh ninh ta mắc kế của chúng !
- Vâng. Chỉ tội cho tên Trần Hiệp chưa than thở được câu nào đã bị rơi đầu. Bác Trần Lương Xá vớt siêu đao hay quá.
- Chuyện ! Đường đao gia truyền của Đức Hưng Đạo Đại Vương để lại mà !
Dạo này, Mai đã hết vẻ đăm chiêu mặc dầu anh chàng Lịch chưa có thể trở về Chúc Sơn sum họp với gia đình và gặp mặt người yêu.
Nàng lại trở thành cô gái tươi tắn nhất làng như trước. Đôi mắt thêm long lanh, nụ cười thêm rực rỡ, và tiếng hát dịu dàng lại văng vẳng trên sông.
Nàng ửng hồng đôi má, vuốt làn tóc mai gió quạt rối bời khi các bạn gái quá giang cười cợt :
- Sướng nhé ! Chim Sơn Ca lại hót véo von rồi !
Những đêm có trăng, nếu thuận gió, mấy anh dân quân đi tuần dọc hai bên bờ đê có thể nhận ra những tiếng hát thiết tha chờn vờn trên sông :

Lòng anh như nước sông Hồng
Nhớ em theo xuống một vòng Chúc Sơn.
Tim em sạch hết giận hờn,
Dưới trăng hoà nhịp tiếng đờn Đông Quan…



CHÂN PHƯƠNG
Tháng 10 1973
__________________________

TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim
- Bài “Nguyễn Trãi với trận Tụy Động” của CAO TRUNG đăng trong Giai Phẩm Khoa Học Huyền Bí số 1 – 1 (tháng 9 – 1973)
 
Sửa lần cuối:

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Cô giáo Thu Trang
Tủ sách Hoa Đỏ
Tác giả: HẢI VÂN
Sưu tầm & Scan: THU HỒ
Đánh máy: Ginger
JAFN863wc1F331R-aG5E3cAgN3M24_mJ9lLw6KEwHt0iGVXqTNx2eZEjgvgrQW4nUFjbtCgnbuhfge9HVgG1cJtwvvBHi5gItbsKs__NC5M3LKFf8AnNSDa0DPVd9XQYQVuD4JjW1Dv47sVyxJ3bpWc9-tKros6s_9qxMg3oRol7BmTWaJBAsLAUNy1w0ghYcPra73D75HHw_hVoeG7ozGUC525bIap5hpWLeqw05JvlNIvZK8JLL9uc6WrkU_hiXS1rZJZ9uY1_Sg7ahELGCFCvagZGTBViV-LqtGPfNpHHX4Kt2yqCjP6m1T3antUYYbW1ZiIod4BMlarXdYLNNKng1G4QZRrTIevIs7RrB7tG5LEkgsy9sYI1rBOS22B2akOJt2GQ6Ty2UXbh3h7kyAnOaxB6w7yllqN6toYLNjh-7BGn3SrA1US5FTpcKRSgwGrYZSnnmiSEf_e80ekzk_tDsZMD9QdYvq0yLwoepUBxKgnQgeGUE5uA22dxSYRJxZYXFC81fGAYq_tODAGQPpA-busqnwTiq0IGfDgJWCFaljvN5r8-ivL31Sb4_bA7XG41rTY3CXisSrW2leu42mmEsnODfmwSfk72Yfx2fJkreUQc3DX8kg=w470-h625-no


Chương 1.

- Đào ơi! Đã sửa soạn xong chưa thế! Mười phút nữa ta đi nhé.
- Thưa má vâng ạ. Con sẽ đợi má ngoài này ạ.
Đào và 3 em là Minh, Loan và Quang đang ngồi chơi ngoài vườn tại biệt thự Thu- Phong của ba má thuộc vùng ngoại ô Sài Gòn.
- Chị sắp đi đâu với má thế? - Quang hỏi.
Minh lầu bầu
- Chị đi đón “cái cô giáo” ý chứ đi đâu!
- Gớm, làm gì mà như nói đến ông ngáo ộp không bằng!
- Thôi chị đừng chế nhạo em nữa. Chị thì có cô giáo là phải rồi, chứ em là con trai…
- Chuyện dớ dẩn - Đào ngắt - Trong các trường nam sinh bây giờ thiếu gì những nữ giáo sư. Thôi em yên chí, cô giáo ấy chắc chắn giỏi hơn em nhiều chứ bộ.
- Có lẽ, nhưng mà rồi lúc nào cô ấy cũng kiểm soát bọn mình thì khó chịu lắm. Bác Hà không đủ trông nom bọn mình rồi hay sao?
- À mà sao Bác Hà lại đến đây thế?- Loan và Quang đồng thanh hỏi- Ai cần đến Bác?
Đào lừ mắt nhìn hai đứa nhỏ: chúng mới năm bẩy tuổi đầu thì sao được phép phát biểu ý kiến sống sượng như thế?
- Bác đến đay là do má yêu cầu đó chứ- Đào đáp- và chúng ta chẳng có quyền kêu nài gì hết
- Chà- Minh chế nhạo- Chưa bao giờ thấy chị phục tùng như thế!
- Còn em thì chưa bao giờ thấy em lẩm cẩm đến thế! Nhưng mà có gì là khó hiểu: Ba thì sắp xuất ngoại để tham dự một cuộc hội thảo kỹ thuật tại Nhật Bản. Ba sẽ phải vắng nhà trong hai tháng và má sẽ đi cùng. Vì vậy, ba má đã nhờ Bác Hà tới đây coi nhà giúp và tuyển một cô giáo để dạy chúng ta học hành.
- Nhưng mà khó chịu lắm!- Minh bướng bỉnh đáp- Tất cả những thói quen của tụi mình sẽ phải thay đổi hết.
- Trời ơi! Tưởng là cái gì chứ!- Đào cười đáp- Dù sao em cũng phải hiểu rằng Ba được mời đi tham dự cuộc hội thảo đó là một niềm vinh dự lắm đấy. Thế em muốn Ba trả lời người ta rằng: “Thưa quý ngài, tôi rất tiếc vì con trai tôi không muốn thay đổi thói quen của nó, nên tôi xin kiếu” hay sao?
- Gớm! Bà chị ác quá!- Minh lầu bầu.
Bà Hải vừa ở trong nhà đi ra làm ngưng câu chuyện của 4 chị em. Bà rất trẻ trung và vui tính, vừa tỏ ra là một bà mẹ dịu hiền, một nội tướng tài ba, một cộng sự viên đắc lực của chồng. Chưa bao giờ những đứa con bị xa cách bà mẹ nên cuộc viễn du sắp tới làm chúng xao xuyến vô cùng.
Đứng nhìn bà mẹ lái xe ra cổng, cậu cũng hiểu như chị cậu rằng cuộc xuất ngoại của ba má rất hệ trọng cho tương lai của ba cậu, và cậu cũng nhận ra thái độ ương gàn của cậu. Nhưng vấn đề cô giáo sắp tới làm cậu khó chịu chỉ là một cái cớ: Thực ra cậu băn khoăn vì một lí do khác hẳn.
Thời gian xuất ngoại hai tháng của kỹ sư Hải sẽ làm chậm trể việc áp dụng điều phát minh của ông mà báo chí đã nói tới nhưng chưa ai biết rõ chi tiết: kỹ sư Hải sau nhiều năm nghiên cứu, đã khám phá ra một công thức thuốc nhuộm có thể cách mạng hẳn kỹ nghệ vải vóc. Những kỹ thuật gia khác có thể lợi dụng 2 tháng để tìm tòi ra công thức theo những tài liệu thâu lượm được chăng? Kỹ sư Hải chưa có thời giờ để xin cấp bằng phát minh vì cuộc viễn du của ông quá gấp rút. Và Minh cảm thấy trong dạ quá lo âu.
Nhưng cậu không dám giải bày tâm sự đó với ai cả. Mới mười ba tuổi đầu, cậu thấy mình còn quá nhỏ để phát biểu ý kiến về công việc của một người tài ba như thân phụ cậu. Bởi vậy, để đỡ day dứt trong lòng, cậu bèn chọn ngay “cái cô giáo” làm đối tượng kêu ca, rồi dần dần cậu thấy ghét cay ghét đắng cô giáo thật.
Mặc dầu có lời giới thiệu nồng nhiệt về cô giáo của một người quen gia đình ông bà Hải, Minh tưởng tượng ra một hình ảnh không mấy tốt đẹp. Nhưng khi cậu thấy cô giáo từ trên xe bước xuống và tiến tới lũ học trò, bên cạnh chị Đào hớn hở thì cậu nhận thấy những dự đoán của mình đã sai bét. Dáng người mảnh mai, cô giáo Thu Trang có đôi mắt đen láy rất dịu hiền, với nụ cười bẽn lẽn, bộ tóc cắt gọn. Trông cô rất trẻ, so với Đào ở tuổi mười bốn, cô chỉ lớn hơn chút đỉnh.
- Giáo sư tương lai kia hả?- Minh ác cảm tự nhủ- Trông như một nữ sinh non choẹt!
Tối hôm đó, khi khách lạ đã về phòng, gia đình kỹ sư Hải ngồi bàn tán rất hào hứng. Đào thấy cô giáo “dễ thương quá!”, bà mẹ thì khen cô rất tư cách, ông bố thấy cô rất thông minh. Còn bà Hà, người chị họ kỹ sư Hải lớn tuổi, tận tâm nhưng rất khó tính thì hết lời khen ngợi cô giáo và đó là cuộc chiến thắng vĩ đại của cô.
- Đó, anh Minh coi!- Loan ngây thơ nói- Cô giáo dễ thương quá đi! Vậy mà anh dám bảo là cô sẽ hành tụi mình.
Minh đỏ mặt lừ mát nhìn em, cậu tức tối cãi lại:
- Có gì chứng tỏ là cô sẽ không hành tụi mình?
Ông Hải trừng mắt, bà vợ vội can thiệp:
- Này các con- bà mẹ dịu dàng nói- các con phải rất tử tế với cô giáo Thu Trang nhé. Đặt địa vị các con vào cô, cô mới vào một gia đình xa lạ, xa quê nhà, xa bà mẹ hiền, chắc cô rất hoang mang! Các con phải giúp cô quen dần mới nếp sống mới, các con phải chiều chuộng, lễ phép thân mật với cô, nói tóm lại, các con phải ăn ở với cô như các con mong muốn người khác đối đãi mình khi mình phải ở vào cùng trường hợp đó.
- Thưa má, cô đau khổ thật ạ?- Loan cảm động hỏi.
- Má hy vọng cô sẽ không thấy đau khổ, nhưng chắc cô hơi buồn: cô đã phải xa cách bà mẹ thương yêu…
- Các con phải chăm chỉ học hành- Ông Hải nói tiếp- như thế cô sẽ được vui lòng. Và trong bất cứ trường hợp nào, các con phải nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến mình: Đó là hai điều mà ba dặn các con trước khi đi. Nếu các con hứa làm đúng như thế, ba má sẽ được yên tâm nơi ngoại quốc. Ba má có thể tin tưởng như thế không?
- Thưa ba, các con xin hứa ạ!- Bốn chị em đồng thanh đáp.

Chương 2.

Một tuần lễ trôi qua kể từ ngày ông bà Hải xuất ngoại. Bọn trẻ rất chăm chỉ học hành và ngoan ngoãn nên cô giáo rất vui lòng. Tối hôm đó, trong khi bà Hà ngồi đọc báo, cô giáo soạn bài vở, Minh làm toán và hai đứa nhỏ ngồi chơi cờ, thì Đào ngồi viết một lá thư dài cho má để kể tin tức ở nhà: Bà Hà không bao giờ gắt gỏng, cả với chị Sáu nấu ăn và anh Sáu làm vườn nữa. Loan và Quang thì rất ngoan ngoãn và Minh, dù một đôi khi cũng có vẻ ưu tư, cũng rất dễ chịu đối với cô giáo.
Tất cả tình hình khả quan đó là do công lao của cô giáo Thu Trang. Cô không nói lớn, nhưng chính sự dịu dàng vô bờ bến của cô đã làm ai cũng phải bắt chước! Lòng kiên nhẫn của cô thật vô biên: cô mỉm cười nghe chuyên bi bô của hai đứa nhỏ, những câu chuyện cà kê của chị Sáu và rất lễ phép nghe theo ý kiến của bà Hà. Đối với Đào và Minh, cô là một người bạn lớn, hơn là một giáo sư; cô cho các em đọc bài, dĩ nhiên, nhưng dưới hình thức của một cuộc đối thoại thân mật và hấp dẫn, và các học trò của cô rất ưa thích phương pháp khoa học đó.
Nhưng chẳng may mấy ngày trước khi đến đây, cô bị sái tay nên không thể chơi dương cầm cho bọn học trò thưởng thức, cô cũng không dùng được bàn tay mặt để viết thư nên phải đánh máy thư bằng chiếc máy chữ xách tay mà cô mang theo trong hành lí: Cảnh tượng này làm Loan và Quang phải say mê.
Lúc đó đã gần mười giờ đêm, cô giáo giục hai đứa nhỏ đi ngủ. Bỗng nhiên, tiếng chuông réo lên ngoài hành lang
- Chuyện chi vậy?- Bà Hà chau mày hỏi
- Thưa bác, chắc có người kêu cổng ạ.
Chị Sáu hiện ra nét mặt dáo dác báo tin:
- Thưa bà, có người kêu cổng ạ.
- Ra mở cổng đi chị Sáu- Đào bảo.
- Thưa cô, mở cổng lúc mười giờ đêm ạ?
Minh hơi biến sắc lẩm bẩm:
- Hay là có điện tín
Chuông lại reo vang lần nữa. Đào đứng dậy nói:
- Để cháu ra xem ai.
- Đào, cháu đừng có ra- bà Hà ngăn lại
- Hay một tên trộm đấy- Quang nói.
- Ngớ ngẩn thế, trộm mà lại báo trước bằng chuông- Minh nhún vai nói- bác để cháu với chị Đào ra xem ai vậy.
- Không được- bà Hà nhắc lại
- Thưa bà cứ yên tâm- cô giáo Thu Trang bình tĩnh nói- để cháu đi ra cùng hai em.
Nói đoạn cô tiến ra cửa, Đào và Minh bước theo sau, tay bụm miệng cười. Thật là một sự lạ khi cô giáo dịu dàng đó lại có một uy quyền như vậy! Không những bà Hà không ngăn cản mà bà còn bước theo bọn trẻ can đảm dám ra đương đầu với người lạ mặt đáng sợ kia! Dĩ nhiên hai đứa nhỏ cũng theo ra, cả chị Sáu nữa, trong khi tiếng chuông vẫn réo lên một cách tuyệt vọng.
Khi ra tới cổng, mọi người trông thấy một chiếc xe hơi đậu bên lề, đèn vẫn bật sáng. Một người đàn ông đang đứng đợi, cất tiếng hỏi cô giáo:
- Thưa cô … tôi xin lỗi đã làm phiền … vì một tai nạn đã xảy ra!
Ông khách người cao, trông rất chững chạc, mặt mày nhẵn nhụi với chiếc mũi dọc dừa và chiếc cằm cương quyết. Con “người bảnh trai”, Minh tự nghĩ
Rất vắn tắt, “người bảnh trai” giải thích
- Cách đây vài thước, một thiếu niên đã nhảy vào trước xe tôi. Rất may, tôi có thắng tốt nên không chẹt phải anh ta, nhưng anh ta đã đụng mạnh vào cản xe và ngất đi. Tôi thấy trong nhà có ánh đèn nên đường đột gọi cổng để nhờ cấp cứu gấp.
Đào mở cổng và bước ra gần thiếu niên đang nằm bất động cạnh chiếc xe. Chị Sáu, cô giáo và ông khách lạ xúm vào đỡ nạn nhân lên và khiêng vào trong biệt thự, đặt nằm trên chiếc ghế ở phòng khách. Vóc người tầm thước, trạc 17 hay 18 tuổi, nạn nhân ăn bận sạch sẽ nhưng không chải chuốt
- Cậu ta vẫn thở- cô giáo nói- Nạn nhân hình như không mang thương tích gì, quần áo cũng không bị rách
- Chắc là đầu cậu ta bị đụng mạnh như tôi thấy ban nãy- Ông khách nói
- Em đi lấy cho cô chai rượu mạnh đi- cô giáo bảo Đào.
Cô đã tỏ ra rất tháo vát và nhanh trí trong trường hợp bất ngờ này; nhờ sự chữa chạy của cô, thiếu niên mở mắt ngơ ngác nhìn chung quanh và mở miệng muốn nói
- Cậu chưa nên nói năng gì vội!- Cô giáo dịu dàng khuyên- Cậu hãy uống chút rượu này đi sẽ thấy khỏe ngay.
Rồi cô đưa ly rượu mạnh lên môi nạn nhân
- Thế nào! Cậu thấy khá rồi chứ?- Cô mỉm cười hỏi
Không thấy nạn nhân trả lời, cô bèn nhắc lại câu hỏi nhưng cũng vô hiệu. Chủ nhân chiếc xe tỏ vẻ lo lắng:
- Em thấy thế nào? Có đau không?
Thiếu niên ra vẻ hiểu câu hỏi, lẩm bẩm đáp:
- Thưa không, tôi không đau nhưng tôi thấy đầu nặng.
Hắn nhìn ông khách với vẻ mặt ngớ ngẩn rồi lần lượt nhìn mọi người xung quanh, rồi mi mắt hắn bỗng khép lại.
- Trời ơi!- Bà Hà thốt lên- Cậu ta lại ngất đi kìa!
- Thưa bà, không đâu ạ, chắc cậu ta bị đụng mạnh- cô giáo nói- Cháu hy vọng cậu ta không bị nội thương nhưng có lẽ nên đưa cậu ta vào bệnh viện.
- Như thế có điều bất trắc không ạ? Vì như cô nói đó, nạn nhân có thể bị thương nặng hơn là ta thấy- ông khách nói- Chung quanh đây có vị bác sĩ nào không ạ?
- Một bác sĩ? Trời ơi! Vấn đề này thật là rắc rối!- Bà Hà than- Giờ này thì làm sao mời được bác sĩ?
- Thưa bác được ạ- Đào nói- Để cháu kêu điện thoại cho bác sĩ Khoa ạ.
Cô bé ra khỏi phòng, một lát sau cô trở vào báo tin:
- Bác sĩ tới ngay bây giờ ạ!
Bà Hà ra vẻ không bằng lòng
- Sao lại phiền ông ấy làm gì?- Bà nói với vẻ bực tức. Tôi nghĩ rằng ông …
Bà đang ngập ngừng thì ông khách vội đỡ lời
- Chết, tôi xin lỗi bà, chưa kịp tự giới thiệu. Tôi là Luận, Kỹ nghệ gia ở Sài Gòn.
- Tôi muốn rằng ông Luận đưa ngay cậu này vô bệnh viện để người ta chữa chạy cho.
- Thưa bác, sợ bệnh tình không cho phép mang đi- Đào nói
- Sao lại không? Bệnh nhân trông mạnh khỏe đó mà …
Ông Luận nói chen vào
- Thưa bà, tôi rất ân hận đã gây phiền phức cho quý xá. Xin bà tin rằng tôi rất muốn rời khỏi nơi đây cũng như đem nạn nhân đi. Nhưng tôi tưởng cô cháu gái đã mời bác sĩ tới đây là rất phải: bà sẽ được yên lòng hơn khi biết chắc rằng có thể mang bệnh nhân đi mà không có gì nguy hiểm
- Nhưng cậu này là ai chứ?- Bà Hà hỏi, giọng hơi nguôi nguôi.
Bệnh nhân ra chiều hiểu biết những điều xảy ra chung quanh. Hắn mở mắt và có vẻ đang nghe cuộc đối thoại. Cô giáo đã cùng hai đứa nhỏ lên lầu. Ông Luận bèn hỏi nạn nhân:
- Tên anh là gì?
- Nam …
- Nam? Cái gì Nam?
- Nam … Nam …
Thiếu niên chau mày, cúi đầu suy nghĩ rồi ngẩng đầu lên
- Tôi không rõ! Hắn đáp nhỏ nhỏ. Nam … chỉ có vậy!
Bà Hà như hết kiên nhẫn gắt lên
- Anh này muồn giỡn chúng ta phải không? Họ tên mình mà không biết thì lạ kỳ thật.
- Chắc anh ấy phải có giấy tờ. Minh nhắc, anh có căn cước không anh Nam?
Câu hỏi này hình như không gây được suy luận gì trong đầu hắn
- Lục trong túi hắn xem nào!- Bà Hà quyết định
Đào muốn can ngăn điều đó vì cô cho rằng không nên làm mệt một bệnh nhân mới hồi tỉnh, nhưng bà Hà không chịu: Bà nhìn Nam với vẻ nghi ngờ hơn. Theo lời yêu cầu của bà, ông Luận lục soát các túi của nạn nhân: vô ích, ngoài một chiếc khăn tay và một cái bóp cũ đựng hai trăm bạc. Nam không có một giấy tờ nào ghi rõ tên và địa chỉ. Bà Hà phát khùng
- Thật là khó tin. Người này từ đâu đến? Hắn làm gì ngoài đường giờ này? Biết đâu chẳng phải là một tên gian phi nguy hiểm?
Ông Luận nhận xét rằng một tên gian phi thường phải mang khí giới trong người
- Thế ngộ hắn đã vứt đi sau khi thi hành xong thủ đoạn rồi thì sao?- Bà Hà hỏi.
- Nếu vậy thì hắn phải có hơn hai trăm bạc trong người …
- Nhưng mà …
Chợt chị Sáu mở cửa để bác sĩ Khoa vào. Đào và Minh thở ra nhẹ nhõm: Hai chị em đã nhớ lời dặn của ông Hải: “Nên đặt các con vào địa vị của người khác và đối đãi họ như các con muốn người ta đối đãi với mình”. Chúng tưởng tượng chính mình được đưa vào một nhà lạ, sau một tai nạn bất ngờ, và bị người ta nghi mình là gian phi … chúng thấy run người lên! Nam không thẻ căn cước, phải …
- Mà chính ta cũng làm gì có thẻ căn cước!- Đào tự nghĩ- Và nhỡ quên mất tên họ của mình sau khi vừa bị đụng xe gần chết, thì cũng là sự thường, và khổ tâm nữa!
Nam để bác sĩ khám nghiệm và nắn xương cốt, Bác sĩ Khoa ngẩng lên mỉm cười:
- Không bị gãy chỗ nào cả. Đã bị đụng mạnh, vài chỗ bầm tím thế thôi. Tôi đã bắt bệnh nhân ngủ luôn 12 tiếng sẽ khỏe
- Như vậy là có thể đưa hắn vào bệnh viện rồi!- Bà Hà kết luận
- Thưa bà, đưa vào bệnh viện bây giờ? Trời ơi, để làm chi? Không ai người ta cho nhập viện một đứa trẻ bầm tím vài chỗ! Vả lại, bữa nay hắn đã bị xúc động nhiều rồi, hắn cần được nghỉ ngơi ngay bây giờ. Chắc bà có một chiếc giường cho hắn ngủ đêm nay chứ ạ?
- Thưa bác sĩ, chúng tôi không thể chứa chấp một kẻ lạ mặt!- Bà Hà đáp- Chúng tôi không biết hắn tên họ là gì, hắn từ chối không cho một tài liệu gì cả và hắn không có căn cước
- À, bây giờ thằng nhỏ hãy còn bị khủng hoảng tinh thần vì vụ tai nạn đó- Bác sĩ vui vẻ đáp- Mai hắn sẽ nói tất cả mọi điều bà muốn biết.
- Thế ngộ hắn cứ nhất định câm như hến thì sao?
- Khi đó chúng tôi sẽ có biện pháp,thưa bà.
Đoạn bác sĩ quay lại hai đứa nhỏ. Ông biết rõ chúng vì đã chữa bệnh nhiều lần và ông biết có thể tin tưởng được
- Cháu Đào, cháu có thể thu xếp cho thằng nhỏ này tạm trú một đêm không?
Cô bé gật đầu. Chị Sáu đang đứng ngoài ngưỡng cửa vội lên tiếng:
- Thưa có một căn phòng cạnh nhà bếp. Cháu sẽ cho anh này nghỉ trong đó và cháu trông nom giùm, giờ này không nên đuổi người ta ra đường tội nghiệp
- Mai tôi sẽ trở lại- ông Luận hứa- Thưa bà, tôi thành thực cảm ơn sự giúp đỡ của bà
Chị Sáu đi sửa soạn một căn phòng, một lát sau quay lại cùng với anh Sáu mắt nhắm mắt mở. Khi họ vào tới phòng khách, bà Hà và cô giáo ra hiệu họ làm se sẽ vì Nam đang ngủ. Anh Sáu nhè nhẹ bế nạn nhân mang đi.
- Tội nghiệp thằng nhỏ!- Bà Hà xúc động lẩm bẩm- Suýt nữa thì hắn bị cán chết còn đâu! Coi bộ hắn hiền lành quá.
- May quá- Đào tự nghĩ- lòng từ thiện của bác ta đã mạnh hơn!
Sáng hôm sau, cô bé xuống tìm Nam. Cô thấy hắn đi bách bộ ngoài vườn. Hắn dừng lại trước căn nhà mà ông Hải đã cho sửa thành phòng thí nghiệm và lơ đãng nhìn, trong khi Đào đi tới
- Chào anh Nam!- Cô vui vẻ lên tiếng- Sáng nay anh có khỏe không?
Cô có cảm tưởng anh ta không nhận ra cô là ai, mắt nhìn của anh ta tỏ vẻ ngạc nhiên, sợ sệt, và trong vài giây cô bé thấy hoảng sợ: người kia có điên không thế?
- Tối qua anh bị tai nạn- cô dịu dàng nói- Anh bị đụng cái đầu vào cản xe, anh thấy có đau không?
- Không ạ, Đầu tôi nó kỳ lạ lắm … nặng …Không, không nặng, trống rỗng thì phải hơn. Lạ … lắm
Hắn ngập ngừng tìm chữ và nói năng rất khó khăn. Đào bèn kể lại chi tiết chuyện tối qua. Nhưng không thấy rõ Nam có nhớ lại được hay không: mắt anh ta nhìn cô bé với vẻ lo âu
- Bác Hà tôi đã hỏi họ tên anh- Đào tiếp- Nhưng lúc đó anh không nhớ ra. Bây giờ anh đã nhớ lại chưa, và địa chỉ của anh ở đâu?
Nam rờ tay lên trán đáp:
- Tôi không biết
- Anh thử cố nhớ lại xem- Đào khẩn khoản- Sáng nay chắc bà Hà sẽ hỏi, anh phải trả lời vài câu mới được.
Thiếu niên nhún vai với vẻ thất vọng:
- Tôi biết trả lời cái gì? Tôi chả có gì mà nói cả
- Nhưng mà lạ thật! Anh đã quên tất cả rồi hay sao? Thế anh có nhớ gì về tối hôm qua không?
- Có … Tôi nhớ lờ mờ. Lúc ấy tôi quá mệt
- Trước đó anh từ đâu đến? Ba má anh hiện giờ ở đâu?
- Tôi không biết … Từ lúc ngủ dậy tới giờ tôi vẫn cố gắng nhớ lại.
- Thế anh không nhớ được gì sao?
Thiếu niên thở dài:
- Hình như trong đầu tôi có một lỗ trống lớn. Tôi không rõ tôi bị đau làm sao …
Đào từ giã Nam trong lòng ái ngại. Sáng hôm đó, bác sĩ Khoa và ông Luận trở lại biệt thự, gặp bà Hà và Nam trong phòng khách một hồi lâu. Đào lo lắng đứng đợi bên ngoài. Khi hai ông khách ra, cô bé vội chạy tới hỏi:
- Thưa hai ông, tình hình ra sao ạ?
- Đây là một trường hợp mất trí nhớ- Bác sĩ Khoa đáp- Chúng tôi đặt hết câu hỏi này đến câu hỏi khác nhưng Nam chẳng nhớ gì cả. Cái đụng mạnh đã làm hắn quên hết.
- Tội nghiệp- Đào lẩm bẩm- Rồi anh ta sẽ ra sao?
- Tôi cũng tự hỏi như vậy!- Ông Luận đáp- Bác sĩ không muốn cho Nam và bệnh viện, ông xét rằng bầu không khí yên tĩnh và thân ái sẽ làm cho hắn chóng bình phục hơn mọi cách chữa chạy khác. Nhưng làm thế nào bây giờ?
- Phải cho hắn làm việc- bác sĩ thêm- Ở cái tuổi đó, nếu phải ngồi không và chịu đựng, hắn sẽ bị chìm đắm trong nỗi tuyệt vọng.
Theo đề nghị của Đào- bà Hà chấp thuận để Đào viết thư sang xin chỉ thị của ông bà Hải. Trong khi chờ đợi, Nam được tạm lưu lại biệt thự Thu – Phong để giúp đỡ anh Sáu trong công việc vườn tược.
Minh tán đồng ý kiến của Đào, còn cô giáo Thu Trang thì có vẻ dè dặt.
- Các em nghĩ phải- cô nói- thiếu niên kia rất đáng thương, nhưng có một người lạ ở trong nhà mình là một điều bất cẩn
- Thưa cô, nhưng hắt hủi người ta không tiện.
- Đành vậy. Mong rằng lòng từ thiện của các em sẽ không mang lại những điều rắc rối sau này.
Một tuần sau đã có thư phúc đáp của ông Hải. Ông cho phép Nam lưu lại trong biệt thự. Đợi đến khi ông về sẽ giải quyết. Như vậy là Nam được ở thiệt thọ trong căn phòng kế cận phòng anh chị Sáu. Hắn không biết làm thế nào để cám ơn những vị ân nhân của hắn và cắm cúi làm việc suốt ngày ngoài vườn hoặc trong bếp, giúp chị Sáu nhặt rau, rửa chén đĩa.
Nhưng trí nhớ của hắn vẫn không trở lại. Mọi người cũng thôi không hỏi han gì đến hắn nữa, vì điều này vừa vô ích vừa làm hắn buồn rầu và thất vọng.
Ông Luận thường lại thăm hắn luôn và mang cho hắn quần áo và các đồ lặt vặt cần thiết. Đào và Minh rất quý mến ông Kỹ - Nghệ - Gia. Mặt khác ông cũng để công tìm kiếm gia đình Nam, nhưng chẳng có quận cảnh sát hay đài phát thanh nào nghe thấy tiếng người ta tìm kiếm một thiếu niên giống Nam cả.

Chương 3.
Ba tuần lễ trôi qua, một buổi sáng kia, Nam tới gõ cửa phòng học, trong đó Đào và Minh đang làm việc với cô giáoThu Trang
- Thưa cô, có ông nào hỏi cô ạ!
Cô giáo ngạc nhiên ngẩn lên hỏi:
- Một ông, hả anh Nam? Ông ấy hỏi tôi à, có chắc không?
- Thưa cô chắc. Ông ta nói tên là Du
Cô giáo thoáng đỏ mặt đứng lên. Đào thấy hai tay cô run rẩy:
- À phải rồi … cô nói. Đó là một người anh họ. Thỉnh thoảng anh lên Sài Gòn và có hứa tới đây thăm tôi. Tôi ra chào anh rồi tôi trở lại đây ngay. Tôi không có thời giờ tiếp lâu.
Đào nói:
- Thưa cô, cô mời ông ta ở lại dùng cơm ạ. Để ông ta đi ngay như thế thì hơi bất lịch sự
- Nhưng cô thấy bất tiện
- Có sao đâu ạ, thưa cô! Hay cô để em ra mời ông ta ạ.
Cô giáo nhìn Đào với đôi mắt trìu mển:
- Em ngoan quá … em luôn muốn làm cho người khác vui lòng! Thôi được em đi cùng cô.
Cô bé khoác tay cô giáo và hai người bước ra, có Nam theo sau. Vài phút sau, Đào trở vào phòng học
- Thế nào, chị mời ông ta rồi chứ?- Minh hỏi- Chị có thưa với bác và cho chị Sáu biết chưa?
- Rồi, bác Hà đang ở trong phòng khách với ông anh họ cô giáo, hai người nói chuyện với nhau như đôi bạn cố tri ấy
- Ông anh họ trông người ra sao thế chị?
- Ông ta khổ người dong dỏng cao, nước da ngăm đen. Ông ta không ngớt lời khen ngợi đủ mọi thứ trong nhà. Bác Hà có vẻ ưng ý lắm
- Chị mời ông ta ăn cơm, chắc ông ta phải khen chị rồi còn gì. Những người lớn sao mà hay khen bừa bãi thế! Còn cô giáo! Thái độ của cô thế nào?
- Chị có cảm tưởng cô không ưa gì ông anh họ lắm. Cô dịu dàng, kín đáo. Ông kia đâu có hợp? Thôi lát nữa em sẽ thấy mặt thấy người.
Khi gặp ông Du, Minh công nhận rằng chị mình đã nói đúng. Ông ta có mã người cao lớn, mắt sáng, răng rất trắng, ông người ưỡn ngực, nói năng hoạt bát, sau mỗi câu nói ông quay lại nhìn mọi người để xem kết quả ra sao, và khen lấy khen để tất cả mọi thứ, nào là nét duyên dáng của bà Hà, tính nết ngoan ngoãn của những đứa trẻ, nào là những món ăn ngon của chị Sáu, những vẻ đẹp khang trang của ngôi biệt thự … Bà Hà có vẻ đắc ý lắm, cô giáo thì hơi khó chịu, tuy cô cố giấu để không ai thấy, hai đứa trẻ thì giương mắt tròn xoe nhìn cái ông nói ba hoa này. Còn Minh và Đào thì vừa cố nhịn cười vừa thấy bực mình. Khi xong bữa, ông Du nồng nhiệt cảm ơn mọi người về cách tiếp đãi cô em họ.
- Nhiều khi người ta rất khổ phải sống giữa những người xa lạ- ông nói- Nhưng ở đây, nhờ sự săn sóc của bà và các em. Thu Trang cảm thấy như được sống trong gia đình mình vậy.
Một lát sau, ông xin phép được đưa cô giáo đi dạo một vòng bằng xe hơi của ông
- Độ một giờ sau, tôi sẽ đưa cô em tôi trở về: như vậy tôi sẽ có thời giờ cho em tôi biết tin tức các bạn bè, chắc nó sẽ vui lòng.
Giữ đúng lời hứa. Ông Du trở lại một giờ sau. Những đứa trẻ nghe thấy tiếng thắng xe, vội chạy ra đón khách. Lúc đó Nam đã vội chạy ra trước mở cổng
- Hà! Hà!- Ông Du cười nói- Đây là cậu bé đã bị tai nạn xe hơi bữa nọ phải không? Cậu đã chọn địa điểm tai nạn thật là khéo, và đã sa vào một gia đình thật là phúc đức! Khi nào trường hợp này xảy đến cho tôi, chắc tôi phải ráng hành động như cậu ta mới được!
Rồi ông cười hô hố làm Đào rất khó chịu. Nam đỏ mặt đứng yên.
- Chắc anh Nam thích ở nhà cha mẹ hơn là ở đây- cô bé khô khan đáp- Một tai nạn đâu phải là một cuộc vui?
- Cô bé là người rất tốt bụng … và cũng quá ngây thơ!- Ông Du tiếp- tôi mong rằng tấm lòng từ thiện của cô sẽ không mang lại cho cô những vố đau.
Cô bé chau mày đang định trả lời một câu thật chua thì bà Hà đã đi tới. Ông khách vội quay lại cảm ơn bà với những lời hoa mỹ về sự tiếp đón nồng hậu và lòng đại lượng của gia đình đối với cô em họ của ông
- Thỉnh thoảng mời ông lại chơi nhé!- Bà Hà nói- Chúng tôi sẽ rất hoan hỷ được đón tiếp ông.
- Nếu hắn ta trở lại, bác ta sẽ hân hoan, nhưng ta thì không!- Cô bé tự nghĩ- Hắn ta thật là khó thương nổi
Cô Thu Trang có vẻ mệt mỏi; cô trở lên phòng ngay sau khi xong cơm chiều. Đào làm nốt bài vở rồi cũng lên phòng ngủ. Bé Loan lúc đó đang nằm nhưng chưa ngủ, vừa thấy Đào lên vội nhỏm dậy thì thầm:
- Chị ơi! Cô giáo đang khóc!
- Em nói chi vậy? Cô đã lên lầu từ một giờ trước đây kia mà! Chắc bây giờ cô đang ngủ say đó!
- Không! Cô đang khóc mà, vừa rồi em đi qua phòng cô, em nghe tiếng cô kêu than “Ối trời ơi là trời!” và cô thút thít! Em không dám vào …Hay chị sang khuyên giải cô đi!
Đào do dự. Cô bé không thích xen vô vào công việc của người khác và có lẽ bé Loan đã lầm! Nhưng ngộ nó nói đúng thì sao? Nếu cô giáo có chuyện buồn thực mà không có ai để giải bày tâm sự thì sao?
- Ta phải sang coi mới được!- Cô bé quyết định.
Rón rén trên đầu ngón chân, cô bé bước theo hành lang và dừng lại trước cửa phòng cô giáo. Lắng tai nghe ngóng, rồi gõ cửa bước vào. Cô giáo Thu Trang đang ngồi trên giường, đầu gục xuống gối và khóc nức nở từng hồi. Đào vội chạy tới:
- Cô giáo! Cô làm sao vậy?
Không đáp, cô giáo lại nức nở dữ hơn. Đào giơ tay ôm lấy đôi vai rung rung của cô giáo, nước mắt nó cũng chạy quanh.
- Thưa cô! Cô cho em biết lý do đi! Em còn nhỏ nhưng em sẽ cố gắng giúp đỡ cô! Có phải những đứa nhỏ đã không ngoan chăng?
Cô Thu Trang lắc đầu
- Hay ông anh họ cô đã cho cô những tin chẳng lành?
- Không- cô giáo nghẹn ngào đáp
- Vậy thì ông ta đã nói gì ạ? Có phải chính ông ta đã làm cô phiền lòng hay không? Em ghét ông ta quá mà!
Đào lấy tay nhẹ nhàng vuốt ve tóc cô giáo.
- Nếu không phải những tin buồn- Đào tiếp thì cô chẳng thèm để ý đến làm gì- Ông ấy ngu xuẩn quá
- Không! Ồ không!- Cô Thu Trang rên rỉ.
- Vậy thì cô khóc làm chi? Không có gì quan trọng chứ? Cô kể cho em nghe đi …chắc rằng khi kể xong cô sẽ thấy trong lòng nhẹ nhõm. Em sẽ không chịu ra khỏi phòng này trước khi cô đã nguôi cơn sầu, và cách tốt nhất để nguôi cơn sầu đó là thổ lộ tất cả nỗi lòng. Má em thường bảo thế!
- Em Đào ơi! Em Đào ơi!
Cô giáo gục đầu vào vai Đào mà khóc, tưởng như cõi lòng cô đang tan nát. Đào tìm kiếm lời lẽ để buộc cô giáo phải nói: Nếu là một vấn đề quan trọng, cô bé sẽ viết thư ngay cho má để xin ý kiến và mọi việc sẽ giải quyết êm thấm. Đào trìu mến nhắc lại.
- Cô nói cho em nghe đi cô!
Lúc này hai giữa người không phải là tình cô giáo với học trò mà là tình thân mật của đôi bạn dàng buộc trong sự đau đớn và thương cảm. Cuối cùng cô Thu Trang đành thú nhận:
- Ông Du đã rầy la cô. Ông cho rằng ở đây cô đã không làm đúng những gì cô phải làm.
Đào lớn tiếng
- Ông ấy kỳ thật! Em nói rằng ông ta ngu xuẩn là đúng lắm. Ở đây cô là một người hoàn toàn. Bọn trẻ vâng lời cô này, Bà Hà hết sức khen ngợi cô này. Vậy ông ấy còn muốn gì hơn nữa cà? Cô có thể làm gì khác nữa! Mà việc gì đến ông ấy kia chứ?
- Có chứ, Em Đào ơi!- Cô giáo thở dài não ruột đáp - Chính ông ấy đã buộc cô phải tới đây! Và ông ấy có quyền kiểm soát cô.
- Thưa cô, thì cho ông ấy ra rìa có được không?
- Không thể được em ơi! Xưa kia ông ấy đã cho ba cô vay tiền, rất nhiều tiền … Ba cô đã qua đời chưa trả được nợ và nay cô phải thay.
- Thưa cô! Nhưng mọi việc ở đây đều tốt đẹp. Tất cả mọi người đều hài lòng, thì lời rầy la của ông ấy có ăn nhằm gì!
Trong thâm tâm, Đào thấy hơi bất mãn, vì cô giáo xử sự như một đứa trẻ thiếu suy xét … hoặc giả cô chưa giãi tỏ hết nỗi lòng thầm kín
- Thưa cô! Ở đây có có thấy sung sướng không ạ?- Đào hỏi.
- Có, có chứ! Tất cả mọi người đều rất tốt, quá tốt đối với cô.
- Vậy thì cô lau nước mắt đi và không nên nghĩ đến ông anh họ nữa! Nếu ông ta trở lại đây, em sẽ nói thẳng cho ông biết ý nghĩ của chúng em về cô và chắc ông ấy không rầy la cô nữa đâu, cô ạ!
- Ấy chớ, em chớ nên nói gì cả! Ông ấy sẽ đoán biết là cô đã phàn nàn. Không nên để ông ta biết điều đó. Nhưng em Đào nói phải, cô thật tức cười. Không biết cô nghĩ gì hôm nay... Cô đi ngủ đây!
- Vây cô không khóc nữa chứ?
- Không, cô giáo mỉm cười đáp, em ngoan quá…
Đào hôn cô và nói:
- Dầu sao, em mong rằng cô sẽ không thay đổi cách dạy chúng em cô nhé. Cô có thể làm theo lợi ông anh họ để ông ấy vui lòng. Nhưng em mong rằng ông ấy không đòi hỏi cô phải phạt chúng em luôn đấy ạ!
- Không đời nào!
- Vậy thì thích quá! Em chúc cô ngủ ngon!
Tuy nhiên, Đào vẫn lo ngại cô sẽ buồn phiền trở lại nên căn dặn:
- Cô hứa với em là cô không khóc nữa rùi đó, thưa cô
- Cô biết! Cô sẽ giữ lời hứa
Đào trở về phòng mình. Lúc này bé Loan đã ngủ say. Cô vội lên giường nằm, miệng lầm bầm nguyền rủa ông Du:
- Mong rằng hắn không vác mặt đến đây luôn! Tội nghiệp cô giáo, ta phải bảo vệ cho cô mới được.
Rồi Đào ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Chương 4
Sáng hôm sau, Đào vào tới phòng ăn vừa lúc chị Sáu mang đồ điểm tâm lên. Bà Hà đã ngồi vào bàn ăn, chung quanh có Minh, Loan và Quang. Bà hỏi:
- Cô giáo cháu đâu?
- Thưa bác, cháu không thấy. Cháu vừa mới ở ngoài vườn vào đây, cháu vừa nói chuyện với Nam
- Anh ấy đã trồng xong mấy luống rau diếp!- Quang báo tin- Anh Sáu nói anh ấy làm khéo lắm.
- Hay là cô giáo đã quên mất giờ!- Bà Hà thắc mắc- Kỳ nhỉ, mọi khi cô vẫn đúng giờ mà! Cháu Loan đi lên mời cô xuống điểm tâm đi, cả nhà đang đợi
Bé Loan đứng dậy. Đào lo lắng: Hay là cô giáo lại đang buồn khổ? Sáng nay vừa thấy cô giáo vui cười kia mà, nhưng …
- Thưa, cô giáo đã xuống đây ạ!- Loan mở cửa báo tin
Bước theo sau Loan, cô giáo đi vào, vẻ mặt bứt rứt:
- Cháu xin lỗi bà, cô nói. Cháu bị trễ vì cháu bị mất bao nhiêu thời giờ để tìm kiếm một vật … mà cháu rất quý
- Chắc cô đã tìm thấy rồi phải không? Mời cô ngồi- Bà Hà đáp- món đồ vật gì vậy?
- Thưa bà, đó là chiếc kim cài áo bằng vàng mà bà đã biết. Cháu đeo trên áo tối qua hãy còn
- Vậy à? Nó thất lạc đâu đó chứ gì? Rồi thế nào kiếm chả ra. Ta hãy điểm tâm đi keo nguội mất.
- Rồi lát nữa chúng em sẽ đi kiếm cho cô- Minh tiếp.
Điểm tâm xong, lũ trẻ cùng cô giáo lên phòng lục soát kỹ càng, nhưng vẫn không thấy chiếc kim.
- Thưa cô, cô có đánh rơi trong xe của ông anh họ cô không ạ?- Đào hỏi
- Không, tối qua cô hãy còn mang nó kia mà. Lúc đi ngủ cô tháo ra để trên bàn như thường lệ. Sáng nay cô dậy trễ hơn mọi ngày. Cô mặc áo nhưng chưa kịp cài chiếc kim. Đến khi tìm nó để xuống phòng năn thì không thấy đâu cả.
- Nó không thể nào bay mất được
- Phải, một mình nó làm sao bay mất được
Đào xịu mặt vì câu nói vừa rồi tỏ sự nghi ngờ cho ai lấy. Tuy nhiên, không thể nào chấp nhận việc nó biến mất như thế được.
- Thưa cô- Đào nói- Em tin rằng chẳng ai dám lấy chiếc kim của cô. Anh Sáu thì thực thà như đếm. Còn Nam thì không bao giờ vào trong nhà này cả.
- Đúng vậy, hắn ta không vào đây làm gì cả- cô giáo miễn cưỡng đáp- Nhưng thế không có nghĩa là hắn ta không vào đây … sáng nay. Cô không muốn nghi ngờ cho Nam em ạ, cô rất ghét sự nghi ngờ bất cứ ai. Nhưng hắn là người duy nhất ở đây mà chúng ta không biết rõ gốc tích và tính nết ra sao!
- Thưa cô, phải tìm khắp nhà mới được- Minh nói- biết đâu chiếc kim không móc vào áo của cô mà cô không biết, rồi nó có thể rớt ở một chỗ nào đó. Chúng ta phải đi tìm ở phòng học, phòng ăn, hành lang, phòng khách!
- Các em muốn thế cũng được. Nhưng cô không tin giả thiết đó. Chiếc kim ấy nặng lắm, nếu rớt thì cô đã nghe thấy chứ!
Cô giáo và lũ học trò tìm kiếm khắp nơi trong biệt thự nhưng vẫn không thấy chiếc kim đâu cả. Cô Thu Trang không giấu nổi sự buồn rầu:
- Cô quý món trang sức đó quá!- Cô giáo thở dài nói- Nó khá đắt tiền nhưng đáng lẽ ta không được sơ ý! Thôi các em ơi, không nên mất thời giờ vô ích. Bây giờ cô phải cho Quang học, lúc khác ta sẽ nói chuyện lại.
Ba đứa lớn đi ra vườn với vẻ mặt đăm chiêu
- Chị có tin rằng anh Nam đã lấy chiếc kim đó không?- Loan hỏi Đào- Anh ấy là một kẻ ăn cắp à?
- Điều đó không thể nào tin được. Anh Nam có vẻ thật thà, nếu không thì anh ta đã ăn cắp từ lâu rồi
- Tuy nhiên- Minh băn khoăn nhận xét- cô giáo nói cũng có lý: ở đây anh ấy là người độc nhất mà người ta có thể nghi ngờ được
- Thôi em Loan đi chơi nhé!- Đào nói- Em đừng lo, chắc thế nào cũng tìm thấy chiếc kim. Bây giờ em ra vườn rau hỏi xem anh Nam có trông thấy chiếc kim không nhé. Trước hết em hỏi xem sáng nay anh có việc gì vào trong nhà không? Có thể anh ta đã trông thấy chiếc kim dưới đất và đã nhặt lên rồi bỏ đâu đó. Đi lẹ lên, em kể tất cả câu chuyện này cho anh ta nghe, nhưng chớ có nói là cô giáo có ý nghi ngờ cho anh ta đấy nhé!
Sau khi Loan chạy biến đi, Minh hỏi Đào:
- Chính chị nên đi hỏi anh Nam có hơn không? Tại sao lại sai bé Loan đi?
- Chị muốn để bé Loan giữ anh ta ngoài đó độ mười phút thôi. Trong khi đó, chúng ta sẽ làm một việc mà chị không thích lắm, nhưng mình sẽ được yên tâm. Chúng ta sẽ vào kiếm chiếc kim ngay trong phòng Nam!
- Trời ơi!
Minh không dám ngăn cản chị mình, vì thế cậu đoán biết ý nghĩ của chị. Đào sợ rằng cô giáo sẽ đòi khám xét căn phòng của Nam.
Cậu không hiểu Đào muốn làm cuộc điều tra sơ khởi này với mục đích gì, nhưng để sau này hỏi sẽ rõ; cậu không ngần ngại đi theo chị.
Để không ai chú ý, hai chị em thủng thẳng đi tới căn phòng của anh chị Sáu. Lúc này anh Sáu đang bận làm cỏ ngoài vườn, chị Sáu mắc giặt giũ phía sau nhà, bà Hà đang ngủ gà trong chiếc ghế xích đu, cửa sổ phòng học thì mở ra phía đằng kia.
Hai chị em bèn mở cửa phòng Nam, bước vào. Lanh lẹ, họ quan sát các ô kéo của chiếc tủ, cái giát giường, các tủ áo. Trong vài phút đã coi khắp lượt
- Chẳng thấy gì cả!- Minh nói- Cám ơn trời phật! Nam không phải là một tên trộm cắp, em vẫn tin như thế, nhưng em muốn có bằng chứng đích xác.
- Hay là anh đã giữ chiếc kim trong người … khoan đã: chị quên chưa coi chiếc ngăn kéo cái bàn nhỏ kia.
Cô bé liền mở ngăn kéo ra: một con dao cạo, một chiếc lược, một bàn chải, một con dao díp được bày gọn gàng trong đó. Cẩn thận hơn, cô bé thò tay vào tận đáy ngăn kéo.
Minh thấy cô biến sắc mặt:
- Minh ơi, cô nói với giong lạc hẳn đi, chiếc kim đây này
Chiếc kim vàng lóng lánh trong bàn tay cô bé. Đào cảm thấy như mặt đất bị sụt dưới chân cô. Bỗng cô thấy quả tim như thót lại. Minh vội nắm mạnh lấy cánh tay chị.
- Chị đừng có xỉu bây giờ nhé, không phải lúc! Đưa cái này cho em, rồi chúng mình rút lui
Đào cố gượng đứng vững, mồ hôi nhỏ giọt trên trán; lảo đảo, cô bước ra phía cửa. Minh kéo chị đi và vài phút sau, hai chị em đã ngồi trên chiếc ghế gần bụi chuối ở cuối vườn
- Chuyện này kỳ khôi thật!- Cậu bé lẩm bẩm.
- Thật chẳng làm sao hiểu nổi- Đào rên rỉ- Chị quá xúc động, thấy đầu óc choáng váng.
- Để em đi lấy cho chị ly nước hay chút rượu mạnh như đã cho anh Nam tối hôm nọ nhé.
- Không! Em ở đây … ngồi một mình chị thấy sợ!
Bỗng nhiên Đào bật khóc. Minh cũng thấy mủi lòng, cậu khuyên giải
- Không sao đâu chị ạ! Điều cần nhất là bà Hà và cô giáo đã không bắt gặp chiếc kim trong phòng anh Nam, như vậy chúng ta có đủ thời giờ để quyết định. Nhưng em rất lấy làm ngạc nhiên, vì không bao giờ em dám là tin là anh Nam có thể làm một việc như thế. Một việc làm ngu xuẩn, vì ai chẳng phải nghi ngờ cho anh ta. Tuy nhiên anh ta đâu có ngờ nghệch như thế?
Đào đã thôi khóc và trở lại tỉnh táo
- Hay anh ta là nạn nhân của cái đầu óc bất thường?
- Ồ! Thế anh ta lấy chiếc kim mà không biết là mình làm gì hay sao? Như thế thì hơi quá!
- Thật là kỳ lạ!
Cô bé đưa tay lên bóp trán suy nghĩ
- Nếu chúng ta khai là Nam đã lấy chiếc kim- cô nói- thì việc gì sẽ xảy ra? Cảnh sát sẽ tới bắt anh ta bỏ tù!
- Hay là bỏ vào viện vì lí do anh ta mất trí! Như vậy thì anh ta không bao giờ lấy lại được trí nhớ! Chị có nhớ lời bác sĩ nói sao không? Đáng sợ thật!
- Hay là để chị viết thư hỏi má?
- Hừ! Làm sao má cho ý kiến khi má không biết rõ Nam là người như thế nào. Chỉ làm cho má băn khoăn vô ích. Tự nhiên chúng ta đã vướng víu vào một vụ rắc rối vô cùng!
Đào ngồi yên lặng đăm chiêu, rồi cô ngẩng đầu lên nói:
- Em rất tốt vừa nói là “chúng ta”. Chính chị là người phải chịu trách nhiệm về vụ này và chị phải tìm cách giải quyết, cho chúng ta và cho …Nam. Ban nãy, chị vào phòng anh ta để tìm kiếm chiếc kim vàng là cốt để giúp đỡ anh ta thì bây giờ không thể bỏ rơi anh ta được. Chị tin chắc anh ta không phải là một tên ăn cắp. Có thể anh ta đã thấy chiếc kim dưới đất, rồi nhặt lên một cách vô tri … chúng ta chẳng nên đi tố cáo!
- Vâng, làm như vậy không tốt. Nhưng bây giờ chúng ta phải làm sao để giúp đỡ Nam?
- Theo chị nghĩ, chúng ta có thể canh chừng hắn mà không để hắn biết, thỉnh thoảng ta sẽ vào phòng hắn để kiểm soát xem có giấu thêm những đồ vật gì khác không, và không cho hắn vào nhà trên. Bé Loan có thể thay phiên chúng ta để canh chừng khi chúng ta bận học với cô giáo. Khi nào Nam lấy lại trí khôn, ta sẽ giảng luân lí cho hắn nếu cần.
- Nếu cần? Chị quá dễ dãi! Anh ta dám vào phòng cô giáo, ăn cắp một món đồ đắt giá mà chị …
- Vì chị không thể tin được hắn làm điều đó. Càng nghĩ chị càng thấy vô lý. Thôi, bây giờ để xem hắn nói gì với bé Loan đã
Đào thở dài, dù có thiện chí đến mấy thì cũng phải nhận thấy rằng Nam khó có thể bào chữa được. Sự việc xảy ra đã kết tội hắn và nếu cô bé vẫn còn tin tưởng rằng hắn vô tội thì chỉ là lòng từ thiện mà thôi. Cô bé có quyền im lặng và để một kẻ gian phi sống yên ổn trong nhà này hay không?
Nhưng mà cô có quyền hay có phận sự cho bắt giam một người mà cô tin là vô tội hay không? Thật quả chưa bao giờ cô đứng trước một điều nan giải như thế!
- Thế bây giờ chúng ta để chiếc kim này ở đâu?- Minh hỏi- Chúng ta không thể mang nó vô trong nhà được, vì ban nãy đã tìm kiếm hết mọi chỗ mà không thấy, nếu bây giờ lại thấy thì kỳ quá.
- À, chị đã có cách! Để chị gói nó lại cẩn thận, rồi gửi cho một con bạn ở Sài Gòn, nhờ nó gởi trả lại đây tức thì, chị sẽ nói với nó, là chị muốn làm một “sự ngạc nhiên” cho cô giáo, dĩ nhiên là một điều nói dối … Nhưng cũng không sai sự thật mấy tí, vì cô giáo sẽ rất “ngạc nhiên”! Em đi lấy hộ chị một cái bìa, một tờ giấy gói, cuộn dây gai và cây viết để chị làm ngay bây giờ. Rồi em mang ra trạm bưu điện gửi cho chị. Từ giờ đến bữa cơm còn đủ thời giờ chán
Một lát sau, Minh mang gói đồ ra bưu điện gửi. Đào trở vào nhà, vẻ mặt buồn rầu, mệt mỏi và lo lắng tự hỏi: cứu Nam là điều có hợp lí hay không, hay trái lại, khuyến khích hắn làm bậy?
- Trời ơi! Nếu ba má có nhà thì dễ biết bao nhiêu!- Cô thở dài than.
- Chị Đào! Chị ở đâu mà bây giờ mới về thế? Em đợi chị mãi sốt cả ruột!
Bé Loan quàng tay Đào thuật lại
- Chị ạ, em đã gặp anh Nam, anh ấy không hề trông thấy chiêc kim, anh ấy cũng không vô nhà sáng nay vì phải đi cùng anh Sáu đến xóm bên kia để mua cây cảnh. Chị nói cho cô giáo biết đi.
- Ừ, chị sẽ nói, em giỏi lắm! Em đã làm đúng như lời chị dặn
Đào rất phân vân giữa nỗi mừng và nỗi lo âu: Một điều lạ là mọi khi Nam chưa bao giờ đi đâu cả, thì tại sao sáng nay hắn lại đi với anh Sáu … hay hắn đã “dàn cảnh”
Mặc dù thế, chiếc kim đã được giấu trong phòng hắn.

Chương 5.

Minh vào phòng học, ngồi vào chỗ và giở cuốn sách địa dư. Cô giáo Thu Trang đang thảo luận với Đào về một định lí đại số học. Trời đã mưa liên miên trong mấy ngày vừa qua và sáng nay mặt trời e lệ hiện ra ngoài cụm mây. Qua cửa sổ, người ta nghe thấy tiếng Loan và Quang đang chơi đáo trước nhà
- Thưa cô, em hiểu rồi- Đào thở dài nói- Thực quả em hơi yếu về toán. Nhưng em quyết sẽ cố gắng vì em rất muốn thành một kỹ sư sau này như ba em.
- Cô không hiểu sau này em Minh có muốn thành nhà địa dư học hay không- Cô giáo mỉm cười nói- chứ nếu em cứ vừa học bài vừa nhìn ruồi bay như thế kia, thì chắc chắn khó thành lắm
Cậu bé bị “chỉnh” vội cúi đầu xuống quyển sách và đọc vài hàng. Kín đáo, cậu liếc nhìn đồng hồ tay, nhưng không thoát được con mắt của cô giáo
- Em có chuyện chi vậy hả Minh? Mọi ngày em đâu có lơ đãng như thế? Em gnhĩ gì vậy?
Minh nghĩ rằng cậu mong cho chóng hết giờ học để nói chuyện với chị, nhưng cậu không muốn nói điều đó cho cô giáo biết. Nên cậu ấp úng vài câu xin lỗi rồi chăm chú vào bài học. Đào, liếc nhìn đoán biết em mình đang bứt rứt.
Bỗng tiếng nói của Loan ở ngoài vọng vào
- Quang ơi, chúng mình đi nhổ cỏ ở cái vườn xinh xinh của chị đi!
Đào cố gượng cho khỏi mỉm cười. Bé Loan đã mhớ lời dặn của chị và giữ đúng vai trò được giao phó là bám sát Nam. Con nhỏ đã đòi anh Sáu dành cho một vài luống đất trong vườn rau để trồng trọt, cứ mỗi năm phút nó lại hỏi ý kiến anh Nam xem nó trồng như thế có được không. Còn Đào và Minh thì canh chừng Nam một cách kín đáo hơn và cầm chắc là trong năm ngày vừa qua, từ lúc mất chiếc kim vàng, Nam không hề đi đâu cả, chỉ quanh quẩn từ ngoài vườn đến trong bếp và căn phòng của hắn.
Hai ngày trước đó, người đưa thư đã mang một gói nhỏ đến cho cô Thu Trang. Đào và Minh nhìn nhau hiểu ý, trong khi cô giáo mở gói và sự ngạc nhiên hiện rõ trên nét mặt.
- Chiếc kim của tôi này!- Cô thốt lên- kỳ khôi thật!
Mọi người đổ xô đến coi, rồi bàn cãi lai rai để tìm lời giái thích sự châu về hợp phố lạ lùng này. Cuối cùng cô giáo cài chiếc kim lên áo: cô tỏ ý bằng lòng nhưng nét mặt cô không được tự nhiên.
Đào hiểu ý và mong vụ này trôi qua mau lẹ để rồi không ai nói tới nữa. Bởi vậy, từ lúc đó, cô bé đặt nhiều câu hỏi về bài vở và tỏ ra săn sóc nhiều hơn đến cô giáo, nên dần dần cô đỡ đăm chiêu.
Đào kẻ một vạch dài dưới bài vở vừa làm xong và nói
- Thưa cô, em làm xong bài rồi ạ. Xin phép cô cho em chơi thêm hai chục phút vì bữa nay mặt trời đã trở lại.
- Ý kiến chị hay đó- Minh tiếp- sáng nay em học không vô mấy, có lẽ vì thời tiết thay đổi.
- Gớm, sao mà lười thế?- Cô giáo cười nói- muốn cô giận phải không?
- Dạ thưa cô không. Từ một tháng nay cô tới đây, chúng em vẫn ngoan ngoãn lắm ạ, chúng em đáng được thưởng đấy chứ!
Cô giáo công nhận là lũ học trò đã luôn luôn chăm chỉ
- Thôi cho các em ra chơi!- Cô vui vẻ ra lệnh- nhưng chiều nay các em phải học bù hai mươi phút đấy nhé
- Vâng ạ, chúng em xin hứa- Minh đáp.
Hai chị em rủ nhau ra cuối vườn, Minh vội báo tin:
- Người ta đã mở cửa phòng thí nghiệm của ba chị ơi!
Cô bé nghẹn thở:
- Em có chắc không?
- Chắc chứ, sáng nay em qua đó và thấy cửa hé. Em ngạc nhiên, bước vào: tất cả đều thứ tự nhưng có vài món đồ đã thay đổi chỗ và người ta đã tìm cách mở cánh tủ sắt
- Trời ơi! Thế họ có mở được không?
- Không, nó chắc chắn lắm, như chị đã biết.
- Vây, chắc “người ta” sẽ quay trở lại.
- Có lẽ …
Hai chị em nhìn nhau im lặng: họ không dám nói lên những ý nghĩ trong đầu. Rồi Minh lên tiếng trước:
- Chúng ta đã canh chừng ban ngày, nhưng chúng ta không nghĩ tới ban đêm!
- Tai hại quá đi mất! Chị tự hỏi không biết mình có lỗi gì khi che chở cho một … một …
Minh ngắt lời:
- Lần này thì mình cũng chẳng có chứng cớ gì với “hắn” cả, vì một người nào khác vẫn có thể đi từ ngoài vào được chớ! Chị nên nhớ rằng phát minh của ba đã được báo chí đề cập tới và chắc có người đang mưu toan chiếm đoạt lấy nó. Từ lâu em vẫn lo ngại điều đó, nhưng em chưa dám nói ra.
- Nhưng ba có để công thức ở nhà đâu?
- Thì không phải ai ai cũng biết rõ điều đó
- Thế em sợ điều gì? Chị không hiểu?
- Em sợ rằng những nhà sáng chế khác cũng sẽ để công tìm tòi công thức mà ba đã sáng chế ra rồi họ sẽ cạnh tranh bất chính với ba. Tuy nhiên, họ thấy đánh cắp tài liệu dễ ăn hơn thì phải
- Như vậy chứng tỏ rằng không dễ gì ai đạt tới kết quả giống ba. Thế là điều đáng mừng, và dù họ có lục soát phòng thí nghiệm. Rồi cái tủ sắt và tất cả nhà ta đi nữa thì họ cũng chẳng thấy “cóc khô” gì hết, chúng ta có thể yên tâm về điều đó, phải không em? Nhưng còn Nam … Chị thấy vấn đề của Nam còn rắc rối hơn em ạ. Này nhé, nhặt được một chiếc kim vàng và bỏ vào ngăn kéo của mình để đợi xem ai đã mất, nếu quả đúng như thế thì chả có gì quan hệ, vì sự mất trí nhớ có thể làm hắn hành động như một kẻ vô tri. Nhưng cậy một cái cửa ban đêm thì cần có sự suy luận tính toán trước. Như vậy là đầu óc Nam đã sáng suốt hơn người ta tưởng.
- Nếu chính hắn đã thi hành thủ đoạn đó thì ghê thật!
- Vậy chúng ta phải tìm cho ra thủ phạm mới được! Nhưng làm thế nào để canh gác hết đêm này qua đêm khác ở trước cửa phòng hắn?
- Chị Đào này, cái người đến đây tối qua chưa mở được tủ sắt thì chắc chắn sẽ trở lại, có lẽ đêm nay không chừng. Vậy chúng ta sẽ luân phiên canh gác, chị canh trước tới nửa đêm rồi đến lượt em sau. Phong thí nghiệm ở gần phòng Nam thì mình có thể núp một chỗ mà canh chừng cả hai phòng cùng một lúc; tiện lắm, nếu cần chúng ta sẽ tiếp tục canh những đêm sau nữa.
- Thế ngộ Minh ngủ gục thì sao? Thôi ta cứ thử xem đã, nhưng chuyện này thật là phiền phức! Trời ơi, nếu ba má về ngay bây giờ nhỉ!
- Ta phải kiên nhẫn một chút, chị ơi! Một tháng nữa sẽ qua mau. Bây giờ tụi mình ra tới chỗ vườn rau, em muốn biết tình hình Nam ra sao?
- Có lẽ chẳng khác chi mọi ngày đâu. Có thể là hắn không hay biết chi hết, mà cũng có thể hắn đóng kịch quá nghề! Vậy em cứ đi gặp hắn, còn chị sẽ vào soát phòng hắn, mấy ngày nay mình không vào đó thật là sơ suất.
- Nhưng hắn đâu có dại gì mà diễn đi diễn lại trò đó mấy lần liền? Chị cứ đi coi, nhưng có lẽ vô bổ.
Cơm chiều xong, khi Minh còn lại một mình với chị, cậu đã phải thay đổi ý kiến. Về phần mình, cậu không hề thấy Nam có vẻ lúng túng hay ngượng ngập cả, hắn rất vui vẻ và làm việc luôn tay. Nhưng không may! Đào lại khám phá ra một sự mới lạ nữa: một chiếc dây đồng hồ nhận hạt trai của bà Hà đã được giấu trong một chiếc giày của Nam.
- Không hiểu sao chị lại nhìn vào đó- Đào buồn bã nói- chắc chị có linh cảm! May đâu bà Hà chưa biết gì hết và chị đã mang chiếc dây để vào chỗ cũ. Nhưng như thế chứng tỏ sự canh chừng của mình chẳng có hiệu lực gì mấy
- Thế thì lạ thật!- Minh kêu- sao hắn có thể vào nhà mình mà chả ai trông thấy? Chúng ta luôn theo dõi hắn kia mà!
- Chúng ta chỉ là những đứa con nít mà thôi. Đã đành chúng ta phải có những phút giải trí, nhưng chúng ta đã phải nhận một trách nhiệm quá lớn lao. Một tên trộm cắp lành nghề tất nhiên phải có sẵn trong túi những mánh lới mà mình không thể biết nổi.
- Chị thấy cần phải tố cáo Nam hay sao?
- Ồ không, chị không có can đảm làm điều đó! Vả lại, làm như thế là vô lý! Vì phải chính mắt chị nhìn thấy Nam ăn cắp thì chị mới tin là hắn có tội.
- Làm bộ mặt ngây thơ trước mặt mọi người, đó có lẽ là mánh lới mà chị đã nói ban nãy. Em sợ rằng Nam cười thầm bọn mình là khờ khạo, trong khi hắn cũng phải tức lên ruột chứ chẳng không, vì làn nào hắn cũng bị chúng ta chiếm lại kết quả những thủ đoạn cao siêu của hắn!
- Thôi, mình đành phải canh gác ráo riết hơn mới được. Chị sẽ viết thư để má khỏi ở lại bên Nhật, chị sẽ viết rằng không có má thì chúng ta sẽ buồn khổ lắm,và đúng là sự thật! Ta sẽ cố gắng phấn đấu đến khi ba má về, chắc ba sẽ có biện pháp.
- Dầu sao, tối nay chị cũng đến gác ở cạnh phòng thí nghiệm nhé: em sẽ để đồng hồ báo thức dưới gối và sẽ xuống thay phiên gác cho chị. Chúng ta sẽ đi ra bằng cái cửa hậu, nó cách xa các phòng ngủ, không sợ ai nghe thấy.
- Nếu ta trông thấy cái gì … hay người nào, ta sẽ hành động ra sao? Can thiệp hả?
- Không! Chúng ta không đủ sức để bắt trộm, chị ơi! Ta phải đứng yên mà quan sát, như thế ít ra mình cũng biết được sự thật ra sao.
- Miễn là không phải Nam- Đào thở dài đáp.
Cô bé thấy ngày dài quá! Trước viễn cảnh một đêm gác và mục kích sự thật, cô thấy lo sợ. Đúng ra là cô bé không nhút nhát, nhưng đứng hàng giờ trong bóng tối để đợi một hay nhiều kẻ gian phi thì chẳng có gì là hấp dẫn! Hơn nữa, nếu cô biết chắn chắn rằng Nam không phải là kẻ đó thì cô còn muốn làm nhiệm vụ đó một cách hăng hái, nhưng cô thấy lo sợ …
Tội nghiệp cho Nam! Hắn rất vui vẻ lúc buổi chiều khi Đào đi qua vườn rau. Hắn vừa xắn đất vừa hát một bài dân ca làm Đào phải chú ý.
Cô hỏi:
- Anh đã học bài hát đó ở đâu vậy?
- Thưa cô, tôi không rõ, có lẽ khi tôi còn nhỏ.
- A, có phải trí nhớ của anh đã trở lại hay không? Anh nghĩ lại xem, bài hát đó không nhắc lại cho anh kỷ niệm gì hay sao?
Sắc mặt hắn bỗng nghiêm trở lại:
- Thưa, tôi không nhớ được kỷ niệm gì. Tôi thuộc nhiều bài hát cũng loại đó, tôi đã nghe thấy ở đâu? Tôi không rõ … - Hắn buồn rầu kết luận.
Đào thấy hối hận: chắc cô đã làm anh ta buồn.
- Thôi đừng buồn anh!- Cô dịu dàng khuyên nhủ- Các bài hát đó trở lại trong đầu anh là một triệu chứng tốt. Đó là một bước đầu, các bước sau sẽ tiếp theo! Anh nên tin tưởng.
- Thưa cô, cô tốt quá. Tôi chỉ muốn cảm ơn tất cả những gì cô đã làm cho tôi. Đó là điều tôi mong muốn nhất ở trên cõi đời này. Có lẽ tôi sẽ đạt được sau này …
Cô bé tự hỏi hắn ta muốn nói gì: hắn muốn nhắc tới những đồ vật đã lấy cắp và được trả lại cho chủ nhân chăng? Điều này khó tin lắm vì Nam không thể biết được vai trò của Đào trong vụ này
- Tôi có làm gì được cho anh đâu?- Cô thận trọng đáp,
Thưa có ạ, cô chính là linh hồn, trái tim của biệt thự này. Tôi được ở lại đây chính là vì cô, tôi biết lắm và tôi cũng biết là vì cô can thiệp nên mọi người mới không tra hỏi tôi nữa. Xin cô tin rằng tôi rất muốn nói cho cô biết tất cả các chi tiết về tôi, về gia đình tôi, tôi chỉ mong điều đó. Và xin cô cũng tin rằng khi nào có thể, cô sẽ biết hết sự thật. Đối với lòng tin cậy của cô, tôi thấy cảm kích hơn là tôi có thể diễn tả bằng lời nói.
- Tôi rất tin cậy nơi anh- Đào đáp.
- Thưa cô, trong hoàn cảnh của tôi mà dám nói với cô những lời như vừa rồi có lẽ là quá bạo, nhưng tôi tin là cô nghĩ đúng.
Nam nói với một giọng thiết tha, cảm động đến nỗi Đào cảm thấy kinh ngạc. Cô từ biệt hắn, nét mặt ưu tư. Vừa rồi cô đã nói hết sức thành thật, nhưng ngay tối hôm nay, cô sẽ rình rập cái người mà cô đã tỏ lòng tin cậy! Ban nãy, cô đã quên mất dự định này, nhưng bây giờ cô thấy lo ngại quá. Nói trắng ra là cô đã đóng một vai trò “hai mang ” và điều này làm cho cô cảm thấy ghê tởm! Cô thấy như muốn quay trở lại ngay bây giờ để nói cho Nam biết những gì đã xảy ra tại biệt thư Thu-Phong trong mấy ngày vừa qua,và tỏ cho hắn biết lòng tin cậy cảu cô bằng cách nói thật tất cả … nhưng cô dừng lại, phân vân …
Cô cúi đầu thủng thỉnh bước về nhà. Cô không thể làm như thế được, đó là một vấn đề khá quan trọng! Cô nhớ lại câu nói của Minh: “Làm bộ mặt ngây thơ trước mọi người, đó là một mánh lới của quân gian”. Cô không nên để mắc lừa bởi một bộ mặt khéo léo.
Chiều hôm đó, khi cơm xong. Đào lên phòng mình rửa tay. Cô bé đến trước gương để chải tóc, nhưng chiếc lược cô đang cầm trên tay bỗng rơi xuống đất: trên mặt bàn cô thấy một mảnh giấy viết lớn chữ in mang dòng sau đây: “Không nên xen vô công việc của những kẻ mạnh hơn! Coi chừng! Họ sẽ trừng phạt gắt gao!”
Như là để ký tên cho bức thư dọa nạt này, một chiếc vòng bạc mà Đào thường đeo lúc ban chiều, khi xong công việc, xưa nay vẫn để ở góc mặt chiếc bàn thì lúc này đã biến mất.
Mắt đẫm lệ, Đào đứng im lặng một lúc lâu. Bỗng có tiếng gọi của bé Loan:
- Chị Đào ơi! Xuống ăn cơm nhé!
Cô vội lau nước mắt với vẻ tức bực và nắm chặt hai bàn tay:
- Ừ! Để chị xuống bây giờ!- Đào đáp.
Trong lòng cô đã thấy căm hờn kẻ giả dối đã hành động trái với những lời nhân nghĩa đã thốt ra.

Chương 6.

Đào lấy ngón tay che miệng, cố gượng cho khỏi ngáp và trả lời một cách uể oải những câu hỏi của cô giáo. Cô giơ ngón tay nạt học trò.
- Em Đào- cô nói với giọng nghiêm khắc- trong một giờ em đã ngáp đến lần thứ mười rồi đó. Em có bịnh không thế?
- Thưa cô không, em buồn ngủ ạ!
- Đêm qua em khó ngủ hay sao?
- Dạ … em ngủ không ngon vì trời nóng quá ạ.
- Có phải để hóng mát mà em ra chơi ngoài vườn lúc nửa đêm không?- Cô giáo hỏi.
Đào tưởng chừng như bị một cú đấm vào sườn. Tuy nhiên em cũng giữ được can đảm cười đáp:
- Thưa cô vâng! Em nóng bức! Không khí bên ngoài làm em dễ chịu. Khi trở về phòng em đã ngủ được ngay. Thưa cô! Đêm qua cô cũng không ngủ được ạ?
- Không. Cũng vì trời nóng. Nhưng em không nên ra ngoài lúc đêm khuya như thế vì có thể bị cảm và cô chắc bà Hà không cho phép đi dạo ban đêm.
- Trời ơi! Cô đừng mách bác Hà, cô nhé
- Không mách đâu, nếu em hứa với cô từ nay sẽ không làm như vậy nữa- cô giáo nghiêm nghị nói.
Cô bé cố bào chữa
- Nhưng thưa cô, khi trời nóng quá mà em ra hóng mát một chút thì có sao? Đâu phải là một điều xấu ạ?
- Đã đành là thế, nhưng nếu em bị cảm cúm thì em mới thấy rõ ràng là không nên. Em phải hiểu- cô giáo thân mật nói tiếp- rằng cô đã được ba má giao phó trách nhiệm trông nom các em. Thì cô phải có bổn phận, ngăn ngừa những việc làm sơ xuất. Nếu cô không hành động như thế, ba má sẽ phiền trách cô, các em sẽ chê cô, phải không? Vậy em nên nghe lời cô, em hứa đi!
Đào cúi đầu hứa, cô bé không dám liếc nhìn em cô đang cắm đầu viết lia lịa trên quyển vở vì cậu không muốn cô Thu Trang cũng đòi hỏi mình một lời hứa tương tự. Vả lại, điều này không còn quan trọng gì nữa vì một mình cậu không thể canh gác phòng thí nghiệm suốt đêm được.
Đào đếm từng ngày: chỉ trong hai hay ba tuần lễ nữa ba má sẽ về, nhưng sao mà cô thấy lâu thế?
Khi đi qua hành lang, hai chị em gặp bà Hà: bà chìa một bức thư nói:
- Hai cháu ơi! Thư của má đây nầy!
Ba má cho biết sẽ về sớm hơn dự liệu, cuối tuần sau thì sẽ về đến đây rồi.
Minh giơ hai tay lên trời. Đào muốn phát khóc lên vì sung sướng.
- Để em ra báo tin cho Nam biết- Minh nói
Nam tỏ ra rất hài lòng khi nghe được tin này. Người ta tưởng như là hắn như nhẹ bớt đi một gánh nặng.
- Gã này thật khó hiểu- Minh tự nghĩ.
Tất cả biệt thự đang nhộn nhịp vì vui mừng, lũ trẻ thì cười nói huyên thuyên, bà Hà thì hớn hở ra mặt. Riêng cô Thu Trang, tuy cô cũng chia sẻ nỗi mừng vui cùng lũ trẻ, nhưng cô không thể vui được như chúng: Ngày trở về của ông bà Hải có nghĩa là sự ra đi của cô sắp tới và Đào đoán biết là cô đang lo ngại sự tức giận của ông anh họ.
- Thưa cô, em sẽ nói với má giữ cô ở lại đây đến hết hè, chắc má em sẽ vui lòng
- Em ơi!- Cô giáo lẩm bẩm- Không bao giờ cô quên được những tuần lễ sống bên các em.
- Thưa cô, em cũng vậy!
Đêm hôm đó, lúc gần mười hai giờ. Minh lẻn ra khỏi nhà như một bóng đen. Trời hơi sáng nên cậu phải đi nép vào tường để lần bước tới chỗ núp sau lùm cây. Cửa phòng thí nghiệm vẫn khép kín. Chưa ai biết rằng nó đã bị cạy. Căn phòng của Nam cũng đóng im ỉm. Cậu bé ngồi trên một bó rơm để chờ đợi
Sau hai giờ, cậu bé cảm thấy mệt mỏi, mắt cậu nhíu lại. Nhiều lúc cậu ngủ gật và giật mình tỉnh dậy khi có tiếng động
Lúc độ 3 giờ khuya, cậu bỗng nghe thấy tiếng huýt sáo nhè nhẹ, như một mật hiệu. Cậu nín thở, lắng tai nghe, mắt mở thật to để nhìn hai cánh cửa mà cậu đang canh chừng. Vài phút thật dài trôi qua, … tiếng huýt sáo đã ngừng.
- Có lẽ ta lầm!- Cậu thất vọng tự nghĩ- Đó là một tiếng chim hót hay của một kẻ nào đó qua đường! Nhưng mà kìa!
Nhè nhẹ, cánh cửa phòng Nam bỗng hé mở. Hắn ta xuất hiện, lẳng lặng đi men theo căn nhà. Minh chờ đợi hắn rẽ vào phòng thí nghiệm, nhưng cậu rất ngạc nhiên thấy hắn cắm đầu đi thẳng không dừng bước, rồi tiến ra vườn.
Minh thận trọng bước theo Nam xa xa, tới hàng rào cuối vườn, hắn dừng lại. Minh núp vào một bụi cây gần đấy và nghe thấy hắn nói thì thầm.
“ Hắn nói chuyện với ai vậy? Hắn nói về việc gì?”. Dù cố lắng tai nghe. Minh cũng không thể nào nghe rõ câu chuyện mà Nam nói với một bóng người lờ mờ đứng bên ngoài hàng rào.
Bỗng một tiếng bay tới tai cậu, nghe như là “tài liệu”. Thôi đúng rồi. Nam và người đối thoại đang âm mưu đánh cắp giấy tờ của kỹ sư Hải! Nhưng sao họ không vào tìm kiếm bên trong phòng thí nghiệm.
Rồi Minh nghe thấy tiếng một chiếc bật lửa mở ra. Một ánh lửa bật lên, xuyên thủng bóng tối.
Minh thấy lạnh người vì sợ hãi và bất bình, vì cậu đã nhận ra ai đang nói chuyện với Nam!
Một vài câu nữa được trao đổi, rồi tiếng chân bước đi, tiếng máy xe hơi nổ, xa dần. Nam lững lững đi về phòng mình. Cảnh vật lại chìm đám vào bóng đêm yên tĩnh. Minh trở về nhà và trèo lên giường nằm ngủ. bây giờ cậu ta đã hiểu …

Chương 7.

Minh dụi mắt. Ánh sáng mặt trời đã chan hòa khắp căn phòng nhưng cậu vẫn buồn ngủ quá không muốn trở dậy. Cậu lầu bầu:
- Chị để yên cho em ngủ chứ!
Đào cúi xuống lay em thật mạnh:
- Dậy đi em, trưa lắm rồi và chị không muốn xuống nhà một mình: em có biết là lão Du đã đến không?
- Lão Du? Lão Du nào?
- Thì lão anh họ cô giáo chứ còn ai vào đây nữa!
Hắn tới được mười phút rồi, và đang đợi trong phòng ăn đó. Chị Sáu lên mời cô giáo xuống, nhưng cô tỏ vẻ rất khó chịu.
- Thật à?
- Nói là cô sợ hãi mới phải! Cô đã bận y phục xong và bảo chị bếp xuống tiếp hộ lão Du. Phiền chưa? Em dậy đi rồi xuống cùng với chị.
Sự lo lắng của Đào làm Minh phải ngồi nhỏm dậy:
- Được rồi, chị đợi ngoài đó, em mặc quần áo xong rồi ra ngay.
Năm phút sau, hai chị em Đào đàng hoàng bước vào phòng ăn. Bà Hà đã vào trước được vài giây và đang chào hỏi khách.
- Chào ông Du! Biết ông lại chơi chắc cô Thu Trang mừng lắm. Tiện đây mời ông ở lại dùng điểm tâm với chúng tôi. Cháu Đào đi lấy thêm cái tách đi!
- Thôi tôi xin phép bà- ông Du nói với vẻ bồn chồn- Tôi chỉ có thể ở lại một phút thôi ạ. Thu Trang làm tôi mất thời giờ quá!
Bà Hà có vẻ hơi khó chịu về thái độ của ông Du bèn hỏi:
- Tôi mong rằng không phải vì những tin tức chẳng lành mà ông đến thăm sáng nay.
- Thưa bà, tôi rất muốn thưa chuyện với bà, nhưng tôi cần đợi có mặt Thu Trang ở đây.
Đào nhìn Minh: câu chuyện chiếc kim vàng trở lại trong trí nhớ của cô bé. Có phải ngẫu nhiên ông Du đã biết rõ câu chuyện đó và nay ông trách móc gia đình ông Hải vì đã chứa chấp một kẻ ăn cắp hay không?
Vừa lúc đó cửa phòng mở ra, cô Thu Trang bước vào:
- Chào anh Du- cô nói nho nhỏ.
- Chào em, có lẽ em đã đoán ra lí do vì sao anh đến đây
- Em … Em không rõ ạ
Ông Du nhìn cô bằng con mắt hằn học và Đào vội tới đứng bên cạnh cô để bảo vệ cho cô nếu cần. Trông cô Thu Trang lúc đó thật đáng thương hại.
- À, thật không? Em không rõ thật à?- Ông Du nhắc lại với giọng mỉa mai- Má em đau nặng, bà yêu cầu em về trông nom bà vài ngày, em trả lời là em không thể vắng mặt ở đây được, bà khẩn khoản nhưng vẫn vô hiệu và bây giờ em không rõ vì sao bà nhờ anh can thiệp! Anh tưởng em thươg xót má em hơn thế chứ?
- Em không ngờ sự việc lại ra như thế!
Bà Hà vội lên tiếng
- Ô kìa! Thế ra bà cụ bị đau à? Thưa ông, nào tôi có biết gì đâu? Có nặng lắm không ạ? Sao không thấy cô Thu Trang nói gì cả?
- Thưa bà, tôi cứ yên chí là bà biết rõ- ông Du đáp- Tôi lại ngờ rằng bà không cho phép em tôi về
- Không đời nào chúng tôi lại ngăn cản không cho cô về thăm nom bà cụ. Đó là bổn phận đầi tiên của kẻ làm con! Nhưng tôi xin nhắc lại là tôi không hay biết gì hết. Có lẽ cô Thu Trang không hiểu rằng bà cụ đòi cô về cần kíp như thế!
Mặt tái mét, mắt mở chừng chừng, cô giáo tỏ vẻ bị giao động mạnh. Đào quàng tay ra sau người cô nói:
- Cô đừng buồn, nếu bà nhà có thể viết thư được như thế thì chắc không đau nặng lắm. Nhưng cô phải đi ngay về với bà cụ đi!
Thu Trang nhìn cô học trò với đôi mắt lo lắng làm cô bé não lòng:
- Em lên thu xếp va li đi!- Ông Du khô khan ra lệnh- Anh sẽ chở đi ngay bây giờ, lẹ lên. Anh vội lắm!
Như người mất hồn, cô Thu Trang tiến ra cửa, Đào quay lại bảo Minh:
- Đi em, chúng ta lên giúp cô giáo thu xếp.
Hai tay run rẩy, cô Thu Trang xếp bừa quần áo, nước mắt cô ràn rụa.
- Thưa cô, cô đừng thất vọng như thế!- Đào nói- Cô chẳng có lỗi gì vì cô không hiểu rõ đó thôi. Bà cụ sẽ vui lòng biết bao khi thấy cô về nên bà không rầy la cô đâu. Cô đừng sợ.
- Có phải cô lo sợ về má cô đâu? Em Đào …
Bỗng cô ngừng lại và nhìn cô bé với đôi mắt thê thảm, hai tay vặn vào nhau:
- Ôi! Ta rất lỗi lầm đã tới nơi này! Chưa bao giờ ta vào ở một nhà xa lạ … Các em đã rất tốt và thương mến ta. Ta đã quấn quýt với các em, vậy mà bây giờ …
- Xin cô đừng buồn ạ!- Đào năn nỉ- Cô xa các em vài ngày thì có sao đâu? Cô sẽ trở lại đây kia mà!
- Ta không muốn phải xa các em vì ta rất lo cho các em. Ta không tin cậy ở Nam cũng như ở ông Luận.
- Nhưng Nam và ông Luận có làm gì hại cho các em đâu? Nhà có người nọ người kia cơ mà!
- Họ không làm hại gì cho các em, nhưng ta chắc chắn rằng Nam được đưa đến đây với một mục tiêu bất chánh, để đánh cắp các tài liệu của ông kỹ sư.
Đào bật cười:
- Nếu vậy thì đáng đời cho hắn: ở đây chẳng có gì đáng giá cả! Cô nên biết rằng ba em không đời nào để ở đây những tài liệu quý giá đó.
- Nhưng còn trong phòng thí nghiệm của ông?
- Thưa cô, trong đó có những dụng cụ thông thường và một số hóa chất không nguy hiểm. Trong tủ sắt cũng chẳng có chi hết: chỉ toàn những giấy tờ không quan hệ! Em biết rõ lắm vì ba em đã xếp tủ trước mặt chúng em.
Minh xen vào:
- Thưa cô, xin cô cứ yên tâm, chúng em sẽ để ý đề phòng ạ!
- Phải, phải, các em nên hết sức để ý.
Bỗng Loan từ ngoài cửa nói vọng vào: Ông Du đang hối thúc. Cô Thu Trang vội vã đóng va li, mặc áo, từ biệt Đào và Minh rồi chay xuống nhà.
- Các em không nên xuống bây giờ- cô nói- Ông Du sẽ cho rằng cô than phiền với các em. Thôi các em ở lại cô đi nhé.
Tiếng cô nghẹn ngào trong cổ
- Tội nghiệp cô giáo- Minh lẩm bẩm.
Người ta tưởng tượng như cô giáo sẽ không bao giờ quay trở lại đây nữa! Kỳ thật…
- Chắc cô quan trọng hóa vấn đề- Đào nói- chị thấy rằng cô cho rằng Nam là một kẻ ăn cắp nhưng thực ra cô chẳng biết gì đích xác cả.
- Vâng, em cũng nghĩ như thế. Dầu sao, cô ấy cũng tinh khôn đấy chứ!
Thấy cậu em có bộ mặt nghiêm trọng, Đào giật mình hỏi:
- Thế nào Minh? Em đã trông thấy gì đêm qua thế hả?
Tiếng máy xe hơi nổ trước nhà. Tụi trẻ ghé đầu nhìn chiếc xe của ông Du xa dần, biệt thự trở lại yên tĩnh …chậm rãi, Minh đáp câu hỏi của chị.
- Đêm qua, Nam đã nói chuyện rất lâu ngoài hàng rào với một người mà lúc đầu em chưa nhận rõ là ai. Họ nói quá nhỏ, em không nghe thấy gì, trừ hai chữ “tài liệu”. Rồi người đàn ông bật lửa hút thuốc, em mới trông rõ mặt.
- Ồ! Nói mau lên em! Người đàn ông đó là ai?
- Ông Luận!
Đào sửng sốt ngồi bệ xuống một chiếc ghế. Cô ấp úng:
- Ông Luận … nhưng tại sao? Tại sao ông đến nói chuyện với Nam lúc đêm khuya như vậy? Ban ngày ông muốn gặp hắn lúc nào mà chả được!
- Phải! Nhưng ban ngày thì chúng ta có mặt ở đó, hay anh Sáu, hay bà Hà. Hình như ông Luận muốn nói chuyện với Nam không có ai dự thính.
- Trời ơi!- Đào hoảng hốt kêu lên- Như thế nghĩa là gì?
- Như thế nghĩa là cô giáo đã đoán đúng: Nam đã được ông Luận dụng tâm mang đến đây để đánh cắp điều phát minh của ba. Câu chuyện đụng xe mất trí nhớ, đều là chuyện phịa cả. Họ có thể mở được cái tủ sắt bằng phương pháp tài tình mà không làm hư ổ khóa không biết chừng!
- Như vậy là họ đã bị lộ tẩy rồi! Rồi đây họ sẽ làm gì nữa?
- Em không hiểu. Tự thấy đã làm hụt một cú, chắc họ sẽ rút lui có trật tự!
- Rốt cuộc, tất cả những chuyện đó chẳng có quan hệ gì nữa, mặc kệ họ, chưa bao giờ chị nghi nghờ ông Luận trong vụ này! Ông có vẻ ngay thẳng, thành thực như thế, và Nam … nhưng mà này … nếu Nam vào đây với mục đích đánh cắp tài liệu thì cớ sao hắn lại dám ăn cắp đồ vật để người ta nghi ngờ? Vô lý quá!
- Ừ phải … thế mà em không nghĩ ra điều đó! Đáng lẽ hắn phải tỏ ra là con người kiểu mẫu mới phải chứ! Hay hắn muón kiếm chác một vài mối lợi riêng tư!
- Quá nhỏ nhặt, những mối lợi đó … mà còn nguy hiểm lớn cho hắn ấy chứ! Nếu không có chị em mình thì hắn đã bị bắt giam từ lâu rồi còn gì? Nhưng mà quả là chúng ta đã không biết chọn người!- Đào thở dài- Thế bây giờ chúng mình phải hành động ra sao?
- Em nghĩ ta phải nên coi chừng thế thôi. Vài ngày nữa ba về, có thể từ nay tới đó Nam sẽ cao chạy xa bay rồi. Chắc vì cái tin trở về đột ngột của ba mà họ đã gặp nhau đêm qua đó. Em tin vào điều ấy và em chắc sẽ có sự mới lạ sắp xảy ra.
- Nhưng có lẽ nào mình lại để cho Nam tự do trốn đi không bị trừng phạt về tội của hắn?- Đào tức tưởi nói- Còn ông Luận nữa? Hay ta đi báo cảnh sát bây giờ đi!
Minh không tán thành ý kiến của chị:
- Báo cái gì chứ? Cuộc đối thoại của họ mà em bắt gặp đêm qua ấy à? Có luật nào cấm người ta ban đêm gặp nhau ở ngoài lề đường đâu? Ông Luận đã không tìm cách vô trong vườn nhà mình, hơn nữa ông vẫn tới đây công khai. Không bao giờ trốn tránh, ông đã đến ty cảnh sát để hỏi tài liệu về Nam, ông còn đưa cả địa chỉ của ông cho bác Hà. Như vậy kiếm ông có khó gì? Em tưởng nên đợi ba về thì hơn chị ạ!
- Em nói phải, chúng ta đã lầm lẫn nhiều phen rồi- Đào bâng khuâng đáp- thì bây giờ ta chẳng nên làm điều gì trật điệu thêm nữa. nhưng chị đoán là Nam đã trốn mất rồi đó.
- Như vậy còn hơn… Có một kẻ như thế trong nhà mình là một điều chẳng hay ho gì. Nhưng chúng ta phải xuống ăn điểm tâm kẻo bà Hà không biết chúng ta làm gì trên này.
Bà Hà rất áy náy vì sự ra đi đột ngột của cô Thu Trang.
- Rồi sự học hành của các cháu sẽ ra sao?- Bà băn khoăn hỏi
- Thưa bác, không sao đâu ạ- Đào đáp
Cô bé thấy rằng trong tình trạng hiện thời, việc học vấn phải coi là phụ thuộc
- Thế các đứa nhỏ thì ai dạy chúng học?
- Thưa bác, cháu và Minh sẽ lo điều đó, xin bác cứ yên tâm
Điểm tâm xong, Đào và Minh chay tuốt ra vườn rau, đinh ninh rằng Nam đã chuồn mất. Nhưng không, Nam vẫn còn đó, vừa làm vừa hát hỏng như mọi ngày. Hắn cười chào hai người và nói:
- Còn sáu ngày nữa thì ông bà kỹ sư sẽ về! Cô cậu có biết tôi nghĩ gì không? Phải trang hoàng nhà cửa đầy hoa! Nếu mà dựng lên ở ngay lối cửa một cái cổng chào thì tuyệt! Cậu Minh giúp tôi cậu nhé!
- Thật là điên cái đầu với vụ này!- Đào than vãn với Minh khi hai chị em bước khỏi chỗ Nam- Hắn ta lại có vẻ bình chân như vại chờ ngày ba về, mà chẳng hề sợ sệt gì cả, thế mới lạ chứ!

Chương 8
Ba ngày trôi qua trong sự yên tĩnh tuyệt đối. Đào và Minh học hành rất chăm chỉ và khảo bài cho nhau; Loan và Quang thì ngoan ngoãn hết sức. Còn Nam thì trong những lúc rỗi rãi kết những cành cây để dựng cái cổng chào. Minh thôi không canh gác ban đêm nữa, hai chị em hồi tưởng những việc đã làm các tuần trước mà phát buồn cười. Họ cho rằng óc tưởng tượng của họ đã tạo ra một cau chuyện huyễn hoặc. Đã đành những đồ vật mất cắp, bức thư hăm dọa tìm thấy trong phòng Đào chứng tỏ đã có một sự gì khác lạ, nhưng nếu bình tĩnh mà xét thì vấn đề cũng không đến nỗi quan trọng cho lắm. Còn ba ngày nữa ông kỹ sư về thì mọi việc sẽ ngã ngũ, bọn trẻ tin tưởng như thế.
Trong khi chờ đợi, họ phải lo tổ chức cuộc tiếp đón dành cho ba má. Hiện giờ còn thiếu hai cây tre dài mà Nam chưa kiếm đâu ra. Hôm đó anh Sáu lại bắt Nam giúp cả ngày nên hắn phải bỏ cái cổng chào. Minh thấy vậy sốt ruột quá.
- Chẳng biết đến bao giờ mới xong đây!- Cậu buồn bã nói- Nam thì quá ít thời giờ, còn ta thì chẳng làm được gì khác nếu thiếu hai cây tre.
- Em này! Hay chúng mình sang kiếm tre ở xóm bên kia?- Đào đề nghị- Tiệm bán cây chắc phải có tre chứ.
- Vâng! Ý kiến của chị hay đó. Chúng mình đi ngay bây giờ nhé!
Loan và Quang cũng nằng nặc đòi đi theo. Bốn người rủ nhau vui vẻ khởi hành.
Một lúc sau, họ đã mua được 2 cây tre dài. Cả bọn kéo nhau về đến nửa đường thì bỗng một chiếc xe hơi vượt qua, thắng lại và đậu cách bọn trẻ vài thước. Đào ngạc nhiên nhận ra chiếc xe của ông Du và ông này đã thò đầu ra hỏi:
- A! Các em đấy à! May quá ta gặp các em ở đây, vì ta đang định đến đàng nhà.
Đào cất tiếng chào lấy lệ một câu rồi đứng nghe
- Ta rất ân hận về cô Thu Trang- ông nói tiếp- các em có biết sao không? Khi vừa tới Sài Gòn thì cô bị bệnh ruột thừa bộc phát! Có lẽ vì thế mà buổi sáng cô không được bình tĩnh và có vẻ kỳ quặc. Chắc là chứng bệnh đang nung. Ta lo sợ cuống quýt, vội đưa cô vào một dưỡng đường và bác sĩ đã mổ ngay tức thì.
- Trời ơi! Khiếp quá!- Đào lẩm bẩm- Thưa ông, bây giờ cô giáo đã khá chưa ạ?
- Khá lắm, may quá, nhưng cô nhớ các em nên cô cứ trằn trọc không nằm yên được. Vậy tôi tới đây hỏi em Đào xem có thể tới thăm cô giáo được không? Bây giờ tôi có thể chở em tới đó rồi hai giờ sau sẽ đưa em trở về đây, em nghĩ sao? Tôi biết cô giáo thương em hết sức!
- Thưa, còn thân mẫu của cô ra sao ạ?
- Bà khỏe nhiều rồi, như vậy là rất may vì phải một thời gian vài tuần Thu Trang mới có thể bình phục được.
Loan nắm tay chị hỏi:
- Quang và em có thể đi cùng chị không? Các em cũng nhớ cô giáo lắm.
- Vậy thì tốt quá rồi. Chúng ta cùng đi tất cả cho vui- ông Du reo lên- Cũng là một cuộc giải trí hay lắm. Thôi lên xe đi các em!
- Thưa, cháu có thể ngồi trên ghế trước được không ạ?- Quang hỏi- Trông lái xe cháu thấy thích lắm.
Ông Du chấp thuận. Loan và Quang lên ngồi cả trên ghế trước cạnh ông Du. Còn Minh thì thoái thác.
- Thưa ông, cháu xin lỗi không đi được, vì có công chuyện phải làm gấp.
- Không đợi được hai giờ hay sao?
- Thưa không ạ, vả lại nếu bác Hà cháu đợi lâu không thấy chúng cháu về sẽ nóng ruột nên cháu phải về trình bác rõ.
- Thôi thế cũng phải, cô Đào lên xe đi, lát trở về cậu Minh nhé!
Sau khi khởi hành, cậu bé vác tre về. Nam sẽ rất bằng lòng vì hắn vẫn than phiền là không thể hoàn tất cái cổng chào kịp ngày về của ông bà Hải. Sáng mai thì sẽ có thể dựng cổng chào lên, kết hoa kết lá, rồi căng cả tấm biểu ngữ lên cho nó thêm long trọng.
Minh đi thẳng đến vườn rau thấy Nam đang xới một luống đậu.
- Anh coi này- Minh hân hoan lên tiếng- chúng tôi vừa mua được ở một tiệm cây! Tuyệt lắm phải không?
- Tuyệt lắm!- Nam hớn hở đáp- Chúng ta sẽ bắt tay vào công việc ngay bây giờ. Nếu cô Đào cũng giúp được một tay thì chóng xong hơn. Cậu thử hỏi cô xem.
- Chị ấy sẽ giúp khi nào trở về, vì chị vừa đi Sài Gòn trên chiếc xe hơi của ông Du anh họ cô Thu Trang. Cô ấy bị đau.
- Cậu nói ai?
- Cô giáo ấy mà!
- Cô Đào đi cùng với ai?
- Với anh họ cô giáo, cái ông mà đã lại đây đón cô về từ ba bữa trước ấy mà. Có chuyện gì vậy anh?
Sắc mặt Nam bỗng tối hẳn đi, hắn nhìn Minh với đôi mắt điên dại.
- Họ đi được bao lâu rồi?- Hắn hỏi
- Lối mười lăm phút.
- Chúng ta phải đuổi theo họ lập tức, và báo tin cho ông Luận!- Nam nói với giọng hoảng hốt- Trong nhà có xe đạp phải không? Cậu đi lấy ngay hai chiếc xe, coi bánh bơm đủ căng, lẹ lên! Tôi đi mặc áo, chỉ hai phút thôi
- Nhưng anh điên hay sao thế?- Minh ngạc nhiên hỏi- Chị em tôi đi thăm cô giáo bị đau thì việc gì liên quan đến ông Luận kia chứ?
- Mấy chị em đều đi cả à? Trời ơi! Tôi không ngăn cản được vụ này! Cậu Minh, tôi xin cậu làm giúp tôi điều vừa nói và đừng có thảo luận gì nữa. Tôi sẽ giải thích cho cậu nghe ở dọc đường. Mau lên cậu! Không được chậm chễ một giây phút nào nữa!
Rồi hắn chạy một mạch về phòng. Thấy hành động bất thường của hắn, Minh đành phải nghe theo. Vì hắn đã hứa sẽ giải thích …Cậu bèn vào nhà xe, kiểm tra lại xe đạp của cậu và của ông Hải thấy đều tốt vội mang ra ngoài. Nam ăn vận chỉnh tề như đi xem lễ ngày chúa nhật, cũng vừa ra tới nơi.
- Chúng ta đi thôi, cậu!
Họ vừa lên yên thì bỗng nghe thấy tiếng gọi:
- Minh, Nam. Làm gì vậy? Đi đâu thế?- Bà Hà đã đứng chặn trước hai người.
- Thưa bà, chúng cháu đi một công chuyện rất gấp- Nam đáp tranh lời Minh- Chúng cháu đi tới chỗ cô Đào và các em nhỏ đang đợi ạ.
- Thế bỏ công việc à?- Bà nghiêm sắc mặt hỏi
- Thưa bà, xong cả rồi ạ!
- Nhưng các cháu đi đâu vậy? Bao giờ thì về? À mà này, Minh ơi, bác rất ngạc nhiên về vụ này: người phát thư đã mang tới một lá thư cho cô Thu Trang, thư của bà mẹ! Bác biết lối chữ của bà ta … mà thư lại đề ngày hôm qua! Bác không hiểu chuyện gì đã xảy ra mà cụ lại viết thư cho con gái trong khi cô ấy lại đang ở cạnh bà ta. Có tai nạn gì xảy ra chăng?
- Thưa bác, cô Thu Trang đang bị đau ở Sài Gòn- Minh đáp- Chúng cháu vừa được tin ban nãy ạ.
- Đau à? Đau làm sao? Mà sao cháu biết?
Cậu bé đành phải kể đầu đuôi việc gặp ông Du.
- Chúng cháu đi kiếm họ bây giờ, cậu kết luận, không nhắc gì đến lũ em đã đi theo ông Du và sự cuống cuồng của Nam khi nghe tin này.
Bà Hà còn tiếp tục nói thêm về điều bất hạnh này. Nam thì bồn chồn và Minh không biết làm thế nào dứt ra để mà đi cho thoát.
- Thôi chúng cháu xin phép bác, cậu nói. Ông Du là người nóng tính, ông sẽ nổi khùng nếu chúng cháu để ông phải đợi lâu ạ.
Lý luận này làm bà Hà phải nghe theo. Bà tránh lối cho hai người lên xe cắm cổ đạp ra đường. Bà gọi theo:
- Đừng có phóng nhanh thế, khéo mà gãy cổ đó!
Nhưng hai người chẳng còn nghe thấy gì cả, còn mãi lấy hết gân đạp. Nam lầu bầu:
- Khổ quá, chúng ta vừa mất đúng 15 phút rồi! Vậy là họ đã đi trước ta 25 phút. Trời ơi! Có thể tìm thấy được không?
Chiếc xe lớn của ông Du chạy với tốc độ kinh hồn. Ngồi một mình ở ghế sau Đào nghĩ đến cô Thu Trang. Cô giáo có linh cảm trước về sự gì đã xảy đến chăng? Hay lúc khởi hành cô đã thấy người khó chịu? Tội nghiệp cho cô! Chăc cô phải sợ lắm khi vào một dưỡng đường để chịu sự giải phẫu mà chẳng có ai ở bên cạnh để an ủi cô.
Loan và Quang rất khoái chuyến đi chơi bất ngờ này. Chúng nói năng huyên thuyên, đặt cả trăm câu hỏi, nhưng ông Du chỉ trả lời gióng một. Bỗng câu hỏi của Loan làm cho Đào phải chú ý:
- Ông nói là cô giáo đang ở Sài gòn ạ?
- Phải – ông Du lơ đãng đáp.
- Ông đi con đường này lạ hoắc à! Ba vẫn đưa chúng cháu đi Sài gòn, có bao giờ đi qua đường này đâu?
- Thì đường nào mà không dẫn tới Sài gòn?
Đào nhìn cảnh vật chạy qua trước mắt. Nhiều khi ông Kỹ sư Hải vẫn đưa con đi học tại Sài gòn bằng xe hơi nên cô bé thuộc lầu đường đi và một vài lối thay đổi, nhưng chưa bao giờ đi qua lối này cả.
- Dưỡng đường không ở trung tâm Sài gòn – ông Du đột nhiên nói – nhưng ở ven đó. Ta đang đi theo con đường gần nhất.
- Gần nhất tức là ở lân cận Sài gòn.
Đào bèn nhìn trời: cô bé biết tìm phương hướng và không cần phải suy nghĩ lâu, cô bé biết rằng ông Du đang đi xa Sài Gòn thay vì đi gần về thủ đô.
- Thế này là nghĩa gì?- Cô lo lắng tự hỏi.
Xe vẫn chạy nhanh như gió. Đầu óc cô bé cũng làm việc với nhịp độ tốc hành. Hắn định mang chúng ta đi đâu thế này? Tại sao hắn đã nói dối là cô Thu Trang đang ở Sài Gòn? Khi người ta nói dối có nghĩa là người ta đang muốn giấu một điều gì gian ác!
Tất cả lòng ác cảm của cô đối với ông anh họ cô giáo đã trỗi dậy và những khả nghi đã trở lại trí nhớ của Đào: những giọt nước mắt của cô giáo, dáng điệu sợ sệt trước mặt Du, nỗi thất vọng và những lời nói mập mờ của cô trước khi từ giã biệt thự. Có phải cô đã tiên đoán một sự nguy hiểm đang đe dọa lũ học trò? Cô đã biết sự nguy hiểm đó là gì? Có phải ông Du định bắt cóc lũ con ông kỹ sư Hải?
Đào thấy trái tim lạnh toát vì sợ hãi. Lý do của việc bắt cóc không có gì khó đoán! Cô bé đã đọc được những chuyện tương tự, người ta bắt cóc trẻ con để đòi tiền chuộc … người ta có thể bắt cóc các con ông Hải, để đòi cái công thức thuốc nhuộm do ông đã phát minh ra.
- Không! Ta điên rồi! Không thể thế được! Má đã có tài liệu rất tốt về cô Thu Trang, do một bà bạn quen thân với gia đình ta cung cấp. Chắc cô Thu Trang không đời nào dám cho vào nhà ta một ông anh họ có những mưu toan hắc ám.
“Chính ông ta đã buộc ta phải tới đây. Ta không thể đuổi ông ta đi … xưa kia ông đã cho ba ta vay rất nhiều tiền … ta rất mang lỗi đã tới đây!”
Những lời nói trên đây, Đào tưởng như cô Thu Trang đang nhắc lại bên tai mình. Lúc trước, cô bé thấy sự thất vọng của cô giáo là có lý, bây giờ nó sáng tỏ một cách ghê rợn! Đào đưa tay lên bóp trán đẫm mồ hôi.
- Làm thế nào bây giờ?- Cô cuống quýt tự hỏi- Nếu ta không lầm thì chúng ta đang bị kẹt rồi. Minh tưởng rằng chúng ta đang ở Sài Gòn và không lo lắng gì cả, rồi nó sẽ làm thế nào để tìm kiếm ra chúng ta? Xin trời phật chỉ bảo cho con!
Bỗng Đào nhớ đến một cuốn chuyện đã đọc từ lâu: chuyện của hai người, một tên gian phi đã bắt cóc một người yếu ớt nhưng tinh khôn. Người này đã làm mọi cách để lưu lại dấu vết trên con đường đã đi qua. Đào sẽ bắt chước hắn.
Cô bé nhìn hai bên đường. Khi tới một xóm nhà, Ông Du phải giảm bớt tốc độ. Cô bé bèn thò đầu ra ngoài lấy tay vẫy vẫy, mặt thì làm trò hề. Cô thấy một bà đang đứng trước cửa, ngạc nhiên nhìn cô.
Mỗi khi xe chạy ngang một xóm nhà khác. Cô lại diễn trò ban nãy. Tới một ngã tư, xe quẹo tay mặt. Lanh lẹ, cô ném chiếc khăn tay xuống vệ đường. Rồi đến đôi dép và đôi vớ của cô cũng được rắc ở các lối rẽ khác. Trong khi đó, Du phải chăm chú lái xe nên không hay biết gì cả.
Bỗng xe chạy vào một lối nhỏ gồ ghề.
- Tới nơi rồi- Du nói.
Xe vào cổng và đậu ở cuối sân. Một ngôi nhà mới quét vôi hình thước thợ đứng về phía phải trong cùng.
- Các em đi theo tôi- ông Du nói- Đừng làm ầm nhé!
Đào nhìn xung quanh chẳng thấy một ai. Có lúc cô định chạy trốn. Cô chạy rất mau, có thể ra tới đường cái mà Du không bắt kịp. Nhưng cô lại nghĩ đến các em: Nếu là một vụ bắt cóc, các em cô sẽ ra sao nếu cô bỏ lại chúng lúc này? Vì vậy! Cô quả quyết bước theo hai em. Bốn người tiến vào trong nhà, qua một dãy hành lang, lên một cầu thang vắng vẻ. Rồi ông Du mở một cái cửa và nói:
- Các em vào đây đợi tôi một lát, tôi đi hỏi xem liệu cô Thu Trang có thể tiếp các em bây giờ được không.
Rồi ông đi ra, khép cửa lại. Căn phòng sáng sủa, trang hoàng đẹp đẽ. Hai đứa nhỏ ngồi xuống đi-văng. Đào lẳng lặng trở lại cái cửa, nhè nhẹ vặn quả đấm để các em không nghe thấy. Cô đứng lặng người vì cánh cửa đã bị khóa từ bên ngoài và ba chị em cô đã bị cầm tù …

Chương 9.
Nam phóng xe như điên. Minh đạp theo rất chật vật nên chưa thể đặt ra một câu hỏi nào. Sau vài phút họ tới trạm bưu điện .
- Tôi vào kêu điện thoai cho ông Luận- hắn nói.
- Ông Luận có ăn nhằm đến vụ này?- Minh hỏi.
Không đáp, Nam bước vào phòng điện thoại, Minh cũng theo vào:
- Nếu anh gọi điện cho ông ấy, anh phải để tôi nghe xem anh nói gì.
- Tùy ý cậu.
Nam nhấc máy lên quay số, tiếng nói đầu dây bên kia đáp lại:
- Thưa ông chủ đấy ạ? Con là Nam … Những con chim của con đã bay mất cả rồi!
Minh nghe thấy tiếng nguyền rủa ở đầu dây bên kia. Không nao núng, Nam tiếp tục nói:
- Sài Gòn, được nửa tiếng, trong chiếc xe Ford đen, mang số EL-5963, trên đường liên tỉnh số 14 lúc khởi hành.
- Bao nhiêu con chim?
- Ba con: số 1 số 3 và số 4, số 2 đang ở đây với con!
- Được, để ta lo Sài Gòn. Đuổi theo đi rồi báo tin bằng vô tuyến nếu có gì mới lạ, lẹ lên nhé!
- Thưa vâng!
Nam đặt máy, ra ngoài trả tiền điện đàm và chạy vội ra đường. Minh chạy theo sau, rồi hai người nhảy lên xe đạp phóng đi.
- Bây giờ anh giải thích tôi nghe đi chứ!- Minh giục Nam
- Cậu để lát nữa, bây giờ phải vội đi.
Hai chiếc xe đạp tiếp tục phóng đi như gió. Minh nản lòng thấy rằng mình không thể đạp mãi được, cậu thở hồng hộc, hai chân cậu nặng như trì. Nam đoán biết ý của cậu vội trấn an.
- Cố ba phút nữa thôi, cậu sẽ được nghỉ.
Lời hứa hẹn khó hiểu đó làm Minh phải suy nghĩ: trong khi đang phóng xe đạp để đuổi một chiếc xe hơi đã chạy trước cả bốn chục phút mà lại được nghỉ là thế nào? Mục đích của Nam là gì? Nhưng cậu bé không còn hơi sức đâu mà suy nghĩ nữa: như một cái máy, cậu phải theo Nam với quyết tâm không rời hắn nửa bước để ngăn cản hắn hại Đào và các em cậu.
Hai người đến một cái kho đóng kín bên vệ đường. Nam nhảy xuống xe. Móc túi lấy chìa khóa và mở cửa kho: một chiếc xe hơi lớn, dài và thon nằm đó.
- Cậu cho xe đạp vào bên trong đi. Tôi lùi xe hơi ra rồi cậu khóa cửa lại …
Vô cùng ngạc nhiên, Minh lẳng lặng làm theo. Máy xe hơi nổ ầm ầm, xe từ từ lùi ra đường. Cậu khóa cửa kho lại, trèo lên ngồi bên cạnh Nam; vài giây sau họ đã tới chỗ gặp ông Du ban nãy.
- Cậu chắc họ đi ngã này chứ?- Nam hỏi.
- Chắc. Nhưng anh phải nói cho tôi biết anh định làm gì mới được chứ, ông Du đã hứa sẽ đưa mấy người kia trở về thì mình cứ đợi ở nhà có hơn không?
- Ông Du sẽ chẳng đưa ai về hôm nay cả. Hắn có mưu toan giữ chị em cậu tới khi nào ba cậu đưa hắn công thức thuốc nhuộm đã khám phá ra.
- Anh nói chi vậy?
- Sự thật!
- Tại sao anh biết? Tôi hiểu rằng co kẻ vẫn tìm kiếm công thức, nhưng kẻ đó … không phải là ông Du.
Nam thắng rít lại vì đường đã tới một ngã tư.
Bây giờ phải biết rõ họ đã đi lối nào …và đường thì trải nhựa và lại khô ráo thế này thì làm sao tìm thấy được vết tích.
Nam bước xuống xe, chau mày quan sát mặt đường.
- Có một vết bánh xe mới thắng chỗ này. Lão ta hẳn chạy mau lắm! Ta thử đi hướng này xem sao. Cậu nói là ông Du không tìm kiếm tài liệu, vậy theo ý cậu thì ai tìm kiếm?
- Ông Luận- Minh lạnh lùng đáp- Và anh!
Cậu chờ đợi một phản ứng mạnh mẽ và những câu la lối om xòm. Nhưng không. Nam chỉ mỉm cười:
- Ai đã cho cậu những tài liệu quý giá đó thế? Kìa, lại một ngã tư nữa! Chẳng thấy dấu vết gì, mình đành phải đi liều lĩnh vậy. Cậu nói đi tôi nghe đây!
Hơi mất tinh thần trước thái độ “phớt tỉnh” của Nam, Minh lẩm bẩm:
- Anh không thể chối cãi rằng anh đã cạy cửa phòng thí nghiệm và anh đã gặp ông Luận đêm hôm nọ.
- Tôi có gặp ông Luận đêm hôm nọ thật. Nhưng có gì chứng tỏ rằng tôi đã cạy cửa phòng thí nghiệm?
- Anh này gớm ghê thật!- Minh bực dọc kêu lên- Có lẽ anh cũng sắp hỏi tại sao tôi biết rằng anh đã đánh cắp chiếc kim vàng của cô giáo và chiếc dây vàng của bà Hà, chiếc vòng của chị Đào? Đây tôi nói cho anh biết ngay rằng chiếc kim, cái dây, chúng ta đã tìm thấy giấu trong phòng anh! Không có chúng tôi thì anh đã ngồi tù với bọn trộm cắp rồi đó.
- Trong phòng tôi … -Nam lập lại- Xin lỗi, sắp tới một xóm nhà nữa, có lẽ chúng ta hỏi thăm được tin tức của họ.
Nam dừng xe hỏi thăm mấy người nhưng không có kết quả: chẳng ai trông thấy có chiếc xe đó cả,
- Chúng ta đã đi trật lối rồi- Nam thở dài- bây giờ phải quay trở lại. Lại mất thêm hai chục phút nữa?
Hắn quay xe để đi ngược trở lại. Minh có vẻ khó chịu vì sự thất bại vừa qua. Một lát sau Nam trở lại câu chuyện bị ngắt quãng.
- Cậu nói nếu không có cô cậu thì tôi đã vào tù. Vậy cô cậu đã hành động ra sao để tránh cho tôi điều bất hạnh đó?
Hắn có vẻ mỉa mai. Minh tức bực lắm, bèn kể đầu đuôi các biến cố đã xảy ra trong các tuần lễ vừa qua
- Sao cô cậu không tố cáo tôi.
- Vì chúng tôi nghĩ rằng có lẽ anh không trách nhiệm về những việc làm đó, vì lý do anh bị mất trí nhớ và nếu anh bị giam cầm thì tội nghiệp quá. Bác sĩ đã nói rằng không khí trong lành, sự yên tĩnh và tính thiện cảm của mọi người là cần thiết cho anh! Vả lại, chị Đào không muốn cho rằng anh là kẻ có tội. Chị tin ở anh và chị đã nói cho anh biết như thế. Ngay sau đó thì lại thấy mất chiếc vòng, trên bàn lại thấy để một bức thư đe dọa chúng tôi ghê rợn nếu chúng tôi can thiệp vào chuyện của người khác. Điều đó làm cho chị ấy đau lòng vì anh vừa nói những lời tử tế mà anh lại hành động như rứa.
- Và mặc dầu như thế, cô cậu vẫn không nói với ai?
- Phải, khi ấy trễ quá rồi, chúng tôi muốn đợi ba về. Mỗi đêm chúng tôi thay phiên nhau canh gác phòng thí nghiệm, vì thế mà tôi đã trông thấy anh nói chuyện với ông Luận đêm hôm đó. Tôi hiểu ngay rằng tai nạn xe hơi, việc anh vào nhà tôi, việc mất trí nhớ, tất cả đã được xếp đặt từ trước để âm mưu chiếm đoạt công thức của ba tôi.
Minh kết thúc bài tường thuật bằng một giọng buồn bã, cay đắng. Nam nhìn cậu bằng con mắt lạ lùng và sắp đáp lại thì chiếc xe đã rẽ vào một làng. Lần này, hắn hỏi được tin tức nhưng lại quá nhiều: người ta đã trông thấy không phải một chiếc xe Ford đen mà nhiều chiếc.
- Có thể chiếc xe của Du đã ở trong số đó- Nam nói- Ta cứ phải đi theo con đường này. Bây giờ, cậu Minh. Tôi muốn biết một điều vì cậu tin tưởng và cậu có “bằng chứng” rằng tôi đã tìm cách đánh cắp một điều bí mật quý giá nhất, thì cớ sao cậu lại ngồi cạnh tôi trong lúc này?
- Vì tôi muốn bảo vệ cho chị em tôi!- Minh đáp lại với giọng thách thức- Và có lẽ … vì tôi ngu xuẩn, nhưng tôi không thể tin rằng trong khi anh là người mà chúng tôi quý mến và anh cũng có vẻ quý mến chúng tôi, mà anh lại có can đảm làm hại những đứa trẻ con. Tôi hy vọng sẽ làm cho anh từ bỏ cái ý định đó.
- Cậu Minh ơi!- Nam nói với một vẻ bùi ngùi- nếu tôi có thể bỏ tay lái với tốc độ này thì tôi sẽ rất sung sướng được bắt tay cậu một cái. Cậu là người cao thương, cô Đào cũng vậy. Tuy nhiên trong câu chuyện của cậu, tôi thấy những chi tiết rất buồn cười! Các đồ trang sức đó, tại sao tôi lại lấy? Để làm người ta nghi ngờ tôi? Hoặc đuổi tôi ra khỏi nhà? Như thế thì quá dại dột!
- Chúng tôi cũng nghĩ như thế đó. Chắc anh biết rõ hơn chúng tôi.
- Không. Tôi chẳng biết tí ti gì cả. Tôi thú thật với cậu là không phải tôi lấy chiếc kim vàng của cô giáo, còn … cái nữa ấy nhỉ?
- Chiếc dây của bà Hà và chiếc vòng của chị Đào.
- Những cái đó cũng vậy. Hơn nữa, tôi không hề giấu các thứ đó trong phòng tôi.
- Vậy tại sao thấy nó ở trong ấy?
- Tôi cũng tự hỏi điều đó.
Nghe vậy, Minh thấy mọi việc đều khó tin, trái ngược và vô lí. Tuy nhiên, cậu không hề thấy sợ hãi, trái lại cậu cảm thấy rất được an ninh bên cạnh người thiếu niên kỳ dị này, đã chối cãi những sự thật hiển nhiên với vẻ rất tự tin.
Vài phút sau, |Nam và Minh đứng nói chuyện với một bà bên lề đường.
- Các cậu kiếm một chiếc xe hơi sơn đen, đã chạy qua đây được một giờ hay giờ rưỡi? Vâng, tôi có trông thấy. Nó chạy nhanh hết sức nhưng có thắng bớt ở chỗ rẽ này và …
Bà ngưng lại, tay bụm miệng cười.
- Thưa bà có trông thấy có mấy đứa trẻ con trong xe không ạ?- Minh hỏi
- Trẻ con thì tôi không nhớ rõ, nhưng ở cửa sau xe tôi thấy có một cô bé, giơ tay làm hiệu và mặt thì làm trò hề. Y như một tên hề gánh xiếc vậy. Năm phút sau tôi vẫn còn buồn cười.
Khi hai người lên xe, Minh nói:
- Tôi chẳng hiểu gì cả! Anh có tin đó là chị Đào không! Xưa nay có bao giờ chị làm trò hề đâu? Vô lý!
- Cô Đào là một cô gái cừ khôi nhất!- Nam đáp- Chắc là cô muốn làm cho người ta chú ý và cô đã thành công. Tới xóm nhà đằng kia chúng ta sẽ hỏi lại.
Giả thiết của Nam đã được xác nhận. Tại các xóm nhà đi qua, nhiều người đã trông thấy một cô gái làm trò hề bên cửa kính của một chiếc xe hơi đen.
- Đúng là cô Đào rồi!- Nam thốt lên- Cô đã làm hiệu cho chúng ta đó! Cô Đào thiệt là hay. Chúng ta đã tìm được đúng lối rồi.
Tới một ngã tư, hai bạn đang tìm kiếm dấu vết trên mặt đường thì một chiếc khăn tay làm Minh phải chú ý. Cậu vội nhặt lên xem.
- Khăn của chị Đào đây này!- Cậu vui mừng kêu lên- Chị ấy đã nghĩ đến cách này, hay thật. Bây giờ thì chúng ta chắc chắn sẽ không nhầm đường được vì đã có dấu của chị để lại.
Cuộc săn đuổi trở thành vô cùng hấp dẫn như một trò giải trí. Minh thốt lên những tiếng kêu đắc thắng khi đi một quãng nữa cậu thấy một chiếc dép của Đào, rồi lại chiếc nữa. Nhưng đột nhiên, cậu thấy chột dạ: triệu chứng này là Đào đã kêu cứu, Đào đang bị nguy cấp. Không phải một trò chơi chạy đuổi nữa mà là một tấn bi kịch!
- Anh Nam, anh nói cho tôi nghe những gì anh đã biết đi! Tôi lo quá đi mất
- Thong thả, vì tôi còn phải báo tin cho ông chủ, nhưng chưa bắt được đài
Minh thấy Nam vặn những chiếc nút trước mặt và một ống nghe vừa tầm tai nghe của Nam. Chàng nói vào một máy vi âm gắn bên trên tấm kính trước
- Thưa ông chủ đó ạ? Con đã tìm ra …
Rồi chàng kể vắn tắt tên con đường, tên các xóm nhà đã đi qua và hướng đi sắp tới. Sau đó chàng cười bảo Minh:
- Xong rồi, vô tuyến viễn thông thật là tiện lợi, bây giờ tôi kể cho cậu nghe nhé!

Chương 10.
Ngồi trên một chiếc ghế, Đào chờ cho trái tim mình trở lại nhịp độ bình thường, vì vừa rồi nó đập như muốn vỡ lồng ngực.
- Ta không nên rối trí trong lúc này?- Cô tự nhủ- Có sợ hãi cũng vô ích, ta phải suy nghĩ xem cần phải làm gì bây giờ.
Dần dần, cô lấy lại can đảm: trước hết cô phải tránh không cho hai đứa em biết chuyện gì đã xảy ra để chúng khỏi sợ hãi. Cô phải nhìn thẳng vào sự thật.
Trong ba ngày nữa, ba má cô sẽ về. Từ giờ tới đó, chắc ở nhà sẽ đi báo cảnh sát để tìm kiếm. Nhưng có thể nào tìm ra không? Những dấu tích cô để lại dọc đường có ai nhận được ra không?
Khi về tới nhà, ba má cô sẽ rất lo sợ. Cô chắc chắn rằng ông kỹ sư Hải sẽ không ngần ngại hy sinh sự khám phá của mình để đổi lấy sự an toàn cho các con ông.
- Tất cả là do lỗi của ta!
Cô bực tức kết luận. Ta đã bị gạt hết sức dễ dàng. Ta đã thiếu suy nghĩ và tin vào câu chuyện của người đó như một đứa con nít. Thật là ngốc.
- Chị ơi! Sao mà lâu thế?- Quang hỏi- Sao ông Du không trở lại hả chị?
- Hay là ông ấy đã quên mất bọn mình- Loan hỏi.
Cố giữ vẻ bình tĩnh. Đào vui vẻ cười đáp:
- Có lẽ ông Du muốn dành cho bọn mình một sự ngạc nhiên không chừng. Chị đoán là cô Thu Trang cũng không đau gì mấy và hai người đang sửa soạn bánh trái để đãi bọn mình đó
- A! Thế thì hay quá- Quang nói- Em đang đói bụng ghê đi!
- Ta đi ra coi thử xem sao!- Loan đề nghị
- Ý kiến hay đó!
Đào bèn đi ra cửa, vặn thử tay nắm rồi trở vào cười nói:
- Chị biết mà, cửa khóa rồi!
- Uổng quá nhỉ! Nếu chúng mình tới mà bắt gặp họ thì hay biết mấy. Loan tiếc rẻ nói.
- Ừ … và bây giờ cũng trễ rồi. Chẳng hiểu ông Du có nhớ điều này không thế?
- Em đói quá rồi- Quang nhắc lại.
Trong vài giây, Đào đã thiết lập xong kế hoạch. Sau khi cố gắng tránh sự lo sợ cho các em, cô khóe léo hướng chúng tới chỗ bực tức. Óc cô làm việc không ngớt và cô ngạc nhiên thấy lúc này cô rất nhiều sáng kiến. Ban nãy cô đã cầu trời phật phù hộ cho cô nên cô rất tự tin. Sau năm phút im lặng, cô nói:
- Họ để cho mình đợi quá lâu rồi. Đây nè! Chị thấy ông Du chẳng coi tụi mình ra gì cả
- Ông ấy kỳ quá- Quang đáp.
Đào se sẽ mở cửa sổ và cúi nhìn ra ngoài. Căn phòng này ở lầu hai và trông xuống một khu vườn bỏ hoang. Nhảy xuống đất thì không được vì tường cao tới bảy thước. Cô quay lại bảo hai em:
- Nếu mình có cai thang hay cái thừng thì tốt quá!
- Vâng, nhưng mình không có thì đành ngồi đợi ở đây vậy
Đào ôm đầu suy nghĩ. Cô thấy tình thế không có gì là khích lệ. Quang lúc này đã quá mệt và đang thiu thiu ngủ.
- Tội nghiệp thằng nhỏ- Loan nói- Hay là đặt em nằm tạm xuống chiếc đi-văng kia!
Nghe nói đến chiếc đi-văng, Đào giật mình vì cô chưa hề nghĩ đến nó. Trên chiếc đi-văng chắc phải có tấm trải giường và tấm trải giường có thể đem làm chiếc thừng rất tốt.
Cô vội lật chiếc khăn phủ giường lên, nhưng cô thất vọng vì không có tấm trải giường. Cô lo lắng nhìn ra cửa sổ, vì bóng chiều đã bắt đầu xuống, chẳng còn bao nhiêu thì giờ nữa.
- Loan ơi!- Cô nói nho nhỏ để khỏi làm thức giấc bé Quang- Thế nào chúng ta cũng phải ra khỏi nơi đây mới được. Chị phải nói thật với em vì em đã lớn. Lão Du đã nhốt chị em mình vào đây và có lẽ hắn sẽ mang mình đi xa hơn nếu mình không chuồn trước. Chị muốn có tấm vải giường để chúng ta làm thang để leo xuống đất.
- Nếu mình cắt cái khăn phủ giường kia ra thì chắc cũng đủ đấy chị ạ. Em có dao đây này, nhưng nếu mình cắt chăn phủ giường của người ta thì không được lịch sự mấy
- Ồ, cần gì! đưa con dao đây cho chị.
Cô bé lấy tay giằng thử tấm chăn, thấy nó rất chắc. Cô có thể cắt nó ra làm ba mảnh, con dao của Loan không lớn lắm nhưng rất sắc.
- Anh Nam đã mài hộ em bữa hôm qua đó. Điều hơi khó là làm thế nào để cho bé Quang xuống được, miễn là nó không kêu ầm lên.
Đào trìu mến nhìn em; Loan đã tỏ ra gan dạ mà Đào không ngờ tới.
- Thế em không sợ hay sao?
- Không, có chị thì em chẳng sợ gì cả! Vả lại, mình đâu có thời giờ!
Đào nối ba mảnh vải lại với nhau, và buộc vào đầu cây sắt vịn tay ở cửa sổ.
- Em xuống trước nhé! Chị sẽ kéo dây lên buộc bé Quang vào rồi ròng xuống cho em. Khi xuống tới đất, em phải nép mình vào tường và đợi bé Quang. Chị sẽ xuống sau. Đừng gây tiếng động nhé!
- Vâng! Em xuống trước.
Không chút do dự, con nhỏ leo qua cửa sổ. Đào thầm cảm ơn ông bố đã dậy các em tập thể thao. Nhanh như một con khỉ, Loan tụt xuống đất không khó khăn gì. Đào kéo chiếc dây lên và nhẹ nhàng đánh thức bé Quang dậy.
Cô bảo thằng nhỏ thử sức nó trong một trò chơi mới, điều cần nhất là phải im tiếng. Bé Quang ngoan ngoãn để cô chị buộc chiếc dây xung quanh người và dòng xuống như một gói đồ. Đào đứng tựa vào thành cửa sổ. Lấy hết sức bình sinh để buông chiếc dây xuống từ từ, không một vấp váp. Khi thằng nhỏ đã tới đất, cô thấy mồ hôi đổ ra như tắm và đến nỗi không thể cử động nổi nữa. nhưng cô không để ý đến những chi tiết đó, vì cô phải xuống ngay với hai em.
Cô vừa xuống tới mặt đất, Loan vội thì thầm:
- Phía trái này không có ai, các cửa sổ đều đóng kín, em đã nhìn kỹ rồi chị ạ.
Ba chị em bèn lần theo lối đó đi ra vườn. Đất thì khô và cứng, không nom rõ vết chân.
Năm phút sau lũ trẻ phải dừng bước trước một bức tường cao chắn ngang lối đi
- Chết rồi … ra bằng cách nào?- Loan hỏi
Tiếng của con nhỏ run run. Để trấn an, Đào làm bộ vô tư đáp:
- Thì mình sẽ ra bằng lối cổng! Giản dị nhất
Dầu sao thì ra lối cổng vẫn dễ hơn leo qua tường. Ba chị em bèn lần theo chân tường ra phía cổng rồi sẽ núp gần đó để chờ cơ hội thoát ra ngoài. Dĩ nhiên, Du sẽ khám phá ra lũ trẻ đã biến mất: hắn sẽ có đủ thì giờ để lục soát toàn bộ khu vườn trước khi trời tối mịt không? Đó là một câu hỏi đáng lo ngại.
Lúc đó, trời đã tối hẳn. bóng đêm bao bọc khu vường vắng vẻ. Đào vừa đi vừa cúi nhìn xuống đất để dẫn lối cho bé Quang. Khi ngẩng mặt lên, cô bé sửng sốt bước lùi lại: một căn nhà nhỏ hiện ra sau lùm cây, cửa đầy những song sắt lớn.
- Có phải một căn nhà tù đây không hả chị?- Loan run rẩy hỏi
- Các em đứng đợi chị ở đây nhé!
Nói đoạn Đào rón rén bước chung quanh căn nhà. Bên hông có một cái cửa sổ đóng kín. Phía kia là một cái cửa sổ cũng giống cái trước, có ánh đèn sáng lờ mờ. Nhịn thở, cô bé bước lại gần, kiễng chân nhìn vào trong. Cô thấy một căn phòng nhỏ có tủ để đồ đạc: những cuốn sách xếp đầy một chiếc tủ, mấy cái ghế bành trông có vẻ êm. Ngồi trước một chiếc bàn là một thiếu nữ đang đọc sách, tay chống vào trán. Đào chỉ trông thấy bộ tóc và nét cong gò má của thiếu nữ, cô bé sợ sệt tự hỏi không biết có phải đây là cô Thu Trang đang bị ông anh họ giam cầm hay không?
Thiếu nữ hình như cảm thấy có người nhìn mình vội ngẩng đầu lên: không, không phải cô Thu Trang. Trông vẻ mặt thiếu nữ buồn buồn … tại sao cô ở đây một mình?
Sự kiên nhẫn và sức chịu đựng của đứa bé con chỉ có giới hạn. Quang thấy cái trò chơi mà chị nó bày ra đã quá dài. Nó cho rằng bữa ăn mà nó vẫn trông đợi đang được sửa soạn trong căn nhà nhỏ này. Trước khi Loan đoán ra được ý định của thằng nhỏ hoặc ngăn ngừa nó lại, thì nó đã chạy thẳng ra cạnh Đào và gọi lên the thé:
- Chị Đào ơi! Sắp được ăn chưa thế?
Cô bé suýt ngã bổ chửng. Thiếu nữ trong nhà cũng giật mình, vội đứng dậy chạy ra cửa sổ và thấy Đào đang chực lôi Quang đi.
- Các em làm gì ở đây vậy?
Chạy trốn lúc này vô ích. Đào bèn đối phó với tình thế và để tranh thủ thời gian cô bèn hỏi lại:
- Thưa cô là ai?
Thiếu nữ lạ nhún vai thở dài đáp
- Chị thấy nói cho các em rõ cũng chẳng lợi ích gì, nhưng chị không có gì phải giấu, chị là Trang.
- Cô Trang- Đào sửng sốt nhắc lại- Cô muốn nói gì?
- Không phải cô này là cô giáo!- Quang bĩu môi đáp
Thiếu nữ bỗng quay nhìn vào phía trong vì một người đi ra, để lộ mặt dưới ánh đèn:
- Cô Thu Trang!- Đào kêu lên
- Đào! Quang! Trời ơi các em ở đây à?
Sắc mặt cô tái nhợt. Quang chẳng hiểu ra sao cả vội hỏi:
- Cô không bị đau ạ, thưa cô?
- Không, cô không bị đau gì cả! Em Đào! Em phải đi khỏi chỗ này ngay lập tức!
- Thưa cô! Chính em cũng muốn thế, nhưng không phải dễ gì, cô bé nhăn nhó đáp. Cô có thể giúp đỡ các em được không ạ?
- Không thể được … không thể được! Chúng ta bị nhốt ở đây: nhưng các em đã tới đây bằng cách nào? Trời ơi! Tôi phát điên mất! thôi các em đừng chậm trễ nữa, phải trốn ngay tức thì, đừng để người ta trông thấy các em ở đây!
- Thế còn bữa ăn?- Quang thất vọng hỏi.
- Thưa cô, có có gì cho nó không ạ? Một mẩu bánh mỳ hay bất cứ cái gì cũng được ạ!
- Có gói bánh quy trên đầu tủ đó chị Trang ạ!- Thiếu nữ nhắc
Cô giáo lấy gói bánh đưa qua chấn song sắt cho Đào :
- Các em đi lẹ lên nhé! Cô giáo thúc giục
Đào thấy cô khóc. Nhưng em không thể nào an ủi mặc dù em rất muốn. Sự hiện diện của hai thiếu nữ mang cùng một tên Trang làm em rất thắc mắc. Nhưng bây giờ không phải lúc khám phá ra điều bí mật này. Cô bé kéo tay Quang đi ra chỗ Loan và ba chị em lần bước trong đêm tối .

Chương 11.
Nam giảm bớt tốc độ rồi đậu xe bên lề đường nói:
- Chúng ta xuống chỗ này để nghiên cứu địa điểm xung quanh đây và đợi ông chủ chắc ông sắp tới rồi đó.
Hoàng hôn xuống dần
- Chúng ta đã mất quá nhiều thời giờ, uổng quá- Nam lầu bầu
- Nhưng chắc chúng ta đã gần tới mục tiêu- Minh đáp
- Phải, nếu mục tiêu đã không được chuyển qua chỗ khác.
Nam mở một chiếc túi ở cửa xe, rút ra một khẩu súng lục bỏ vào túi quần nói:
- Cần phải đề phòng … bây giờ ta đi
Minh bước theo với một niềm tin cậy vô biên… Bây giờ cậu đã hiểu
Sáu tuần lễ trước đây, cậu vẫn lo ngại rằng người ta sẽ khám phá ra điều bí mật của ba cậu. Trong khi đó, một người khác cũng đã dự liệu việc ấy: ông Luận.
Ông Luận vẫn biết tiếng tăm của kỹ sư Hải và là bạn thân của ông giám đốc công ty sắp đem ra áp dụng công thức thuốc nhuộm của kỹ sư Hải. Ông giám đốc thì lo ngại một âm mưu đánh cắp những tài liệu quý giá đó nên bảo với ông Luận:
- Những nhà thông thái đều giống nhau cả! Họ bay bổng trên chín tầng mây khoa học và không ngờ rằng những kẻ bất lương đang rình mò để kiếm lời một cách dễ dãi. Kỹ sư Hải có một đàn con … mà người ta có thể bắt cóc để đòi tiền chuộc! Chắc bọn gian phi phải nghĩ đến biện pháp đó. Vậy tôi muốn nhờ anh trông nom giúp gia đình đó được không?
Ông Luận chính là nhà thám tử trứ danh Lê Hùng. Ông ta có một người thư ký riêng kiêm cộng sự viên: Đó là Nam, cháu ông, một thanh niên giàu nghị lực, thông minh và hăng hái. Tất nhiên ông Luận không thể đích thân đến ở tại biệt thự của kỹ sư Hải để trông nom các con cho ông ta vì ông thấy cần giấu kín tên tuổi và nghề nghiệp của mình. Vả lại, ông còn muốn tự do đi lại: người thư ký của ông có thể làm công việc đó mà không ai để ý. Thám tử Lê Hùng bèn xếp đặt câu chuyện tai nạn xe để Nam có cơ hội vào ở trong nhà kỹ sư Hải. Mưu cơ đã thành tựu và Nam giữ nhiệm vụ canh chừng gian phi, trong khi các con ông chủ lại cứ bám sát hắn mà hắn chẳng hiểu được lí do tại sao? Thỉnh thoảng thám tử Lê Hùng đến hỏi phúc trình của Nam và cho biết các tin tức chính mà ông đã thu lượm được: Ông chắc chắn có một bọn người âm mưu đánh cắp điều bí mật của ông kỹ sư Hải; bọn chúng có bao nhiêu người ông ta chưa biết rõ.
- Vụ này có lẽ giúp chúng ta lột mặt nạ và tóm trọn ổ bọn chúng!- Ông bảo Nam- Con phải hết sức để ý nhé!
Nam đã hết sức để ý. Hắn thấy hành động của tên Du rất đáng nghi ngờ. Mặt khác thám tử Lê Hùng cũng đã sưu tầm tài liệu về cô Thu Trang: không có gì chứng tỏ cô có một người anh họ.
Khi kỹ sư Hải báo tin sẽ hồi hương sớm hơn dư liệu. Nam phỏng đoán sắp có biến chuyển lớn xảy ra. Nên hắn đã có cuộc hội kiến với thám tử Lê Hùng như ta đã biết. Những tài liệu của kỹ sư Hải vẫn được cất kỹ tại tủ sắt của nhà máy, nên những quân gian phi đã mất hết hy vọng được đánh cắp trực tiếp. Nhưng còn những đứa con …Lo xa. Thám tử đã để gần ngôi biệt thự một chiếc xe hơi rất khỏe có máy vô tuyến truyền tin để Nam sử dụng khi cần đến. còn chính ông ta thì theo dõi tên Du.
- Tên đó chạy suốt ngày- Nam giải thích với Minh- Chỗ nào hắn cũng có “tổ” để đồng bọn tụ tập, ông chủ đã biết hết. Chắc gần đây phải có sào huyệt của chúng.
- Các sự việc trên chưa cho biết ai đã đánh cắp những đồ trang sức và giấu nó trong phòng anh- Minh nói- Và ai đã cạy cửa phòng thí nghiệm?
- Rồi tôi sẽ nói cho cậu biết vụ này.
Minh thấy lời phỏng đoán của Nam rất khó tin, nhưng tất cả cái gì cũng lạ lùng trong vụ này thì sự gì cũng có thể xảy ra được.
Nam tiến vào một con đường gồ ghề dẫn tới một cái cổng đóng kín. Hắn leo lên một cành cây để nhìn vào trong. Trở về chỗ Minh đứng hắn nói:
- Bên trong có một cái sân và một ngôi nhà. Tôi phải vào thám thính kỹ hơn mới được. Cậu leo lên cái cây này ngồi ẩn, kín lắm. Rồi đợi tôi ở đó nhé!
Nam trèo qua bức tường rào một cách dễ dàng.
Ngồi trên một cành cây lớn, Minh cố gắng kiên nhẫn. mà đêm đang từ từ buông xuống, cậu thấy thời giờ quá dài. Nam thì mãi chẳng thấy trở lại, mà thám tử Lê Hùng thì vẫn chưa đến. Cậu thấy trong dạ bồn chồn lo âu.
Bỗng cậu nghe thấy tiếng một chiếc xe hơi đang rẽ vào ngõ này. Chắc ông Lê Hùng đây rồi!
Chiếc xe này là loại xe chở hàng đóng kín cửa. tới đỗ trước cổng biệt thự. Tiếng còi xe ré lên để gọi cửa bằng một mật hiệu hết sức lạ lùng: một dài, hai ngắn, hai dài, một ngắn. cánh cổng được mở ra rồi vội vã đóng lại khi chiếc xe vừa vượt qua.
- Không phải là ông chủ rồi- Minh thất vọng thở dài- Nhưng ta phải nhớ kỹ cái mật hiệu vừa rồi mới được
Ba người ở trên xe bước xuống và nói chuyện với một người từ trong nhà đi ra mà Minh nhận rõ là tên Du. Họ vào tất cả trong nhà, bây giờ trời đã tối hẳn, các ngọn đèn pha của chiếc xe chiếu sáng khoảng sân và các bậc lên xuống. Minh hoảng hốt tự nhủ
- Miễn là chúng đừng mang Đào và các đứa nhỏ đi nơi khác. Một mình anh Nam làm sao cản được chúng?
Bỗng cửa tòa nhà lại mở, bốn người hiện ra rồi tiếng cãi lộn phá tan bầu không khí yên lặng, nhưng Minh ở quá xa không nghe rõ
- Chuyện gì đang diễn ra vậy?- Cậu bé lẩm bẩm- Làm thế nào để ta biết họ định làm gì bây giờ? Nhưng có lẽ Nam ở trong đó thì anh sẽ có thể biết được.
Trong khi ấy, Nam núp sau một góc tường nhà, lắng tai nghe và suýt kêu lên vì sung sướng: các tướng này đã khám phá ra rằng những đứa trẻ đã trốn mất và Du đang bị bọn kia rầy la cẩn thận bằng những danh từ nặng nề: nào là đồ ngây thơ, đồ ngốc ngếch, bất lực …
- Tụi nhãi con đâu rồi?- Một tên hỏi với giọng bực tức
- Chắc chúng không thể đi xa được- Du đáp- Chúng còn ẩn nấp trong vườn cây, tụi em sẽ tìm ra dễ dàng.
- Dễ dàng … phải! Trời tối đen như mực thế này mà dễ dàng?
- Con nhỏ đó bận chiếc áo trắng: nếu lục soát bằng đèn bấm, tụi em sẽ tìm ra. Khu vườn này không rộng lắm, bốn đứa bọn em chia nhau đi một vòng mau lắm!
- Thế ngộ chúng đã cao chạy xa bay rồi thì sao?
- Thưa, không thể được- Du cương quyết đáp- Khu vườn này có tường cao bao bọc, chúng nó làm sao có thể trèo qua nổi! Bây giờ tụi em dàn thành hàng để đi khắp vườn, chúng sẽ bị dồn vào một chỗ bí rồi bị tóm.
- Thôi được, lẹ lên. Đáng lẽ ta phải đi khỏi nơi này từ nửa tiếng nếu mi không bị tụi nhãi đó gạt
- Rồi chúng sẽ phải đền tội!- Du lẩm bẩm.
Nam thấy chột dạ, vì nếu họ lục soát thì thế nào bọn trẻ cũng bị bắt. Hắn phải làm sao để can thiệp nếu thám tử Lê Hùng không đến kịp.
Hắn thấy bọn người kia tay cầm đèn pin chia nhau đi tìm lũ trẻ. Du đã tắt hết các đèn pha của chiếc xe hơi và khoảng sân bị chìm vào bóng tối. Nam từ chỗ núp đi ra, lần bước tới chỗ chiếc xe đậu, cậu mở nắp lên và cắt hết dây điện bên trong, tháo bu-gi và liệng vào một bụi cây gần đó. Như vậy bọn bắt cóc trẻ con sẽ khó bề đi thoát. Còn chiếc xe của Du ở phía bên kia nhà cũng bị Nam phá hoại như thế.
- Bây giờ thì ta đi gặp bọn trẻ- Hắn nghĩ
Hắn bèn rút đền bấm soi chung quanh, hắn bật lên một tiếng kêu nho nhỏ: cách đó vài thước một bóng trắng hiện ra.
Hắn vội tiến lên, chưa dám tin vào sự may mắn vô vọng này. Đào, Loan và Quang đã nhận ra Nam khi hắn tự chiếu đèn pin lên mặt. Cô bé kinh ngạc hỏi:
- Anh Nam, anh ở đây à?
- Vâng, đúng là tôi. Cậu Minh và tôi đã tới đây tìm cô. Xin đi theo tôi, lẹ lên!
Nam dẫn ba người chạy qua sân núp vào góc tường nhà.
- Chúng ta phải trốn đi chứ?- Quang nói
- Phải, trốn đi ngay bây giờ.
Như lên cơn sốt, Nam vặn óc để tìm phương kế. Trốn đi! Bằng cách gì? Hắn biết rằng cánh cổng đã bị khóa. Tốt hơn là đi tìm ngay một chỗ trú ẩn an toàn trong khi đợi thám tử Lê Hùng đến, một chỗ mà cả bốn người kia khó có thể khám phá ra được.
Hắn đảo mắt nhìn chung quanh. Giữa sân, chiếc xe hơi vẫn nằm đó. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu hắn.
- Tụi mình lên đây mau!
Đào lúc đó đã mệt quá, chẳng còn hơi sức đâu mà bàn cãi, đầu óc cô cũng bị mụ mẫm không còn suy luận gì được nữa. Cô ngoan ngoãn trèo lên xe. Nam nhấc hai đứa bé lên, hắn trèo nốt lên rồi đóng kỹ cánh cửa hậu lại.
- Mấy người nằm xuống tất cả- Hắn ra lệnh- Bất cứ chuyện gì xảy ra cũng không được cựa quậy và phải yên lặng tuyệt đối. Tôi sẽ có cách. Ồ may quá!
Tay hắn vừa rờ thấy một cái chăn, vội giở ra và đắp lên người lũ trẻ, che kín chiếc áo trắng của Đào. Hắn tìm kiếm thêm và thấy một khe hở có thể nhìn ra bên ngoài được. Rồi hắn cũng nằn xuống, mắt dán vào khe hở, tay cầm sẵn khẩu súng lục để chờ đợi.
Chẳng mấy chốc, những ánh đèn pin soi bói đã tiến về gần: nó chiếu xuống đất, chiếu lên cây, bắt chéo nhau rồi chụm lại, và bọn người đã về tới sân. Những giọng nói bực tức nổi lên.
- Anh muốn gạt chúng ta đấy hả? Những đứa trẻ bất trị này làm gì có ở đây?
- Chúng không thể ra bằng cách nào được- Du đáp
Bọn ngườilại tiếp tục soi đèn, nhưng vô hiệu.
- Coi chừng kẻo bọn mình lại bị tóm cổ ở đây- Tên đầu đảng tức giận nói- Anh Du tiếp tục kiếm đi, còn bọn ta phải rút ngay bây giờ. Nổ máy xe đi Ba! Lẹ lên!
Một tên trèo lên xe. Từ lúc lọt lòng mẹ, Đào chưa hiểu sợ là cái gì. Nhưng lúc đó cô được làm quen với nó. Một nỗi kinh hoàng khủng khiếp làm cô lạnh toát cả người, trong khi mồ hôi trán vã ra ướt đẫm. Lúc ấy, hai đứa nhỏ mệt nhoài đang ngủ say như chết.
Ba loay hoay một lúc vội kêu lên
- Cái “đề” (1) này hư rồi! Tôi thử quay “maniven” (2) xem sao?
Chiếc xe bị rung chuyển lên từng hồi, nhưng máy vẫn không chịu nổ. Ba cáu kỉnh mở nắp xe lên coi.
- Đưa tôi mượn cái đèn pin đây …! Ơ! Khổ chưa này! Các đường dây đã bị cắt hết, và không còn bu-gi!
Một cảnh hỗn loạn vô tả diễn ra. Rồi Nam nghe thấy bọn chúng bảo Du đi lấy chiếc xe của hắn. Những tiếng kêu tức tối lại nổi lên dữ dội hơn, khi bọn chúng thấy chiếc xe của Du cũng bị phá hoại và nằm ì một chỗ.
- Nếu bọn chúng mà tìm thấy chúng ta, chắc chúng sẽ mang ra giết hết- Nam sởn tóc gáy tự nghĩ.
Nhưng trong lúc hoang mang, Du và đồng bọn quên mất lũ trẻ. Sự phá hoại các chiếc xe cho chúng hiểu rằng tung tích của chúng đã bị lộ nên chúng chỉ nóng lòng muốn chuồn đi cho lẹ.
- Xe không chạy thì ta đi bộ vậy!- Một tên đề nghị, ra tới xa lộ chắc phải có ta-xi
Vừa lúc đó thì có tiếng máy xe hơi vọng lại và lớn dần, lớn dần. Bỗng tiếng còi xe ré lên: một dài, hai ngắn, hai dài, một ngắn …
- Chắc là Bạch đã tới đó!- Tên đầu đảng nói- Hắn đợi lâu sốt ruột nên tới đây thăm tin tức.
Du rút chìa khóa ra mở cổng: cả chục người võ trang ập vào sân, ánh đèn pha bật sáng lòe:
- Giơ tay lên !- Có tiếng hô lớn
- Ông chủ đây rồi! Cám ơn trời phật!- Nam thành khẩn nói
_________________________________________________________________________
(1) Ở chữ Demarreur: Máy phát hành
(2) Ở chữ Manivelle: trục quay tay

Chương 12. Hết
Du và mấy tên đồng bọn đã bị xích tay, đang đứng giữa sân, mặt nhăn như bị. Thám tử Lê Hùng lên tiếng:
- Nam có đó không thế
Cánh cửa hậu chiếc xe rơi đánh rầm một tiếng và Nam lẹ làng nhảy xuống đất:
- Thưa, con đây ạ!
- Lũ trẻ đâu?
Nam giơ tay đỡ Đào nhảy xuống. Cô bé hiện ra, đầu tóc bù xù, miệng tươi cười:
- Chào ông ạ! Cô nói. Nếu ông cho phép thì cháu xin để cho các em cháu ngủ yên trong xe.
Thám tử cả cười:
- Chỗ ngủ này lựa khéo đấy chứ! Nam! Con khá lắm!
Bộ mặt tên Du và đồng bọn tỏ ra căm tức, nhưng Đào không có can đảm nhìn chúng. Cô nói với nhà thám tử:
- Thưa ông Luận, cô giáo Trang và một cô nữa đang bị nhốt ở một căn nhà giữa vườn ạ. Cháu xin dẫn ông tới đó!
Thám tử Lê Hùng gật đầu nói:
- Cô Đào, cô và cậu em cô là những cộng sự viên rất đắc lực, biết đủ mọi điều. Chính tôi đang tìm kiếm các thiếu nữ đó.
- Thưa ông, em cháu đâu ạ? Anh Nam có nói là em cháu cũng tới đây, nhưng lúc đó cháu mụ người chẳng nhớ gì hết
- Chị ơi, em đây!- Minh đáp.
Từ phía sau nhà thám tử, cậu tiến lên phía Đào:
- Gặp chị ở đây em mừng quá! Nếu không có anh Nam với các chiếc giầy, chiếc vớ và những trò hề của chị khi đi qua những xóm nhà, thì em tự hỏi không biết bây giờ chị đang ở tận đâu?
Không ai hiểu câu nói vừa rồi. Ông Lê Hùng nói:
- Rồi lát nữa em sẽ giải thích rõ điều này cho ta nghe.
- Vâng, và xin ông cũng cho con biết ông đã làm cách nào để đột nhập dễ dàng như vậy!- Nam tiếp- con cứ lo là công việc bị trở ngại bất ngờ!
- Điều này do công của Minh đó. Cậu bé đã ra chờ bọn ta tận ngoài đại lộ và nói cho biết cái mật hiệu kèn xe mà cậu đã nghe thấy và nhớ được khi quý ông này vào đây ban nãy. Ta đã làm con đợi quá lâu, tội nghiệp! Lý do là xe bị “ăn banh” (1) bất tử. Ta sốt ruột vô cùng. Nhưng rồi công việc đã trôi chảy. Bây giờ ta đi xem các thiếu nữ kia đâu nào! Trong khi chờ đợi, các anh lính hãy giải những tên này về nhà giam cho ta.
- Thưa ông, có ai ở lại đây với các em của cháu không ạ?- Đào hỏi.
- Cháu cứ yên tâm, bọn ta đông người lo gì! Một chiếc xe lớn của ty cảnh sát cũng đã tới đây.
- Thưa ông chủ, còn một tên nữa là Bạch cũng sắp tới đây- Nam nói, ban nãy khi ông bóp kèn xe thì bọn này lại tưởng là hắn đến.
- Tốt lắm! Tên đó cũng sẽ bị tóm cổ nốt.
Một giờ sau, Đào ngồi cạnh thám tử Lê Hùng trên chiếc xe của ông chạy về biệt thự Thu-Phong. Minh và hai thiếu nữ ngồi ở ghế sau yên lặng và sợ sệt.
Nam theo sau với hai đứa nhỏ với chiếc xe lớn dành cho hắn. Tên Bạch cũng đã đến để lấy tin và cũng bị bắt nhốt cùng với đồng bọn.
- Thưa ông, chắc bác Hà cháu lo lắng lắm!- Đào nói.
- Không sao đâu, ta đã cho người kêu điện thoại báo tin cho bà yên tâm rồi. Ước mong rằng bà đã cho người sửa soạn cơm nước cho bọn ta. Chắc ai cũng đói bụng lắm rồi thì phải.
- Thưa ông, vâng ạ- Đào đáp- Bất cứ có gì là cháu ăn nấy!
- Thì ăn tạm mấy chiếc bích-quy đi. Cháu lấy trong chiếc túi ở cánh cửa đó, mời cả mấy cô kia ăn một thể.
Đào đang lo lắng về hai thiếu nữ: thám tử Lê Hùng đã cho mở cánh cửa ngôi nhà và bảo các cô đi theo, chưa hỏi han gì cả. Đào tự hỏi cô Thu Trang sẽ ra sao: Cô là đồng lõa của Du đến mức nào? Cô có bị tù tội hay không? Và còn thiếu nữ kia tự xưng tên Trang là ai? Trời ơi! Rắc rối quá!
Đồng hồ vừa điểm 11giờ đêm. Khi cả bọn về tới biệt thự. Bà Hà cho bế bé Loan và Quang lên lầu ngủ, rồi mọi người ngồi vây quanh chiếc bàn tại phòng ăn, có cả Nam.
Thám tử Lê Hùng lên tiếng:
- Tôi yêu cầu hai cô kể rõ vai trò của mình trong vụ này. Cô Trang nói trước đi.
Cô bạn của cô giáo ngẩng lên đáp với giọng bẽn lẽn:
- Thưa ông, tôi chẳng có gì nhiều để nói. Tôi không giữ một vai trò gì ạ!
- Vậy để tôi đặt câu hỏi. Tôi đã thu thập được một vài tài liệu về cô, nếu đúng thì cô xác nhận cho tôi biết. Cô đã từ giã bà mẹ với ý định đến đây dạy học các con kỹ sư Hải phải không?
Thiếu nữ gật đầu:
- Khi cô tới bến xe Sài Gòn, cô không kiếm được taxi. Một ông lịch sự ngồi xe hơi đã đề nghị cho cô giáo quá giang tới đây, và cô đã chịu.
Thiếu nữ lại gật đầu:
- Như thế là cô đã hành động dại dột, không nên bao giờ đi theo một người lạ cả. Tên đó đã dẫn cô tới một nơi khác.
- Thưa ông, hắn nói là hắn đi tới một biệt thự gần ngay biệt thự của bà Hải, nên tôi thấy cũng tiện đường, trời lúc đó lại gần tối.
- Đồng ý, nhưng thay vì biệt thự của bà Hải, cô lại được đưa tới một căn nhà nằm khuất trong một khu vườn cây cối um tùm và nếu Đào không khám phá ra thì lúc này chúng tôi vẫn đang tìm kiếm cô chưa thấy! Thế hắn nói sao về sự thay đổi chỗ ở như thế?
- Thưa, hắn nói là có một mối nguy cơ đang đe doạ tánh mạng của tôi và muốn tránh khỏi thì tôi phải ở yên trong đó, không được trốn đi. Tôi sợ lắm, nhưng không biết làm cách nào để kháng lại. Tôi chỉ có một mình bị nhốt trong căn nhà đó, hàng ngày chỉ có một bà già mang cơm nước vào, không nói năng một tiếng nào. Tôi có sách để đọc, tôi cũng nhận được tin tức của má tôi nữa. Tôi chẳng hiểu chi cả. Tôi lo sợ lắm!
- Bây giờ cô không còn phải lo sợ gì nữa. chung quanh cô đều là bạn cả. Cô bạn đây đã tới với cô ba ngày trước đây phải không?
- Vâng, ông Du đã dẫn chị ấy đến. Hình như hai người đã cãi lộn: ông ta có vẻ tức giận và chị ấy thì khóc lóc suốt ngày. Tôi cố gắng an ủi chị ấy nhưng chị ấy chỉ trả lời: “Thật là ghê gớm! Chị không hiểu nổi!”. Rồi chị ấy không nói thêm gì nữa
- Lát nữa cô ấy sẽ nói- nhà thám tử dịu dàng nói- Cô ấy cũng hiểu rằng bây giờ không còn phải lo sợ gì nữa vì đã có chúng tôi bảo vệ cho. Bây giờ thì cô giáo nói đi. Không ngại gì hết. Trước hết tên thật của cô là gì?
- Thưa, tôi là Diễm Trang. Khi tôi gặp cô Thu Trang, tôi đã hiểu tại sao mà ông Du đã chọn tôi để giao cho một nhiệm vụ đáng sợ mà ông đã đoán biết. Cùng tên, cùng khổ người, cùng học vấn, và hơn nữa …
Tiếng cô nghẹn ngào vì xúc động. Cô cố trấn tĩnh và nói tiếp:
- Ba tôi khi xưa đã làm ăn thất bại. ông rất tốt nhưng quá hiền lành. Thật là một điều bất hạnh cho ba tôi khi gặp ông Du, giao dịch với hắn rồi vay hắn rất nhiều tiền. Khi ông qua đời từ hai năm nay, lão Du đã tỏ ra rất tận tâm với gia đình tôi: tôi còn ba em nhỏ, má tôi thì thường đau yếu và tôi đã sớm kết thúc việc học để giúp đỡ gia đình. Không những Du không đòi món tiền nợ mà còn giúp má con tôi tiền bạc để chi tiêu trong nhà. “Cháu Trang sẽ trả dần, khi nào cháu có công ăn việc làm”. Hắn nói. Tôi không rõ ba tôi đã nợ hắn bao nhiêu tiền.
- “Cách nay hai tháng, hắn đến gặp tôi và lạnh lùng đưa tôi coi các giấy nợ của ba tôi, trong đó ông cam kết sẽ trả ngày nào mà Du cần đến”
- Ngày đó đã tới, Du bảo tôi. Cô phải tôn trọng lời cam kết của ba cô.
- “Lẽ dĩ nhiên là tôi không thể làm nổi điều đó. Du đã nhẫn tâm bảo tôi rằng nếu tôi không trả được nợ, hắn sẽ cho bán nhà cửa đồ đạc của má tôi và đuổi mẹ con tôi ra đường. Tôi đã van nài hắn, nhưng hắn không nghe. Tôi rất lo âu, vì má tôi không chịu đựng được nông nỗi đó. Còn các em tôi? Một mình tôi không hy vọng gì kiếm ra đủ tiền để trả nợ và nuôi sống gia đình. Tôi không giấu được nỗi thất vọng và Du đã lợi dụng tình thế đó”
Cô Diễm Trang cúi đầu, lau những giọt lệ tuôn rơi lã chã. Đào quá thương cảm vội đứng dậy tiến tới ôm lấy vai cô giáo để vỗ về an ủi. Sau vài giây, cô giáo nói tiếp, giọng nghẹn ngào:
- Lão Du đã đề nghị với tôi một điều giao ước: nếu tôi nghe lời hắn, nếu tôi nhận giúp hắn trong một công việc tế nhị, hắn sẽ coi như tôi đã trả hết nợ và sẽ hoàn lại cho tôi tôi giấy tờ nợ của ba tôi. Hắn buộc tôi phải ưng thuận trước khi nói cho tôi biết việc gì. Không còn cách nào hơn, tôi buộc phải chấp thuận.
- “Rồi hắn giải thích cho tôi biết công việc phải làm. Khởi đầu, tôi thấy cũng không có gì là tội lỗi. Đó là việc thay thế một cô để dạy các em học vì cô đó mắc bận bất ngờ. Tôi sẽ phải giấu kín không cho ai biết sự thay thế này, tôi sẽ phải viết thư đều đặn cho bà mẹ của thiếu nữ mà tôi thay thế, nhưng các thư đó phải đánh máy, vì một lí do nào đó, để khỏi lộ mặt chữ của tôi. Tôi vẫn lo rằng đây là một vụ rất quan trọng. Tôi ngờ rằng tên Du đã làm cho công việc của ba tôi ngày xưa bị thất bại và tôi cho hắn là một kẻ không lùi bước trước một tội lỗi gì”
- “Khi tới đây tôi đã được ông bà kỹ sư Hải tiếp đón một cách rất niềm nở và tôi đã thực lòng hứa hẹn sẽ trông nom con cái cho ông bà. Các em đây đã tỏ ra rất quý mến tôi, cũng như mọi người khác trong nhà, và tôi cũng mến các em lắm. Tóm lại, cái mưu cơ của Du có vẻ vô hại, tôi đã làm phận sự rất tận tâm và không ai trong nhà này khó chịu vì sự hiện diện của tôi cả. Tuy nhiên, tôi thấy rất khổ tâm phải đóng một vai trò của người khác và tôi vẫn tự hỏi tại sao Du đưa tôi tới đây?”
- “Lúc đó thì tai nạn xe hơi và sự có mặt của Nam. Tôi rất thắc mắc vì tôi thấy tai nạn có vẻ khó tin quá! Sống trong sự giả dối làm tôi sinh ra nóng nảy: có phải Du muốn cho người do thám tôi không?”
- “Chẳng bao lâu tôi biết rằng không phải như thế. Du tới thăm tôi tự nhận là anh họ của tôi. Hắn nổi giận khi hay biết câu chuyện về Nam. Từ đó tôi mới hiểu tất cả: hắn muốn chiếm đoạt điều bí mật của kỹ sư Hải và trông cậy vào tôi để hắn ra vào đây được dễ dàng. Hắn cũng lo ngại môt người khác đang thực hiên mưu toan như hắn. Hắn nói Nam là tay sai của đối phương, tôi phải làm thế nào cho anh ta bị đuổi. Hắn còn nói rằng hắn đang làm việc cho một tổ chức rất thế lực và tôi phải cúi đầu vâng theo tất cả mệnh lệnh của hắn, nếu không thì sẽ gặp những điều chẳng lành. Hắn chỉ cho tôi cách hành động để loại bỏ Nam và báo cho tôi biết hắn sẽ đến lục soát phòng thí nghiệm một đêm: tôi phải làm thế nào để Nam bị nghi ngờ về vụ này. Thất vọng, tôi đành phải tuân hành”
- Thưa cô, Du đã nói với cô tất cả những điều ấy khi cô khóc nhiều có phải không ạ?- Đào hỏi
- Đúng em ạ!- Cô giáo ngao ngán đáp- Em đã quá tốt với tôi! Tôi đã đứng trước một cảnh ngộ éo le rất khó xử: hoặc là làm hại ba em và các em, hoặc gây tai hại cho má tôi và các em tôi! Tuy nhiên tôi vẫn hy vọng che chở được các em. Và tôi nghĩ là có thể làm hại Nam mà không ân hận gì nên tôi tìm cách làm cho anh ta bị nghi ngờ là ăn cắp.
- Trời ơi!- Minh kêu lên- Vụ chiếc kim vàng là do cô tạo ra à? Anh Nam đã đoán đúng!
- Chính tôi!- Cô giáo đáp- Tôi đã giấu nó trong phòng Nam và sau đó tôi lại giấu chiếc dây vàng của bà Hà.
- Chiếc dây của tôi à?- Bà Hà ngạc nhiên hỏi- nó đã bị đánh cắp hồi nào? Hôm qua tôi vẫn còn thấy nó kia mà!
- Thưa bác, để cứu anh Nam, chị Đào và cháu đã lấy lại chiếc kim vàng và chiếc dây đó ạ- Minh giải thích.
- Khi nhận được chiếc kim vàng qua nhà bưu điện. Tôi biết là các em đã gửi nó cho tôi- cô giáo tiếp- Tôi đã hiểu là tôi không đủ sức mạnh để tranh đấu với những trẻ em tốt bụng …Một đêm, Du đã tới lục soát phòng thí nghiệm, như hắn đã báo trước: hắn đã cạy cửa để vào, nhưng hắn chỉ thấy toàn đồ vật không giá trị. Hắn quyết định trở lại để mở cái tủ sắt cùng với một tên khác chuyên môn làm công việc đó. Tôi lo sợ biết bao khi nhận thấy rằng, vì những vụ trộm trước đã xảy ra. Đào đã đi tuần ngoài vườn trong đêm khuya. Từ đó, tôi sống trong sự lo âu thường xuyên: tôi bắt Đào phải hứa với tôi sẽ không ra khỏi phòng vào ban đêm. Nhưng tôi run sợ khi nghĩ rằng Đào hay Minh có thể không nghe lời tôi chạm trán với Du thì tình thế sẽ xoay chuyển ra sao? Tiếp đó, kỹ sư Hải báo tin sắp về: sự lo âu của tôi thật vô bờ bến. chắc chắn là Du sẽ hay tin đó, hắn sẽ nhất quyết tới mở tủ sắt trước khi quá trễ! Và tôi có phận sự phải tiếp tay với hắn trong việc này.
- Tội nghiệp cô giáo- Đào dịu dàng nói- Vì thế nên cô thấy thật sự hãi hùng khi Du đến kiếm cô …
- Hãi hùng lắm. tôi hiểu rằng hắn muốn bắt tôi phải rời khỏi biệt thự, vì hắn nghĩ rằng tôi không giúp đỡ hắn tận tình. Hắn muốn hành động một mình mà tôi rất lo ngại phải bỏ các em, trong khi các em không hay biết gì về sự nguy hiểm đang đe dọa. Vì tin lời Du, tôi vẫn tưởng Nam thuộc đảng gian phi! Nên tôi vẫn bảo Đào phải coi chừng anh ta và đề phòng những nguy hiểm có thể xảy ra.
- Thưa cô, bức thư để trên bàn em cũng do cô viết ạ?- Đào hỏi.
- Phải, và tôi cũng lấy cả chiếc vòng của em nữa. Tôi hy vọng sẽ làm cho em phải thận trọng hơn, nhưng tôi vẫn không được yên dạ. khi em nói cho tôi biết rằng không có tài liệu gì trong tủ sắt, tôi đã được yên tâm hơn và tôi đã vội vàng báo tin cho tên Du biết. tôi hy vọng điều đo sẽ làm cho hắn nản lòng và từ bỏ ý định cũ. Nhưng tôi có ngờ đâu trong đầu óc hắn lại có những mưu toan thâm độc hơn.
- Rồi sao nữa?- Nhà thám tử hỏi.
- Rồi thì hết- cô giáo trả lời với vẻ mệt mỏi- Du đã dẫn tôi tới căn nhà đó và la rầy tôi thậm tệ: nào là tôi chẳng giúp gì cho hắn việc gì, nào là tôi vô dụng …nhưng may mà hắn không đến nỗi ngu dại như tôi tưởng nên hắn sẽ phải dùng tôi để lừa các học trò của tôi đến nhà của hắn. Hắn sẽ giấu các em ở một nơi thật xa, không ai có thể kiểm tra được và hắn có thể yêu sách ông Hải tất cả cái gì hắn muốn, sự việc tiếp theo thế nào thì ông đã biết.
Nói tới đây, cô giáo gục đầu vào hai tay. Sau vài phút im lặng bi thảm. Ông Lê Hùng cất tiếng:
- Chúng tôi đã biết đoạn tiếp theo và chúng tôi đã dự liệu đoạn kết. Cô Diễm Trang, cô đã được giải thoát khỏi bàn tay của tên đại bịp đã dẫn cô vào một cuộc phiêu lưu ghê rợn. Một cuộc điều tra sẽ cho chúng tôi biết cô sẽ phải trả bao nhiêu tiền về số nợ của ba cô. Nhưng dầu sao đi nữa cô vẫn có đủ thời giờ để trả nợ. và từ nay về sau, cô đã có những người bạn tốt đáng tin cậy, thí dụ như Nam chắc đã sẵn lòng tha thứ cho cô về những điều ác cô muốn gây ra cho hắn, và các học sinh ngoan ngoãn của cô đây.
- Vâng, vâng- Đào sốt sắng nói- Cô giáo ơi, em chắc chắn rằng ba má sẽ thương cô hết sức như các em đã thương cô vậy!
- Các em … thưa ông! Tôi cảm kích biết bao!- Cô sung sướng đáp.
- Tôi đề nghị- bà Hà nói- Bây giờ đã quá khuya rồi, chúng ta nên đi ngủ. Riêng tôi, cả ngày hôm nay đã làm tôi sụn xương rồi đó! Cô giáo! Căn phòng của cô vẫn đang chờ đợi cô và chúng tôi sẽ sửa soạn thêm một phòng cho cô bạn nữa.
Ông Lê Hùng và Nam từ giã mọi người và hứa sáng mai sẽ quay trở lại:
- Chúng ta sẽ hoàn tất cái cổng chào- Nam nói
- Thế anh sẽ có mặt tại đây khi ba má về chứ?- Minh hỏi.
- Nhất định phải có chứ!
- Vậy thì hay lắm- Đào nói- Chào anh Nam và cám ơn anh rất nhiều đã cứu chúng tôi
Nhà thám tử vui vẻ nói:
- Phải, rất nên cám ơn hắn, vì hắn thật xứng đáng. Nhưng cũng phải công nhận rằng hai chị em cô đã giúp cho công việc của hắn được dễ dàng. Tôi xin có lời khen ngợi nhé! Chắc ông bà kỹ sư sẽ rất hãnh diện về các em đó!
Đào mỉm cười sung sướng, nhưng cô sung sướng nhất là Nam – người mà chị em cô đã che chở - là một người lương thiện và cô giáo không phải là đồng đảng mà là nạn nhân của một tên gian ác.
Trong bầu không khí tưng bừng náo nhiệt, ông bà kỹ sư Hải đã về tới biệt thự Thu-Phong. Trước cái cổng chào đứng lộng lẫy uy nghi, bọn con cái xếp hàng dài trên lối vào để đón mừng ba má. Thám tử Lê Hùng và Nam cũng tới dự kiến theo đúng lời hẹn bữa trước, với sự hiện diện của cô giáo – Bà Hà thì hân hoan vô tả.
Ông bà Hải rất sửng sốt khi nghe kể lại những biến cố đã xảy ra khi ông bà ở Hải ngoại. Ông bà khen ngợi chị em Đào và cảm ơn nồng nhiệt thám tử Lê Hùng và Nam đã chăm sóc tận tình gia đình ông. Cô giáo Diễm Trang thấy vô cùng cảm kích những tấm lòng cao thượng đã giúp cô vượt qua những quãng đường chông gai và mang lại cho cô những ngày mai tươi sáng.

Riêng bốn chị em Đào thì chan chứa hy vọng về những món quà kỳ diệu của xứ anh đào xếp đầy va li của ba má.



Hải Vân

_______________________________________________________________________
(1) Tiếng nhà nghề của các tài xế, phiên âm từ chữ ‘en pane’ - xe hư
 
Sửa lần cuối:

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Con rắn của lão tù trưởng

Tác giả: Xuân Quang
Tủ sách Hoa Đỏ
Sưu tầm & Scan: CT
Đánh máy: Ticonuong (VNTQ)

KDhws3ruYmKWMqeGxHf79uq9_ZHqIL3lviyfimoGop-Tp1i8LI8DUjfcYM-uZTGtN9fe2A6YGG_ywv0NjjO1ihm_tAfAzneU04jnOJ1262Hfh1pJC3Uc_ofxw6QzcYZGt7F7ZiYKtRuvIsrwXghK4FK0Bl8FFFJXCchWfzJDJfIGIRQ-nwZl-mCBXv9_hCr8ZGwtu1rVz4Ytu483NbFk3E6EcbrcaQ3vjCJOyuFWB8qFmZ2Wo3CUEk_HuwfqA4p2XEFyC7fGehTcby6-NRT9PAep7xbqu7jTzT26COaLXT8mXO1h8mxyq34_7y6M1WKgF8tngMxUWdGMJaqR8rmmv5cHMc4vESISWNd4NdDm_dP_ZUnK0GsxB1iUT18ib1d5oFX-0dWVBk_nvYDwuf7pxZxC4Bm7KHUnWgJx-MtQux5Y2INw0BdErW1f8_nEqzUA9aTgYiocB3vSNcK1w_oXGTW7Sc6jamuyf8IDIkeuUxVX9xuIWgHUsbFdGh3bZBNokbLCTNs0dcsTYGCvreLFGOqooJqDSdf-j1FsvqCLfmSwqt4nTsfcks2zZ7_kn_xQdYxi3DVU5Sa-G-4gf-jry2Cq1pSzWNXIjBVyulDeSZYMYQIooBqV_Q=w470-h635-no


Chương mở đầu
Lời mở đầu

Sông Răng không có trên bản đồ Việt Nam. Đây là một dòng sông ở một miền đất hoang vu tưởng tượng. Câu chuyện phiêu lưu có ba nhân vật chính: Anh Hùng - một cậu bé 12 tuổi, Hồng Liên - em gái của Hùng 11 tuổi và anh Ngọc - sinh viên Dược Khoa. Ba anh em thân mật và đối với nhau như ba người bạn trẻ cùng một tuổi.

Vì bản năng tự tồn, họ phải tìm cách sống sót trong một môi trường thù nghịch và sau cùng tìm được sự hòa hợp cùng những người bán khai, hung tợn, tàn bạo nhưng rất mực thành thật và đáng yêu. Và lão già nham hiểm gây chiến tranh tương tàn giữa hai bộ lạc anh em, kẻ cản trở sự tiến hóa của bánh xe lịch sử đã đền tội.

Tác giả




_________


Con thuyền nan trôi như tên bắn trên dòng sông Răng. Khối nước vĩ đại và mãnh liệt cuồn cuộn, bắn bọt nước trắng xóa tung tóe khắp nơi. Anh Hùng, một cậu bé 12 tuổi thích thú cười khanh khách nói như hét với Hồng Liên, em gái cậu ta, để át tiếng động khủng khiếp đang phô trương sức mạnh thiên nhiên:

- Liên thích không? Mai anh xin phép ba má đi chơi thuyền lần nữa rồi anh em mình về Sài Gòn là vừa.

- Em thích... nhưng hơi sợ.

Nhìn mặt em hơi tái xanh, Anh Hùng lắc đầu nhè nhẹ:

- Con gái có khác... nếu sợ thì sáng nay em nên ở nhà tập thêu với má theo anh đi làm chi. Em dở quá.

Liên không nói nhưng trong lòng nó không phục anh. Tự nhiên trên đời là con gái phải mềm mỏng, hiền lành hơn con trai... và đó không phải là dấu hiệu của sự hèn nhát.

Thổ dân cởi trần trùng trục ngồi lái thuyền, bỗng nói một tràng dài líu lo như chim. Anh Hùng nhìn chờ đợi đăm đăm vào anh Ngọc, sinh viên trường Dược và là anh họ của nó mong một lời... thông dịch. Anh Ngọc nhíu mày nói với Hùng và Liên:

- Anh ta bảo là chúng ta nên quay về ngay kẻo nguy hiểm... anh ta không đảm bảo an ninh của thuyền này nếu ta đi xa thêm mười cây số sông nữa.

- Tại sao thế anh Ngọc?

- Đợi anh một chút.

Anh Ngọc hỏi và người thổ dân hướng đạo trả lời. Tiếng sông cuồn cuộn ầm ầm và họ phải quát tháo thật lực mới nghe hiểu được nhau. Lúc đầu tuy ồn ào nhưng không khí có vẻ dịu. Ba phút sau cả hai bất đồng ý kiến, Hùng và Liên đoán thế vì thấy họ khoa chân múa tay, lúc chỉ lên trời, lúc trỏ xuống mặt nước sông, có khi lại hướng về phía hạ lưu sông Răng. Sau cùng người thổ dân thét lên một tiếng "Ah" ngắn và mạnh, quyết liệt như búa chặt vào thân cây của người tiều phu rồi im bặt.

Liên cười cười:

- Anh ta đuối lý rồi hả anh Ngọc? Cãi thua mà...

- Không đâu. Người đuối lý là... anh.

Hai đứa trẻ tròn mắt ngạc nhiên. Hùng đấm mạnh tay xuống sàn thuyền.

- Có lý nào? Anh là sinh viên...

- Nhưng anh không phải Thổ Công vùng này. Anh chỉ thỉnh thoảng về chơi với ba má một đôi tuần rồi lại phải về Sài Gòn học chứ. Lúc còn nhỏ anh cũng đi loanh quanh trại trồng tỉa mà thôi.

Liên mau mắn:

- Nếu anh chàng thổ dân nói đúng thì anh nên cho thuyền trở lại.

Ngọc suy nghĩ rồi lại hỏi thổ dân. Anh này có vẻ hài lòng... và chỉ tay xuống vùng hạ lưu con sông. Ngọc dịch lại như sau:

- Sông Răng chảy một chiều và nơi chúng ta đang bơi thuyền ở rất gần nguồn nên dòng nước xiết. Ta không thể trở đầu chèo về được mà phải bơi xuống quá chừng hai cây số nữa sẽ tìm được chỗ dịu sóng và đưa thuyền vào bờ. Ta về bằng đường bộ.

- Còn chiếc thuyền?

- Thuyền của anh thổ dân. Anh ta sẽ mang về sau.

Một bờ nước khá êm đềm thoáng đã hiện ra trước mắt. Thổ dân lái đưa thuyền cập bờ. Liên có vẻ không bằng lòng bảo anh Ngọc:

- Anh có cách nào khác không? Đi bộ về mỏi chân muốn chết. Anh tưởng gần sao? Hai chục cây số là ít.

Anh Ngọc thản nhiên:

- Không phải hai chục đâu. Bốn mươi lăm cây số đấy...

- Trời ơi!

- Không còn sự lựa chọn nào khác. Người thổ dân nói rất đúng...

Ngay lúc ấy một đợt sóng rất to từ chỗ bờ nước êm dịu ấy tràn ra. Nước xoáy thành vực và phút chốc dâng cao vùn vụt như một bức thành phản chiếu ánh nắng mặt trời mờ mờ sáng lên một vẻ đẹp rất lạ. Người thổ dân lại kêu "Ah! Ah!", và lần này anh có vẻ mất bình tĩnh. Anh nói lắp bắp tiếp theo một câu vỏn vẹn năm mười chữ và anh Ngọc hốt hoảng:

- Chừng một khắc nữa thì toàn vùng lưu vực sông Răng sẽ ngập lụt. Ta vào bờ và chạy trốn ngay, xa dòng sông chừng nào tốt chừng đó.

Người thổ dân bắt chéo hai cánh tay lại nhau, lắc đầu:

- Không thể cập bờ được nữa.

- Làm sao bây giờ hả anh? Hùng lo lắng.

- Các em biết bơi không?

- Có... nhưng phải bỏ thuyền lội sông em sợ quá anh Ngọc. Liên không còn chút huyết sắc nào nữa trên khuôn mặt xinh đẹp của nó.

Lần đầu tiên đi thuyền chơi trên sông, không lẽ đây cũng là lần cuối cùng trong đời?

- Em đừng lo. Đấy là trường hợp nguy cấp vạn bất đắt dĩ thôi em ạ. Với lại chúng ta đều có mang áo phao, sợ gì.

Lời trấn an ấy không làm con bé yên lòng. Nỗi lo sợ của nó gia tăng rất nhanh khi dòng nước bỗng trở thành cái thác lớn, những khối nước dồn dập muốn nuốt chửng luôn tất cả những gì đang ở trong lòng nó. Con thuyền nan bé bỏng này có chịu đựng nổi những sức mạnh ấy không? Dù nó đã được anh Ngọc cẩn thận buộc thêm phao cao su rất lớn hai bên mạn thuyền để làm tăng thêm lực nổi trước khi đi.

Con thuyền bắt đầu xoay tròn như chiếc lá khô và bị cuốn hút vào giữa vực nước xoáy. Người thổ dân cố gắng điều khiển lái thuyền nhưng vô hiệu. Tài năng và sức mạnh con người không thể vượt qua được thiên nhiên. Anh Ngọc cũng giúp một tay và cũng thất bại. Mọi người chóng mặt quay cuồng. Có một sức mạnh vô cùng đẩy họ ra khỏi thuyền. Hùng kêu lớn:

- Sức ly tâm...

Đang gắn gượng bám dính như sam xuống sàn thuyền cho khỏi bị trôi xuống sông, anh Ngọc cũng phải bật cười. Cái cười vừa khôi hài, vừa chua chát:

- Đúng rồi. Hùng thông minh lắm... nhưng...

Anh không nói được nữa vì một khối nước sáng xanh đổ vào lòng thuyền. Anh sặc sụa, ngoi đầu lên cao để thở và bỗng reo lên:

- Thoát nguy rồi!

Không có tiếng đáp lại. Anh chàng thổ dân biến đâu mất. Chỉ còn lại ba người trong thuyền. Hùng và Liên bị nước nhồi thấm mệt. Mừng rỡ và cao hứng vì bất ngờ một con sóng to từ bờ đi ra đưa thuyền trôi xa khỏi vực, anh Ngọc đỡ lấy lái và lay Hùng và Liên:

- Các em có sao không? Dậy mau đi chứ.

Cả hai trổi dậy. Trước mắt ba người bây giờ hoàn toàn nước là nước. Nước trải dài vô tận như ngoài biển khơi. Không có bờ cũng chẳng có cây cỏ màu xanh như lúc nãy. Vùng này hoàn toàn bị lụt rồi.

Một đợt sóng mạnh dội lại từ một chướng ngại vật nào đó chìm dưới lòng sông. Cả ba không phản ứng kịp. Con thuyền trồi mũi lên cao rồi chúi ngập xuống nước và lật úp. Ba người bị hất tung văng ra xa như ba con thoi vừa rời khỏi tay người dệt cửi. Thuyền nan phăng phăng trôi đi, lao nhanh như viên đạn rời khỏi họng súng. Và nó khuất bóng hai ba phút sau.

Chương 1. Con đường gai
Anh Ngọc, Hùng và Liên mệt nhoài nằm bò trên bãi đất ướt đen đủi và lún xuống như một bãi sình vô tận. Ba người đã phải bơi trong nước suốt trong mười giờ đồng hồ liền - biết là mười giờ nhờ chiếc đồng hồ Seiko kiểu thể thao anh Ngọc đang đeo ở tay rất tốt, còn chạy đều đều - nói là bơi thì hơi quá đáng vì chỉ những sói biển lão luyện mới bơi liên tục được trong mười tiếng. Ở đây, anh Ngọc và hai em nhỏ chỉ... để cho dòng nước đẩy đưa và cố gắng giữ cho cả ba luôn ở gần nhau. Được như thế cũng đã mệt lắm rồi. Có áo phao mặt trên người họ không sợ chìm tuy rằng đôi khi cũng sặc và uống nước thỏa thích với những đợt sóng phủ chụp ngập đầu.

Trời tối sẫm. Ngọc tỉnh dậy trước nhất, phát giác ra mình đang ở trong một khu rừng rậm. Anh bàng hoàng nhớ lại mọi việc. Trời không phụ người lành nên dòng nước của trận lụt khủng khiếp đã đưa anh và hai em vào bờ. Tội nghiệp nhất là Liên. Con bé phải một phen hồn vía lên mây. Nó lại yếu đuối đâu có sức chịu đựng như con trai.

Hai thân hình nhỏ bé nằm gần đấy. Dĩ nhiên đó là Hùng và Liên. Anh Ngọc sờ ngực hai đứa thấy lồng ngực hai đứa vẫn phập phồng và quả tim vẫn đập đều, dù nhịp đập hơi nhanh một chút. Bỗng nhiên một sự đau đớn không thể tưởng tượng được dâng lên từ chân trái khi anh muốn đứng dậy. Anh không chịu đựng nổi, kêu "Ái!" lên một tiếng lớn.

Ngọc nằm yên thì sự đau đớn lắng dần. Và sự nhức nhối khó chịu xuất hiện thay thế. Khi anh gượng trổi dậy lần thứ hai, sự đau đớn trở lại với một cường độ gấp bội.

- Trời ơ! Chân ta bị gãy rồi. Làm sao bây giờ?

Anh Ngọc đành lay gọi Hùng và Liên. Thằng bé ú ớ vài tiếng ngắn, vô nghĩa rồi trở mình nằm yên như chết. Liên tỉnh hơn, sau... ba phút đồng hồ rồi mở mắt ngơ ngác.

- Anh Ngọc. Đây là đâu?

- Anh không biết. Nhưng Liên yên trí. Tất cả chúng ta đều còn sống trên thế gian này.

Liên giụi mắt:

- Lạ vậy kìa? Tôi đang đi chơi bằng thuyền nan trên sông Răng mà...

- Liên có mơ ngủ không? Anh nhắc lại nhé! Chúng ta bị trận lụt làm đắm trôi thuyền và nhờ nước đưa dạt vào bờ này cách đây bốn giờ. Ta gần như bị bất tỉnh, li bì và...

- Mọi người đâu rồi?

Anh Ngọc vỗ trán:

- Còn anh ta? Ồ! Anh vô tình quá... không nhớ anh ta đâu nữa... hình như anh ta biến mất từ vực nước xoáy thì phải.

- Hay mình trở lại kiếm anh ta đi?

- Biết hắn ở đâu mà kiếm? Ngọc bực mình vì những câu hỏi lẩn thẩn của Liên nên hơi sẵn giọng. Với lại mỗi người trôi giạt một nơi, chắc hắn không sao vì những người mọi bơi lội như cá mà.

Anh dịu giọng:

- Liên nhìn xem chung quanh có gì lạ không nhé? Anh chỉ biết là đang ở trong khu rừng... mắt anh tự nhiên mờ đi không rõ nữa... chắc tại trời tối...

Anh cựa mình, nhăn mặt đau đớn. Liên nhận thấy nên vội hỏi ngay:

- Anh sao thế? Anh bị thương hả?

- Chút xíu thôi. Em đừng bận tâm...

- Để em xem cho anh...

Hùng cựa dậy lần thứ hai rồi... lại nằm im. Anh Ngọc buồn cười rồi hơi tức mình, càu nhàu:

- Cái thằng tệ thật. Ngủ như chết, có khiêng đi vứt xuống sông cũng không hay.

Liên vén dần ống quần tây chẽn của Ngọc lên một cách khó khăn. Vải may dày, lại thấm bùn và nước bệt vào và bắt đầu khô cứng lại. Ngọc ngồi lên, nghiêng nghiêng cho bớt động vết thương, lấy tay nắn các khớp xương, ống quyển rồi thở phào:

- Không sao Liên ạ. May chưa gãy ống quyển... chỉ bị giập sơ sơ thôi.

- Anh còn đi lại được không?

- Không biết nữa. Để anh gắng thử xem.

Và Ngọc đưng dậy. Anh lập tức ngã giúi xuống như một thân cây tróc gốc. Liên túi tít hỏi han:

- Anh đau lắm không?

- Đau... nhưng anh có thể chịu đựng được. Đến sáng mai, khi có ánh mặt trời xua đuổi những sự bí ẩn hãi hùng của rừng xanh đi, anh sẽ kiếm một cặp nạng cây... tạm thời vậy.

- Anh có cần một số que nhỏ để băng giữ cho thẳng xương chân không? Em đi kiếm cho anh.

Anh Ngọc gật đầu:

- Em ngoan lắm Liên ạ. Nhưng để mai hãy tính. Em đi ngủ đi, anh thức trông chừng cho.

Một tiếng rít rợn người. Hình như có con thú nguy hiểm rình rập quanh đây. Và một tiếng gầm kinh khủng to như tiếng sét trong cơn giông.
Hùng tỉnh ngủ, giụi mắt mơ màng:
- Liên... anh Ngọc... anh Ngọc.
- Phải. Chúng ta đã thoát chết.
- Em không biết là thực hay mộng nữa... trong ấy hình như anh bị thương ở chân, phải không anh Ngọc?
- A! Hình như Hùng từ nãy giờ nửa tỉnh nửa thức và nghe hết một phần câu chuyện. Càng hay, ta khỏi mất thời giờ kể lại.
- Đúng thế. Nhưng để sáng mai...
Chưa dứt lời thì có tiếng tru rất lạ, từng chập từng chập nổi lên hung dữ. Tiếng tru càng lúc càng lớn. Anh Ngọc la lên:
- Nguy rồi. Hùng và Liên xét lại xem có gì để chúng ta chống cự với chó rừng được không? Đây là giống thú khát máu không kém cọp và sư tử ở vùng lưu vực sông Răng này.
- Chó rừng? Tên lạ quá. Phải là chó sói chứ anh?
- Cho sói chỉ ở vùng ôn đới mà thôi. Ở Việt Nam không có chó sói... Nhưng đặc biệt ở vùng sông Răng có giống chó hoang trong rừng cùng loại với chó sói. Chúng được dân ở đây gọi là chó rừng.
Hùng soát lại quần áo rồi thất vọng kêu:
- Không có gì hết anh ơi! Nước cuốn đi tất cả rồi. Làm sao bây giờ hả anh?
Ngọc còn sót lại con dao bấm nhỏ xíu trong túi áo - nhờ lúc đi chơi anh cài nút túi lại cẩn thận - Anh trầm ngâm.
- Một con dao nhỏ không đủ chống đỡ cho cả ba đâu. Hai em kiếm cái cây nào cao cao leo lên lánh nạn, còn để mặc mình anh ở đây dễ xoay trở hơn.
- Anh đừng nói thế. Bỏ anh sao được...
- Chạy mau đi hai em.
Liên đưa lý do khác hiệu quả hơn:
- Cây to ở sâu trong rừng và bây giờ anh bảo tụi em đi vào trong ấy thì chẳng khác nào nạp mạng cho chó rừng. Sao anh ác thế?
- Ờ nhỉ.
- Tụi em dù sao cũng phải ở lại đây với anh.
Trời chẳng chiều người. Gió đổi chiều. Ba người đang ở đầu gió và cuối gió thì ở sâu trong lòng rừng. Rất dễ dàng cho thú dữ đánh hơi tìm đến, nhất là giống chó bẩm sinh có năng khiếu đánh hơi bén nhạy siêu đẳng.
Cả ba tuyệt vọng và chờ chết. Không thể chạy trốn được - ít nhất là với Ngọc bị thương - và nếu chạy, biết đi đâu bây giờ? Loạng choạng có khi thay vì tìm ra con đường sống lại đâm đầu vào tử lộ nhanh hơn. Bỗng Ngọc lẩm bẩm:
- Có cách nào nhúm lửa lên không? Anh thấy trong những câu chuyện cổ tích Tây phương đều nói rằng chó sói sợ lửa, không bao giờ dám tấn công người ngồi quanh đống lửa, mà chỉ... đứng nhìn. Cọp, gấu cũng sợ lửa... vậy nếu chó rừng sợ lửa thì chúng ta thoát chết.
- Những cành cây nơi đây đều ướt cả. Liên nói.
Hùng gật đầu hăng hái:
- Thế thì em xin xung phong vào rừng mé trái kia trèo lên cành cao tìm những nhánh khô làm củi chụm vậy.
- Còn chó rừng?
- Đành liều vậy anh. Nếu không thì chết tất cả.
Và không kịp để Ngọc nói nữa, Hùng chạy nhanh về hướng đã chỉ, miệng nói:
- Số em còn thọ lắm, anh Ngọc.
Ngọc chợt nhớ nói với theo:
- Em lấy thêm ít lá khô cho dễ chụm lửa nhé.
Liên đang run như cầy sấy vì khí rừng đêm lạnh và áo quần ướt cả. Nó đứng dậy đi đi lại lại cho đỡ lạnh. Ngọc lẳng lặng làm việc. Anh nhặt một cục đá xanh dán mặt gần vào đấy và rút lưỡi dao thử đánh lửa. Khó quá. Gió lại mạnh, làm sao tia lửa tóe lên và giữ lại được trong vài giây đồng hồ kịp để những lá cây bén lửa?
Có công mài sắt có ngày nên kim. Đến lượt anh thành công. Lửa bật ra màu xanh biếc, đẹp và sáng như niềm hy vọng sống đang dâng cao trong lòng anh. Anh phải sống. Hùng và Liên phải sống. Những người trẻ tuổi không thể chết vô lý thế này được.
Liên trở lại chỗ anh Ngọc. Trên tay nó cũng ôm một đống củi to. Có điều là củi còn ướt. Ngọc trố mắt nhìn, chưa kịp hỏi thì con bé giải thích:
- Em đi lựa những cành nào ít ẩm ướt để dùng phòng khi củi khô tàn hết. Khó là để bắt lửa lúc đầu thôi anh, khi đã cháy rồi thì củi hơi ướt anh vứt vào đống lửa cũng cháy được tuy rằng hơi khói khó chịu.
- Ồ! Anh thật không ngờ, em giỏi quá Liên ạ. Nhưng kìa, sao Hùng đi lâu quá không về.
Hai anh em lo lắng, hết thở dài lại nhìn nhau. Ngọc cố lấy lại bình tỉnh nhìn trời đêm mờ nhạt ánh sao, cố tìm trong ấy vì sao cứu tinh, sao bổn mạng của anh và hai đứa trẻ. Anh bỗng thấy lòng dịu hẳn lại, mọi bồn chồn nóng nảy biến đi. Anh trở nên sáng suốt, khám phá ra một vị thần thiên nhiên đang hành động cứu mình từ nảy giờ, lúc anh mãi mê bật lửa: Thần Gió. Thần Gió đang xoay chiều gió hẳn lại, nghĩa là đầu gió ở trong rừng và anh và Liên đang ở cuối gió.
- May mắn quá. Chó rừng không thể đánh hơi tìm đến được nữa.
Liên nghe mà lòng phơi phới. Nó biết chắc sống rồi mới để ý và thưởng thức được cảnh đẹp của rừng ban đêm. Nó có một vẻ đẹp đặc biệt, huyền bí và quyến rũ đặc biệt mà người ta không thể tìm thấy ở một khung cảnh khác. Và Liên muốn chạy vào rừng chơi ngay bây giờ.
Tiếng chó tru bỗng nghe gần và rõ mồn một. Lại có cả tiếng gầm gừ nho nhỏ. Hình như chúng đang đánh hơi. Trời ơi! Gió đổi chiều muộn quá và chỉ có thể làm chậm chân lũ thú dữ khát máu kia. Trong chốc lát nữa đây, chó rừng sẽ xuất hiện và làm thành một vòng vây kín quanh Ngọc và Liên. Lạy trời phù hộ cho những người lành.
Có tiếng chân người gõ nhẹ trên đất ướt. Hùng đã trở về. Lúc đi dễ dàng và gọn ghẽ bao nhiêu thì lúc về khó khăn và bề bộn bấy nhiêu. Hùng mệt nhoài, muốn lả đi lần thứ hai vì đuối sức và sợ hãi. Vào rừng âm u ban đêm một mình? Đó là một sự can đảm và cố gắng phi thường của một đứa bé 12 tuổi.
Khó nhất là đám lá khô. Hùng không có túi lớn làm sao mang về trong lúc gió luôn thổi phần phật. Thằng bé nghĩ đến năm phút mới tìm ra giải đáp bài toán. Nó bỏ áo vào trong quần, bỏ đám lá vào trong áo và cài nút lại. Cũng như mang vở đi học theo vậy mà - Dĩ nhiên những hôm nó không thích mang cặp - Và có một số lá bị thấm ướt từ áo vải của Hùng nên lượng lá hái phải nhiều hơn.
Tiếng chó rừng nghe như sát cạnh ba người. Hùng và Liên rúm lại, mỗi đứa vơ vội một khúc củi khá dài cầm sẵn trong tay thủ thế. Anh Ngọc cũng sợ lắm nhưng gượng quay lưng về hướng gió, che gió để lửa bén vào lá khô và củi. Khó khăn và nguy hiểm biết chừng nào vì tay anh run rẩy, lửa lên chỉ chậm chút xíu là... chó rừng đã đớp hết ba con mồi béo bở rồi con gì.
Cuối cùng ngọn lửa nhóm lên được vừa kịp những cái đầu màu xám đen với tai vểnh và mõm dài xuất hiện từ những bụi cỏ thấp xung quanh. Lửa là Thượng đế, là Thiên thần có uy lực và quyền năng tối thượng với loài quỷ dữ này. Lập tức chúng chùn lại, ngửa cổ lên trời và sủa khô khan.
Chúng làm thành một vòng tròn xa xa quanh ba người. Chúng không dám tiến lại gần họ nhưng... vẫn kiên nhẫn chầu quanh đấy.

***

Anh Ngọc hơ miếng thịt vào lửa nướng vàng. Tảng thịt đùi nạc và chắc còn tươi dính máu trông hấp dẫn ngon lành lắm. Lúc đầu Liên còn sợ, không dám ăn nhưng sau đói quá, lấy thử một miếng và... sau đó khen ngon. Thịt gì đó vậy? Thịt chó rừng đấy các bạn ạ.
Ba người trẻ tuổi đã thoát hiểm sau mấy ngày đêm bị bao vây. Ánh nắng mặt trời đã làm khô dần những cây ẩm ướt vung vãi chung quanh họ - dấu tích cũng trận lụt ngắn ngủi nhưng mãnh liệt còn lại - và Hùng đã đi ra trong vòng đường kính mười thước để lượm lá đem vào chụm lửa. Ban ngày, không những phải giữ ngọn lửa liên tục mà còn cần sáng hơn đêm nữa thì lũ chó rừng mới sợ không dám xông vào.
Bình thường có lẽ chúng đã bỏ đi. Nhưng sau trận lụt, hầu hết các con mồi của chúng đã chết sạch nên chúng trở nên rất kiên nhẫn. Anh Ngọc có sáng kiến buộc lưỡi dao bấm vào đầu một cành củi dài và chắc, xua đuổi tất cả những con chó rừng nào đói quá toan liều mạng nhảy vào.

Vào ngày thứ hai, cả ba mệt và đói lắm. Hùng và Liên háu đói nhất nhà mà bây giờ không dám hở môi một tiếng. Thật tội nghiệp! Đói thì đầu gối phải bò, Liên bàn với anh họ:

- Anh Ngọc ơi! Có thức ăn sao mình chịu đói?

- Thức ăn? Liên có tỉnh táo không? Mình bị đắm thuyền mà...

- Còn lũ chó rừng kia chi?

Anh Ngọc gật đầu:

- Phải đấy. Vậy mà sao anh ngu tối không nghĩ ra... nhưng thực tình là anh không ngờ em gái anh lại dám có ý nghĩ ấy. Mà này, thịt chó em dám ăn không?

- Tại sao không?

Chân anh Ngọc đã bớt đau. Có lẽ xương đang dần lành lại mặc dù thiếu thốn tất cả dụng cụ y khoa tối thiểu để săn sóc. Anh gắng lết ra gần... lũ chó rừng một chút và lấy hết sức mạnh phóng "lưỡi dao" ra cắm phập vào ngực một con đầu đoàn. Nó không tránh kịp gục xuống sủa hắt một tiếng, giẫy chết.

Anh thu cây gậy nhọn đầu ấy về và đầu gậy lết theo xác con chó. Lũ chó còn lại nhao nhao toan xổ vào tấn công thì hai cây gậy khác, đầu đỏ lên như than hồng vì được nung lên trong đống lửa từ nãy được Liên và Hùng tung ra. Mùi lông và thịt chó xèo xèo khét lẹt. Những con vật quay đầu chạy. Nhưng một số khác vẫn còn ngồi lại chầu và rình rập xung quanh. Vòng vây được nới khá rộng.

Liên tuy mạnh dạn đòi "săn" chó rừng ăn thịt nhưng đúng như anh Ngọc đã tiên đoán, nó không dám ăn. Về sau, đành ăn vậy. Vì nhu cầu bao tử, người ta phải cho vào miệng tất cả những thứ có thể nuốt trôi qua cổ họng. Thịt chó gay gay dễ làm lợm giọng cho những người không quen ăn nhưng có lẽ vẫn còn ngon lành hơn nhiều so với thịt người băm nhỏ làm bánh bao trong truyện kiếm hiệp Tàu hay với những thủy thủ lênh đênh mặt biển năm bảy tháng trên thuyền cấp cứu và phải... làm thịt chính một người trong bọn họ để những kẻ còn lại được sống sót.

Ngày thứ ba, thêm một con chó rừng nữa bị đâm chết. Vài con nữa bị <<đánh dấu>> những vệt thẹo tròn trên lưng bằng cây gậy nung đỏ. Trông chúng đã nhốn nháo và muốn bỏ đi nhưng còn tiếc rẻ.

Gió thổi mạnh và sóng cuốn theo chiều gió đưa vào bờ xác một con bò mộng chết sình, mùi thối bay tỏa khắp nơi. Liên vội vàng bịt mũi quay đi lộ vẻ khó chịu trong khi nét mặt anh Ngọc tươi hẳn và Anh Hùng reo lên:

- Trời cứu ta rồi! Liên ơi! Chúng ta thoát chết thật rồi.

Liên không hỏi nhưng ánh mắt lộ vẻ thắc mắc. Anh Hùng mới bảo:

- Con bò ấy sẽ quyến rũ lũ chó rừng bỏ chúng ta, miếng mồi dai nhách và nguy hiểm, đến làm thịt con mồi béo bở dễ dàng kia chứ. Con bò ấy cứu ta đó.

Anh Ngọc vui vẻ:

- Chúng ta đã đi trên một con đường gai. Con đường gai ấy chẳng những không làm đứt chân chúng ta, trái lại cung cấp cho ta những thức ăn... bổ dưỡng. Ta đã phải nhổ gai vắt lấy sữa và ta làm được việc ấy nhờ sự quyết tâm, can đảm và lòng tin vào chiến thắng sau cùng.

Anh Hùng kết luận:

- Từ hôm nay trở đi, trời bắt đầu đẹp.

Chương 2. Một bộ lạc man di
Hôm nay là ngày thứ sáu kể từ hôm đi chơi thuyền trên sông Răng. Anh Ngọc có một cặp nạng cây vừa theo ý thích nên có thể đi đứng một mình khá gọn gàng. Để chặt cây làm nạng, con dao bấm nhỏ quả thực là vô cùng quý giá, trong thực tế cũng chẳng hữu ích bao nhiêu. Vì có một chút gì để tự xoay xở lấy vẫn còn hơn không.

Buổi chiều xuống thật mau và thật sớm trong rừng. Ba người trẻ đã tìm được một hốc đá nhỏ nằm trên một sườn dốc gần thẳng đứng để làm chỗ trú ẩn tránh mưa nắng và thú dữ trong rừng. Liên và Hùng có thể leo trèo lên xuống như những con vượn đuôi dài trong sở thú, nhanh nhẹn và thích thú nữa là khác. Chúng trở về với bản tính hồn nhiên, không lo nghĩ của tuổi thơ. Buổi trưa nắng, trong lúc anh Ngọc đang nằm ngủ thì người ta có thể nghe tiếng cười đùa của hai đứa trẻ vang lên nếu người ta có thể tiến được đến gần nơi ấy:

- Anh Hùng ăn gian của em. Miệng anh đếm năm, mười, mười lăm... mà mắt ti hí nhìn trộm.

- Đâu có Liên. Em... bị bắt thua rồi nhận đi, toan tráo trở với anh hả? Anh không chiều em nữa đâu.

- Anh.. anh xấu lắm nhé.

Và lát nữa thì:

- Hay quá! Anh là tay thiện xạ trứ danh. Mũi tên anh vót, bắn rụng toàn... là cây thôi hà.

- Tại... tại con chim bay nhanh quá.

- Anh đâu có bắn chim. Anh đang bắn con thỏ rừng... nằm ngủ mà. Nó nằm yên một chỗ, anh bắn làm sao cũng không trúng.

- Ai bắn thỏ tội nghiệp nó... anh bắn con chim bay là là đằng sau con thỏ đấy chứ.

Đại khái là như thế. Câu chuyện có thể kéo dài suốt ngày không chán. Chúng cãi vã nhưng một cách êm dịu thôi. Vì chẳng lẽ anh trai lại đánh em gái hay sao? Huống chi Anh Hùng tuy tính khí nóng nảy nhưng rất chiều em gái.

Anh Ngọc choàng tỉnh giấc. Ngồi và... nằm yên một chỗ anh không chịu được. Anh là thanh niên hoạt động và mang bầu máu nóng trong thân. Nhưng với tình trạng này không chịu được cũng... đành phải chịu. Hùng và Liên đã phải cắt dây leo khô và chắc chắn như sợi dây thừng bện bằng gai ở thành phố để làm thang dây cho anh leo lên lúc dọn "nhà mới". Anh leo lên bằng hai tay không thôi. Ngọc rất mạnh. Và cũng mệt nhọc đến gần thở ra khói mới lên được tới hốc đá. Vết thương làm anh giảm sức mạnh đi nhiều. Bữa ăn tối cuối cùng có thịt chó rừng được dọn ra trải trên một tấm lá rừng lớn. Thịt nướng cháy cho thơm - món thịt nướng là giản dị, nhất là món duy nhất họ có thể làm được không cần đến nồi niêu xoong chảo, báo ngậy nhưng hơi lạt. Ba người không có muối chấm. Liên chê:

- Ăn thịt nhiều ngán quá anh Ngọc. Em thèm rau sống, trái cây quá đi.

- Rau sống? Trái cây? Có sẵn trong tủ lạnh đó, Liên cứ mở ra ăn tha hồ.

Lời nói pha trò xen chút vẻ châm biếm của anh Ngọc làm con bé đỏ mặt. Phải rồi, đây là... rừng hoang chứ đâu phải biệt thự máy lạnh gia đình nó vẫn ở.

Bỗng anh Ngọc nghiêm mặt hỏi Hùng:

- Em đi đâu suốt buổi chiều? Anh và em Liên ở nhà đợi mãi, Liên muốn đi tìm em mà anh không cho đó.

- Bí mật. Em sẽ nói cho anh nghe sớm lắm là sáng ngày mai. Bây giờ thì không.

- Tại sao?

- Vì... vì nó phải như thế.

Anh Ngọc vớ lấy cây nạng giơ lên dọa Hùng:

- Anh bảo thật: Hùng phải nói ngay đi. Hùng phải nghe lời anh, trong rừng nhiều khi có những cạm bẫy thiên nhiên em không biết hết được... Em không nói hả? Được, cây nạng này sẽ trở thành... một cây roi mây rất lý tưởng.

Hùng đành giả lả:

- Đùa anh cho vui chứ em nào định giấu anh bao giờ. Việc thế này nhé...

Chưa dứt lời thì từ bên ngoài một tiếng hú "U...u...u...u...u" kéo dài nổi lên. Cả ba rùng mình nổi gai ốc. Một luồng khí lạnh lẽo như nước đá chạy dài theo xương sống lưng. Hùng ngây mặt ra theo dõi, có chiều say mê chìm đắm vào một sự suy tư riêng biệt của nó. Tiếng hú chấm dứt. Hùng vẫn ngồi yên.

- Tiếng hú nghe ghê quá anh Ngọc nhỉ. Liên nói. Giá anh để em ngồi đây một mình thì chắc em...

- Em ngất xỉu là cùng chứ gì. Nào Hùng kể tiếp đi chứ.

- Anh, anh có nghe tiếng hú ấy không?

- Sao lại không?

- Đó là câu chuyện em muốn kể với anh. Hồi trưa hôm nay, lúc cũng gần buổi chiều, bỗng nhiên em bắt gặp tiếng hú ban nãy, rất gần tưởng như sát bên tai...

- Gần hơn bây giờ nữa hả Hùng?

- Vâng. Gần hơn thế nhiều lắm. Em tò mò leo xuống phía dưới và lần đi vào rừng, hướng về phía có tiếng hú...

Liên trách:

- Sao anh không rủ em đi? Em thích... làm việc trinh thám lắm mà.

Hùng lắc đầu:

- Rõ con gái vô duyên. Để yên anh kể, đừng ngắt lời...

Nhưng Hùng lại bị ngắt ngang câu chuyện một lần nữa. Lần này không phải do Liên mà do... tiếng hú nổi lên trở lại. Và rất gần. Hình như tiếng hú có chân biết bò lại hốc đá của ba người thì phải.

Liên hốt hoảng ôm chặt lấy anh. Hùng gượng làm tỉnh, đằng hắng một tiếng cho trong giọng, tiếp tục kể:

- Em leo lên một cây to, cây gì em không biết, nhìn xuống một thung lũng rộng, xanh tươi, có ánh mặt trời màu xanh lá cây... thấy một đám người trần truồng, đóng khố, cổ đeo vòng bằng đá và tay cầm dao nhọn cũng có đầu bằng đá mài.

- Thời đại thạch khí vẫn còn ở thế kỷ hai mươi này sao? Liên phê bình.

- Đúng thế Liên ạ. Và có một vị tù trưởng, anh trông có vẻ thế lắm đi đi lại lại đốc thúc những người khác làm việc. Họ vừa giã củ... không biết củ khoai hay củ gì nữa... rất to trong những khối đá với chày đá khổng lồ, ba người lực lưỡng nâng một chiếc chày...

Hùng ngừng lại. Anh Ngọc hỏi:

- Thế bộ lạc thạch khí có liên quan gì đến tiếng hú quái gở và ghê gớm kia?

- Em không biết. Nhưng chắc chắn là tiếng hú ấy từ nơi thung lũng bọn họ trú ngụ phát ra.

Ba bạn trẻ không nói chuyện nữa. Liên mau miệng nhất mà bây giờ cũng yên lặng ngồi như bụt. Anh Ngọc hỏi tiếp:

- Hùng có thấy gì lại ở thung lũng ấy nữa không?

- Ánh nắng mặt trời màu xanh lá cây nhạt, anh ạ. Anh trông cảnh sắc rất đẹp, y hệt như trong những phim xi nê màu đó. Cây cỏ cũng tốt lạ thường. Có một cây như cây xoài của ta thấp chỉ chừng đến đầu gối em mà đã có trái rất lớn.

- Xoài? Không phải đâu Hùng. Chắc chỉ là một thứ cây lạ nào đó có trái giống trái xoài thôi.

Hùng tấm tắc:

- Con chim sẻ ở trong thung lũng bay ra, chui vào trong tổ của nó làm trên cành gần nơi em nấp. Nó chỉ bay vào trong thung lũng gần 15 phút thôi, lúc trở về tổ lớn gấp rưỡi trước.

- Xạo nữa rồi... có đâu lạ thế... Chắc là loài chim khác đến ở nhờ tổ chim sẻ ấy chứ. Cũng như chim tu hú đó...

- Không phải anh Ngọc. Em vô tình để ý đúng là con chim sẻ đó vì nó chột một mắt và một chân khập khiễng mà.

Anh Ngọc vò đầu bứt tai:

- Trên thế giới có nơi nào mà điều kiện khí hậu đất đai lại tốt đến thế không? Sức tăng trưởng vượt mức tưởng tượng... đúng là em Hùng...

- Anh không tin thì thôi. Hùng có vẻ giận dỗi. Thôi em và Liên đi ngủ trước. Chúc anh Ngọc ngủ ngon.

Ngọc xoay trở mình mãi không tài nào ngủ được. Anh lấy nạng chống đi ra cửa hang nhìn bầu trời đêm lấm tấm sao sáng qua kẽ lá của khu rừng nhiệt đới mà suy nghĩ lan man về tiếng hú, bộ lạc man di sống đời thạch khí, về ánh nắng màu xanh... nhất là con chim sẻ lớn gấp rưỡi trong mười lăm phút. Nếu thung lũng có thật, nơi đây là một thiên đàng hạ giới.

Ngọc ngồi xuống cho đỡ mỏi chân. Rõ rệt là có sự biến đổi khá rõ về sinh môi học trong khoảng đường vài cây số ở đây. Vì những ngày sống quanh đống lửa chống chó rừng, anh, Hùng, và Liên đã phải... luôn chiến đấu chống với cả những con muỗi nữa. Muỗi rất nhiều và to gần bằng con ruồi. Nọc rất độc, đốt vào nhức như ong chích. Đến nay trên người anh, Hùng, và Liên vẫn còn dấu chưa lặn.

Và từ ngày dọn về "nhà mới", nơi gần với thung lũng "tưởng tượng" của Hùng thì muỗi biến mất hẳn. Cả đêm khuya cũng thế, sướng như sống bên Châu Âu. Nếu được sống ở hốc đá này suốt đời, chắc Ngọc cũng không cần phải ngủ mùng.

Có tiếng sột soạt ở đám lá thấp bên dưới. Chắc là con thú ăn đêm hay gió thổi lay ngọc lá cây cỏ tạo ra âm thanh. Hùng và Liên đang ngủ say sưa. Nhìn chúng, Ngọc tự nhiên muốn ngủ theo và anh nằm xuống ngủ ngay, mắt cay xè chỉ chực nhắm lại. Anh thoang thoảng ngửi thấy mùi hương là lạ trong giấc ngủ.

Chương 3. Căn nhà đá
Lúc ba người tỉnh dậy thì thấy mình đang ở trong một gia phòng rộng thênh thang bằng đá. Gian phòng ở đây chỉ có nghĩa là một cái hang thiên nhiên, rộng và sâu, cửa ra vào là một lổ hổng hiện đang được bít kín bởi một tảng đá xanh vuông vắn, phẳng lì nặng đến hàng ngàn cân. Tuyệt nhiên gian nhà đá này chẳng phải là nơi họ đã tạm trú trên sườn dốc cao thẳng đứng hôm qua.

Liên nhìn quanh quất rồi gần muốn khóc. Nước mắt đã ứa ra đọng trên mi:

- Sao lạ thế hở anh Ngọc? Hốc đá... biến thành nhà đá từ bao giờ?

- Anh đâu có biết.

- Hay bây giờ mình mới là đang sống thực. Khi trước là nằm mơ.

Hùng xen lời phản đối:

- Không phải là nằm mơ. Chẳng có lý gì ba người đều... nằm mơ giống nhau như khuôn đúc. Anh cá là cả ba chúng ta đều đang có ý nghĩ hốc đá trong đầu.

Anh Ngọc đồng ý:

- Đúng. Vậy thì ta đã bị... một bọn người nào đó bắt cóc. Hùng có nói với anh là trong thung lũng xanh tươi kia có một bộ lạc man di?

- Vâng. Và anh cho là bộ lạc ấy đã bắt cóc chúng ta? Để làm gì?

- Có thể để...

Anh Ngọc muốn nói gì đó lại thôi, miệng tủm tỉm cười nhìn Liên. Liên ngượng quá hỏi tới cho ra mới nghe.

- Anh Ngọc, bọn họ định làm gì?

- Làm sao anh biết được? Anh đâu phải là họ.

- Nhưng đã nghĩ cái gì mà anh... cười em?

Ngọc lại cười:

- Anh sợ nói ra Liên khóc, mất công dỗ mệt lắm... lát nữa anh nói riêng cho Hùng nghe.

Hùng thích quá vỗ tay:

- Chịu liền. Đây, bây giờ anh nói thầm vào tai em đi.

Ngọc nói rất khẽ. Liên không nghe được nhưng thấy Hùng nhảy lên la lớn:

- Trời đất! Anh nói gì nghe ghê quá... Anh nói thật hả? Không dọa em chứ?

- Dọa em làm gì? Nhưng đó chỉ là anh đoán phổng mà thôi.

Hùng bị ám ảnh bởi lời nói của Ngọc, vô ý thoát ra miệng:

- Ăn thịt người! Bọn ăn thịt người.

Liên thông minh hiểu ngay, mặt tái hẳn đi. Nó la lớn tưởng như muốn bể nhà đá:

- Bọn mọi bắt ta về làm thịt. Trời đất ơi! Những con chó rừng hai chân! Những con người thời đại thạch khí! Có thể lắm.

Bốn bức tường đá xám xịt, vô tri chứng kiến nỗi tuyệt vọng của ba người trẻ tuổi. Nhìn ngắm mãi màu đá cũng chán và họ đành quay ra... nhìn nhau nói chuyện giải khuây vậy. Bỗng bên ngoài có tiếng ồn ào. Cả ba áp sát tai vào khe hở của phiến đá chắn cửa, nghe ngóng.

Tiếng nói là của một bọn đông người. Có nhiều âm thanh cao thấp, trong đục khác nhau. Có một giọng rất cao, hình như là tiếng đàn bà. Họ nói líu ríu, rất nhanh và rất to. Mỗi khi có tiếng một lão khàn khàn thoát ra chữ "U" thì mọi người đang xôn xao như chợ cá cũng im bặt. Và lão nói. Dứt tiếng lão, những người kia mới dám thảo luận, bàn cãi hăng say.

- Lạ quá anh Ngọc? "U" có nghĩa là gì?

- Em làm anh là dân mọi chính cống không bằng. Anh có biết mô tê chi đâu.

- Hay là "U" có nghĩa là im lặng? Hùng đoán.

Anh Ngọc lắc đầu:

- Đừng đoán sớm quá Hùng ạ. Những gì khởi đầu một giả thuyết đều thường là sai lầm.

Câu chuyện bên ngoài đang sôi nổi. Nhưng tiếng "U" như một vị cảnh sát nghiêm khắc và có uy tín dẹp được tất cả những bất đồng. Và chữ "U" cuối cùng mà lão già la lên là dấu hiệu của tấn kịch hạ màn.

Hình như lão bỏ đi. Một người mọi đóng khố, cởi trần bước lại gần cửa đá, loay hoay làm gì đó bên ngoài. Tảng đá vuông khổng lồ nhích và xoay tròn đi. Một khe hở chừng năm phân tây chiều ngang mở dọc theo bề cao cửa đá. Và thức ăn được đưa vào trên một phiến lá dài và hẹp của một loài cây kỳ lạ. Đó là mấy củ khoai đỏ màu huyết đọng, một lóng cây lạ có hai mắt trông như lóng mía và ba bốn con trùng sống được xâu trong que dài như ta làm bún chả.

Thức ăn có hình dài đi qua khe cửa đá dễ dàng. Mọi người khuất bóng. Vài phút sau thấy cửa đá khép kín. Không còn nghi ngờ gì nữa: ba người đang là tù nhân giam lỏng của một lũ mọi kỳ quái bán khai.

Thức ăn dư thừa cho ba người. Vì những củ khoai rất to và dài. Ăn ngọt và thơm, nuốt miếng đầu tiên chưa qua khỏi cổ, Hùng và Liên đã muốn cắn thêm miếng thứ nhì. Bột bùi và béo ngậy của giống khoai này làm anh Ngọc ngạc nhiên:

- Tại sao giống khoai này lại có lượng chất béo cao đến thế nhỉ?

Hùng bàn:

- Mình đào được ít khoai này đem về trồng bán chắc thành triệu phú được đó anh.

- Còn phải nói.

Liên vui lây vì... được ăn bữa ngon và lạ miệng. Bỗng mặt đang tươi, xịu lại:

- Em... chỉ muốn về nhà với ba má thôi. Không có khoai ăn cũng được.

Hùng trêu em:

- Anh Ngọc phải biết đây là một hy sinh đáng kể của Liên đấy nhé. Ở nhà thường không bao giờ Liên nhường em thức ăn bao giờ.

Anh Ngọc vội bênh Liên cho con bé khỏi khóc:

- Sao Hùng nói thế? Anh phải nhường em chứ, ai lại bắt em gái nhường anh bao giờ? Phải không Liên?

Trời tối dần. Trong căn nhà đá không còn trông rõ năm đầu ngón tay. Mọi người muốn nói gì với nhau phải hạ thấp giọng, vì vách đá dội lại nhiều lần đến nhức đầu, và muốn trao nhau vật gì thì phải sờ soạng y như người mù. Hay nếu nói cách khác, giá có một người mù sống chung với họ trong đây thì mọi người đều hoàn toàn bình đẳng.

Lão già ban sáng lại đến. Lão đến là Ngọc, Hùng và Liên biết ngay vì hình như chỉ có mình lão nói được chữ "U" mà thôi. Những tên mọi khác không dám nói hay vì không nói được. Giả thuyết sau có vẻ đúng hơn vì lúc đó ba bạn trẻ đã thấy tất cả đám đồng loạt hô to: "I" để chào đón lão tới. Chữ "I" chứ không phải chữ "U".

Trong ngôn ngữ tất cả các quốc gia trên thế giới, âm "I" là âm dễ nói nhất. Rồi đến âm "Ơ". Và âm "U" khó nói hơn hai âm kia nhiều. Có lẽ vì thế trong bộ lạc này chỉ có một số nhỏ người nói được âm "U" mà lão già kia là một. Lão ta có vẻ là chỉ huy đám mọi lắm.

Ngoài gian nhà đá, bọn mọi đốt lửa "sinh hoạt" thì phải. Vì có ánh lửa bập bùng lọt vào trong qua khe cửa rất hẹp.

Tiếng củi khô reo lách tách và tiếng người giậm chân thình thịch trên đất theo một nhịp nào đó. Có cả tiếng tù và hay một nhạc cụ gần giống thổi thành một điệu nhạc riêng của bộ lạc giúp vui cho lũ người bán khai. Rồi tiếng hát nổi lên từng chập. Lúc đầu trong trẻo, sau đục dần lè nhè như người say rượu mà lại không giống say rượu mấy. Tiếng khàn và đục của lão già cầm đầu lại thét lớn âm thanh quyền lực quen thuộc: "U". Mọi hoạt cảnh ngưng lại ngay lập tức như cái máy TV bị cúp điện bất ngờ. Ba bạn đoán thế vì một sự im lặng tuyệt đối phủ lên khung cảnh bên ngoài rất nhanh chóng. Chỉ có tiếng gió reo và tiếng cành cây gãy rụng rơi trên đất.

Hùng cười khẽ:

- Gió và cây không hiểu chữ "U", anh Ngọc ạ.

- Cả chúng mình nữa chứ.

Lão già cất tiếng nói một câu dài. Đám đông lao xao. Một lúc khá yên lặng nữa trôi qua. Rồi có những giọng mừng rỡ, vui vẻ vô cùng nổi lên. Đám đông lại nhảy múa, nhạc cụ thổi lên những âm thanh mạnh và cao mỗi lúc cành rợn người.

- A... a... a...

Tiếng kêu thảm thiết nổi lên một giây như con heo bị chọc huyết rồi im bặt. Rõ ràng là tiếng người kêu. Và tiếng thân xác nặng nề rơi bịch xuống đất, chân giẫy đành đạch, rồi im bặt.

Hùng hoảng kinh trong lúc Liên gần như ngất đi:

- Cái gì kỳ vậy anh Ngọc?

- Có lẽ một người trong bộ lạc vừa bị giết chết.

- Để làm gì?

Im lặng một phút. Hình như Ngọc đang suy nghĩ tìm một câu trả lời thỏa đáng nhất. Anh nói khẽ:

- Có hai trường hợp: Một là bị giết để trừng phạt một tội lỗi. Hai là...

Ngọc lại im lặng. Bỗng có mùi thịt nướng thơm một cách tàn nhẫn vô tình bay vào trong nhà đá. Mỡ cháy xèo xèo trong lửa. Hùng vốn sành ăn nói ngay:

- Mùi thịt nướng rất lạ.

Ngọc mất hẳn tự chủ, giọng nói run run ngắt quãng:

- Trời ơi! Tôi đoán không sai. Thịt người nướng! Hùng! Liên! Hai em thấy chưa: người mọi bị giết để cho bọn dã man này nướng ăn.

- Còn chúng ta? Bao giờ đến lượt chúng ta?

- Cầu xin Thượng đế cứu giúp chúng con. Chúng con chưa muốn chết. Chúng con còn trẻ quá.

Hai đứa bé bắt đầu đọc kinh cầu nguyện Đức Chúa. Chỉ có Hồng Liên đang theo học trường đạo biết đọc kinh và đang dạy lại cho Anh Hùng vì gia đình chúng theo Phật Giáo. Anh Ngọc im lặng khó hiểu.

Đêm dần tàn. Cuộc vui bên ngoài nhà đá cũng gần tàn. Và niềm hy vọng sống của ba người trẻ tuổi, tù nhân đau khổ cũng đang dần tàn.

Ngọc, Hùng và Liên nằm thao thức cho đến sáng trắng. Họ không thể ngủ được.

Chương 4. Chữ U và người mọi
Anh Ngọc bảo với Hùng và Liên:
- Ta phải thoát ra khỏi đây ngay bây giờ. Thử lay phiến đá xanh chặn cửa xem sao.
Phiến đá nặng như một ngọc núi nhỏ. Ba bạn gắng sức mà nó không nhúc nhích một ly. Hùng cũng khá mạnh như bù lại Liên yếu đuối. Ngọc... đứng không vững thì... hợp lực sẽ không lớn lắm.
- Mission impossible, anh Ngọc ạ. Hùng than thở.
Liên luống cuống:
- Phải tính cách nào mau đi không lẽ mình bó tay chịu chết trong nhà đá? Anh Ngọc?
Anh Ngọc trở thành bộ óc, thành niềm hy vọng, là vị cứu tinh của hai đứa trẻ trong lúc này. Chúng không còn dám nghịch ngợm, nhỏng nhẽo hay bướng bỉnh cứng đầu với anh nữa. Lỡ anh quá giận thoát ra một mình bỏ chúng ở lại đây thì sao?
- A! Khi nào cách cửa đá mở ra, ta sẽ thoát chạy. Được không anh Ngọc? Người mọi vẫn nuôi cơm chúng ta ngày ba bữa đó.
Liên bĩu môi:
- Cơm tù đấy. Tử tế gì đâu mà anh Hùng khen.
- Không đâu Liên ạ. Anh ta có vẻ thuần lương. Đợi khe cửa mở hé, chúng ta sẽ xô rộng cửa ra và... thoát chạy ngay... Anh Ngọc chạy được chưa nè?
Ngọc quyết định:
- Nếu có thể được, hai anh em cứ thoát trước mới có thể cứu anh được. Anh... còn hơi khập khiễng, chắc khó trốn thoát. Anh sẽ tìm cách cản hậu vậy.
Mắt Hùng đỏ hoe:
- Còn anh? Chúng... làm thịt anh thì sao?
- Đừng nói dại miệng - Anh Ngọc mắng yêu. Anh không chết đâu. Nghe lời anh nhé.
Tuy nói thế nhưng Ngọc cũng hơi bùi ngùi:
- Chết cả ba không ích gì cả hai em ạ.
Rõ ràng là anh vẫn bị cái chết ghê gớm kia ám ảnh. Cả ba yên lặng không nói chuyện nữa cho tới giờ ăn. Có tiếng chân bước nặng nề quen thuộc của người mọi "cai ngục". Hùng ra cửa đá chờ sẵn. Ngọc và Liên cũng sẵn sàng.
"Kẹt, kẹt"
Thức ăn lại được đưa vào. Ba bạn không màng đến mà ra sức xoay hẳn phiến đá theo chiều mở lúc nãy. "Một, hai, ba... hò dô ta" được hát lên hai ba lượt đồng loạt rồi cả ba xuôi ta đứng yên nhìn nhau như những thằng ngốc. Phiến đá vẫn không nhúc nhích thêm một ly nào nữa. Hùng buồn bã lấy thức ăn vào. Lại khoai, ống luồng nước và... rắn nướng. Trong thời gian ở đây, món thịt được nấu nướng theo một cách thức độc nhất: nướng. Chỉ có nướng và nướng. Rắn, thằn lằn, cóc nhái... đều để nguyên con và nướng. Có lần lại là sâu xanh nướng. Chỉ nhìn cũng đủ chết khiếp, ai mà dám ăn.
Người mọi dợm đi ra hướng đóng cửa đá lại. Nhanh trí khôn, bỗng anh Ngọc phóng đến bên cửa đá, hô to:
- U... u...
Anh ta đứng sựng lại. Anh Ngọc ra dấu đẩy cánh cửa đá theo chiều mở. Mọi người ngẩn ngơ một lát rồi gật đầu chạy ra hướng điều khiển phiến đá làm cửa.
Cả ba mừng rỡ muốn điên lên. Liên kêu:
- Anh Ngọc giỏi quá!
- Anh xứng đáng là... anh của em.
Câu khen ngợi sau này là của Hùng. Anh Ngọc cười vui:
- Đừng hấp tấp. Phải bắt được con cá vào lưới đã rồi hãy mừng.
Cánh cửa chuyển động và... dần khép lại. Anh Ngọc tức quá nhảy lại đấm cửa thính thịch. Vô ích. Cửa vẫn trơ như phiến đá vách của căn nhà đá. Ít ra là hiện giờ.
Anh Ngọc tự hỏi:
- Tại sao lạ vậy? Người mọi đã hiểu ý ta rồi mà. Anh ta còn gật đầu nữa. Bây giờ phải làm sao? Dù sao tiếng "U" huyền bí cũng có một quyền lực nào đó đối với tụi mọi này.
Mặt Liên bí xị:
- Em không hiểu gì cả anh Ngọc.
Ngọc lắc đầu:
- Anh cũng không hiểu. Chỉ có một điều anh hiểu rõ ràng là chúng ta vừa thất bại.
Hùng chán quá hết... muốn ăn khoai đỏ tuy rằng khoai vẫn ngon như hàng ngày. Thế là hết! Bây giờ thì đành khuất phục định mệnh.
Thời gian lẳng lặng trôi qua trong nặng nề. Anh Ngọc lầm lì ngồi ở xó cửa nghe ngóng, miệng lẩm nhẩm luôn như người... đang học bài thi cuối năm. Anh trông mặt càu cạu thật đáng ghét. Hùng và Liên buồn quá... cũng ngủ vùi.
Giờ cơm chiều đã đến. Người mọi quen thuộc trở về căn nhà đá. Cánh cửa đá hé mở như mọi lần, anh Ngọc lại la lên:
- U...
Anh ta đứng nghiêm chỉnh như sẵn sàng chờ lệnh. Ngọc mở miệng nói xí xố những âm ngọng nghịu. Anh thổ dân đáp lời lại. Hai đứa trẻ trố mắt nhìn anh Ngọc như quái vật ba đầu sáu tay. Anh Ngọc học tiếng của bộ lạc này từ lúc nào?
Hùng nhận xét rất khẽ với cô em gái:
- Anh Ngọc nói hình như anh Ngọc không hiểu lắm, Liên ạ.
- Nhưng anh Ngọc nói hình như người mọi hiểu.
- Đúng thế.
- Vậy ra anh Ngọc học ngôn ngữ của họ để dễ thông cảm hơn chăng?
Phải rồi, sáng này thì hai bên không hiểu nhau nên người mọi bảo khép cửa mà anh Ngọc yên trí là anh ta sẽ mở cửa.
Hùng gật gù nói thầm:
- Tiếng của lũ mọi này cũng khác với người thổ dân lái thuyền hướng đạo cho mình... vì nếu giống thì anh Ngọc đã hiểu bọn chúng nói với nhau những gì từ lúc mới bị nhốt vào đây. Bây giờ anh bắt đầu học thì... đã trễ, nhưng muộn còn hơn không.
Hai bên có vẻ thân thiết và sau cùng người mọi chạy đi kiếm cho anh Ngọc một thân cây rất chắc chắn và rất dài. Anh thâu lấy và để vào trong căn nhà đá đó.
Bữa ăn chiều anh Ngọc có vẻ dễ chịu thoải mái. Anh vui đến nỗi nói cười luôn miệng:
- Hai em có biết anh định làm gì với cái cây nặng nề này? Đoán đúng anh thưởng.
Liên cũng mừng và tươi như hoa:
- Hôm nay anh Ngọc nói một câu... rất hay và có duyên. Em chỉ thích được thưởng thôi. Nhất là chính anh Ngọc thưởng...
Hùng láu táu:
- Để anh đoán trước, Liên đoán sau nhé...
- Anh khôn quá.
- Anh Ngọc muốn dùng một sức nhỏ mà đẩy đi một trọng lượng lớn.
- Đúng. Nhưng bằng cách nào?
Liên cướp lời:
- Phương pháp đòn bẩy.
- Hay lắm.
Rồi anh giảng giải thêm:
- Anh định lấy một cạnh của thành cửa làm điểm tựa. Phòng rất rộng, ta có thể dùng cây dài không sợ vướng víu. Và ta nắm lấy tay đòn càng dài mà tác dụng sức vào đầu tay sẽ sinh ra lực rất mạnh ở đầu kia.
Hùng nói một câu đầy vẻ bác học:
- Hãy cho tôi điểm tựa, tôi sẽ bẩy được cả vũ trụ.
- Chỉ cần bẩy được cửa đá hé to ra là xong, nói vũ trụ lớn lao quan trọng quá, Hùng ạ. Bây giờ hai em đi ngủ và nhớ ngủ cho ngon nhé.
- Trời ơi! Ngủ? Anh có... điên không hả anh Ngọc.
- Không, anh bình tĩnh lắm. Hai em phải đi ngủ cho có sức, để đêm khuya ta mới hành động được chứ. Anh biết là chúng ở ngoài không canh gác chi hết, chúng tự tin vào khối đá ngàn cân chắn cửa này.
Hùng và Liên dùng dằng không muốn ngủ. Ngọc dễ dãi:
- Cũng được. Hai em ngồi anh nói chuyện cho nghe. Có nhiều điều lý thú ở bộ lạc này lắm. Người mọi gác cửa chẳng hạn, có một trình độ văn minh có thể nói thua người Kinh ta hàng ngàn năm...
Liên hãnh diện:
- Đúng rồi. Vì dân ta có đến bốn ngàn năm văn hiến.
- Lỗ mũi của Liên phồng to như quả cà chua, mất dáng dọc dừa rồi đó. Đừng tự đắc vì họ có trình độ văn minh kém hơn mình. Họ chẳng may ở vào một địa thế khép kín nào đó và mãi mãi ở trong ấy vì phong tục, tập quán hay tôn giáo... nếu được đi học và tiếp xúc với những nền văn minh như chúng ta, có lẽ họ chẳng thua ta chút nào.
- Nhưng hiện thời thì ta vẫn hơn họ chứ?
- Phải. Anh mọi dễ thương mang thức ăn cho ta đó, không biết cây gỗ dài ta sẽ dùng làm gì và tưởng vô hại, vui vẻ đưa cho anh ngay. Anh nói chữ "U" là anh ta có vẻ sợ sệt lắm, bảo sao cũng nghe.
Liên suy nghĩ hỏi một câu móc họng:
- Thế ai nghĩ ra cách di chuyển phiến đá chặn cửa kia? Em thấy là nhất định họ cũng dùng nguyên tắc đòn bẩy như mình sắp làm đây. Vì chỉ có một mình anh mọi mở đóng cửa đá, dù anh có lực lưỡng đến đâu cũng khó lòng nhúc nhích phiến đá xanh này được.
- Em nói đúng. Như thế có nghĩa là người cầm đầu bọn chúng, lão già khàn khàn hay hét "U... u..." kia có đầu óc thông minh hơn dân trong bộ lạc lão nhiều. Và lão giữ độc quyền sự hiểu biết đó để đời đời cai trị, ngồi trên đầu cổ những người man di chất phác kia..
Nói ra thì thật lạ. Lúc trước đây nửa tiếng đồng hồ, Hồng Liên thấy ghét căn nhà đá này chừng nào, thì bây giờ con bé lại... quyến luyến ngần ấy. Tại sao thế? Còn nhỏ quá, Liên không tự mình phân tích được nhưng Liên thấy lờ mờ là nó nhớ... những củ khoai đỏ kỳ lạ ngon ngọt, những giọt nước trong ống luồng thơm như mật ong, nhớ người mọi hiền lành..., và nhớ cả những phút sống dịu dàng với anh Hùng, anh Ngọc. Hai anh mấy hôm nay thường luôn luôn tỏ ra dễ thương, kết quả là... lần nào Liên cũng được phần hơn.
Anh Ngọc đang bày kế hoạch vượt ngục với Hùng:
- Lúc chiều anh đã dùng mấy ống luồng nước kê vào khe cửa đá. Lúc đóng cửa lại luồng không chịu nổi, bị ép giập nhưng khe cửa vẫn còn hé rộng hơn mọi lần khi cửa đóng. Bây giờ anh vót nhọn đầu cây gỗ cho dễ kê vào lỗ hổng rồi khuya hẳn mình bẩy cửa đi ra. Em và Liên nhỏ người, ra trước, kiếm cục đá to kê chắn ngang khe giữ cửa đá mở luôn cho anh ra. Nếu không, phải giữ đầu cây đòn hoài mệt lắm.
- Vâng.
- Anh nghĩ chữ "U" của bọn này hình như để chỉ vị tù trưởng, và... chỉ có những người nào nói được âm "U" mới được lên ngôi tù trưởng mà thôi.
- A! Anh Ngọc, anh làm sao hiểu được rành rẽ thế?
- Anh ngồi và nhìn ra khe cửa quan sát và ghi nhớ tất cả lời nói, cử chỉ, thái độ của tụi man di nói với nhau. Nhờ thế anh học được và hiểu sơ qua một vài tiếng nói của chúng. Anh nói chữ "U" lên là người mọi quen thuộc của chúng ta... hình như đối với anh bằng lễ nghi dành cho một ông tù trưởng.
- Còn làm sao anh nhờ hắn lấy về cái cây?
- Đó là điều bí mật. Anh không nói đâu.
Tiếng chim ăn đêm quang quác trên bầu trời tối đen. Âm thanh buồn và rời rạc. Nhưng đối với cả ba, nó reo vui như tiếng kèn khải hoàn của đoàn quân chiến thắng trở về từ trận tuyến. Ba người bạn trẻ bắt tay ngay vào việc. Nghe ngóng giây lâu thấy bốn bề yên lặng như tờ, anh Ngọc đút đầu vót nhọn và dẹp của khúc đòn dài vào khe đá và cả ba cùng bẩy. Dồn hết sức mạnh vào đôi tay và làm việc câm lặng trong điều kiện bình thường là một cực hình nhưng bây giờ đang hứng khởi. Ngọc, Hùng và Liên khám phá ra rằng... làm việc nặng cộng đồng không cần thiết phải la hét. Hò dô ta, hò kéo gỗ... là những xa xí phẩm cho những kẻ muốn thoát ly.
"Kẹt"
Cánh cửa thô sơ bắt đầu chuyển động. Tiếng kêu khô khan vang đi rất xa trong đêm vắng làm ba bạn hết sức hồi hộp. Nhưng chẳng có gì lạ xuất hiện bên ngoài và họ tiếp tục bẩy cánh cửa. Phiến đá hàng tấn nhượng bộ từng ly một. Rất lâu ba bạn không dám nghỉ tay vì chỉ lơi tay một lúc là nó có khuynh hướng khép chặt lại như cũ. Mười phân, hai mươi phân... mở ra theo khe hẹp. Anh Ngọc giục giã:
- Hồng Liên và Hùng ra trước chạy đi tìm cho anh cục đá chẹn cửa mau lên.
Hai chiếc bóng nhỏ bé thoát ra ngoài. Một phút trôi qua Ngọc thấy như dài hơn một thế kỷ. Mồ hôi vả ra ướt đẫm, đọng lại thành hạt như hạt đậu trên trán. May quá, anh vừa kiệt sức là cây đòn nặng trên tay nhẹ hẳn đi: hai đứa trẻ đã hoàn thành nhiệm vụ.
Anh nghỉ mệt chút xíu rồi tiếp tục đầy phiến đá mở rộng thêm. Bên ngoài Hùng và Liên cũng nhét thêm đá chặn lại cửa. Hai mươi lăm phần. Ồ! Quá đủ cho Ngọc rồi vì anh cao, gầy, mảnh khảnh.
Ngọc tự nhiên thấy khỏe khoắn vô cùng. Chân anh xương cũng đã lành thì phải. Anh có thể bước đi như thường, không cảm thấy đau nhức chút nào. Bỏ luôn cây nạng trong nhà đá cho bọn mọi cho rồi. Tặng chúng làm vật kỷ niệm.

Khu rừng trước mặt trải dài. Trong đêm tối, ba người trẻ tuổi lanh lẹ và hăng hái đi sâu vào trong. Tránh né khỏi móng vuốt thú dữ dễ dàng hơn với chính con người.

Chương 5. Vị tù trưởng bí hiểm
Anh Ngọc, Hùng và Liên nằm nghỉ trên một bãi cỏ. Trời chưa sáng hẳn và họ đã đi thẳng về hướng Bắc cách khỏi bộ lạc ghê gớm ấy một khoảng khá xa rồi. Mặt trời dần lên đỏ ửng chân trời nhưng khi ánh sáng đến thung lũng, hòa với màu xanh tự nhiên ở đây mà thành tím lợt. Cảnh tượng đẹp mắt và quyến rũ biết bao. Ước gì nơi đây trở thành một Trung Tâm Du Lịch Quốc Tế của Việt Nam. Ngọc nghĩ thế.
Một đoàn người chạy bộ hùng hục như những con trâu cày xuất hiện từ xa. Ngọc, Hùng và Liên vẫn ung dung vì ba bạn đã đánh lừa bọn mọi bằng những dấu chân lộn xộn khắp hướng, để rồi... bơi qua một con sông rộng, nước cuồn cuộn như sông Răng. Nằm bên này bờ sông ngó qua bờ bên kia nhìn bọn chúng hò hét, chỉ trỏ cũng thú lắm chứ. Nếu chúng bơi qua được sông thì ba người trẻ tuổi cũng đã lủi mất rồi.

Rất cẩn thận, Hùng đề nghị:

- Anh Ngọc ơi, hay chúng ta đi vào rừng rậm xế phía kia đi. Không chừng bọn mọi dám liều bơi qua lắm đó.

Ngọc gật đầu. Và cả ba tìm một cây đại thụ rất lớn leo lên núp. Họ được che chở bởi những tàn lá dày, kín đáo. Từ trên cao, họ lại dễ dàng quan sát bờ sông bên kia, theo dõi tình hình nữa.

Những chấm đen lác đác xuất hiện dọc bờ sông. Nhưng họ không bơi qua mà chỉ tụm năm, tụm ba từng nhóm bàn cãi sôi nổi. Cãi chán có vài người... lội xuống sông bắt cá bằng tay, bằng cây đập cá hay lao phóng cá. Vài người đàn bà tiếp lấy con cá sống to bằng bắp tay đang chan hòa máu đỏ, bỏ vào miệng cắn gặm từng miếng lớn, trông ngon như ta gặm quả táo trước khi đi ngủ.

Miệng và mũi họ đỏ lòm. Hai môi thắm tươi long lanh trông hệt như hình ảnh bá tước Dracula trong phim kinh dị. Ăn và mút xong thịt cá, họ thảy xương sống, đầu và đuôi cá trở lại dòng sông.

Liên nói nhỏ:

- Đúng là những con quỷ cái hiện hình.

Anh Ngọc suỵt nhỏ:

- Đừng nói chuyện Liên ạ. Tuy trông man rợ thế nhưng tâm hồn họ tốt lắm.

Một tiếng động sột soạt dưới đất. Ngọc giật mình ngó xuống. Trời ơi! Tên tù trưởng "U" kia đang ở đó. Hắn đang cúi mình tìm kiếm vật gì dưới gốc cây đại thụ mà ba bạn trẻ ẩn mình bên trên. Hắn rút túi lấy một con dao quắm, rèn đặc biệt, văn minh, nước thép sáng ngời không giống chút nào những mũi lao nhọn bằng đá mài của đám dân bộ lạc thời thạch khí. Và quỳ gối một chân, bắt đầu đào bới.

Một chiếc hộp sắt vuông, có khóa đàng hoàng hiện ra lù lù dưới lổ sâu năm tấc tây. Tên tù trưởng già nua rút ra một chiếc chìa khóa và mở ổ khóa. Cả ba người Ngọc, Hùng và Liên chóa mắt. Trong hộp toàn kim cương và kim cương, thứ thượng hạng to và đẹp khác thường. Có viên ánh xanh, ánh vàng được mài theo hình kim tự tháp lấp lánh phản chiếu như trong tiệm kim hoàn Eden nổi tiếng ở thương xá TAX.

Ngọc nghĩ ngay: "Cả một gia tài nhiều triệu bạc. Làm sao hắn ta có kim cương đã mài? Tại sao? Chốn hoang vu này có thợ mài kim cương? Lại còn chiếc hộp sắt, ổ khóa, chìa khóa và con dao quý kia? Hay là có ai cho hắn?"

Một câu nói rất rõ vẳng lên tai ba bạn trẻ làm họ suýt tuột tay rơi xuống đất:

- Nay mai ta sẽ trở lại Sài Gòn. Số châu báu kim cương này đủ đảm bảo cho ta một cuộc đời vững chắc. Nhưng còn cây cỏ "Zi" ? Làm sao ta mang theo được?

Hắn nói bằng tiếng Việt, và là tiếng Huế thật đúng giọng không pha trộn chút nào. Tiếng nói là của người Huế và chữ dùng là của người miền Nam.

Không hay biết có đến... ba người Việt Nam chính cống đang có mặt ở đây, hắn nói tiếp, giọng say sưa và mơ màng:

- Con trai của ta. Nó sẽ hãnh diện có một người cha giàu có, sang trọng từ... ngoại quốc trở về. Quá khứ của ta sẽ được lấp kín. Từ ngày ấy đã hai mươi năm rồi còn gì.

Hắn lấy trong túi vải mang theo một đống kim cương... chưa mài nữa, đổ chung tất cả vào hộp sắt. Ba bạn để ý những hạt sau là kim cương thô nhưng kích thước rất lớn, vượt hẳn những hạt xoàn hạng nhất của Pháp hay Bỉ. Gia đình khá giả, ba bạn không lạ gì giá trị của kim cương.

Viên tù trưởng chôn sâu chiếc hộp vào hố cũ rồi bỏ đi. Hắn ta sung sướng, mắt lim dim như người mơ ngủ. Có lẽ hắn đang chìm đắm trong ảo tưởng trở thành một nhà tỷ phú có tai mắt và thế lực trong thương trường và xã hội Việt Nam.

Liên nói ngay:

- Lão già người Việt Nam lại vào làm tù trưởng của bộ lạc này làm gì? Lão... giàu quá mà.

Hùng tỏ ra biết nhận xét hơn:

- Liên không thấy lão trút một số kim cương chưa mài vào số đã mài trong hộp sắt hay sao? Kim cương đã mài xuất xứ từ thành phố, còn chưa mài... là ở ngay tại đây, tại đất này.

- Đúng lắm. Anh Ngọc bảo. Lão ta vơ vét của cải dân bộ lạc, những tài nguyên mà họ không biết khai thác và không biết giá trị của nó. Anh nghĩ có lẽ nơi đây có mỏ kim cương.

- Anh Ngọc có để ý đến lão nói cây cỏ "Zi" gì đó không?

- Cỏ Zi? Cái tên rất lạ, có thể là tên gọi theo tiếng nói dân bộ lạc... và chỉ mình lão mới biết công dụng của loài cỏ này.

Một toán người cởi trần đóng khố khác từ dưới sông trồi lên, nhảy vào bờ la hét, tay cầm vồ bằng đá lởm chởm, nhọn và sắc như nước. Họ mặc khố màu đỏ, còn những người bắt giữ và cầm tù ba bọn trẻ thì khố màu nâu nâu, màu như sợi đay khô. Và hai phe xáp chiến dữ dội.

Biến cố quá bất ngờ xảy ra như chớp làm Ngọc, Hùng và Liên không kịp phản ứng. Mà nếu có phản ứng, ba bạn trẻ này cản ngăn những con người dã man đang hăng máu kia thế nào? Lão không mạnh nhưng đặc biệt nhanh như cắt, né tránh đòn độc của đối phương rất giỏi.

Máu đỏ phút chốc vung vảy trong nước sông, trên bờ sông và trên thân thể của những người đang chiến đấu, hay đã nằm bất động như chết. Trời bỗng chuyển mưa, sấm sét đánh từng lằn ngang dọc đan hình lưới nhện trên nền trời. Một lưỡi búa Thiên Lôi khủng khiếp giáng xuống ngọc cây cao sát chiến trường. Thân cây bị xẻ làm hai đổ gục xuống đất, rơi vào đám người cuồng sát kia.

Ầm... Ầm... Ầm... Ầm...

I... i... i... i...

A... a... a... a...

Tiếng cành lá xanh rơi rào rào như mưa hòa lẫn tiếng người kêu thét không dứt. Hai bên đồng loạt thu quân, chạy về hướng lãnh thổ của mình. Một phe chạy trở lại dọc bờ sông, phe kia... nhảy ùm bơi qua sông như những con cá kình của rừng núi âm u.

Mưa vẫn xối như trút, không ngớt hạt. Ngọc vội la lên bảo hai em:

- Mình xuống khỏi cây mau lên. Cây cao hấp dẫn làn sét rất nguy hiểm.

Sức mạnh của luồng sét mọi người vừa chứng kiến: cây đại thụ bên bờ kia bị xẻ đôi như đứa trẻ bẻ miếng bánh mì mềm ăn sáng. Toàn khu rừng là cây lớn và cây lớn. Trèo xuống lánh dưới gốc cây của chúng chắc gì đã an toàn.

Cả ba bỗng nghe tiếng rào rào như thiên binh vạn mã đang rong ruổi trên đường thiên lý: toán người bán khai đã bơi qua sông và chạy băng khu rừng để trở về giang sơn của họ. Hùng, Liên và Ngọc vội vã nằm rạp xuống đất nấp sau thân cây cổ thụ có thân to bằng hai ôm của người lớn vòng thân.

Dẫn đầu nhóm "chiến sĩ" ấy là một... cô gái trẻ, xinh đẹp, ưa nhìn... một cách rừng rú. Trông cô ta rất nảy nở, khỏe mạnh và tay cô ta lăm lăm một chiếc vồ nặng đến mười ký lô. Mặc quanh người một thứ vải ngắn, thân trên để trần, tóc buộc ngang lưng bằng dây leo rừng thẳm, cô ta rất dữ tợn, hay hét lên những âm thanh sắc nhọn, chói tai nghe như tiếng mèo kêu trong đêm. Móng chân, móng tay... được để khá dài và chặt vuông đầu cả mười ngón. Một kiểu trang điểm lạ lùng.

Có đến hai chục người mọi trở về. Họ không màng đến những đồng bọn bị thương hay nằm bất động còn lại bên kia sông. Họ ngồi nghỉ chung quanh những gốc to, cách nơi ba bạn trốn chỉ chừng hai chục thước.

Hình như có một buổi họp đang diễn ra. Không khí sinh hoạt của bộ lạc này có vẻ cởi mở, dễ dàng hơn vì ai nấy ngồi đứng tùy ý, muốn nói gì thì nói nhưng... cũng phải im lặng như những thân cây rừng khi "nữ chúa" nói "U".

Anh Ngọc bảo Hùng:

- Em có nghe tiếng "U" không? Tiếng "U" ở đây tượng trưng cho uy quyền của người lãnh đạo.

Cô gái vừa nói vừa cười, nhưng nét mặt những người mọi thần dân càng lúc càng trầm trọng.

Liên nói thầm:

- Trông cô ta oai quá, anh Hùng nhỉ.

- Để anh đề nghị em vào làm nữ chúa thay cô ta nhé. Chịu không?

- Em... không dám đâu. Chắc vồ đá nặng lắm... và đàn bà mà phải đánh nhau đổ máu như đàn ông.

Nữ Chúa chợt đập mạnh chiếc vồ đá đang cầm xuống nền đất. Đất ướt và trời đang mưa nên chiếc vồ ngập, lún sâu như chôn vào trong đất. Cô ta cởi sợi dây leo, xõa tóc và... ngồi nghỉ trên một rễ to. Cuộc họp chấm dứt, các chiến sĩ đã được phân công đầy đủ.

Anh Ngọc tò mò đưa mắt nhìn theo năm người mọi đi ngược đường cũ ra bờ sông. Họ làm gì? Thình lình đánh du kích chăng? Hay... múc nước về uống. Nếu cần nước giải lao thì cơn mưa nặng hạt kéo dài này cung cấp quá đủ.

Cô gái man dã này nằm xuống đất và ngủ rất tự nhiên trước mắt những người thần dân. Chiếc vồ đá thô kệch vẫn cắm trong đất ngay bên cạnh người đẹp. Anh Ngọc rùng mình. Hùng như biết được ý nghĩ của Ngọc, trêu anh:

- Anh Ngọc sắp lấy vợ chưa? Tụi em sẽ sửa soạn đồ mừng đám cưới cho anh rất đặc biệt: một chiếc vồ đá.

- Anh đâu có dám... nghĩ đến cô ta. Dữ như cọp.

Dầu Ngọc đã cải chính, hai đứa vẫn ôm nhau cười khúc khích. Anh Ngọc vội đưa ngón trỏ lên miệng ra dấu im lặng:

- Giỡn vừa thôi nhé. Nếu họ phát giác được ta là... ta chết.

Liên càng cười nhiều hơn:

- Anh yêu đời lắm phải không?

Hùng chỉ tay ra hướng sông trỏ cho Ngọc và Liên thấy bọn người mọi đang trở về. Từ xa trông không rõ nhưng dáng điệu của họ nặng nề, chậm chạp. Và có từng khúc dài dài nối từng cặp lại với nhau. Có hai cặp và một người chỉ huy. Hai phút sau, khi họ đến gần hơn, ba bạn mới nhìn rõ: gạch nối ấy là một người. Một người bất động, có lẽ chết rồi.

- Họ có tình nghĩa đáng trọng - Ngọc khen ngợi. Rút quân đi còn trở lại mang xác các bạn về cùng. Ai dám nói họ không văn minh?

- Anh Ngọc. Người sống đấy chứ. Vì em vừa thấy một thân người cong lên, vặn vẹo... xương kêu răng rắc.

- Liên... nói không tin được. Làm sao em nghe được tiếng xương kêu khi ta xa họ mấy trăm thước? Ủa, nhưng... nhưng người sống thật anh Ngọc ạ.

- Thì bọn họ bị thương được đưa về săn sóc. Thực tế và tốt đẹp hơn là mang những xác chết vô tri trở lại.

Cách suy nghĩ của ba người trẻ tuổi từ thế giới văn minh không thể giống với những kẻ bán khai này. Vì chỉ một phút nữa, khi bọn họ đã hiện ra rất đậm trước mắt. Ngọc, Hùng và Liên nhìn thấy những người bị thương là... của bộ lạc bên kia.

- Tù binh? Liên hỏi.

- Chưa chắc đâu Liên. Phải đợi lát nữa hãy nói.

Ngọc im lặng. Anh nóng lòng chờ đợi cách đối xử của họ đối với những kẻ thất thế.

Nữ Chúa được đánh thức dậy bằng cách một người tiến đến nắm tóc cô ta giật rất mạnh. Một kiểu cung kính lạ đời.

Lần thứ hai trong đời Ngọc nhìn thấy một đống lửa ghê gớm được đốt lên. Cũng đáng sợ như lần trước khi cả ba còn đang bị giam trong gian nhà đá. Vì bập bùng trong ngọn lửa nóng và rát là... hai con người sống vừa được quăng vào thiêu sống. Những tiếng kêu cứu, rên rỉ, la hét tuyệt vọng kéo dài chừng hai ba phút thì nhỏ dần và tắt lịm.

- Ghê quá. Anh thật không ngờ. Họ luôn luôn làm những gì anh chưa bao giờ tưởng tượng đến. Ngọc nói.

- Rồi tiếp theo họ sẽ làm gì nữa? - Liên hỏi.

- Liên không biết à? Tiếng mỡ cháy xèo xèo, mùi thịt người nướng khét lẹt... ở đây và buổi tối hôm trước có giống nhau không?

- Nghĩa là...?

- Là họ sẽ ăn thịt những cái xác cháy thành than ấy ngon lành như ta ăn thịt heo sữa quay trên Chợ Cũ.

- Trời ơi! Anh Ngọc nói thật?

- Hai bộ lạc thù nghịch cùng ở một mảnh đất sát bên nhau và nhất là... đang trong thời đại bán khai rất dễ có những hành động bất thường. Anh chỉ lạ là hình như họ nói chung một thứ tiếng...

- Anh Ngọc đoán thế?

- Không những chỉ đoán mà anh còn chắc đến tám mươi phần trăm. Vì anh hiểu sơ qua "Nữ Chúa" ban nãy bảo đàn em đi mang về một vật gì đó. Thật ra Ngọc bịa thêm, anh có hiểu gì đâu chỉ lờ mờ nhận xét rằng hai ngôn ngữ của hai bộ lạc chỉ là một và quả nhiên...

Tiếng "U" lại được thốt ra miệng cô gái man dã. Có mấy miếng đá dẹp, cạnh mài sắc lẻm được dùng làm dao xẻ thịt. Họ ăn bốc, ăn không biết nóng, ăn ngon lành và... rất trật tự, không giành giựt.

Những lớp than mỏng bao phủ bên ngoài những miếng thịt người theo hai hàm răng cắn giòn tan rơi xuống đất. Có người nhặt lên, liếm sơ cho hết đất rồi... bỏ lại vào miệng. Dạ dày của lũ người này sao quá tốt.

Nữ chúa nhai luôn những xương sườn, sụn trắng rau ráu. Thỉnh thoảng cô ta liếm hai mép đầy mỡ. Mắt sáng lên nhìn về phía trước. Một người thần dân trịnh trọng mang đến một quả tim đỏ lòm và một buồng gan ướt máu tươi. Tim và gan người còn sống nguyên vì lửa chưa làm chín được bên trong. Cô cầm ngay và cắn ăn nhồm nhoàm. Những người mọi vây quanh tỏ ý vui mừng nhảy cẫng lên như một lũ điên.

- Họ nghĩ hành động xơi tái tim gan kẻ thù biểu tượng cho sự can đảm của người anh hùng.

Ngọc nói và hai người em đồng ý ngay. Trong mười phút, hai con người "quay" trong đống lửa chỉ còn trơ xương. Xương sọ, xương sống, xương ống chân tay. Riêng xương sườn và những phần sụn mềm biến mất. Chúng đã nằm yên trong bao tử của hai chục chiến sĩ bộ lạc thù nghịch rồi.

Chương 6. Nữ chúa mơ mộng
Đám người man dã giải tán. Riêng cô gái còn ở lại. Để làm gì? Ba anh em rất thắc mắc mà không tìm ra lời giải đáp.

Liên bỗng kêu nho nhỏ :

- Đói qua anh Hùng ơi. Anh Ngọc kiếm cái gì ăn đó đi Anh sao dở quá.

Ngọc nhìn nét mặt nhân nhăn của cô em, bật cười nhưng vội bụm miệng lại kịp. Anh kêu lên :

- Mắc cỡ quá. Học sinh Trung học rồi còn kêu đói, nhõng nhẽo với anh. À, mà Liên muốn ăn không, ăn rất ngon nữa chiu không ?

- Ở đâu anh Ngọc ?

Hùng ôm bụng cười to, ra đấu cho anh Ngọc.

- Để em trả lời dùm anh nhé. Trong căn nhà đá đó Liên a. Có khoai đỏ, có ổng luồng nuớc và ...

Nhưng năm phút sau, chính Hùng cũng nhăn:

- Liên nói phải, em cũng đang đói quá xá. Mình có thể đào củ hái trái gì ăn đỡ không anh ?

Ngọc đành rời chỗ nấp. Anh toàn băng ra xa để lùi sâu vào rừng tránh xa cô Nữ Chúa tìm thức ăn thiên nhiên thì bỗng khụy xuống. Anh phát giác là vì ngồi yên một chỗ quá lâu, chân anh bị tê và đang nhức nhối vô cùng sau đó; có lẽ vết thương động đau lại.
- Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí. Chân anh đau lại rồi. Làm sao đây ?
- Chắc không sao đâu anh Ngọc. Anh nằm nghỉ độ một hai giờ thì khỏi.

Đây là lời an ủi và cũng là niềm hy vọng của Hùng và Liên. Hai đứa trẻ còn nhỏ quá, không thể tự sống lấy trong rừng được.

Liên đề nghị :

- Hay anh Ngọc để em và anh Hùng đi tìm thức ăn ? Anh cũng cần phải no bụng cho mau mạnh chứ.

Liên đói quá và … phải nói thế để xin phép đi. Thật ra nó để ý đến cái dạ dày của nó hơn là sức khỏe của anh Ngọc. Nó chỉ nhìn được những gì gần ngay trước mặt và không qua khỏi đầu mũi nó. Lý trí sáng suốt ban nảy đã bị bản năng lấn át và khuất phục.

Ngọc vô tình gật đầu :

- Liên nói phải. Hai em đi đi, mau trở lại nhé. Đừng đi xa quá coi chừng lạc đường.

Hai dáng bé nhỏ khuất sau những thân cây to lớn. Ngọc buồn bã, nằm nghiêng suy nghĩ. Tự nhiên mắt anh hướng về Nữ Chúa. Cô ta tàn bạo và hung hăng thật nhưng … cũng dễ thương. Cô ta ở đây làm gì một mình ?

Nữ Chúa đang mơ mộng. Dựa lưng vào một thân cây. Miệng cô ta phát ra những âm thanh rít rít, trầm bổng. Tuy nghe không giống nhạc Tây Phuơng hay Việt Nam nhưng cũng tạo nên một điệu nào đó vui tai. Cô ta đang hát.

Trông Nữ Chúa dịu dàng và xinh tươi như một cô gái Việt Nam thùy mị hiền lành của bốn ngàn năm văn hiến. Cô lại dùng hai tay đập đều vào tảng đá xanh trước mặt. Đánh nhịp chăng ?

Nữ Chúa nghĩ gì ? Ngọc không biết ? Nhưng rõ ràng nhất là cô ta đang sống trong thế giới riêng biệt của cô. Thế giới mà người ngoài không thể xen vào được và cũng không thể hiểu được. Một tiếng «U» quen thuộc bỗng lại bật ra khỏi miệng. Giọng đầy vẻ tức tối căm hờn. Mặt biến đổi hẳn, cô ta hướng về phía bên kia sông mà nói tiếp một tràng dài. Lần này Ngọc nghe được loáng thoáng vài chữ biểu lộ sự tức tối, thù hận.

- Cô ta đang nổi giận.

Như để trả lời cho ý nghĩ của Ngọc, Nữ Chúa đi sang bên, nhổ chiếc vồ đá lăm le trong tay; Ngọc sợ quá. Nếu chân anh lành lặn không chừng anh đã thoát chạy đi rồi . Ầm ... ầm thân cây to trước mặt Ngọc, rung lên như gặp cơn giông. Lá và cành khô rụng xuống như mưa. Đồng thời mùi nhựa sống hăng hắc thoảng qua theo gió. Cây vô tội đã lãnh hai vồ đích đáng.

- Kẻ thù của cây cỏ đúng là đàn bà và trẻ con. Nhưng cây cỏ nạn nhân ở thành phố chỉ là những đóa hoa đẹp, những chiếc lá non xanh mướt ngộ nghĩnh. Nơi đây … cây cổ thụ hai ôm cũng là nạn nhân đáng thương … của một cô gái trẻ, quyền thế …
Chưa dứt ý nghĩ, Ngọc chợt thấy lù lù hiện ra một người mọi … đeo khố bằng gai. Người của bộ lạc đã giam anh và hai em nhỏ trong căn nhà đá. Người của bộ lạc thù nghịch với Nữ Chúa. Anh ta còn trẻ lắm, thân hình vạm vỡ, bắp thịt nổi cuồn cuộn như một lực sĩ hạng nặng. Bước đi trái lại nhẹ như lá rừng. Anh ta đến và lội qua sông từ lúc nào Ngọc cũng không hay. Và tay anh ta… có một cành cây khô, to và nặng … sẵn sàng chiến đấu chăng ? Ngoc tự hỏi ? Nữ Chúa đang giận dữ mà gặp anh ta, hiện thân của kẻ dịch không đội trời chung, thì cái vồ đá kia ắt sẽ không tha. Và nơi đây sắp trở thành bãi chiến trường của một trận ác đấu khủng khiếp ? Nhưng ngoài dự liệu của Ngọc, cả hai thanh niên nam nữ bỏ vũ khí xuống đất chạy lại ôm chầm lấy nhau, quyến luyến không rời … A, họ là một cặp tình nhân. Hai người trẻ tuổi yêu nhau thuộc hai bộ lạc thù nghịch. Và Ngọc hiểu ngay sự mơ mộng của Nữ Chúa ban nẫy đây.

Hai người bắt đầu tâm sự … bằng ngôn ngữ của họ. Ngọc chỉ nghe được những chữ "U" rất rõ. Anh bực mình quá, tự thề với mình "ta không thông thạo được tiếng nói của bọn họ, ta sẽ không … trở về nhà nữa". Anh kiên nhẫn, dần dần tìm lại sự hiểu biết khi đối thoại với người mọi giữ cửa và sự hiểu biết ấy tăng lên mãi. Ngọc có trí nhớ rất tốt, anh nhớ tất cả những chữ đã từng nghe qua từ trước đến nay và … bây giờ đoán nghĩa. Có những chữ được nói đến nhiều nhất và có những chữ được nói ít. Nét mặt, cử chỉ sôi nổi hay dịu dàng của những người man dã khi nói ra các chữ ấy. Ta có thể tin được rằng họ rất thành thật, không chút che dấu mỗi câu thốt ra khỏi cửa miệng.

Ho không bao giờ biết ngượng miệng. Công việc tìm học ngôn ngữ này do đó dễ dàng hơn.

Anh Ngọc hiểu sơ ý nghĩa họ đang nói. Câu chuyện buồn, xen lẫn với bất mãn. Họ bất mãn với ai ? Nữ Chúa là người tối thượng của bộ lạc này, cô ta có toàn quyền hành động theo ý thích. Bộ lạc kia có tù trưởng là lão già gian ngoan, thanh niên … có lẽ bị ràng buộc, cấm đoán điều chi nên cả hai tức giận.

Thanh niên bốc một nấm đất, đào khoét đùn đống lên mặt đất. Rồi anh ta hốt tất cả lên, nắn lại thành một cục tròn to, bằng trái bưởi để lên một chàng ba của cây nhỏ. Anh vớ lấy gậy hét một tiếng như sấm nổ đập nát cục đất bay tan theo gió thành bụi. Anh nói "U"; "U" lơ lớ, đầu gậy chỉ vào nơi cục đất vừa biến mất.

- Anh ta muốn giết tù trưởng ? Sự phục tùng của bộ lạc đối với lão già bắt đầu lỏng lẻo vì … lão thất nhân tâm. Lão chỉ lo vơ vét làm giàu cho mình, bỏ mặc dân sống chết mặc bay. Ngày nào dân mọi hiểu giá trị của kim cương của đức độ phải có của một vị lãnh đạo, lão già sẽ … bị thảy vào đống lửa.

Ngọc nghe thấy một tràng « U ...u…u…u.. » liên tiếp cố gắng thoát ra khỏi miệng thanh niên vẫn lơ lớ, ngọng nghịu làm sao. Nhưng chàng ta tiếp tục trợn mắt bặm môi phát ra âm một cách khó nhọc đáng thương. Lòng kiên nhẫn kéo dài đem lại một kết quả nhỏ: tiếng U sau cùng nghe vẫn không giống mấy, nhưng còn khá hơn thoạt đầu nhiều.

Nữ Chúa vui mừng khoa tay tỏ dấu khuyến khích người yêu. Một câu hỏi mới lại hiện ra trong đầu Ngọc. Anh ta tập nói chữ « U » để làm gì ? Tại sao Nữ Chúa lại thích thú? Cuốn phim quay chậm chiếu từ từ trong óc Ngọc. Chỉ có Nữ Chúa và lão già mới nói được chữ U. Hay là chỉ những kẻ phát được âm U mới làm nên ngôi Chúa tể bộ lạc ? Và thanh niên cố gắng đoạt ngôi tù trường của lão già?

Dưới mắt Ngọc thanh niên và Nữ Chúa dễ thương như bất cứ một cặp tình nhân nào đang thêu hoa dệt bướm cuộc sống của họ trong tương lai màu hồng. Mơ mộng phải đẹp hơn thực tế. Tuổi trẻ … đẹp hơn tuổi già. Và sự thật đẹp hơn mưu mô giả dối, trục lợi.

Trong phút chốc, Nữ Chúa và thanh niên chia tay nhau, mỗi người một ngã. Cô gái rừng xanh đứng nhìn theo cho đến lúc người yêu khuất bóng.

***

Trong khi ấy, Hùng và Hồng Liên cùng tình cờ chứng kiến một chuyện lạ. Chúng đang đào củ sắn – hay củ gì giống củ sắn – và chất thành đống bằng cây thì có tiếng lá khô lách tách. Có người đi đến và bước đi dẫm nát lá cây. Chúng nhìn ra: trời ơi ! Lại lão già.

Lão ta từ tốn khoan thai như một kẻ nhàn du. Con dao quắn vẫn đặt ngang thắt lưng, trong vành khố. Một vật gì dài lòng thòng như cái thắt lưng đen sì, bản to và dẹt quấn vào cổ lão. Không hãm lại kịp, Liên hét lên thất thanh. Hùng tái mặt.

Chúng chờ đợi một sự phù hộ của Thượng Đế. Lão già kia bị rắn quấn chết, bằng ngược lại, chúng sẽ không thoát khỏi số mạng. Một số mạng bi thảm. Có muốn trốn cũng không kịp, vị lão sẽ lần theo vết chân đạp trên lá khô mà tìm đến. Lá nát rất dễ nhận biết. Lão là con người văn minh mà.

Nhưng lão già vẫn thản nhiên, vuốt ve con rắn lạ, lão như không nghe thấy tiếng Liên hét.

Chỉ hai anh em nó nghe thấy. Vì một tảng đá to lở từ ngọn núi xanh lăn xuống chân núi. Một tiếng động khủng khiếp của một trận địa chấn nhỏ nổi lên át hẳn tiếng la của Liên.

- Hình như đây thường bị đá lở lắm hở Liên ?

Lão già không giật mình cũng chẳng buồn để ý đến.

Liên hoàn hồn, nó … chú ý đến con rắn hơn chuyện đá lở của anh Hùng :

- Anh xem có phải rắn hổ mang không ?

- Trăm lần không . Rắn hổ mang anh có lạ gì. Trong chuồng sắt sở thú đó, Liên nhớ chưa ?

- Thế nó là giống rắn gì ?

- Anh chịu.

- Em cũng … chịu

Hùng nghe câu nói ngộ nghĩnh, cười khe khẽ.
Lão già thích con rắn lắm, móc túi lấy ra một con chuột bự bị chặt đứt bốn chân, thả xuống đất. Máu tươi chảy ròng ròng. Con vật còn sống , ngọ ngoậy nguyên thân mình tròn trùng trục, trơ trụi như khúc giò một cách tuyệt vọng. Con rắn cuộn tròn ngóng cao cổ và … lù lù tiến gần sát lại hả cái miệng đỏ lòm với chiếc lưỡi chẻ hai ghê gớm, nuốt trọng con chuột

Trên «chiếc thắt lưng» dẹp nổi lên một khúc tròn trông là lạ, hay hay. Khúc tròn đi dần xuống giữa thân, ngừng lại ở đó vài phút đồng hồ, nhỏ dần rồi, dẹp lép như trước. Con mồi đã bị tiêu hoá hoàn toàn.

Đầu con rắn bỗng nổi lên môt cục đỏ tươi to bằng đầu ngón tay cái, tròn trông như mào gà mà không phải hay nói đúng hơn là hình ảnh trái ngược. Vì đầu con rắn dẹp, cục đỏ tròn. Đầu gà là khối tròn, mào lại dẹp.

Rắn đờ dẫn đôi mắt tựa như buồn ngủ. Một con sóc nhỏ lông xám truyền cành chơi đùa nhí nhảnh một mình trên cây. Lão già huýt sáo, con rắn sáng mắt. Lão lại huýt lên tiếng sáo thứ hai, ngón tay trỏ vào con sóc nhỏ. Nhanh như điện chớp, con rắn bò dọc theo thân cây tựa như ta ném lên sợi dây dài. Sóc phóng qua cây bên cạnh chạy trốn hãi hùng. Chỉ nghe bập rất gọn và nhanh, con sóc bị rắn mỗ rớt xuống đất nằm trên lá khô bất động.

Màu lông xám hoa đen sậm trong vài phút. Liên lè lưỡi lắc đầu :

- Lão chỉ ngón tay về hướng mình là … hai đứa hết sống.

- Nọc độc con rắn này quá vô địch.

Hùng miệng nói óc nghĩ đi dâu. Nó cố tìm lý do gây lãng trí: đó là hình ảnh con chuột ... cụt bốn chân. Con vật dẫy dụa. Máu đỏ thắm rỏ giọt và nhểu thành dòng trên lá vàng.

Lão già đã mất hết nhân tính, trở nên man rợ và tàn nhẫn sau khi sống chung với bọn người bán khai môt thời gian qua dài. Đáng sợ nhất là … lão vẫn còn bộ óc nham hiểm, độc ác của một cặn bã xã hội văn minh.

Con sông vẫn lơ lửng trôi dài, bất tận như giòng thời gian, Hùng nảy ra ý nghĩ nghịch ngợm :

- Liên ơi, mình chơi lão một vố thật đau nhé.

- Thích quá anh Hùng. Anh chỉ mau đi

Hùng quay đầu lại nhìn lại con sông, rong rêu bám thành búi, xanh to ngay trên thân cây cổ thụ trước mặt và … lão già với con rắn. Nó tính toán như máy :

- Lão già đứng cách bờ sông hai mươi thước. Anh em ta cũng thế. Bây giờ em sửa soạn liệng đá: lần thứ nhất, liệng đại cốt gây tiếng động, lão ngỏanh mặt đi, anh sẽ chạy tới gần sông ném búi rong này lên trên phiến đã to kia. Và em chọi lão một cục đích đáng vào lưng, một cục xuống sông. Lão tường địch thủ ở sông trồi lên, sẽ chạy tới và …

- Tắm sông ?

- Lão sạch lắm. Tắm lại vì lúc sáng bờ bên này lão đã phải lội sông một lần rồi.

Theo đúng kế hoạch, lão già giận dữ phóng mình đến đứng trên phiến đá độc nhất của bờ sộng, bãi cát rất dễ bị lún chân. lão vừa chòm mình ngó xuống nước tìm kiếm địch thủ vô hình thì ngả lộn cổ.
"ùm" bọt nước bắn tung tóe. Điều mà hai đứa bé không ngờ là lúc lão nổi lên, đầu đỏ loè những máu. Dưới nước ngay chỗ phiến đá, mỏm nhọn sắc cứa đứt trán nạn nhân của chúng.

Trên đường về với anh Ngoc, hai đứa ân hận mãi.

***

Chuyện buồn cũng như vui khó giữ kín một mình. Đã định giấu anh Ngoc vì sợ bị mắng nhưng rồi Liên buột miệng :

- Chắc lâu lắm ta mới gặp lại lão già tù trưởng.

Nghe giọng đầy ấp vẻ thương hại của Liên, anh Ngọc trợn mắt :

- Nếu đúng vậy là một điều hay. Làm sao Liên biết ?

- Em chỉ đoán thế thôi…

Con bé hỏi lung tung. Mặt Hùng trĩu buồn. Anh Ngọc biết ngay có chuyện lạ :

- Tại sao Liên không nói thật với anh ?

Với vẻ buồn buồn, Liên thuật nhanh câu chuyện con rắn đen và chiếc đầu « ăn trầu » của lão già.

Nó kết luận biện minh với anh Ngọc:

- Tụi em ghét lão quá, định đùa chơi không ngờ …

- Không sao đâu Liên ạ. Lão nuôi con rắn độc hại đó còn xứng đáng bị té sông vỡ đầu nhiều lần như thế nữa. Mỗi một lần ăn thua gì, hai em khỏi thắc mắc. Anh sẽ không mắng đâu.

Đêm dần đổ xuống khu rừng rất mau. Rừng khuya vô cùng huyền bí và sự đen tối dễ dọa nạt những đứa trẻ con. Chim kêu, cành khô gẫy, những con thú loạt soạt trong cỏ, trên lá, và nhất là thỉnh thoảng ba anh em lại có cảm giác mát rợi lạ lùng trên cổ, trên mặt. Những con sâu rớt từ trên cành xuống dò.

Liên đã hét lên đến ba lần vì sâu nhũn, nhầy và ướt át. Hùng cũng … la một lần. Anh Ngọc cố gắng giữ cho tiếng kêu không ra khỏi cổ họng. Sợ mà không dám đốt lửa dưới sự đe dọa của bóng đêm, của thú rừng rình rập … cùng sự yếu đuối của chính mình. Không hiểu sao, có ánh sáng con người cảm thấy như đang tiếp nhận một nguồn sống, vững tin vào sức mạnh và nhất là cảm giác được có những con người khác đang sống chung với mình.

Hùng không ngủ được, nói chuyện với anh Ngọc giết thì giờ :

- Sao đi đêm một mình hay sợ ma anh Ngọc nhỉ ?


- Em trai mười hai tuổi còn sợ ma. Em có biết ngày xưa lên bảy tuổi và học lớp ba …là đã lớn rồi không ? Sách Quốc Văn …

Nghe tiếng tim của anh Ngọc … đập hơi mạnh và nhanh, Hùng cười xòa :

- Anh làm le hoài. Thế tại sao tim anh thinh thịch như trống làng ? Anh không sợ thật hả ?

- Thật.

- Anh có dám một mình đi trong nghĩa địa không ? Anh cá đi, nếu về được anh dám đi em sẽ mất mười ngàn.

Ngọc chối rất khéo:

- Anh lấy tiền em làm gì ?

Hùng không chịu thua :

- Không lấy thì thôi. Nhưng anh vẫn đi chứ ?

- Cũng được.

Lời đáp hơi miễn cưỡng. Hùng tô thêm :

- Nơi đây là … chỗ chôn người chết của bọn mọi ngày xưa anh Ngọc ạ ?

- Hùng nói sao ?

- Mình đang nằm trên bãi tha ma. Lúc trưa em và Liên đào củ sắn thấy bộ xương trong hố. Xương sọ trắng hếu

Nói chưa dứt, bỗng có tiếng Liên kêu to: "Ghê quá !" rồi nín lặng. Một sự im lặng khó hiểu. Có tiếng sột soạt. Một mùi tanh hôi vô cùng tỏa ra nồng nặc. Ngọc chổi dậy, vừa kịp nhìn thấy qua ánh trăng thưa xuyên ngang tàn lá dầy một đầu rắn với cục u đỏ. Con rắn hình như xuất hiện trong câu chuyện của Liên và Hùng.

- Con rắn của lão tù trưởng. Hai anh em chạy đi mau

Con dao bấm nhỏ rút ngay khỏi túi áo. Con rắn có vẻ thích lưỡi dao. Nó bò chậm chạp và không một dấu hiệu báo trước, phóng mình mổ ngang bụng Ngọc. Anh đành giơ tay chộp đại vào cổ rắn, vật xuống đất.

Cánh tay lực sĩ với những ngón bằng thép đúc như gọng kềm siết chặt thêm. Ngón tay trỏ của Ngọc, ngón tay bấm vào cổ họng con vật càng lúc càng tê dại. Con rắn cựa quậy dữ dội. Ngoc nhớ ra, đưa luôn mũi thép nhọn vào cổ họng nó ghìm chặt xuống đất.

Hùng vớ được khúc cây củi dùng làm gối, đập ngay vào đầu nó. Và đập cho đến khi nát nhừ. Đuôi con rắn vẫn run rẩy vì phản xạ.

Bàn tay trái sờ vào cổ rắn của Ngọc bắt đầu sưng to. Con rắn có nọc độc thẩm ra ngoài da, xuyên qua lớp vẫy cứng và dầy vẫn còn sức mạnh đến chừng ấy, Ngọc rên rỉ, răng anh cắn chặt vào môi đến rướm máu và tiếng kêu vẫn bật ra khỏi miệng :

- Nhức quá, Hùng đi kiếm cho anh nước rửa tay.

- Không có vật đựng nước anh ạ … hay anh ráng theo em lần ra bờ sông.


Liên còn đang nằm ngất bất động trên mặt đất, Hùng lay gọi, dứt cả tóc mai :

- Liên, Liên … em có sao không ? Dậy anh bảo

Liên ú ớ rồi tỉnh. Lúc nãy mở mắt ra kêu lên vì sợ ma với vùng nghĩa trang tưởng tượng của Hùng, dù biết rõ anh xạo dưới hồ làm gì có xương người, và bị con rắn xuất hiện lù lù như một thần Chết ngay sát bên người, Liên xỉu đi. Nó không biết gì nữa cho đến khi Hùng gọi.

Nọc độc khó trị. Nước sông rửa bao nhiêu, cánh tay Ngọc vẫn sưng to, lại ngã màu tím đen. Ngọc thất vọng quá than :

- Thuốc đâu kiếm giữa rừng để chữa nọc rắn bây giờ ? Và có thuốc nào có thể chữa được ? Có lẽ anh phải chặt cánh tay trái mất.

- Đau lắm anh ơi. Liên kêu ngay.

Nó cuối xuống sát bên vết thương, quan sát. Hùng nóng nảy :

- Hay anh để em xé vết rắn cắn hút nọc độc ra ? Chóng khỏi lắm anh.

- Làm gì có vết rắn cắn ? Em điên mất rồi Hùng. Nọc thấm qua da tay anh mà. Anh đã trông rồi: không hề có chút trầy trụa sây sát ngoài da. Thế là chất độc này lớp da con người không ngăn cản được. Lợi hại hơn cả vi trùng dịch hạch.

Liên há hốc mồm ra nghe. Nước dãi con bé chảy nhỏ xuống cánh tay Ngọc. Anh bỗng thấy chỗ ướt mát lạnh, dễ chịu hơn. Thì ra nước miếng chữa được nọc rắn.

- Xin Thượng Đế nhận lời tạ ơn và lòng ngưỡng mộ của con. Ngài đã cứu con

Chương 7. Ma quỷ
Ngọc có quyết định táo bạo: anh sẽ đến gặp Nữ Chúa để bàn việc hợp tác chống lại lão già tù trưởng. Hùng và Hồng Liên cản lại, anh bảo:

- Anh Hùng - tên nghe hay lắm nhưng lại... nhát như thỏ. Hồng Liên cũng thế. Phải can đảm lên chứ. Ít ra ta cũng có được nơi ăn chốn ngủ, khỏi bị rắn tấn công như đêm qua...

Hùng chen ngang lời:

- Nếu thành công?

- Phải thành công chứ. Anh biết sơ ít tiếng nói của họ rồi. Giản dị lắm. Anh chắc chỉ gồm vài trăm chữ là cùng. Thường những bộ lạc thiểu số có tiếng nói giản dị vì không có nhiều vấn đề trừu tượng, phức tạp như trong xã hội chúng ta.

Liên vẫn e ngại cô Nữ Chúa ăn thịt người cầm quả tim và buồng gan loang máu:

- Lỡ không thành công?

- Thì đành chịu. Hậu quả ta không đoán trước được. Tính nết và tình cảm của họ thay đổi bất thường mau như cái chớp mắt. Nhưng nếu ở lại đây, ta cũng sẽ chết. Hai em có nhận xét gì không?. Con rắn ghê gớm bị chết hôm qua là của lão tù trưởng nuôi đó.

- Đúng lão sai khiến rắn cắn chết chúng ta.

- Tình hình gấp lắm rồi. Hai em hãy nghe lời anh.

Ba người xăm xăm đi theo con đường mòn rất thô sơ về hướng Nữ Chúa đã đi hôm trước. Những người mọi sống bán khai xuất hiện trong những hốc đá nhỏ, xanh sẫm màu rêu.

Ngọc đàng hoàng tiến lại. Một bọn bảy, tám người bao quanh anh và hai đứa bé. Những chiếc vồ đá nặng và gai góc giơ cao nhưng chưa kịp hạ xuống thì Ngọc hét lên rất to:

- U.

Chữ U rõ như tiếng nói phát ra từ miệng Nữ Chúa. Cả bọ ngừng tay hạ vồ. Ngọc nói tiếp một câu dài, thấy họ ngơ ngác. Anh vừa ra dấu, vừa nói lại với những chữ khác rất chậm.

Một tên vụt chạy đi mất. Cả bọn còn lại dậm một chân xuống đất liên tiếp. Ngọc muốn xác nhận mình muốn gặp Nữ Chúa nhưng không dám nói hay ra dấu nữa sợ bị hiểu lầm thì khổ.

Hùng và Hồng Liên không hiểu chữ nào, đành đứng yên không nhúc nhích, trông cậy vào anh Ngọc. Giây lát tên ban nãy trở lại, nói xí xố với những tên kia và cả bọn bỏ ngay vũ khí ùa vào bắt lấy tay chân khiêng ba bạn trẻ của chúng ta đi. Vùng vẫy không thoát nỗi vì chúng rất khỏe.

Hồng Liên khóc lớn:

- Má ơi, Ba ơi! Con bị làm thịt...

- Im đi Liên. Hùng gắt gỏng.

- Tại anh đó. Ban nãy anh Ngọc bảo để mình anh vào trước, nếu êm xuôi sẽ gọi chúng mình. Anh không nghe. Bây giờ thì... chết cả.

Ngọc cố nói vọng qua hai em:

- Không biết làm sao lạ thế này. Anh nghe rõ ràng Nữ Chúa bằng lòng tiếp và cho phép mình vào gặp cô ta mà.

- Em... không tin tưởng vào tài thông dịch của anh nữa. Liên mếu máo.

Và chính Ngọc cũng không tin tưởng vào sự hiểu biết của mình nữa. Tại sao anh nghe một đàng mà bọn mọi lại hành động một nẻo? Hóa ra thế này là chính mình dại dột dẫn xác đến cho chúng một bữa ăn ngon miệng.

Ngọc, Hùng và Liên bị khiên đi đi cả mười lăm phút. Một chiếc hang đá rộng rãi với Nữ Chúa đang chờ ở cửa đón họ. Nét mặt cô ta lạnh lùng khó hiểu như bao giờ.


***


Nữ Chúa ngồi trên một phiến đá vuông. Tất cả người mọi khác đều đứng. Ba bạn trẻ cũng đứng. Liên thấy Hùng và anh Ngọc lạ quá, bật cười quên cả sợ. Vì hai anh ấy đóng khố cũng như con bé mặc váy ngắn, y phục của bộ lạc này. Lũ người hùng hổ kia lôi cổ cả ba và một góc phía sau hốc đá, lột hết quần áo mặc trên người và thảy cho hai chiếc khố, một cái váy. Liên đang lúng túng thì được "mặc giùm" ngay. Mười phút sau, tất cả được đưa vào đây.

Anh Ngọc đứng thẳng người. Và hét như cách đây nửa giờ đồng hồ một tiếng quen thuộc:

- U.

Nữ Chúa lắc đầu. Thế là nghĩa lý gì? Cô ta nói, líu lo như chim. Nét mặt Ngọc tươi lên và thông ngôn cho hai em nghe:

- Nữ Chúa bảo bất cứ ai muốn gặp mặt cô ta đều phải mặc y phục theo bộ lạc. Cô hân hoan chào mừng ba chúng ta.

Liên phê bình:

- Anh Ngọc nói dài như thế chắc có thêm thắt vào rồi. Có là thánh mới hiểu hết Nữ Chúa nói gì.

Ngọc hơi đỏ mặt:

- Thì mười phần hiểu ba bốn là hay rồi. Liên khó tính quá. Để anh nói chuyện chứ.

Ngọc giơ tay mặt ngang ngực đưa ra một góc chín mươi độ. Liên hạ thấp giọng nói với Hùng:

- Anh Ngọc biến thành chúa mọi da đỏ từ hồi nào vậy anh Hùng? Nếu có thêm mũ lông chim trên đầu nữa thì... anh sẽ được mời sang Mỹ đóng phim cao bồi ngay.

- Anh đang dùng... ngôn ngữ quốc tế đấy. Chợt Hùng nghĩ ra điều gì, vò đầu bứt tai:

- Anh ngu quá Liên ơi!

- Anh nói gì?

- Ban nãy mình phải một mẻ hết hồn. Đáng lẽ ra ta phải để ý bọn họ đã bỏ hết khí giới xuống đất rồi... mới khiêng mình đi thay quần áo. Chúng không có ý hại mình.

- Ờ nhỉ... Nhưng dù có nghĩ kịp điều ấy em vẫn sợ như thường. Đống lửa khét mùi thịt người... ghê quá.

Hai đứa tán nhảm trong lúc anh Ngọc đóng vai thuyết khách đang trổ hết miệng lưỡi Tô Tần chiếm đoạt bằng được sự hợp tác của cô Nữ Chúa. Ngọc đã nghĩ và nói thẳng thắn rằng chính lão tù trưởng giả hiệu kia là nguồn gốc sự thù hận của hai bộ lạc anh em, cùng sống chung trên một mảnh đất cách dòng sông, cùng nói chung một ngôn ngữ và đời sống anh hùng.

Nữ Chúa chẳng biết có hiểu ý anh Ngọc không nhưng nét mặt cô ta vui vẻ, tươi sáng lên. Có những lúc cả hai người cùng nói và... không ai hiểu ai cả. Nhưng họ... lại tiếp tục câu chuyện trong sự thoải mái, cởi mở dễ chịu. Nữ Chúa không la hét hay đập vồ đá xuống sàn mà Ngọc vốn chất nóng nảy cũng không đỏ mặt khoa chân múa tay như thường lệ.

Bỗng có một người mọi chạy vào tâu với Nữ Chúa điều chi đó. Mặt cô ta sầm lại. Cô ta bước ra khỏi hang dẫn đầu một đoàn thuộc hạ hướng về bờ sông rất nhanh. Ba bạn trẻ đành theo sau, chờ đợi một lời giải thích đến phát nổi đóa mà Nữ Chúa vẫn câm như hến. Ngọc hỏi hai ba lần, cô ta phát lờ.

- Hoặc Nữ Chúa khinh người hay cô ta đớ lưỡi? Con người bốc đồng Hùng rủa thầm.

Thỉnh thoảng Nữ Chúa quay lại liếc nhìn ba bạn với ánh mắt như điện. Ngọc rùng mình, bất giác không hẹn mà ba bạn cùng nghĩ đến đống lửa to... đống lửa và những con người mồi béo...

Bờ sông thoai thoải cát hiện ra. Lão già tù trưởng đã sừng sững oai vệ bên bờ kia, đầu băng vải nâu bằng sợi gai. Lão nói rất lớn, vọng qua bên sông:

- U.

Nữ Chúa đáp lại:

- U.

Hình như họ chào nhau một cách... vương giả vì cả hai cùng cầm đầu một bộ lạc. Ngọc, Hùng và Liên muốn lẩn vào một gốc cây to tránh mặt lão già nhưng không kịp. Bãi cát trơ trọi, rừng cây cách nơi đang đứng khá xa. Ngọc thu hết can đảm đứng thẳng người, chếch sau lưng Nữ Chúa. Một liều ba bảy cũng liều.

Lão già chỉ ngay vào Ngọc, Hùng và Hồng Liên mà nói một câu ngắn, rất hùng hồn. Nói lớn phải nói chậm, nhờ thế Ngọc nghe rõ từng chữ. Anh toát mồ hôi bảo hai em:

- Lão già muốn bắt chúng ta. Lão bảo ta đã giết nhiều người ở bộ lạc lão và trốn sang bên này.

- Xạo... lão tù trưởng khốn nạn.

Không dằn được, Liên hét to át cả tiếng Nữ Chúa vang đến bờ bên kia. Lão già hơi nhăn mặt, hai mắt đỏ như miếng tiết lợn trong lò sát sinh.

Ngọc ra dấu cho Nữ Chúa im lặng và nói bằng tiếng Việt:

- Chúng tôi đã biết bạn là người đồng bằng như chúng tôi. Sự giận dữ của bạn là một bằng chứng hiển nhiên. Bạn nghe hiểu và nói được tiếng Việt. Tại sao bạn lại tìm cách hại chúng tôi?

Nữ Chúa và những người man dã ngơ ngác. Lão già không thèm đáp lời Ngọc quay mặt ngoảnh đi, tiếp tục nói tiếng thổ ngữ với Nữ Chúa.

- Lão muốn tặng quà cho Nữ Chúa, Liên ạ.

- Thế thì ta nguy rồi, anh Ngọc. Dù sao bọn họ nói với nhau dễ dàng hơn. Và... lão giàu có hơn mình đắm thuyền tay trắng.

- Em chu đáo lắm nhưng... nơi đây là rừng xanh chớ đâu phải Sài Gòn. Kim cương mua được gì? Đổi được gì? Cho họ kim cương họ còn không thích bằng củ khoai đỏ đưa đến khi đói bụng.

Hùng hiểu ngay:

- Phú ông xin đổi mâm xôi, Bờm cười. Anh nói đúng, nhưng em vẫn nghĩ đâu phải lão chỉ có kim cương. Lão phải lựa món gì Nữ Chúa thích để tặng chứ.

Một cặp vịt bơi ngang sông sang bờ bên này... nhưng trông giống giống mà không phải vịt. Hai con vật to hơn, lông màu nâu và xám, lướt như bay trên sóng nước. Nữ Chúa có vẻ thích thú, hồn nhiên như đứa trẻ quỳ xuống bắt chúng lên ngắm nghía. Liên ngạc nhiên kêu lên:

- Anh Ngọc nhìn kìa: cổ chúng có đeo vòng sắt. Để làm gì hở anh?

Ngọc không chớp mắt:

- Vòng sắt có thể tháo ra được... không có thư gởi Nữ Chúa gì cả và có lẽ... hai bộ lạc này chỉ có tiếng nói chứ chưa có chữ viết. Hay lão biếu Nữ Chúa hai con ngan để cô ta ăn thịt?

Hùng cãi:

- Đâu có phải con ngan mà anh kêu con ngan?

- Tạm gọi thế đi... anh định...

Nữ Chúa thả ngan ra. Ba bạn vội theo dõi hai con vật, Ngọc quên cả nói. Chúng lội xuống sông, thò mỏ xuống nước rồi nhấc lên rất nhanh. Hai con cá lớn bằng bàn tay trẻ con đã được cắp ngang mỏ vàng. Chúng bơi lên thả hai con cá tươi còn dẫy đành đạch xuống cát. Rồi lùi ra xa, đứng một chỗ kêu tíu tít.

Nữ Chúa vui vẻ thảy hai con cá cho đám dân phía sau vồ lấy, tranh nhau ăn sống. Ngọc vỗ trán lẩm bẩm:

- Trong Larousse hình như có vẽ loài vật này. Mỏ tày, chân có màng nối liền các ngón, được các ngư phủ nghèo ở Nhật Bản và Trung Hoa dùng nhiều... Tên là chim gì nhỉ? Cổ đeo vòng... A! Cormoran.

- Chim Cormoran? Hùng hỏi.

- Phải. Đó là một giống chim ăn cá. Những ngư phủ không có tiền mua dụng cụ chày lưới mắc tiền bắt chúng về huấn luyện. Chiếc vòng sắt đeo ở cổ là để chúng không thể nuốt trôi con cá xuống bầu diều được. Và chúng phải làm việc. Sau mười con, hai chục con cá được đưa lên bờ, ngư phủ mới tháo vòng cho chúng xuống nước ăn no một lần.

Liên phải cúi mặt trước tia nhìn của Nữ Chúa trở nên long lanh, chói sáng như ngọn đèn 1000 Watt. Ngọc vội la lên bằng tiếng thổ ngữ, tay móc con dao bấm sắc xanh quý giá, vũ khí tự vệ cuối cùng của anh và hai em đưa cho Nữ Chúa. Một món quà tặng khác.

Nữ Chúa không có dao, và từ lâu cô ta thèm một con dao lưỡi quắm như của lão tù trưởng. Ngọc may mắn đánh trúng nhược điểm tâm lý đó của cô. Con dao là món quà quý giá không thua gì cặp chim Cormoran.

Lão già lại nói, tỏ vẻ ép buộc nhưng Nữ Chúa không chịu, quay về. Ngọc dịch lại:

- Lão muốn Nữ Chúa trao chúng ta cho hắn ngay nhưng Nữ Chúa bảo để cô ta còn suy nghĩ lại.

Liên bàn rất... đúng lý:

- Nếu lão tặng cô ta thêm một món quà thứ hai là... chúng ta lâm nguy.

- Biết làm sao bây giờ?

Đêm hôm đó, mưa to gió lớn. Chưa khuya lắm nên ba anh em còn thức nói chuyện quanh một cây đuốc thô sơ cháy bằng nhựa cây rừng. Lửa nóng và hơi khói ngột ngạt, nhưng có tác dụng chống lại khí lạnh núi rừng ban đêm nên có đốt đuốc vẫn dễ chịu hơn nằm trong bóng tối.

Một tiếng kêu quang quác xé không gian. Rồi tiếng ầm ì như sấm động. Phút chốc, ba bạn có cảm giác như đang bị bao vây bởi những con người không lồ, vô hình và dữ tợn. Ngọc phóng chạy ra khỏi hang đá, tìm một người mọi nói chuyện. Anh ta đáp:

- Thần Quỷ Vương đang lên khỏi lòng đất.

- Thần là Thần, mà Quỷ Vương là Quỷ Vương. Anh không phải sợ hãi và né tránh không dám kêu tên gì cả. Tôi sẽ giúp anh. Thế Quỷ Vương xuất hiện từ bao giờ?

- Lâu lắm rồi.

- Bao nhiêu...

Ngọc muốn hỏi bao nhiêu năm, nhưng hình như danh từ năm không có trong ngôn ngữ của bộ lạc. Nhanh trí khôn, anh chuyển ngay câu hỏi:

- Lúc đó anh sinh ra chưa?

- Mới đẻ ra thôi, còn nhỏ xíu.

Anh ta còn trẻ, độ hai mươi tuổi. Và thời gian Quỷ Vương xuất hiện như thế cũng khoảng hai mươi năm. Hai mươi năm... Con số đặc biệt đánh dấu sự có mặt của lão tù trưởng trong vùng đất hoang dã này.

- Cứ chừng bốn tuần trăng, Thần Quỷ Vương xuất hiện một lần vào đêm nào mưa gió. Thần... hiện ra trên vách đá đó... Tôi phải vào hang ngay.

Anh ta quày quả đi như chạy. Ngọc đứng lại, kiên nhẫn chờ Quỷ Vương. Những bóng đen hình người, đầu có sừng cong như sừng trâu, dáng kỳ lạ, tay vuốt nhọn dài thi nhau nhảy múa, làm điệu bộ giận dữ, dương oai.

- Chắc là do ánh trăng chiếu qua cây cối mà thành ghê rợn giữa đêm khuya.

Tiếng hú và chân người rầm rập trong hang núi bên kia sông vẫn tiếp tục. Những người vô hình. Ngọc hơi hoảng, tự trấn an:

- Gió thổi rung rinh cành lá làm nên những hình động đậy...

Như trả lời gián tiếp là anh nhận xét lầm, cùng lúc những hình ảnh và âm thanh gia tăng cường độ. Nghe giống tiếng người rên rỉ lúc bị thương. Tiếng rên ầm vang cả rừng núi. Đồng thời gió bặt hẳn đi. Cây cối bất động như những hình địa khai trên đá trầm tích.

Một mùi hương lạ từ đâu bay lại. Ngọc choáng váng. Trước khi gục hẳn, đầu anh lóe lên tia sáng sau cùng: anh đã ngửi thấy mùi hương này ở hốc đá đầu tiên, lúc còn sống tự do với anh em Hùng và Liên. Cố gắng, Ngọc nín thở, bịt lấy lỗ mũi chạy vào hang đá của Nữ Chúa. Có người mọi gác, anh hét to: "U", rồi mặc hắn ngơ ngác đứng nghiêm, anh phóng mình vào trong.

Nữ Chúa đang ngủ, Ngọc dựng cô ta dậy ngay và nói rất vắn tắt, rất mau:

- Lát nữa đây, lão tù trưởng sẽ kéo quân đến tấn công. Lão dùng hương mê để mọi người gục hết cho dễ hành động.

Nữ Chúa ngạc nhiên, mở tròn mắt vẻ không tin. Ngọc phải chỉ tay vào ngực mình:

- Chính tôi đã bị lão xông hương mê giam cầm trong nhà đá. Nữ Chúa ra lệnh cho mọi người chạy ra khỏi hang đá mau lên, cấp bách lắm rồi. Vì sợ Quỷ Vương xuất hiện, họ ở trong hang hết, rất dễ bị mê trong khoảng không gian chật hẹp.

Dĩ nhiên là Ngọc không nói được một mạch trơn tru như ý của anh. Lúc nào bí... anh nói đại tiếng thổ ngữ của người mọi lái thuyền nan vì bộ lạc ấy ở gần nhà anh, anh thông thạo từ phong tục, tiếng nói, ngày Lễ, ngày Tết của họ. Ngọc nghĩ rằng dù sao Nữ Chúa cũng dễ hiểu thổ ngữ kia hơn là tiếng Việt.

Nữ Chúa hét lanh lảnh những tiếng rất cao. Cô ta đã hiểu ý Ngọc và truyền lệnh cho thần dân. Họ run sợ, trù trừ trong hang đá không ai chạy ra. Ngọc vội hiến kế:

- Nữ Chúa nói là Quỷ Vương sắp vào trong hang bắt từng người một ăn thịt. Phải chạy mau khỏi hang đá và mang theo vồ đá nữa.

Đám đông người nhốn nháo chạy thoát ra. Nữ Chúa cầm đầu. Họ đều choáng váng, có người yếu sức đã lảo đảo. Hùng vội bảo anh Ngọc:

- Anh nói với Nữ Chúa bảo họ bịt mũi, nín thở như em và Liên đây nè.

Thì ra hai đứa đã thức dậy và theo sát Ngọc từ khi nào.

Mãi giúp đỡ Nữ Chúa chỉ huy dân mọi thoát khỏi mưu kế tù trưởng, Ngọc quên... mất hai em.

Liên nói:

- Hay ta đi ngược lên đầu gió cho khỏi bị hương mê lan đến?

- Ý kiến hay... nhưng anh chắc bọn người bộ lạc kia chờ sẵn ở đó rồi, Liên ạ. Chúng đợi đủ thời giờ cho bên này ngã quỵ hết sẽ xông vào làm cỏ. Vậy bây giờ phải đi ngang hướng gió và đi thật xa. Tuy không có lợi mấy nhưng đụng độ nên tránh nếu có thể được. Cả hai bộ lạc bán khai này đều vô tội. Người đáng chết là lão già.

Đến địa điểm thuận lợi, Ngọc nói với cô Nữ Chúa cho tất cả phục sẵn. Những thanh niên khỏe mạnh giữ chắc vũ khí. Còn đàn bà, trẻ con, người già nua bệnh hoạn thì lánh ra sau lưng họ. Nữ Chúa rút dao bấm cầm tay. Ngọc không hiếu chiến, nhưng quân tử phải phòng thân trước lũ người điên cuồng của bộ lạc thù nghịch.

Tất cả chờ đợi giáp mặt đối thủ. Bầu không khí thoảng hương mê không đủ sức làm họ gục nữa. Nhưng nó vô cùng nặng nề, căng thẳng.

Chương 8. Lột mặt nạ
Những bóng đen nhẹ nhàng cầm khí giới từ sông nước bò lên, đi lần về hướng trú ngụ của bộ lạc Nữ Chúa. Nấp ở đây, mọi người có thể quan sát được nhất cử nhất động của đối phương. Nữ Chúa nóng nảy, toan mở miệng hét lệnh truyền cho các chiến sĩ của cô chặn đánh. Ngọc vội bịt miệng cô ta lại, giải thích sơ lược ý định của mình. Nữ Chúa... ngoan hiền như con cừu, vâng theo sự chỉ huy của Ngọc ngay.

Nửa giờ đồng hồ trôi qua, Ngọc đoán thế vì chiếc Seiko của Ngọc văng mất từ lúc nào. Chân anh hơi tê đi, Ngọc hoảng sợ tưởng cơn đau ở chân trở lại. Chân anh vừa khỏi được từ hôm qua. Nhưng may quá, cơn tê nhức biến mất sau và phút, Ngọc thở phào trút gánh nặng.

Hùng và Hồng Liên có sẵn một kế hoạch riêng của chúng. Kế hoạch hòa bình cho hai bộ lạc. Anh Ngọc chẳng kể cho chúng nghe Nữ Chúa có một người yêu ở bộ lạc bên kia là gì? Nếu cuộc hôn nhân thành tựu, hai bộ lạc sẽ trở thành tình anh em.

Ngọc hỏi Nữ Chúa:

- Ai bảo Nữ Chúa là có Quỷ Vương xuất hiện cách đây... đã lâu?

- Cha tôi bảo rằng lão tù trưởng nói với ông như thế. Hồi đó tôi chưa sinh ra và hai bộ lạc của chúng tôi còn thân thiện. Lão tù trưởng được cha tôi quý lắm.

Lại cũng lão già ấy. Ngọc đoán không sai chút nào. Anh quả quyết với Nữ Chúa:

- Chính lão ta đã làm ra Quỷ Vương đấy. Không có Quỷ Vương nào cả, lão tìm cách dọa nạt mọi người để làm việc ám muội chi đó.

Tiếng reo hò vang dậy từ hướng hang đá của Nữ Chúa. Có nhiều giọng líu lo lộ vẻ tức giận, quát tháo om sòm. Hùng nghĩ ra mối nguy, bảo Ngọc:

- Anh coi chừng chúng đốt hang đá... Lão tù trưởng ghê gớm lắm.

Ngọc gật đầu:

- Em nói phải. Vả lại chúng đến được thì ta cũng đến được. Những hang đá đã hết hương mê.

Quân Nữ Chúa kéo ầm ầm trở về bao vây bọn người kia. Tiếng động và sự xuất hiện thình lình như ma quỷ làm những người bán khai đột nhập nhốn nháo. Lão tù trưởng ra lệnh xáp chiến. Nhưng Hùng đã hét lớn:

- U.

Ngọc vội vàng ra lệnh tiếp cho họ đứng yên một chỗ. Không hiểu tiếng "U" có quyền năng gì khiến tất cả bối rối, khó xử, nửa muốn theo lệnh lão tù trưởng, nửa lộ vẻ sợ hãi lấm lét nhìn Ngọc và Hùng. Anh bảo lão già:

- Bạn bị lột mặt nạ rồi. Chúng tôi đã biết bạn vào đây để tìm kim cương và... trốn thiên hạ chứ nào phải thích ngôi tù trưởng. Không phải người bộ lạc, bạn phải trả ngôi tù trưởng lại cho họ chứ.

Liên láu táu:

- Con rắn của ông già bị giết rồi. Ông sai rắn cắn chết chúng tôi thì giờ đây lọt vào tay chúng tôi, ông... sẽ bị nướng chả.

Chỉ có bốn người hiểu chuyện bằng tiếng Việt. Hùng nghĩ đến lúc bị giam trong nhà đá vẫn ức:

- Tại sao ông giam cầm chúng tôi? Chúng tôi có tội tình gì?

Lão cười lạnh:

- Chúng bay xen vào việc làm của tao, chúng bay phải chết.

Chiếc đai buộc khố của lão bỗng rời ra, phóng tới mổ vào Ngọc. Thì ra đó là một con rắn dẹp thứ hai lão đeo ngang lưng. Rắn luôn luôn bất động, người ngoài nhìn vào tưởng sợi dây to. Ngọc vội nhảy tới một bước, ôm chầm lấy lão vật xuống.

Hai người lăn tròn lông lóc như quả bóng. Con rắn mấy lần toan mổ Ngọc nhưng thân hình lão tù trưởng lại tràn đến, nó đành lùi lại. Nó đứng yên, cuộn tròn một chỗ rình rập. Hùng cầm khúc cây dài đập xuống.

Rắn đứt làm hai khúc, miệng rít rợn người. Khúc đuôi giãy giụa, khúc đầu vẫn ngỏng cao. Hùng toan đập thêm một cây nữa thì lão tù trưởng bị Ngọc đè chặt xuống mặt đất gần nghẹt thở, quờ quạng tìm thế chống tay vùng lên, vô tình bốc phải đầu con rắn.

- A... a... a..

Tiếng rú khủng khiếp kéo dài. Con rắn đã mổ vào bàn tay lão già. Có lẽ nó bị thương nặng nên không đủ sáng suốt nhận ra ai là chủ nữa. Và chất thuốc bôi trên thân thể lão chỉ chống được sự thâm nhập của nọc rắn từ ngoài da và không hiệu quả khi chất độc vào máu.

Lão xuôi tay bất động, nước da dần sạm đen, mắt trợn toàn lòng trắng. Lão nói, giọng ngọng dính, lưỡi đã cứng với Ngọc:

- Tôi chết... các bạn tha thứ cho tôi...

- Chúng tôi không để ý gì nữa đâu. Ông có cần trối lại điều gì không, chúng tôi sẽ cố giúp.

Giọng lão thấp dần. Ngọc phải ghé sát tai vào miệng lão mới nghe rõ. Lão dặn anh địa chỉ của người con trai, địa chỉ từ hai mươi năm trước và nhờ mang về số kim cương trong hộp sắt.

Lão không nói được nữa nhưng thần trí vẫn tỉnh táo. Ngọc hỏi cho rõ:

- Số kim cương chưa mài?

Lão không trả lời vì lưỡi đã trơ như đá. Ngọc bảo:

- Nếu ông bằng lòng thì chớp mi mắt, không thì thôi. Bây giờ tôi hỏi: số kim cương chưa mài đem về trao cho con ông phải không?

Lão chớp mắt. Ngọc tiếp:

- Còn số đã mài? Ông lấy của người ta chứ gì?

Lão lại chớp mắt.

- Vậy trả lại cho họ nhé?

Lão chớp mắt một cách khó nhọc. Lần sau cùng Ngọc thấy đôi mắt của lão rực lên một cách kỳ lạ. Đôi mắt của người sắp lìa cõi thế, có một vẻ u uẩn thế nào khiến anh bức rứt không nguôi.

Ngọc nhớ ra, anh lay mạnh vai lão:

- Ông còn điều gì muốn nói?

Lão xác nhận bằng ánh mắt vì bây giờ đôi rèm mi cũng đã cứng lại mất rồi. Nhưng vĩnh viễn lão không thể tiết lộ thêm gì được nữa. Một linh hồn bay vút lên cao, về bên kia thế giới.

Chương 9. Đám cưới (Hết)
Không khí thân mật vui vẻ đã trở về với dân chúng hai bộ lạc bán khai. Tất cả đều là anh em, họ hàng hay... bè bạn. Con người sẽ không bao giờ có kẻ thù vĩnh viễn là con người. Nhất là giờ đây, hai vị lãnh đạo của họ sắp thành vợ chồng, niềm vui của hai thanh niên nam nữ trẻ tuổi cũng là niềm vui của dân chúng.
Lão tù trưởng đã chết. Thanh niên người yêu của Nữ Chúa đã trở thành tù trưởng, nói đúng hơn là tù trưởng tương lai của bộ lạc anh vì anh đã tập nói đúng được chữ "U", đủ điều kiện trở thành "ứng cử viên" Tù trưởng sáng giá nhất. Chắc chắn trăm phần trăm anh sẽ đoạt được sự tín nhiệm của dân bộ lạc. Tình yêu phi thường của Nữ Chúa và lòng thân hữu tử tế của ba anh em Ngọc, Hùng và Hồng Liên là những yếu tố mạnh mẽ giúp anh thành công.
Nữ Chúa cho mở tiệc ăn mừng ngày hòa bình của hai bộ lạc. Ngọc và hai em được mời đến dự. Cả ba ngạc nhiên khi thấy cả bọn người chất phác như buồn ngủ, nằm vật vờ trên mặt đất với vẻ mặt sung sướng, thỉnh thoảng hét lên những âm thanh vô nghĩa. Họ đang "vui" chung với nhau, nhưng thái độ của họ hết sức kỳ lạ.

- Họ làm gì đó, Nữ Chúa? - Ngọc hỏi.

Nữ Chúa cười và trả lời bằng cách trao cho anh một bó cỏ, xanh tím, thơm thơm, ra dấu cho Ngọc bỏ vào miệng mút lấy chất nhựa trắng đục như sữa đang rỉ ra từ thân cỏ. Ngọc đang phân vân thì cô ta nói:

- Đây là báu vật của thung lũng này, chỉ được phép dùng vào những dịp lễ ăn mừng đặc biệt như hôm nay. Anh thử dùng xem sao.

Không tiện từ chối, Ngọc đưa cây cỏ vào miệng. Thấy hai đứa nhỏ nhìn có vẻ thèm thuồng, anh đưa cho mỗi đứa một cây.
Ngọc cảm giác lao đao chóng mặt, các đồ vật cố định chung quanh anh như đang có chân biết chạy nhảy, leo trèo. Rồi cả một thế giới màu sắc cuồng loạn đập vào mắt anh xanh, đỏ, tím, vàng, da cam... đủ cả. Những màu sắc anh chưa từng thấy bao giờ cũng lần lượt hiện ra chói lọi như ánh cầu vồng. Và những khuôn mặt quen và không quen, thân mật hay thù nghịch hình như cũng đang dồn dập đuổi theo anh, vây tứ phía không lối thoát. Họ hò hét, la lối và xông đến...
Ngọc lịm đi vào cõi vô thức của ảo giác. Anh đang làm một cuộc phiêu lưu vĩ đại về thế giới thứ ba, thế giới của những kẻ không sống và không chết mà dật dờ trôi nổi như những hồn ma bóng quế.


***


Ngọc mở choàng mắt ra ngơ ngác nhìn chung quanh. Rõ ràng anh bước vào hang đá của Nữ Chúa mới đây, sao bây giờ nằm lăn lóc bên sườn dốc này. Anh thấy tay chân tê cứng, gắng gượng dậy thì phát giác mình đã bị trói chặt. Trời ơi! Sao có chuyện lạ như vậy? Nữ Chúa nổi tính trẻ con đùa chơi hay cô ta phản bội?
Một khuôn mặt đen đủi, xa lạ nhưng... lại có vài nét quen quen với tóc cứng, quăn quíu bó lấy da đầu hiện ra, giận dữ thốt một tràng líu lo. Ngọc hiểu được như vầy:

- Anh là người độc ác. Anh là người tham lam. Tôi phải giết anh vì anh đã giết người của Thượng Đế.

Thế là nghĩa lý gì? Tại sao anh ta lại cho mình là ác độc và tham lam, lại giết "người của Thượng đế"? "Người của Thượng đế" là ai?... Lão già tù trưởng khốn kiếp kia chăng?

Ngọc chợt la lên:

- Anh lái thuyền? Phải anh không? Anh cũng trôi dạt đến đất này à?

Người thổ dân như bị Ngọc trêu tức, giận đến xanh mặt bóp mạnh vai anh muốn gãy xương làm Ngọc phải kêu "oái" một tiếng. Anh ta gằn giọng từng tiếng một:

- Tao... tao phải sống, bơi thoát khỏi vực nước xoáy để giờ đây làm thịt mày.

- Tôi làm gì mà anh đòi làm thịt tôi?

- Đừng nhiều lời. "Người của Thượng Đế" nói không sai, tiếc rằng ông già đáng kính đó lại bị chết oan uổng.

"Người của Thượng Đế" là một ông già đáng kính? Ông già? A! Đúng rồi... lão tù trưởng. Ngọc vội hỏi lại:

- Anh nói lão tù trưởng kia ư?

- Còn ai vào đấy nữa?

- Ông ta đã nói những gì với anh về tôi?

- Tao sẽ không bao giờ ngu dại bị mày gạt gẫm.

Ngọc muốn lắc đầu chào thua "sự khôn ngoan" đáng chán của anh ta. Người bán khai có một tâm tính chất phác, họ trung thành đến mức mù quáng điên cuồng. Anh chàng này tương đối khá "văn minh" không hiểu sao lại vẫn còn một lòng tin thần thánh đối với cá nhân lão già quỷ quyệt?

Một lưỡi sắc lành lạnh kề vào cổ Ngọc. Không phải sự mát rượi, bóng loáng của kim loại mà lại hơi ram rám. Ngọc cố cúi cổ nhìn xuống phía dưới cơ thể, nhận được là... có một thanh đao to bản bằng đá xanh mài nhọn và sắc đang đe dọa lấy đi mạng sống của mình.

Lưỡi dao cứa nhè nhẹ. Ngọc không có cảm giác đau đớn nhưng lại rợn người. Trong một phút đồng hồ ngắn ngủi, toàn thân anh ướt đẫm mồ hôi, đọng lại thành từng hạt lớn như hạt đậu. Trời lộng gió mát, thơ mộng vô song với nền xanh lá cây thăm thẳm, cớ sao lòng anh lại nóng nảy bồn chồn?

Ngọc chợt thấy một làn chớp lóe lên ngoằn ngoèo như giun bò, vạch lên những vết điện sáng loáng như lưới đan trên nền trời. Làn chớp ngoài trời là làn chớ trong óc anh trong giây phút mạng sống ngàn cân treo sợi tóc này.

- U!

Thổ dân bối rối. Không biết đây là lần thứ mấy âm thanh huyền bí có oai lực này giúp Ngọc thoát nguy. Anh tấn công tiếp:

- Anh cởi trói cho tôi. Tôi hứa là sẽ không trừng phạt gì anh mà chúng ta sẽ nói chuyện tử tế và minh bạch.

- Tao... tao... tôi không thể tuân theo mệnh lệnh anh.

Ngọc dịu dàng:

- Thế thì nói chuyện trước, cởi trói sau cũng được. Chúng ta bắt đầu ngay bây giờ. Tù trưởng bảo anh những gì?

Thổ dân vẫn ngần ngừ, nhưng rồi anh ta chịu nói, giọng vô cùng miễn cưỡng:

- "Người của Thượng Đế" bảo tôi theo dõi anh và giết cả ba anh em của anh nếu có dịp thuận tiện. Ba người phá hoại và gây chia rẽ trong bộ lạc chúng tôi, trong lúc chúng tôi cần đoàn kết chống lại kẻ thù chung.

Ngọc cắc cớ:

- Anh đâu phải dân trong bộ lạc của tù trưởng?

Anh ta hăng hái vỗ ngực:

- Tôi bỏ bộ lạc đi xa làm ăn từ lúc còn nhỏ nhưng lúc nào cũng tự xem mình là dân của bộ lạc. Tôi hãnh diện được làm dân của bộ lạc.

Ngọc tán thành:

- Anh nghĩ thế cũng phải. Nhưng kẻ thù chung của các anh là ai?

- Là Nữ Chúa. Là bọn người thù nghịch của bộ lạc Nữ Chúa.

- Anh lầm rồi. Nữ Chúa và thần dân của cô ta đều là anh em, là bạn bè rất tốt của anh.

- Tôi không tin.

Ngọc ngắt lời:

- Anh có quyền không tin. Nhưng bổn phận của tôi là phải đem đến hòa bình cho vùng thung lũng thần tiên này. Tôi sẽ làm cho các anh phải tin. Anh có biết kim cương là gì không?

Đã có kinh nghiệm sống và tiếp xúc rất nhiều với người miền xuôi, anh thổ dân tỏ ra thông minh, mau hiểu biết.

- Biết chứ sao không? Kim cương rất đắt giá, một hạt nhỏ xíu có thể là cả một gia tài...

- Đúng lắm. Và "Người của Thượng Đế", tù trưởng của anh đã vơ vét lấy đi cả một kho tàng vĩ đại của bộ lạc các anh, kho tàng toàn kim cương và kim cương.

- Tôi không tin...

- Anh cứ đến đào dưới gốc cây ở vị trí này này... Khó diễn tả quá, anh cởi trói một tay cho tôi vẻ lên cát chỉ đường cho anh. Dám không?

Ngọc thành thật muốn thu phục và hàng phục anh chàng chất phác này chứ không có ý định thoát thân. Anh thành công. Sau cùng, Ngọc đề nghị:

- Anh cứ để mặc tôi nằm đây một mình, hay dẫn tôi theo cũng được.

- Tôi tạm tin anh. Tôi phóng đi một mình cho nhanh rồi trở lại ngay. Nếu đúng thì...

- Tôi sẽ được tự do?

Anh ta lộ vẻ bẽn lẽn hối tiếc trong một giây rồi mắt sáng và sắc... như lưỡi dao bằng đá quét ngang mặt Ngọc. Ánh mắt làm Ngọc tự tin, anh bỗng kiêu hãnh thấy mình đang ở vị trí chỉ huy, lãnh đạo và khai hóa tâm thần mù quáng của những người man di này.
Anh thổ dân khuất bóng.


***


Ngọc liếm mép cho đôi môi khỏi khô vì gió lạnh. Anh bỗng phát giác một vị mằn mặn của muối. Muối lẫn theo hòa với gió hay muối từ đất lên? Đây là vùng thung lũng, không có hồ nước mặn. Và hơn nữa theo với vị mặn ấy là những hạt cát cứng và nhiều góc cạnh. Muối từ đất lên đấy.
Ngọc cảm thấy bao sự mệt mỏi, chán chường vì bị trói nằm một chỗ quá lâu tan biến. Anh úp mặt xuống nền đất, liếm thêm ít muối lạ lùng kia nữa. Vô cùng thoải mái, mạnh mẽ. Ngọc khẻ cựa mình, hai tay dằn mạnh theo một động tác thể dục quen thuộc thì... dây đứt bực bực ngon lành tựa như chất gai trong thảo mộc bị ngâm nước lâu ngày. Dây mục ư? Hay chất muối kia là một thần dược bồi bổ sức khỏe con người ta một cách phi thường?

Ngọc vươn vai đứng dậy. Anh có thể bỏ về bộ lạc Nữ Chúa một cách dễ dàng và tự do nhưng anh muốn chờ ở đây đợi người thổ dân trở về. Anh muốn giữ chữ "tín", một đức tính biểu tượng cho xã hội văn minh Việt Nam đối với những người chất phác dễ tin.
Một đống đen đen lù lù nằm khuất bên dưới bụi cây gai. Vài mảnh áo rách tung bay rải rác. Một thân người bất động. Một người đàn ông. Anh ta còn sống hay đã chết?
Ngọc phóng mình đến gần người bất hạnh. Lồng ngực thoi thóp vô cùng yếu ớt, thỉnh thoảng gián đoạn vài ba giây đồng hồ rồi... tim đập lại. Mặt xám ngoét, thân thể lạnh dần, anh ta bị trúng độc rất nặng.
Ngọc lật ngửa nạn nhân lên. Bây giờ anh mới chú ý nạn nhân là một thanh niên đẹp trai, mặc bộ đồ đi rừng của người văn minh, nước da trắng trẻo không sạm nắng đen đủi như dân bộ lạc. Vậy anh ta là một du khách miền xuôi, lạc bước đến đây từ bao giờ?
Ngọc nới rộng thắc lưng cho nạn nhân dễ thở. Anh khám phá ra vết chích nhỏ xíu trên cổ thanh niên, còn găm một cây kim mảnh và nhỏ như sợi tóc màu nâu nhạt. Nạn nhân bị một con côn trùng độc nào đó tấn công và gục xuống sườn dốc.
Móng tay của Ngọc qua những ngày trôi nổi đã mọc ra khá dài. Móng tay dài có thể không hợp vệ sinh, vướng víu khi làm việc hàng ngày nhưng lại rất đắc dụng trong việc nhổ cây kim chích độc hại này đi. Ngọc phải tiếp tục ở lại đây đợi anh thổ dân hay mang anh thanh niên này về bộ lạc tìm phương cứu chữa?
Ngọc quyết định chọn điều thứ hai ngay. Nhưng khi leo lên tảng đá trên đỉnh dốc cao ngắm nhìn tìm phương hướng, anh khám phá quãng đường mang đi sẽ quá xa và nạn nhân sẽ chết dọc đường trong những hơi thở yếu ớt này.

Nét mặt thanh niên hao hao giống lão tù trưởng già. Nhất là chiếc mũi thẳng và quai hàm vuông, bạnh, oai vệ bẩm sinh. Thân hình cân đối, nở nang như một lực sĩ điền kinh. Cánh tay lẫn bắp thịt đều và chắc. Con mắt có đuôi, hơi xếch... thanh niên là hình ảnh của lão tù trưởng mấy chục năm về trước. Nhìn đến đôi mắt của thanh niên, Ngọc nhớ đến tia nhìn kỳ lạ, sáng quắc, nhiều ý nghĩa của lão già lúc lâm chung. Lão còn điều gì muốn nói trước khi nhắm mắt nhưng không kịp thốt nên lời?

Thời gian cấp bách không cho phép Ngọc suy nghĩ mông lung. Trước mắt là việc anh phải cứu sống nạn nhân đang lâm vào trạng thái nguy kịch lắm rồi. Làm sao cứu đây trong khi anh chỉ có hai bàn tay trắng và lại không biết rõ chất độc tấn công nạn nhân?

Vô tình Ngọc đưa hai bàn tay vặn vào nhau để trấn áp sự bồn chồn. Cánh tay của Ngọc, cánh tay đã bị rắn độc của tù trưởng tấn công, và bàn tay này đã sưng vù lên vì nọc độc thấm qua lớp da và vẩy rắn thấm vào thịt. Nhờ... nước miếng mà Ngọc bình phục, phải rồi anh thử áp dụng phương pháp ấy chữa cho nạn nhân xem sao?

Ngọc thử thách trong ba phút rồi lắc đầu thở ra. Nước miếng vô hiệu với nọc côn trùng này. Lồng ngực thanh niên như ngừng thở hẳn. Ngọc cuống lên, không lẽ anh bó tay nhìn nạn nhân chết trước mắt mà đành bất lực hay sao?

Vị mặn của muối còn sót lại nơi khóe môi làm Ngọc chợt tỉnh khỏi cơn mê. Tại sao anh không dùng muối bổ này để tiếp sức cho nạn nhân có thể chịu đựng được trên đường về bộ lạc cứu chữa? Dù sao có một số đông người kinh nghiệm với thảo mộc và côn trùng nơi đây hàng mấy trăm năm vẫn hơn một mình anh xoay xở.

Ngọc vác thanh niên trên vai, cúi đầu đi thẳng. Có tiếng ồn ào tức giận đàng sau lưng, tiếng chân người chạy thình thịch. Anh thổ dân ban nãy nhảy xổ tới, cây đao đá hoa lên bổ xuống muốn xẻ đôi người Ngọc thành hai mảnh. Ngọc biết bị hiểu lầm, vội bỏ thanh niên xuống đất, chạy vòng quanh thân cây tránh đao, hét lớn:

- U!

Anh ta dừng tay. Ngọc tiếp nhanh:

- Anh này bị côn trùng độc cắn ngay cổ đó. Anh xem chữa giúp được thì hay lắm.

Thổ dân ngơ ngác hạ đao xuống. Ngọc chờ đợi với vẻ đứng ngồi không yên. Lát sau anh ta ngẩng lên:

- Thượng Đế đã phù hộ cho "người con" sẽ hết bệnh. Vì thường bị loài ruồi này chích là không còn sống đến giờ này và... đang có dấu hiệu là "người con" sẽ hết bệnh. Anh đã cho người này thuốc gì chưa?

Ngọc nghiêm trang:

- Muối từ lòng đất.

Đoán biết là muối có công dụng trị độc, Ngọc lấy thêm ít nữa bỏ vào miệng nạn nhân. Thổ dân có vẻ tin tưởng vào lòng tốt của Ngọc, nên để mặc cho anh hành động, không phản ứng.

Nửa giờ đồng hồ trôi qua, trong im lặng. Không ai nói với ai một lời. Ngọc bỗng thấy lồng ngực thanh niên phập phồng đều đặn, quả tim đập mạnh trở lại trong sự vui mừng và chờ đợi của hai người. Thanh niên vẫn còn mê man, nhưng đã có thể di chuyển anh ta về bộ lạc và có thể có cơ cứu khỏi. Bấy giờ Ngọc mới thở dài trút gánh nặng, nhớ lại những lời lạ lùng của anh thổ dân ban nãy và hỏi:

- Thượng Đế? "Người con"? Lúc nãy anh nói gì tôi chưa hiểu? À, anh có tìm được hộp sắt đựng kim cương nơi gốc cây chưa?

Thổ dân gật đầu nhưng vẫn im lặng. Ngọc hỏi:

- Anh tin lời tôi nói chưa?

- Tin.

- Thế sao anh lại muốn rượt chém tôi bằng dao đá? Tin gì mà kinh khủng quá vậy?

Thổ dân nói chậm rãi một câu ngắn:

- Người này là con Tù trưởng.


Đoạn Kết

Ngọc chuẩn bị trở về nhà cùng với Hùng và Hồng Liên. Ba anh em ở lại thêm mười ngày để xóa tan mối thù hận hai mươi năm giữa hai bộ lạc anh em. Ngọc mơ màng nhớ lại đêm lão già đền tội, Hùng và Liên đã làm được một cử chỉ đáng khen. Dõi theo ánh mắt Nữ Chúa, Hùng nhận biết ngay thanh niên người yêu của cô ta và nó chạy sang bên kia dắt anh ta ra trong khi Liên đưa Nữ Chúa đến.

Cặp thanh niên nam nữ ôm lấy nhau mừng mừng tủi tủi. Và đó cũng là hành động thân ái đầu tiên của hai bộ lạc thù nghịch đưa đến sự hòa thuận vĩnh cửu ngày hôm nay.
Liên trêu chọc anh Ngọc:

- Ngày vui của người ta chứ đâu phải... của anh mà anh thẩn thờ mất hồn vậy?

Hùng rầy em:

- Đừng nói giỡn Liên. Anh chắc anh Ngọc còn giận người mọi lái thuyền không biết suy nghĩ kia chứ gì?

Ngọc cười dễ dãi:

- Không đáng trách anh ta, Hùng ạ. Anh ta cứ tưởng là ba anh em mình đến gây chia rẽ bộ lạc, giết tù trưởng và... riêng anh còn muốn giết luôn con trai tù trưởng - "người con" Thượng đế anh ta đã phải mất bao nhiêu công lao tìm kiếm ở miền đồng bằng đem về cho tù trưởng...

- Anh lái thuyền cho mình đi chơi kia mà?

- Phải. Lúc ấy anh ta đang giận tù trưởng muốn lờ vụ tiền thưởng trong việc theo dõi chúng mình nên không nói gì với lão là anh ta đã tìm thấy thanh niên, đang cho trú ẩn ở một nơi kín đáo. Tội nghiệp lão ta lúc sắp chết vẫn chưa biết tin tức của đứa con.

Hùng thông minh:

- Lão tù trưởng chu đáo quá. Lão thấy anh em mình hay đi chơi xa, nghi ngờ mình thám thính, đã cho người theo dõi ngay rồi. Anh Ngọc, con lão tù trưởng đã khỏe chưa anh?

- Khỏe lắm rồi. Có lẽ anh ấy sẽ cùng về một lượt với mình.

Liên giơ ngón tay cái lên khoe:

- Sáng nay em mới khám phá ra được Quỷ Vương, anh Ngọc ạ.

- Hả?

- Lão ta dùng những hình nhân khổng lồ bện bằng lá cây, cho đội mũ, cắm sừng treo trên ngọc cổ thụ cao nhất. Ánh trăng xuyên qua lớp mây dày đặc chiếu lên vách đá những bóng đen nhảy múa mà lão ta điều khiển bằng dây giật.

- Còn tiếng rên?

- Em biết rồi. Mấy tên bộ hạ thân tín của lão hú và rên trong vách đá đúng lúc gió thổi mạnh. Vách đá vang lên, khuếch đại nhiều lần tạo được những âm thanh rất lớn nhờ gió đưa đi bốn phương.

Ngọc cười nửa miệng:

- Liên giỏi lắm. Và anh đã thanh toán hết lũ bộ hạ của lão tù trưởng rồi.

- Trời ơi! Anh giết chúng?
Ngọc cười phá lên vỗ nhẹ vào vai Liên:

- Anh mà dám giết ai. Thanh toán chỉ có nghĩa là khiến họ không còn làm những việc tai ác ấy thôi. Rất dễ vì đó chỉ là một bọn cuồng tín, tin tuyệt đối ở vị tù trưởng và vị tù trưởng mới của họ lại là một người có tài năng, đức độ và thiện chí học hỏi.

Liên nũng nịu:

- Em đố anh Ngọc tại sao lão bắt giam mà không giết tụi mình ngay, lại để cho mình đầy đủ áo quần, dao bấm rồi sau đó lại sai rắn cắn ta?

- Đó là điểm lương tâm cuối cùng của lão. Lão cho phép ta sống một cách văn minh và không nỡ giết người vô tội một cách phi lý. Tuy thế lão không muốn bị nhòm ngó và bắt giam ta lại, sau này lão nổi nóng vì ta đã trốn thoát khỏi ngục, lo sợ và đoán được ta bơi qua sông nên quyết định giết người bịt miệng. Lúc đó ta lại đang... ở gần hộp kim cương của lão.

Nữ Chúa bước vào cùng với thanh niên con trai tù trưởng. Cô ta đang sống trong hạnh phúc nên dịu hiền trở lại, bớt rất nhiều man rợ, hung tợn. Với thời gian, Ngọc học rất nhiều tiếng nói của bộ lạc hơn và có thể khuyên bảo cô ta nhiều hơn, dễ dàng kết quả hơn. Liên bỗng nhớ ra chuyện cũ, hỏi Hùng:

- Anh Hùng, lão tù trưởng có hương mê từ lâu sao không sử dụng làm cỏ bộ lạc Nữ Chúa cho rồi, còn đợi đến đêm hôm nọ mới hành động?
Hùng vênh mặt:

- Liên xem anh giỏi bằng anh Ngọc chưa nhé? Lão già chỉ muốn gây chiến tranh dai dẳng để lão dễ dàng thống trị dân mọi và đi khắp nơi vơ vét kim cương. Giết sạch có lợi gì? Đêm hôm ấy lão phải ra tay vì sự có mặt của ta bên cạnh Nữ Chúa, những con người văn minh có đầu óc sẽ làm hỏng những mưu tính bất nhân của lão. Dù sao, lão cũng có điểm đáng khen là không nỡ thảm sát mấy trăm con người một lúc nếu lão chưa lâm vào tình thế nguy cấp.

- Nhưng tội của lão vẫn tày trời... hừ... Hai chục năm với hàng trăm cuộc xáp chiến.

- Em phải tha thứ cho người đã chết.

Hùng làm ra vẻ người lớn thấy tức cười ghê đi. Liên bụm miệng quay mặt ra phía sau khúc khích. Anh Ngọc vẫn đang mãi mê trò chuyện với Nữ Chúa và thanh niên. Anh chàng ngập ngừng nhờ Ngọc:

- Tôi có việc muốn nhờ anh chút xíu.

- Anh cứ nói.

- Phiền anh thông dịch giùm lại với Nữ Chúa là tôi sẽ không đem về thành phố một hạt kim cương nào của bộ lạc cả. Tôi còn trẻ và không cần tiền. Số kim cương đã mài được trả nguyên chủ là tôi hài lòng lắm rồi.

- Anh tốt quá. Anh sẽ được Thượng đế phù hộ.

Bốn người ra bờ sông. Người mọi lái thuyền tình nguyện đưa họ sang sông Răng xuôi về thành phố. Bước lên thuyền, Liên luyến tiếc:

- Anh Ngọc có thấy rằng bao giờ ngày vui cũng trôi qua mau không?

Thanh niên cười:

- Liên thi sĩ lắm nhé. Chúng ta sẽ trở lại thung lũng này một ngày gần đây để đem ánh sáng văn minh đến cho bộ lạc này. Nghĩ lại, anh có kỷ niệm khó quên: anh theo người mọi rình anh Ngọc không ngờ anh lại được anh Ngọc cứu sống. Quả đất thật tròn...
Ngọc sực tỉnh, góp chuyện:

- Thung lũng thần tiên này bây giờ quả thật là một Thiên Đàng Hạ Giới... Nếu có dịp, có lẽ tôi và anh nên trở lại lập nghiệp nơi đây...

- Thật không? Tôi nghĩ anh còn phải hoạt động nghiên cứu về hóa học dược chất của cỏ "Z" dùng thay thế thuốc phiện trong dược khoa và chất muối lạ lùng kia biết thành thuốc bổ thần tiên cho người già và người bệnh như anh nói với tôi hôm trước... À, mà không hiểu lời khuyên của anh với Nữ Chúa bỏ hẳn không dùng cỏ "Zi" nữa, có kết quả gì chưa?
- Hy vọng lắm, vì cô ta có vẻ thật lòng nghe lời tôi.

Phút chốc, Thung lũng Thần tiên khuất dạng hẳn trên phía thượng lưu dòng sông lững lờ.


XUÂN QUANG
 
Sửa lần cuối:

baongoc

Rìu Sắt
Tài khoản bị khóa
Tủ sách Tuổi Hoa được thành lập trước năm 1975 và do những cây bút chuyên viết cho các tạp chí như Thiếu Nhi, Thằng Bờm, Tuổi Hoa cộng tác.

Các tác phẩm của Tủ sách Tuổi Hoa được chia làm 3 loại:
  1. Loại hoa đỏ: phiêu lưu, mạo hiểm, trinh thám.
  2. Loại hoa xanh: tình cảm nhẹ nhàng như tình gia đình, bạn bè.
  3. Loại hoa tím: dành cho tuổi 16 - 18.
Những tác phẩm này đã từng một thời là "món ăn tinh thần " của thanh thiếu niên Việt Nam vì nó không những giáo dục những đức tính tốt cho con người mà còn giúp thanh thiếu niên tập trau chuốt lời văn để học văn tốt hơn.

Ngoài ra, Bán Nguyệt San Tuổi Hoa cũng là một tờ báo đã đi vào lòng của thanh thiếu niên Việt Nam vào thập niên 60, đầu thập niên 70. Những giá trị tinh thần do Bán Nguyệt San Tuổi Hoa đem lại rất nhiều và hầu như các truyện dài được đăng trong Bán Nguyệt San Tuổi Hoa đều được Nhà xuất bản Tuổi Hoa in thành sách, chính là các truyện loại hoa đỏ, hoa xanh và hoa tím mà chúng ta đang sưu tầm.

Hiện nay Tủ Sách Tuổi Hoa và Bán Nguyệt San Tuổi Hoa đang bị mai một nên có lẽ đến một ngày nào đó sẽ không ai còn nhớ và còn biết trong văn hóa Việt Nam có một giai đoạn thịnh hành của sách báo Thiếu Nhi, đã góp phần trong việc giáo dục tạo nên một thế hệ Thanh thiếu niên ưu tú. Việc sưu tầm và tái lập Tủ sách Tuổi Hoa cũng như Bán Nguyệt San Tuổi Hoa sẽ giúp chúng ta ghi dấu lại giai đoạn đáng nhớ đó và mặc dù hiện giờ các tác phẩm của Tủ Sách Tuổi Hoa và các Bán Nguyệt San Tuổi Hoa bị thất lạc rất nhiều nhưng mong rằng với thời gian và với công sức của tất cả những người đã, đang và sắp là fans của Tuổi Hoa, chúng ta sẽ cùng nhau tái lập lại đầy đủ các tác phẩm, các tập san của Tuổi Hoa khi xưa.

Cám ơn quý tác giả của Tủ sách Tuổi Hoa, dù không trực tiếp gửi sách nhưng những giá trị tinh thần của các tác phẩm mà quý vị cho ra đời thật là vô giá. Mong rằng quý vị sẽ thông cảm và bỏ qua cho việc không xin phép của chúng tôi khi đưa các tác phẩm của quý vị vào website bởi vì sau bao nhiêu sự thăng trầm, khó mà tìm lại được quý vị.

Chân thành cám ơn.
Lời giới thiệu từ nhóm đang sưu tầm/scan lại tủ sách Tuổi Hoa ([email protected])
---------
Mình đăng lại những cuốn thuộc Tủ sách Tuổi Hoa lên Vn-Zoom với hi vọng diễn đàn sẽ là nơi lưu giữ lại sách trong trường hợp trang nguồn bên Google Sites
Mã:
https://sites.google.com/site/tusachtuoihoa/
có sự cố hoặc ngừng hoạt động. Hi vọng những cuốn sách này sẽ tiếp cận được với bạn đọc xưa và nay!

Còn dưới đây là danh mục các sách mình đã đưa lên diễn đàn, giúp bạn tìm kiếm và phân loại dễ dàng hơn.

Tủ sách Tuổi Hoa - Loại Hoa Đỏ

  1. Anh Hùng Sơn Cước - Thùy Hương
  2. Ánh nắng nhiệm màu - Chân Phương
  3. Bên đường biên giới - Nguyễn Trường Sơn
  4. Bên kia chiếc cầu - Nguyễn Thị Mỹ Thanh
  5. Bí mật dầu lửa - Nguyễn Hiến Lê
  6. Biệt thự Hoàng Lan - Thùy Hương
  7. Bộ khuy kỳ lạ - Nam Quân
  8. Bóng người dưới ánh trăng - Nguyễn Trường Sơn
  9. Bông Uất Kim Hương Đen - Xuân Thu
  10. Bức mật thư - Nam Quân
  11. Bức tranh dòng họ Nguyễn - Chân Phương
  12. Chim Phụng Thái Lan
  13. Chuỗi ngọc Trường Sinh
  14. Cô gái Chúc Sơn
  15. Cô giáo Thu Trang
  16. Con rắn của lão tù trưởng
Còn một số tác giả của những cuốn sách trên hiện vẫn còn sống, đưa lên như vậy có tiện không Bác.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
@baongoc Tất cả đều là những cuốn có giá trị nhân văn rất cao, nhưng Những cuốn này hiện tại ngừng tái bản đã mấy chục năm rồi. Mình nghĩ nếu những tác giả này biết, ắt hẳn sẽ không cấm các website đưa lên để nhiều bạn đọc được tiếp cận đâu.
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Con Tàu Bí Mật
Tác giả:
Nguyễn Trường Sơn
Tủ sách Hoa Đỏ
Sưu tầm & Đánh máy: Nguyễn Tuấn, Yên Chi
Nguồn: Vnthuquan
VWNcORRcYcjf1vtbViH7gRKiWokRvbdDgBVAhOo8VLRbr5UTM1SnE0Td5W_uevwHUxqyNtoE8H7CdO6aVBfVSdbhDcLpoPems9N9gzM0H4oZn4ucBvTaJMUjR2nijMuGEQWcECL_AzppDXAaE5IpQCr4cuuotWla2X-dmv_9n7_eWKyzLuQMT3JxU_v0f9P8g-wC9u5oqm1WG3feBOIb8JO4UgyokvQ12BWEAiFxXNzr-oqYAVVYtIxMBv4Em6sQnVGAfa2uS_8IF_zYwCaLmuwizIUYVVqxF_wCimct8uiSm4mrEKf9nYmCYbI3V5LZPSAdXG3TdErjaZBikFlgAVDoq1irDzbB8PsotQiQQaVcsZtc7qmfayNXkWgiPylT2qjVfIKH3IESTxiKuVjhZFw6gziI4vh32aj4b6XqlSqAz9_6DB7IfELBQi5mWH2uevrktSZG5Fe6LTZJv9MMRHB9qxnvo13DYdZksuJ_hmBvsnvC--6N0Pg7q-EtQPp470YdFKM99uf8MgGJnK-HPgnnB_O1rfi5dNVx8YbihliEZscTfo68OVO00IoHwF5Vvy91K6ZU-Ui1mTnh8_XDJhYGu1hqFoUHnasuE8AgraYkF6ifxXgO5A=w500-h700-no


Chương 1.
Từ lúc mặt trời lấp ló sau rặng dừa phía cuối vườn, Việt vẫn ngồi tựa mình bên gốc ổi, yên lặng nhìn những cụm mây trắng lờ lững trôi trên nền trời.
Sau một niên khoá chăm chỉ học tập, Việt tạm biệt Sài Gòn về Xuân Lộc nghỉ hè. Không khí ở đây trong lành thoáng mát, nhưng cảnh vật buồn tẻ không hợp mấy với cái tuổi hoạt động, sôi nổi của Việt. Gió thoảng nơi đồng quê làm Việt thấy chóng đói, ăn khoẻ gấp đôi khi còn ở Sài Gòn. Nhưng ăn rồi sinh lực dồn cả ra chân tay, muốn chạy nhảy hò hét vui đùa mà không có bạn. Việt đành ngồi buồn mở sách ra đọc. Đọc mãi cũng chán, nhất là trong ngày nghỉ hè. Chán, Việt ngồi nhìn mây bay, nhìn hàng dừa soi bóng nước. Nhưng Việt không có tâm hồn thi sĩ mấy, nên chỉ mơ mộng một lát đã thấy chân tay ngứa ngáy bực bội. Việt đâm ra nhớ Sài Gòn, nhớ Khôi. Việt nghĩ: giá lúc này có Khôi ở bên cạnh thì vui biết mấy.
Khôi và Việt là đôi bạn thân cùng học một trường, cùng ở một phố. Mỗi lần đi học đôi bạn thường rủ nhau cùng đi, hoặc ngồi chung trên chiếc xe gắn máy của Việt, hoặc kéo nhau đi bộ nhởn nhơ trên vỉa hè thành phố. Bây giờ nghỉ hè đôi bạn tạm chia tay, Việt được ba má gởi về đổi gió tại nhà dì Hạnh, em của má Việt, có vườn cây ở miền quê.
Mấy ngày đầu, Việt còn thấy vui. Dì Hạnh không có con nên thấy cháu về chơi lấy làm mừng rỡ. Tuy được dì chiều chuộng và được tự do leo trèo, chạy nhảy khắp một khu vườn đầy trái, Việt vẫn thấy buồn.
Nhưng sáng nay, sau khi được dì cho ăn một đĩa xôi gà, no đến cứng bụng, Việt ra ngồi bên gốc cây, và thấy cả chân tay như thừa thải nặng nề không biết dùng để làm gì. Việt đứng lên, uể oải bước ra cổng, ước mong có một người bạn để cùng chơi, thì chợt gặp một con chó.
Con chó không lớn lắm, nhỏ thó, lông màu nhuôm, hơi bẩn nhưng có vẻ nhanh nhẹn dễ thương. Nó đứng nghiêng đầu nhìn Việt, lưỡi thè dài, như có ý bảo:"Anh làm gì đấy, có đi chơi không ?".
Việt đang muốn chạy nhảy một lát, thấy con chó hay hay liền mỉm cười, ngoắt ngón tay ra hiệu rồi cắm cổ chạy. Con chó ve vẩy đuôi tỏ ý mừng rỡ, rồi đuổi theo, bám sát chân Việt. Ra quãng đồng trống, Việt nhặt hòn đất ném cho nó bắt. Nó đón bắt rất tài, chỉ vài bước nhảy vọt nó đã đem trả lại hòn đất cho Việt. Trò chơi ấy làm Việt khoái vô cùng. Từ hôm về nghỉ ở nhà dì, chưa bao giờ Việt được vui như vậy. Mới đầu Việt còn ném gần, thấy con chó bắt dễ dàng Việt lẳng hòn đất thật xa.Chẳng may hòn đất rơi trúng vào một khu trồng rau. Con chó phóng mình theo, rồi sục sạo vào giữa những luống rau cải, sà lách, làm dập nát hư hại khá nhiều. Nhận thấy thế, Việt hoảng hốt đuổi theo, và tuy không biết tên nó là gì, anh cũng theo màu lông của nó mà cuống quýt gọi :
- Ê, Vện! Vện lại đây mau!
Nhưng cũng giữa lúc ấy, giữa lúc Việt đang luống cuống trong các luống rau thì chợt thấy một người đàn bà, hai tay xách hai bình tưới ở dưới lạch đi lên. Đó là thím Hai Hòa, người hàng xóm cạnh nhà dì Việt. Thím Hai đặt bình tưới xuống đất, giơ hai tay lên trời kêu :
- Trời đất quỷ thần ơi! Ai cho tụi bây vô đây phá hoại vậy nè!
Nghe tiếng la hoảng của thím Hai, con Vện cúp đuôi lủi mất. Việt cũng muốn chạy vì thấy thím Hai giận dữ tiến đến, nhưng lại sợ giẫm hư các luống rau nên đành đứng lại phân trần:
- Cháu có làm hại gì đâu, thím Hai!
Lời biện bạch của Việt càng làm thím Hai phật ý. Thím nắm chặt lấy hai vai Việt mà lắc.
- Mày đem con chó tới phá phách vườn rau của tao còn bảo không làm hại gì sao, thằng khốn kiếp này!
Tự nhiên Việt nổi xung. Thím Hai đã nặng lời với Việt. Thím đã phá mất giây phút vui đùa của Việt, làm con chó chạy biệt dạng lại còn nắm Việt mà lắc mạnh nữa.
Không nghĩ ngợi, Việt gỡ khỏi tay thím Hai, húc đầu vào bụng thím, bồi thêm một cú đá vào bắp chân thím rồi bỏ chạy.

***
Về nhà, Việt nơm nớp chờ đợi sự quở trách của dì Hạnh. Việt ân hận đã xua con Vện vào vườn rau của thím Hai, và điều đáng trách hơn nữa là Việt đã đá vào chân thím.
Nhưng trái với điều Việt e ngại, dì Hạnh không giận dữ quở trách Việt. Dì chỉ tỏ vẻ buồn rầu và sau bữa cơm chiều, dì nhẹ nhàng bảo:
- Việt, cháu hư quá! Dì không ngờ một học sinh như cháu mà lại có hành động hỗn hào với thím Hai như thế.
Việt bối rối đáp:
- Tại con chó chứ không phải tại cháu!
Dì Hạnh ngắt lời:
- Dì không nói đến con chó làm hư hại luống rau của thím Hai. Dì chỉ trách cháu sao dám húc đầu vào người thím và đá vào chân thím như một tên côn đồ vậy!
Việt không dám cãi lời dì song Việt cũng nghĩ rằng: Việt cần phải chống trả khi bị người ta uy hiếp. Tuy nhiên nhớ lại hành động thiếu suy xét của mình, Việt cũng thấy xấu hổ. Việt định bụng sẽ xin lỗi thím Hai khi nào có dịp.
Nhưng cũng từ đó, Việt ít khi ra ngoài, chỉ loanh quanh trong khu vườn của dì Hạnh, hết đọc sách lại ngồi mơ mộng.
Thấy cháu có vẻ buồn, một hôm dì Hạnh bảo Việt:
- Về đây nghỉ hè với dì, chắc cháu buồn lắm nhỉ!
Việt chưa biết trả lời thế nào, thì dì Hạnh đã tiếp:
- Buồn là phải vì ở đây cháu không có bạn. cho nên dì tính nấu một nồi chè, làm ít bánh ngọt rồi kêu mấy đứa quanh đây tới chơi với cháu cho vui, cháu bằng lòng không?
Việt cảm động nhìn dì nói:
- Cháu không buồn lắm đâu dì à. Dì đừng bày vẽ chi cho mệt.
- Ờ, mà sao cháu không rủ người bạn nào về đây nghỉ hè với cháu cho vui?
- Dạ cháu có một người bạn thân mà tại nóng về đây với dì, nên khi đi cháu quên mất. Giá có hắn ở đây chắc cháu vui lắm.
Việt lại nghĩ đến Khôi. Nếu có hắn ở bên cạnh, hai anh em chắc sẽ tìm ra nhiều trò chơi thú vị, và những ngày nghỉ hè cũng đỡ tẻ nhạt.
Một buổi, Việt đang ngồi buồn tình nhìn mây bay ở trong vườn, chợt nghe tiếng chân ngoài hàng rào dâm bụt, nhịp với tiếng gậy chống trên đường mỗi lúc mỗi gần. Một chiếc đầu vượt qua hàng rào, rồi bỗng có giọng nói quen thuộc gọi vào:
- Ê, Việt! Ngồi làm gì buồn thiu ra thế, hở bồ?

Chương 2.
Việt đứng lên tiến lại phía hàng rào và tưởng như mắt mình vừa hoa lên, người vừa gọi Việt chính là Khôi. Hắn đứng nhìn Việt mỉm cười:
- Chào bồ!
Việt mừng rỡ reo:
- Ồ, Khôi! Khôi đi đâu đây?
- Đi tìm bồ vì nhớ bồ quá. Nhưng Việt chỉ lối cho Khôi vào với chứ. Để Khôi đứng ngoài này à?
Việt tìm một lỗ rào chui ra, dắt Khôi vào, kéo bạn ngồi xuống ghế, chỗ vừa bày bánh đãi bọn trẻ trong xóm. Đôi bạn nhìn nhau sung sướng. Việt không nói được lời nào, chỉ lặng lẽ nhìn bạn. Anh vẫn không thể ngờ được rằng Khôi lại đến với anh đột ngột như thế. Nhưng đúng là Khôi, bằng xương bằng thịt, đang ngồi trước mặt Việt, với dáng điệu khoan thai, vững chãi, đầy tự tín, mà Việt rất cảm phục. Khôi thong thả hạ chiếc ba lô đeo trên lưng xuống, móc túi áo trước ngực lấy ra một gói kẹo cao su chia cho Việt. Tuy vừa ăn no, nhưng Việt cũng nhận phần chia, vì đó là thói quen "Chia ngọt sẻ bùi" của 2 người.
Việt hỏi:
- Sao Khôi biết Việt ở đây?
Khôi nở rộng nụ cười:
- Dễ ợt! Khôi hỏi ba má Việt... Sao cậu đi nghỉ hè không báo cho tớ biết?
- Tại Việt đi gấp quá. Dì Hạnh cho người lên đón... Nhưng ở đây thiếu Khôi, buồn quá!
Khôi vỗ vai Việt:
- Tớ cũng thế, nên mới mò về đây thăm Việt!
Việt mừng rỡ bảo:
- Thế Khôi ở lại đây với Việt nhé?
Khôi bí mật đáp:
- Mới đầu, Khôi định về đây với Việt ít ngày. Nhưng bây giờ thì không thể được vì... Khôi cần phải theo dõi một người...
Mắt Việt sáng lên:
- Thật à?
- Ừ. Đầu đuôi như thế này: Khi biết Việt về quê nghỉ hè, Khôi xin phép nhà, đi thăm Việt. Được ba má Việt chỉ cho biết chỗ, Khôi đáp xe buýt xuống Nhà Bè. Hết đường xe buýt, Khôi xuống đi bộ, phần vì từ Nhà Bè vào ấp Xuân Lộc, Khôi chưa biết lối, phải mò mẫm hỏi thăm. Hai là Khôi thích đi bộ, như thế mới đúng nghĩa thể thao!
Bỏ đường cái quan, Khôi hỏi thăm đi vào con đường đất. Đi được quá nửa đường, xa xa thấy vườn cây um tùm hiện rõ, Khôi đã mừng thầm, phấn khởi với ý nghĩ sắp được thấy Việt thì bỗng nhiên, Khôi thấy... đau bụng quá!
Việt cười khúc khích:
- Chắc trước khi đi, bồ đã xơi bậy món gì rồi!
Khôi cũng cười:
- Đúng! trước khi ra bến xe, Khôi làm một chầu thịt bò khô ở cửa chợ Bến Thành!
- Hèn nào!
Khôi tiếp:
- Chất thịt bò khô với đu đủ xanh ăn vào ngon miệng, nhưng sau nó hành mình dữ quá. Hai bên đường đất ruộng vườn bát ngát, loáng thoáng lại có người cày cấy, cuốc xới, nên Khôi không biết làm thế nào trút bỏ cái của nợ đang quặn đau trong ruột! Trông trước ngó sau chợt Khôi nhác thấy một chiếc lò gạch đổ nát, hình như bỏ hoang đã lâu ngày, Khôi bèn lần tới. Chung quanh lò ngổn ngang những đống gạch vụn, cỏ dại mọc um tùm, nhiều chỗ cao gần tới bụng. Chiếc lò trơ lại còn bốn bức vách, bên trong mấp mô từng đống gạch đổ. Khôi chui vào tìm chỗ khuất toan ngồi làm việc cần, bỗng nhiên nghe có tiếng chân người bước tới. Ghé mắt nhòm ra, Khôi thấy có hai người đang thì thào có vẻ bí mật.
Việt hỏi:
- Họ có thấy Khôi ở trong đó không?
- Không. Lúc vào, Khôi chui lối đằng sau, qua lỗ châm lửa, còn họ tới lối trước nên vô tình hai bên không thấy nhau.
- Họ thì thầm với nhau điều gì, Khôi có nghe rõ không?
Khôi lắc đầu đáp:
- Chỉ loáng thoáng thôi. Gió ngoài đồng trống lay xào xạc những bụi cỏ hoang, vi vu lọt vào trong lò nên nghe không được rõ lắm. Khôi chỉ lõm bõm nghe được vài tiếng "Trốn" và "Đêm". Tới cửa lò, một người bước vào còn người kia đứng gác bên ngoài...
- Nguy quá! Hắn không trông thấy Khôi chứ?
Khôi mỉm cười:
- Dĩ nhiên là không rồi, vì tớ thu ngay mình lại sau đống gạch đổ chỉ ló ra có một con mắt để nhìn thôi!
- Khôi thấy gì?
- Thấy hắn rút trong túi ra mảnh giấy nhỏ gài vào một kẽ hở ở vách lò.
- Khôi có xem mảnh giấy ấy không?
- Chờ hắn đi ra và cùng với tên đồng bọn đi đã khá xa Khôi mới tìm lấy mảnh giấy xuống coi, thấy vỏn vẹn chỉ có một dòng chữ...
- Khôi có đem mảnh giấy ấy về đây chứ?
Khôi lắc đầu:
- Không! Tớ lại để trả vào chỗ cũ. Nhưng dòng chữ bí mật thì tớ đã chép lại cẩn thận rồi.
Vừa nói, Khôi vừa móc túi lấy cuốn sổ tay, mở một trang có ghi dòng chữ: HỒNG HẢI, BA CÂY 27/7, chỉ cho Việt xem.
Việt nhìn Khôi lẩm bẩm:
- Lạ nhỉ, HỒNG HẢI, BA CÂY là cái quái gì?
- Theo ý Khôi, Hồng Hải có thể là tên một chiếc xe hay một chiếc tàu. Còn Ba Cây kia không biết có phải là một địa điểm không. Ở vùng này Việt có nghe ai nói đến một nơi nào có tên gọi là BA CÂY? Chẳng hạn như ở vùng Gia Định mình có Ngã ba Cây Quéo...
Việt vỗ đùi:
- Thế thì đúng rồi! Gần đây có một bến sông gọi là bến Ba Cây.
- Ở về phía nào?
- Việt không rõ. Để hỏi dì Hạnh thì biết. Chắc chỉ cách đây độ mười cây số thôi! Vậy thì Hồng Hải là tên một con tàu... Ba Cây tên một địa điểm... Nhưng còn con số 27/7 là gì?
- Cái đó dễ, Việt ạ! Khôi đoán con số ấy chỉ ngày tháng, vì chúng ta đang ở trong tháng 7, phải không nào?
- Ừ nhỉ! Hôm nay đã là 25 tháng 7 rồi.
Việt ngồi im suy nghĩ, trong lúc Khôi nhìn bạn ranh mãnh mỉm cười. Khôi biết trí óc Việt đang làm việc lung lắm. Nhưng cu cậu đang bí. Quả nhiên Việt hỏi:
- Khôi có thấy gì không?
- Thấy gì chứ?
- Hình như có điều mờ ám Khôi ạ!
- Dĩ nhiên rồi. Trước hết chúng ta hãy nêu câu hỏi: Mảnh giấy do hai người kia gài ở lò gạch để làm gì?
- Chắc để gửi cho một người thứ ba.
- Phải, và người thứ ba ấy có thể là một tên tù vì hai người kia đã nói đến tiếng "trốn"...
Việt mở to mắt nhìn bạn. Khôi tiếp...
- Biết đâu tên tù ấy chẳng được đồng bọn giúp cho vượt ngục, và tới lấy mảnh giấy ở lò gạch để biết chỗ và tên chiếc tàu đợi đón hắn.
Việt bàn:
- Nếu vậy ta nên báo ngay cho sở cảnh sát biết.
Khôi lắc đầu:
- Chưa chắc họ đã tin mình, vì ai có thể tin được những điều mình vừa phỏng đoán!
- Thế Khôi tính thế nào?
Khôi ghé vào tai Việt thì thầm:
- Ngay chiều nay chúng mình ra ẩn ngoài lò gạch chờ xem động tĩnh ra sao. Nếu quả có một tên tù vượt ngục, như bọn mình phỏng đoán, chắc hắn phải chờ đến đêm khuya mới lần đến tìm mảnh giấy mà đồng bọn đã để lại... Rồi chúng mình theo dõi hắn!
Bỗng có tiếng dì Hạnh gọi:
- Việt!
Việt bối rối bảo bạn:
- Chết cha! Dì Hạnh gọi Khôi ạ.
Khôi đứng lên:
- Thì chúng mình vào chứ sao! Khôi cũng phải chào dì cho phải phép chứ.
- Nhưng dì đang giận tớ ghê lắm, vì hồi nãy tớ vừa uýnh lộn với một thằng bạn mới...
- Tại sao? Oánh nhau ngay trong này à?
- Ừ, tại dì Hạnh sợ Việt buồn, mới làm bánh kêu một bọn tới ăn, để Việt làm quen cho có bạn. Thế rồi...
Khôi cười hì hì:
- Thế rồi uýnh nhau chứ gì?
- Ừ. Nhưng tại một cậu trong bọn ấy chứ không phải tại Việt.
- Tớ biết rồi. Tớ có gặp bọn họ ở dọc đường thấy một cậu lớn nhất bọn có vẻ huênh hoang lắm... Nhưng dù sao, Việt cũng có phần lỗi. Nhất là đã làm cho dì Hạnh buồn...
Việt xịu mặt nói:
- Thế mới phiền. Tớ chỉ ngại dì Hạnh giận...
Khôi kéo tay bạn:
- Thôi, dì đã gọi thì chúng ta phải vào...
Và nháy mắt, Khôi tiếp:
- Để tớ xin lỗi dì Hạnh hộ cho, nhân thể tớ sẽ xin dì cho Việt đi "cắm trại" với Khôi ít ngày.

Chương 3.
Ngay chiều hôm đó Khôi và Việt được dì Hạnh cho đi cắm trại. Đôi bạn thu xếp ít vật dụng cần thiết cho vào ba lô của Khôi rồi lên đường.
Dì Hạnh hẳn không ngờ đôi bạn đang dấn mình vào một cuộc mạo hiểm. Khi cho phép Khôi Việt đi cắm trại, dì tưởng hai người sẽ đến họp đoàn vui chơi với các hướng đạo sinh khác. Nếu biết hai người đến cắm trại ở chỗ lò gạch đổ, chắc không khi nào dì cho phép.
Đôi bạn cũng biết như vậy, nên khi ra khỏi cổng ấp cả hai làm bộ vui vẻ lên đường. Thật ra, đi bên cạnh Khôi, Việt hết sức vui mừng. Nét mặt Việt rạng rỡ, nói cười luôn miệng. Vừa khỏi cổng ấp, mới khuất sau hàng dừa, Khôi đã kéo tay bạn đứng lại:
- Chúng mình chưa nên đến thẳng chỗ lò gạch, vì hãy còn sớm, Việt có biết chỗ nào kín đáo không?
- Để làm gì?
- Để ngồi chờ cho trời chạng vạng tối hãy đi. Như vậy không ai thấy chúng mình vào trong lò.
Việt chỉ một lùm cây gần khu vườn rau của thím Hai Hòa.
- Chúng mình tới chỗ có lùm cây kia!
Trời lúc ấy đã xế chiều. Ánh nắng tàn úa nhuộm vàng trên các ngọn cây. Những người làm ruộng đã lục tục gọi nhau trở về. Đôi bạn tiến thẳng lại chỗ lùm cây ngồi đợi. Khôi duỗi thẳng hai chân lên cỏ, móc túi lấy gói kẹo cao su.
Hai anh em vừa chia nhau thanh kẹo, chợt có tiếng sột soạt ở sau lưng. Giật mình quay lại, Việt bỗng kêu:
- Ồ, con Vện.
Con Vện nhảy đến bên cạnh Việt ve vẩy đuôi.
Khôi cau mày hỏi:
- Con chó nào thế Việt?
- Việt không biết!
- Thế tại sao cậu lại biết tên nó, và hình như nó cũng có vẻ quen cậu?
- Tớ đặt tên cho nó đấy chứ. Có lẽ nó là một con chó hoang, vì Việt thấy nó lang thang mọi chỗ.
- Nếu vậy, phải đuổi nó đi, không có lát nữa, nó theo bọn mình thì hỏng cả việc!
Việt nhặt hòn đất ném con chó, bảo:
- Thôi, đi chỗ khác đi mày!
Nhưng Vện tránh khỏi, nhặt lấy hòn đất, hí hửng đem lại cho Việt. Khôi buột miệng khen:
- Ồ, con chó khôn nhỉ!
Việt bàn:
- Hay chúng mình cứ cho nó theo. Biết đâu, nó không giúp mình được việc?
- Tùy Việt, nhưng cậu phải canh chừng nó đấy nhé!
Việt gật đầu:
- Được rồi. Nhưng liệu đã đi được chưa?
Khôi nhìn ra cánh đồng thấy vắng hết bóng người, ra dấu bảo Việt sửa soạn:
- Đi thôi Việt! Mặt trời đã lặn rồi.
Cả bọn -- Nghĩa là Khôi, Việt thêm con chó, đến chỗ lò gạch đổ thì trời sập tối. Nhìn trước sau, cả ba chui vào trong, tìm một chỗ thật kín ngồi đợi. Con Vện hình như đoán biết sắp được dự vào một việc gì quan trọng sẽ xảy ra nên nó ngồi yên lặng giữa hai người. Bóng tối dâng lên mỗi lúc một dày đặc. Đôi bạn không còn nhìn thấy mặt nhau. Gió đêm nổi lên, lùa vào trong lò nghe vi vu ghê rợn, hòa lẫn với tiếng côn trùng rỉ rả.
Việt thấy giây phút chờ đợi dài vô tả và bóng tối giữa nơi đồng không quạnh quẽ thật đáng sợ. Tự nhiên, người Việt sởn gai ốc, tim đập mạnh và hơi thở dồn dập.
Khôi thò tay sang nắm lấy tay bạn thì thào:
- Cậu có sợ không?
Việt thì thào đáp lại:
- Không! Nhưng Việt thấy hồi hộp lạ. Liệu "hắn" đã sắp đến chưa?
Khôi nắm chặt thêm tay bạn:
- Cứ bình tĩnh Việt ạ. Khôi đoán nếu hắn có đến, cũng phải quá nửa đêm.
- Ngộ nhỡ đêm nay hắn không đến?
- Thì đến đêm mai hắn cũng phải đến. Việt quên là mảnh giấy mà hai người lạ mặt gài lại đây cho hắn, hẹn đến ngày 27 tháng 7 đấy thôi. Hắn không thể đến sau ngày ấy được.
Im lặng. Một lát sau, Khôi lại nghe Việt thì thào :
- Khôi này !
- Cậu bảo gì ?
- Tớ nghĩ : hay hắn là một tên loạn tặc được đồng bọn tổ chức cho trốn rồi đem đi ?
- Chưa biết ! Nhưng nếu đúng như Việt đoán thì chúng mình lại càng không nên nản chí. Phải vững tâm chờ xem hành động của hắn. Việt có thể chịu đựng như thế này suốt đêm nay không ?
- Được
Khôi đưa thêm cho Việt một thanh kẹo:
- Này, nhai đi cho đỡ sốt ruột. Nếu có mỏi quá tựa lưng vào vách mà nghĩ. Đừng có ngủ đấy nhé.
- Cứ yên chí!
Đêm mỗi lúc một khuya. Con Vện ghếch mõm lên đùi Việt nằm không cựa quậy. Có lẽ nó đã ngủ, Việt đặt một tay lên đầu nó vuốt nhè nhẹ rồi Việt cũng thiếp đi lúc nào không hay.
Bỗng con Vện nhỏm người lên, gừ gừ nghe ngóng. Cử động của nó làm Việt bừng tỉnh. Anh vội ấn nó vào lòng giữ nó nằm im, rồi quờ tay sang lưng bạn. Khôi như cũng vừa mới thiếp đi, giật mình nói qua hơi thở:
- Có tớ đây!
- Cậu có nghe thấy gì không?
- Có, hình như hắn đang đến.
Có tiếng động ở bên ngoài. Một đám gạch vụn bị dẫm lên nghe lạo xạo. Việt thấy toàn thân tê cứng, cổ họng như nghẹt lại, tim đập mạnh tưởng muốn vỡ lồng ngực. Tuy nhiên Việt cũng còn tỉnh táo nhận định rõ bước chân đi. Hắn đã bước vào trong lò. Hắn thở hổn hển như vừa chạy một quãng đường dài. Hắn bật lên một que diêm. Ánh lửa đầu ngọn diêm lóe sáng trong khoảng tối âm u. Bóng hắn hiện ra, cao lớn, chập chờn trên vách. Con Vện run rẩy chỉ muốn nhảy chồm ra, nhưng Việt cố gắng ôm chặt lấy nó. Sát cạnh Việt, lom khom sau đống gạch vụn, Khôi đang chăm chú theo dõi từng cử chỉ của người lạ.
Khoảng khắc kéo dài chỉ vừa bằng một que diêm đốt cháy. Ánh diêm vừa tắt, thì bóng đen cũng đã tìm được mảnh giấy, và bước trở ra ngoài.
Việt bàng hoàng như vừa qua một giấc mộng. Tai Việt chợt nghe có tiếng Khôi dặn khẽ:
- Chờ một lát nữa rồi cậu bò ra ngó chừng xem hắn đi về ngả nào. Tớ khoác ba lô xong sẽ ra ngay.
Việt chờ vài phút, ôm con Vện bò ra. Tới cửa lò, Việt vội thụt trở lại. Bóng người đàn ông chỉ cách Việt có một quãng ngắn.
Dưới vòm trời le lói ánh sao, Việt nom rõ bóng hắn đứng sừng sững giữa cánh đồng như đang tìm phương hướng để đi.
Dưới vòm trời le lói ánh sao, Việt nom rõ bóng hắn đứng sừng sững giữa cánh đồng như đang tìm phương hướng để đi.

Chương 4.
Đứng lưỡng lự một lát, bóng đen bước xuống một bờ ruộng. Vừa lúc ấy, Việt cũng nghe thấy hơi thở của Khôi bên cạnh. Nắm tay bạn, Việt bảo:
- Hắn đi về ngả này.
Khôi quan sát cánh đồng nói:
- Khoan đã, Việt ạ. Chúng mình phải ý tứ kẻo hắn thấy chúng ta theo sau.
Hai anh em chọn một ngả đường khác dài hơn nhưng có thể lẩn vào các bóng cây, mà vẫn theo dõi được người lạ đi tắt trên bờ ruộng. Để đuổi cho kịp, đôi bạn vừa ẩn vừa chạy. Cuộc chạy đuổi như thế trong đêm khuya, dưới một vòm trời lấp lánh ánh sao làm Việt hứng khởi. Cả con Vện cũng vậy, bị nằm ép từ chiều trong lò gạch, giờ được thả ra, nó nhởn nhơ theo chân đôi bạn. Mới đầu nó ngoan ngoãn chạy theo. Nhưng mới được nửa đường như bị kích thích bỗng nhiên nó sủa ầm lên, rồi phóng mình ra giữa cánh đồng.
Khôi, Việt đang mải theo dõi người lạ, không kịp ngăn nó lại.
Dưới đồng, bóng đen đã nghe tiếng con Vện sủa. Hắn đứng lại, ngơ ngác nhìn quanh. Thấy con Vện phóng tới, hắn tưởng nó là một loại chó trinh sát, được thả ra để lùng bắt phạm nhân nên hắn co chân đá hất con vật đi, rồi hốt hoảng bỏ chạy. Một thoáng hắn đã lên tới đường đất, lách mình vào hàng rào.
Khôi, Việt hấp tấp đuổi theo. Chỗ người lạ chui vào là một vườn rau. Dì Hạnh vẫn thường căn dặn hai người không bao giờ nên phạm vào vườn rau của người khác. Mỗi luống rau là bao nhiêu công lao cực nhọc của người làm vườn. Nhưng bóng đen trong lúc chạy trốn đã giẫm bừa lên. Con Vện vẫn đuổi sát đằng sau, cắn nhăng nhẳng. Khôi, Việt chẳng kịp cân nhắc cũng ùa theo.
Có lẽ bóng đen cũng đã thấy Khôi, Việt. Khi vượt khỏi vườn rau, hắn có ngoái cổ lại nhìn.
Việt thấy bóng hắn cao lớn, vạm vỡ, nên hoảng sợ, chùn bước lại. Nhưng Khôi vẫn thản nhiên giục bạn:
- Hắn biết có người đuổi theo rồi Việt ạ. Chúng mình phải chạy nhanh mới kịp.
Khỏi mảnh vườn, qua một khu đất trống, đến một rừng cây, bóng đen mất hút vào. Khôi, Việt lưỡng lự dừng lại ở bên ngoài. Rừng cây đen ngòm và yên lặng.
Con Vện cũng đã im bặt tiếng sủa. Đôi bạn im lìm nghe ngóng, nhưng không nghe thấy tiếng động nào, tuy biết bóng đen cũng chỉ ẩn nấp đâu đây. Cảnh vật như chìm đắm trong đêm khuya đen tối.
Khôi thì thào bảo bạn:
- Chắc hắn nấp một chỗ để rình mình.
Việt hỏi:
- Còn con Vện, nó đâu rồi?
Khôi không trả lời. Đôi bạn nhìn nhau lo sợ. Nếu con Vện không cắn nữa, chắc nó đã bị bóng đen siết chặt, hoặc đã giết chết rồi. Ý nghĩ ấy làm Việt hoảng hốt. Trong phút kinh hoàng, Việt bỗng kêu thất thanh:
- Vện! Vện!
Tiếng kêu của Việt vang dội vào khu rừng. Có tiếng quẫy động trả lời. Con chó tuy không sủa được, nhưng nghe tiếng Việt gọi đã vùng vẫy ở một khoảng gần đây. Quên mọi nguy hiểm, Việt liều lĩnh xông vào chỗ có tiếng động. Trong đêm tối, những thân cây trở nên những bóng hình ma quái, và rừng cây giữa đêm khuya là một nơi đầy hãi hùng kinh dị. Nhưng Việt chỉ nghĩ đến con Vện, cứ tiến bừa. Việt bị vấp vào những cành cây thấp, và chân vướng vào những bụi gai. Chợt có tiếng rít đau đớn của con Vện rồi Việt thấy nó chạy quẩn vào chân. Mừng rỡ, Việt cúi xuống ôm lấy nó, trong lúc anh nghe có tiếng chân chạy huỳnh huỵnh. Có lẽ bóng đen đã để sổng con Vện, và bỏ trốn. Việt không còn nghĩ đến bóng đen nữa. Con Vện đang run rẩy, rên rỉ trong tay Việt. Anh lần trở ra ngồi xuống vệ cỏ, vuốt ve dỗ dành nó.
Khôi đã đi đâu mất dạng. Con Vện hồi lại rất chóng, đã truồi xuống ve vẩy đuôi bên cạnh Việt.
Lúc ấy Việt lại băn khoăn về Khôi. Việt chắc Khôi đang tiếp tục theo dõi tên tù. Khôi không bao giờ chùn bước khi đã theo đuổi một việc gì.
Ngồi một mình với con Vện ở ven rừng, Việt thấy hồi hộp như khi ngồi trong lò gạch, cố gắng chờ đợi và ước mong Khôi sớm trở về.
Khá lâu Việt mới nghe tiếng Khôi gọi:
- Việt, Việt, cậu ở đâu thế?
Việt bật đứng lên, mừng rỡ:
- Đây, tớ đây cơ!
Trong bóng tối Việt lờ mờ thấy Khôi loạng choạng tiến lại cạnh mình rồi lả người nằm vật xuống cỏ, hổn hển nói:
- Tớ theo hắn không được, hắn "chuồn" mất rồi! Cậu có làm sao không?
- Không, tớ cứu được con Vện. Tí nữa thì nó bị hắn bóp chết.
Khôi càu nhàu:
- Tức thật! Tớ đã theo sát được hắn và đánh nhau với hắn.
- Thật à!
- Ừ! Khi cậu sục vào tìm con Vện, tớ vòng lại mé bên kia rừng và bắt gặp hắn chạy ra. Lúc hắn qua chỗ tớ nấp, sẵn có gậy trong tay, tớ phang hắn một cái. Hắn loạng choạng, nhưng cũng phản ứng mau lẹ, hắn vụt lại tớ một gậy vào trán.
- Đau không?
- Kha khá! Bị một gậy vào đầu, tớ choáng váng ngã xuống đất, nên không rõ hắn chạy đâu mất.
Việt sờ lên trán Khôi, thấy một cục u lớn. Anh hổ thẹn bảo bạn:
- Đáng lẽ Việt phải ở bên cạnh Khôi mới phải. Có hai người chắc hắn không làm gì được.
Khôi đáp:
- Không sao, Việt cần phải cứu con Vện.
Nhìn lên nền trời, lúc ấy ánh sao đã tắt, Khôi tiếp:
- Tớ mệt quá, muốn ngủ một giấc. Trời cũng sáng rồi đấy.
- Tớ cũng thế, vừa mệt, vừa đói. Con Vện chắc cũng vậy.
Khôi đứng lên:
- Nếu vậy ta đi thôi.
Việt đứng lên theo:
- Nhưng còn tên tù?
- Ồ, cứ yên chí. Chúng mình hãy kiếm chỗ nằm nghỉ một lúc chờ sáng, rồi kiếm thức gì lót bụng cái đã. Xong xuôi ta mới đi lùng hắn ở bến BA CÂY, Việt quên là chúng mình đã biết chỗ hắn tới rồi à!
Đôi bạn ra khỏi rừng cây, đi vào một con đường đất nhỏ.
Khôi nói:
- Con đường nhó này chắc sẽ đưa chúng mình đến một chỗ nào đó. Nghỉ ngơi ăn uống xong, chúng ta tìm lối tắt đến bến BA CÂY.
Con đường ngoằn ngèo qua một cánh đồng. Chân trời bắt đầu hửng sáng thì đôi bạn đến trước một vườn cây rậm rạp. Vẫn theo con đường nhỏ, Khôi, Việt tiến vào và thấy có túp lều xinh xắn ẩn dưới một vòm cây. Trong lều không có người nhưng có bàn ghế trang hoàng đẹp đẽ.
Đôi bạn nhìn nhau bỡ ngỡ. Khôi nói:
- Lạ nhỉ! Một túp lều không có người ở mà đẹp quá xá.
Việt bàn:
- Cứ thử vào xem?
Bên trong tất cả đều sạnh sẽ, ngăn nắp. Nền đất lót bằng gạch hoa hẳn hoi, và chung quanh vách gỗ, sơn màu xanh dịu, có treo cả tranh ảnh. Lều rộng bằng một căn phòng nhỏ kê vỏn vẹn bộ bàn ghế đan bằng mây, bé bỏng như một bộ đồ chơi.
Khôi kéo một chiếc ghế ngồi, gật gù:
- Xinh thật.
Việt cười khoái trá:
- Tiện cho tụi mình ghê, chắc túp lều này dựng lên cho trẻ con chơi.
Khôi ngả ba lô xuống nền gạch, bảo bạn:
- Thôi, nằm xuống ngủ một giấc đã. Mọi việc rồi sẽ hay.
Và, chẳng mấy chốc đôi bạn đã ngáy khò khò...

Chương 5
Tiếng sủa của con Vện làm Việt giựt mình tỉnh giấc. Trời đã sáng tỏ. Ánh nắng chiếu qua cửa số hắt vào tận chỗ đôi bạn nằm. Khôi và Việt nhỏm dậy cùng một trật, hấp him cặp mắt nhìn quanh, chưa nhớ ra được mình đã nằm ngủ ở nơi nào. Con Vện đứng rình gần cửa đang gầm gừ, vểnh tai nghe ngóng... Có tiếng chân đang bước lại gần.
Đôi bạn nhìn nhau. lấm lét tìm nơi định trốn, nhưng túp lều nhỏ bé chỉ có một lối ra vào duy nhất. Còn đang lúng túng thì tiếng chân đã tới gần. Cánh cửa đột mở... rồi một giọng kinh ngạc thốt lên:
- Ủa!
Trên ngưỡng cửa hiện ra một cô gái, tròn trĩnh, tóc buộc cao sau ót, trên tay bồng con mèo tam thể, đang mở to mắt nhìn Khôi, Việt.
- Các anh làm gì ở đây?
Khôi, Việt cũng bỡ ngỡ nhìn lại chưa biết trả lời ra sao. Giọng nói của cô gái có vẻ giận dữ nhưng dáng điệu của cô ta thì lại không làm đôi bạn hoảng sợ chút nào. Cô bé hằn học nói:
- Đây là nhà riêng của tôi, hẳn các anh cũng thấy tấm biển đề bên ngoài "cấm vào" chứ!
Khôi ấp úng đáp:
- Tại trời tối quá nên chúng tôi không thấy biển cấm.
- Mặc dầu, đó không phải là một cái cớ để tự do vào nhà người ta. Các anh ra khỏi đây mau!
Giữa lúc ấy, con Vện đã thấy con mèo tam thể của cô gái. Nó nhảy lên sủa gâu gâu. Con mèo gừ lại lông dựng đứng, và đưa chân ra định cào, Việt vội nắm lấy con Vện.
Cô gái nói:
- Các anh đem ngay cả con chó này đi. Nếu không tôi thả Mãnh Hổ của tôi ra, nó sẽ cào cho chó các anh sứt mõm bây giờ.
Việt tức quá, đáp:
- Cứ thử thả ra coi!
Cô gái bình tĩnh bảo:
- Con mèo của tôi dữ lắm.
Và vuốt ve nó cô bé âu yếm nói:
- Có phải thế không, Mãnh Hổ?
Hình như cô bé đã quên vừa đuổi hai anh con trai ra cửa. Cô tò mò nhìn Khôi, Việt:
- Con chó của các anh tên gì?
Việt đáp:
- Nó tên Vện.
Cô bé bĩu môi:
- Vện ! Tên gì nghe kỳ cục!
- Cũng không kỳ cục bằng gọi con mèo là Mãnh Hổ.
Không phản kháng lại lời Việt, cô bé nhìn Khôi hỏi:
- Các anh tới đây làm gì?
Khôi phân trần:
- Chúng tôi qua đây, mệt quá, nên vào ngủ nhờ một lúc. Chúng tôi không xâm phạm gì tới đồ đạc trong nhà, chỉ nằm ngủ dưới đất.
Được thể, Khôi tiếp:
- Cô nghĩ coi, chúng tôi đuổi bắt, theo dõi suốt đêm một tên tù vượt ngục.
Im lặng suy nghĩ, rồi cô bé ngửng lên:
- Nói dóc!
Khôi quả quyết:
- Thật mà!
- Các anh chỉ có tài nói láo, vì mã các anh mà dám đuổi bắt ai! Các anh chỉ là hai cậu học sinh...
Thấy Khôi, Việt đỏ mặt - có lẽ vì tức tối - cô bé cười tiếp:
- Các anh đừng bày đặt chuyện lố bịch. Cứ nom các anh cũng đủ biết các anh chỉ là hai học sinh trốn nhà đi chơi. Đúng thế không?
Khôi, Việt lại đứng im. Trốn nhà thì không. Nhưng nói dối dì Hạnh thì có. Nên cả hai anh em đều ngẩn mặt bối rối. Cô bé nói giọng chắc nịch:
- Thế rồi các anh tự do vào đây nằm ngủ, không có phép của chủ nhà. Các anh còn bịa ra câu chuyện đi theo dõi một tên tù vượt ngục.
Việt cải chính:
- Chúng tôi chưa rõ hắn là ai, nhưng có thể là một tên gian manh lợi hại vì hắn đã đến chỗ lò gạch để lấy mảnh giấy bí mật của đồng bọn để lại.
Lần đầu tiên cô bé có vẻ tin lời. Có lẽ dáng điệu Việt nom đáng tin cậy hơn Khôi. Cô bé ngồi xuống ghế, ôm con mèo trên lòng:
- Các anh thử thuật lại đầu đuôi câu chuyện coi có đáng tin không đã.
Việt liền thuật lại từ lúc về nghỉ hè ở nhà dì Hạnh, đang buồn không có bạn thì Khôi trên Sài Gòn xuống chơi, rồi nói dối dì Hạnh xin đi cắm trại để ra rình ngoài lò gạch đổ. Tiếp đó Khôi tả lại cuộc theo dõi người lạ như thế nào, cuộc đụng độ giữa anh với hắn mà cục u ở trên trán còn làm chứng rõ rệt.
Khi đôi bạn thuật xong, cô bé vui vẻ dịu ngọt hơn trước. Tuy không nói ra, song đã có vẻ tin là câu chuyện có thực.
Được biết tên của đôi bạn, người tên Khôi, người tên Việt, cô cũng niềm nở cho họ biết tên mình là Bạch Liên, con một đại điền chủ giàu có nhất vùng.
Bạch Liên nói:
- Khu đất có chiếc lò gạch đổ mà các anh nói đó có thể là một phần đất của ba tôi vì ba tôi có rất nhiều tài sản ở vùng này.
Khôi lúc ấy đã lấy lại được tự chủ, ranh mãnh hỏi:
- Và chắc cũng có nhiều thức ăn nữa chứ.
Bạch Liên mở to đôi mắt:
- Có chứ, tôi có bao giờ bị thiếu ăn đâu!
Khôi cười tiếp:
- Cô không thiếu, nhưng hiện thời chúng tôi thiếu. Vì mải theo dõi người lạ, nên chúng tôi đã nhịn đói cả hai ngày nay rồi.
Điều ấy Khôi có hơi nói láo thật. Nhưng Bạch Liên lại tin ngay. Cô đứng lên nói:
- Chà, như vậy chịu sao nổi! Để Liên chạy về nhà kiếm có thức ăn gì ăn sẽ đem ra đây liền. Liên sẽ đem cả thuốc cho Khôi đắp lên trán nữa. Trong khi chờ đợi, các anh không được ra khỏi đây. Các anh có thể yên chí không sợ bị ai thấy, vì chẳng ai dám vào đây, nếu tôi chưa cho phép!
Nói đoạn, Bạch Liên ôm mèo rời khỏi túp lều.
Đôi bạn nháy nhau mỉm cười, Khôi nói:
- Bồ coi, mình gặp may quá xá!
Việt cũng gật đầu:
- Bạch Liên khá thật, không đáng ghét như nhiều cô gái khác.

***
Chừng nửa giờ sau Bạch Liên xách tới một lẵng thức ăn, vui vẻ nói:
- Liên về nhà, xin chị bếp được những thức này.
Cô bé lôi trong lẵng ra một đùi thịt gà, mấy đôi lạp xưởng, vài ổ bánh mì, một ít trái cây tươi và ba chai nước ngọt. Vừa bày lên bàn Bạch Liên vừa liến láu nói:
- Liên định xin thêm ít đồ hộp nữa nhưng sợ nặng quá mang không nổi. Liệu chừng này các anh ăn đủ chưa?
Việt nhìn các món ăn với đôi mắt háu đói gật đầu đáp:
- Cả Liên ăn nữa cũng vừa!
Liên không từ chối, ngồi xuống ghế cùng ăn. Bữa ăn vui vẻ như một cuộc cắm trại thật.
Ăn xong, Khôi trở lại vấn đề:
- Nào bây giờ chúng mình bàn tính xem làm cách nào đến được bến Ba Cây.
Bạch Liên nói:
- Dễ lắm. Các anh cứ việc theo con đường đất này thẳng lên con đường đá, rẽ qua tay phải, rồi cứ thế đi thẳng sẽ tới.
- Có xa lắm không?
- Cũng khá xa. Nếu đi xe hơi thì chẳng mấy chốc. Nhưng lấy đâu ra xe bây giờ. Với lại ai lái cho mà đi. Anh Khôi đã biết lái xe chưa?
Khôi hít không khí, cười ngượng:
- Tôi chưa lái xe hơi bao giờ. Nhưng nếu có, chắc lái cũng được!
Bạch Liên cười khúc khích:
- Lại dóc rồi! Các anh chưa đến tuổi lái xe hơi nhé!
Việt thở dài:
- Uổng quá, giá Việt đem theo xe gắn máy thì hay biết mấy! Đành lại cuốc bộ vậy thôi.
Khôi tiếp:
- Cuốc bộ cũng được. Chúng ta cần phải có mặt ở bến Ba Cây khi tên tù vượt ngục xuống tàu Hồng Hải.
Bạch Liên hỏi:
- Rồi các anh làm gì?
- Chúng tôi sẽ theo hắn xuống tàu, báo cho thủy thủ trên tàu biết để bắt giữ hắn lại, và đem nộp cho nhà chức trách.
Bạch Liên đưa ra một nhận xét:
- Nếu vậy, chính các anh sẽ bị họ bắt giữ, có khi họ sẽ ném các anh xuống biển cũng nên, vì con tàu chở hắn đi phải được đồng bọn xếp đặt trước rồi.
Khôi đỏ mặt ngồi im. Anh đã quên mất điểm đó. Bạch Liên tiếp:
- Chỉ còn một cách, theo ý Liên, là khi thấy hắn xuống tàu rồi thì các anh phi báo ngay cho cảnh sát địa phương chận bắt hắn lại.
Khôi lắc đầu:
- Không chắc gì họ sẽ tin mình!
- Đúng thế. Họ sẽ không tin các anh vì câu chuyện của các anh khó tin quá.
Suy nghĩ một chặp, Việt bàn:
- Giả như khi hắn xuống tàu rồi, chiếc Hồng Hải rời bến ra đến cửa biển, mà chúng ta gặp được một tàu tuần tiễu của Hải quân thì hay biết mấy! Nếu được chúng ta báo cho họ biết chắc họ sẽ chận lại ngay...
Khôi hớn hở cướp lời:
- Ý kiến hay! Khi ấy chúng ta sẽ đánh điện cho họ biết...
Bạch Liên hỏi:
- Các anh đánh điện bằng cách nào?
Khôi gãi đầu bối rối:
- Ừ nhỉ! Để nghĩ lại coi đã...
Bạch Liên tiếp:
- Không cần nghĩ ngợi gì hết, Liên cũng có cách đây rồi. Cậu của Liên là một sĩ quan cao cấp trong Hải quân. Khi các anh đi rồi, Liên sẽ nói lại với ba, xin ba đưa Liên về Sài Gòn tìm cậu nhờ cậu can thiệp.
- Nhỡ ba và cậu Liên không tin?
- Có thể các ông cho là chuyện bày đặt của trẻ con. Nhưng Liên sẽ cố nài nỉ cậu. Dù sao cũng phải cứu hai anh, bởi vì... bề nào các anh cũng đã mạo hiểm xuống chiếc tàu bí mật kia rồi.
Việt nhìn Bạch Liên với đôi mắt mến phục. Từ trước đến nay Việt chưa gặp người bạn gái nào thông minh đáng mến như thế.
Kế hoạch đã được ấn định thế rồi, Khôi, Việt liền sửa soạn lên đường. Bạch Liên cũng chạy về nhà, đem ra ít đồ hộp xếp vào ba lô của Khôi, và móc túi lấy thêm ít chục bạc lẻ, bảo:
- Các anh giữ lấy mà dùng. Liên ở nhà không cần tiền, nhưng các anh đi đường chắc phải cần đến.
Bạch Liên tiễn đôi bạn một quãng đường ngắn. Trước khi trở về nhà, cô bé còn đứng lại giơ tay vẫy chào tạm biệt, trong lúc Khôi, Việt tiến sâu trên đường mạo hiểm.
Bạch Liên tiễn đôi bạn 1 quãng đường ngắn. Trước khi trở về nhà, cô bé còn đứng lại giơ tay vẫy chào tạm biệt, trong lúc Khôi, Việt tiến sâu trên đường mạo hiểm

Chương 6
Gần chiều, Khôi, Việt mới tới bến Ba Cây. Theo lời chỉ dẫn của Bạch Liên, đôi bạn cứ theo con đường đá tiến bước.
Trời nắng chói chang, ánh lửa mặt trời thiêu nóng con đường dài xa tắp. Con Vện tung tăng chạy trước, sục sạo vào các bụi cây ven đường đùa rỡn; thỉnh thoảng nó đứng lại, sủa bâng quơ bóng một nông phu đương lom khom dưới ruộng hoặc nghếch mõm nhìn một chiếc xe chất đầy hàng hóa, tung bụi vượt qua.
Không ai để ý đến Khôi, Việt. Dưới con mắt của những người chất phác nơi thôn dã đang cặm cụi với công việc đồng áng, đôi bạn chỉ là hai cậu học sinh đi cắm trại trong dịp nghỉ hè.
Hai anh em lầm lũi tiến bước. Tuy mỏi mệt, mồ hôi ra ướt đẫm áo, nhưng ý định theo đuổi người lạ làm Khôi, Việt thêm hăng hái. Nhìn bóng mình đổ dài trên mặt đường, rồi nhạt dần đi theo ánh nắng mỗi lúc một tàn úa, Khôi Việt càng quyết tâm mong ngóng tới địa điểm đã định. Xẩm chiều cả hai đều khoan khoái thấy bến Ba Cây hiện ra trước mắt.
Quang cảnh ở đây vừa là một làng chài lưới vừa là một bến chợ với dãy phố khá sầm uất.
Lúc Khôi, Việt tới nơi, cảnh nhộn nhịp của bến Ba Cây đã tàn theo ánh hoàng hôn. Chợ trên bến đã vắng người. Trong chợ chỉ còn lại ngổn ngang những chiếc sọt đựng trái cây, những chiếc sảo dính đầy vẩy cá. Mùi tanh tưởi xông lên, hòa lẫn với mùi thơm của trái ngọt trong vùng đem tới, chờ bốc xuống thuyền để vận tải đi nơi khác. Dưới bến mặt nước phản chiếu nền trời ửng tím, soi bóng những con thuyền đậu san sát ven bờ.
Cảnh chợ chiều hôm, cảnh sông nước với những con thuyền soi bóng trong ánh tà dương làm Việt nhớ đến những đoạn văn, những hình ảnh đẹp trong sách vở. Đứng trước cảnh thực, đẹp như một bức tranh vẻ, Việt đâm ra mơ mộng, muốn nổi máu giang hồ. Anh ước ao sau này sẽ hiến mình cho Hải Quân để thoả chí tang bồng hồ thỉ.
Khôi không bận tâm đến cảnh vật chung quanh, cũng không có cảm xúc như Việt. Anh băn khoăn suy tính tìm phương cách hành động.
Nhìn dãy thuyền đậu dưới bến, Khôi thầm bảo Việt:
- Trước hết chúng ta phải xem ở đây có chiếc tàu hay chiếc thuyền nào mang tên Hồng Hải không đã.
Việt trở lại thực tại, nhớ đến mục đích hai anh em đang theo đuổi, hồi hộp nhìn quanh. Nhưng Việt không tìm thấy chiếc tàu, thuyền nào mang tên Hồng Hải cả.

Xa xa về phía cuối bến sông, một người dân chài đang ngồi vá lưới. Khôi bảo bạn:
- Cậu chờ tớ ở đây nhé, để tớ lại đằng kia hỏi thăm xem sao.
Rồi lấy dáng điệu tự nhiên, Khôi lững thững đi xuôi về cuối bến, trong lúc Việt ngồi nghỉ với con Vện trên một cuộn dây thừng.
Sau một hồi trò chuyện với ông chài vá lưới, Khôi trở lại, chán nản bảo Việt:
- Tớ vừa được tin chiếc Hồng Hải không còn ở đây nữa. Nó đã rời bến cách đây hai ngày! Không ai biết nó đi đâu cả.
Việt ngẩng mặt nhìn bạn. Khôi hỏi:
- Việt có nhớ chắc hôm nay là ngày mấy không?
- Thì đúng là ngày 27, ngày đã ghi trên mảnh giấy!
Đôi bạn thân nhìn nhau. Mặt trời đã chìm khuất phía chân mây, chỉ còn ửng lên một vệt sáng vàng yếu ớt. Ngày 27 sắp tàn. Khôi gãi đầu lẩm bẩm:
- Hỏng rồi, Việt ạ! Thế là bọn mình lại lỡ tàu lần nữa.
Buồn bã, đôi bạn dắt nhau lang thang vào trong phố. Cả hai đều chán nản, và cùng chua chát nhận thấy nỗi khó khăn khi vào việc.
Khôi bàn:
- Chúng mình nên dạo quanh phố một lát. Đứng thơ thẩn ở đây sợ người ta để ý.
Việt cảm thấy mỏi mệt. Con Vện cũng vậy. Lưỡi nó thè dài, ngồi thở hồng hộc. Việt phải tìm một sợi dây buộc vào cổ nó lôi đi.
Qua dãy phố duy nhất day mặt ra chợ, loáng thoáng có vài cửa hàng tạp hoá còn mở cửa, đôi bạn dắt nhau vào con đường hẹp tìm chỗ ngồi nghỉ.
Khôi bàn :
- Chúng ta ngồi đây đợi đến tối sẽ trở ra bến. Biết đâu chiếc Hồng Hải không lợi dụng đêm tối mới quay lại để đón tên tù?
Việt nêu một ý kiến:
- Nhưng nhỡ tên tù không ra thẳng bến vì sợ lộ liễu quá thì sao? Có thể khi tới đây, hắn nhận được mật tin đổi địa điểm khác rồi. Như thế chúng ta còn biết đâu dò tìm nữa!
Khôi thở dài:
- Thì đành chịu! Chúng mình gặp vận xui, còn biết làm sao bây giờ.
Ngồi chờ suốt ruột, Khôi lại kéo tay bạn đứng lên.
- Chúng mình đi chơi một lát nữa, xem tình hình ở đây ra sao đi.
Việt uể oải theo bạn. Con Vện cũng miễn cưỡng vì bị lôi cổ kéo đi. Bến Ba Cây không rộng lớn lắm, lèo tèo có một phố chính gần chợ, với vài ba ngõ ngang thưa thớt ít ngôi nhà của các gia đình chài lưới. Đêm đã xuống. Đường phố vắng teo không một bóng người.
Mảnh trăng thượng tuần như một chiếc lưỡi liềm treo lơ lửng trên nền trời, giãi sáng lờ mờ trên dãy phố buồn hiu.
Việt bàn:
- Có lẽ chúng mình nên trở ra bến tìm một chỗ nào thật kín ngồi đợi thì hơn. Mỗi đứa chúng mình chia nhau ngủ một lúc.
Vừa dứt lời, chợt nghe con Vện gầm gừ kéo mạnh sợi dây trong tay Việt. Ngạc nhiên về thái độ của con vật, Việt cố gắng giữ nó lại. Nhưng Việt cũng vừa trông thấy một bóng người thấp thoáng phía trước mặt. Dưới ánh trăng Việt nhận ra hình dáng vạm vỡ, cao lớn của người lạ. Anh nắm vội tay Khôi:
- Kìa hắn đó.
- Ừ, có lẽ đúng hắn rồi.
Bóng người không thấy Khôi, Việt. Hắn rảo bước vào một con đường hẹp. Bước chân của hắn rất êm, nhẹ nhành không gây tiếng động.
Đôi bạn không bỏ lỡ cơ hội. Con Vện đã nhận ra người lạ, kéo mạnh dây đi trước.
Việt cũng quên cả mỏi mệt. Còn Khôi, anh đúng là một thợ săn đang theo đuổi con mồi. Cả hai nhón gót theo sát bóng lạ, vừa lẩn mình vào các bóng cây. Không bao lâu bến BA CÂY đã khuất phía sau lưng. Khôi, Việt theo dõi người lạ tiến sâu vào một con đường mới gập ghềnh hiểm trở. Con đường nhỏ quanh co uốn khúc khi lên cồn, khi xuống bãi, để rồi tới một đường hẻm khác tun hút giữa hai vách núi.
Mảnh trăng lưỡi liền đã lên cao. Xa xa có tiếng sóng vỗ rì rào rồi một vùng nước long lanh ánh bạc hiện ra.
Bóng lạ vẫn rảo bước. Thỉnh thoảng hắn ngừng lại nghe ngóng, và nhớn nhác nhìn quanh. Khôi luôn luôn dè chừng, hễ thấy bóng đen dừng bước anh lại thụt lui ngăn Việt và con Vện đứng lại. Những lúc ấy tim Khôi đập mạnh. Ý nghĩ bị người lạ bắt gặp và phải xung đột với hắn giữa cảnh hoang liêu trong đêm tối làm Khôi hoảng sợ.
Một lần nữa bóng đen lại ngừng bước, đứng sững giữa đường như đang tìm phương hướng. Hắn tiến lên vài bước, trèo qua một mô đất rồi biến mất dạng. Đứng nép bên vệ đường, lưng áp vào vách núi, Khôi, Việt lắng chờ xem hắn định làm gì. Nhưng không thấy hắn trở lại. Chỉ nghe có tiếng chân trượt dốc, chạy huỳnh huỵnh một quãng ngắn rồi im. Văng vẳng chỉ nghe có tiếng sóng vỗ, mơ hồ ở tận đằng xa. Khôi dè dặt bò lên:
- Chắc hắn tìm được lối xa sông rồi. Chúng mình thử trèo lên chỗ hắn vừa mất hút xem sao.
Việt làm theo lời bạn. Mô đất giúp đôi bạn vượt sang một triền núi dốc. Đứng ở đây có thể ngó thấy một giải nước mênh mông lượn khúc ở dưới. Chân núi như bị dòng nước xén thành vách thẳng đứng.
Khôi nói:
- Có lẽ đây là khúc sông đổ ra biển Việt ạ.
Việt thì thào đáp lại:
- Ừ. Nhưng hắn đâu rồi?
Không thấy bóng người lạ đâu cả. Cũng không nghe tiếng động khả nghi nào. Việt có cảm tưởng như bóng hắn bỗng dưng tan biến dưới ánh trăng. Khôi nằm ép người xuống trườn đi một quãng, Việt nắm cổ con Vện trườn theo sau. Cũng may con Vện không còn hơi sức để cắn nữa. Hoặc có lẽ nó cũng hiểu không nên gây tiếng động trong trường hợp này. Trườn người xuống núi là một việc hết sức khó khăn trong đêm tối, và còn nguy hiểm nữa. Việt nắm chân Khôi kéo lại:
- Không thể mạo hiểm cách này được Khôi ạ. Nhỡ lăn cổ xuống vực thì chết mất xác!
Khôi ngỏng đầu quan sát:
- Nếu vậy chỉ còn một cách: trở xuống con đường cũ, rồi đi vòng đến mé bờ sông. Như vậy chắc xa lắm, và có thể chúng ta bị lạc mất hướng của hắn.
Việt lẩm bẩm:
- Lạ thật, hắn biến đi đằng nào mà nhanh thế. Sườn núi không có bụi cây mỏm đá nào, không biết hắn ẩn vào đâu?
Đôi bạn lồm cồm đứng lên, chính giữa lúc ấy bỗng xảy ra một sự lạ. Khi Việt vừa buông tay nắm cổ con Vện, anh bỗng bị nó lôi mạnh suýt ngã chúi người đi. Việt vội gò dây kéo lại. Sợi dây căng thẳng lôi con Vện ở dưới một hố sâu lên. Lấy làm lạ, Việt tiến lại xem xét chỗ con Vện vừa nhoài xuống và thốt kêu:
- Ồ!
Khôi hỏi:
- Gì thế Việt?
- Có một lối đi, đào trũng vào sườn núi Khôi ạ. Hình như hồi nãy hắn biến vào con đường này.
Khôi trở lại gần bạn.
- Đúng rồi! Thế mà từ nãy tới giờ chúng mình không tìm ra nhỉ. Để tớ dò xem lối xuống ở khoảng nào.
Cầm thõng chiếc gậy, Khôi lê ngược lên phía trên, Việt nhìn theo thấy bóng bạn mất hút vào khoảng trũng đen ngòm ngoằn ngoèo như một xác rắn khổng lồ nằm theo sườn núi. Anh hoảng hốt gọi:
- Khôi! Khôi!
Có tiếng Khôi trả lời:
- Tớ đây! Tìm được lối xuống rồi! Cậu lại phía đằng này đi.
Việt lần theo tiếng nói của bạn. Lối xuống có từng nấc thoai thoải chỉ vừa một người đi. Khôi cầm gậy để dò đường đi trước. Việt kéo con Vện theo sau. Hình như đây là một vết sụt của núi, nẻ ra thành kẽ sâu, hoặc có lẽ là do dòng nước chảy xói về mùa mưa đào lõm xuống. Lợi dụng vết trũng thiên nhiên này, người ta đã biến nó thành con đường mòn, sửa lại từng quãng có bậc xuống cho dễ đi. Việt có cảm tưởng như đang đi sâu vào một đường hầm lộ thiên, có chỗ ngửng nhìn lên thấy lờ mờ ánh trăng, vạch một vệt sáng dài trên đầu, nhưng phía dưới chỗ mình đang đi, thì đen tối thăm thẳm đến kinh sợ. Nhờ chiếc gậy, Khôi chập chững dẫn đầu. Dần dần đôi bạn tới một khoảng đường trống trải hơn. Việt tưởng như mình vừa chui từ lòng đất ra và điều làm Việt sửng sốt, anh thấy xa xa hình như có le lói ánh đèn.
Việt nhìn sững ánh đèn chập chờn đó, và chỉ cho bạn thấy. Khôi gật đầu:
- Cậu tinh mắt đấy. Nếu có ánh đèn chắc phải có gì ở chỗ ấy. Chúng mình đến thẳng đó coi.
Ánh đèn mỗi lúc một thêm rõ, chiếu từ trong một căn nhà dựa lưng bên triền núi. Đôi bạn thận trọng bò sát lại gần. Ghé mắt nhìn vào thấy bên trong có một người đàn ông đang ngồi trên chiếc thùng gỗ, lặng lẽ hút thuốc.

Chương 7
Mới thoạt trông, Khôi, Việt cũng đã nhận ra ngay người đàn ông đó không phải là người lạ mình đang theo dõi. Hắn ngồi im lặng, đôi mắt ngó mông ra ngoài, mẩu thuốc lá phì phèo trên miệng.
Từ chỗ nấp, Việt nghe như có tiếng nước vỗ róc rách, rì rào ở đâu đây. Lắng tai nghe, anh hiểu rằng vị trí các anh đang ẩn ở ngay trên mé sông. Anh toan nói cho bạn biết điều vừa nhận xét thì Khôi đã ghé vào tai anh thì thầm.
- Chắc hẳn người này đang chờ ai đó. Chúng mình hãy rình xem. Nhưng nếu cậu có mệt, cứ chợp ngủ đi một lát, để tớ canh chừng cho.
Việt nghe lời bạn, ngả đầu trên lưng con Vện lúc ấy cũng đang nằm phục vị bên cạnh. Đôi mi mắt chĩu nặng của Việt khép lại và anh thiếp đi trong một giấc mộng kỳ ảo.
Việt thấy mình đang nhảy qua các vườn rau, đuổi bắt tên tù vượt ngục. Nhưng khi tóm được hắn thì lại hóa ra thím Hai Hòa. Thím lắc mạnh Việt và mắng: "Quân ăn hại, mày làm nát hết vườn rau của tao."
Giữa lúc ấy chẳng hiểu Bạch Liên ở đâu hiện ra phản kháng: "Đây là vườn rau của tôi, không phải của thím. Anh Việt có thể qua lại tự do, muốn làm gì cũng được, chỉ có anh Khôi không được phép."
Khôi cười. Hắn cưỡi trên một chiếc xe mô tô, mắt đeo cặp kính đen to tướng ra dấu gọi Việt. Việt nhảy lên ngồi đằng sau, chiếc xe phóng như bay đuổi gấp tên tù đang ngồi trên xe hơi. Đuổi gần tới nơi, bỗng Việt tuột tay ngã nhào đầu xuống đất...
Việt tỉnh dậy giữa lúc con Vện nhỏm người lên làm đầu anh trượt xuống. Anh nghe phảng phất tiếng Khôi gọi:
- Dậy đi bồ. Có động ở phía dưới rồi đấy.
Việt nhỏm người lên. Con Vện đã đứng thẳng chân, nghe ngóng.
Phía dưới mé sông có tiếng lao xao của nhiều người vọng lên thật. Âm hưởng của tiếng nói hòa lẫn vào tiếng nước vỗ óc ách không nghe ra lời nào rõ rệt.
Khôi lắng tai, rồi lẩm bẩm:
- Họ đang bảo nhau chờ nước rút sẽ nhổ neo.
Việt hỏi:
- Chừng nào nước rút?
- Không biết. Nhưng chắc là khi trăng lặn. Họ sẽ lợi dụng trời tối để ra biển.
Ngẩng nhìn vào trong nhà, Khôi tiếp:
- Người đàn ông ngồi hút thuốc không còn đó nữa. Có lẽ hắn đã xuống gặp bọn kia.
- Thế còn... tên tù ?
- À, một là hắn còn ẩn trong nhà này, chờ bọn kia lên, hoặc cũng đã xuống dưới ấy rồi.
- Khôi tính sao bây giờ ?
- Để tớ bò vào, coi thử tình hình đã.
Bóng Khôi vừa nhô lên, Việt bỗng thấy cổ họng mình nghẹn cứng. Anh lo lắng nhìn bạn tiến sát tới căn nhà, ngó qua kẽ vách. Giây lát Khôi lại bò ra:
- Trong nhà không có người. Chỉ thấy có rất nhiều kiện hàng đã xếp sẵn.
- Chắc là những hàng lậu, hay đây là một trạm bí mật để giao hàng ?
- Có thể lắm, Khôi đoán bọn kia thế nào cũng trở lên để khuân vác hàng xuống.
Việt im lặng. Trong bóng tối Việt không nom rõ nét mặt của Khôi nhưng anh vẫn yên tâm chờ đợi sự quyết định của bạn.
Khôi thì thào:
- Tạm thời chúng mình cứ nấp kỹ ở đây, chờ bọn kia lên khuân hàng, lúc ấy ta sẽ lẻn xuống dưới tàu.
- Chiếc Hồng Hải ?
- Chứ còn gì nữa! Nhưng im, hình như họ đã trở lên rồi kìa.
Quả nhiên có tiếng bước chân rậm rịch, và tiếng cười nói.
Việt nghe rõ giọng lè nhè của một người:
- Có gì cho anh em uống với không ?
Và một giọng khác trả lời:
- Có đủ la-de, ba-xi-đế đây. Cứ yên trí chuyển hàng đi đã. Rồi tha hồ uống.
Việt chỉ mong cho lúc ấy họ quây lại uống thật nhiều rượu rồi say mèm cả ra đó. Như vậy sự việc sẽ kết thúc một cách dễ dàng hơn. Nhưng bỗng Việt bị một khuỷu tay thích vào sườn, và tiếng Khôi thoảng qua tai:
- Đi thôi, Việt !
Hai anh em lủi nhanh, vượt khỏi vị trí đang nấp. Khoảng trước căn nhà có một sân trống dốc thoai thoải tới mé sông.
Khi tiến qua khoảng sân trống ấy Việt có ý tưởng so sánh nó với một cái bến nhỏ, một thứ nhà ở ven sông không ai để ý tới, nhưng thuyền bè có thể cập bến được.
Mảnh trăng lưỡi liềm đã lặn. Trời tối như bưng lấy mắt. Ánh đèn trong nhà chiếu qua khuôn cửa hắt một vệt sáng dài ra tận ngoài sân.
Cuối vệt sáng đó lờ mờ nổi bóng một con tàu kiểu chở hàng đậu sừng sững ở ven bờ.
Khôi ghé sát tai bạn nói nhỏ:
- Tớ cam đoan với cậu, kia là chiếc tàu Hồng Hải.
Dù không trông thấy rõ vì trời tối, Việt cũng tin chắc như Khôi. Cậu bỗng thấy phấn khởi, hãnh diện vì cuộc theo dõi đã tới đích. Thực không khác gì một cuộc truy tầm quân gian mà Khôi và Việt là những tay thám tử đầy quả cảm. Nếu Bạch Liên biết được những giây phút hồi hộp như thế này, hẳn cô bé phải phục lắm. Mãi nghĩ bâng quơ, Việt quên cả để ý đến những tiếng động, tiếng nói cười trong nhà vọng ra. Anh bỗng giật mình thấy Khôi kéo mình nấp sau một mô đất. Ở đó nhìn ra, Việt thấy có bóng người từ trong nhà hấp tấp đi xuống. Tới bờ sông, hắn gọi xuống tàu. Một bóng người ở dưới ấy nhô lên hỏi:
- Gì thế ?
Người kia cười, đưa ra mấy chai lớn:
- Có mấy chai ba-xi-đế đây. Đem cất xuống khoang rồi lên nhậu la-de chơi với anh em. Xong, ta chuyển hàng xuống rồi nhổ neo thì vừa.
Khôi nói:
- Để họ lên hết, rồi chúng mình lẻn xuống tàu. Con Vện đâu ?
- Nó đây !
- Cậu ôm lấy nó nhé, kẻo nó rơi xuống sông.
Việt nuốt nước bọt đáp:
- Ừ.
- Cậu sợ đấy à ?
- Không !
- Thế đi. Họ lên kia rồi .
Không kịp lưỡng lự, Việt vội rời chỗ nấp chạy vụt theo bạn. Cả hai tới sát mé sông. Một chiếc ván dài bắc cầu từ trên bờ xuống cửa tàu. Dưới tàu không còn bóng người nào. Chiếc đèn bão treo trên boong đung đưa trước gió.
Đôi bạn tuy có thấy những chiếc tàu nhỏ, loại chở hàng như thế này đỗ ở bến, hoặc chạy trên sông Sài Gòn, nhưng chưa từng có dịp nào bước chân xuống. Cả hai đều bối rối không biết nên tìm chỗ nào trú ẩn cho khỏi bị lộ.
Tránh khoảng sáng đèn, men theo những chỗ tối để xem xét, hai anh em thấy chỗ phòng lái có một chiếc thang ngắn đi xuống. Lần hết bực thang, Khôi Việt đứng giữa một khoang khá rộng, dùng để chứa hàng. Đây là khoảng giữa của con tàu.
Khôi nói:
- Chúng mình không thể ẩn ở đây được vì dễ bị lộ.
Việt sốt ruột:
- Nhưng cũng phải lẹ lên, không nhỡ họ xuống bây giờ. Đến phía cuối tàu xem.
Đằng cuối tàu có một vách ngăn bằng gỗ. Nhiều bao gạo và các sọt trái cây chất gần vách, chỉ để lộ ra một cánh cửa hẹp. Cánh cửa khép hờ không khóa. Khôi mở ra, ngó cổ vào trong khẽ nói:
- Tối quá, không thấy gì hết.
- Cứ vô đại đi.
Đứng im một lát, chờ cho quen mắt với bóng tối, Khôi đưa tay sờ soạng ra phía trước, dò đường. Tay anh đụng vào một chiếc thùng gỗ. Trên mặt thùng lủng củng ít vật dụng. Anh mừng rỡ nắm được hộp quẹt. Một cây quẹt được bật cháy, Khôi lẩm bẩm:
- Phòng máy Việt ạ.
Chỉ nghe hơi thở của Việt rồn rập bên tai. Khôi càu nhàu:
- Bình tĩnh chớ cậu, sao thở mạnh thế?
Việt thúc vào người bạn:
- Coi kìa !
Phía đàng sau máy còn một cánh cửa hẹp nữa. Khôi bật cây quẹt thứ hai. Cánh cửa mở vào một khoảng thót hậu phía cuối tàu, chỗ chứa những thùng dầu mỡ, với đủ các thứ dụng cụ cần thiết cho một tàu thủy.
Khôi nói:
- Chỗ này kín đáo, chúng mình ẩn luôn ở đây thôi.
Ngồi thu mình sau chiếc thùng lớn, đôi bạn lắng tai nghe ngóng. Không lâu, có tiếng những bước chân thình thịch trên sàn tàu. Rồi tiếng máy nổ, tiếng chân vịt chuyển động dưới nước, và con tàu Hồng Hải từ từ rời bến.

Chương 8.
Khôi, Việt nín thở ngồi sát bên nhau. Cả hai đều nghe rõ tiếng khuấy động của chân vịt, tiếng nước chảy róc rách và văng vẳng tiếng cười nói của những người trên tàu. Có lẽ chất rượu đã ngấm vào người họ. Nhưng có tiếng nói lớn át hẳn tất cả. Hình như đây là tiếng người chủ tàu buộc họ im tiếng.
Nhịp chuyển động của con tàu mỗi lúc một khác. Mới đầu, nó lướt nhẹ nhàng, rồi dập dình nghiêng ngả.
Việt đoán con tàu đang ra khơi. Mặc dầu tình thế hai anh em đang liều lĩnh trải qua rất hồi hộp, Việt cũng thấy háo hức khi nghe tiếng nước sủi bọt réo ở hai bên thành tàu. Đây là lần đầu tiên Việt vượt sóng trên một con tàu có máy chạy hẳn hoi. Anh hơi ngạc nhiên thấy bạn không tỏ vẻ gì bở ngỡ. Khôi như đã từng trải qua nhiều cuộc du hành như thế này, tuy Việt biết rõ Khôi cũng như mình chưa bao giờ đặt chân xuống tàu thủy. Nhưng đó là đặc tính của Khôi. Gặp bất cứ hoàn cảnh nào, Khôi cũng dễ dàng hòa mình vào được. Anh thản nhiên nói :
- Không biết con tàu này đưa chúng ta đi đâu đây ?
Việt đáp :
- Chắc nó đến một căn cứ bí mật nào mà người lạ chúng ta theo dõi muốn đến.
Ý nghĩ bị đưa đến một nơi hẻo lánh xa xôi ngoài biên giới, sa vào tay bọn người hung bạo, những người sống ngoài vòng pháp luật, những bọn thảo khấu, coi đồng tiền nặng hơn tính mạng làm Việt rợn người. Từ trước đến giờ Việt bị hấp dẫn lôi cuốn trong cuộc rượt đuổi tên tù vượt ngục quên nghĩ đến sự mạo hiểm liều lĩnh của mình. Anh lo lắng tự hỏi những người trên tàu này là ai, thuộc hạng người nào ? Nếu quả họ là những phần tử xấu, gian manh hung ác, thì hậu quả bi đát của hành động dại dột này sẽ không sao tránh được, các anh sẽ bị họ bắt, và...
Việt nhắm mắt lại, không dám nghĩ tiếp nữa. Thấy mình bị mắc kẹt trên tàu không còn cách nào thoát thân, Việt lo sợ muốn khóc. Muốn biết bạn có cùng cảm nghĩ như mình không, Việt hỏi :
- Cậu nghĩ sao ?
- Nghĩ gì chứ ?
- Về những người ở trên tàu này. Liệu họ có đồng lõa với tên kia không ?
Khôi suy nghĩ rồi đáp :
- Có thể họ là đồng bọn của tên kia, mà cũng có thể họ chỉ là những người được trả thực nhiều tiền trong việc chuyên chở.
Việt vẫn áy náy :
- Nhỡ chúng mình bị bọn họ tóm được ?
Khôi bối rối ngồi im. Trường hợp ấy Khôi cũng chưa biết phải đối phó cách nào. Nhưng Khôi cứ nói cho yên lòng bạn, và cũng để tự trấn tĩnh lòng mình.
- Ồ không sao đâu, vả lại Bạch Liên đã hứa...
Việt chép miệng :
- Liệu có thể tin vào lời hứa của một cô gái không ?
- Tớ không tin lắm đâu, nhưng cứ hy vọng.
Giữa lúc hai anh em đang bàn tán chợt nghe có tiếng chân bước, và tiếng hai người nói chuyện bên phòng máy
Một người, có lẽ đã đứng tuổi, bảo :
- Đốt cây đèn lên, mày còn chờ gì nữa, Tám ?
Người kia trả lời :
- Tôi còn tìm bao quẹt !
Việt rủn người nhớ đến bao quẹt Khôi đã lấy khi nãy. Tiếng người ấy làu bàu tiếp :
- Quái lạ, rõ ràng tôi để bao quẹt trên nắp thùng này, mà sao bây giờ không thấy. Hay có đứa nào lấy mất rồi.
Người đứng tuổi gắt :
- Chỉ có tao với mày trong phòng này. Ai vào đây đâu mà lấy ?
- Thì rõ ràng tôi để đây mà.
- Thôi tao có bật lửa đây. Châm lẹ cây đèn lên. Xem qua máy móc rồi còn nằm nghỉ một lát, trời sắp sáng rồi.
Ánh lửa bật lên, hiện rõ một đường sáng dài nơi khe cửa. Việt nghe tiếng người trẻ tuổi hỏi :
- Chú Năm à, chỗ hàng vừa bốc xuống, và gã cao lớn đi đâu đó ?
- Ra khỏi khúc sông này, tới một chỗ đã định sẽ thả xuồng cho hắn xuống với hàng hóa.
- Rồi hắn làm sao, chú Năm?
- Rồi hắn chèo đi đâu, thây kệ hắn, việc gì đến mày.
Im lặng một lát, người trẻ tuổi ngập ngừng tiếp:
- Hình như gã cao lớn đó không phải người Việt mình phải không chú ?
- Y người Tàu lai Mên...
- Sao tôi thấy khả nghi quá chú Năm à.
Người kia lại gắt :
- Tao đã bảo thây kệ hắn mà. Việc gì tới mày hả Tám ? Chừng xong việc rồi, mày được lãnh một số tiền lớn, không đủ sao ?
- Đành thế, nhưng mà...
- Nhưng mà sao ? Mày có làm chủ con tàu này không ? Lão Koóng mới là chủ. Nó muốn chở ai mặc ý nó. Còn gã cao lớn kia muốn tới đâu cũng đã có sự thỏa thuận rồi. Mày đừng có tò mò xen vào mà có khi mất mạng. Tốt hơn hết mày cứ nằm đó mà coi máy, để tao ra ngoài một lát.
Có tiếng động cửa, rồi im lặng trở lại hoàn toàn. Việt ngẩn người ra suy nghĩ về những điều vừa nghe được.
Như vậy, trên chiếc Hồng Hải này còn có những người không hẳn là đồng lõa với tên cao lớn. Được biết điều ấy Việt mừng thầm, toan bàn với bạn ra gặp người thợ máy cho người ấy hiểu rõ và xin anh ta tiếp tay giúp mình. Anh chưa thực hiện được ý định ấy vì con Vện từ nãy giờ cứ cựa quậy luôn. Bị gò ép trong một xó tối chật chội, thêm con tàu lắc lư khó chịu, con Vện chẳng những cựa quậy nhiều, nó còn sủa lên mấy tiếng.
Việt hốt hoảng bịt mõm chó lại. Nhưng không kịp. Bên phòng máy có tiếng động lỉnh kỉnh, rồi cánh cửa mở ra chói lòa ánh sáng. Người thợ máy soi đèn vào, tìm kiếm. Con Vện sủa hộc lên trong lúc người nọ mở to mắt kinh ngạc nhìn Khôi, Việt nép sau mấy chiếc thùng. Sự kinh ngạc làm anh ta đứng ngẩn ra một lát không biết nói gì. Hắn hãy còn trẻ, quãng 27, 28 tuổi, bận chiếc quần xanh kiểu thợ máy, lưng để trần để lộ ra những bắp thịt rắn chắc.
Khôi nói ngay :
- Chào anh Tám !
Anh Tám thợ máy lúc ấy mới bật cười :
- Tụi bây là ai ?
Khôi đứng lên :
- Chúng em theo dõi một tên tù vượt ngục, gã cao lớn người Tầu lai Mên anh vừa nói đó.
Cặp mắt anh Tám nhìn Khôi, Việt đầy vẻ kinh dị :
- Hai thằng nhãi này muốn rỡn sao chớ !
- Chúng em nói thật mà. Hắn là tên gian manh, có làm điều gì phi pháp nên mới có hành động bí mật như thế chứ ?
Anh Tám gật đầu lẩm bẩm :
- Phải. Có những ngoại nhân sống nhờ đất nước mình đã không tuân luật pháp của ta còn muốn tìm cách làm hại.
Việt hân hoan tiếp :
- Và ta không nên nhận tiền để giúp họ, phải không anh?
Anh Tám không nói gì, lẳng lặng khép kín cửa lại, ngồi xuống một chiếc thùng kế đó đối diện với Khôi, Việt. Anh mỉm cười hỏi :
- Các chú làm cách nào theo hắn xuống đây được ?
Đôi bạn không còn cách gì hơn là kể lại câu chuyện từ đầu.
Anh Tám nghe xong lẩm bẩm :
- Không thể tưởng tượng được ! Thực khó tin quá ! Các chú chỉ là hai thằng lỏi...
Anh gãi tai tiếp :
- Nhưng phải công nhận là can đảm. Bây giờ biết tính sao đây ?
Việt nói :
- Sẽ có một chiếc tàu tuần cảnh bắt chiếc Hồng Hải này. Bạch Liên đã hứa sẽ đi báo...
- Bạch Liên nào ?
- Một người bạn gái của chúng em.
Anh Tám nhìn Việt cười :
- Các chú ngây thơ và nhiều tưởng tượng lắm. Nhưng nếu có thật như vậy, tôi e cũng không kịp vì chừng nửa giờ nữa hắn đã xuống xuồng đi mất rồi.
Khôi hăm hở nói :
- Chúng ta phải tìm cách ngăn hắn lại.
Anh Tám hất hàm hỏi :
- Bằng cách nào ?
Việt suy nghĩ :
- Có cách nào hủy được chiếc xuồng đó không nhỉ ?
- Nó đã được buộc hờm sẵn bên mạn tàu rồi.
Khôi nhỏm người lên, nắm lấy tay anh Tám :
- Nếu vậy, chỉ cần cắt đứt dây cho nó trôi đi là xong.
Anh Tám lặng lẻ nhìn Khôi, rồi chậm rãi nói :
- Giờ này, tôi lên boong không được. Họ sẽ thấy và hỏi lên làm gì.
Khôi đứng lên quả quyết :
- Để em đi cho. Người em nhỏ, lên trên dấy em dễ luồn lỏi, ẩn nấp hơn.
Việt cũng đứng lên :
- Tớ với cậu.
- Không, cậu cứ ở đây, mình tớ là đủ.
Người thợ máy hết nhìn Khôi đến Việt, gật gù :
- Các chú can đảm lắm, và cũng lanh trí nữa. Tôi thực không ngờ !
Khôi hỏi :
- Anh tám có dao không ?
Người thợ máy móc túi đưa ra một con dao. Khôi mỉm cười nháy bạn :
- Ở yên đó nhé. Độ vài phút tớ trở lại liền.
Khôi ra khỏi chỗ nấp cùng với anh Tám. Việt thấy anh ghé tai Khôi dặn nhỏ điều gì. Rồi Khôi rón rén lên thang.
Phút sau Việt nghe tiếng lết khẽ phía trên đầu. Chắc hẳn Khôi đang lẻn tới chỗ buộc chiếc xuồng. Mọi việc có vẻ xuôi chảy. Khôi chỉ việc cắt đứt sợi dây, cho chiếc xuồng tuột xuống và trôi đi, là có thể cầm chân được tên tù ở lại trên tàu.
Chợt anh Tám nhô người vào, xách vội lấy cây đèn. Anh chỉ kịp dặn nhỏ Việt "nấp đi" rồi hấp tấp đóng cửa lại.
Có tiếng chân bước vào phòng máy, tiếp đến giọng nói của người đứng tuổi :
- Sắp tới chỗ hạ xuồng cho gã cao lớn xuống rồi. Tao ngủ một lát nghe Tám !
Khôi vẫn còn ở trên boong, mà trời thì đã sắp sáng !

Chương 9
Ngồi trong bóng tối, Việt lo lắng suy nghĩ không tìm ra được cách nào để báo cho Khôi biết người thủy thủ già đã trở lại. Nếu khi ở trên boong xuống, Khôi cứ vào thẳng phòng máy tất sẽ bị lộ. Giây phút trôi qua, Khôi vẫn biệt tăm. Chẳng hiểu lúc này Khôi ẩn ở chỗ nào ?
Bên phòng máy không thấy động dạng gì. Anh Tám và người thủy thủ già hẳn vẫn còn ở đó. Chẳng hiểu lão đã ngủ chưa ? Khá lâu Việt mới nghe tiếng ngáy ròn rã nổi lên.
Bỗng Việt giật thót người lại, thấy cánh cửa hé mở. Anh Tám nhô đầu vào khẽ nói :
- Tôi ra báo cho bạn chú biết mà trở về, lão Năm ngủ say rồi.
Việt gật đầu, hỏi :
- Đã cắt được dây xuồng chưa anh ?
Anh Tám nhoẻn miệng cười :
- Rồi. Chiếc xuồng trôi đi từ nãy giờ, mà chưa ai hay biết gì hết.
Nhưng anh Tám vừa dứt lời thì ở phía trên boong tàu đã có tiếng chân chạy huỳnh huỵch và tiếng hô hoán :
- Mất chiếc xuồng rồi ! Xuồng bị đứt dây trôi mất rồi !
Trên boong tàu trở nên náo động. Rồi lại có tiếng giận dữ nói :
- Dây cột xuồng không phải đứt mà là bị cắt !
Việt và anh Tám nhìn nhau sợ hãi. Vẫn chưa thấy bóng Khôi đâu cả.
Anh Tám thì thào :
- Để tôi lên xem tình hình ra sao đã ?
- Cho em lên với.
- Không được, chú phải ở lại đây.
Anh Tám vừa ra khỏi, Việt áy náy không sao ngồi yên được. Ý nghĩ Khôi lâm nguy làm Việt đâm liều. Anh rón rén ra chân cầu thang nhìn lên. Trời đã tảng sáng. Trên boong tàu mọi người đang bàn tán xôn xao về chiếc dây xuồng bị cắt. Một giọng nói cáu giận nghe ngọng líu vang lên :
- Ngộ mà biết được đứa nào cắt đứt sợi dây thì ngộ giết chết nó !
Việt đoán đó là tiếng người chủ tàu, lão Koóng. Cứ nghe giọng nói của lão, cũng biết lão là một người ghê gớm. Khôi có thể bị hại nếu lão bắt gặp.
Có người bàn :
- Hay cho tàu quay lại để tìm chiếc xuồng ?
Lão Koóng gạt phắt :
- Không được. Phải đi luôn, trời sáng mất rồi !
Lại có tiếng hỏi :
- Chú Koóng định cho tàu ghé bến nào ?
Việt không kịp nghe câu trả lời, và họ bàn cãi nhau ra sao, vì ngay lúc ấy, phía sau lưng Việt chợt có tiếng động. Anh quay ngoắt lại, và thấy người thủy thủ già. Lão đang ngủ say thì chợt tỉnh vì nghe trên boong có tiếng ồn ào. Ở phòng máy ra, lão gặp Việt và gườm gườm đứng nhìn.
Bối rối, Việt cũng đứng nhìn lão, không biết nói gì. Lão người nhỏ thó, nhưng vai rộng, với đôi tay gân guốc như dây chão. Cặp mắt nhìn của lão làm Việt run sợ. Lão nhếch mép cười gằn :
- Mày làm gì ở đây thằng nhỏ này ?
Việt vẫn không trả lời được. Anh biết rằng người đàn ông này không phải là người đễ gây thiện cảm. Lão vồ lấy Việt :
- Mày câm hả. Sao tao hỏi mày không trả lời ?
Việt ấp úng đáp :
- Tôi đi chơi, muốn đi bằng tàu thủy cho biết.
- À, mày muốn đi chơi biển bằng tàu thủy. Đừng có bày đặt nghe không. Khôn hồn thì nói ngay cho tao biết, mày xuống tàu này hồi nào ?
Việt đứng im. Vẻ mặt độc ác của người thủy thủ làm Việt hoảng sợ. Anh chỉ muốn bỏ trốn. Nhưng cánh tay của người kia vẫn nắm chặt lấy Việt và lay mạnh :
- Mày nhất định không nói hả ? Có phải mày muốn dò la công việc của chúng tao không ? Nếu mày không khai rõ, tao quăng mày xuống biển bây giờ.
Việt vẫn im lặng. Người thủy thủ già càng giận dữ lắc mạnh hơn. Đột nhiên cơn sợ của Việt tan biến. Anh vùng vẫy, và nhận thấy người thủy thủ đi chân không, anh liền dẫm lên chân lão. Lối phản công bất ngờ ấy làm người kia nhăn mặt đau đớn, vội bỏ tay ra để nắm lấy chân xuýt xoa.
Việt chỉ mong có thế. Thừa cơ hội, Việt cắm cổ chạy trốn. Lối thoát duy nhất là leo đại lên cầu thang. Trong khoảng khắc bị giữ trong tay người thủy thủ già, Việt không biết rõ sự việc ở trên boong tàu diễn biến ra sao. Nhưng khi nhô mình lên trên thì điều anh thấy trước tiên là Khôi đã bị bắt.
Khôi bị một bọn chừng sáu người đứng vây chung quanh, anh Tám thợ máy đứng kế bên sau, hai bàn tay nắm chặt, như sẵn sàng bảo vệ cho Khôi. Một người mặc chiếc áo thun, quần để trễ hở rốn có vẻ là chủ tàu. Hai người khác chỉ thờ ơ đứng xem và một người thứ ba nữa đang mắc giữ tay lái. Tất cả đều chưa ai thấy Việt.
Cách đấy độ năm bước, hai tay khoanh trước ngực, điếu thuốc lá ngậm trên môi, tên tù vượt ngục - gã cao lớn, đang đứng theo dõi mọi việc xảy ra với nụ cười nhếch mép.
Việt chỉ kịp nhận định được có thế. Người thuỷ thủ già ở bên dưới đã tập tễnh leo lên, kêu.
- Bắt lấy nó !
Người chủ tàu quay lại, thấy Việt hắn sửng sốt :
- Ủa còn một đứa nữa ! Nó ở đâu ra thế này ?
Người thủy thủ già đã chộp được Việt đáp :
- Nó trốn sau phòng máy. Chắc hai thằng nhãi này theo rình bọn mình.
- Và cắt đứt dây xuồng !
Người chủ tàu nắm lấy vai Khôi :
- Phải mày cắt dây xuồng không ? Tụi bay là ai mà dám theo rình chúng tao ?
Nét mặt người chủ tàu lộ đầy vẻ đanh ác, gian hiểm.
Khôi đứng thẳng mình nhìn hắn, và nói :
- Phải, chính tôi cắt đứt dây xuồng để ngăn không cho người kia trốn thoát.
Chỉ vào gã cao lớn Khôi hỏi :
- Các ông biết người kia là ai chớ ? Hắn là một tên tù vượt ngục mà !
Mặt người chủ tàu đỏ gay vì tức giận. Hắn giơ tay để đánh Khôi. Nhưng anh Tám thợ máy đã đưa tay ngăn lại :
- Khoan đã chú Koóng ! Anh em trên tàu cũng muốn biết người kia là ai ?
Người chủ tàu giằng tay lại, giận dữ :
- Thằng Tám, bộ mày chán cơm rồi hả ? Mày muốn chết dễ lắm mà. Rồi tao sẽ xử cho. Còn người kia là bạn của tao đó.
Anh Tám bình tĩnh đáp :
- Tôi thấy việc chú thả xuồng cho hắn xuống nửa chừng khả nghi lắm. Có việc gì lén lút chú phải cho anh em chúng tôi biết.
Một người trong bọn phụ họa :
- Phải đó, chú Koóng nên cho anh em biết định chở người kia đi đâu.
Việt thấy hy vọng trở lại. Trên tàu còn có những người có lương tri, biết điều phải điều quấy, không chịu hợp tác khi có điều mờ ám phi pháp.
Anh Tám thợ máy tiếp :
- Cũng may nhờ có hai em nhỏ này nên chúng ta mới biết rõ truyện, nếu không chúng ta vô tình trở thành đồng lõa. Giấu gạt anh em như thế là không tốt. Tôi yêu cầu chú Koóng phải cho quay tàu lại đem nộp người kia cho nhà chức trách đã rồi muốn đi đâu hãy đi.
Mặt người chủ tàu trở nên tím lạnh. Hắn lồng lên để đánh anh Tám. Nhưng một giọng nói hằn học vang lên :
- Đừng cãi vã vô ích. Con tàu này phải đi tới nơi đã định. Kẻ nào phản đối hãy coi chừng !
Tất cả đều quay lại nhìn. Người vừa nói câu đó là tên tù vượt ngục. Hắn đứng cách đấy không xa, với một dáng điệu khinh khỉnh. Trên tay hắn cầm một khẩu súng lục.
Lần đầu tiên Việt nghe lời hắn nói. Trước đây Việt chỉ cho hắn là một người phạm pháp, mà không lượng biết được hắn ra sao. Bây giờ thì Việt thấy hắn quả là một tay lợi hại. Hắn mỉm cười bình tĩnh nhìn mọi người và ra lệnh :
- Từ giờ phút này tôi chỉ huy trên tàu. Ai trái lệnh, tôi hạ ngay. Trước hết tôi muốn các anh bắt hai thằng nhỏ này lại, đem nhốt xuống hầm. Chúng nó đã theo dõi tôi suốt hai ngày nay rồi.
Người thủy thủ già cười gằn :
- Phải đấy, trói nghiến hai thằng nhãi ranh này lại.
Việt cố sức vùng vẫy, nhưng vẫn bị người ấy nắm chặt lôi đi. Khôi cũng la hét om sòm và vùng vẫy không kém. Con Vện nghe tiếng la hét của Khôi cũng sủa vang lên. Chẳng biết nó tưởng rằng đây là một trò chơi mới, hay nó cũng hoảng vì thấy Khôi, Việt bị nguy mà nó vừa sủa vừa chạy cuống ở trên boong. Nó đâm bổ vào gã tù cao lớn, làm hắn loạng choạng suýt ngã. Thừa cơ hội ấy, một thủy thủ đánh hắn ngã văng xuống sàn. Một tiếng nổ chát chúa vang lên, tiếp theo là tiếng kêu đau đớn. Khẩu súng trên tay hắn đã làm người thủy thủ bạn bị thương nơi đùi.
Cuộc ẩu đả xảy ra nhanh chóng. Anh Tám thợ máy cố gắng cướp lấy khẩu súng của tên tù nhưng không được. Hắn vùng lên, lùi lại vài bước, khẩu súng lăm lăm trên tay, miệng quát :
- Như thế đủ rồi. Tôi không đùa với các anh đâu. Tôi đã bắn một người bị thương rồi đó. Ai còn ngo ngoe nữa tôi bắn toi mạng ngay.
Quay lại người chủ tàu, hắn tiếp :
- Còn hai thằng nhỏ này là cái họa cho bọn ta đó. Phải ném ngay nó xuống bể, nếu để nó thoát được lên bờ, chúng ta không tránh khỏi lôi thôi.
Trong lúc hỗn loạn, Khôi đã vùng chạy thoát khỏi tay người chủ tàu, chạy lại gần Việt.
- Đừng sợ Việt, có Khôi đây !
Nhanh như chớp, Khôi lao đầu húc mạnh vào người thủy thủ già. Lão loạng choạng để tuột mất Việt.
Khôi nắm tay bạn lôi đi :
- Chạy mau lại đằng mũi tàu, đừng để họ bắt được !
Nhưng người chủ tàu và người thủy thủ già cùng hấp tấp đuổi theo. Việt mê lên tưởng không còn sức để chạy nữa.
Giữa lúc ấy, bỗng nghe có tiếng súng nổ. Làn đạn rít trên không vì đó là phát súng thị uy. Tiếp đến một hồi còi dài.
Tất cả mọi người trên tàu đều sững người ra nhìn. Một chiếc ca nô của đội tuần tiễu giang hải đang xả hết tốc lực rẽ sóng lướt tới.
Khôi Việt im lặng nhìn chiếc ca nô rồi lại nhìn nhau.
Khôi nói :
- Tàu tuần cảnh đã đến !
Và Việt đáp :
- May quá, Bạch Liên đã giữ đúng lời hứa. Chúng ta thoát rồi.

Chương 10. Hết
Chỉ vài phút sau chiếc ca nô đã áp sát bên mạn tàu Hồng Hải. Một viênsĩ quan trẻ tuổi nhảy sang, theo sau có những thủy binh hờm sẵn súng trên tay.
Trên chiếc Hồng Hải cuộc náo loạn đã chấm dứt. Người trên tàu chia ra làm hai bọn. Một gồm những người lương thiện thuộc về phe anh Tám đang vây quanh băng bó cho người bạn bị thương. Bọn kia thuộc phe người chủ tàu đứng hằn học nhìn bọn anh Tám.
Cách đấy vài bước, tên tù cao lớn biết không thể nào trốn thoát đành đứng tiu nghỉu một mình, vẻ thất vọng hiện trên nét mặt.
Viêni sĩ quan trẻ tuổi tiến lại phía người chủ tàu cật vấn bằng một giọng nói đanh thép.
Việt ngồi xuống đống dây thừng trên mũi tàu, đầu óc hoang mang như vừa trải qua một cơn ác mộng. Cuộc rượt đuổi tên tù thế là đã chấm dứt. Đội tuần cảnh đã đến kịp thời chặn bắt và giải thoát cho đôi bạn trẻ.
Bên cạnh Việt, Khôi ngồi nói liến thoắng những gì, Việt cũng không để ý. Anh thấy mỏi mệt rã rời. Cuối cùng, viên sĩ quan trở về chỗ Khôi, Việt, nhìn các anh mỉm cười :
- Phải hai cậu đã theo dõi tên tù vượt ngục không ?
- Thưa phải, hắn đứng kia.
Viên sĩ quan gật đầu nói :
- Tôi biết. Hắn sẽ bị giải đi bây giờ. Các cậu có rõ hắn là ai không ?
Khôi Việt lắc đầu. Viên sĩ quan tiếp :
- Hắn là một tên trùm buôn lậu, đứng đầu một bọn thảo khấu chuyên cướp bóc ở gần biên giới.
Khôi sung sướng bảo Việt :
- Cậu nghe rõ chưa ? Chúng mình không uổng công nhé !
Việt có nghe rõ, nhưng lúc này anh chẳng buồn để ý gì nữa. Mắt anh ríu lại, muốn nằm gục xuống đó ngủ một giấc. Một thủy binh đến đỡ Việt dậy, dìu sang ca nô. Việt không quên dặn Khôi đi bên cạnh :
- Nhớ đem cả con Vện theo đấy !
Khôi cười đáp :
- Cứ yên trí. Không ai bỏ nó đâu.
Hai anh em bước xuống ca nô, và được các thủy binh niềm nở tiếp đón. Họ để Khôi Việt ngồi nghỉ trên ghế, và trong lúc chờ đợi họ mời hai anh dùng nước giải khát.
Viên sĩ quan sau khi đã truyền những mệnh lệnh cần thiết : canh giữ tên trùm buôn lậu và đồng bọn, liền quay xuống thân mật ngồi cạnh Khôi, Việt. Ông châm điếu thuốc lá, chậm rãi hỏi chuyện Khôi.
Việt để mặc Khôi thuật lại câu chuyện. Anh ngả đầu ra thành ghế và ngủ thiếp đi.
Khi Việt tỉnh dậy thì chiếc tàu tuần tiễu đã áp giải chiếc Hồng Hải đỗ vào bến.
Viên sĩ quan mỉm cười nhìn Việt :
- Cậu ngủ ngon chứ ?
- Dạ, cám ơn ông.
- Thấy cậu ngủ mệt, nên tôi không gọi. Bạn cậu đã lên bờ rồi, đang chờ cậu để ăn điểm tâm.
- Thưa ông đã tới bến rồi ?
- Phải, đây là một bến của Hải quân. Cậu lên bờ ăn điểm tâm, rồi sẽ có xe đưa về Sài gòn. Đô Đốc chỉ huy muốn gặp các cậu.
Việt kinh hoàng hỏi :
- Đô Đốc muốn gặp ! Thưa... phải Đô Đốc là cậu của Bạch Liên không ?
Viên sĩ quan cười :
- Tôi không rõ, vì tôi không quen Bạch Liên. Nhưng được gặp Đô Đốc là một điều vinh dự đấy. Cậu nên sửa soạn mau đi.
Việt sửa lại quần áo, chải đầu, rồi theo vị sĩ quan lên bờ. Khôi ngồi đợi anhtrong phòng khách đang nhẩn nha ăn bánh uống sữa. Thấy Việt, Khôi vui vẻ bảo :
- Việt đấy à. Gớm bồ ngủ say quá. Có bánh và sữa để cho bồ tẩm bổ đây !
Viên sĩ quan cùng ngồi ăn với Khôi, Việt. Ăn uống no nê Việt thấy sức lực hồi lại. Anh lanh lẹn cùng Khôi ra xe. Viên sĩ quan đưa các anh đi.
Xe vượt qua một bến khá dài.
Nhìn những chiếc cần trục vươn lên trời, những chiếc tàu đỗ bến, có chiếc để sửa chữa, có chiếc sẵn sàng ra đi với bóng dáng những người thanh niên vạm vỡ trong sắc phục thủy binh đang lanh lẹn hoạt động. Việt thích thú nói :
- Liệu chúng mình có vào được thủy quân không Khôi nhỉ ?
- Mạnh đi chứ ! Nhất là chúng ta sắp được hân hạnh gặp Đô Đốc.
Chiếc xe hơi ngừng lại trước một tòa nhà cao lớn. Đôi bạn theo viên sĩ quan bước lên thềm. Việt không quên kéo theo cả con Vện. Tới một phòng khách khá rộng, viên sĩ quan dặn :
- Các cậu chờ đây để tôi vào trình Đô Đốc đã...
Nói đoạn, ông gõ một cửa gần đấy, bước vào. Không lâu, cánh cửa hé mở. Khôi Việt hồi hộp đứng thẳng người. Nhưng bóng người vừa ra không mang sắc phục thủy quân, mà lại bận y phục một cô gái. Cô gái đó là Bạch Liên.
- Chào các anh. Các anh trở về bình yên cả chứ ?
Khôi kiêu hãnh đáp :
- Lẽ dĩ nhiên rồi !
Bạch Liên bĩu môi :
- Dĩ nhiên, nếu không có tàu tuần cảnh tới kịp !
- Cũng may cho cô đấy, vì cô đã giữ lời hứa, nếu không thì...
- Thì sao ?
- Thì cô sẽ biết tay tôi !
- Xì ! Tôi đâu có sợ. Vả lại tôi không nói chuyện với anh. Tôi nói với anh Việt cơ.
Khôi đỏ mặt đứng yên. Bạch Liên tiếp :
- Hơn nữa những hành động ngu xuẩn của anh không chắc được tán thưởng đâu nhé.
Khôi bực tức :
- Hừ, rượt đuổi một tên gian manh lợi hại, mà là ngu xuẩn !
Bạch Liên vẫn vênh váo :
- Kìa, tôi có nói với anh đâu. Dù sao, mình anh đã chắc gì bắt được hắn. Anh quấy rối khắp mọi người.
Việt lo lắng hỏi :
- Đô Đốc có bực mình không ?
Bạch Liên trợn mắt :
- Ông cáu giận ghê gớm !
Giữa lúc ấy Đô Đốc rời phòng làm việc đi ra. Việt nhận được ông nhờ sắc phục lóng lánh kim tuyến ở cầu vai và ống tay áo.Nom ông rất khả ái, tuy gương mặt cương nghị, và mái tóc đã điểm hoa râm. Ông cũng không có vẻ giận dữ như lời Bạch Liên vừa nói. Theo sau ông là viên sĩ quan chỉ huy đội tuần cảnh, và một người đứng tuổi mặc thường phục mà Việt đoán là ông thân của Bạch Liên.
Sau khi ra dấu cho mọi người ngồi xuống ghế, Đô Đốc bảo Khôi, Việt thuật lại đầu đuôi câu chuyện.
Lần này đôi bạn kể không được gẫy gọn cho lắm, phần vì Đô Đốc hay ngắt lại để hỏi thêm chi tiết, phần vì không khí trong phòng có vẻ uy nghiêm lạ thường.
Nghe xong từ đầu tới cuối, Đô Đốc quay lại viên sĩ quan và ông thân của Bạch Liên nói :
- Bây giờ ta nên xử trí với hai cậu thiếu niên cứng đầu này thế nào ? Các cậu ấy dám lừa dối phụ huynh khi xin phép đi cắm trại, mà thực ra là xông vào một cuộc mạo hiểm dại dột ; đã lén cắp một con chó ; rồi lại liều mạng lẻn xuống một chiếc tàu của bọn buôn lậu, để suýt nữa thì chết mất xác ngoài khơi ; và, đã làm náo động cơ quan an ninh, phải phái một đội tuần cảnh đi cứu. Tôi chưa từng thấy một việc làm như thế bao giờ !
Ông thân của Bạch Liên nghiêm trọng gật đầu :
- Đúng thế !
Đôi bạn ngỡ ngàng nhìn nhau. Khôi ấp úng nói:
- Thưa Đô Đốc, chúng con không làm thế thì làm sao bắt được tên tù vượt ngục ?
Đô Đốc ung dung đáp :
- Thế là các cậu làm liều. Tại sao các cậu không trình nhà chức trách biết ?
- Chúng con sợ không ai tin…
- Tại sao lại không ai tin nếu quả có tên trùm buôn lậu vượt ngục thật ?
Việt ngẩn mặt thốt lên :
- Ừ nhỉ !
Vẻ ngẩn ngơ của Việt làm Bạch Liên bật cười. Cô vội đưa tay bụm miệng. Nhưng tiếng cười của cô đã làm tan mất không khí uy nghiêm của gian phòng. Đô Đốc lườm cháu rồi cười theo, tiếp đến ông thân của Bạch Liên cũng bắt chước, rồi đến viên sĩ quan trẻ tuổi cũng nghiêm mình cười sau Đô Đốc.
Con Vện thấy không khí vui vẻ cũng vẫy đuôi mừng rỡ. Nhân đấy Việt cải chính :
- Thưa Đô Đốc, còn con chó này không phải chúng con đã lấy cắp, mà là tự nó theo chúng con.
- À ra thế ! Nhưng còn người chủ của nó có bằng lòng không ?
Việt cố gắng trình bày :
- Thưa, chúng con ngờ là nó không có chủ, hoặc nếu có thì cũng không mảy may săn sóc đến nó.
Ngừng một lát, Việt tiếp :
- Chắc con Vện này chẳng muốn trở về với bất cứ ai. Nó mến và muốn theo về với chúng con.
Đô Đốc gật gù :
- Mà các cậu về đâu ? Các cậu ở Sài gòn này chứ gì ? Để tôi cho xe đưa các cậu về nhà.
Việt ngại ngùng thưa :
- Chúng con về ấp Xuân Lộc vì chúng con đang nghỉ hè ở đó.
Ông thân của Bạch Liên đứng lên :
- Nếu vậy để tôi đưa các cậu về. Xe tôi có ghé qua lối đó.
Khôi Việt đứng dậy lễ phép cáo từ người chỉ huy và viên sĩ quan. Trước khi trở ra, Khôi còn hỏi :
- Thưa Đô Đốc, chúng con có thể xin vào hải quân được không ? Con muốn học làm sĩ quan...
Đô Đốc cười vỗ vai đôi bạn :
- Tốt lắm. Nhưng còn phải cố học cho ngoan và cho giỏi đã. Rồi sau sẽ hay. Bây giờ các cậu chưa đủ tuổi, đủ lực học…

***
Chiếc xe hơi của ông thân Bạch Liên đưa đôi bạn trở về với dì Hạnh. Tới cổng ấp Xuân Lộc,Khôi Việt cám ơn, xuống xe. Trước khi từ biệt, Bạch Liên còn thò đầu ra đưa tay vẫy và dặn :
- Chào các anh ! Hôm nào rảnh, nhớ đến chơi với Bạnh Liên đấy !
Cô tiếp :
- Anh Việt nhớ dẫn Khôi đến, và cả con Vện nữa nhé ! Bạch Liên sẽ làm một bữa bánh thật ngon đãi các anh!

NGUYỄN TRƯỜNG SƠN

Truyện phụ: Ai là thủ phạm
Cả ba người: Khôi, Việt và Bạch Liên đang ngồi chơi thì nghe có tiếng chuông reo. Từ sau ngày Khôi, Việt theo dõi tên trùm buôn lậu trên chiếc tàu Hồng Hải, và làm quen với Bạch Liên thì bộ ba ấy không mấy khi rời nhau. Nghỉ hè đã chấm dứt. Cả ba đều trở về Sài Gòn tiếp tục học hành. Những ngày nghỉ, hoặc trong những giờ rảnh rỗi, họ thường đến nhà nhau tập luyện bài vở hay giải trí bằng những trò chơi hữu ích.
Hôm ấy là ngày lễ Trung Thu, Bạch Liên mời các bạn đến chơi ăn bánh, nghe nhạc. Vào khoảng 10 giờ sáng, tiệc bánh đang ngon, và những điệu nhạc nhẹ nhàng, tươi vui từ chiếc máy hát nổi lên trầm bổng trong gian phòng học sáng sủa, thì... chuông điện reo.
Bà cô của Bạch Liên - về Sài Gòn tiếp tục niên học mới, Bạch Liên ở với cô - từ phòng khách bước sang gọi:
- Có chuông điện thoại ở đằng nhà gọi cậu Khôi!
Khôi đặt vội miếng bánh, chạy ra. Trở vào, Khôi bảo:
- Giáo sư Minh Đăng gọi Việt ạ!
- Có chuyện gì thế?
- Không biết!
Việt để rơi miếng bánh xuống đĩa, tròn mắt nhìn Khôi:
- Ủa!
Bạch Liên đưa tay tắt máy hát, cười khanh khách:
- Dấm dớ chưa! Ông tướng Khôi luôn luôn như thế đó. Vừa nghe điện thoại xong lại bảo là không biết chuyện gì!
Khôi thản nhiên đáp:
- Thật mà! Giáo sư chỉ nhắn tụi mình đến ngay có việc cần.
Việt hỏi:
- Ai chuyển lời lại?
- Ba Khôi!
- Cậu nghe giọng bác nói thế nào?
- Rất vui vẻ, bình tĩnh...
- Thế thì không có gì quan trọng đâu. Vì nếu có điều gì... cấp bách, hẳn ba Khôi đã đích thân giải quyết rồi.
Bạch Liên tiếp:
- Với lại, chúng mình mới tới thăm cụ chiều hôm qua thôi! Chắc hôm nay rảnh rỗi, buồn tình cụ kêu tụi mình lại cho ăn bánh Trung thu đấy.
Khôi mỉm cười:
- Dù sao cụ đã gọi, chúng mình cũng cứ phải đến chứ!
Bạch Liên và Việt cùng đứng lên:
- Dĩ nhiên rồi.
Khôi vẫn giữ nụ cười tinh quái:
- Biết đâu bánh Trung thu của giáo sư lại không thơm ngon hơn bánh của Bạch Liên nhiều...
Bạch Liên xịu mặt:
- Nghĩa là anh chê bánh của Bạch Liên chứ gì! Lần sau đừng có hòng Bạch Liên cho ăn nữa nhé!
Việt giơ tay dàn hòa:
- Thôi chúng mình đi chứ?
- Ừ, đi!

***

Tuy nhiên trên đường sang Thị Nghè -- Việt vẫn dùng chiếc xe gắn máy đèo Khôi đằng sau, đi song hàng với chiếc Solex của Bạch Liên -- cả ba người đều không khỏi thắc mắc về việc giáo sư Minh Đăng đột ngột gọi đến. Khôi huýt khẽ một điệu sáo miệng. Việt lấy gân nắm chắc tay lái, cứ muốn cho xe vượt nhanh lên nhưng lại sợ chiếc Solex của Bạch Liên đuổi không kịp. Còn Bạch Liên thì luôn luôn nhận còi tuy trên đường không lấy gì làm đông đảo lắm. Tiếng còi xe của Bạch Liên nghe "ò, ò" như giục giã, nghịch ngợm, làm Việt chịu không được. Anh bảo :
- Bạch Liên này!
- Anh bảo gì?
- Tại sao bạn cứ kêu ò - ò luôn miệng thế?
- Ơ! Ăn nói hay nhỉ. Còi xe Solex nó kêu thế, chứ Liên kêu đâu!
- Ừ thì còi xe kêu. Nhưng đừng bóp nữa. Nghe sốt ruột lắm.
- Mình anh sốt ruột thôi à. Bạch Liên cũng đang nóng lòng muốn chóng tới nơi xem có chuyện gì đây.
- Lạ nhỉ, không biết giáo sư kêu bọn mình tới gấp làm gì?
Bạch Liên quay lại phía Khôi, hỏi :
- Anh Khôi, có đoán ra sự gì không?
Khôi ung dung - anh ta làm bộ ra thế - mỉm cười :
- À, đến để ăn bánh Trung thu như khi nãy cô vừa nói.
Bạch Liên gắt :
- Chắc thế không? Hay là...
Việt hấp tấp hỏi :
- Hay là... sao?
- Hay có chuyện gì... bất thường, giáo sư muốn nhờ bọn mình.
Khôi cắt ngang :
- Cứ tới nơi khắc biết.
Nói đoạn Khôi lại chúm miệng thổi sáo. Điệu sáo chỉ đủ anh nghe, vì động cơ của hai chiếc xe gắn máy nổ ròn át đi. Thật sự lúc ấy Khôi cũng đang bận tâm suy nghĩ. Anh đoán rằng hẳn không phải chỉ để cho ăn bánh mà giáo sư Minh Đăng kêu bọn anh đến gấp, vào giờ này!

***

Quả nhiên có chuyện bất thường thật.
Khi bộ ba Khôi, Việt và Bạch Liên tiến vào phòng khách thì giáo sư Minh Đăng đã ngồi đợi ở đấy. Giáo sư là một nhà bác học nổi tiếng, tuổi đã khá cao. Thấy bọn trẻ giáo sư đứng ngay lên :
- À, các cháu đã tới. Ta đang chờ để nhờ các cháu một việc. Ta vừa bị mất cắp...
Bạch Liên và Việt đều sửng sốt :
- Mất cắp! Thưa giáo sư mất gì ạ?
- Một bức tranh vô giá treo ở bên phòng tài liệu.
Khôi lễ phép hỏi :
- Thưa giáo sư, chúng con sang xem được chứ ạ?
Giáo sư mở cửa phòng tài liệu :
- Vào đây các cháu. Phòng này các cháu biết rõ cả rồi mà.
Phòng tài liệu của giáo sư Minh Đăng là một căn phòng rộng rãi, sáng sủa bày la liệt những cổ vật đánh dấu các triều đại của nước ta mà giáo sư đã công trình sưu tập được trong mấy chục năm trời. Từ chiếc trống thường dùng để thúc quân ra trận, những mẫu tiền kẽm lưu hành từ xưa, đến tượng một vua Chàm với chiếc lọ sành đào được trong ngôi cổ mộ v.v... tất cả đều được trưng bày thứ tự như một bảo tàng viện thu hẹp.
Cả ba theo chân giáo sư đến một chiếc án thư kê sát tường. Giáo sư chỉ lên khoảng trống của bức tường nói:
- Các cháu còn nhớ bức tranh treo ở đây chứ nhỉ?
Việt nhanh nhẩu :
- Dạ bức tranh vẽ hình con chim đậu trên cành mai.
Giáo sư gật đầu :
- Phải, bức Mai Điểu của một nhà danh họa Trung hoa. Hình như ta đã có giảng cho các cháu nghe về lai lịch bức tranh này thì phải.
Bạch Liên thưa :
- Dạ, chúng con đã được giáo sư cho biết : bức họa đó là do nhà danh họa họ Lương vì cảm mến một vị sứ thần của ta nên vẽ tặng. Khi về nước, vị sứ thần đó có dâng lên vua xem. Nhà vua lấy làm ưng ý, có ngự phê thêm một bài thơ...
- Phải, thế ra ta đã giảng cho các cháu biết rồi... Nhưng có điều các cháu chưa thưởng thức nổi những nét tuyệt kỹ trong bức tranh ấy. Tất cả những nét chấm phá trong bức tranh ấy có thể gọi được là toàn bích. Cho nên bức họa quý giá đã làm cho nhiều người ham muốn.
Vừa đây, mới cách đây vài hôm thôi, có một người Tàu tới xin trả một giá rất đắt để mua lại. Ông ta đề nghị mua với giá 200 ngàn đồng…
Khôi chúm môi, toan huýt một hơi gió. Nhưng anh vội đưa tay bịt miệng lại kịp, vì biết rằng đứng trước một nhân sĩ khả kính như giáo sư Minh Đăng mà bộc lộ sự sửng sốt của mình theo lối ấy thì quả là một điều vô lễ.
Bạch Liên cũng kinh ngạc không kém. Cô sững người nhìn giáo sư:
- Thưa mắc thế cơ ạ?
Giáo sư Minh Đăng cười :
- Không mắc đâu các cháu ạ ! Ta bảo là vô giá bởi vì ngoài giá trị nghệ thuật của bức tranh, còn có giá trị của lịch sử nữa. Nó đánh dấu một thời đại cực thịnh về văn học của nước ta. Nó làm chứng rằng danh tài của nước ta khi xưa đem chuông đi đánh nước người đã không hổ thẹn là con cháu Tiên Rồng, làm cho danh sĩ nước ngoài phải cảm phục. Rồi đến thủ bút của vị vua nhân hậu, anh minh, chuộng hiền tài của ta xưa...
Cho nên dù người ấy có trả hơn thế nữa ta cũng không bao giờ bán, vì muốn sau này khi ta không còn ở trên đời này nữa, thì những bảo vật này sẽ thuộc quyền viện bảo tàng quốc gia Việt Nam .
Giáo sư nói những lời ấy giọng bùi ngùi cảm khái. Nhưng rồi như chợt nhớ ra trường hợp hiện tại, ông hậm hực tiếp :
- Thế mà không biết ai đã lấy cắp mất bức tranh quý giá ấy rồi! Từ nãy tới giờ ta nghĩ mãi mà không biết ngờ cho ai là thủ phạm... Ừ, ai đã biết rõ giá trị của bức tranh này? Và ai có thể vào đây để lấy cắp chứ?
Khôi chăm chú nhìn lên khoảng tường trống.
Bức tranh treo lâu ngày một chỗ đã hứng đọng ở trên tường một lớp bụi mỏng. Thủ phạm khi vội vàng gỡ bức tranh xuống đã vô tình quệt tay vào lớp bụi đó. Trên mặt án thư dấu bụi còn vương trên mặt gỗ bóng. Theo dõi vết bụi, Khôi bước lại phía cửa sổ trông ra vườn.
Chợt Bạch Liên kêu lên :
- Ồ !
Khôi quay lại thấy Bạch Liên cúi mình trên sàn gạch hoa, ngay trước án thư, nhặt lên một chiếc đồng hồ kiểu để bàn.
Bạch Liên hỏi:
- Thưa giáo sư, sáng nay đã có ai vào phòng này chưa?
Giáo sư Minh Đăng lắc đầu :
- Ngoài tên trộm thì chỉ mới có ta vào đây và nhận ra bức tranh đã bị mất.
Bạch Liên nhìn chiếc đồng hồ nói :
- Nếu vậy thì chính tên trộm đã làm rớt chiếc đồng hồ này từ trên mặt án thư xuống. Bị rơi xuống đất, chiếc đồng hồ đã bị kẹt không chạy được. Kim đồng hồ còn đứng nguyên lúc 9 giờ. Như vậy chúng ta được biết tên trộm có mặt ở đây vào khoảng ấy.
Việt đứng cạnh đókết luận :
- Nếu thế vụ trộm xảy ra cũng mới đây thôi, vì bây giờ là 10 giờ 30. Thử xem hắn đi ra bằng lối nào.
Tiếng Khôi trả lời :
- Nó ra bằng lối này!
Mọi người nhìn theo Khôi, lúc ấy đang đứng gần phía cửa sổ. Khôi chỉ cho mọi người xem vết bụi vương từ mặt án thư nói :
- Tên trộm vào đây từ lúc cửa sổ này chưa mở. Hắn để nguyên như thế để khỏi có ai trông thấy. Gỡ xong bức tranh xuống, hắn sờ soạng theo vách tường lần ra đây, cố tránh để khỏi va vào những pho tượng, tủ kính bày rải rác giữa phòng.
Việt nhìn theo tay Khôi chỉ, thốt kêu :
- Đúng rồi! Có dấu tay của hắn sờ trên tường.
Khôi tiếp :
- Phía sau bức tranh bám đầy bụi, nên tay hắn lấm bẩn và đã vô ý để lại vết tay trên tường. Hắn từ chỗ án thư men lại đây, vặn chốt cửa, rồi dùng cả một bàn tay đẩy cánh cửa ra, nhảy xuống vườn...
Bạch Liên tiến lại gần quan sát cánh cửa sổ, gật gù :
- Phải. Trên chốt cửa có nổi rõ vết ngón tay cái, và ở khung cửa hằn rõ cả một bàn tay...
Việt bàn :
- Nếu vậy thì tên trộm đã tự tố cáo rồi. Chỉ cần nhờ nhà chức trách đến lấy dấu tay là truy ra thủ phạm.
Giáo sư Minh đăng lộ vẻ băn khoăn :
- Ồ không. Ta chẳng muốn phiền nhà chức trách, vì không thích để chuyện này lọt ra ngoài, gây sôi nổi bàn tán như lần trước, lần ta suýt bị bắt cóc. Nếu tìm ra được tên trộm ta chỉ mong lấy lại bức tranh quý giá ấy là đủ. Vì lẽ ấy ta mới gọi riêng các cháu đến giúp ta. Cùng lắm, nếu gặp khó khăn ta sẽ nhờ đến ba cháu Khôi, thám tử Trần tâm.
Xòe rộng bàn tay ra, giáo sư làm như phân trần với bọn trẻ :
- Ta đã già lão quá rồi chẳng muốn chuốc lấy điều rắc rối làm chi.
Rồi nhìn Khôi, giáo sư hỏi :
- Liệu có cần mời ba cháu không nhỉ?
Khôi mỉm cười đáp :
- Thưa giáo sư để lát nữa, khi cần bắt tên trộm. Bây giờ xin giáo sư cho phép chúng con gặp bà Năm, bà quản gia để hỏi một vài điều.
- Được, để ta đi gọi. Giờ này chắc bà ấy đang dọn dẹp trên phòng ngủ.
Giáo sư Minh Đăng vừa đi ra thì Bạch Liên đã hỏi Khôi :
- Anh nghĩ thế nào?
Khôi hỏi lại :
- Bạch Liên không thấy đó sao?
- Thấy gì chứ ?
- Những vết dấu tay.
- Phải rồi ! Những vết dấu tay rành rành ra đó ai không biết.
- Nhưng cô có nhận xét thấy điều gì lạ không ?
Bạch Liên nhoẻn miệng cười, xòe bàn tay trái ra áp vào vết tay in trên cánh cửa sổ đáp :
- Có. Anh trông này, tên trộm dùng tay trái để mở cửa.
Việt nói :
- Còn bức tranh tên trộm cầm bằng tay mặt.
Khôi cười, nháy Bạch Liên :
- Dĩ nhiên rồi ! Có hai tay thì một tay cầm tranh còn một tay mở cửa chớ còn gì nữa !
Vừa lúc ấy giáo sư Minh Đăng từ trên lầu đi xuống, theo sau là bà quản gia. Thấy bọn Khôi, Việt bà Năm mỉm cười giơ chiếc cán chổi ra dọa :
- Các cậu lại đến phá rộn gì giáo sư đấy ? Bữa nay ngày rằm không để cho cụ nghỉ ngơi ư ! Kìa, chào cô Bạch Liên...
Bạch Liên tươi cười tiến lại :
- Chào thím Năm ! Giáo sư kêu chúng em lại đấy chứ. Từ sáng đến giờ thím Năm đã vô phòng tài liệu này chưa?
- Chưa !
- Hèn chi thím Năm chưa biết chuyện gì xảy ra nhỉ ?
Bà Năm ngẩn ngơ nhìn Bạch Liên hỏi :
- Chuyện gì ?
- Nhà vừa mất trộm, thím không rõ sao !
Bà Năm trợn tròn mắt :
- Trời ! Có trộm à ?
Bà quay lại nhìn giáo sư như để hỏi xem lời Bạch Liên nói có thực không. Giáo sư điềm đạm gật đầu :
- Phải, tôi vừa mới thấy mất một bức tranh trong phòng này, nên chưa kịp nói cho bà biết.
Khôi chỉ lên tường :
- Bức tranh treo ở chỗ đó, thím Năm ạ !
Bà Năm càng lộ vẻ ngạc nhiên hơn. Bà lẩm bẩm :
- Trộm lấy một bức tranh. Lạ thật, nó lấy tranh về để nó treo hay sao. Trộm nào mà kỳ cục thế !
Bạch Liên lắc đầu bảo :
- Không kỳ cục đâu thím ạ. Nó lấy, vì nó biết giá trị của món đồ nó lấy chứ. Từ sáng đến giờ thím đã thấy có ai ra khỏi nhà chưa ?
- Chưa. Hôm nay giáo sư nghỉ ở nhà, nên cũng không có việc gì sai bảo họ cả.
- Nếu vậy thì có lẽ tên trộm chưa trốn khỏi nơi đây. Nhà có mấy người giúp việc thím nhỉ ?
- Kể cả tôi là bốn. Tôi, rồi đến chú tài lái xe cho cụ, anh bếp và bác làm vườn.
- Thím gọi tất cả lên đây được không ?
Bà Năm hăm hở nói :
- Được chứ, để tôi đi gọi.
Giáo sư Minh Đăng tiếp :
- Bà bảo họ lên cả phòng khách. Nhân thể bà cũng dọn nước cho chúng tôi uống luôn.
Bà Năm quay đi, giáo sư dẫn bọn Việt ra phòng khách tần ngần bảo :
- Không lẽ các cháu nghi cho các gia nhân của ta sao ?
Bạch Liên thưa :
- Xin giáo sư cứ an tâm. Chúng con không làm gì mếch lòng họ đâu. Chúng con cũng chưa dám nghi cho ai cả, nhưng cần tìm một bằng cớ để biết đích thủ phạm là người trong nhà hay người ngoài.
- Thế các cháu định hỏi họ thế nào ?
Khôi đáp :
- Dạ, thưa giáo sư chúng con không hạch hỏi gì họ cả, chỉ nói chuyện với họ rằng nhà vừa mất trộm thôi ạ.
Giáo sư Minh Đăng im lặng khi nghe có tiếng chân bước của các gia nhân từ dưới nhà đi lên. Cụ hơi tỏ vẻ áy náy khi họ bước vào phòng khách do bà Năm dẫn đầu. Bà nói với chủ:
- Thưa cụ, các chú ấy đây ạ.
Giáo sư phác một cử chỉ hiền hậu :
- Bà bảo các anh ấy ngồi cả đi. Ờ... tôi mời các anh lên để... báo cho biết trong nhà vừa bị mất trộm.
Giáo sư thấy bối rối trước những gia nhân mà cụ đã đặt hết lòng tin cẩn, chưa biết nên giải thích thế nào, vì thực tình cụ không hề nghi cho họ.
Khôi đứng lên xin đỡ lời. Anh nói :
- Tên trộm lấy mất một bức tranh trong phòng tài liệu, và có lẽ đã trốn thoát, nên có ai thấy sự gì khả nghi thì xin cho giáo sư biết.
Bạch Liên khả ái tiếp :
- Chú tài có thấy gì lạ sáng nay không ?
Người tài xế đáp :
- Hôm nay cụ nghỉ ở nhà nên tôi đem xe ra lau và vô dầu mỡ từ sáng tới giờ dưới nhà xe, không hay biết gì hết.
Khôi mỉm cười :
- Chú tài nói đúng đấy. Nhìn tay chú cũng biết. Dầu mỡ hãy còn dính đầy ra kia...
Người tài xế xòe hai bàn tay ra nhìn rồi chùi vội trên ống quần :
- Nghe bà Năm kêu lên cụ gọi, tôi hấp tấp chưa kịp lau.
Khôi nhặt gói thuốc lá trên bàn chìa ra :
- Mời chú hút điếu thuốc.
Chú tài đưa mắt nhìn cụ chủ. Giáo sư Minh Đăng dẽ dàng bảo :
- Ta cho phép, anh cứ hút tự nhiên.
Người tài xế nể lời rút lấy một điếu.
Việt bật diêm châm điếu thuốc hộ chú tài. Chú mỉm cười cảm ơn Việt. Đối với bọn Khôi, chú tài vẫn có thiện cảm. Chú không lạ gì bộ ba này, vì thường được giáo sư sai đem xe đến rước họ luôn. Thím Năm cũng vậy. Là quản gia của giáo sư nên mỗi lần bọn Khôi đến chơi, thím thường có dịp tiếp xúc với bọn trẻ, và dành cho họ một sự tiếp đãi ân cần.
Duy có anh bếp và bác làm vườn bọn Khôi ít gặp. Khôi tiếp tục mời thuốc lá, trong lúc Bạch Liên khôn khéo gợi chuyện :
- Anh bếp có thấy gì không ?
- Tôi bận dưới bếp nên cũng không biết gì cả.
- Thế còn bác Lãm ?
Bác Lãm là người làm vườn. Bác đưa tay đỡ lấy điếu thuốc lá Khôi chìa ra, đáp :
- Tôi mải làm vườn nên cũng không để ý !
Việt vừa châm điếu thuốc cho người làm vườn chợt nhác thấy Khôi nhìn Bạch Liên và đưa mắt sang phòng làm việc của giáo sư.
Bạch Liên gật đầu, thoăn thoắt bước sang. Việt thấy Liên nhắc ống điện thoại, hấp tấp quay số.
Trở về, Bạch Liên nói với bà Năm :
- Thím Năm à, em nghĩ như thế là đủ, vì cũng chẳng ai biết gì hơn. Vậy xin cám ơn thím, chú tài và anh bếp...
Khôi mỉm cười tiếp :
- Nhưng còn bác Lãm, xin bác hãy nán lại để chờ sự quyết định của giáo sư đã.
Quay lại giáo sư Minh Đăng lúc ấy đang ngồi nhấp tách nước trà theo dõi cuộc "điều tra", Khôi nói:
- Thưa giáo sư, thủ phạm lấy trộm bức tranh chính là người này.
Giáo sư Minh Đăng chưa kịp tỏ thái độ, thì người làm vườn đã đứng lên sừng sộ bảo Khôi :
- Cậu đừng có ăn nói hồ đồ. Tôi lấy bức tranh ấy làm gì. Vả lại lúc 9 giờ tôi còn đang bận ở ngoài vườn...
Bạch Liên cười gằn :
- Sao bác biết vụ trộm xảy ra lúc 9 giờ ?
Người làm vườn giật mình tìm cách chống chế :
- À... nghĩa là... tôi...
Khôi chỉ vào bàn tay của hắn còn đang cầm điếu thuốc lá cháy dở tiếp :
- Lúc 9 giờ bác vào phòng tài liệu, gỡ bức tranh xuống rồi men theo bức tường phía trái mở cửa sổ nhảy ra vườn. Dấu tay của bác còn để lại trên cánh cửa sổ. Bác nên thú thật với cụ chủ và trả lại bức tranh đi, vì nếu để cảnh sát tới chắc bác không thể nào thoát được.
Mặt người làm vườn tái nhợt hẳn đi. Hắn lấm lét nhìn mọi người ấp úng nói :
- Tôi... tôi không biết...
Rồi bỗng nhiên hắn băng mình chạy ra cửa, xô Bạch Liên ngã xuống đất. Giáo sư hấp tấp đỡ Bạch Liên dậy ôn tồn hỏi :
- Cháu có làm sao không ?
Bạch Liên nhăn mặt đáp :
- Dạ, cảm ơn giáo sư con không sao cả.
Vừa nói cô vừa nhớn nhác tìm Khôi, Việt.
Đôi bạn đã phóng mình đuổi theo tên trộm.
Hắn chạy ra đến vườn thì sững người lại, vì đụng phải thám tử Trần Tâm, theo sau có hai người cảnh sát.
Khôi, Việt cùng reo :
- Ba... ! Bác...
Thám tử Trần Tâm ung dung chỉ người làm vườn :
- Hắn đấy phải không ?
Khôi gật đầu :
- Vâng.
Vừa lúc ấy giáo sư Minh Đăng cùng Bạch Liên cũng vội vã chạy ra. Giáo sư cuống quýt hỏi :
- Hắn đâu rồi ?
Việt chỉ người làm vườn đang bị hai cảnh sát viên nắm tay dẫn đến, nói :
- Thưa giáo sư, hắn bị bắt kia rồi.
Giáo sư thở dài :
- May quá, thế thì bức tranh chưa mất. Mà sao lại có cả cảnh sát và ai như ông Trần Tâm ấy nhỉ ?
Bạch Liên thưa :
- Dạ, hồi nãy con có gọi điện thoại cho bác Trần Tâm, không ngờ bác lại đưa cả cảnh sát tới !

***

Khi mọi người vào cả trong phòng khách, thám tử Trần Tâm nghiêm nghị hỏi người làm vườn :
- Anh giấu bức tranh ấy ở đâu ?
Bác Lãm cúi đầu, giọng thiểu não :
- Tôi giấu dưới kho, chỗ để dụng cụ làm vườn.
Nghe lời thú tội của bác Lãm, thím Năm đang bưng khay nước ra liền sửng sốt "hứ" một tiếng rồi lẩm bẩm :
- Bộ thằng cha này điên rồi. Vàng bạc không lấy, đi ăn cắp một bức tranh...
Bác Lãm ngửng đầu lên, buồn rầu nói :
- Sở dĩ tôi lấy bức tranh ấy, vì hôm nọ, tình cờ tôi được nghe người Tầu tới đây trả giá rất đắt xin mua, mà cụ chủ tôi khăng khăng không chịu bán. Khi người ấy trở ra, tôi theo hỏi họ muốn mua bức tranh ấy làm gì. Ông ta bảo để đem về xứ của ông. Nhân đấy trước khi ra khỏi cổng, ông có dặn tôi nói lại với cụ chủ, nếu cụ đổi ý thuận nhường lại với cái giá ông ta đã trả, thì cứ cho ông ta biết. Nói đoạn ông ta trao cho tôi cánh thiếp có ghi rõ địa chỉ, để nhờ tôi trao lại. Tôi cầm cánh thiếp ấy và nảy ra ý định trộm bức tranh để đem bán cho người Tầu nọ.
Ngừng một lát bác Lãm tiếp :
- Tôi lấy bức tranh ấy sáng nay vào lúc 9 giờ, vì biết bà Năm chỉ vào quét dọn trong phòng tài liệu vào khoảng 11 giờ. Và dù có vào, bà cũng chỉ lo quét dọn chứ không để ý đến bức tranh đó. Tôi định đến trưa sẽ đem bức tranh đi. Không may, hôm nay giáo sư nghỉ nhà, lại sang phòng tài liệu sớm và thấy mất...
Nói đoạn bác chắp tay xá giáo sư Minh Đăng, cầu khẩn :
- Con trót dại, xin cụ tha cho.
Giáo sư Minh Đăng buồn rầu nói với hai viên cảnh sát :
- Hắn vốn là người hiền lành, chỉ vì trong một lúc không dằn được lòng tham mà làm bậy. Xin các ông nể lời tôi mà tha cho hắn. Vả lại, bức tranh của tôi còn đó, chưa mất...
Hai nhân viên công lực nhìn nhau. Một người nói :
- Thưa giáo sư, dù cụ không truy tố, chúng tôi cũng có bổn phận đưa hắn về quận để lấy lý lịch đã.
Nhìn bác Lãm riu ríu theo hai cảnh sát ra xe, giáo sư lắc đầu than :
- Tội nghiệp. Tôi thực không ngờ !
Và nắm lấy tay thám tử Trần Tâm, giáo sư vồn vã nói :
- Ông Trần Tâm, tôi cảm ơn ông nhiều lắm !
Quay lại bọn Khôi, Việt, giáo sư tiếp :
- Các cháu đáng được thưởng. À, ta có ít bánh Trung thu rất ngon cất trong tủ... Bạch Liên, cháu vào lấy đem ra đây đi và xin bà Năm pha cho một ấm nước trà mới nhé !

***

Trên đường về, Việt cho xe đi gần chiếc solex của Bạch Liên, hỏi :
- Bạch Liên này, cô là người thông minh, cô thử nói cho tôi nghe tại sao Khôi lại quyết chắc rằng bác Lãm là thủ phạm vụ trộm ?
Bạch Liên bĩu môi đáp :
- Thôi đốt anh đi, đừng có cho Liên đi tàu bay giấy nhé. Nếu anh không nhận xét ra thì cứ chịu đi rồi Liên nói cho mà nghe.
Việt cười :
- Chịu thì tôi không chịu, nhưng tôi muốn hỏi xem sự nhận xét của cô có giống của tôi không ?
Bạch Liên giảng giải :
- Này nhé, khi ở phòng tài liệu anh có để ý đến dấu tay của thủ phạm không ?
- Có !
- Và có gì đặc biệt đáng chú ý không ?
- Hì hì, đặc biệt là dấu tay trái ! Hắn dùng tay trái để mở cửa.
Bạch Liên gật đầu :
- Phải. Tại sao hắn không cầm bức tranh bằng tay trái để dùng tay phải mở cửa ?
- Vì hắn thuận tay trái...
- Dĩ nhiên rồi ! Hắn thuận tay trái, nên khi anh Khôi vờ mời thuốc lá mọi người để quan sát thì ai cũng đưa tay phải ra rút lấy. Duy chỉ có bác Lãm, anh có thấy bác ta chìa tay nào ra đỡ điếu thuốc không ?
- Ờ... ờ... tay trái.
Bạch Liên kết luận :
- Điều đó đủ chứng tỏ bác ta là thủ phạm. Hơn nữa, bác còn tự tố cáo bằng cách nói hở ra thì giờ bác vào phòng tài liệu, mà chiếc đồng hồ bác đánh rớt từ trên mặt án thư xuống đất đã chỉ rõ. Đúng thế không nào ?
Việt gật gù đáp :
- Đúng ! Đúng quá !
Trong lúc Khôi cười ngặt nghẽo bảo Bạch Liên :
- Thế là Bạch Liên mắc mưu Việt rồi nhé ! Khôi đoán chắc từ lúc ở nhà ra đi, Việt tiếc bữa bánh Trung thu đang ăn dở nên chẳng nhận xét ra điều gì cả. Cu cậu mù tịt, đến bây giờ mới rõ đấy thôi !

TRƯỜNG SƠN
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Dấu tay trên cửa
Tác giả: Khương Hồng
Tủ sách Hoa Đỏ
Scan: Nguyễn Ngọc
Đánh máy: VNTQ
3xfqfCiRmUddEISVcWRkDtEKsyzYVVHVG97t43a4jyEIQtsQW858WIBnaHlJWFz0F19uxqlOwiK25zU6km-vW87MMiopND3DeOFBUTeyuCbcWC0gZpxo9o-qWaX4VzWIUZA0zxnI9bhrC3iGU23s7eoXNd3rhlXsVOCtjfOsUw8mBVJNHeLRdv0XFeOW1mDUO1QAqoXeHYHevYCgoTGJCZzUmQNvJ73RpHDcFJVSxg3sjYUNGEI7vzLekPHiCPEr7WH-XGkUYNWwW0Ti-SQdRei_rCDzSXzVHqFql5LkN4jp1X9-aNJhHHlEmqV4K5jD3wJk2BEKH8xAd7g9q1FY8465RotBv2Sx81fowstgOszskTedb5Zq8lP_kR65tdf-wJCLrUtJcnSt1yvWAqT5cnDs6dO10vJ_8AlnENNuO62SKIehIoAoP24mg1Q1Rxm54vozUQeioLSl9umetkGt6-7oXJYwGvLkHBglu70IxsgGjg79fWM9ggTg4AkUxU2kfz4U_bdqUeHdaYxfwa3bSurLSnxQH5emzpHQbnD91OYjRcyt-OrDj_x2Sn9l4xFnRjii144JPYDoWXZ99rTvJ5AJNy60JMwvghtAn0Mc4ia0Wy3aYPwwYg=w500-h704-no


Chương 1. Những vết cạy phá
Chiếc xe du lịch êm ái phóng nhanh trên xa lộ Biên Hòa. Xe gồm ba người: tài xế Hớn ngồi băng trước, băng sau là ông bà thầu khoán Lê Dũng. Họ vừa từ Đà Lạt về sau bốn ngày nghỉ mát.
Cùng đi với họ còn có cô con gái độc nhất. Vì bận một áp phe quan trọng nên ông bà phải về trước để cô gái ở lại thêm ít hôm. Sau mùa thi trông cô ta mất sức nhiều, ông bà Lê Dũng nghĩ rằng không khí mát mẻ của Đà Lạt rất tốt để dưỡng sức cho niên học sắp tới.
Khi xe đến một ngã quẹo, nơi đó tấm bảng chỉ đường to tướng dựng lên ghi hai chữ “BIÊN HÒA” và mũi tên phía dưới, tài xế Hớn giảm tốc lực, quay về phía sau nói :
- Thưa ông chủ, chúng ta về nhà trước hay vào luôn Sàigòn đi công việc?
Ông Lê Dũng trả lời :
- Anh cho tôi về nhà đi. Đường xa mệt mỏi quá. Công chuyện đó để chiều sẽ hay. Giờ phải đánh một giấc cho khỏe.
Quay sang bà Lê Dũng, ông hỏi :
- Bà có cần vào Sàigòn sắm đồ không. Nếu cần chúng ta đi ngay.
- Thôi để khi khác. Hôm nay trông ông có vẻ mệt dữ đó.
Ông ta bật cười khẽ :
- Ừ! Đi đường xa bao giờ cũng mệt.
Xe từ từ rẽ sang con đường đất đỏ gồ ghề và bụi bậm. Được một khoảng lại quẹo phải, tiến vào một con đường khác hẹp hơn, hai bên toàn cây ăn trái. Ngôi biệt thự xây theo lối cổ của ông bà Lê Dũng xuất hiện về phía cuối con đường, xung quanh um tùm những cây cối.
Nơi đây tuy có xa chợ Biên Hòa nhưng mát mẻ và yên tĩnh. Trong khoảng hơn trăm thước không một căn nhà nào khác. Do đó giữa vườn cây rậm rạp, ngôi biệt thự màu trắng hiện ra như một ốc đảo cô đơn giữa lòng sa mạc hoang vu. Nó lạc lõng và bơ vơ theo năm tháng.
Tài xế Hớn cho xe dừng lại trước cổng, anh ta mở cửa xe bước ra, đẩy hai cánh cổng nặng nề bằng sắt treo một tấm bảng nhỏ ghi dòng chữ “Biệt thự Mỹ Hà”, tên cô con gái độc nhất của ông bà Lê Dũng. Nhà không còn một ai khác để ra mở cổng, do đó tài xế phải làm công việc này. Quanh năm suốt tháng ngôi biệt thự chỉ gồm bốn người: Ông bà chủ, cô con gái và tài xế Hớn.
Xe tiến vào biệt thự bằng con đường trải sỏi băng qua một vườn hoa nhỏ. Ông bà Lê Dũng bước khỏi xe đi dạo quanh nhà, một thói quen của họ mỗi khi đi xa về. Riêng tài xế Hớn cho xe vào garage ở cuối sân.
Bỗng ông Lê Dũng đứng khựng lại. Mắt ông chăm chú ngó về phía trước, môi ông lắp bắp như vừa khám phá ra một sự việc quan trọng. Ông kêu to :
- Nhìn kìa... Bà nhìn xem...
Bà Lê Dũng nghe tiếng kêu hoảng hốt của ông vội quay lại. Mặt bà tái xanh: Theo hướng tay chỉ của ông, bà nhận ra vết cạy phá nơi cánh cửa ngang hông nhà. Có người đã phá cửa vào nhà trong lúc ông bà ở Đà Lạt. Nhưng họ vào làm gì? Bọn bất lương chăng?
Cánh cửa không còn khóa mở tung ra sau cú đá của ông Lê Dũng. Bên trong bày ra một cảnh tượng làm ông bà thốt lên :
- Trời ơi!
Sàn nhà bị bọn gian nạy gạch lên và đào xới như tìm kiếm một vật gì. Vết đào xới này chứng tỏ bọn chúng thực hiện cách đây không lâu. Đất chưa khô hẳn, hãy còn ẩm ướt. Ông Lê Dũng tự đoán :
- Có lẽ sàn nhà bị đào hồi tối này.
Lúc đó tài xế Hớn từ ngoài xe tất tả chạy vào. Anh ta cũng vừa chứng kiến những sự kiện lạ. Anh ta nói :
- Ông chủ... ông chủ... cửa nhà xe bị ai mở sẵn tự lúc nào.
Ông Lê Dũng hỏi :
- Anh có thấy mất mát món gì không?
Bà Lê Dũng nói chen vào :
- Ông hỏi kỳ cục không? Bọn trộm vào nhà xe để lấy gì? Ngoài ấy đâu có món gì quý giá. Chỉ toàn sắt vụn mà thôi. Nếu bọn chúng muốn trộm thì vào nhà trước mới phải.
Nói đến đây bà mới sực nhớ rằng từ nãy đến giờ chưa kiểm điểm xem bọn trộm đã lấy những gì. Bà vội bỏ lên nhà trước sục sạo các gian phòng.
Còn lại hai người đàn ông đứng sững trước vết đào xới giữa nhà. Ông Lê Dũng lập lại câu hỏi vừa rồi :
- Thế nào? Mất món gì ngoài nhà xe?
- Thưa mọi vật còn y nguyên, chỉ trừ...
Ông Lê Dũng sốt ruột hỏi :
- Chỉ trừ món gì?
- ... hai chiếc xẻng để ở đống sắt vụn.
Liền đó hai người nhìn lại dưới chân mình. Hai chiếc xẻng bị vất nằm lăn lóc trên sàn nhà giữa đám gạch đất ngổn ngang. Ông Lê Dũng hỏi vợ ngay :
- Mất những món nào?
- Không mất gì cả, lạ quá. Tôi lục soát thật cẩn thận vẫn không thấy một món nào bị bọn gian mang đi.
- Trên lầu?
- Cũng thế. Mọi vật vẫn ở vị trí y như lúc chúng ta ra đi.
Ông Lê Dũng nhức đầu với những biến cố xẩy ra dồn dập. Trước hết là vết cạy phá nơi cửa nhà ngang. Điều này chứng tỏ bọn gian đã dùng lối đó để xâm nhập vào nhà. Sau đó, một lỗ hổng đào xới dưới nền nhà. Bọn chúng tìm vật gì đến độ phải dùng xẻng đào tung lên? Cửa nhà xe bị mở chứ không bị cạy. Bọn gian có thể dùng chìa khóa giả mở cửa nhà ngang? Ồ! Rắc rối thật. Và điều khó hiểu cuối cùng là bọn chúng chỉ vào nhà để đào xới, ngoài ra không lấy một món quý giá nào.
Bao câu hỏi xoáy trong đầu óc khiến ông bối rối. Đột nhiên một sự kiện lạ lùng trong đó làm ông lóe lên một mối nghi ngờ. Ông đã nghi ngờ ai và tại sao? Điều này ông giữ bí mật để âm thầm tìm ra nội vụ. Hiện giờ ông tin tưởng rằng mình sẽ thành công và sớm tóm cổ được bọn gian đem ra trước pháp luật.


* * *

- Xin chào ông Thanh tra.
Ông Lê Dũng ra tận cổng đón viên Thanh tra Cảnh sát phái đến để điều tra nội vụ.
Viên Thanh tra là một người dong dỏng cao với hàng râu mép cong vút. Ông bước xuống xe và bắt tay gia chủ. Dưới con mắt nhà nghề ông nhìn sơ qua quang cảnh ngôi biệt thự để tìm thêm những yếu tố khác giúp ích cho cuộc điều tra. Ông vui vẻ hỏi :
- Ông không sờ mó nhiều vào đồ đạc trong nhà chứ?
- Vâng, theo đúng như lời chỉ dẫn của ông trong điện thoại tôi đã ra lệnh cho người nhà không được đụng đến sợ gây thêm phiền toái cho việc truy tầm dấu tay.
- Ồ, phải đấy! Tôi xin cám ơn ông về sự thông cảm với nỗi khó khăn của nghề nghiệp chúng tôi. Bây giờ, chúng ta có thể vào nhà.
- Xin mời ông.
Vào đến bên trong Thanh tra cho toán nhân viên tháp tùng lấy dấu tay vài vật nghi ngờ thủ phạm vô tình đụng đến. Theo sự chỉ dẫn của chủ nhà, ông đến quan sát thật kỹ dấu cạy phá cửa nơi ra vào nhà ngang. Mày ông nhíu lại ra chiều suy nghĩ. Ông nói :
- Bọn gian đã dùng kềm và “tournevis” để phá cửa vào.
Ông Lê Dũng ngạc nhiên :
- Chúng dùng kềm và cây vít?
- Phải. Điều này dễ nhận thấy vì dấu vết răng chiếc kềm hằn sâu vào gỗ. Ngoài ra cây vít dùng nạy chốt khóa cũng lưu lại một lỗ khá sâu. Theo kinh nghiệm của tôi đây là một loại kềm và vít đặc biệt chế tạo tại INDIA. Điều này có lẽ về sau phải nhờ đến ông giúp đỡ.
Viên phụ tá ghi chép những nhận xét vào cuốn sổ tay nhỏ. Thêm vào đó ông ta dùng máy ảnh chụp lại nơi cạy phá.
Đứng bên lỗ hổng do bọn gian đào giữa nhà viên thanh tra nhận xét cẩn thận hai chiếc xẻng và cho người đến lấy dấu tay. Ông lưu ý đến đặc tính loại đất và sự ẩm ướt của nó. Ra đến nhà xe ông để ý đến yếu tố bọn gian dùng chìa khóa giả. Ông hỏi gia chủ :
- Ông bà đi nghỉ mát độ bao nhiêu hôm?
- Chúng tôi bỏ nhà trống suốt bốn ngày ở Đà Lạt!
- Chìa khóa nhà xe do ông bà giữ?
- Không. Tài xế Hớn được tôi giao chiếc chìa khóa để tiện việc cho xe vào ra.
- Trong nhà ông thường dùng loại kềm, vít của hãng Gedore chế tạo tại INDIA?
Ông Lê Dũng ngạc nhiên trước câu hỏi này. Ông không hiểu viên Thanh tra đã tìm ra một tia sáng nào cho vấn đề mà lại đặt ra một câu hỏi như thế. Tuy nhiên ông cũng thành thật trả lời :
- Điều này tôi không được rõ. Suốt ngày ở ngoài công trường xây cất nên tôi không rành về hiệu các loại kềm, búa dùng trong nhà. Nhưng có lẽ tài xế Hớn hiểu rành mạch vì anh ta thường sửa xe.
- Ồ! Nếu không gì trở ngại thì tôi sẽ gặp tài xế Hớn ngay bay giờ.
- Vâng. Anh ta đang sửa xe trong garage. Để tôi gọi hắn ra gặp ông.
Viên Thanh tra khoát tay bảo :
- Như thế phiền quá. Tôi sẽ vào nhà xe gặp anh ta tốt hơn.
Tài xế Hớn đang nằm dưới lườn xe, nghe tiếng chủ gọi vội chui ra. Quần áo anh dính đầy dầu xe và bùn đất. Anh ta ngượng ngùng khi được ông Lê Dũng giới thiệu với viên Thanh tra. Nhìn phớt qua quang cảnh nhà xe, viên Thanh tra hỏi :
- Anh hay dùng loại kềm, vít mang nhãn hiệu Gedore?
Một thoáng ngạc nhiên và bối rối hiện ra trên mặt tài xế Hớn. Anh ta cố gắng lấy lại bình tĩnh và tạo vẻ tự nhiên trả lời. Tuy nhiên điều này không qua mắt được nhà thám tử. Ông thản nhiên như không nhận ra điều đó và chờ câu đáp của anh ta.
- Thưa... vâng... phần lớn dụng cụ sửa xe tôi đều mua hiệu đó cả, vừa rẻ vừa bền.
Viên Thanh tra nở nụ cười bí mật và nói một câu nửa úp nửa mở gây hoang mang cho anh tài xế :
- Phải chi anh dùng một loại khác kém đặc biệt hơn hiệu Gedore này.
Anh ta thật thà đáp :
- Tôi tưởng hiệu ấy rẻ và bền là hai yếu tố tốt nên tôi ưa dùng.
- À! Không có gì cả. Đó chỉ là một nhận xét của tôi về hiệu kềm anh mua. Nhưng... tại sao anh có vẻ lo nghĩ sau câu nói ấy?
Tài xế Hớn lúng túng không trả lời được. Để đánh tan bầu không khí đang nặng nề trong nhà xe, ông ta bảo :
- Nếu có thể, anh cho tôi mượn vài dụng cụ sửa xe nhé?
- Vâng. Xin ông cứ tự nhiên.
Như đã dự định trước Thanh tra bước đến thùng đồ nghề của anh tài xế lấy ra hai món gói vào mảnh giấy cầm tay. Bước ra ngoài nhà xe ông ta từ giã ông Lê Dũng ra về.
Còn lại một mình, ông Lê Dũng suy nghĩ nhiều qua cuộc đối thoại trên. Hình như viên Thanh tra có ý nghi ngờ tài xế Hớn liên quan đến vụ này. Từ việc giữ chìa khóa nhà xe đến hiệu kềm của anh ta mua đều được ông chú ý và ghi nhận cẩn thận. Lúc ông ta gói hai vật dụng trong thùng sửa xe mang về, ông Lê Dũng thoáng nhìn và biết ngay đó là một chiếc kềm và một cây vít. Tuy ông Thanh tra có ý không cho mọi người biết nhưng ông Lê Dũng đoán ra ngay vì một lẽ dễ hiểu là người mà ông Thanh tra nghi ngờ lại trùng hợp và giống người ông Lê Dũng chú ý ngay từ giờ phút đầu: Không ai khác hơn tài xế Hớn, người có chìa khóa nhà xe và kềm, vít mang nhãn hiệu Gedore.
Đôi khi bọn gian kém tinh ý trong thủ đoạn đến nỗi bị khám phá về sau. Nhưng điều thắc mắc của ông Lê Dũng là tài xế Hớn đã đào xới nhà ngang với mục đích gì? Câu hỏi này sẽ được giải đáp hoàn toàn sau đó vài hôm, chấm dứt cuộc điều tra về vụ trộm kỳ lạ: Một vụ trộm mà bọn gian không lấy một món gì quý giá trong nhà sau khi cạy cửa xông vào.
Tài xế Hớn có biết đâu sự kỳ lạ trên sắp được giãi bày và anh ta là nhân vật khá quan trọng trong câu chuyện đó.

Chương 2. Ma quái xuất hiện
Tối hôm đó, ông bà Lê Dũng ngồi đọc báo trong phòng khách. Gian phòng rộng với những hàng cột to và bài trí theo lối xưa vì ngôi nhà này được xây cất khá lâu dưới thời Pháp thuộc. Cuối phòng là cầu thang bằng gỗ đánh bóng dẫn lên lầu.
Phòng khách quá rộng rãi nên ánh sáng từ chiếc đèn trên tường chỉ soi rõ một phần gian nhà, ngoài ra những nơi khác khá xa ngọn đèn nên mù mờ tối. Trong vùng ánh sáng đó một bộ “sa lông” được kê dùng tiếp khách. Hiện giờ ông bà chủ nhà chăm chú xem tin tức trên báo. Ông Lê Dũng tỏ vẻ không quan tâm đến việc xảy ra hồi sáng. Riêng bà Lê Dũng có ý chú tâm đến vụ trộm vào nhà. Vả lại những điều bàn tán ngoài chợ lúc chiều này làm bà hoang mang. Bà bỏ tờ báo xuống và nói :
- Ông à! Sao tôi thấy ông bình tĩnh quá!
Ông Lê Dũng ngước mắt nhìn vợ hỏi :
- Bình tĩnh về vụ gì? Tôi chưa hiểu ý bà muốn nói.
- Thì vụ trộm vào nhà đó. Ông chẳng tỏ ra thái độ gì chứng tỏ lưu tâm đến bọn gian.
Ông Lê Dũng bật cười nói :
- Tôi lưu tâm nhiều lắm chứ? Nhưng là hồi sáng kìa. Bây giờ thảnh thơi đọc báo cho bớt căng thẳng thần kinh. Vả lại nhà có mất mát gì đâu. Bọn chúng chỉ dám lẻn vào khi nào nhà cửa vắng người chứ hiện giờ mình có mặt, đố tụi nó dám đào hầm khoét vách.
- Chính ở chỗ bọn chúng không lấy món nào tôi mới nghi.
- Bà nghi điều gì?
Bà Lê Dũng biết rằng điều mình sắp nói ra đây sẽ làm ông ôm bụng cười và không tin. Nhưng bà có nhiều yếu tố để chứng tỏ điều mình nghi ngờ là đúng. Những lời thiên hạ nói ở chợ còn văng vẳng bên tai và tăng thêm sự tin chắc của bà. Tuy đã quyết định cho chồng biết nhưng bà vẫn ngại nói ra. Bà còn đang chần chừ thì ông Lê Dũng đã lặp lại câu hỏi lần nữa :
- Bà nghi điều gì? Tại sao lại không nói ra, biết đâu tôi chẳng giải quyết được.
Không thể kéo dài được nữa bà nói :
- Tôi nghi... nhà mình... có... ma.
Quả đúng như sự dự đoán, ông Lê Dũng cười không tin. Ông bảo :
- Giữa thời đại này bà còn tin ma?
Biết rằng phải giải thích cặn kẽ mới mong làm ông Lê Dũng tin nên bà trả lời :
- Vì ông chưa thấy nên ông chưa tin đó thôi.
- Bà đã trông thấy ma hiện ra tại nhà mình rồi à?
- Không, tôi không thấy nhưng người ta thấy “nó” xuất hiện ở nhà này.
- Ai đã trông thấy và nói lại bà nghe chuyện động trời đó? Tôi với bà sống ở đây cả chục năm trời có bao giờ thấy ma quỷ gì đâu.
- Lúc trước không có nhưng từ khi mình bỏ nhà lên Đà Lạt chúng bắt đầu xuất hiện. Nhiều người thấy và bàn tán ầm cả chợ. Họ bảo cách đây mấy hôm có dịp ngang nhà mình vào ban đêm họ thấy có ánh đèn leo lét và bóng trắng hiện ở cửa sổ nhà mình.
Ông Lê Dũng vẫn chưa tin :
- Chắc họ quáng mắt trông lầm chứ gì. Làm sao có chuyện ma quỷ. Họ thấy bà yếu bóng vía nên đặt điều dọa chơi đó thôi.
Bà vẫn quả quyết có thật và nêu lên yếu tố khác :
- Ông không nhớ rằng cách đây thật lâu, trước khi mình đến ở, nhà này được dùng làm “phòng nhì” của Pháp?
- À! Tôi hiểu bà muốn nói gì rồi. Phải bà có ý nói lúc đó mật thám Pháp bắt người về đây đánh đập, tra khảo, chôn xác ngoài vườn nên có ma?
- Ông cho rằng không đúng?
- Tôi đoán chắc như vậy. Sự việc chỉ là bọn gian vào nhà mình trong lúc vắng người đào xới tìm vật gì đó nhưng không thấy. Để bà xem vài hôm nữa ông Thanh tra cảnh sát sẽ đem thủ phạm ra ánh sáng.
Vừa nói dứt câu ông bỗng im bặt nhìn về phía góc nhà khuất ánh sáng. Mắt ông mở to lên sửng sốt, miệng há hốc không nói nên lời. Ông nhác thấy bóng một người mặc đồ tang trắng, tóc buông xõa hiện ra. Ông kinh ngạc nhìn và ú ớ gọi :
- Kìa... bà nhìn ở... góc nhà...
Bà Lê Dũng quay lại nhìn. Bóng ma biến mất từ lúc nào. Lúc đó ông Lê Dũng hoàn hồn nói lắp bắp :
- Ồ! Lạ quá... Tôi mới thấy đó... giờ mất rồi...
Bà Lê Dũng ngạc nhiên :
- Ông vừa nói thấy gì rồi mất. Tôi chẳng nhận ra gì cả.
- Tôi vừa thấy một bóng người hiện ra ở góc phòng. Hình như một người đàn bà mặc bộ đồ tang trắng, tóc xõa che kín mặt. Khi bà quay lại nó biến mất.
Bà Lê Dũng sợ hãi :
- Trời! Thấy chưa tôi nói có sai đâu. Ông cứ một mực không tin. Bây giờ thấy tận mắt rồi ông có chịu nghe lời tôi không.
Như còn nghi ngờ ông bảo :
- Có thể tôi nhìn lầm. Bà đừng hốt hoảng thế. Tôi vẫn chưa tin có chuyện ma hiện ra tại nhà mình.



* * *


Ngọn đèn nhỏ nơi đầu giường tỏa ra một thứ ánh sáng yếu ớt soi mù mờ gian phòng ngủ. Ông Lê Dũng còn trằn trọc mãi chưa ngủ. Từ sáng đến giờ ông gặp biết bao nhiêu chuyện rắc rối. Vụ trộm cạy cửa vào nhà tưởng đâu êm xuôi giờ thêm bóng ma hiện ra ở phòng khách. Những sự kiện xảy ra trong ngày khiến ông phân vân đến nỗi không ngủ được. Bí mật bao trùm quanh căn nhà. Không lẽ nào có chuyện ma quái như lời thiên hạ đồn đại. Bọn gian nạy cửa vào nhà chính là người chứ không phải ma. Nếu ma tại sao chúng lại phải mất công phá cửa?
Tuy không tin rằng có ma nhưng ông còn nghi vấn về bóng trắng ban nãy. Óc ông đột nhiên lóe lên một tia sáng để giải thích sự xuất hiện vừa rồi. Có thể bọn gian lẻn vào nhà nhưng vì bóng tối khiến ông nhìn lầm ra bóng ma. Lúc ông gọi vợ, tên kia hoảng sợ bỏ trốn làm tăng thêm mối phân vân.
Bên ngoài trời tối đen như mực, gió đêm rít qua khe cửa vào phòng lạnh buốt. Tiếng chó sủa từ xa vọng lại lanh lảnh. Lá cây xao động rì rào như có ai lay động. Một vẻ gì ghê rợn trong nhà. Ông Lê Dũng có cảm giác rờn rợn khắp người. Lá khô bị gió thổi kéo rèn rẹt trên con đường trải sỏi dưới chân vọng lên như tiếng chân người kéo lê trên mặt đất. Bốn bề hoang vắng lạ thường.
Bỗng một chuỗi tiếng động từ dưới nhà đột ngột vang lên. Ông Lê Dũng nín thở lắng nghe. Dường như tiếng chân người nặng nề tiến từng bước chậm chạp, gót giày gõ vang động trên sàn gạch. Đúng là tiếng chân người. Nhưng ai lại vào nhà ngang nhiên khua giày như thế?
Ông chồm người dậy bước nhẹ nhàng ra khỏi phòng. Qua ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn treo trên thang gác, ông lần mò bước thận trọng xuống từng nấc thang. Ông cố tránh gây tiếng động để được chứng kiến tận mắt con người kỳ lạ kia.
Đến chỗ gắn “công tắc” ông dừng lại nghe ngóng. Tiếng chân vẫn vang lên đều đều và theo sự ước đoán, con người kia chỉ cách ông chừng năm thước. Tự nhiên một nỗi lo sợ xâm chiếm lấy ông. Thu hết can đảm ông đưa tay bật đèn và hét :
- Ai đó?
Qua vùng ánh sáng chói chang, lóa mắt. Tuy nhiên ông cũng nhận ra một bóng người khuất nhanh qua cánh cửa ăn thông ra ngoài vườn. Một người dong dỏng cao với tấm lưng rộng, dáng vóc của dân Tây phương. Đôi giày cao ống da đánh bóng. Bộ y phục của quan quyền dưới thời Pháp và thắt lưng đen mang khẩu súng ngắn.
Ông Lê Dũng vội chạy theo chận lại. Nhưng ông vô cùng sửng sốt vì cánh cửa vẫn khóa kín. Như vậy người kia thoát ra ngoài vườn bằng ngõ ngách nào?
Bất giác ông rùng mình. Ông vừa nhớ lại người mật thám quốc tịch Pháp bị dân trong vùng nổi loạn giết chết tại căn nhà này cách đây mấy mươi năm. Cũng vào một đêm thanh vắng như đêm nay và cũng tại nơi này.


* * *

Trở về phòng ông không còn buồn ngủ nữa. Dưới nhà tiếng chân im bặt. Căn nhà lại chìm trong yên lặng, một thứ im lặng rợn người và khó thở.
Trời càng về khuya, gió thêm lạnh và lá cây ngoài vườn xao động mạnh.
Đột nhiên tiếng chân ban nãy tiếp tục vang lên. Nhưng lần này không phải tiếng gót giày mạnh bạo gõ trên sàn nhà mà nghe như tiếng chân của một người mệt mỏi kéo lê trên mặt đất. Tiếng chân tiến về phía thang gác. Ông Lê Dũng hồi hộp chờ đợi. Từng bước chân chậm chạp bước lên thang, rõ dần... và... rõ dần. Cuối cùng tiếng chân im bặt trước phòng ngủ của ông. Thần kinh ông căng thẳng tột độ, tay chân như rã rời, không cử động nổi.
Ông suýt hét lên khi thấy cửa phòng được khóa cẩn thận tự động mở ra như có ai nắm kéo. Tiếng bản lề rít lên làm rợn tóc gáy. Từ khung cửa hiện lên một người bê bết máu, quần áo tả tơi. Ngọn bạch lạp nơi tay lung linh thật dễ sợ. Xiềng xích trói tay khua động leng keng. Bóng người kia giương cặp mắt mệt mỏi về phía ông, môi mấp máy như nói một câu gì. Gương mặt sưng vù, thành tích sau một cuộc tra tấn. Đôi tay khẳng khiu trong lớp áo rộng thùng thình phất phới vẫy chào ông.
Kinh sợ ông Lê Dũng sửng sốt nhìn bóng người đầy vết máu. Ngọn bạch lạp lu mờ, lu mờ dần và tan biến trong nỗi kinh hoàng. Bóng ma hiện và biến mất không gây một tiếng động nào khác ngoài chiếc xiềng khua nơi tay. Nhưng ông Lê Dũng như còn thấy cánh tay gầy ốm, xanh xao kia vẫy mãi. Và cuối cùng ông ngất đi trong cơn mơ đầy hình ảnh quái dị.

Chương 3. Nghi vấn
Viên Thanh tra cảnh sát đưa mắt nhìn quanh ngôi biệt thự. Hôm nay ông trở lại để tìm thêm yếu tố giúp cuộc điều tra tiến hành tốt đẹp hơn. Việc đầu tiên là xem bọn gian đã lọt vào bên trong bằng khe hở nào để từ đó tìm dấu vết đặc biệt nhận dạng thủ phạm. Toàn thể ngôi nhà được bao bọc bằng hàng rào chấn song sắt khá cao và khó leo trèo. Bọn gian không dại gì lại vào đây bằng cách leo vất vả. Như thế một ngõ ngách nào đó giúp bọn chúng thi hành thủ đoạn.
Ông Lê Dũng ngạc nhiên khi thấy viên Thanh tra nhìn thật lâu vườn hoa và hàng rào. Ông khôi hài nói :
- Chắc ông Thanh tra thích loại hồng nhung do chúng tôi trồng?
Thanh tra cảnh sát quay lại cười bảo :
- Vâng. Tánh tôi rất yêu hoa hồng. Hôm nào có dịp xin mời ông bà đến viếng nhà thưởng thức bộ sưu tập các loại hoa hồng của chúng tôi. Nhưng bây giờ là lúc đang thi hành nhiệm vụ, tôi nhìn khu vườn xinh đẹp này dưới một khía cạnh khác.
Ông Lê Dũng ngạc nhiên :
- Ngoài vẻ đẹp ra tôi không hiểu nó còn một điểm gì đặc biệt thu hút ông Thanh tra chăm chú nhìn như thế.
- Ồ! Có nhiều điều đặc biệt lắm. Chẳng hạn như tôi muốn nhờ khu vườn này chỉ cho chúng ta thủ phạm.
- Ồ! Điều này nghe thoáng qua có vẻ lạ tai.
- Vậy xin mời ông cùng tôi vạch mặt thủ phạm nhờ sự giúp đỡ của các đóa hồng mơn mởn và dịu dàng.
Nói xong ông len giữa những luống hoa hồng đang rung rinh khoe sắc trước gió. Ông dừng lại nơi cửa nhà ngang bị bọn gian cạy phá. Từ đó ông nhìn dọc suốt khu vực trồng hoa hồng gần cửa. Ông quan sát thật kỹ lưỡng bụi hồng, từ những cành lá thật nhỏ bé. Viên Thanh tra kiên nhẫn dán sát mắt vào bụi cây khả nghi. Ông hy vọng tìm ra vài chi tiết nhỏ nhặt tố cáo rằng bọn gian đã đi qua.
Ông Lê Dũng sốt ruột trước sự trầm ngâm của viên Thanh tra. Sau một lúc lâu tìm kiếm, viên Thanh tra được một kết quả xứng đáng. Ba bụi hồng nằm dọc theo lối đi có những cành giơ ra ngoài bị gãy vài đọt non. Điều này chứng tỏ có người dùng lối đi vào ban đêm nên không tránh khỏi đụng chạm lưu lại dấu vết.
Lần theo con đường dẫn ông đến sát hàng rào chấn song ở cuối sân. Không lẽ dấu vết đến đây lại biến mất? Bụi cây rậm rạp ở góc sân che giấu điều gì bí mật? Dùng tay vạch một khoảng, ông tìm ra một cánh cửa cũ kỹ khuất sau bụi cây. Ông quay lại nói với ông Lê Dũng :
- Các đóa hồng của ông đã giúp tôi phăng được vết tích của bọn gian. Nhưng tôi xin hỏi ông về cánh cửa rỉ sét này.
Nói xong ông chỉ cho chủ nhà cánh cửa mình mới vừa tìm ra. Ông Lê Dũng trả lời :
- À! Đây là cánh cổng có từ lâu đời. Nghe đâu chủ nhân xây cất lên ngôi nhà này là một gia đình giàu có. Họ cho thiết lập cổng sau làm lối ra vào của gia nhân. Sau đó người Pháp chiếm ngụ ngôi nhà dùng làm phòng Nhì, họ khóa cổng lại không sử dụng. Từ khi về ở nhà này tôi cũng giữ nguyên tình trạng đó vì không cần dùng đến.
- Cánh cửa bỏ phế lâu đời lại khuất sau một bụi rậm to tướng. Như vậy bọn gian phải là người thân cận trong nhà mới biết và dùng làm ngõ chui vào.
- Phải đấy. Chính tôi cũng quên không nhớ tới nó. Tôi nghi ngờ...
Viên Thanh tra khoát tay bảo :
- Hãy khoan nói ra điều nghi ngờ. Chốc nữa chúng tôi cho ông biết kết quả cuộc điều tra sơ khởi. Khi đó chúng ta có nhiều bằng cớ để tha hồ nghi thủ phạm.
- Vâng. Tôi cũng nóng lòng muốn biết kết quả của ông. Nào! Bây giờ chúng ta tiếp tục nghe những bụi hồng nói về bọn gian chứ?
- Cố nhiên. Chúng ta đi.
Hai người vạch cành lá và chui vào bên trong bụi rậm. Cánh cổng cũ kỹ không khóa. Sợi dây xích đã han rỉ bị bọn trộm cắt đứt vất dưới đất. Không phải nhọc công tìm kiếm Thanh tra cũng nhận ra những dấu giày in sâu vào đất sét. Nhờ trời nắng ráo mấy hôm nay nên vết giày hiện rõ rệt. Điều này sẽ giúp Thanh tra truy lùng nội vụ rất nhiều. Ông ra lệnh cho nhân viên dùng thạch cao đổ khuôn các dấu giày này. Xong xuôi hai người trở vào phòng khách thảo luận các kết quả đầu tiên của cuộc điều tra.
Ông Thanh tra mở đầu câu chuyện bằng câu nói :
- Như ông thấy hôm qua chúng tôi lấy dấu tay vài vật trong nhà có liên quan đến vụ trộm. Và kết quả thật đúng như dự đoán. Các dấu tay ở hai chiếc xẻng, nắm cửa và bàn ghế không ai xa lạ...
- Tên tài xế Hớn? - Ông Lê Dũng không kềm chế được sự nóng ruột nên thốt lên.
- Phải! Của chính tài xế Hớn, một người rất quen thuộc với ông bà.
- Hắn làm việc cho gia đình tôi gần bốn năm nay chưa bao giờ làm điều gì xằng bậy. Vợ chồng tôi rất hài lòng về tánh tình siêng năng và thật thà của nó. Không ngờ...
Viên Thanh tra hiểu ý ngắt lời :
- Không ngờ hắn lại nhúng tay vào nội vụ.
- Vâng. Quả tình tôi không ngờ. Tôi cho rằng chuyện này có nhiều ẩn khuất thúc đẩy tên Hớn phản tôi.
- Dĩ nhiên. Nhưng trước khi được biết các chi tiết này ông dựa vào đâu nghi ngờ tên tài xế?
- Rất dễ hiểu. Đầu tiên là việc cánh cửa garage bị mở mà không có vết cạy phá. Chỉ có hắn là người độc nhất có được chìa khóa. Ngay cả tôi còn không có. Thứ hai là sự vắng mặt bất thường của hắn trong bốn ngày chúng tôi ở Đà Lạt.
Nắm ngay lấy yếu tố quan trọng bất ngờ này viên Thanh tra hỏi :
- Hắn vắng mặt như thế nào?
- Trong những ngày ở Đà Lạt hắn có nhiệm vụ đưa gia đình tôi đi viếng thắng cảnh. Bất ngờ sang ngày thứ ba hắn nhận được điện tín gọi về vì mẹ hắn đau nặng. Chúng tôi thương hại cho phép hắn về. Hôm sau hắn trở lại Đà Lạt. Chúng tôi không nghi ngờ gì cả và cũng không hỏi về bệnh tình của mẹ hắn vì xem ra hắn rất suy tư và đôi lúc trầm ngâm một điều gì.
- Và ông nghi ngờ?
- Đúng thế. Tôi nghi rằng chính đồng bọn hắn đã tạo ra bức điện tín đó để giúp hắn có lý do trở về.
- Tôi sẽ cho người điều tra về bức điện tín và xác nhận mẹ hắn có đau bệnh gì hay không. Bây giờ chúng tôi tiếp tục cho ông biết các kết quả cuộc điều tra sơ khởi.
Viên Thanh tra cho tay vào túi lấy ra vài tấm hình. Ông nói :
- Đây là những hình do chúng tôi chụp vết cạy cửa. Trong đó hai loại dấu vết đặc biệt nhất là vết răng kềm và vết vít. Thoáng nhìn qua tôi biết được loại kềm bọn gian sử dụng mang nhãn hiệu Gedore. Sở dĩ tôi biết được nhờ kích thước và hình dáng loại kềm này rất đặc biệt mà tôi đã có dịp gặp vào một vụ điều tra cách đây một năm. Kỷ niệm đó còn in mãi trong trí tôi. Kềm hiệu Gedore có cả thảy chín vết răng và cuối cùng bằng một răng kềm ngắn.
Ông Lê Dũng quan sát các tấm ảnh thật kỹ lưỡng. Bỗng ông nhận ra một dấu vết lạ liền nói :
- Hình như các vết răng thứ ba trong những tấm ảnh đều bị ngắn một cách bất thường.
- Phải. Ông nhận xét rất đúng. Sau khi thấy điều đặc biệt này tôi lưu ý ngay. Và cuối cùng tôi tìm thấy chiếc kềm trong thùng đồ của tên Hớn.
- Thảo nào ông mượn hắn hôm qua ở nhà xe. Nếu tôi không lầm thì ông gói vào giấy chiếc kềm và một cây vít.
- Vâng. Ông đoán không sai tí nào. Chúng ta tạm gác vụ cây vít sang một bên để nói tiếp về dấu vết đặc biệt ở chiếc kềm. Chiếc răng thứ ba bị mất một khoảng nên ngắn hơn, tôi quan sát tỉ mỉ điểm đáng chú ý này. Sau đó đem đối chiếu với chiếc kềm tài xế Hớn rất ăn khớp và giống như khuôn đúc. Chính vì chiếc răng thứ ba bị mẻ trong một lần nào đó mà tên Hớn không để ý nên tôi phăng ra được chủ nhân của nó.
Ông Lê Dũng thêm vào :
- Thảo nào lúc ông Thanh tra hỏi về hiệu kềm tôi thấy nó bối rối trả lời.
- Trở lại con vít của tài xế Hớn. Tôi đã so sánh kích thước của dấu vết in trên cửa và nó không sai chạy một ly tấc nào. Tôi quả quyết rằng hai dụng cụ vừa rồi được đem ra sử dụng. Nhưng điều quan trọng phải tìm biết ai đã sử dụng: Tên Hớn hay đồng bọn?
- Và điều tôi muốn nói tiếp lời ông Thanh tra rằng nguyên nhân nào thúc đẩy hắn phản tôi cũng như lý do của việc đào xới nền nhà.
Viên Thanh tra ôn tồn bảo :
- Thời gian sẽ giúp chúng ta trả lời tất cả bí ẩn của nội vụ.
Bên ngoài, những tia nắng ấm áp đầu tiên của buổi sớm mai trải dài trên con đường trải sỏi óng ánh. Nắng vàng tươi vui len lỏi qua từng kẽ lá. Ngôi nhà rực rỡ trong biển nắng, phá vỡ bức màn đen u tối bao trùm sự bí mật.

Chương 4. Ma quái lộng hành
Buổi sáng hôm nay trời vần vũ mưa. Mây đen kéo tới bao phủ kín cả bầu trời. Những khối mây nặng nề chậm chạp giữa sức gió mạnh bạo làm ngã rạp cây cối trong vườn. Những đóa hồng tơi tả trước màn mưa quái ác. Màu đỏ của hồng trôi theo dòng nước mưa đục ngầu xô dạt dưới sân. Hạt mưa bắn vào cửa kính nghe rì rào tạo thành một âm thanh quen thuộc. Dòng nước mưa ngoằn ngoèo chảy dài trên tấm kính.
Bà Lê Dũng đứng tựa cửa sổ nhìn những tia nước từ trên không bắn xuống dày xéo trên đóa hồng nhung mảnh khảnh. Trong phòng khách, ông Lê Dũng đang ngồi đọc báo. Trận mưa này làm ông bỏ dở ý định ra công trường xây cất. Hãng thầu Lê Dũng đang thực hiện một đồ án vĩ đại. Nếu thành công, danh tiếng ông sẽ nổi lên như cồn và công việc làm ăn ngày thêm phát đạt. Nhìn cơn mưa lòng ông ngao ngán. Ông lo ngại cho móng nhà vừa đổ hôm qua sẽ bị xoi mòn, vỡ nát. Công việc đã đình trệ vì thời tiết bất thường, nếu có chuyện gì bất trắc xảy ra thêm có lẽ công trình của ông tiêu tan theo mây khói.
Bỗng chuông điện thoại reo vang. Ông nhấc ống nghe lên và chăm chú theo dõi. Gương mặt ông biến đổi và thẫn thờ đặt ống nghe xuống. Ông bảo vợ :
- Tôi phải đến công trường ngay bây giờ.
Nhìn cơn mưa càng lúc càng mạnh bạo, bà Lê Dũng ái ngại nói :
- Mưa lớn quá. Ông để hôm khác đến cũng chẳng sao. Mọi việc đã có giám thị trông coi, chắc không gì cản trở.
- Không được. Ngoài ấy hiện có một lao công bị đất sụp đè nghẹt thở. Mình không thể vì ngại trời mưa bỏ rơi anh em ngoài đó.
- Hay để tôi gọi tài xế đưa ông ra công trường?
- Thôi khỏi. Hồi sáng nó bảo xe hư sửa tới trưa mới xong. Tôi đã nói với họ đem xe tới đón.
Ông Lê Dũng đi công việc. Trong nhà còn mình bà và tài xế Hớn đang lui cui sửa ngoài xe. Bà xuống bếp lo việc bếp núc. Gian nhà bếp xây bằng đá hoa trắng thật sạch sẽ. Mọi đồ vật bên trong cũng được xếp đặt ngay ngắn. Cánh cửa sổ độc nhất trên tường giúp người đứng trong này có thể nhìn thấy khoảng cuối vườn với nhà xe lợp tôn. Từ phòng khách đi qua một hành lang nhỏ là đến đây. Cánh cửa ra vào sau lưng bà.
Đang làm công việc bỗng bà nghe có tiếng cười lanh lảnh trên lầu. Bà thắc mắc không hiểu ai lại có giọng cười sang sảng kia. Bà không thể nghe lầm vì trong nhà vắng vẻ, chuỗi cười vọng từ trên lầu xuống nghe rõ mồn một.
Bà Lê Dũng bỏ dở công việc đi về phía thang lầu. Bà bước chậm chạp lên từng nấc thang. Rõ ràng tràng cười kia xuất phát từ căn phòng ngủ của cô con gái ông bà. Lúc đứng trước cửa phòng bà vô cùng ngạc nhiên vì tràng cười chấm dứt. Dường như người bên trong biết có rình mò bên ngoài. Tiếp theo đó là âm thanh rầm rầm của bàn ghế khua động.
Bà Lê Dũng xoay quả nắm và mở cửa bước vào. Tất cả đều im bặt. Bàn ghế vẫn ở nguyên vị trí cũ. Những lời đồn đãi của thiên hạ chợt vang dội trong trí. Bà sợ hãi và cảm thấy căn nhà trở nên vắng vẻ lạ thường. Một nét gì ghê rợn đang lẩn khuất đâu đây.
Trở lại nhà bếp bà cố xua đuổi những ý nghĩ ma quái ám ảnh lấy mình. Tiếng cười và tiếng bàn ghế bị khua động lại im bặt khi bà xông vào. Hiện tượng quái đản này làm bà hồi hộp, mồ hôi toát ra ướt cả áo.
Một chốc sau hiện tượng trên lại tái diễn. Nhưng lần này không ở trên lầu mà lại ở trong phòng khách, một vị trí gần nhà bếp hơn. Bà Lê Dũng thảng thốt, tay bà run run không cầm nổi chảo dầu. Bà cố làm ngơ trước tiếng cười ma quái kia. Đột nhiên bà nghe sau lưng có tiếng người thều thào gọi tên mình. Tim đập mạnh như vỡ toang cả lồng ngực. Tiếng thều thào càng lúc càng gần và hối thúc tưởng chừng như còn cách đó vài mét.
Khi quay lại bà hét lên một tiếng. Nơi khung cửa ra vào, một người ăn mặc rách rưới với thân thể bê bết máu và bầm tím đứng đấy tự bao giờ. Hắn mấp máy môi gọi tên bà trong hơi thở. Tiếng rên rỉ như từ cõi âm u vọng lại. Hắn đưa cặp mắt thiểu não van xin và từ từ bước tới gần. Y phục rách nát của hắn hòa lẫn vào âm thanh của rên siết, thều thào.
Bà Lê Dũng kinh hoàng đến tột độ. Khi hắn vừa chầm chậm tiến tới bà hắt cả chảo dầu đang sôi để tự vệ và ngất xỉu giữa muôn ngàn tiếng động dồn dập.
Ngọn đèn trong bếp tự nhiên lu mờ và tắt hẳn.

Chương 5. Thủ phạm
Ông bà Lê Dũng ngồi trên chiếc ghế mây lớn đặt ngoài hiên nhà nhìn ra khu vườn xinh xắn. Những tia nắng cuối cùng trong ngày như hãy còn luyến tiếc, vương vấn trên ngọn cây. Ánh nắng làm vàng rực ngọn cây, kẽ lá. Lá cây như được mạ một lớp vàng óng ánh. Buổi chiều xuống thật chậm. Mặt trời từ từ ngả về tây khuất sau vườn cây ăn trái um tùm.
Sau vụ xúc động mạnh đến ngất xỉu ban sáng, hiện giờ bà Lê Dũng hãy còn mệt mỏi. Tứ chi bà rã rời, hơi thở nặng nhọc. Mũi thuốc khỏe của bác sĩ tiêm không đủ công hiệu giúp bà phục hồi sức lực nhanh chóng. Nhớ lại chuyện xảy ra ban sáng bà còn ghê rợn. Khuôn mặt ma quái bể nát và bầm tím nhiều chỗ làm tăng thêm vẻ quái đản của bóng người hiện ra sau lưng bà. Giọng nói hắn thều thào gọi tên bà trong hơi thở còn văng vẳng bên tai. Bà thốt lên :
- Ghê rợn quá... Có lẽ mình phải bỏ căn nhà này mất.
Ông Lê Dũng đang ngồi trầm ngâm giật mình vì tiếng nói của vợ. Ông bảo :
- Bà đang mang chứng bệnh đau tim nên có thể bị ảo giác do sự tưởng tượng phong phú. Không có gì gọi là ma cả. Tôi sẽ ở đây để tìm sự thật.
Bà ngăn cản chồng :
- Không phải ảo giác đâu ông à. Tôi còn nghe thật rõ tiếng cười the thé và tiếng bàn ghế xô lệch. Thật đúng như lời thiên hạ. Căn nhà này bị các hồn ma chết oan vì tra tấn dưới tay mấy người Pháp quấy phá. Tôi sợ lắm rồi. Không thể nào có can đảm ở lại để chứng kiến thêm các hiện tượng đó nữa.
Ông Lê Dũng trấn an :
- Tôi đã bảo là không có gì. Hay là tôi sẽ ở nhà để luôn luôn có mặt bên cạnh bà. Như thế vững tâm rồi chứ?
Tuy trấn an vợ và cương quyết xác định rằng không có hồn ma nào cả nhưng ông không khỏi nghi ngại. Các hình bóng hiện ra trong đêm qua ông đã thấy tận mắt và nghe tận tai. Ông không nói lại điều này cho vợ nghe vì sợ bà kinh hãi quá đáng. Cơn đau tim có thể tái phát.
Sực nhớ ra điều gì ông vội cho tay vào túi sục sạo. Cuối cùng mang ra bức điện tín nhàu nát nói :
- Tôi vừa nhận được điện tín của Mỹ Hà gởi về. Nó bảo rằng sẽ về đây trong chuyến xe chiều mai lúc bảy giờ tối.
Cầm bức điện tín trong tay bà Lê Dũng đọc lại dòng chữ ngắn ngủi ghi trên đó. Bà suy nghĩ nhiều. Dòng chữ thật gọn, gói ghém hết ý muốn của đứa con thân yêu. Bà không khỏi ngạc nhiên khi nhận bức điện tín. Bà phân vân tự hỏi không hiểu tại sao Mỹ Hà lại có ý định trở về sớm thế. Hôm trước nàng bảo sẽ ở lại Đà Lạt thêm nửa tháng. Sự trở về của Mỹ Hà bình thường không có gì đáng lo ngại. Nhưng trong trường hợp này bà không muốn con gái phải kinh sợ vì gặp các hình bóng ma quỷ chập chờn, xuất hiện bất cứ lúc nào và ở đâu. Mỹ Hà cũng mang bệnh tim như mẹ và tệ hại hơn nữa nàng lại nặng hơn và đang trong tình trạng dưỡng bệnh.
- Ông nhớ con Mỹ Hà đang mắc bệnh nặng?
- Tôi biết điều đó. Bà hỏi lại với ý định gì?
- Tôi không muốn nó trở về nhà lúc này.
Ông Lê Dũng hiểu ý vợ muốn nói, ông bảo :
- Có lẽ bà sợ con nó gặp ma quái rồi thêm bệnh nặng?
- Phải. Tôi e ngại như vậy. Ông phải đánh điện tín bảo nó khoan về chờ khi nào có lệnh của chúng mình gọi.
- Ồ! Nếu có đánh dây thép cũng phải đợi đến sáng mai. Bây giờ gần tối, bưu điện đã đóng cửa. Tuy nhiên tôi biết tánh nó. Tính bướng bỉnh và ương ngạnh của trẻ con sẽ giúp nó không lay chuyển ý định dầu có nhận được điện tín của mình. Vả lại chắc gì các hiện tượng kia lại xảy ra.
- Một lần xảy ra được sẽ xảy ra muôn nghìn lần khác.
- Vâng. Chiều ý bà, tôi sẽ đánh điện cho nó vào sáng sớm ngày mai.
Bà Lê Dũng sung sướng nhìn chồng. Ông lúc nào cũng chiều bà. Ánh sáng đã biến mất tự lúc nào. Thay thế vào đó một màu đen vây kín. Bóng đêm, đồng lõa của ma quái, hiện đang chờ ông bà. Một đêm kinh hoàng nữa bắt đầu.

* * *

Chuông điện thoại trong nhà đột ngột reo vang. Ông Lê Dũng rời ghế ngồi bước vào nhấc ống nghe và nói :
- Alô!... Vâng. Chính tôi đây... À! Xin chào ông Thanh tra. Có chuyện gì quan trọng thế?
Đầu đây bên kia, tiếng viên Thanh tra cảnh sát trả lời :
- Về vụ vắng mặt của tên tài xế Hớn trong những ngày ông bà ở Đà Lạt.
- Sao? Ông Thanh tra đã tìm ra được manh mối khả nghi nào?
- Không phải đây là một điều nghi ngờ. Tôi dám cam đoan chắc với ông như thế. Tôi đã cho người điều tra về bức điện tín kia và biết rằng mẹ của Hớn không hề đau bệnh gì trong những ngày đó. Người ta bắt gặp bà còn mạnh khỏe đi chợ như mọi ngày. Chính chị hàng thịt trong chợ xác nhận điều đó. Chị ta bảo rằng trong ngày bức điện tín được đánh đi, bà cụ có đến hàng chị mua thịt và không tỏ ra một vẻ gì bệnh hoạn nặng cả.
- À! Thì ra đúng như sự dự đoán của tôi. Đồng lõa của nó đã giả vờ, đánh đi bức điện tín đó.
- Thêm một yếu tố chắc chắn nữa là bà cụ hết sức ngạc nhiên về bức điện tín kia. Bà bảo rằng bà vẫn khỏe như mọi ngày nên đâu có ý định gọi con về. Hiên giờ tôi đã hướng mũi dùi điều tra về tài xế Hớn. Danh tánh người đã đánh bức điện tín kia sẽ được tìm thấy vào một ngày gần đây.
- Nhỡ hắn không ghi tên họ và địa chỉ của mình vào bức điện tín làm sao tìm ra được.
- Ồ! Dĩ nhiên rằng tác giả bức điện tín giả mạo kia không dại gì ghi tên họ vào bức điện tín đánh đi ở nhà dây thép. Nhưng với kỹ thuật riêng trong nghề, chẳng bao lâu chúng ta sẽ vạch mặt nạ của hắn. À! Theo nguồn tin chúng tôi bắt được thì hiện giờ người ta xôn xao về vụ ngôi nhà của ông bà có ma. Không hiểu rằng ông có tin như thế không?
Ông Lê Dũng sực nhớ rằng mình chưa cho viên Thanh tra biết về vụ ma quỷ hiện hình tối vừa rồi. Ông bảo :
- Tuy không tin những lời đồn đãi đó vào lúc đầu. Nhưng...
- Nhưng thế nào? Ông cho rằng có thể có hiện tượng ma quỷ?
- Tôi không biết phải xác nhận như thế nào vì chính mắt tôi đã trông thấy nhiều lần.
Viên Thanh tra sửng sốt khi nghe tin này. Ông nói :
- Lạ thật! Xin ông cho biết rõ thời gian và địa điểm ông đã trông thấy.
- Tối qua. Tôi thấy các bóng ma ẩn hiện khắp nơi trong nhà.
- Ông có cho rằng đó là ảo giác?
- Tôi cũng cho là như thế. Nhưng ngoài hình bóng ra, tôi còn nghe được rõ ràng tiếng chân người bước trên sàn nhà. Lúc bật đèn lên tôi thấy bóng viên mật thám chết cách nay khá lâu biến mất sau cánh cửa đóng kín.
Ngạc nhiên trước nguồn tin này, viên Thanh tra nói :
- Bóng người biến mất sau cánh cửa đóng kín. Quả là một chuyện lạ. Nhưng rồi tôi sẽ cố gắng tìm hiểu nguyên do. Ngoài bóng ma đó ông còn chứng kiến một hiện tượng nào khác?
- Một điều lạ lùng nữa là cánh cửa phòng ngủ tôi khóa lại cẩn thận lại tự nhiên mở ra mà không nghe tiếng chìa khóa tra vào ổ. Và một bàn tay bí mật nào đó đã mở rộng cửa ra mặc dầu lúc đó gió không đủ sức phá tung cánh cửa.
- À! Không ngờ các lời bàn tán lại có thật. Bà nhà đã biết được những điều ông thấy chưa?
- Vì vợ tôi mắc bệnh tim nên tôi không cho bà biết.
- Thế may quá. Tôi e rằng khi bà biết, bà sẽ...
- Tuy tôi không cho biết... nhưng vợ tôi cũng đã chứng kiến ma quỷ ngay tại nhà bếp lúc nhà tôi ở đó một mình.
- Lúc nào?
- Ngay hồi sáng này.
- Lại thêm một chuyện kỳ quái. Hiện tượng ma quỷ xuất hiện giữa ban ngày.
Ông Lê Dũng đồng ý với viên Thanh tra về điểm này. Ông hồ nghi nhưng chưa xác định rõ mối nghi ngờ của mình.
- Vâng, đúng là kỳ quái. Vợ tôi kinh hãi quá, sẵn chảo dầu sôi bà hắt vào bóng ma để tự vệ rồi ngất xỉu.
- Ông được bà nhà kể lại rõ ràng câu chuyện ma quái của bà?
- Phải. Và tôi chú ý ngay tới gương mặt tài xế Hớn bị bỏng nặng. Hình như vết bỏng gây ra bởi dầu sôi.
- Có phải ông nghi ngờ hắn?
- Vâng, đúng thế. Tôi nghi ngờ hắn giả dạng ma quỷ để dọa vợ tôi. Không ngờ vợ tôi có phản ứng nguy hiểm khiến hắn bị bỏng. Tôi cố tình không hạch hỏi để xem hắn xử trí ra sao.
Viên Thanh tra trả lời :
- Nội vụ còn nhiều rắc rối. Ngày mai xin mời cả hai ông bà và tài xế Hớn đến ty chúng tôi giúp thêm chi tiết cho cuộc điều tra đang tiến hành.
- Vâng, chào ông.

***

Gác điện thoại xuống, ông Lê Dũng trở ra ngoài hiên. Ông sửng sốt thấy bà Lê Dũng không còn ngồi trên ghế như lúc nãy nữa. Dưới sàn nhà bà bất động nằm cạnh chân ghế. Ông hốt hoảng đem vợ vào, dùng dầu xoa bóp và cho ngửi eter giúp bà tỉnh lại. Một mặt ông gọi điện thoại nhờ viên bác sĩ quen với gia đình đến ngay.
Một lúc sau bà Lê Dũng tỉnh lại. Trông bà yếu ớt và hốt hoảng như vừa qua một cơn kinh hoàng. Ông Lê Dũng mừng rỡ khi thấy bà cử động được. Ông nói :
- Em còn yếu nên ngồi ngoài gió lạnh không tốt.
Bà mệt mỏi khoát tay như muốn nói điều gì. Ông Lê Dũng phải kê sát tai mới nghe được câu nói của bà trong hơi thở yếu đuối, bị đứt khoảng.
- Không... không phải thế.. Bóng ma hiện ở... vườn hoa...
Như vậy trong lúc ông bận nói điện thoại trong nhà, bà Lê Dũng đã trông thấy một bóng ma ngoài vườn hoa. Sức bà không chịu đựng nổi nên ngất xỉu.
Bên ngoài bóng đêm bao trùm lấy vạn vật. Bóng đêm tỏa ra một vẻ gì ghê rợn và kinh khiếp trong ngôi nhà vắng vẻ. Một đêm nữa lại đến với ông bà Lê Dũng trong kinh hoàng và ma quái.

Chương 6. Nghi vấn
- Xin mời quý vị ngồi.
Viên Thanh tra đón ông bà Lê Dũng và tài xế Hớn nơi cửa phòng việc. Sau một đêm kinh hoàng chờ đợi ma quái, ông bà Lê Dũng có vẻ mất bình tĩnh. Riêng tài xế Hớn, hắn ngạc nhiên và tỏ vẻ e ngại khi được mời đến đây để lấy lời khai. Nội vụ sẽ được giải quyết nay mai. Thanh tra hy vọng các chi tiết được cung cấp bởi ông bà Lê Dũng rất cần thiết. Ngoài ra những lời đối chất với tài xế Hớn có thể vô tình vạch trần tội trạng của hắn. Ông ta nói :
- Theo tôi được biết thì ông bà vắng mặt bốn hôm. Và chính vì vắng người nên sự đáng tiếc kia xảy ra. Suốt thời gian bốn ngày tại Đà Lạt tài xế Hớn có xin về Biên Hòa thăm mẹ đau nặng. Có phải vậy không?
Hớn gật đầu trả lời :
- Vâng! Đúng như thế.
- Và sau đó anh được phép của ông bà Lê Dũng. Anh lái xe về Sàigòn vào lúc 4 giờ chiều ngày thứ 3 của chuyến du lịch và trở lại Đà Lạt vào trưa ngày thứ 4. Ngay sau đó anh đưa ông bà về Biên Hòa.
- Phải. Ông bà chủ vui vẻ giao xe cho tôi về nhà khi tôi xin phép.
Viên Thanh tra hỏi :
- Anh có biết rằng trong đêm anh trở về thì tại nhà ông bà Lê Dũng xảy ra vụ cạy cửa? Nếu anh ngủ đêm ở biệt thự có lẽ bọn gian đã không dám ngang nhiên hành động. Trong đêm đó anh có ở nhà không?
- Không. Tôi không ngủ ở nhà được vì một lý do bất ngờ.
- Xin anh cho biết rõ lý do.
- Chiều đó lái xe về đến Hố Nai xe bị trục trặc. Tôi phải ngủ lại một đêm ở đó vì xe sửa đến tối mới xong. Tôi không dám lái về vào lúc trời tối.
- Anh sửa xe ở hãng nào tại Hố Nai?
Hớn có vẻ lúng túng đáp :
- Không... tôi tự sửa lấy vì xe không hư hao nặng lắm. Nhưng tôi có thể chứng minh với ông Thanh tra rằng tôi đã ở đêm tại Hố Nai. Biên lai tính tiền của khách sạn Hoàng Gia tôi còn giữ trong túi. Nó minh xác rằng tối hôm đó tôi chưa về đến nhà.
- Tốt lắm. Tôi có thể xin lại tấm biên lai kia chứ?
- Vâng.
Nói xong Hớn móc trong ví ra tờ biên lai tính tiền phòng trao cho viên Thanh tra. Trong đó khách sạn có ghi rõ ngày giờ khách đến và đi. Nhưng có một điều đáng chú ý rằng không đánh số thứ tự nơi góc. Một sự lầm lẫn của nhân viên khách sạn hay tờ biên lai giả mạo? Thanh tra tiếp tục :
- Có nghĩa là sáng hôm sau anh mới về nhà thăm mẹ?
- Đúng thế.
- Mẹ anh bệnh tình có trầm trọng lắm không?
Tài xế Hớn ấp úng trả lời :
- Không... mẹ tôi vẫn... mạnh khỏe như thường. Tôi... hết sức ngạc nhiên và khi hỏi xem ai đã đánh bức điện tín lừa tôi thì bà trả lời rằng không biết.
- Việc kỳ lạ này anh không mang ra nói cho ông bà Lê Dũng hay?
- Tôi nghĩ rằng nó không quan trọng. Vả lại có thể là bức điện do người bạn đùa dai nào đó của tôi muốn làm cho tôi lên ruột.
- Tôi sẽ tìm cho anh người bạn có óc khôi hài rất nguy hiểm đó vào một ngày gần đây.
Nhìn vết bỏng trên mặt tài xế Hớn, Thanh tra Cảnh sát muốn tìm hiểu nguyên do. Vết da bị phồng kia được gây bởi dầu hoặc mỡ sôi. Toàn thể gương mặt bôi vaseline trên lớp da ửng đỏ. Rất may cho hắn là đôi mắt không hề hấn gì. Bàn tay của hắn cũng chịu một vài vết bỏng nhẹ. Hớn hơi bối rối trước sự dò xét của Thanh tra. Dường như hắn e ngại viên Thanh tra tìm trong ánh mắt mình một nét gì khả nghi, một hành động mờ ám.
- Hình như anh bị phỏng nơi mặt khá nặng.
- Vâng. Dầu sôi văng vào người.
- Ai đã gây cho anh tai nạn này?
- Bà chủ vô tình quăng cả chảo dầu sôi vào người. Một số mảnh dầu bắn lên mặt khiến tôi bị phỏng.
- Trong trường hợp nào, anh kể ra.
- Sáng hôm qua lúc trời mưa lớn tôi sửa xe trong garage. Thình lình nghe tiếng kêu thất thanh của bà chủ dưới nhà bếp. Tôi vội chạy xuống vì không hiểu việc gì xảy ra. Vừa đến cửa tôi đã bị bà chủ tặng nguyên cả khối dầu đang sôi.
Bà Lê Dũng không đồng ý về lời khai của tên Hớn. Bà cho rằng hắn bịa đặt để chạy tội. Ý bà muốn nói chính hắn giả ma để dọa bà nhưng bà không nói ra. Bà bảo :
- Tôi còn nhớ rõ sự việc xảy ra như thế này. Hôm đó tôi đang bắc chảo dầu để chiên cá. Bỗng tôi nghe có tiếng người gọi mình trong hơi thở. Vừa quay lại tôi bắt gặp một người ghê rợn bê bết máu. Quá kinh hãi tôi hét lên một tiếng và thuận tay hắt cả chảo dầu sôi về phía trước để tự vệ. Thời gian giữa tiếng hét và chảo dầu hắt ra rất nhanh chóng không đủ để một người từ nhà trên chạy vào.
Hớn tỏ vẻ bất bình trước câu nói của bà Lê Dũng. Hắn nén cơn giận ngồi nín thinh. Nhưng trong ánh mắt của hắn, người ta thấy được vẻ căm hờn và thách thức. Ông Lê Dũng nhận thấy điều này nên đưa mắt nhìn vợ trách móc. Viên Thanh tra vờ như không thấy, tiếp tục hỏi :
- Chìa khóa nhà xe do anh cất giữ?
- Vâng. Ông chủ đã giao cho tôi trông coi nhà xe.
- Có lúc nào anh vô ý để chiếc chìa khóa này lọt vào tay một người thứ hai?
Tài xế Hớn tỏ vẻ ngạc nhiên và không hiểu ý của viên Thanh tra qua câu hỏi vừa rồi. Anh ta đáp :
- Bao giờ nó cũng ở trong chùm chìa khóa trong túi áo. Làm sao có thể rơi vào tay người nào khác.
Viên Thanh tra nắm ngay lấy cơ hội này. Ông bắt đầu nhận thấy Hớn để lộ vài chỗ sơ hở quý giá cho cuộc điều tra. Việc quan trọng nhất là tìm ra manh mối chiếc chìa khóa đã mở cửa nhà xe. Chắc chắn rằng bọn gian không dùng vít cạy phá vì không lưu lại một vết nhỏ nào. Bọn gian cũng không thể dùng loại dao “nhíp” lá mỏng để xuyên qua ổ khóa vì nếu có làm như thế mũi nhọn và lưỡi bén của dao sẽ phải gây một vết trầy mờ. Nhưng theo sự quan sát của nhân viên an ninh không tìm ra dấu tì vết dù rất mờ. Như vậy bọn gian chỉ còn cách trộm chìa khóa của Hớn để giả mạo. Mà Hớn đã xác nhận rằng không bao giờ chiếc chìa khóa rời hắn. Vậy có ngụ ý gì trong câu nói đó? Hay một sơ hở do sự vô ý Hớn đã để lộ ra? Ông ta bảo :
- Chắc hẳn anh được biết rằng cửa nhà xe không bị cạy phá như cửa nhà ngang? Bọn gian đã dùng chìa khóa mở hẳn hòi chứ không khó nhọc dùng dao.
Tài xế Hớn trả lời :
- Điều này quả thật tôi mới vừa được rõ qua lời ông Thanh tra. Lúc vừa về đến biệt thự, thấy cửa nhà xe mở, vì không phải trong nghề trinh thám nên tôi không nhận xét được.
Như vừa chợt hiểu ngụ ý của viên Thanh tra, hắn đổi thái độ. Hớn lộ vẻ bất mãn vì bị nghi ngờ trong vụ cung cấp chìa khóa cho bọn gian mà hiện giờ đang bị mọi người nghi ngờ là đồng bọn với hắn. Hắn mỉa mai nói :
- À! Tôi biết ngay mà. Ý ông Thanh tra bảo rằng tôi đem chìa khóa này cho thợ tiện làm một chiếc thứ hai giống hệt để giao cho bọn người kia?
Viên Thanh tra giơ hai tay lên trời như tỏ vẻ phủ nhận lời của Hớn vừa nói. Ông bảo :
- Tôi chưa có ý đó. Nhưng... nếu đặt vào trường hợp bọn gian dùng chìa khóa giả anh sẽ giải thích ra sao?
Tài xế Hớn miễn cưỡng đáp :
- Không thể trộm chìa khóa của tôi để giả mạo thì bọn chúng có thể có sẵn một chiếc giống hệt trong số đồ nghề.
Viên Thanh tra không đồng ý với lối giải thích đó. Ông nói :
- Ổ khóa ở nhà xe hiệu Tandar, một loại rất xưa, có lẽ vào thời ngôi biệt thự được cất lên hoặc xưa hơn nữa. Hiện giờ loại đó không còn có mặt trên thị trường. Theo tôi nghĩ bọn gian khó có thể còn giữ được hoặc tìm được chìa khóa quá cũ rích đó. Chúng sẽ không có dịp nào dùng đến nó ngoại trừ trường hợp đặc biệt, ngàn năm một thuở, ở nhà ông bà Lê Dũng.
Hớn chán nản nói :
- Nếu thế tôi không có ý kiến gì về vụ chìa khóa. Nhưng tôi muốn nói ở đây một cách rõ ràng hơn là chiếc chìa khóa của tôi không khi nào rơi vào tay một người thứ hai ngoài tôi ra.
Đồng ý với lời xác minh trên của Hớn, viên Thanh tra gật đầu đáp :
- Tuy giả thuyết của anh bọn gian khó có thể thực hiện nhưng tôi cũng nhận rằng không phải là không có. À! Còn một việc nhỏ này nữa tôi muốn nhờ anh giải đáp.
- Xin ông Thanh tra cứ nói.
- Mọi việc lau dọn trong nhà đều do một tay bà Lê Dũng. Anh không có nhiệm vụ đó phải không?
Tài xế Hớn xác nhận :
- Vâng. Tôi chỉ quanh quẩn trong garage với chiếc xe. Ngoài ra công việc trên nhà tôi không được quyền tự ý thu xếp nếu không có sự đồng ý của bà chủ.
Viên Thanh tra thấy cần phải nói thẳng ra để dò ý của Hớn nên bảo :
- Rất tiếc rằng đa số dấu tay do chúng tôi ghi nhận được sau vụ cạy cửa đều là của anh. Ngoài ra còn một số khác của vài người mà chúng tôi đang lưu ý theo dõi.
Gương mặt Hớn thoáng biến sắc. Dường như hắn cố ý che giấu tội phạm của mình và làm ra vẻ bình tĩnh. Nhưng có lẽ hắn không qua mắt được viên Thanh tra, một người đầy kinh nghiệm trong nghề. Hắn ấp úng đáp :
- Điều này... tôi... không... được rõ... nên... không thể... biện minh được.
Thanh tra vỗ vai Hớn thân mật bảo :
- Khi nào tìm ra được một lời giải đáp nào cho vấn đề đó, anh cứ đến đây với chúng tôi để cùng thảo luận, biết đâu những ý tưởng của anh lại chẳng chính xác và quan trọng hơn của chúng tôi. Bây giờ anh có thể về được.
Hớn đứng dậy chào viên Thanh tra ra về. Hắn thất thểu bước ra xe trước đợi ông bà Lê Dũng. Đầu óc hắn quay cuồng. Cảnh sát đã bắt đầu để ý đến hắn. Nghĩ tới đây Hớn không khỏi rùng mình.

* * *

Đợi Hớn đi khuất, ông Lê Dũng nói :
- Ngoài dấu tay ghi lại trên đồ đạc trong phòng tôi còn chú ý đến hai chiếc xuổng (xẻng).
Viên Thanh tra hỏi :
- Ông đã tìm ra một dấu vết gì khả nghi mới mẻ? Dấu tay in trên hai chiếc xuổng kia chăng?
Lắc đầu, ông Lê Dũng đáp :
- Điều đó tôi đã được ông Thanh tra cho biết từ lâu. Riêng điều tôi khám phá ra ở đây là một sơ hở của tên Hớn trong lúc thi hành thủ đoạn. Vì vô ý hắn không ngờ đến.
- Xin ông trình bày.
- Ông Thanh tra còn nhớ xuất xứ của hai chiếc xuổng ấy chứ?
- Vâng. Theo lời ông thì chúng được cất trong nhà xe.
- Đúng thế. Chính vì nó được cất trong nhà xe nên tôi mới nghĩ ngay đến tên Hớn. Hắn đã mở cửa nhà xe và đem xẻng vào nhà đào xới lung tung. Nếu là một bọn người khác thì làm sao họ biết được rằng nơi góc nhà xe có cất xẻng. Và nếu bọn họ có ý định đào xới thì khi đến nhà khổ chủ chúng phải đem theo xẻng chứ bao giờ lại đợi đến nơi mới tìm.
Viên Thanh tra gật đầu :
- Ông có nhận xét rất tinh vi. Điều này sẽ giúp chúng ta buộc tội Hớn rõ ràng hơn.
Riêng bà Lê Dũng thì thắc mắc một điểm. Bà nói :
- Tên Hớn đã đào xới, giả ma quỷ với mục đích gì?
Ông Lê Dũng đáp lời vợ :
- Đó là việc chúng ta đang làm. Đầu tiên phải tìm ra thủ phạm rồi sau đó khai thác mục đích của chúng.
Nói xong ông bà từ giã viên Thanh tra ra về. Họ hẹn gặp vào một ngày khác khi tìm thêm được một chi tiết nào cần bàn thảo để sớm tìm ra bí ẩn của nội vụ.
Bên ngoài trời nắng gắt. Bí mật bao trùm đang được vén lên. Hiện giờ mọi người đều hy vọng đã đi hơn phân nửa đường tới kết quả. Phần cuối câu chuyện đầy vẻ khó hiểu kia sẽ còn nhiều điều bí ẩn.

Chương 7. Minh oan
Hớn choáng váng đầu óc. Hắn tưởng những như trời đất sắp sụp đổ đến nơi. Hai mắt hắn long lên vì men rượu. Đôi mắt đỏ ngầu nhìn khắp quán rượu lèo tèo vài người. Nơi quầy, Hớn ngồi trên chiếc ghế cao, gục đầu bên đống vỏ chai ngổn ngang. Từng giọt rượu khô, nóng cháy cổ được hắn nốc ừng ực mặc dù đã quá say. Một vài người trong quán đưa mắt nhìn hắn ái ngại.
Từ nãy đến giờ Hớn lầm lì ngồi một mình uống như điên cuồng không để ý đến ai. Khác với lệ thường, mỗi lần vào quán là hắn làm ồn cả lên. Trong những lúc đó, Hớn là một người chọc cười có duyên nhất. Hắn mang lại từng chuỗi cười ròn rã thoải mái. Nhưng hôm nay hắn ngồi đó như cách biệt với mọi người. Nhìn gương mặt hắn bây giờ thật dễ sợ. Không ai dám men lại gần gạ chuyện.
Hắn không nói một câu nào mặc dù có rượu. Người xưa thường bảo: “Rượu vào lời ra”. Hớn vẫn câm miệng như hến trước số vỏ chai càng lúc càng chồng chất. Hiện tượng lạ này làm mọi người ngạc nhiên không ít. Ắt hẳn hôm nay Hớn có một điều gì buồn phiền trong lòng nên không muốn bị ai quấy rầy.
Trong quán giờ đây chỉ có những tiếng lào xào trò chuyện của thực khách. Hớn vẫn ngồi đó uống cạn từng ly rượu đầy. Tự nhiên hắn đâm ra bực bội trước sự yên lặng ở đây. Hắn muốn bầu không khí hơi khuấy động một tí. Hắn bực dọc dằn mạnh vỏ chai trên quầy và lè nhè nói :
- Đem thêm rượu ra coi.
Bồi bàn định mang thêm rượu cho Hớn nhưng chủ quán ngăn lại. Từ lâu ông và Hớn là bạn rất thân. Nhìn số vỏ chai lăn lóc và thái độ kỳ quặc của Hớn ông hơi ngạc nhiên. Ông bước đến gần hắn với hy vọng vì tình bạn sẵn có ông sẽ khuyên can và tìm hiểu được điều bực dọc mà hắn đang mang trong lòng. Ông vỗ vai Hớn nói :
- Thôi Hớn à! Tôi thấy anh uống hơi nhiều rồi đó. Ngừng lại ở đây là vừa. Say mèm như anh làm sao có sức lái xe đưa ông chủ đi làm?
Hớn lờ đờ đưa mắt nhìn chủ quán gắt gỏng :
- Làm ăn gì nữa? Tôi không còn muốn trở về căn nhà đó. Chán lắm rồi. Anh mang rượu ra đây rồi cùng tôi uống cho quên, quên tất cả.
Chủ quan khuyên can :
- Uống bấy nhiêu đó đủ rồi. Anh nên nghe tôi về kẻo say khướt nằm lăn ra đây trông khó coi lắm. Anh nghe tôi lần này đi Hớn. Để anh tỉnh rồi, mai mốt tụi mình uống cũng được.
Hớn một mực khăng khăng không đồng ý. Hắn muốn chủ quán cùng ngồi cụng ly với mình. Hắn bảo :
- Về sao được nếu tôi cứ ấm ức mãi trong lòng. Tôi nhất định mời anh uống dầu cho có nằm lăn ra ở đây cũng không sao. Nếu anh có đuổi, tôi ra ngoài đường nằm chờ chết.
- Ai lại nỡ đuổi anh bao giờ. Có chuyện gì cứ nói ra để chúng ta cùng giải quyết êm xuôi. Việc gì phải uống rượu nhiều để hại sức khỏe.
- Chuyện này kỳ cục và khó nói lắm. Nếu có rượu vào tôi mới có đủ can đảm cho anh biết.
Chủ quán vì muốn tìm biết điều bí ẩn Hớn đang cất giấu nên chiều ý hắn. Ông ra lệnh cho mang ra thêm hai chai rượu. Chờ cho Hớn uống xong ngụm đầu tiên ông nói ngay :
- Nào! Bây giờ uống xong rồi, anh kể cho tôi nghe nội vụ. Anh em mình sẽ tìm cách giải quyết và đối phó tốt đẹp.
Hớn nhìn thẳng vào mặt bạn hỏi :
- Có bao giờ anh nghi rằng tôi là một thằng bất lương không?
Ngạc nhiên trước câu hỏi khó trả lời của Hớn, chủ quán đáp :
- Ồ! Không khi nào tôi nghi ngờ điều xấu về anh. Nhưng tại sao anh lại hỏi thế?
Hắn trả lời :
- Vì người ta gán cho tôi là thủ phạm hay ít ra cũng là đồng lõa của một vụ trộm. Thế mới kỳ cục không chứ?
Người chủ quán tỏ vẻ bất bình :
- Ai đã nghi ngờ anh và vụ gì?
Hớn gằn từng tiếng như cho mọi người nghe điều bực tức của mình. Hắn bảo :
- Còn ai xa lạ vào đây. Chính ông bà chủ và viên Thanh tra gán cho tôi tội cạy cửa biệt thự trong những ngày bỏ trống.
Ra vẻ suy nghĩ, chủ quán đáp :
- Không lẽ có chuyện lạ như vậy. Làm sao anh lại bảo rằng họ nghi anh?
- Họ mới vừa gọi tôi tới ty Cảnh sát để lấy lời khai.
Chủ quán nghe xong bật ngửa ra nói :
- Ồ! Tưởng gì quan trọng chứ chuyện đó là lẽ thường. Bất cứ một vụ trộm nào cũng đều phải có lời khai của người trong nhà. Anh đừng hiểu lầm như thế.
- Anh không nghe lối lấy lời khai nên bảo vậy. Riêng tôi thấy họ có thái độ kỳ lạ lắm.
- Dù sao đi nữa nội vụ cũng chưa kết thúc. Họ có quyền nghi ngờ nhưng không thể kết tội anh mà không có lý do. Công lý sẽ giải oan và che chở cho người lương thiện.
Đuối lý, Hớn ậm ừ không nói nữa. Trong men rượu ngây ngất hắn không nhận ra hai thanh niên ngồi nơi góc. Họ ăn mặc rất thời trang và ra dáng con nhà giàu, ăn chơi. Qua câu chuyện của khách trong quán ai cũng biết rằng họ rất vui tính và tốt bụng với mọi người. Hai người đàn ông ngồi uống rượu nơi kia kháo nhau :
- Hôm nay thằng Hớn say mèm không thèm nói chuyện với ai, ngay cả hai người bạn thân của hắn ngồi góc kia.
Nói xong, ông ta đưa tay chỉ hai thanh niên nọ. Người ngồi đối diện bảo :
- Nghe đâu họ là hai anh em ruột.
- Ừ! Phải đó. Người anh tên Võ Khắc Trần Hoàng và người em tên Võ Khắc Trần Hùng. Tên Hớn quen độ một tuần nay.
- Qua cách ăn mặc tôi nghĩ họ thuộc dòng dõi giàu có chứ chẳng chơi. Nhìn cách xài tiền là biết.
- Họ vừa ở Pháp về. Hình như lần về nước này họ có ý định tìm cảnh để thực hiện một cuốn phim mới vì cả hai đều là đạo diễn tài ba của một hãng phim ngoại quốc.
- Thằng Hớn xem ra thích họ lắm.
- Không thích sao được. Họ là người tốt. Có bạn tốt ai chả thích. Họ còn dự định mời thằng Hớn thủ một vai chánh trong cuốn phim sắp tới. Theo lời họ, Hớn có vẻ mặt rất xi nê.
- Hai anh em họ tử tế ghê vậy đó. Hôm nọ chính họ bỏ tiền ra giúp tôi chạy chữa cho thằng con bị xe đụng.
- Họ giàu có, một số tiền nhỏ nhoi đó có thấm vào đâu. Phải chi ai cũng như họ hay biết mấy. Hôm trước khi đi Đà Lạt thằng Hớn được họ mời nhậu say khướt không biết trời trăng gì cả. Chính họ đã phải lấy xe riêng chở nó về nhà.
- Nghệ sĩ có khác. Họ vui tính và gây cảm tình với hầu hết mọi người.
Hai anh em nhà họ Võ Khắc ngồi nơi góc chứng kiến từ đầu chí cuối câu chuyện của Hớn. Họ cố gắng tìm cách khuyên nhủ hắn vì tin rằng bạn mình không đủ sức làm chuyện tày trời đó. Hoàng rời ghế đứng lên và tiến về phía Hớn gỡ ly rượu trên tay hắn bảo :
- Đủ rồi anh Hớn à! Đừng uống thêm không tốt đâu.
Hớn giương cặp mắt lờ đờ nhìn lên. Nhận ra Hoàng, hắn mừng rỡ :
- Ủa! Anh Hoàng đó à? Chắc anh nghe câu chuyện vừa rồi.
Hoàng gật đầu đáp :
- Phải. Tôi đã nghe và thông cảm với anh lắm. Chuyện gì đến thì sẽ đến. Anh đừng lo lắng quá đáng. Anh sẽ được minh oan vào một ngày gần đây.
- Nghĩa là anh còn tin tôi là người lương thiện?
- Phải. Tôi tin anh lắm và chủ quán cũng đồng ý.
Hớn bỗng dịu giọng lại, hắn chán nản và có vẻ bi quan trả lời Hoàng :
- Anh đừng an ủi tôi nữa. Tôi biết rằng họ đang đoan chắc tội trạng và tìm chứng cớ để ghép tội tôi. Không còn một lý do nào để bào chữa, vì vô tình tôi đã tạo ra nhiều điểm khiến họ nghi ngờ.
- Không. Anh nên can đảm nhìn vào sự thật. Đúng như lời ông chủ quán đã nói, họ có quyền nghi ngờ, nhưng sẽ không thể buộc tội một người hàm oan. Còn pháp luật, còn công lý. Những thứ đó giúp cho anh giãi bày sự trong sạch của mình.
- Nhưng họ khăng khăng bảo tôi giả ma nhát ông chủ. Tôi không hiểu rằng ma quái có thật sự hiện hình hay không mà ông bà ấy có vẻ tin và đoan chắc.
Hoàng cười nói :
- Ồ! Không ngờ là ông bà Lê Dũng lại có óc tưởng tượng phong phú đến thế. Nếu gia chủ đồng ý, chúng tôi sẽ mang đồ nghề đến để quay các cảnh ma hiện hình cho biết như thế nào. Giữa thời đại văn minh còn có người tin ma quỷ, thật tức cười.
Câu khôi hài của Hoàng không làm cho Hớn tươi nét mặt thêm chút nào. Hắn tỏ vẻ thất vọng và muốn tìm cái chết để minh oan. Hắn buồn bã nói :
- Nếu sự kiện càng ngày càng rối ren hơn, có lẽ tôi phải tự sát mới mong mọi người hiểu mình.
Hoàng nghe bạn nói vội can gián :
- Ấy chết! Anh đừng có ý nghĩ dại dột như thế. Trong lúc này anh nên bình tĩnh nhiều hơn. Đừng tìm một cái chết vô ích để gỡ rối cho vấn đề không mấy nan giải. Bên cạnh anh còn có chúng tôi. Tôi hứa danh dự với anh rằng chúng tôi sẽ tìm mọi cách điều tra nội vụ và minh oan cho anh.
Hớn cảm động nói :
- Anh tốt với tôi quá. Không biết bao giờ đền đáp được sự giúp đỡ của anh.
Hoàng khiêm nhường bảo :
- Không gì phải đền đáp cả. Tôi giúp anh để một ngày nào đó có người giúp lại tôi. Có thế thôi. Anh đừng lưu ý vấn đề ân với nghĩa.
Chứng kiến cuộc đối đáp của Hớn và Hoàng, hai người đàn ông ban nãy bảo nhau :
- Anh chàng tốt bụng này sắp sửa làm một chuyện mò kim đáy biển.
Người kia đồng ý với bạn đáp :
- Phải đấy. Tôi thấy họ có lòng tốt với Hớn là điều rất hay. Nhưng muốn minh oan cho nó không phải là chuyện dễ.
- Vả lại chưa chắc gì nó bị hàm oan. Cái thằng đó ai tin được rằng không nhúng tay vào vụ trộm.
- Chỉ tội cho anh chàng này ngây thơ còn tin nó trong sạch.
Đứng gần đó, Hoàng nghe rõ những lời nói đó nhưng anh vẫn không màng đến. Anh hy vọng mình sẽ thành công để sớm minh oan cho Hớn, một người mà đa số dân chúng ở đây đều không tin rằng lương thiện. Tình bạn nẩy nở giúp anh ta nhận thấy có bổn phận này đối với Hớn. Hớn có bị hàm oan hay là thủ phạm lần lượt sẽ được giãi bày ra ánh sáng. Nhưng Hoàng không khỏi lo ngại vì hiện giờ mình chưa nắm vững được một dữ kiện nào cả. Cách độc nhất là phải lọt vào ngôi biệt thự đầy bí ẩn đó. Một việc làm khá táo bạo và khó thực hiện.

Chương 8. Biến cố dồn dập
Ông Lê Dũng bực dọc đi lại trong phòng khách. Giờ này đã gần đến lúc đi làm mà tên Hớn không có ở nhà. Hồi sáng, lúc ở Ty Cảnh sát về hắn đi đâu mất cho mãi tới bây giờ vẫn không thấy tăm dạng. Ông cau có nói :
- Hừ! Cái thằng mắc dịch đó đi đâu suốt cả buổi sáng. Nó không nhớ đến bổn phận của mình nữa. Thật quá sức, hết chỗ nói rồi.
Ngồi ở chiếc ghế dựa, bà Lê Dũng đưa mắt nhìn chồng bảo :
- Nó về từ bữa cơm trưa ông à.
- Tại sao nó không đem xe ra đưa tôi tới công trường chứ?
Bà Lê Dũng nói giọng úp mở :
- Trời sập nó cũng chưa chắc nhớ tới giờ làm việc của ông.
Thắc mắc, ông Lê Dũng hỏi :
- Ủa! Vậy chứ nó làm gì?
- Nó say mèm nằm lăn lóc ra đất, hỏi sức đâu dậy nổi.
- Hừ! Quả thật thằng này hư đốn quá trời. Có lẽ tôi phải tống cổ không cho nó làm việc trong nhà này. Chính nó gây cho mình không biết bao điều phiền toái giờ lại say sưa, chẳng đếm xỉa gì đến chủ nhà. Hiện giờ nó ở đâu?
Bà Lê Dũng đưa tay chỉ về phía garage nói :
- Nằm ở dưới nhà xe. Ông xuống đó đánh thức nó dậy.
Tức tốc, ông Lê Dũng đi nhanh về phía nhà xe. Gần đến cửa ông đã nghe giọng nói lè nhè của Hớn vọng lại. Hắn đang cố kể lể một chuyện gì mà ông không được rõ vì giọng nói của một người say rượu rất khó nhận biết.
Mở cửa, ông Lê Dũng bước vào. Trước mặt ông, tên Hớn đang cựa mình trên chiếc ghế bố cũ mèm đặt cạnh xe. Hắn nghêu ngao vừa nói, hát, cười tạo thành một chuỗi âm thanh chói tai, khó nghe. Hơi rượu xông lên tận mũi nồng nặc. Ông Lê Dũng đưa tay nắm vai hắn lay mạnh nói :
- Hớn! Tỉnh dậy đi nào.
Hớn mệt mỏi giương đôi mắt nhìn ông :
- Ủa!... Ông... chủ... đó... à?
- Phải, tôi đây. Anh thức dậy đi chứ. Biết mấy giờ rồi không?
Hắn khoát tay tỏ vẻ bất cần giờ giấc. Hắn lè nhè nói :
- Biết giờ... để... làm gì? Nằm... ngủ... như vầy... có phải... sướng... hơn... không?
Không chịu được thái độ của tên tài xế, ông Lê Dũng gằn giọng nói :
- Anh không cảm thấy xấu hổ để tôi phải chờ đợi chỉ vì anh say mèm ở đây à? Nếu không nghĩ tình anh giúp việc cho gia đình tôi có lẽ tôi đã đuổi anh ngay từ bây giờ. Tại sao lúc này anh lại thay đổi nhiều như thế? Từ xưa đến giờ chưa có lúc nào tôi thấy anh tệ như thế này cả. Đây là lần đầu tiên nên tôi tạm tha cho anh một phen. Mai mốt đừng làm như vầy nữa, tôi buồn lắm.
Hớn vênh mặt trả lời :
- Tôi say sưa gì... mặc kệ. Ông đừng xía vào thêm rắc rối. Không chờ... đến lúc ông đuổi... tôi cũng... Biết rằng ông... không còn tín cẩn nữa... ở lại thêm vô ích.
Tuy tức giận trước lời nói vô lễ của Hớn nhưng ông vẫn bình tĩnh. Ông nén cơn giận vì nghĩ rằng lúc này men rượu đã điều khiển Hớn, hắn không còn đủ lý trí phán đoán điều nào phải, điều nào quấy. Ông từ tốn bảo hắn :
- Lẽ ra tôi không thể chấp nhận câu nói của anh vừa rồi. Nhưng vì anh đang say sưa nên tôi bỏ qua. Lần sau nên cẩn thận lời nói. Bây giờ đưa chìa khóa xe để tôi đi làm. Chiều về tôi hy vọng anh sẽ tỉnh lại và đừng bao giờ tái diễn trò này nữa.
Hớn vẫn không thèm giao chìa khóa xe. Ông Lê Dũng phải cho tay vào túi hắn lục lọi để tìm. Ông mở máy và cho xe từ từ ra khỏi garage. Trong tiếng máy nổ ông còn nghe giọng Hớn nói với theo :
- Đi đâu thì đi cho khuất. Ở đây... lải nhải... thêm nhức đầu.

* * *

Chiều về, lúc đem xe vào garage, ông Lê Dũng không còn thấy tài xế Hớn nằm ở đó nữa. Hắn đã biến mất không lý do. Bà Lê Dũng bảo rằng không hiểu hắn đi từ lúc nào và hắn cũng không cho bà biết hắn đi đâu.
Một tia sáng lóe lên trong đầu óc. Ông Lê Dũng chú ý ngay đến sự bỏ đi này. Ông vội vàng vào nhà trong quay số điện thoại đến văn phòng viên Thanh tra.
- Alô!... Cho tôi gặp ông Thanh tra cảnh sát... À! Ông Thanh tra đó à? Tôi là Lê Dũng ở biệt thự Mỹ Hà.
- Có chuyện gì quan trọng thế?
Ông Lê Dũng bảo :
- Tên tài xế Hớn đã âm thầm bỏ trốn. Tôi nghĩ rằng nó biết trước âm mưu bị bại lộ nên trốn đi. Tôi thông báo cho Thanh tra hay để kịp thời đối phó.
- Phải đấy. Tôi sẽ cho làm các “nút chặn” để chận bắt lại hắn. Nhưng chúng tôi muốn được biết hắn ra đi vào khoảng nào để liệu tính.
- Hồi 3 giờ trưa, trước khi đi làm tôi còn thấy hắn say khướt trong nhà xe. Lúc 6 giờ chiều về nhà thì đã hay tin hắn bỏ trốn.
- Tốt lắm. Ông cứ an tâm. Chúng tôi sẽ tìm ra tung tích của hắn.
Gác ống điện thoại xuống, ông Lê Dũng lên lầu thay đồ và dùng cơm chiều. Ông đặt tất cả hy vọng vào cuộc lùng kiếm của cảnh sát vì mọi điều bí mật đều do Hớn mang theo. Nếu hắn trốn thoát, sẽ không tài nào điều tra được manh mối nội vụ.
Nhưng thời gian nặng nề trôi qua. Đồng hồ gõ tám tiếng rời rạc mà tên Hớn vẫn biệt tăm. Điều này chứng tỏ cảnh sát chưa tìm ra tung tích của hắn. Ông Lê Dũng cảm thấy một niềm thất vọng nhỏ nhen nhúm trong lòng.
Tiếng bà Lê Dũng đột ngột vang lên giữa bầu không khí yên lặng :
- Giờ này thằng Hớn vẫn chưa về, lấy ai đi rước Mỹ Hà đây? Tám giờ rồi, có lẽ chuyến xe từ Đà Lạt về đã tới bến. Thiệt bực mình hết sức. Để con nhỏ đi một mình về nhà trong đêm tối, tôi không an tâm tí nào.
Sực nhớ ra bức điện tín của Mỹ Hà gởi về chiều hôm qua, ông ngồi bật dậy :
- Ồ! Mải lo nghĩ tôi quên khuấy đi mất con gái cưng của mình.
- Ừ! Ông nên thay đồ đi rước con kẻo nó chờ tội nghiệp.
Vừa định bước lên phòng thay áo, ông Lê Dũng bỗng đứng khựng lại vì một giọng nói trong trẻo từ cửa vang lên :
- Con về tới rồi nè. Ba má khỏi nhọc công đi rước.
Bà Lê Dũng quay lại nhìn Mỹ Hà đang tươi cười bước vào. Nàng tươi trẻ trong chiếc jupe rực rỡ. Mỹ Hà chạy xô tới ôm mẹ, miệng nói huyên thuyên :
- Xa má mấy hôm con nhớ quá nên không chịu nổi, phải về ngay.
Bà Lê Dũng sung sướng ôm con vào lòng mắng yêu :
- Thôi đi cô. Đã lên tới Đại học rồi còn làm nũng. Không sợ con nít cười cho à?
- Con khỏi sợ đi. Trong nhà này đâu có trẻ nít để cười con.
Lời nói của Mỹ Hà khiến bà Lê Dũng cảm thấy hãnh diện. Vì tuy chỉ có cô con gái độc nhất nhưng Mỹ Hà lại đẹp và thông minh. Ông Lê Dũng hỏi con :
- Sao không chờ ba tới đón về?
- Con chờ mỏi cả chân mà không thấy xe đến. Đang lo sợ, may có cô bạn lái xe đi ngang chở con về đấy.
Đang lúc cả nhà trò chuyện, chuông điện thoại reo vang. Ông Lê Dũng mừng rỡ vì hy vọng có tin tức về tài xế Hớn. Bà Lê Dũng nhận thấy nét mặt ông rạng rỡ bỗng dịu lại và có vẻ thất vọng nhiều. Chuyện gì đã khiến ông Lê Dũng thay đổi thái độ?
Đặt ống điện thoại xuống, ông buồn bã báo tin :
- Ông Thanh tra vừa cho tôi hay một tin thật bất ngờ: Thằng Hớn chết rồi. Người ta tìm được xác nó trong vườn bưởi cách đấy một giờ.

* * *

Mọi người sửng sốt với nguồn tin mới nhất này. Ông Lê Dũng cảm thấy tất cả đều sụp đổ trước mắt ông. Thủ phạm bị giết chết để giấu nhẹm, mọi chuyện chôn kín dưới đáy mồ. Hớn chết đi, cuộc điều tra thật sự rẽ sang một hướng mới vất vả hơn nếu không muốn nói là đi đến chỗ thất bại, không thể sửa lại được.
Cuộc điều tra đang tiến hành mau chóng và sắp sửa đến kết quả thì kẻ tình nghi độc nhất bị đồng bọn hạ thủ. Từ lúc này sẽ không còn hy vọng khai thác thêm những chi tiết quan trọng từ Hớn, một thủ phạm nhúng tay vào vụ trộm và ma quái xảy ra tại ngôi biệt thự.
Người sửng sốt nhiều nhất là Mỹ Hà vì nàng vừa đến nơi chẳng hay biết gì cả. Tự dưng nhận được tin người tài xế chết và ba má nàng không tỏ vẻ ngạc nhiên mà chỉ hơi thoáng buồn. Nàng hỏi :
- Chuyện gì kỳ lạ vậy ba má? Con chẳng hiểu gì cả. Tại sao Hớn lại chết?
Ông Lê Dũng thấy cần phải cho Mỹ Hà hay mọi việc. Ông bảo con gái khoan vào phòng và ngồi đó nghe ông kể. Ông bảo :
- Trong thời gian con ở Đà Lạt, nhà này xảy ra biết bao nhiêu việc lạ lùng. Ba nói ra đây để liệu xử trí.
Mỹ Hà thắc mắc :
- Chuyện gì xảy đến cho gia đình ta?
- Nhà mình bị bọn gian cạy cửa lẻn vào nhà và người bị tình nghi chính là thằng Hớn.
Ngạc nhiên, Mỹ Hà hỏi :
- Chú Hớn hiền và trung thành với gia đình mình lắm kia mà?
Ông Lê Dũng trả lời con :
- Phải. Nó có hiền lành và chất phác thật. Nhưng đã lừa dối mình. Đến khi cớ sự xảy ra có ai dè. Ngoài ra nó còn giả dạng ma quỷ để nhát ba và má suốt mấy ngày gần đây. Ba, lúc đầu, nghĩ rằng chính nó là thủ phạm các hiện tượng ma quái. Nhưng giờ nghĩ lại... có thể thằng Hớn không hay biết gì về vụ ma quỷ cả, nó chỉ có tội cạy cửa và đào nhà mình.
- Nghĩa là ba tin có ma thật chứ không do người tạo ra?
Ông Lê Dũng gật đầu đáp :
- Đúng thế.
- Nhưng ba dựa vào đâu để tin rằng giữa thời đại này lại có ma?
- Nhiều yếu tố lắm. Điển hình là vụ hồn ma viên mật thám hiện ra tại phòng khách này. Ba thấy rõ ràng bóng ma đi xuyên qua cánh cửa khóa kín để ra vườn hoa và biến mất. Người phàm như thằng Hớn không thể nào làm được chuyện đó.
Mỹ Hà vẫn chưa tin :
- Làm sao có chuyện vô lý thế?
Bà Lê Dũng thêm vào :
- Tuy vô lý nhưng nó có thật. Chính mắt ba má thấy ma. Do đó má khuyên con, ngay bây giờ, để ba chở đến ở tạm nhà dì Năm ít hôm, chờ tình hình trở lại yên tĩnh rồi về.
Mỹ Hà cười nói :
- Má e con thấy ma rồi sợ à? Con không ngán ma quỷ đâu.
- Con nên nhớ rằng bệnh tim của con chỉ tạm lắng dịu. Nó có thể bộc phát mạnh mẽ nếu con gặp một cơn khủng hoảng hay xúc động.
Mỹ Hà không đồng ý đề nghị của mẹ, nàng nói :
- Con không muốn xa má đâu. Vả lại làm gì có chuyện ma. Ba má cho phép con ở lại đây để xem mặt mũi con ma ra thế nào.
Biết tánh con gái bướng bỉnh, ông Lê Dũng đành chấp thuận vì nếu có bắt buộc, Mỹ Hà cũng sẽ khóc lóc để được như ý muốn. Ông gật đầu :
- Ừ! Thôi nếu con muốn, ba cho phép.
Mỹ Hà sung sướng tung tăng chạy lên lầu. Nàng hồi hộp mở cửa phòng sau mấy ngày xa vắng. Căn phòng vẫn nguyên vẹn không có gì thay đổi. Chiếc bàn trang điểm kê đối diện với cửa ra vào bị một lớp bụi mỏng bám làm mờ tấm kính soi mặt.
Nàng lấy khăn lau nhẹ lớp bụi và ngồi xuống chải lại mái tóc. Bỗng nàng giật mình nhìn vào gương há hốc mồm. Trong gương nàng trông thấy một người với vẻ mặt ghê rợn, mặc áo tang trắng đầy vết máu. Hắn giơ cao đôi tay khẳng khiu, xanh xao như chụp bổ xuống. Nàng quay lưng về phía cửa, chết trân nhìn vào gương. Bóng ma chậm chạp tiến sát đến sau nàng...
Từ dưới nhà, ông bà Lê Dũng giật mình vì tiếng hét của con. Hai người chạy nhanh lên lầu. Mỹ Hà nằm sóng soài trên sàn nhà.
Ông Lê Dũng đỡ con dậy. Mỹ Hà ú ớ nói không ra lời, tay nàng chỉ về phía cửa rồi ngất xỉu trên tay cha.

Chương 9. Khủng hoảng tinh thần
Tuy Hớn chết nhưng hình ảnh ma quái không vì đó mà chấm dứt. Mỗi đêm hình ảnh của bóng ma dật dờ trong nhà vào những đêm khuya thanh vắng. Ông bà Lê Dũng lại gặp các hồn ma lúc ban chiều. Dường như ma quỷ không lúc nào buông tha họ. Vừa đặt lưng xuống định ngủ họ nghe có tiếng chân người gõ mạnh trên sàn nhà. Bà Lê Dũng rùng mình nghĩ tới người mật thám Pháp thường hiện về lui tới trong phòng khách. Ông Lê Dũng luôn gặp bóng người mở cửa phòng vào đêm tối mặc dù cửa được khóa kỹ lưỡng và tan biến đi như sương khói. Và cuối cùng là Mỹ Hà. Bóng ma hiện ra ở cửa phòng chỉ xuất hiện đằng sau lưng lúc nàng bắt đầu ngồi trang điểm.
Những hiện tượng ma quái làm căn nhà thêm tẻ lạnh. Mọi người trong nhà trở nên lầm lì, ít nói và lúc nào cũng lắng nghe từng tiếng động lạ đột ngột vang lên. Họ dần dần mất vẻ hoạt bát, giao thiệp bên ngoài. Cả gia đình suốt ngày quanh quẩn trong căn nhà u ám để chờ đợi màn đêm tới, báo hiệu sự chấm dứt của một ngày và bóng ma xuất hiện. Mỹ Hà không còn vẻ lanh lẹ, vui tươi ngày nào. Bệnh tim của nàng tái phát khiến cơ thể gầy ốm. Mỹ Hà lúc trước không còn nữa, giờ đây trong căn nhà ma quái đó chỉ còn một cô gái biếng nhác, luôn sợ sét và rũ người xuống vì cơn đau hoành hành mỗi khi có tiếng động lạ làm nàng kinh hoàng.
Đến lúc này ông bà Lê Dũng tin rằng ma quỷ thật sự khủng bố ngôi biệt thự. Họ không còn cho rằng Hớn đã giả dạng hồn ma trong một âm mưu bất chánh nào đó. Tưởng đâu cái chết của hắn sẽ là khởi điểm cho ngày tàn lụn của các bóng ma. Không ngờ rằng sau đám tang vội vã của Hớn, ma quỷ càng thêm lộng hành.
Sự lộng hành của chúng bắt đầu bằng một vụ bể chén dĩa. Đêm hôm đó cả nhà giật mình vì những tiếng loảng xoảng vọng lên từ bếp. Sáng ra, họ bắt gặp mảnh vụn của chồng bát dĩa trong tủ tự động rơi ra ngoài vỡ tan. Ngoài ra, đôi khi hồn ma còn giấu đi thực phẩm hoặc mở vòi nước cho chảy suốt đêm.
Mỹ Hà không chịu nổi vẻ ghê rợn của ngôi biệt thự. Nàng viết thư gởi cho một cậu em trai, con người dì, ở Sàigòn lên đây. Nàng hy vọng có nhiều người sẽ giúp mình vững lòng hơn. Sự quạnh hiu của căn nhà chỉ gồm ba người càng lúc càng mãnh liệt. Nàng bắt đầu ghê sợ ngôi nhà ma quái và luôn nuôi ý tưởng trốn thoát khỏi ảnh hưởng của hồn ma bóng quế.
Cuối cùng, đến một ngày nọ, người ta có dịp đi ngang qua cổng biệt thự Mỹ Hà sẽ đọc được hàng chữ viết vội vã treo trên cánh cửa sắt nặng nề sơn đen: “Nhà cho mướn”. Việc ông bà Lê Dũng treo bảng cho mướn nhà khiến dư luận xôn xao không ít. Họ kháo nhau về ma quái và thêu dệt câu chuyện thêm hoang đường. Họ bảo nhau :
- Đến lúc này ông bà ấy mới chịu thua không dám chống đối với hồn ma vất vưởng.
- Nghe đâu cô con gái bị bệnh tim nặng, chịu đựng không nổi nên thúc giục cha mẹ cho mớn một thời gian.
- Ồ! Ai lại dám bỏ tiền ra mướn một ngôi biệt thự quái đản để mang thêm bệnh đau tim. Sống trong đó một đêm còn dài hơn cả thế kỷ bên ngoài. Cho tiền mướn tôi đến ngủ ở đó một đêm thôi tôi còn không dám nhận, huống chi đi mướn.
- Vậy mà có người sẽ bỏ tiền mướn mới lạ chứ.
- Ai vậy?
- Hai ông đạo diễn phim ảnh gì đó. Họ bảo rằng muốn tìm hiểu sự thực về các bóng ma và tìm cách minh oan cho Hớn như lời họ hứa trước khi hắn chết.
- Lạ nhỉ. Không hiểu rồi đây hai anh chàng tốt bụng đó có giải oan được cho bạn không. Hay là bị ma trêu quỷ ám đến chết.
- Có thể họ sẽ thành công. Nhưng... hơi khó đấy.

* * *

Chuông ngoài cổng vang lên. Ông Lê Dũng bước ra đón hai người khách lạ mặt vào. Anh em Hoàng, Hùng tỏ ra rất vui vẻ khi được chủ nhà niềm nở mời vào phòng khách. Họ có vẻ thích thú với lối kiến trúc và trang hoàng trong nhà. Hoàng luôn miệng trầm trồ các bức họa trên tường.
Khách và chủ vừa ngồi xuống, Hùng nói ngay mục đích của mình đến đây hôm nay. Hùng bảo :
- Chúng tôi xin được tự giới thiệu. Tôi tên Trần Hùng và anh tôi là Trần Hoàng. Chúng tôi có ý định mướn ngôi nhà này trong một thời gian nhân dịp ông bà dọn đi nơi khác.
Ông Lê Dũng vui miệng nói :
- Ồ! Thế thì quý hóa quá. Treo bảng suốt tuần nay chúng tôi chưa tiếp được một người khách nào đến mướn. Mãi đến hôm nay hai ông đến mướn trong lúc tôi đang thất vọng định gỡ bảng.
Hoàng nói :
- Ông bà định dời đi đâu nếu chúng tôi đến mướn căn nhà này?
- Vợ chồng chúng tôi sẽ về Đà Lạt tịnh dưỡng cho đứa con gái một thời gian.
Hùng thắc mắc :
- Cô nhà bị bệnh gì, có nặng lắm không?
- Không giấu gì hai ông, con tôi hiện bị bệnh tim tái phát trầm trọng. Nhìn nó càng ngày càng gầy mòn, chúng tôi lo quá.
- Phải đấy! Sống trong ngôi biệt thự như thế này không trách sao cô ta mang bệnh. Tôi nghĩ ông mà mang cô ấy đi nơi khác một thời gian tốt lắm.
Ông Lê Dũng ngập ngừng nói :
- Vậy ra hai ông đã rõ ngôi nhà tôi bị ma quái ám ảnh?
Hùng gật đầu đáp :
- Vâng. Chính vì vụ ma quỷ đó mà chúng tôi nảy ra ý định mướn ngôi biệt thự của ông. Chuyện gì xảy ra nơi đây dân chúng trong vùng đều có xì xào bàn tán. Chúng tôi biết khá nhiều về ngôi nhà ông cũng do lời bàn ra tán vào.
- À! Thì ra không chuyện gì tránh khỏi sự dòm ngó của dư luận. Nghe như thế hai ông không bỏ ý định?
Hùng cười đáp :
- Thiên hạ càng nói nhiều chừng nào, chúng tôi càng muốn được ở nhà này sớm chừng ấy. Câu chuyện về ma quỷ lôi cuốn hấp dẫn chúng tôi. Và nếu may ra, chúng tôi sẽ được ghi lại trên phim ảnh vài hình ảnh sống động của ma hiện hình.
- Quả hai ông gan dạ vô cùng.
Sau vài câu xã giao thông thường giữa chủ và khách, bầu không khí cởi mở vô cùng. Hoàng nhân dịp có sự thông cảm giữa đôi bên bèn mạnh dạn đi vào vấn đề tài chánh. Hoàng nói :
- Ông có thể cho chúng tôi được biết vài điều kiện chúng tôi phải theo nếu muốn mướn nhà này?
- Điều kiện chúng tôi không dám đặt ra nhiều. Vì gặp được người tử tế như hai ông chúng tôi không sợ nhà cửa bị phá phách.
- Điều đó chúng tôi xin vâng. Ông cứ yên chí rằng khi trở về chúng tôi sẽ trao lại nhà không mất mát và hư hại một món nào. Còn về khoản tiền, xin ông cho biết?
Bóng Lê Dũng có vẻ trầm ngâm, sau cùng ông nói :
- Chúng tôi định giao căn nhà này ba tháng. Số tiền mướn sẽ là sáu mươi ngàn đồng. Hai ông xem có đắt lắm không?
Hoàng xua tay đáp :
- Chúng tôi bằng lòng với giá đó. Theo tôi nghĩ giá ông đưa ra không đắt lắm. Lúc còn sống bên Pháp chúng tôi có mướn một ngôi biệt thự cổ như thế này để quay phim với giá đắt hơn gấp nhiều lần.
Qua cách mướn nhà không kỳ kèo của hai ông khách, ông Lê Dũng biết ngay họ thuộc lớp người nghệ sĩ, sống rất phóng túng không đặt nặng vấn đề tiền bạc. Hình như họ muốn dùng ngôi nhà này làm bối cảnh cho một cuốn phim sắp quay. Ông hỏi :
- Tôi còn thắc mắc không hiểu hai ông mướn một ngôi biệt thự ma quái để làm gì. Có phải hai ông định dựng một cuốn phim quái đản?
Hoàng cười đáp :
- Không phải vì ý định làm phim mà chúng tôi mướn. Chúng tôi có hai mục đích khi đến đây. Một là vì tánh tò mò muốn chứng kiến tận mắt cảnh ma hiện hình. Hai là vì một lời hứa với một người bạn quá cố.
Ông Lê Dũng tỏ vẻ không hiểu :
- Lý do thứ hai xem ra hơi khó hiểu.
Hùng giải thích :
- Người bạn tôi là tài xế Hớn của ông bà. Trước khi hắn đột ngột bị giết chết, chúng tôi có hứa sẽ điều tra nội vụ hầu minh oan. Không dè sau đó vài giờ người ta tìm thấy xác hắn ngoài vườn. Thế là chúng tôi phải tìm cách giải nỗi oan cho bạn dầu biết rằng hắn chết đi, nội vụ thêm rắc rối và khó hiểu.
- À! Tôi hiểu rồi. Việc làm của hai ông hiện tại hơi vất vả và khó đấy.
Lúc đó Tuấn, em họ của Mỹ Hà, bước vào. Nó chào khách và nói với ông Lê Dũng :
- Thưa dượng, cháu mới tới.
- Ồ! Cháu Tuấn đó hả? Mỹ Hà nó nhắc cháu luôn.
- Nhận được thư chị ấy con vội thu xếp lên đây ngay.
Nói xong ông quay sang anh em Hoàng bảo :
- Cháu họ tôi đấy. Coi nhỏ vậy chứ nó có óc trinh thám và lanh lợi. Hình như trong một bức thư gởi cho Mỹ Hà, Tuấn cũng có ý định điều tra nội vụ. Có phải thế không cháu?
Tuấn gật đầu đáp :
- Vâng. Nhân dịp này cháu sẽ tìm xem những bí ẩn hiện đang làm bác nhức óc.
Hoàng niềm nở bảo Tuấn :
- Em cũng có một ý định như chúng tôi. Khá khen cậu bé đó, lúc nào cần giúp đỡ cứ tìm đến chúng tôi tại khách sạn Chim Ưng phòng 16. Nhớ nhé.
Tuấn sung sướng nói :
- Ồ! Có người lớn trợ lực cháu sẽ có hy vọng thành công nhiều hơn.
Nói xong nó lên lầu tìm Mỹ Hà để ông Lê Dũng tiếp chuyện với khách. Tuấn tràn trề hy vọng khám phá ra hiện tượng ma quái tại căn nhà này. Vừa rồi nó được sự hứa giúp đỡ của Hoàng, một người cũng đang mang ý định như nó. Một mình trong công việc điều tra quả thật khó khăn. Nhưng nhiều người hợp lại, sự thành công không còn bao xa.

* * *

Tuấn đưa tay gõ nhẹ cửa phòng. Bên trong giọng Mỹ Hà mệt mỏi vọng ra :
- Cứ vào.
Nó đẩy cửa bước vào. Mỹ Hà nhận ra Tuấn vui mừng nói :
- Ủa! Tuấn lên hồi nào vậy?
- Mới đây chị ạ.
Nàng rối rít bảo nó :
- Tuấn ở đây với chị nhé. Lúc này chị không được khỏe. Không ai bên cạnh, một mình buồn và sợ nữa.
- Vâng. Em sẽ ở đây để giúp chị tìm ra thủ phạm các bóng ma.
Mỹ Hà buồn bã đáp :
- Không kịp đâu em à. Hai ngày nữa, dầu nhà này có người đến mướn hay không, gia đình chị cũng sẽ dọn về Đà Lạt ở tạm đó ít lâu.
- Nếu vậy em sẽ cố gắng kết thúc câu chuyện này gấp rút hơn. Lúc nãy em thấy dượng nói chuyện với hai ông khách lạ.
- Có lẽ họ đến mướn nhà. Tìm được người thuận mướn không phải là dễ.
Tuấn nhìn quanh quẩn khắp phòng. Nó chú ý ngay đến chiếc bàn trang điểm đặt đối diện cửa ra vào. Nó hỏi :
- Trong thư gởi cho em chị bảo có ma hiện ra nơi cửa mỗi lúc ngồi vào bàn trang điểm. Có phải chiếc bàn này không?
Mỹ Hà tỏ vẻ sợ sệt nói :
- Phải rồi... Ghê rợn lắm Tuấn à... Bây giờ chị không dám chải đầu trước chiếc gương đó nữa.
Lòng hiếu kỳ thôi thúc Tuấn. Nó muốn thí nghiệm xem bóng ma kia có hiện ra vào ban ngày không. Tuấn ngồi xuống ghế, nhìn vào gương. Bỗng nó nhận ra một bóng người mờ ảo hiện ra nơi cửa, phía sau lưng nó. Cũng với bộ áo tang trắng đầy máu và cánh tay giơ lên.
Tuấn đứng dậy, quay nhìn lại nơi khung cửa. Bóng ma tan biến tự bao giờ.

Chương 10. Thủ phạm thực thụ
Tuấn dựng xe gắn máy trước cửa khách sạn Chim Ưng. Bây giờ khoảng chín giờ tối, nó hy vọng sẽ gặp anh em Hoàng theo đúng địa chỉ họ đã cho. Bên trong khách sạn, ngọn đèn néon một thước hai tạo ra một thứ ánh sáng trắng chìm ngập phòng trung ương. Viên quản lý chúi đầu vào tờ báo trên tay. Vài người ngồi nói chuyện nho nhỏ quanh chiếc bàn tiếp khách đặt giữa phòng. Ngoài ra không còn ai khác. Khách sạn Chim Ưng về đêm vắng vẻ vô cùng.
Khóa xe cẩn thận, Tuấn bước vào khách sạn. Mọi người không ai để ý đến sự có mặt của nó. Họ vẫn mải mê xem báo và nói chuyện. Chiếc cầu thang kiến trúc theo lối mới dẫn lên tầng thứ nhất. Nó đi dọc theo hành lang hẹp, hai bên là cửa phòng đóng kín. Tuấn dừng lại nơi phòng 16. Nó định đưa tay ấn chuông nhưng chợt ngừng lại. Mảnh giấy nhỏ treo ở nắm cửa đề hai chữ: “Đi vắng”. Nó thất vọng đi xuống cầu thang. Đầu óc quay cuồng với những ý nghĩ về anh em Hoàng. Họ đi đâu giờ này?
Tuấn cố tìm họ thật sớm để nhờ tiếp tay với mình trong vụ tìm ra thủ phạm. Thời giờ thật cấp bách. Chỉ còn hai ngày nữa, gia đình Mỹ Hà sẽ dọn về Đà Lạt. Nó sẽ không còn dịp để tiếp tục cuộc điều tra nếu từ đây đến đó vẫn chưa tìm được manh mối. Sự giúp đỡ của họ lúc này thật quý báu. Vì ít ra, khi dự định điều tra sự thật để giải oan cho tài xế Hớn, họ cũng đã thu thập được một số dữ kiện nào đó. Biết đâu những dữ kiện này lại rất quý báu cho Tuấn. Hiện giờ họ không có mặt tại khách sạn. Nó phải tìm ra họ để thông báo về việc nó vừa tình cờ nhận thấy tại biệt thự Mỹ Hà.
Có lẽ viên quản lý biết được nơi họ đến lúc này. Tuấn bước đến gần viên quản lý khách sạn nói :
- Thưa bác. Cháu muốn tìm hai người ở phòng 16.
Người quản lý hạ tờ báo xuống nhìn nó rồi nói :
- Hai ông ấy đi rồi. Họ gởi chìa khóa cách đây độ nửa giờ.
Tuấn nhìn theo tay ông ta chỉ, nó thấy chiếc chìa khóa treo lủng lẳng trên tường nơi ô số 16. Ừ nhỉ! Phải chi lúc bước vào đây nó trông vào đó sẽ không phải mất công tìm.
- Họ có bảo với bác rằng đi đâu không?
Viên quản lý nhìn nó dò xét :
- Em là gì của hai ông ấy?
Tuấn nói :
- Cháu là người nhà ở biệt thự Mỹ Hà đến tìm hai người ban sáng đến đó thương lượng về vụ mướn nhà.
- À! Thì ra vậy. Tôi có nghe chuyện ông bà Lê Dũng có ý định dọn đi. Ông bà ấy quyết định như thế cũng phải, vì không ai có đủ can đảm sống trong căn nhà ma quái được. Riêng anh em ông Hoàng, tôi không hiểu họ nghĩ sao khi muốn mướn lại cho bằng được ngôi nhà trên.
- Có lẽ họ có lý do riêng nào đó.
- Một lý do mới nghe qua ai cũng tưởng họ điên.
Tuấn lập lại câu hỏi vừa rồi :
- Trước khi đi họ có bảo với bác rằng đến đâu không?
- À! Tôi quên chưa trả lời em câu này. Họ không bảo rằng đi đâu nhưng dường như tôi nghe họ nói với nhau việc gì đó có dính dấp tới quán Dã Thú.
- Vâng! Cám ơn bác nhiều lắm. Khi nào họ về xin bác nói lại có cháu đến tìm có việc cần.
Bên ngoài trời khá tối. Thành phố Biên Hòa về đêm chỉ nhộn nhịp ở khu vực quy tụ các quán nhạc. Đèn màu lập lòe như những ánh đèn ma trơi nhởn nhơ ngoài nghĩa trang. Tiếng nhạc dồn dập từ xa vọng đến tai Tuấn. Nó men theo con đường có nhiều quán nhất để tìm ra bảng hiệu Dã Thú.
Tuấn không cần phải tìm đâu xa. Quán nó muốn tìm có một lối trang hoàng khá đặc biệt với những đầu thú rừng treo đầy trên tường. Qua ánh đèn mờ ảo, lập lòe, Tuấn có cảm tưởng như đang sống trong rừng già Phi Châu. Nó tìm một chỗ ngồi khuất trong bóng tối để không ai nhận ra mình. Tình cờ nhìn sang bên cạnh nó trông thấy anh em Hoàng đang ngồi ở chiếc bàn gần đó. Nhìn điệu bộ và giọng nói của họ có vẻ đặc biệt nên nó không gọi mà ngồi yên lặng nghe câu chuyện họ đang bàn tán. Một thoáng khả nghi hiện ra trong đầu óc. Tuấn muốn tìm hiểu rõ ràng hơn về hai người này. Nó nghe được tiếng Hùng bảo anh :
- Theo như kế hoạch em đã bàn với anh vừa rồi, anh nghĩ thế nào? Có nên thi hành ngay bây giờ không?
Hoàng tỏ vẻ do dự :
- Kế hoạch thì hay đấy. Nhưng đem ra áp dụng ngay... anh thấy... hơi vội vàng. E rằng chúng ta sẽ bại lộ. Để từ từ anh suy nghĩ lại.
Hùng nóng nảy :
- Ồ! Anh chần chừ mãi. Em cho rằng càng trì hoãn chúng ta sẽ mất một cơ hội bằng vàng. Hiện giờ có ai nghi ngờ bọn mình đâu. Tất cả cuộc điều tra đều hướng về tài xế Hớn.
- Đành rằng thế. Em cũng không nên vì thế mà lạc quan quá đáng. Có thể... có thể... chúng mình sẽ bị họ nghi ngờ.
Hùng không đồng ý với anh :
- Anh thấy rằng kế hoạch đã được mang ra áp dụng tại nhà ông bà Lê Dũng có kết quả mỹ mãn. Tại sao bây giờ anh không đồng ý với đề nghị này của em?
- Còn thằng bé con tên Tuấn, cháu họ của ông bà Lê Dũng. Anh thấy rằng đừng coi thường nó. Một sự khinh địch sẽ đem lại cho ta một thất bại hoàn toàn. Đổ bể nội vụ, cả hai anh em mình chỉ còn cách vào tù ăn cơm hẩm.
- À! Thì ra anh đánh giá nó khá cao.
- Như thế còn hơn là hạ giá nó quá thấp. Em công nhận chứ?
Hùng dịu giọng :
- Vâng. Kế hoạch trước do em đề nghị quá thành công. Kỳ này em xin nhường anh làm đạo diễn nốt màn kịch thứ hai và cũng là màn kịch cuối cùng.
Hoàng cười đắc ý :
- Anh có lời khen em tạo ra được một căn nhà ma quái để họ hết hồn và... dọn đi. Quả thật em xứng đáng lãnh giải thưởng điện ảnh quốc tế về tài dàn cảnh.
- Riêng anh đã thành công trong việc đánh lạc hướng điều tra của cảnh sát và làm cho tên Hớn bị hàm oan.
- Và chính chúng ta lại giả vờ giải oan cho nó. Dân ở đây ngây thơ hết sức. Họ không tài nào nghĩ ra rằng bọn mình lại là thủ phạm.
Suốt cuộc nói chuyện, Tuấn hiểu rằng nó đang chứng kiến một sự thật vô cùng quan trọng. Cơ quan an ninh sẽ rất cần chi tiết này. Sự bí ẩn của câu chuyện sẽ chấm dứt ở đây. Hôm sau tất cả báo chí sẽ loan tin thủ phạm trong ngôi biệt thự bị sa lưới. Không ngờ bề ngoài sang trọng, thương người lại che giấu một tâm địa xấu xa.


* * *


Hoàng tức giận hét :
- Thanh tra lại có thể tin lời một thằng oắt con để buộc tội chúng tôi à? Bằng cớ đâu? Những lời tố cáo không chứng cớ sẽ không đủ tư cách lôi chúng tôi ra tòa và bị án.
- Phải đấy. Này oắt con, mày có bằng chứng nào để chứng tỏ rằng anh em tao là thủ phạm? Mày coi chừng đấy, tao sẽ cho mày ra tòa vì tội tố cáo bừa bãi, vu oan cho người khác.
Tuấn không sợ sệt trước những lời đe dọa. Nó mạnh bạo trả lời :
- Tôi không hề nói dối. Chính mắt tôi thấy và tai tôi nghe tất cả cuộc đối thoại. Vì không có sẵn máy ghi âm nên tôi không thâu lại được trên băng nhựa để làm bằng.
- Láo... láo!...
Viên Thanh tra cảnh sát ra dấu bảo mọi người im lặng. Ông sắp nói một sự thật tối quan trọng. Tất cả hồi hộp chờ đợi. Căn phòng trở nên yên lặng một cách nặng nề. Tiếng ông vang lên :
- Các anh không bị oan. Tôi kết luận chắc chắn rằng chính các anh là thủ phạm. Tuy cháu Tuấn không trưng được bằng cớ cụ thể, nhưng lời tố cáo của Tuấn giúp chúng tôi kiện toàn hơn giả thuyết của mình. Tôi có bằng cớ để buộc tội: Dấu tay của các anh.
Hoàng liền chống đối :
- Chính ông đã thông báo cho mọi người biết rằng tất cả dấu tay ghi nhận được đều của tên Hớn cả. Sao giờ này lại bảo rằng của chúng tôi?
Viên Thanh tra mỉm cười bảo :
- Sự hấp tấp cải chính lại của anh lại là một điểm đáng lưu ý. Tôi chưa nói hết câu kia mà. Vì có tật nên anh dễ bị hốt hoảng. Phải! Các anh đã khôn khéo không để lại dấu tay ở nhà ông bà Lê Dũng. Nhưng một nơi khác các anh lại sơ ý điều đó.
- Ông muốn nói đến nơi nào?
- Trên xác của tài xế Hớn và con dao giết người vất dưới đám cỏ hoang gần phạm trường.
Hoàng có vẻ hối tiếc về sự sơ hở của mình. Viên Thanh tra nói tiếp :
- Ngoài ra dấu giày của anh in lại phía sau biệt thự cũng tố cáo điều này. Tôi cho người đổ khuôn cẩn thận và nếu bây giờ đem ra so sánh sẽ không sai chạy một ly tấc. Các anh quên rằng đôi giày mang trên chân mình quá đặc biệt. Tôi tìm thấy hàng chữ đề hiệu nhà đóng giày tại Paris nên nghi ngờ. Và người bị nghi ngờ đầu tiên là hai anh, những người vừa ở Pháp về nước. Phải chi anh dùng giày đóng tại quê hương Việt Nam thì đâu đến nỗi nào.
Hai anh em Hoàng đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Họ biết rằng ngày đền tội của mình đã đến. Bao nhiêu chứng cớ đó cũng đủ kết tội họ dễ dàng. Hoàng biết rằng không còn đường chối cãi nên thú nhận :
- Phải! Chính chúng tôi đã giết Hớn và giả ma quái tại biệt thự Mỹ Hà.
Viên Thanh tra lật hồ sơ lý lịch ra hỏi :
- Có phải hai anh tên Võ Khắc Trần Hoàng và Võ Khắc Trần Hùng?
- Vâng.
Ông bà Lê Dũng hết sức ngạc nhiên khi nghe nói đến tên họ. Ông Lê Dũng nói :
- Các anh là con của ông bà Võ Khắc Chân Lý?
- Phải. Cha mẹ chúng tôi là Võ Khắc Chân Lý, người đã cho ông bà mướn ngôi biệt thự Mỹ Hà cách đây 25 năm.
Thanh tra cảnh sát cũng bỡ ngỡ khi nghe điều này. Ông hỏi :
- Như vậy ngôi biệt thự đó ông bà không phải là chủ nhân?
Ông Lê Dũng xác nhận :
- Vâng. Ông bà Chân Lý trước khi rời xứ sở đã ký giấy cho chúng tôi mướn trong vòng 30 năm. Có nghĩa là còn năm năm nữa mới hết hạn giao kèo. Nhưng tôi không hiểu tại sao các anh lại về nước và có âm mưu kỳ quặc này?
Hoàng nói :
- Chuyện rất dài dòng. Tôi xin kể...

Chương 11. Những lời trăn trối cuối cùng

Dòng họ Võ Khắc chỉ còn mỗi gia đình Võ Khắc Chân Lý tồn tại. Vì chiến tranh, loạn lạc làm ly tán. Do đó ông Võ Khắc Chân Lý là người thừa hưởng tất cả di sản của dòng họ.
Căn nhà hiện tại của ông bà Lê Dũng đang trú ngụ chính là căn nhà gia tộc được xây cất từ lâu đời để con cháu dùng làm nơi tụ họp và thờ phượng tổ tiên. Ngôi nhà truyền lại qua nhiều đời con cháu. Đến đời Võ Khắc Chân Lý, vì quá ham mê làm giàu nên cha tôi bán tất cả đất đai, đồn điền của ông cha để lại làm vốn sang Pháp kinh doanh. Riêng căn nhà tổ tiên, cha tôi không nỡ bán nên cho ông bà Lê Dũng mướn một thời gian khá dài. Cha tôi hy vọng rằng sau này làm ăn giàu có sẽ trở về nước gây dựng lại dòng họ. Nhưng không ngờ mãnh lực của tiền bạc đã lôi kéo cha tôi vào những cuộc kinh doanh lớn lao, lời hằng triệu bạc. Và cuối cùng, ông dần quên quê cha đất tổ.
Lúc ra đi hai anh em tôi hãy còn quá nhỏ nên không hay biết gì về dĩ vãng. Cha mẹ tôi không hề cho chúng tôi rõ về sự ra đi này lúc chúng tôi lớn. Chúng tôi trở thành đạo diễn và nhà dàn cảnh nổi danh ở xứ ngoài. Tuy nói được tiếng Việt nhưng hai anh em đều mù tịt về xứ sở thân yêu.
Mẹ tôi mất sau sáu năm ở xứ người. Cha tôi vì quá mải mê chạy theo đồng tiền nên lâm bệnh cách đây một năm. Lúc chết cha tôi cho biết sự thật về dòng họ. Nếu cha tôi không trối trăn những lời cuối cùng có lẽ giờ này chúng tôi cũng không biết gì cả. Và cũng chính vì lời này đã khiến anh em tôi bỏ dở công việc làm ăn lập tức trở về nước. Tôi nhớ mãi ngày hôm đó...


* * *
Ông Chân Lý thở mệt nhọc trên giường bệnh. Ông biết rằng mình sắp sửa lìa bỏ cõi đời để về bên kia thế giới. Trước giờ phút cuối cùng của cuộc sống ông không hề tỏ ra sợ sệt hay tiếc rẻ. Ông bình tĩnh để nhớ lại tất cả những gì đã qua và hơi hối hận về sự ra đi của mình. Mấy năm trước có bao giờ ông nghĩ đến quê hương. Đầu óc ông lúc nào cũng đầy ngập mánh khóe làm giàu, thật giàu. Giờ đây, lúc buông xuôi để yên lặng nằm vào lòng đất lạnh, ông thấy rằng mình còn một điều thiếu sót chưa làm.
Hai đứa con ông không hiểu gì về quá khứ của chúng. Ông phải có bổn phận cho họ hay tất cả. Điều ông sắp nói ra sẽ giúp họ một phần nào ích lợi cho công việc làm ăn. Ông thều thào qua hơi thở :
- Hoàng, Hùng! Hai con ở đâu?
Hoàng đứng bên cạnh cha vội nắm lấy cánh tay quờ quạng như tìm kiếm để ông yên lòng. Chàng nói :
- Thưa cha. Chúng con luôn ở bên cạnh cha.
Vững lòng khi thấy các con có mặt đầy đủ trước phút lâm chung ông nói :
- Tốt lắm! Cha biết rằng không còn sống được bao lâu...
Hùng vội ngắt lời cha; chàng không muốn người lìa bỏ lúc này, vào lúc họ đang trên đường tiến tới vinh quang. Bất giác chàng khóc nức nở :
- Không!... Cha đừng nói thế cha ơi... cha sẽ sống mãi với chúng con.
Ông Chân Lý lắc đầu bảo :
- Con đừng quá bi lụy như thế... Ai cũng đều được báo trước cái chết của mình... Đây cũng là trường hợp hiện tại của cha. Suốt mấy mươi năm ở xứ người cha làm nhiều việc lắm. Nhưng... cha còn quên một điều tối quan trọng và cha sẽ nói ra đây cho các con rõ...
Hoảng mủi lòng :
- Xin... cha nói ra.
Nghỉ mệt một lúc, ông Chân Lý bảo :
- Chắc các con còn nhớ cách đây vài năm, Hoàng hỏi cha về gốc tích của gia đình mình chứ?
Hoàng gật đầu đáp :
- Vâng... con còn... nhớ.
- À! Lúc đó cha bảo rằng dòng họ ta sống ở đây lâu đời. Lúc đó cha nói dối các con. Giờ này cha ân hận quá...
Hùng sụt sùi :
- Sao cha lại... nói dối chúng con, có mục đích gì?
- Có mục đích chứ! Cha không muốn các con hoài niệm về xứ sở mà cha đã vô tình bỏ lại. Cha muốn các con sẽ sống mãi ở đây và tiếp tục sự nghiệp bỏ dở để... làm giàu. Cha rất xấu hổ để nói với các con rằng dòng họ ta chỉ có mỗi một mình cha là kẻ phản bội quê hương. Chỉ có cha mới can đảm dứt khoát với mảnh đất chôn nhau cắt rốn. Cha... ân hận... quá...
Ông Chân Lý dừng lại nơi đó. Cõi lòng ông rối ren với muôn nghìn ý nghĩ hỗn loạn. Hoàng giục :
- Xin cha... nói tiếp.
- Lúc ra đi cha còn bỏ lại quê hương, căn nhà của dòng họ. Cha đã cho người ta mướn và hiện giờ chưa hết hạn giao kèo. Giấy tờ trong tủ. Lúc nào cần tìm hiểu các con cứ lấy ra xem. Cha không ngờ căn nhà đó lại chứa một báu vật của dòng họ Võ Khắc.
Hùng ngạc nhiên :
- Một báu vật?
- Phải. Một hộp gia bảo quý giá do công lao của tiền nhân gom góp để lại. Tình cờ cách đây vài tháng cha đọc lại tất cả giấy tờ liên quan tới dòng họ mình và khám phá ra điều này. Chính cha, trong mấy mươi năm lo làm giàu, cũng không để ý đến đám giấy cũ mèm kia. Cha chết đi căn nhà đương nhiên thuộc về hai con. Các con sẽ khai quật tìm kiếm hộp gia bảo. Nhưng... hiện người mướn nhà còn có quyền trú ngụ, các con không thể tự nhiên vào đào xới để tìm kiếm. Phải đợi sáu năm sau mãn giao kèo.
Hoàng nói :
- Chúng con sẽ chờ đến ngày đó.
- Không được. Theo luật mướn nhà, người mướn không có quyền xây cất bên trên mảnh đất. Nhưng... họ có quyền kiến trúc về phía dưới. Nghĩa là họ có quyền đào hầm chứa ăn sâu dưới đất. Do đó họ có thể sẽ gặp kho tàng trước con. Và các con sẽ không còn gì cả.
- Cha muốn khuyên chúng con như thế nào?
- Trở về nước sớm chừng nào hay chừng đó. Tìm cách chiếm lại ngôi nhà và khởi công tìm hộp gia bảo.
Dặn dò xong những lời cuối cùng, ông Chân Lý nấc một tiếng và tắt thở. Thế là sau cái chết của ông, một âm mưu đen tối bắt đầu thành hình.

Chương 12. Cuộc âm mưu
Hoàng ngồi trong phòng đầu óc suy nghĩ miên man. Từ khi về nước đến giờ gần nửa tháng mà họ vẫn chưa thực hiện được một kế hoạch cỏn con nào. Muốn khởi sự họ phải hiểu rõ về gia đình ông bà Lê Dũng. Qua lời của dân chúng trong vùng họ chỉ hiểu một cách khái quát về gia cảnh và nghề nghiệp hiện tại của ông Lê Dũng. Chỉ có tài xế Hớn là người có thể cung cấp nhiều chi tiết quan trọng.
Thế là Hoàng tìm mọi cách làm quen Hớn. Hắn dùng tiền bạc và cách đối xử tử tế để thu phục cảm tình của người tài xế chất phác. Hớn vô tình không hiểu gì về âm mưu của Hoàng. Anh ta cho Hoàng biết mọi chuyện trong nhà. Giờ giấc đi về của ông Lê Dũng cũng được Hoàng khéo léo hỏi thăm. Trong các cuộc ăn nhậu, Hoàng gợi ý cho Hớn để anh ta hứng chí kể rõ từng ngõ ngách trong nhà.
Hôm qua Hùng đã đưa ra một đề nghị khá táo bạo. Hắn nói :
- Anh Hoàng, tên Hớn đã cho ta biết trong nhà ngoài hắn ra chỉ còn ông bà chủ và cô con gái. Như thế chúng mình tìm cách lọt vào nhà trong đêm tối và xông thuốc mê. Trong lúc họ mê man không biết gì, chúng mình sẽ thiết lập các máy móc theo dự định.
Hoàng do dự :
- Việc trang bị máy móc cần rất nhiều thời gian. Một đêm không đủ thời giờ cho chúng ta. Anh nghĩ chúng mình nên tìm một cách nào khác hơn là cách này.
- Chỉ còn cách này mới có thể giúp chúng ta thực hiện ý định. Một đêm không đủ, chúng ta sẽ tái diễn vào những đêm kế tiếp.
- Không được. Nếu cứ tái diễn mãi sẽ tạo sự nghi ngờ và dễ bị lộ.
Hùng đuối lý :
- Không theo đề nghị của em, vậy anh thử tìm ra một phương cách hành động nào khác hơn và hữu hiệu hơn?
Hoàng lắc đầu :
- Hiện giờ thì chưa có một phương cách nào cả. Để một thời gian suy tính kỹ lưỡng, chúng ta có nhiều hy vọng thành công. À! Em đã kiểm tra máy móc cẩn thận mang về nước chưa? Coi chừng đừng để thiếu sót một món gì, công trình chúng ta xây dựng sẽ tan theo mây khói.
Hùng cười nói :
- Ồ! Anh khỏi lo điều đó. Làm sao em có thể quên được dễ dàng. Anh nên nhớ rằng bọn mình đã kiểm soát nhiều lần từ lúc còn bên Pháp.
Hoàng bằng lòng :
- Tốt lắm! Anh cứ lo ngay ngáy mãi. Bao nhiêu hy vọng chúng ta đều đặt vào đó. Còn một điều anh em mình nên nghiên cứu lại.
Hùng hỏi :
- Điều gì thế?
- Em mang cuốn gia phả đến đây.
Hùng đến hộc tủ lôi ra một quyển vở cũ nát, bìa sút sổ lung tung. Hoàng nhẹ nhàng lật từng trang một cách cẩn thận. Cuối cùng anh ta dừng tay lại và gọi Hùng :
- Em xem đây. Phần nói về căn nhà gia tộc có đề cập đến một ngõ ngách bí mật trong nhà. Theo đó chúng ta có thể lợi dụng nơi đó trú ngụ trong ngôi biệt thự không ai hay biết.
Hùng hỏi anh :
- Có phải anh muốn nói đến bức tường đôi dùng vào việc cất giấu vũ khí của dòng họ mình lúc chiến tranh?
- Đúng. Anh em mình sẽ ẩn ở chỗ này để sử dụng các máy móc theo như dự tính.
- Nhưng liệu ông bà Lê Dũng có khám phá ra trước chúng ta ngõ ngách đó chưa? Nếu đã biết rồi, chúng ta trú thân trong đó không khác chi chui đầu vào hang hùm.
- Ồ! Làm sao chúng mình biết được. Có lẽ tên Hớn biết rõ điều này. Nếu hắn cũng không biết nốt, chúng ta đành phó mặc cho may rủi.

* * *

Mải suy nghĩ, Hùng về nhà lúc nào Hoàng không hay. Đến khi hắn vỗ vào vai mình, Hoàng mới giật mình quay lại hỏi :
- Ủa! Em về đến nhà rồi à? Sao, mọi chuyện anh nhờ em đã hoàn tất chứ?
Hùng hoan hỉ loan báo :
- Vâng. Em dò la tin tức và biết thêm được nhiều điều thật quan trọng làm đảo lộn cả dự tính của chúng ta.
Hoàng lo ngại :
- Làm đảo lộn cả dự tính?
Thấy anh hốt hoảng, Hùng cười trấn an :
- Tuy đảo lộn nhưng không có hại mà còn lợi cho ta là đằng khác.
- Có lợi cho chúng ta? May quá.
Hùng gật đầu :
- Vâng. Rất thuận lợi cho việc thi hành kế hoạch. Lúc trước chúng ta bị rắc rối ở chỗ lẻn vào biệt thự để lắp máy móc. Có phải thế không?
- Ừ! Đúng rồi. Chúng ta vẫn chưa dứt khoát được phương pháp hành động.
- Vậy mà hôm nay tình cờ tên Hớn cho chúng ta biết một tin mới. Do đó em nảy ra một sáng kiến bất ngờ.
Hoàng giục em :
- Như thế nào, nói ra ngay đi. Anh sốt ruột lắm rồi.
Hùng cười ranh mãnh :
- Có nóng lòng anh mới càng phục trí óc vô cùng thông minh của thằng em này chứ. Này nhé! Ban nãy gặp tên Hớn ngoài quán rượu, em rủ hắn mai này đi nhậu. Hắn lắc đầu bảo rằng phải theo gia đình ông bà Lê Dũng đi Đà Lạt. Chụp ngay lấy cơ hội này em vờ hỏi xem ai sẽ ở lại giữ nhà. Hắn nói cả nhà đều đi, không ai giữ cả. Chuyến nghỉ mát này kéo dài bốn hôm.
- Hay lắm! Em dự định lợi dụng cơ hội bằng vàng này chúng mình sẽ có đủ thời gian thiết lập máy móc?
- Chứ sao!
Anh em Hoàng cười vang. Họ sung sướng vì bất ngờ vào phút chót, một thay đổi đột ngột vô tình giúp dự tính dễ thành hình. Kho tàng kia hiện ra trước mắt rõ rệt hơn bao giờ hết. Hoàng thấy từng viên kim cương lóng lánh, tỏa ra một thứ ánh sáng dịu dàng. Nhưng chiếm lại bảo vật đó, không dễ gì làm được. Có ai học được chữ ngờ bao giờ...

Chương 13. Giải thích

Viên Thanh tra ngắt lời Hoàng :
- Như thế, tài xế Hớn không hề dính líu gì đến các anh.
Hùng trả lời thay anh :
- Phải! Hắn chỉ là một nạn nhân đáng thương. Chúng tôi dùng mật để giết ruồi và cuối cùng hưởng lợi. Nhưng không ngờ...
- Không ngờ rằng kết cuộc lại trái ngược, phải không? Anh có thể cho chúng tôi biết về dấu tay của tài xế Hớn in trên đồ vật trong phòng?
Hùng bảo :
- Chúng tôi phải ép Hớn uống thật nhiều rượu đến say ngất trước ngày có chuyến du lịch Đà Lạt. Trong cơn mê man, Hớn không hay biết một chuyện gì cả. Chúng tôi dùng loại băng keo đặc biệt lấy dấu tay của hắn và đem in lại trên những nơi nghi ngờ cảnh sát sẽ tìm dấu vết.
Ông Lê Dũng hỏi :
- Tại sao trong bốn hôm chúng tôi vắng nhà, các anh không tìm kho tàng?
- Giản dị quá. Chúng tôi không thể suốt bốn ngày lo đào xới tìm kiếm. Vì như thế sự vắng mặt khá lâu sẽ làm mọi người nghi ngờ ngay sau khi nội vụ đổ bể. Chúng tôi chỉ có thể hoạt động vào đêm tối. Còn ban ngày vẫn la cà ở quán rượu để che mắt thiên hạ.
- Nếu không thể tìm tại sao các anh lại đào xới nền nhà?
- Ồ! Đây chỉ là một kế mọn để đánh lạc hướng điều tra. Cảnh sát sẽ tìm thấy dấu tay của Hớn trên chiếc xẻng và chiếc xẻng ấy lại do tên Hớn cất tại nhà xe. Biết được tên Hớn là người độc nhất giữ chìa khóa nhà xe nên chúng tôi phục rượu hắn và đánh cắp chìa khóa mang cho thợ làm giả, sau đó trả lại cho hắn như cũ. Hớn không biết được rằng chúng tôi đã có một chiếc khác giống hệt. Chúng tôi dùng chìa khóa giả để mở cửa nhà xe. Điều này khiến cảnh sát càng hồ nghi hắn thêm.
Viên Thanh tra nói :
- Còn việc cạy cửa nhà ngang cũng là một âm mưu?
- Đúng thế! Chúng tôi không dùng chìa khóa giả của bọn trộm để mở mà lại cố ý dùng kềm và vít của Hớn để cạy phá. Kết quả là hắn bị nghi ngờ về vụ kềm búa.
- Các anh có nhiều dự tính thật hay, thật thâm độc. Tôi đoán rằng bức điện tín do anh đánh đi.
Hoàng gật đầu :
- Hẳn là như thế! Chúng tôi tạo ra bức điện tín giả mạo để lôi hắn về Sàigòn. Rồi chúng tôi phá máy xe khiến hắn phải ở lại Hố Nai một đêm. Trong đêm đó chúng tôi hành động tại ngôi biệt thự. Ai cũng tưởng Hớn về nhà cạy phá.
- Khá khen sự thông minh và tài dàn xếp rất ăn khớp của các ông. Giá mà các biệt tài đó được dùng vào một việc ích lợi khác thì hay biết mấy.
Ông Lê Dũng thắc mắc :
- Đã đưa Hớn vào tròng, tại sao các anh nhẫn tâm giết nó?
- Vì để nó sống rất nguy hiểm. Sau khi được biết hắn bị cảnh sát điều tra và có ý nghi ngờ, chúng tôi e rằng trong lúc bị thẩm vấn, hắn vô tình khai tất cả sự liên hệ mật thiết với chúng tôi. Cảnh sát sẽ dựa vào đó gây rắc rối. Do đó trong lúc kém suy nghĩ, tôi đã giết nó.
- Đúng. Các anh kém suy nghĩ khi giết Hớn. Vì khi Hớn chết, chúng tôi cho điều tra về những bạn thân với anh ta. Cuối cùng hai anh là người bị để ý nhiều nhất. Một bằng cớ chứng tỏ rằng hai anh không đủ cẩn thận và bình tĩnh khi hạ sát Hớn là dấu tay để lại trên người hắn. Một sơ sót dù cỏn con cũng có thể đưa hai anh vào tù dễ dàng.
Hai anh em Hoàng tiu nghỉu ngồi nghe viên Thanh tra nói. Họ biết rằng giờ này cửa xà lim đã mở sẵn chờ đợi hai kẻ thất bại trong âm mưu không thành.


* * *

Bà Lê Dũng hỏi :
- Còn về vụ ma quỷ các anh đã hành động như thế nào?
Hoàng giải thích :
- Với tài dàn cảnh và đạo diễn của chúng tôi, các hình ảnh ma quỷ có thể xuất hiện bất cứ giờ nào và nơi nào theo ý muốn.
- Có nghĩa là anh dùng máy chiếu phim?
- Vâng. Bóng ma ông Lê Dũng thấy nơi phòng khách hoặc bà ngất xỉu trong nhà bếp đều do máy chiếu phim cả. Chúng tôi lắp sẵn máy và khi nào muốn hành động sẽ điều khiển nó từ trong bức tường đôi bí mật trong ngôi biệt thự. Rất may cho chúng tôi là ông bà Lê Dũng vẫn chưa khám phá ra ngõ ngách quan trọng này. Mỗi đêm chúng tôi núp sẵn trong đó để tạo ra các cảnh ma quỷ hiện hình. Vụ bát đĩa tự động đổ vỡ hay tiếng bàn ghế xô lệch đều do chúng tôi làm ra.
Lời giải thích của Hoàng không làm ông Lê Dũng đồng ý. Ông nói :
- Theo lời anh trình bày, tất cả hình bóng ma quái đều do máy chiếu phim phát ra. Như vậy làm sao có thể mở được cửa phòng ngủ trong khi tôi khóa cẩn thận?
- Ổ khóa cửa phòng đã bị chúng tôi phá hủy. Sợi dây kẽm do chúng tôi buộc chặt trong đó sẽ có tác dụng kéo chốt khóa lên lúc ông tra chìa vào. Hai âm thanh của con chốt đập xuống khi khóa và bật lên khi bị sợi dây kẽm kéo lại, xảy ra liên tiếp. Vì vô ý ông không khám phá ra: khi khóa cửa có hai tiếng chốt vang lên chứ không phải một. Thật ra nó đã mở rồi. Núp sẵn trong góc nhà tôi dùng dây kéo cánh cửa mở và đồng thời ấn nút máy chiếu tạo ra bóng ma hiện trước phòng.
Tuấn hỏi thêm :
- Bóng ma hiện ra trước cửa phòng chị Mỹ Hà có cùng một cách hoạt động như thế không?
- Đó là trường hợp đặc biệt. Chúng tôi lắp máy chiếu phim hướng về cửa phòng như các trường hợp trên. Nhưng chúng tôi không mở máy hoạt động được mà chỉ có cô Mỹ Hà mới có thể làm ma xuất hiện.
Mọi người ngơ ngác :
- Mỹ Hà ấn nút cho máy hoạt động? Vô lý quá.
- Phải! Chính Mỹ Hà vô tình đã làm máy bắt đầu chạy. Chúng tôi gắn chiếc nút điều khiển máy tự động dưới mặt ghế bàn trang điểm. Khi ngồi xuống ghế, sức nặng cô Mỹ Hà sẽ ấn chiếc nút xuống và hình ảnh ma quái sẽ hiện ra. Nhìn vào gương cô ta thấy được hiện tượng quái đản này. Theo phản ứng tự nhiên, cô sẽ ngồi bật dậy quay về sau nhìn nơi cửa. Chiếc nút trở về vị trí cũ, do đó bóng ma cũng tan biến đi.
Viên Thanh tra cười nói :
- Anh lừa được chúng tôi. Nhưng trong khi đó anh đã bị chúng tôi lừa vào bẫy. Anh đừng tưởng rằng ông bà Lê Dũng vì sợ ma quái mà có ý định về Đà Lạt. Đó là một mưu kế của chúng tôi. Tôi nghĩ rằng bọn gian làm ma quỷ với mục đích để chủ nhà bỏ đi. Do đó tôi bàn với ông Lê Dũng một mặt treo bảng cho mướn nhà, một mặt phao tin về Đà Lạt. Các anh tưởng họ đã đi đúng kế hoạch đã dự định nên thản nhiên đến mướn. Chúng tôi chỉ việc chờ mồi tìm đến bẫy.
Hoàng ân hận vì mình mắc mưu viên Thanh tra. Anh không ngờ người mình tưởng đã qua mặt được lại phản phé đưa mình vào tù. Suốt những ngày dài trong ngục thất, anh em họ sẽ có nhiều thời giờ suy nghĩ về việc làm vừa qua của mình: Một trò chơi nguy hiểm như dao hai lưỡi.

Chương 14. Bóng ma cuối cùng (hết)

Chiếc đồng hồ treo tường gõ từng tiếng gây một bầu không khí sống động trong phòng khách. Bên ngoài, màn đêm vây kín lấy vạn vật. Ngôi biệt thự hôm nay mang một vẻ khác thường. Ông bà Lê Dũng, Mỹ Hà và Tuấn ngồi bàn chuyện trên ghế sa lông. Họ đang nghĩ đến những biến cố dồn dập đã xảy ra và sớm tàn. Môi việc đều trải qua như một giấc mơ, một giấc mơ hãi hùng. Vẻ khác thường của ngôi biệt thự được nhận thấy ở phòng khách. Ông bà Lê Dũng đang ngồi trầm tư nghĩ về biến cố đã qua.
Chỉ cách nay mấy hôm, ngôi nhà mang một nét ghê rợn của ma quái và bí ẩn. Hôm nay tất cả đã được giải quyết xong xuôi. Ông Lê Dũng còn nhớ từng chi tiết một. Ông không khỏi thầm khen anh em Hoàng đã tạo ra sự xáo trộn rất khoa học. Họ tính toán và dự trù từng điểm nhỏ nhặt để qua mắt nhân viên điều tra. Giờ này, có lẽ trong gian phòng giam chật hẹp họ đang tiếc rẻ công trình đổ vỡ chỉ vì một chút sơ hở.
Ngày đào lên kho tàng họ Võ Khắc, Hoàng và Hùng có mặt để chứng kiến. Lúc nhát cuốc chạm phải một vật gì, mọi người hồi hộp chờ đợi. Hoàng mang từ đống đất lên một cái hộp gỗ cũ kỹ. Hắn dùng tay lau sạch mặt gỗ để lộ ra hàng chữ cẩn xà cừ lấp lánh. Ông Lê Dũng đọc được: “VÕ KHẮC GIA BẢO”.
Đúng rồi! Đây là vật mà anh em Hùng phải khổ công tìm kiếm. Hùn run run dùng dao nạy nắp hộp. Mọi người đều kinh ngạc trước số vòng vàng nhiều vô kể. Từng viên kim cương lóng lánh thu hút sự chăm chú mãnh liệt. Trước số vàng ngọc sáng ngời, Hoàng trầm trồ :
- Ồ! Nhiều quá... quý giá... quá.
Hùng vốc từng đống vàng trên tay, thèm thuồng nhìn trân trối. Nhưng hắn chợt buồn mặt vì bây giờ không còn được tự do để thừa hưởng kho tàng vô giá. Hoàng cùng mang một cảm nghĩ như em. Hắn quay mặt đi che giấu tiếng thở dài.
Từ trước đến giờ đây là lần đầu tiên ông Lê Dũng được thấy tận mắt một số vàng ngọc nhiều như thế này. Điều này chứng tỏ tổ tiên của dòng họ Võ Khắc đã tốn bao công lao khó nhọc mới thu thập được, truyền lại cho con cháu. Họ có ngờ đâu chỉ vì sự đam mê giàu sang của ông Chân Lý làm tàn tạ cả một thời vàng son đã qua của dòng họ mang quá khứ sống động. Cả một dòng họ chấm dứt bằng hai bản án tù tội dành cho hai kẻ cuối cùng còn sót lại. Thời gian qua mau quá. Những người đầu tiên cố công gây dựng cho dòng họ có ngờ đâu rằng có một ngày đau đớn như ngày nay.
- Kho tàng đó hiện giờ về tay ai hả ba?
Tiếng nói đột ngột của Mỹ Hà cắt đứt dòng tư tưởng của ông Lê Dũng. Ông trả lời :
- Dĩ nhiên là Hoàng và Hùng được thừa hưởng vì họ có đủ bằng cớ xác nhận họ là những người còn sót lại của một dòng họ tàn tạ; quyển gia phả, chúc thơ và nhiều giấy tờ họ cất giữ xác định điều đó.
- Nhưng họ bị tù tội?
- Họ sẽ tiêu xài số vàng ngọc đó sau khi mãn hạn tù. Hiện giờ họ phải đền tội với pháp luật vì âm mưu đen tối và cái chết của tài xế Hớn. Tội nghiệp Hớn, chỉ vì quá tin người mà hắn bị lợi dụng để rồi cuối cùng nhắm mắt lìa bỏ cõi đời trong niềm uất hận. Bây giờ nỗi oan đã được giãi bày. Nhưng Hớn còn đâu nữa để sung sướng, hãnh diện.
Mọi việc đã qua. Giờ nghĩ lại Mỹ Hà không khỏi rùng mình. Nàng cố gắng quên hẳn hình bóng ma quái ngày nào ám ảnh mỗi khi mình ngồi trước bàn trang điểm. Tinh thần nàng được trở lại bình thường sau những ngày kinh hoàng. Nảng xoa đầu Tuấn, nói với ông Lê Dũng :
- Mọi việc cũng nhờ em Tuấn cả. Con phải thưởng Tuấn một món gì mới được.
Ông Lê Dũng cười, từ tốn bảo :
- Phải đấy.
Tuấn thấy nóng bừng ở đôi má. Nó từ chối lời khen tặng của Mỹ Hà :
- Em đâu có công gì. Nếu em không khám phá ra được cuộc chuyện trò của họ thì cảnh sát cũng đủ bằng cớ để đưa Hoàng và Hùng vào tù. Dấu tay trên người Hớn, vết giày in vào đất là những bằng cớ chính xác nhất, giá trị còn hơn sự khám phá do tình cờ của em.
- Tuấn đừng khách sáo. Em có can đảm đứng ra lãnh nhiệm vụ điều tra thủ phạm cũng đáng khen rồi đấy. Nào! Bây giờ thích gì để chị thưởng.
- Em.. cũng chẳng biết... gì nữa.
- Thôi để chị đề nghị thế này nhé. Tuấn sẽ theo chị nghỉ mát ít hôm. Chịu không?
Tuấn lí nhí nói :
- Vâng. Em chịu tất.
Đang lúc mọi người cười sung sướng trước sự bối rối đáng yêu của Tuấn thì... Mỹ Hà tái mặt, tay nàng chỉ về phía cầu thang mù mờ tối lắp bắp :
- Kìa... xem kìa...
Theo dấu tay của Mỹ Hà mọi người im lặng theo dõi bóng đen di động chậm trên tường như dáng một người đang bò nhẹ nhàng xuống thang gác. Tuấn ngạc nhiên: Không lẽ ma quái lại hiện ra nữa sao?
Cuối cùng bóng đen kia dừng lại nơi vùng ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn treo trên trần gác. Mọi người có mặt ồ lên một tiếng :
- Con... Tô Tô.
Chú chó Tô Tô được Mỹ Hà mang về làm bạn cách đây mấy hôm ngơ ngác nhìn. Nó lúc lắc đầu như không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Tô Tô đâu ngờ rằng trong lúc nó đánh hơi ngôi nhà mới thì cả nhà đều phải một phen đứng tim. Tiếng cười vui vẻ nổi lên trước gương mặt thẹn thùng của Mỹ Hà. Nàng bào chữa :
- Ai bảo... con Tô Tô... đi trên thang gác... làm gì!
Trăng lên cao ngoài khung cửa sổ, rọi tia sáng hiền hòa xuống khu vườn hồng bên trong ngôi biệt thự. Một cơn gió thoảng qua làm lay động những đóa hoa mơn mởn. Mùi thơm dìu dịu của bụi Dạ Lý Hương phảng phất đâu đây.


KHƯƠNG HỒNG

Sàigòn ngày 17-12-72
 
Sửa lần cuối:

baongoc

Rìu Sắt
Tài khoản bị khóa
@baongoc Tất cả đều là những cuốn có giá trị nhân văn rất cao, nhưng Những cuốn này hiện tại ngừng tái bản đã mấy chục năm rồi. Mình nghĩ nếu những tác giả này biết, ắt hẳn sẽ không cấm các website đưa lên để nhiều bạn đọc được tiếp cận đâu.
cũng chỉ lưu ý Bác thôi (vấn đề bản quyền), việc chia sẽ của bạn rất đáng ghi nhận, trân trọng. 3 loại tuổi hoa này được xuất bản trước 1975, có lẽ bây giờ ít người để ý. Mong nhận được nhiều bài nữa. Cảm ơn
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Đôi mắt Tử thần
Tác giả:
Xuân Quang
Tủ sách Hoa Đỏ
Sưu tâm & Scan: Nguyễn Tuấn
Đánh máy: Mai Anh
JH05mty0sNzZyBp9y4PGgIqp2_ZzlRm6aOxCQzJnV-qyzKv1k1zT2nvlD22MXp9s311yLRcr35ASFa8as1t-N4t-06SSn2hro2WimhwEMlw33Yw6CHn_7l7WqGskgiHEijaXHSiB_Y3Mm8SjvvDIqZ2e02XHtyI-STX1oDvCY_oQs93hDUDAlk2yzKPh-C2B0Ct-on3g80IS5nqPtIuAewAb6XbLBDgxMAOE59-JaSssHoAhtPiOEsNfJweNyvcH-Fi9D4-eDugwNBRCxBK2MjIM6gLPKl9NiDSQygXK1jTAyLFJlVxxq6ntGE_ho72vlYe9rjM7ERBil7BSx96nx5uHz7CzPnmGb66S1KP5IyzfAWzdHSStbe4ea0k4KbcGGTGBDkQHQqHXJ0D0cwtsIyVPlk4MBU4KspFrIYiSv7JNZoNX3FCkJlL34ue8XHdb7-FmTVTsv_KgvaWT48nGtE1zZizse9gR99hLO7RYpOlS8K4DCbfAofSQNBQbWVj1YsknYEtKaexFRqO4C7z7A4nvuugwfv9QM6MHDI1M_KA0gu4bvERtLAFZu7NLQpf22fIKEDcYIJmvfgNtQTlr06HTvai3-qAM1QV4t2Ey-O3uYr06cxACHg=w500-h681-no


Chương 1. Bốn người bạn trẻ
Bốn đứa trẻ đang thả diều. Bầu trời cao nguyên gió thổi lồng lộng tung bay tà áo trắng của Yến đứa bé gái trong bọn con trai nghịch ngợm này. Yến là em của Thi thằng bé tinh khôn và mưu trí nhất đám. Tập tành theo anh và được anh cưng chiều lắm, Yến chơi toàn trò chơi con trai: thả diều, lính chì, bắn bì, đánh đáo… Yến không thích chơi đùa với những bạn gái cùng xóm, chung lớp vì một lẽ rất giản dị: nó không có ai để nhõng nhẽo, hờn mát, làm nũng. Con gái lại hay chanh chua, đối đáp, lắm mồm lắm mép, cãi nhau như ó. Thật đáng chán!
Mới sáng sớm bảnh mắt Thi đã rủ hai bạn là Đĩnh và Bình qua thung lũng bên kia thả diều thi. Phần thưởng cho kẻ chiến thắng là chim nướng chúng săn bắn lát nữa đây khi trời rạng đông. Ba đứa bắn ná thung cũng rất giỏi, leo cây cũng rất tài.
Ba của Thi và Yến là người trồng trà và cà phê nổi tiếng ở Bảo Lộc này. Chúng không thiếu ăn bao giờ. Mâm cơm lúc nào cũng đầy ắp món ngon, nai, thỏ rừng… đôi khi có cả thịt voi và gấu nữa. Ăn nhiều hóa chán, hai anh em rủ nhau đi lang thang suốt buổi ngoài đồng trống hay leo núi chơi. Lúc đầu chúng lén trốn đi, cha mẹ biết nhưng vì bận nhiều công việc và cưng chiều con quá mức chỉ rầy là sơ sơ. Hai đứa trẻ cứng đầu và ham mạo hiểm được thể tiếp tục cuộc chơi của chúng. Thường khi chúng đi đâu mất biệt từ sáng sớm đến chiều tối mới về nhà.
Đĩnh và Bình trái lại, là con hai người làm công của cha mẹ Thi, rất nghèo và khiêm tốn. Hai đứa này học giỏi, thường chỉ bảo thêm cho Thi và Yến bài vở nhà trường và được cha mẹ Thi quý hóa không kém chi hai con ruột. Ông bà bình dân, biết điều, không ỷ tiền tài, thế lực khinh khi kẻ dưới… Đĩnh và Bình ra vào quen thuộc và dễ dàng nhà ông bà chủ nhà như nhà riêng của chúng vậy.
Bây giờ đang mùa hè, các học sinh được nghỉ dài hạn nên bọn trẻ này tha hồ tự do. Thời kỳ này cha mẹ Thi lại bận rộn nhất: đây là thời gian cà phê chín, phải hái, phơi sấy và về các đô thị tìm nơi tiêu thụ. Ông bà một tuần lễ đi ra ngoài hết 6 ngày, chỉ trừ Chủ nhật là ở nhà với con.
Thi yên chí là em gái mình không biết được buổi đi chơi xa này. Con bé có tật ngủ nướng trên giường. Tối qua Thi chỉ hẹn riêng với bạn. Không phải thằng bé ích kỷ, ghét bỏ gì em, nhưng có con gái đi theo vướng chân lắm. Nhất là hôm nay bọn con trai dự định đi rất xa. Mang em gái theo lỡ nửa đường con bé kêu trời mỏi chân, đau gân phải cõng nó về thì khổ.
Thi hí hửng sửa soạn đồ vật cần thiết. Nó thu dọn lắm thứ lỉnh kỉnh vào giỏ: một cái diều giấy lớn, một cuộn dây ny-lông để thả diều, con dao đi rừng nhỏ, tấm poncho trải ngồi dưới đất cho tiện. Đồ ăn mang theo là mấy nắm cơm to chắc nịch cùng năm con cá rô chiên. Trong túi quần là chiếc ná thung quen thuộc, một ít bì – bì là những hòn sỏi tròn vo, trắng muốt dùng làm đạn cho ná thung. Thi thích đạn màu trắng, nó không bao giờ lựa mấy hòn sỏi vàng hay lốm đốm nâu. Nó bảo đạn màu bắn xui lắm, đạn trắng mới trúng. Dĩ nhiên đó chỉ là một cái cớ giải thích vụng về về những việc nó làm mà thôi. Không ai tin nó và nó cũng không cần ai tin.
Hai bạn thì đang chờ ở cửa. Thi đã ra dấu bằng tay qua khung kính cửa sổ báo cho các bạn rồi. Chỉ 5 phút nữa là ba đứa ra khỏi nhà. Thi cố gắng hết sức nhẹ nhàng rón rén vào phòng em gái lấy thêm cái áo mưa, mắt liếc chừng Yến đang say giấc, thỉnh thoảng ú ớ một câu gì không rõ. Thi mỉm cười quay lưng bước ra thở phào như vừa trút được gánh nặng. Nhưng có tiếng Yến gọi:
- Anh Thi.
Thi khựng lại, đành trở lại phòng em, làm hòa.
- Yến kêu anh chi đó? Em mơ ngủ phải không?
Con bé ôm cổ anh, nũng nịu trách:
- Anh gạt em. Anh hẹn đi chơi cùng anh Đĩnh, anh Bình. Đêm qua anh sửa soạn gì em thấy hết. Em đã mang sẵn diều và dây thả này. Anh cho em theo với.
Thôi chết rồi! Thi than thầm trong bụng. Mình hớ hênh sao để cho nó thấy hết còn gì. Làm sao bây giờ? Thi bào chữa:
- Anh thấy em ngủ ngon không gọi đấy chứ. Em đừng theo đi. Tụi anh hôm nay đi bộ xa lắm. Em đi về đau chân cho mà xem.
Yến năn nỉ:
- Em đi được mà anh Hai. Em giả bộ ngủ chứ thức đã lâu chờ anh đấy. Anh xấu quá, tính qua mặt em đi chơi. Em hứa là em không kêu đau chân đâu.
- Thôi đi Yến à. Ai còn lạ gì em. Lần trước bắn chim ngoài núi Đại Bình cũng vậy. Hứa hẹn giỏi lắm, lúc về anh phải bóp chân gần chết. Tha cho anh lần này đi Yến.
Con bé nhất định không chịu, làm dữ.
- Anh không cho em theo em la lên cho xem. Má mà biết là anh ở nhà, bị đòn đừng khóc nhé. Má ơi! Má…
Thi vội vã bịt miệng em, cái miệng xinh xẻo mà hay ăn vạ nhất nhà:
- Đừng la em, em muốn đi thì đi, anh có cản đâu. Sửa soạn mau lên nhé.
Yến hôn anh đến chụt một cái vào má:
- Anh điệu quá. Anh ra trước chờ em 5 phút là xong.
Thi ngán lắm, nhưng không biết tính sao. Nó đã thuộc lòng tính em gái. 5 phút của Yến dài như nửa tiếng đồng hồ của con trai chúng nó. Thôi rán chờ vậy.
Nó chuyện vãn với hai bạn cho qua thời giờ.
- Chờ em tao một chút nghe Đĩnh, Bình. Tao lén nó trốn đi mà không được. Nó bắt gặp, hăm he nếu tao không để nó đi theo nó la lên.
Bình cười:
- Tao lạ gì mày. Đi đâu kè kè em gái theo. Đừng vịn cớ này nọ nữa ông mãnh.
Thi ức:
- Tao thề với chúng mày. Tao không bảo nó. Không hiểu sao nó biết.
Đĩnh vờ tin Thi cho êm chuyện:
- Con bé láu lỉnh lắm. Gạt nó dễ gì. Tao tin mày. Thi ạ. Khỏi thề thốt mất công.
Thi vẫn ấm ức nhưng không cãi nữa. Nói hoài rồi cũng không đi đến đâu. Buổi đi chơi có thể mất vui. Bình hỏi Thi:
- Mày định tới đó thật à? Nguy hiểm lắm.
Thi so vai:
- Tao sợ gì. Mày sợ thì bỏ cuộc đi. Bây giờ cũng còn kịp.
- Không phải thế. Nhưng…
Thi cắt ngang:
- Không nhưng nhị gì cả. Tao nói vắn tắt mày thích thì đi. Không thì thôi. Tao chẳng bắt ép ai cả.
Bình im lặng. Đĩnh dò dẫm Thi:
- Trưa nay tới thung lũng được chưa? Tao sợ khó lòng. Leo đèo mệt lắm.
Thi tin tưởng:
- Đi bộ chắc không tới được. Mình phải về nhà gấp chiều nay, trước khi sẩm tối. Đi đêm nguy hiểm. Vậy thì phải cho lẹ. Chúng mày đồng ý không?
Lẽ dĩ nhiên là hai cái đầu xanh biểu đồng tình. Chúng có cãi lời “đàn anh” của chúng bao giờ. Thi học dốt hơn hai bạn thật nhưng nó có một trí thông minh thực tế, ứng biến rất nhanh trong những trường hợp nguy hiểm.
Bình bàn với Thi:
- Tao chỉ ngán em mày chạy không nổi. Nó nằm xuống thì ai khiêng đi được. Nặng lắm.
Thi dở giọng “lãnh tụ”:
- Mày khỏi lo. Tao là “chúa đảng” tao phải lo. Nó chạy chì lắm tao rượt hoài không được. Không tin hôm nay tụi bay thử sức với nó xem.
Trấn an bạn như thế nhưng Thi lo lắm. Lo thật sự. Yến chỉ giỏi tài khóc, có giỏi chạy đâu.
Tuy nhiên, lỡ rồi thì phải chịu. Nó cố tác động tâm lý để Bình và Đĩnh quên việc Yến đi theo hôm nay đi. Và nó thành công. Hai đứa bạn nó hớn hở:
- Mày thách tụi tao cũng sẵn sàng, đừng nói em gái mày. Có giỏi mày nhập cuộc luôn cho vui.
Đĩnh ưỡn ngực:
- Tao vui lòng chấp nhận lời thách thức này. Tao phải làm cho tụi bay nể mới được.
Bình và Đĩnh tự nhiên thấy máu trong người mình sôi lên. Con trai không thể thua con gái. Chúng biết chắc là sẽ thua Thi nhưng thắng con Yến. Con gái làm tàng để khóc một bữa cho đáng kiếp.
Vui chuyện nhưng Đĩnh vẫn thấy sốt ruột. Chờ đợi gì lâu cả thế kỷ không bằng. Nó bảo Đĩnh:
- Mày bảo nó nhanh nhanh lên. Kỳ nào đi chơi cũng phải chờ nửa tiếng. Mất hết thì giờ. Đi sớm một chút tới nơi trời mát, dễ chịu hơn.
Giọng con gái cất lên:
- Anh Đĩnh nói gì đó. Mới đợi chút xíu đã cằn nhằn. Trời đây có bao giờ nắng gắt đâu.
Đĩnh vội chối biến. Nó biết cãi không lại con bé lắm điều ấy.
- Yến đừng nói thế. Tôi nói thằng Bình mà!
Vừa nói Đĩnh vừa nheo mắt cho Bình hiểu ý.
Bình cười:
- Đĩnh nói thật đấy. Thôi chúng ta đi.
Đĩnh dẫn trước đoàn. Nó đi thật nhanh cho Yến không theo kịp, khỏi hỏi vặn lôi thôi. Lời lấp liếm của nó đưa ra vội vàng khi nãy còn nhiều sơ hở lắm. Nhưng Yến không vặn vẹo gì cả. Hôm nay con bé vui vẻ được cho anh đi chơi xa, nên không chú ý đến những điều nhỏ nhặt.
Yến liếc nhìn hai bên đường mòn. Những cây cỏ dại đủ loại, đủ màu hoa đủ mọi hình thù mọc san sát, dầy đặc trên đất núi cố vươn lên tìm hưởng chút anh sáng mặt trời.
Nó thích nhất là cây trúc nở hoa nhưng rất hiếm khi gặp. Cha nó bảo rằng loại tre trúc cả trăm năm mới nở một lần, và trổ hoa xong là chết.
Yến bảo anh:
- Anh Thi à, anh ráng tìm cho em cây trúc trổ hoa đi.
Thấy cô em gái giở giọng yêu sách. Đĩnh đáp cho xong chuyện.
- Anh hứa sẽ tìm cho em. Có điều anh không hứa chắc bao giờ tìm được đấy nhé, cái đó chỉ hên xui may rủi thôi.
Yến không nỡ bắt chẹt anh mãi. Nó tự thấy mình hơi làm quá. Nó biết anh cưng nhưng chỉ có chừng, cái gì anh làm được mới hứa. Cây trúc trổ hoa cả trăm năm mới có một lần, biết đâu mà tìm bây giờ.
Thi bảo các bạn:
- Bây giờ chúng mình thả diều nhé, gió lên mạnh lắm rồi. lát nữa nắng chói khó rõ ai thắng cuộc.
Thật ra thì Yến thấy con đường còn xa quá, đi như thế này biết chừng nào tới nơi. Bảo Yến chạy chắc chắn nó không chịu. Vậy còn cách thả diều. Muốn diều lên thì phải chạy mau, hai tay giật giật sợi dây điều khiển và nương theo gió cánh diểu cao dần. Càng chạy may thì diều càng dễ lên hơn. Yến ham vui tất nhiên hưởng ứng ngay. Và Thi đạt được mục đích của mình. Thế mới hay, làm chúa đảng nhóm nho nhỏ ba, bốn đảng viên “điều hành” công việc cho chạy cũng khó lắm. Nhất là trong nhóm có một đứa con gái nhỏ hay nhõng nhẽo.
Đĩnh hơi thắc mắc không hiểu Thi định làm gì thì thấy bạn lừ mắt ra hiệu. Chúng suy nghĩ chút xíu, hiểu ngay cười thích thú. Yến còn nhỏ, không hay nghĩ sâu hỏi Bình:
- Anh Bình cười Yến phải không?
- Không đâu Yến ạ. Tôi cười vì tôi biết chắc khi thả diều Yến sẽ thua tôi. Có thế thôi.
Bình khích Yến cho con bé chịu nhận cuộc chơi. Quả nhiên Yến mắc mưu nổi giận:
- Anh nói cái gì? Yến thua anh hả? Còn lâu thả thử là biết ngay.
Thi giảng hòa:
- Ta đi chơi. Yến thả diều của anh đi, anh xách giỏ thức ăn cho. Đĩnh nữa, chơi luôn thể. Có ba cái diều thả cùng lúc mới vui. Ta nhắm hướng thẳng con đường trước mặt đi nhé.
Ba đứa trẻ thả cái diều giấy với đuôi dài thường thượt từ từ bốc cao khỏi mặt đất. Ba cuộn dây ny-lông tháo dần dần. Chúng cắm đầu cắm cổ chạy. Thi chạy theo, tay xách giỏ thức ăn và vật dụng cho cả bọn. Gió thổi mạnh và càng lên lưng chừng đồi gió càng dữ hơn. Yến nhẹ nhất, nhiều lúc tưởng mình biến thành cánh diều gió đưa lên tận mây xanh cuối trời. Nó sợ hãi hét lên khi thấy suýt nữa gió thổi bay đi. Những lúc ấy nó vừa sợ vừa thích thú. Nó vừa chạy gắng cho kịp ba đứa con trai, mắt đăm đăm theo dõi con diều đỏ lơ lửng trong gió sớm. Hai tay nó thả cuộn dây như máy thêm tấc nào là nó mừng chừng nấy vì dây của Thi luôn luôn dài nhất, thả hết cuộn là chắc chắn thắng cuộc. Anh Thi của Yến không bao giờ thua và Yến cũng không bao giờ thua. Nó tự nhủ như vậy.
Thi luôn miệng chỉ bảo em gái cách giật sợi chỉ, xoay tay xoay người điều khiển con diều. Yến mới tập thả cách đây vài tháng, không lão luyện già dặn như Đĩnh nhưng được cái là ở đây đất trống trải, rộng rãi, gió lại mạnh và có liên tục rất thuận tiện thả diều. Chứ ở thành phố thì thả diều rất khó, muốn thắng cuộc cần phải thả rất giỏi và leo trèo lên nóc nhà thả cho khỏi vướng dây điện giăng mắc, rất dễ bị trợt té dập mặt. Diều dễ bị “bắt” lại bởi nhà cửa, dây điện, khó thu lại. Vô phúc nếu đứt dây thì mất cả diều lẫn phần dây đứt.
Thi có thể bảo bạn để Đĩnh và Bình nhường em gái mình được nhưng nó không thích thế. Nó muốn có sự tranh tài thực sự và Yến chắc chắn sẽ thua, nhờ thế mà bớt quá quắt phần nào. Làm nũng chỉ có lúc thôi chớ. Mình không nói được để người ngoài dạy nó dễ hơn.
Đĩnh đưa mắt hỏi ý Thi xem nên cho diều lên cao nữa hay thôi. Làm vậy vì nó nể “chúa Đảng” và cũng vì sợ con bé lắm điều này. Lỡ ra thua cuộc nó ngồi khóc tỉ tê cả buổi thì ai dỗ được!
Thi thản nhiên gật đầu cho Đĩnh thả thêm dây nữa tiếp tục cho diều lên cao vượt hẳn diều của Yến. Yến hậm hực hét lên:
- Chấp anh Đĩnh, anh Bình đó. Diều của Yến lên cao cho mà xem. Lên đi, lên mau đi diều ơi!
Thi suýt phì cười. Yến nòng lòng thả mau cuộn dây thêm một khúc rất dài. Nhưng nào phải thả diều là tháo dây ra cho dài không thôi đâu. Sợi dây diều đang căng thẳng bỗng trùng lại và diều của Yến lảo đảo, đi xuống thấp dần. Thi sợ em buồn vội bảo:
- Cuộn bớt dây lại Yến ơi. Có gió bên trái đó.Em giật sợi dây nhè nhẹ đưa diều lên.
Yến nghe lời anh và diều của nó lên cao trở lại. Nhưng lúc ấy, diều của Bình và Đĩnh đã cao lắm rồi. Yến thất vọng nhưng biết lỗi tại mình không dám nói năng cằn nhằn anh Thi. Nó cố gắng mãi nhưng tài thả diều của nó có hạn, không thể nào thả hết cuộn dây dài được.
Mãi gia nhập cuộc chơi hào hứng này mà bốn đứa trẻ chạu một đoạn đường rất dài không biết mệt. Và chúng đã lên đỉnh đồi từ lâu và giờ đây đang chạy xuống sườn đồi bên kia. Yến vẫn bướng bỉnh không chịu thua. Nó hy vọng gió sẽ thổi và đưa chiếc diều của nó lên cao nhất. Nó sẽ thắng cuộc.

Thi thừa biết kết quả cuộc thi, không buồn theo dõi nữa. Nó nhìn xuống đường đi dưới chân. Con đường trải dài, vô tận. Đất trắng xóa có nhiều cát chạy không chắc chân chút nào, rất dễ bị lún. Hướng này Thi chưa đến bao giờ. Người ta đồn vùng trước mặt là vùng nguy hiểm. Có ma cà rồng. Thi không tin như vậy, nhưng cũng hơi sợ sệt. Đêm tối âm u nằm trong giường thằng bé nghĩ đến một bóng đen với hai răng nanh dài thườn thượt, hai ngón chân quật lên lỗ mũi mà rùng mình lành lạnh nơi xương sống. Nếu ma ca rồng chui vào phòng mình thì sao nhỉ? Nó sẽ hét lên tông cửa phòng chạy ra vườn chăng? Thi đoán lờ mờ rằng mình làm thế cũng không thoát. Người chạy còn ma bay như chim vậy đuổi theo bắt kịp mấy hồi.
Thi thấy một ngôi nhà cổ kính bỏ hoang, tường rêu xanh om lấp cả cửa nẻo ra vào loáng ẩn hiện sau khu rừng rậm rạp. Cánh cổng sắt han rỉ, Thi có cảm tưởng nó gần rã ra thành bụi với thời gian. Khu vườn quá rộng, um tùm như một cánh rừng già nho nhỏ, cánh rừng trong đó có lâu đài của những nàng tiên xa lánh trần thế sống cuộc đời trong sáng trên thiên thai.. Lâu đài ấy chính là ngôi nhà đồ sộ nguy nga và chắc chắn kia.
Ngôi nhà bỏ hoang đàng xa thì nó biết rõ lắm. Nó nghe chuyện kể lại của ba nó cách đây hơn một năm rồi. Ngày xưa, cách nay chừng trăm năm có một vị quan Thượng thư triều Nguyễn giàu có nổi tiếng mua đất cho xây ngôi nhà ấy. Không biết câu chuyện bí ẩn xảy ra trong lâu đài ra sao mà cả nhà vị Thượng thư ấy chết hết. mỗi người cách nhau một vài tháng lần lượt nằm xuống. Vị Thượng thư chết sau cùng. Ông có để lại một tập thơ chữ nôm thuật lại những bí ẩn ấy. Ông không nói trực tiếp cho người ngoài hiểu được, trái lại, ông bắt buộc người đọc phải thông minh suy đoán và biết phép chiết tự của chữ Nho. Cuốn thơ ấy, rủi ro thay đến nay đã bị lạc mất.
Ma cà rồng từ đâu trôi giạt về trú ngụ trong lâu đài, đêm đến ra ngoài kiếm ăn. Người và súc vật như trâu, bò, dê,… của người Thượng nuôi quanh đó đều chết. Người Thượng đã truyền thuyết như vậy nhưng những người Kinh không tin. Cách đây mười năm, một người bạo nhất đến cắm lều trong khu vườn âm u kia một đêm. Sáng hôm sau, không thấy tăm hơi anh chàng lực lưỡng võ nghệ đó, cảnh sát địa phương được thông báo đến nơi tìm thấy một cái xác lạnh cứng, nhợt nhạt, mất hết máu trong thân thể, cổ họng còn mấy vết răng cắn đứt. Vẻ mặt anh ta đầy sự kinh hoàng khủng khiếp. Hai tay nắm chặt lại như muốn lấy lại sức mạnh và tự tin. Bác sỹ pháp y giải phẫu cho biết kết quả anh chàng kia chết vì bị mất hết máu qua vết răng ở cổ họng. Chỉ có thế thôi. Không có chất độc hay vết đả thương trầy da chút xíu nào.
Bắt buộc người ta tin là có ma vì cuộc điều tra cảnh sát cho thấy không có thủ phạm. Không có vết chân người, dấu vết vật lộn, dấu tay hay một chút ánh sáng nào đưa đến giả thuyết có người sống trong khu vườn ấy trừ chính nạn nhân đáng thương kia. Nạn nhân cũng không phải bị thú rừng hay rít cắn xé. Vậy tại sao anh ta chết? Vết cắn ở cổ họng kia do đâu mà có?
Người ta không dám bén mảng đến khu vườn và ngôi nhà ma quái ấy nữa. Toàn thể khu vực rộng rãi khang trang đó bỏ hoang đến ngày nay.
Bỗng Thi có cảm tưởng như mình đang bay bổng trong không khí. Và nó bay xuống thấp chứ không phải bay lên cao như ba con diều giấy đang lơ lửng trên bầu trời đục đục chập chùng, lộng gió. Thi hoảng hốt tự hỏi hay là mình đang ngã xuống vực thẳm? Vô lý, nó đâu có nhìn thấy vực sâu đâu mà té xuống! Rõ ràng đang ngắm ngôi nhà và con đường trải dài trước mặt. Không có hố hay hào rãnh nào cả. Vậy người nó tự nhiên lơ lửng như bay kia là sao?
Thi quay sang bên cạnh thấy em gái mình và hai bạn đang “bay” hệt mình. Ba đứa tay còn luống cuống với sợi dây thả diều, mồm la hét ầm ỉ! Gương mặt hằn rõ nét ngạc nhiên và sợ hãi. Chúng không biết chống đỡ ra sao cả? Thi cũng không hơn gì các bạn, tay nó xách cái giỏ không biết để đâu đành nắm chắc khư khư. May mà Thi giữ được bình tĩnh, nếu hoảng hốt đã buông rơi cái giỏ rồi.
Bốn đứa trẻ thấy chân chạm vào một nền cứng. Chúng tới đất, bốn đứa ngã chồng đống vào nhau, dồn cục thật tức cười. Thi tới đất trước nhất nên phải chịu sức dội mạnh nhất. Nó khoẻ mạnh lắm nên chỉ thấy tức ngực một chút thôi.
Bốn đứa lồm cồm bò dậy. Chúng đau ê ẩm cả người, ngồi dậy không nổi nữa. Thi gan góc nhất bọn, không khóc. Yến đau quá, không nén được bật khóc òa lên ôm lấy anh. Nó khóc ngon lành như chưa bao giờ được khóc.
Thi biết em đau quá nên mặc cho Yến khóc. Nó vuốt tóc Yến, vỗ về an ủi em. Đợi cho Yến qua cơn đau, Thi mới dỗ:
- Nín đi Yến! Em xem có ai khóc đâu. Ngã ai cũng đau cả. đâu phải riêng mình em.
Yến làm nũng anh, khóc to hơn. Thi nhìn qua hai bạn thấy Đĩnh và Bình tuy không khóc thành tiếng nhưng cũng chảy nước mắt sống. Nó thương em bối rối không biết dỗ làm sao. Chợt Đĩnh và Bình lấy tay áo chùi mặt và ra dấu cho nhau. Đợi Yến ngước lên cả hai ráng nở nụ cười chế giễu. Nụ cười không nguyên vẹn, nhưng cũng có hiệu quả. Yến thẹn quá, mặt đỏ lên nín bặt. Thi cười cảm ơn hai bạn.
Bốn đứa trẻ nhìn xung quanh, vách đất cao vút, thẳng đứng đến 5, 6 thước cách mặt đất. Chúng dõi mắt theo chiều dài đường hầm đào thấy chạy quanh tròn và rất dài, tưởng như vô tận. Đĩnh lên tiếng:
- Chắc đây là đường hào đào quanh một căn nhà nào đó phòng kẻ trộm. Bọn mình vô ý sụp hố
Thi thêm vào:
- Ngôi nhà bỏ hoang đấy mà; không biết hào nào đào từ bao giờ, tao chẳng nghe thấy ai nói đến hết.
Bình nhận xét:
- Hình như không phải đường hào quanh nhà vì đường này không có che đất lấp kín bên trên. Đúng là hố đào bẫy heo rừng, gấu cọp chi đó.
Yến sợ run, suýt khóc trở lại:
- Trời ơi! Anh Thi ơi! Anh Bình nói đúng đấy. Làm sao bây giờ? Lỡ heo rừng hay cọp sụp hố này thì chúng mình bị ăn thịt hết.
Thi thấy bạn và em gái có lý. Đường hầm chắc để bẫy thú dữ. Nếu có thú dữ sụp hầm thì đường hầm hẹp, bốn đứa chúng nó không xoay sở, không chống đỡ hay chạy trốn gì được. Tất cả sẽ làm mồi ngon cho thú.
Thi ngước mắt nhìn lên trời, suy nghĩ kế thoát thân. Nếu ở yên đây không chết vì thú dữ cũng chết vì đói khát, muỗi mòng, rắn rít. Chúng sẽ bị bỏ quên nơi đây cho đến chết. Cha mẹ chúng không thể ngờ được con mình lại dám mạo hiểm vào vùng nguy hiểm này. Chưa kể là con ma cà rồng linh thiêng và khát máu kia nữa. Hố này rất gần tòa lâu đài bỏ hoang phế lâu ngày.
Thi thấy bọn nó còn may. Đường hầm quá dài nên nền đất không dùng chông tre hay chông sắt tẩm thuốc độc. Có chông thì bốn đứa chết phứt rồi.
Thi nhìn thấy chiếc diều của Yến còn bay phất phới trong bầu trời. Còn diều của Đĩnh và Bình không thấy. Hoặc hai điều này đã rớt trên đất, hoặc vẫn còn bay nhưng đường hầm hẹp nhìn lên trời không được. Thi chán nản, hết thú vị ở trò chơi thả diều, bảo ba bạn:
- Thu diều lại. Chấm dứt trò chơi.
Ba đứa ngoan ngoãn nghe lời Thi răm rắp. Kể cả Yến nữa. Con bé thường ngày hay nhõng nhẽo, bắt anh chiều mình, ít khi chịu nghe anh bảo bao giờ. Thế mà nay nó nhận thấy ở Thi có một quyền lực kỳ dị và nó phải tuân theo. Nhưng nó vẫn muốn thắng cuộc. Hay nếu không thắng được thì huề vậy dù nó thua rõ ràng. Nó gắng bảo Đĩnh và Bình:
- Hai anh hòa với Yến đấy nhé. Đang chơi giở phải ngừng lại. Không phải Yến thua đâu.
Đĩnh điềm đạm chẳng nói chi. Bình sùng lên trả đũa:
- Bây giờ thì Yến thắng luôn cũng được. Tôi không thiết nữa.
Thi tách rời hai đứa:
- Thôi im đi. Nghe tao nói đây Bình. Bây giờ mình phải thoát ra được đường hầm này. Vấn đề là thoát bằng cách nào?
Đĩnh trả lời:
- Hay mình cứ đi loanh quanh đường hầm chắc cùng có lối ra. Tôi thấy hầm đào cong cong thành vòng tròn đó thôi.
Thi lắc đầu:
- Không ổn Đĩnh ạ. Mày phải biết đường hầm che đất là để bẫy thú. Nếu có lối thoát thì thú dữ khi bị sụp hầm lồng lộng chạy quanh thoát ra thì sao?
Đĩnh tiu nghỉu. Bình ra vẻ suy nghĩ. Còn Yến cũng quay đi. Nó đang tức với Bình.
Thi thấy cả bọn im lìm thì phát quạu lên. Bọn này chỉ ăn là được, đụng chuyện không ai giúp đỡ nó được cái gì. Mọi khó khăn trút lên đầu nó hết! Nhìn anh nhăn nhó, Yến phì cười:
- Anh là Chúa đảng phải tính kế hoạch thoát thân là phải rồi . Nhăn chi nữa.
Thi toan tát em một cái nên thân nhưng rồi nó rụt tay lại. Nó không đánh em bao giờ. Hơn nữa nếu Thi không tính ra đường thoát thì chẳng xứng đáng lãnh đạo chút nào.
Thi dịu nét mặt, cố dằn cơn nóng xuống, hỏi Yến:
- Sao em không thu diều về, để dây dài nửa chừng làm chi?
- Không thu được anh Thi ạ. Lạ quá, hai diều anh Bình và anh Đĩnh không thấy bay thì thu về cái một. Diều em bay rõ ràng thì nửa chừng bị vướng đâu đó. Nếu kéo dây nữa là đứt.
Thi thử kéo dây rồi lắc đầu chán nản. Đứt dây uổng lắm, còn mất cả cái diều. Bao công phu chẻ tre, quấy hồ, phết diều dán giấy cho đẹp mà thành ra mây khói. Đành để diều đấy rồi liệu bề thu về sau khi lên khỏi đường hầm quái ác này.
Thi vụt cười tươi rói, Trời ơi, đơn giản thế mà sao nó chẳng nghĩ ra. Muốn thoát khỏi hầm chỉ có cách dòng dây. Nó bảo Bình và Đĩnh:
- Tụi mày tháo dây diều ra, bện lại nhiều sợi cho chắc đi.. Chúng mình thoát rồi.
Bốn đứa hì hục làm việc. Nửa tiếng đồng hồ sau xong xuôi Thi đắc ý:
- May mà hôm nay mang dây ny lông thả diều. Như mọi khi thả bằng sợi thì chịu, không đủ chắc chắn thoát lên đâu.
Thi bảo các bạn:
- Bây giờ mình bắt chước cao bồi quăng dây bắt bò rừng.
Nó buộc con dao đi rừng vào đầu sợi dây và quay quay đầu dây vài vòng rồi liệng thẳng lên cao. Nó giật thử trước khi nắm dây trèo lên. Than ôi! Con dao rơi trở xuống. Thực tế khó khăn cay đắng có dễ dàng gì đâu như Thi tưởng tượng. Nó thử ném vài lần nữa cũng thất bại hết.
Yến, Bình và Đĩnh dành ném nhưng rồi vô hiệu. Thi thở dài:
- Tao biết rồi, tụi bay à. Mình đâu nhìn thấy gì, đứng dưới đáy hầm ném hú họa lên trời làm sao trúng cây cối hay cọc đóng chắc cho mình leo lên được. Phải làm sao đây?
Yến nhanh miệng:
- Anh Hai thử làm cách này xem. Bốn đứa đứng chồng lên vai nhau, người cao nhất sẽ ném sợi dây này. Đứng cao may ra nhìn được cảnh vật cây cỏ bên trên chút ít.
Thi sáng mắt, khen em gái:
- Yến hôm nay được việc cho anh quá. Em ngoan lắm.
Yến mừng quên cả nhõng nhẽo đòi thưởng như thường lệ. Bốn đứa trẻ vội vã làm theo lời con Yến. Thi lực lưỡng khỏe mạnh nhất đứng chịu dưới cùng. Lần lượt từ dưới lên cao là Bình. Đĩnh và Yến tiếp nhau. Yến mảnh mai đứng trên cùng. Đầu nó chỉ còn cách miệng hầm độ hai thước nữa. Yến đã nhìn thấy bầu trời nắng đẹp trên đầu. Bên tay trái cách nó chừng 5 thước có một cọc gỗ hàng rào đã cũ. Yến nhắm cọc và quăng dây ra.
Nó quăng trật vuột mãi. Thi sốt ruột vì chịu bên dưới quá nặng, giục em:
- Rán lên Yến. Anh mệt quá rồi đây.
Yến quăng dây lần này thì trúng và quấn quanh cọc. Nó mừng lắm, giật thử thấy chắc chắn có thể bám lên được bèn bảo anh:
- Xong rồi anh Thi ơi!
- Em leo lên trước đi. Rồi đến Đĩnh và Bình. Anh lên sau cùng.
Yến là con gái nhưng leo trèo còn nhanh hơn con trai. Con bé theo anh đi chơi đã lâu ngày rồi. Nó khéo léo và nhẹ nhàng nên ăn đứt con trai là phải. Yến trèo lên được mặt đất, phụ giúp giữ dây cho Bình và Đĩnh vừa lên khỏi. Bây giờ tới Bình. Thi bảo bạn lúc ấy đang đứng với mình trên nền hầm đất, mặt mày tươi tỉnh có sinh khí, không thất vọng bí xị như lúc nãy:
- Rán lên mau rồi giữ tao nhé.
Bình gật đầu. Thi chuyển cho bạn các vật dụng, diều, giỏ xách đựng thức ăn rồi mới bám dây tựa vào vách hầm đu lên. Đứng trên mặt đất rồi Thi thất vọng trở lại:
- Trời ơi em quăng dây thế này hả Yến! Qua mé kia mới là đường về nhà, mắc vào cọc hàng rào thì lại phải vượt ngang đường hầm lần nữa.
Thi cười nói với Bình:
- Bây giờ tao nhảy xa nhé. Nhảy qua hố rồi kéo mày qua luôn. Hai đứa đứng một bên đủ để đỡ Đĩnh và Yến sang rồi.
Nói thế vì Thi biết Đĩnh nhảy xa rất dở. Ở trường, giờ tập thể thao đến môn nhảy xa là anh chàng chịu. Nhảy chừng hai thước là cùng. Chiều ngang đường hầm phải ba thước ngoài. Yến là con gái lại nhỏ tuổi chắc chắn phải đỡ nó.
Thi lấy đà từ xa chạy nước rút và phóng qua bờ bên kia. Nó cố gắng lấy gan đạp chân hết sức mớm vào bờ đang đứng lao sang. Chân nó vừa vặn chạm vào bờ đất. Theo trớn phóng, Thi lủi luôn về phía trước trên bãi cỏ. Hú vía. Nhảy qua hố sâu khác hẳn nhảy xa trên đất cát ở sân tập của trường học.
Bình hơi sợ nhưng rán lấy hết can đảm phóng qua. Thi nắm lấy hai tay của Bình giật mình vào lòng giữa lúc thằng bé hụt chân. Bình té dồn cục lên người Thi an toàn.
Đĩnh và Yến chần chừ mãi. Hai đứa đùn nhau không ai dám nhảy sang trước dù bên kia đã có Bình và Thi đỡ lấy. Thi hơi sùng bảo Yến:
- Em sang trước đi Yến. Anh đỡ. Không sao đâu.
Yến lắc đầu. Thi chế nhạo:
- Thế mà lúc sáng nhất định theo anh đi. Anh nói trước em đâu có nghe.
Yến vẫn không chịu nhảy. Dỗ ngọt rồi nói sẵng đều chẳng hiệu quả chút nào. Thi đành liệu biện pháp khác cho em và Đĩnh:
- Thôi thế này vậy. Yến ném đồ vật sang cho anh. Em ném sợi dây bện cho anh luôn. Anh và Bình giữ một đầu dây. Đầu dây bên kia có cái cọc rồi. Em và Đĩnh thủng thẳng chuyền qua cũng được.
Thi quay sang bảo Bình:
- Mày giữ đầu dây cho chắc tao ôm ngang bụng mày đứng tấn thật vững mới xong. Đừng buông tay dây sút ra nguy lắm đấy.
Bình tiếc sợi dây cằn nhằn:
- Thế này thì phải bỏ dây lại còn gì. Uổng quá. Hai đứa chết nhát.
Thi vỗ vai bạn:
- Tao tính thế rồi nhưng không được. Biết sao bây giờ. Thủng thẳng tao đền cho cuộn dây ni lông khác.
Yến truyền qua được trước. Đĩnh theo sau. Hai đứa qua bằng tay. Bề ngang hố đào tương đối ngắn nên chúng qua mau.
Thi thở phào sung sướng. Nhiệm vụ của nó chu toàn. Nó vừa tiếc sợi dây, vừa tiếc con dao đi rừng kẹt lại bên kia. Thấy cây cọc đã cũ gần mục nát, nó bảo em gái và hai bạn:
- Chúng mày ráng phụ tao lấy lại sợi dây. Nếu cần nhổ luôn cọc hàng rào.
Nhưng cây cọc gãy đôi trước khi cả bọn nhổ lên được. Bốn đứa trẻ thở dốc nhìn nhau. Buổi đi chơi hôm nay thế là hỏng. Chưa đến nơi đã định thì sụp hầm, mất hết cả buổi sáng. Giờ trưa trật rồi. Thi giơ tay trái lên nhìn đồng hồ cũ kỹ, ba nó không thích trẻ em đeo đồng hồ mới, đúng 12 giờ trưa. Mặt trời đứng bóng. Cả bọn đi bộ chậm chạp trở về con đường cũ, bụng bây giờ mới thầy đói cồn cào. Yến giục anh:
- Mở giỏ ăn đi anh Hai, em đói quá rồi.
Thi nhìn hai bạn thấy đứa nào đứa nấy đang vỗ bụng, nheo mắt nhìn mình, miệng cười quái dị. Nó cười xòa tìm bãi cỏ xanh êm ái ra khỏi khu vực có hầm đào của ngôi nhà cổ, ngồi xuống. Trên tấm poncho trải cơm nắm, cá chiên và mấy quả chuối tráng miệng của Bình và Đĩnh. Bốn đứa ăn thật hăng hái, ngon lành. Yến ăn chậm hơn ba thằng con trai nên nó đòi chia phần đàng hoàng. Thi cười bảo em:
- Đây nhé, anh bẻ bốn phần thật bằng nhau. Cho em chọn trước để lấy phần hơn. Yến bằng lòng chưa? Hai anh Bình và Đĩnh không giành trước em đâu.
Bốn đưa trẻ cùng cười. Ba đứa con trai cười chế giễu Yến. Con bé cười khỏa lấp sự tham ăn của mình. Chúng đều vui vẻ. Ăn xong rồi lăn ra ngủ. Chúng hồn nhiên như những con sóc con.

Chương 2. Sự bí mật lạ lùng
Yến ngủ trước nhất và thức dậy sớm nhất. Nó dụi mắt bò dậy, tai nghe văng vẳng đằng xa có tiếng động lạ. Y như có nhiều người đang đà sới, cày cuốc gấp rút lắm. Mặt trời ngả bóng về Tây chói ánh sáng nắng xiên qua tảng đá lớn. Thi đã chọn để che bớt ánh sáng làm chỗ cho bọn trẻ ngủ trưa. Yến len lén nhô đầu lên khỏi tảng đá nhìn về hướng có tiếng động. Lạ quá, rõ ràng trước mắt con bé là một người đàn ông trung niên, râu quai nón đang chỉ trỏ cho ba người trẻ tuổi lực lưỡng lấp đất che lại phần đường hầm bị sụp bởi bọn chúng lúc sáng. Ông ta săm soi kỹ lưỡng từng chút một có vẻ hài lòng. Ông nói gì với ba người kia, Yến không nghe được vì gió ngược chiều. Bọn trẻ ở đầu gió và bốn người kia ở cuối gió.
Yến phân vân nghĩ ngợi không biết nên gọi anh Thi, Bình và Đĩnh dậy hay để yên cho họ ngủ. Nó nhìn đồng hồ ở tay Thi. Ba giờ rưỡi chiều, còn sớm quá. Bốn giờ bắt đầu khởi hành về là vừa. Yến đụng vào tay anh lúc nào không biết. Thi trở mình, ú ớ. Nhân dịp Yến lay anh nhè nhẹ:
- Anh Thi dây đi. Em thấy có chuyện lạ lắm. Đừng ngái ngủ nữa. Dậy đi anh.
Yến ghé sát vào vành tai anh mà hét nho nhỏ. Tuy thế cũng đủ cho Thi ngáp dài, vươn vai:
- Gì thế hả Yến? Em lúc nào cũng làm rộn anh.
Miệng nói vậy nhưng Thi núp sau tảng đá nhìn về hướng đường hầm theo em gái chỉ. Lúc này gió bắt đầu xoay chiều lành lạnh, hai anh em nghe được tiếng họ nói, tiếng còn tiếng mất. Hai đứa nhìn nhau đoán không ra manh mối. Yến bảo anh:
- Họ nói gì mà có chữ đào hầm hả anh Thi? Đúng rồi, em nghe rõ họ nói đường hầm này họ mới đào cách đây một năm. Nhà bỏ hoang ai tốn tiền đào hầm xung quanh làm gì hở ảnh Thi?
Thi gật gù:
- Anh thấy có gì khuất tất, họ làm gì phải đào hầm? Nhất là đào cả bốn hướng quây tròn lấy căn nhà. Phòng thú dữ xâm nhập chỉ cần một hướng Tây giáp với rừng già cũng đủ. Đúg là họ không muốn người lạ xâm nhập vào bên trong.
Yến nhận xét:
- Em thấy bốn người không ai có vẻ là thợ săn thú hết, anh đồng ý không? Thợ săn phải có súng dài, nếu bẫy thú bằng hầm thì phải mang thêm lao nhọn, giáo mác. Đàng này họ chỉ cầm theo mấy cái cuốc xẻng nhỏ. Chẳng lẽ họ là thợ đào hầm quanh năm lo sửa sang đường hầm ấy? Ai trả tiền cho họ.?
Có tiếng nói cất lên thình lình sau lưng hai anh em:
- Đúng đấy anh Thi ạ, chúng mình không nghe nói có ai ở trong ngôi nhà bỏ hoang đó. Mấy người này ở đây làm gì?
Yến ôm lấy ngực:
- Anh Bình làm Yến hết hồn. Thức dậy thì phải báo cho biết trước, anh nói sau lưng đột ngột làm Yến suýt hét lên đấy? Cả anh Đĩnh cũng dậy rồi à?
Đĩnh gật đầu góp chuyện:
- Hay là họ là kẻ cướp thì từ một năm nay mình phải nghe nói có lộn xộn, ăn hàng ở vùng quanh đây chứ? Đằng này xóm mình và miền xa của người Thượng đều yên ổn cả mà.
Đĩnh bí, hết đường cãi vẫn cố đưa thêm ý kiến:
- Có thể họ không phải là cướp nhưng đang hành động một vụ mờ ám.
- Tại sao lại mờ ám? - Bình hỏi thử bạn.
- Không mờ ám sao lại chẳng muốn người khác tới “nhà” của họ. Ví dụ cho là họ ở nhờ trong nhà bỏ hoang hay trong vườn cây âm u. Làm sao họ muốn trốn lánh thiên hạ, không thích ai biết có người sống trong nhà bỏ hoang lâu năm,
Bình chép miệng:
- Có thể là những ẩn sỹ của thời đại.
Câu này Bình học được của ông thầy dạy Việt văn lớp đệ tử trong niên khóa vừa qua. Đươc dịp là Bình sổ ra liền, chứng tỏ tài học thông thái của mình.
Yến thắc mắc:
- Ẩn sỹ là gì cơ?
- Là người ở ẩn lánh mặt trong một thời gian nào đó. Họ thường ở nơi hoang vu, hiểm trở, rừng xanh núi đỏ như Trang Tử, Lão Tử ngày xưa.
Thi bắt bẻ:
- Ẩn sỹ cần gì phải đào hầm bẫy thiên hạ? Lỡ người ta té gãy chân, lọi tay thì sao?
Bình nói trơn đi:
- Tao giỡn thế thôi mày tưởng thật hả Thi. Lúc này tao chẳng bảo Yến nói đúng là gì? Mấy người này làm việc không lành rồi Thi ạ. Tao nghi quá.
- Nghi là họ có mục đích bí mật. Ban nãy mày có nghe họ nói cái gì vàng với hột xoàn đó không?
- Có chớ.
- Vậy là đúng rồi. Mình về báo cảnh sát tới ngay.
- Nói ai tin. Mình nổi tiếng phá phách trong vùng. Cảnh sát nào có đủ can đảm nghe mình thuật hết câu chuyện mà không nổi sùng lên tát cho mấy cái?
- Đành vậy. Mình theo dõi bí mật. Chừng nào có đủ chứng cớ thì báo cảnh sát.
Thi gạt đi:
- Tao tưởng chỉ đường hầm đào bí ẩn kia là đủ bằng chứng buộc tội bọn bất lương?
Yến gặng lại anh:
- Anh có chắc nghe nói họ đào đường hầm mới cách đây một năm không? Có thể có từ trước, mình nghe lầm thì sao? Chúng ta chưa đến đây chơi bao giờ anh biết chắc chắn thế nào được?
Thi không trả lời xuôi, hai bên cách nhau quá xa, cả 200 thước, nó chẳng thể nào hoàn tòa tin tưởng ở tai mình. Bốn người lạ kia đã làm xong việc sửa lại đường hầm. Người râu quai nón chợt nói rất lớn tiếng. Lần này thì cả bốn đứa đều nghe:
- Tao thấy kỳ cục lắm. Hình như là có người đến đây. Vết đất cát lộn xộn bôi xóa nhiều lượt có dấu chân người.
Ba người kia xem kỹ lại, lắc đầu:
- Chắc không phải đâu ông Tư à. Nếu là người sụp hố thì lên sao được. Phải nằm dưới hầm đợi tụi mình khiêng ra thôi.
Một người góp ý:
- Có thể là gấu con lắm. Bàn chân gấu giống hệt chân người trên đất. Tiếc là ở đây không rõ các ngón chân. Nếu biết số ngón là rõ người hay gấu ngay. Gấu con mới lớn mạnh lắm. Nó vượt hầm như chơi, đâu có nặng nề bị thịt như gấu lớn.
Đến đây bốn đứa trẻ nhìn nhau. Vết chân chúng có hằn trên mặt đất ẩm thật nhưng vì lúc té chồng lên nhau, giỏ đồ ăn kéo lên thảy qua ném lại xóa gần hết dấu vết rồi. Bọn người trước mặt chú ý quá kỹ lưỡng. Bốn đứa cùng thắc mắc thì lão râu xồm tiếp theo:
- Tao chỉ cầu trời cho mày nói đúng. Gấu thì được. Người đến đâu thì phiền cho chúng mình lắm. Anh Hai đã bắt tụi mình ngụy trang nhà hoang thật kỹ, đừng để ai chú ý đến thì mình dễ làm việc hơn. Mình còn ở đây lâu mà.
Thi nhìn em. Con bé gật đầu đưa cái diều giấy và cuộn giây ny-lông thả diều cho Thi xem. Con bé được việc đấy chứ. Nó thu cái diều về lúc nào Thi không hay. Bốn người kia mà thấy có con diều vướng trên cây tất biết ngay là có người đến “viếng” họ bất thình lình.
Họ tiếp tục nói chuyện với nhau, nhưng lần này bốn đứa trẻ không nghe được gì cả. Họ nói nhỏ quá, đôi lúc còn ghé sát vài tai nhau thì thầm kín đáo. Rồi họ bỏ đi về hướng tòa nhà bỏ hoang. Vậy là đúng họ sống trong đó rồi còn gì.
Thi suy nghĩ lung lắm. Nó chưa biết có nên báo cho cảnh sát hay không? Bây giờ thì rõ ràng bọn người kia là gian phi làm ám muội. Thi bỗng thấy trong đầu dâng lên sự can đảm và mạo hiểm phi thường. Nó hỏi ba đứa kia:
- Chúng mày có gan không?
- Có chứ. - Cả ba đồng loạt trả lời.
- Vậy thì tụi mình làm thám tử một phen theo dõi bạn gian này. Tao biết là nguy hiểm lắm, ba tao nói cách đây mười năm có người lực lưỡng giỏi võ chết thảm thương trong khu vườn này. Bọn gian sống được trong vườn là còn nguy hiểm hơn cả khu vườn ấy nữa. Không chừng chúng có dính dáng đến cái chết của người kia cũng nên.
Yến chép miệng:
- Chúng mình tìm ra điều bí mật xong xuôi mới báo Cảnh sát để họ phục tài mình chơi hả anh Hai?
- Anh cũng định thế. Nhưng chẳng biết có thành công được không?
Bình hưởng ứng:
- Kể cũng khó khăn thật. Nhưng người muốn là trời muốn. Nhất là lần này là mình làm việc phải chứ có phá phách ai đâu.
Đĩnh cười gượng. Nó nhát gan nhất trong ba đứa con trai. Bề ngoài nó hay dùng danh từ dao to búa lớn, làm cử chỉ hùng hổ tạo cho mình một cái vỏ cứng nhưng bên trong yếu xìu, như bún thiu. Việc nhảy qua hố đào ban trưa là một chứng cớ cụ thể nhất.
Đĩnh sợ các bạn, nhất là Yến biết được ý nghĩ sợ hãi khiếp nhược của mình sẽ chế giễu nên phải vờ hăng hái:
- Tao quyết làm cho ra lẽ vụ này. Thi à. Mày có công tác gì khó cứ đưa cho tao.
Thi gật đầu mỉm cười. Nó biết quá rõ thằng bạn này:
- Giao thì dễ nhưng chỉ sợ mày từ chối hay đi nửa đường lại lộn về chẳng dám đến tận nơi xem xét. Mày nhớ hôm thăm thằng Ân bị xe đụng chết dưới nhà nó không?
Đĩnh bị tấn công đúng vào nhược điểm xín vín. Số là câu chuyện thế này: Ân là bạn cùng lớp với Thi, Đĩnh và Bình, chẳng may bị xe vận tải húc thiệt mạng. Thương bạn, Thi rủ ngay Đĩnh và Bình tới thăm và chia buồn với gia đình Ân. Lúc giở tấm vải trắng toát phủ xác Ân lên nhìn mặt bạn. Đĩnh mất hết hồn vía hét lên một tiếng kinh khủng rồi chạy như điên ra khỏi phòng quàn xác. Nó tưởng tượng Ân nhổm ngồi dậy thành quỷ nhập tràng rượt theo bóp cổ và truyền hơi lạnh của thây ma vào người nó cho đến chết. Nó chưa muốn chết nên phải bỏ chạy. Đó là lời giải thích của nó với Thi và Bình. Hai đứa này lúc về cằn nhằn Đĩnh mãi. Nào là bất lịch sự, cư xử không ra con người có học, nhát thế còn đến nhà có người chết làm gì. Thi bực mình nhất, nó vội vàng ngỏ lời xin lỗi cha mẹ Ân và phóng theo lôi cổ Đĩnh lại. Thằng bé này mười phút sau mới tỉnh táo. Nó bớt sợ rồi. Đi với Đĩnh chỉ tổ mất mặt anh em hết. Đĩnh ức về lời nói ấy lắm. nhưng quả đúng nó không cãi lý vào đâu được.
Thi đề nghị với các bạn:
- Hay là để tao và Bình theo dõi thôi. Yến và Đĩnh ở nhà đi bắn chim câu cá cũng thú chán. Có tụi bây theo dễ lộ lắm.
Đĩnh bị chạm tự ái vì Thi sắp nó ngang với Yến. Con trai phải hơn con gái chứ. Nhát mấy thì Đĩnh vẫn là con trai. Nó quả quyết bảo Thi:
- Mày đừng ỷ là Chúa Đảng bắt ức tao. Lúc trước khác, bây giờ khác. Tao hết nhát lâu rồi. Tao nhất quyết đi theo mày và thằng Bình phen này. Để Yến ở nhà một mình được rồi.
Yến phản đối:
- Anh Hai phải cho em đi theo. Em can đảm lắm (nó tự khoe khoang). Nếu anh Hai không chịu, em về mách mẹ thì anh Hai hết đi được.
Thi đành chấp nhận hết:
- Ờ thì đi theo. Tôi có cản ai đâu. Có điều Yến đừng khóc như trưa nữa nhé. Bây giờ lớn quá rồi bắt anh dỗ hoài mệt lắm.
Yến cười ngỏn ngoẻn. Nó hứa đấy rồi quên đấy có ai bắt lỗi nó đâu. Nó cứ ừa bừa đi nào có thiệt thòi chi. Miễn được đi theo anh Thi cho vui là được. Yến có những tính tình thật con gái và thật con trai trong người nó. Nó bướng bỉnh cứng đầu lắm nhưng hễ ai hơi nói động đến là khóc. Nó tò mò thích tìm hiểu việc lạ nhưng sợ đòn, lúc cây roi sắp vụt xuống là lạy van rối rít xin tha. Nhờ thế mà nhiều khi cả hai anh em phạm tội một lượt mà Thi bị đánh đòn trong lúc Yến chỉ bị phạt quỳ sơ sơ. Thi thương em gái không lấy thế mà so bì trái lại nó mừng dùm cho Yến. Và Yến cũng thương anh Thi lắm vì nó được anh cưng chìu, tha hồ làm nũng cho anh dỗ dành vuốt ve.
Bốn đứa trẻ đi về nhà, lòng trĩu nặng những hoài nghi. Thi chợt thấy vạt áo trắng của Yến lúc sáng sớm này đổi qua màu đất mới chợt nhớ ra, la lên:
- Trời ơi! Tụi mình té ban trưa dơ hết quần áo rồi. Về nhà hỏi trả lời sao cho xuôi?
Cả bọn lấm lem như ma chôn ma vùi. Nếu bị bắt gặp thế nào cũng bị đòn nữa. Thi không sợ đòn lắm nhưng ngán bị hạch hỏi lôi thôi. Lỡ Yến quá nhát khai hết thì làm sao cả bọn làm thám tử được như dự định mới bàn đây?
Bốn đứa trẻ hồi hộp trong lòng. Chúng rủ nhau chạy thật nhanh về sớm phút nào hay phút ấy để nhào vô buồng tắm “phi tang” dấu tích bụi đất bám trên người. Chúng sẽ tự giặt quần áo lấy phòng trường hợp mẹ có xuống nhà dưới hỏi chị bếp.
Không biết Đĩnh và Bình may mắn ra sao nhưng riêng hai anh em Thi và Yến đã thành công. Lúc ăn cơm chiều, hai đứa ngồi chễm chệ ở bàn, quần áo tươm tất mới thay, người còn thơm mùi xà bông

* * *
Trời đã khuya lắm rồi. Hơn 10 giờ đêm. Nói là khuya vì miền cao nguyên rừng núi chập chùng mọi nhà đóng cửa sớm và người ta lên giường sớm. Chín giờ hai chín giỡ rưỡi là tất cả đều yên giấc điệp. Thế mà hôm nay lạ quá. Thi hãy còn thức. Yến cũng thế. Nhà khá giả, mỗi đứa con một phòng ngủ riêng và Thi lén sang phòng em bàn chuyện. Hai đừa nói lan man, đề tài chính vẫn là việc xảy ra ban chiều bọn trẻ chứng kiến. Bốn người bí mật và khu vườn bỏ hoang.
Chợt có tiếng lộp bộp rất lớn nổi lên tựa tiếng vỗ cánh của chim đại bàng khổng lồ trong chuyện thần thoại Hy Lạp với anh chàng lực sỹ vô địch Hercule. Tiếp theo là tiếng chó tru quen thuộc nổi lên từng chập, trước còn lớn và liên tục, sau đứt quãng yếu dần và rồi biến thành tiếng rên ư ử thảm thiết trong cổ họng. Xen lẫn vào đấy là tiếng lộp bộp nổi lên từng hồi rời rạc… Thi vội đứng dậy xỏ chân vào dép bảo Yến:
- Em đi với anh xem con chó Lu của nhà mình bị cái gì kêu rên kỳ quái quá vậy. Hình như nó bị thương gần chết rồi em à.
Yến tuy tiếc rẻ hơi chăn ấm áp, cũng nổi tính tò mò nhổm dậy ngay. Nó run lên tưởng tượng đến chuyện ma chó đường rừng chị bếp vẫn kể. Nó nói không ra hơi, tay níu chặt lấy Thi:
- Chắc con chó Lu là ma quá anh à. Ma chó chị bếp kể em nghe hoài đó.
- Nói bậy, súc vật chết đâu thành ma được. Chúng nó không có linh hồn. Bình tĩnh theo anh ra ngoài kia xem. Đừng sợ quá đoán ẩu. Có anh bên cạnh em đây mà.
Yến yên tâm chút xíu rón rén xuống cầu thang với Thi. Hai anh em ra đến cửa ngoài phòng khách nhìn ra vườn. Con chó Lu đang quằn quại rên xiết, bốn chân quào quào trong không khí. Một đống gì đen thui, lớn hơn con chó, rộng như tấm chăn bông phủ chụp lên trên mình con Lu. Lạ một điều là con chó Lu hàng ngày dữ thế bây giờ không kháng cự chi cả. Thỉnh thoảng “tấm chăn” ấy cử động gây nên tiếng lộp bộp Thi và Yến nghe thấy lúc nãy. Thi cố mở to mắt nhìn trừng trừng xuyên thủng bóng đêm nhưng vô hiệu. Thằng bé chỉ thấy một đống đen và con Lu. Nó bảo Yến:
- Em đứng đây chờ anh chạy lên lầu lấy cây đèn pin. Ban nãy em níu anh chặt quá làm anh quên mang đèn theo. Phải mở cửa soi xem vật gì ghê gớm quá thế này.
Yến run lẩy bẩy:
- Em không dám đứng đây một mình đâu anh Hai. Em sợ lắm. Anh đừng bỏ em.
- Không, anh lên lấy đèn pin chút xíu thôi mà.
- Đừng anh Hai, anh đứng với em.
Thi vội bảo:
- Hay em lên lầu với anh luôn rồi chúng mình cùng xuống một lượt?
Yến gật đầu ưng thuận. Hai anh em phóng như bay lên cầu thang dài dằng dặc, vượt qua hành lang vào phòng Yến. Lúc trở xuống nhà dưới thì vừa kịp thấy con chó Lu sủa hực một tiếng cuối cùng rồi ngoẻo đầu sang bên. Thi trông rõ vì mây đen che khuất mặt trăng vừa kéo đi, và khắp khu vườn nhà nó chan hòa một thứ ánh sáng vàng vọt yếu ớt. Vật đen như chiếc chăn bông kia không thấy tăm tích đâu hết. Thi chỉ nhận ra được vết kéo lê trên đất ướt một đoạn ngắn và mất hút ở một cây to. Nó chỉ cho Yến thấy:
- Em nhìn thử coi: Con vật đó chắc leo lên cây rồi. Mình ra xem.
Yến níu tay anh lại:
- Đừng anh, mình chưa biết rõ là con gì lỡ gặp báo đen thì sao? Ra vườn đêm khuya nguy hiểm lắm anh ạ.
Thi quả quyết:
- Anh chắc không phải báo đen. Báo đen thì vồ con Lu tha đi ăn thịt chứ đâu bỏ con chó lại vườn?
- Có thể nó chỉ ăn một phần đùi hay bộ lòng con chó thôi. Anh ra bây giờ nó ở trên cây phóng xuống thộp cổ thì chết đó.
- Vết lê lết đi trên mặt đất không phải báo. Cọp beo đi nhẹ nhàng chỉ thấy vết móng nhỏ xíu trên đất, có bao giờ thấy đất bị lôi đi từng khoảng rộng như vầy. Em có thấy mặt đất bị sốp cả một vùng rộng như tấm chăn không?
Yến nhất quyết cản anh:
- Dù sao chăng nữa anh ra bây giờ nguy hiểm lắm. Chờ chút xíu xem động tĩnh thế nào mình tính sau
Thi đành đứng lại trong phòng khách sau cánh cửa kính. Một sự im lìm chết chóc quái đản bao trùm lấy toàn thể ngôi nhà. Không lâu lắm một tiếng lộp bộp quen thuộc nổi lên, Thi nhìn lên ngọn cây to thấy một bóng đen khổng lồ đang rơi xuống theo gió tung bay ra cổng. Thi nhận ra lờ mờ một vật gì như hai cánh lớn đang vỗ rất mau, nhịp nhàng bao trùm một thân hình nhỏ xíu so với hai cánh. Thằng bé đoán con vật khủng khiếp kia là một loài chim hay dơi ăn đêm. Yến cũng chỉ trỏ:
- Giống con dơi quá anh Thi nhỉ. Dơi gì lớn như con sứa ở bờ biển.
Yến có đi ra Vũng Tàu vài lần, con bé biết là con sứa lớn đến bực nào. Thi bảo em:
- Trông xa như thế chứ nếu lại gấn chắc chắn nó phải to hơn con sứa nhiều. Chắc to hơn đến ba bốn lần:
Thi rọi đèn nhìn con chó Lu cho rõ hơn. Nó nằm thiêm thiếp không cục cựa. Nó chết đã lâu rồi. Thi vội vã chạy xuống bếp kêu anh làm vườn và chị bếp thức dậy. Hai người này buồn ngủ ngáp lên ngáp xuống dụi mắt năm bảy lần mới chịu đi theo hai anh em ra vườn.
Ông bà chủ cũng đã thức dậy vì tiếng ồn ào ngoài vườn. Đèn bật sáng, anh làm vườn lật cổ họng con Lu lên xem rồi bỗng rú lên:
- Trời ơi! Ma cà rồng… Ma cà rồng…
Mọi người xúm lại vây quanh xác con chó. Anh làm vườn giảng giải:
- Ông bà có thấy vết răng sâu hoắm ở cổ họng con Lu không? Con chó bị cắn đứt xuống họng và hút máu. Không tin tôi mổ con chó ra cho xem.
Anh chạy vào bếp lấy con dao phay ra sân.
Xác con chó còn ấm, dưới ánh đèn yếu ớt không nhìn được màu tai tái của phần thịt bên trong. Nhưng khi mổ bụng con chó thì mọi người thất sắc. Anh làm vườn nói đúng. Con chó cạn hết máu rồi. Cả màng mỏng ở bụng và quanh trái tim cũng không còn máu đọng như bình thường.
Ông chủ lúc ấy mới hốt hoảng bảo con:
- Thi ơi! Con vào lấy cho ba khẩu súng săn. Ba đi tìm quanh vườn xem ma cà rồng còn lẩn quẩn ở đây không. Mau lên Thi. Anh Tôn đi với tôi luôn nhé.
Thi chạy vào nhà trong mở tủ lấy hai khẩu súng săn cho cha. Nó không quên mang thêm một hộp đạn. Ông chủ hài lòng giục giã:
- Anh Tôn cho đạn nạp vào súng như vầy. Đó, mở khóa an toàn. Bây giờ chỉ việc bóp cò là súng nổ. Anh quên lên đạn rồi phải không?
Anh làm vườn có phần lụp chụp. Ông chủ bực mình nhưng không trách được vì từ xưa ông không cho phép người trong nhà sử dụng súng. Ông sợ họ ít học, thiếu suy nghĩ bắn bậy thì rắc rối lắm. Lỡ thiệt mạng người vô phương vớt lại.
Hai người đàn ông mang súng ống ra vườn. Thi và Yến toan theo cha nhưng mẹ đã giữ lại:
- Hai con đừng đi, để cha với anh làm vườn là đủ. Hai con còn nhỏ lắm.
Hai đứa dừng lại đưa mắt dõi theo cha với anh làm vườn. Chúng nó thích đi nhưng không dám trái lời mẹ. Bà Thành - mẹ của Thi và Yến lôi con vào phòng khách đóng cửa khóa lại.
- Mình mẹ đứng ngoài này chờ cha con. Hai con vào trong nhà ngủ đi, trẻ con đừng làm nhộn người lớn.
Thi và Yến ấm ức lên phòng. Chúng trằn trọc ngủ không được. Cha nó vẫn chưa về. Thi lầm lỳ lén ra hành lang núp sau cây cột nhìn ra ngoài. Một màu đen của bóng tối mênh mông. Ánh đèn chỉ soi sáng được một vùng hẹp. Thi thấy xa xa có anh đèn vàng quét từng luồng ngang dọc. Nó biết đó là ánh đèn của cha trên mũ. Cha nó đang tìm “ma cà rồng” thủ phạm giết chết con Lu. Thi không tin có ma cà rồng. Chính mắt nó ban nãy nhìn thấy con vật gì bay được to như chiếc chăn bông hút máu con chó. Ma quỷ gì đâu. Thi toan chuyền máng xối xuống đất lén ra vườn mở cuộc điều tra riêng của nó, thì một luồng hơi nóng phà sau gáy. Đó là hơi thở của Yến. Con bé cũng lén ra đây xem xét.
Thi nói nhanh với em:
- Anh vào lấy cái còi rồi ra vườn. Anh ở đây huýt còi lên em biết ngay nói cho mẹ hay. Anh phòng xa thế thôi. Chắc chẳng có gì nguy hiểm đâu.
Yến lắc đầu:
- Mẹ nói đúng anh Thi ạ. Cha có súng cùng anh Tôn đi tìm đủ rồi. Anh không mang súng gặp thú dữ hay con vật ban nãy lấy gì chống trả. Trong nhà tìm ra chổ anh đến thì đã nguy rồi. Anh nên nhớ là vườn nhà mình rộng lắm.
Thi nóng ruột muốn đi lắm nhưng nghe em nói có lý lại thôi. Dù sao nó cũng chỉ là một đứa trẻ con yếu ớt. Vườn rộng và rậm rạp rất nguy hiểm. Rủi gặp rắn hổ mang cắn cho một miếng cũng khó sống. Nó hậm hực quay về phòng, Yến lẽo đẽo theo anh gợi chuyện:
- Anh có cách gì bắt con vật đen thui đó không?
Thi sực nhớ ra câu trả lời:
- Anh nghĩ phải dùng lưới em ạ. Nó bay lượn như chim.
- Nó là con gì hả anh?
Thi cười vuốt tóc em gái:
- Làm sao anh biết được hả Yến? Trừ phi bắt sống một con!
- Em thấy nó to lớn quá chắc mạnh lắm. Mình bắt nó mà nó vùng ra được thì chết.
- Em khéo lo xa. Anh đã bắt được đâu mà tính toán.
Suy nghĩ một lát Thi bảo em:
- Yến này, anh xem ra hình như con vật này có liên quan đến tòa lâu đài bỏ hoang hồi sáng. Em còn nhớ ba kể chuyện người đàn ông bị cắn cổ hút máu chết cách đây mấy năm trong khu vườn hoang không? Người ta đồn “ma cà rồng” ở trong tòa nhà ấy.
Yến cười:
- Có ma cà rồng trong đó làm sao bọn người lấy đất ban chiều ở được? Họ có bị cắn cổ chi đâu?
Thi quả quyết:
- Không chừng chúng nó có liên hệ đến lũ ma cà rồng luôn đấy. Người khác ở đó không được mà chúng nó ở được là anh nghi lắm.
- Anh nghi cái gì?
Thi lắc đầu:
- Anh chưa chắc chắn lắm nên chưa bảo em được. Sáng mai anh đi điều tra sớm.
- Anh cho em theo nghe anh.
Thi ừ ào cho qua chuyện:
- Em thích thì theo anh đi cũng vui. Thôi em ngủ ngon nhé.
Thi thiếp dần trong giấc ngủ nặng nhọc. Gần trọn ngày nó gặp toàn những chuyện lạ lùng không may: sụp hố, dơ áo quần, trầy chân tay đầu gối và đến đêm thì có “ma cà rồng” đến viếng, cắn cổ hút máu con chó Lu, bạn thân của hai anh em Thi. Con Lu chết thật tội nghiệp, nó trung thành với chủ và siêng năng lắm, đêm đêm đi tuần ngoài vườn canh phòng trộm cắp, thú dữ. Nay con Lu chết rồi ở nhà còn có con Ki Ki không khôn lanh như Lu, lại hay cắn bậy lúc đói bụng. Ki Ki chỉ được vẻ mã bề ngoài trông dữ dằn giống chó ngao, mõm to, đen sì. Mỗi lần ngoác ra thấy đủ hàm răng nhọn lểu, trắng nhờn. Đuôi ngắn cũn cỡn, thân mình mập ú, tiếng sủa rổn rảng đủ đe dọa chết khiếp những người lạ yếu bóng vía. Vì thế Ki Ki còn được nuôi cho giữ vườn phía sau. Lu giữ vườn mặt ngoài giáp với phòng khách của ngôi nhà.

Chương 3. Dò tìm
Thi súc miệng đánh răng hối hả ăn sáng. Cha mẹ nó hôm nay không đi lo công việc nữa. Ông bà ở nhà bàn tán việc đối phó với tai họa tầy trời đêm qua. Thi lắng tai nghe cha bảo:
- Tôi ra vườn không thấy gì lạ cả. Đặc biệt là có khoảng đất từ chỗ con Lu chết đến cây dương lớn, đất bị xới lên phần trên mặt như mình kéo lê bao gạo hay vật gì nặng nề lắm vậy. Chỉ có thế thôi.
Mẹ Thi nói:
- Lúc ông ra vườn tôi lo lắm chỉ sợ có chuyện gì xảy ra. Chắc tôi sống không được.
- Bà chỉ nói nhảm. Chết sống tại số hết cả. Số tôi còn thọ lắm, ít nhất cũng ngoài bảy mươi. - Ông Thành đùa bảo vợ.
Gia đình ông bà Thành đầm ấm lắm. Ông bà ít khi cãi cọ lớn tiếng. Hai đứa con, Yến và Thi tuy bướng bĩnh khó bảo nhưng được cái thương cha mẹ và yêu nhau lắm. Ông bà lên cao nguyên làm ăn đã lâu ngày, hiểu biết tính tình đời sống người dân miền Thượng. Ông bà chẳng phải là người keo kiệt, hay gây thù chuốc oán, hiếp đáp người dưới tay nên không sợ gì đồng bào Thượng trả thù. Họ thành thật và ân oán phân minh vô cùng. Vậy “ma cà rồng” đêm qua vào vườn hút máu con chó Lu từ đâu đến?
Thấy cha mẹ thắc mắc Thi mới nói:
- Hôm qua con và em Yến ở trong phòng ngủ nghe tiếng lộp bộp ngoài vườn là lạ. Chúng con núp sau cửa kính lớn phòng khách thấy một đống đen thù lù đè lên con Lu đang rên u ử gần hết hơi. Con chạy lên lầu lấy được cái đèn pin xuống thì đống đen biến mất. Con chó Lu chết cứng. Năm phút sau có con gì cũng lớn như con vật đè lên con Lu ấy từ trên ngọn cây dương rớt xuống vỗ cánh bay đi. Con chạy vào bếp kêu anh Tôn và chị bếp ra vườn và tiếp theo là ba má ra vườn đó.
Hai ông bà nhìn Thi bán tin bán nghi. Thằng bé nổi tiếng phá phách nghịch ngợm chẳng biết nó nói thực hay bịa chuyện ra cho ly kỳ hơn. Ông Thành hỏi Yến, con bé gật đầu:
- Giống con dơi lắm ba ơi. Con vật ấy to lắm, trông giống như cái chăn bông trải rộng vậy.
Ông ngẫm nghĩ:
- Có con vật nào lạ vậy kia. Ba ở đây lâu lắm rồi mới sinh các con có khi nào nghe chuyện hoang đường như vậy đâu. Người Thượng mê tín là thế mà cũng không thuật lại điều gì về con vật các con mới tả. Người ta cho là ma cà rồng. Lúc đầu ba không tin sau bắt buộc phải tin vì chứng kiến quá nhiều cái chết bị cắn cổ hút máu như con Lu đêm qua. Dấu vết thủ phạm chẳng bao giờ tìm thấy:
Thi thêm ý kiến:
- Con vật đó bay được như chim ba à.
Ông Thành gặng lại:
- Bay được? Hay đó chính là dơi? Loài dơi hút máu khổng lồ chỉ có ở Nam Mỹ, xứ ta có dơi nhỏ ăn côn trùng và muỗi đêm. Ba nghĩ không phải dơi đâu các con ạ!
- Thế ba cho là ma thật sao?
- Có thể lắm. Có những điều huyền bí ta không thể giải thích bằng khoa học được. Thật đấy các con. Người Thượng tình cảm bất thường lắm, khi thương yêu ai có thể chết sống vì người đó mà lúc thù oán thì dám dùng tà thuật hay liều mạng chết cả đời.
Thi nghe cha kể chuyện có lý. Nhưng không lẽ đêm qua tăm tối, nó và con Yến hoa mắt trông lầm? Cả hai đứa cùng lầm? Vô lý! Nó đề quyết chuyện này chẳng phải ma cỏ gì đâu. “Ma cà rồng” chỉ là sản phẩm tưởng tượng được làm cho rùng rợn bởi đầu óc mê tín của người Thượng nơi đây.
Thi không cãi lý với cha. Nó vờ gật gù chấp nhận chịu thua. Ông Thành thấy thế không để ý gì đến lời thuật chuyện của hai đứa trẻ nữa. Trẻ con hay nghĩ ra chuyện hoang đường hơi sức đâu mà tin.
Thi đứng lên xin phép cha:
- Con và em Yến sang nhà thằng Bình, thằng Đĩnh chơi một lát nghe ba.
- Ừ đi chơi nhưng nhớ về sớm một chút. Dạo này các con hư lắm, có khi đi chơi đâu suốt ngày chiều tối mịt mới về. Ba không bằng lòng như vậy, nhất là bây giờ “ma cà rồng” đã đến thăm nhà ta. Các con hiểu không? Trưa tới giờ cơm phải về nhà.
- Thưa ba vâng. Hai đứa trẻ cùng nói một lúc ngoan như con cửu con.
Ông Thành gật gù nhìn theo hai đứa con nhỏ.

* * *
Thi qua đến nhà thằng Bình đã thấy Đĩnh có mặt nơi đó. Hai đứa đang bàn tán về con ma cà rồng mới xuất hiện ở nhà Thi. Chuyện này cả xóm đều lan truyền đi nhanh như gió. Ai nấy lo ngại cho số phận những người trong nhà mình. Tiếp theo con Lu, ai sẽ là nạn nhân của con ma khủng khiếp kia?
Thi bảo ba đứa trẻ:
- Tao nghi con ma cà rồng ở trong tòa lâu đài bỏ hoang kia thật chúng mày ạ. Chỉ lạ là bọn bốn người lạ mình gặp chúng sống thảnh thơi chẳng sao cả. Hay chính chúng là con ma cà rồng? Không có lý vì người thì bay sao được như chim. Tao thề có trời đất chứng kiến là hôm qua tao thấy con vật ấy bay được.
Bình vỗ vai bạn:
- Tao tin mày lâu rồi. Mày có xạo bao giờ đâu. Chuyện này bí mật lắm. Tao nghĩ mình cứ tiếp tục làm theo kế hoạch đã bàn hôm qua đi vì không chừng hai chuyện có dính líu với nhau.
Thi tin tưởng:
- Dính là chắc rồi. Nhưng xui quá ba má tao ở nhà cả tuần này. Ông bà buộc tụi tao trưa phải về ăn cơm, không được đi luôn tới chiều. Tao phải đợi chủ nhật ba má tao lên Đà Lạt mới nhập bọn với chúng mày được.
Bình gật đầu:
- Ba má mày cẩn thận thế là phải. Ma cà rồng mới xuất hiện ở nhà mày đêm qua mà. Để tao với thằng Đĩnh đi dò cho. Tụi tao mới được dặn bảo sơ sơ, không quá gắt gao như tụi mày.
Thi thở dài:
- Đành nhờ tụi mày đi điều tra dùm vậy. Chiều về có gì lạ qua nói cho chúng tao hay. Tao dặn tụi mày phải cẩn thận lắm đấy, Đĩnh đừng mất bình tĩnh la hét, bị bắt luôn hai đứa thì xui lắm.
Đĩnh hứa hẹn:
- Mày cứ để cho tao có dịp trổ tài. Tao đâu có dở tệ như mày tưởng hả Thi?
- Ráng lên nhé. Thôi tụi mày sửa soạn đi cho sớm. Gần chín giờ rồi đó.
- Xong rồi Thi ạ. Đi mau lên Đĩnh. Mày mang theo dây bện hôm qua theo không?
- Chu tất từ sáng nay cơ. Sợi dây ấy chắc ghê.
Thi cười xòa. Hai bạn nó sợ sụp hầm nên đem theo sợi dây cho chắc ăn. Yến đang vẫy tay theo từ biệt Đĩnh và Bình. Con bé xịu mặt không vui vì không được đi chơ xa.* * *
Hai đứa trẻ tung tăng chạy đua trên đồi. Chúng bắt chước theo phương pháp của Thi cho mau đến đích. Đường xa thật nhưng rồi cũng đến nơi. Bắt đầu từ đỉnh đồi chạy qua sườn đồi bên kia. Đĩnh vừa chạy vừa hổn hển nói với Bình.
- Mày cẩn thận chút nữa đi. Chạy nhanh quá lọt hố nữa thì lần này khó sống. Tao chắc là bọn họ bố phòng cẩn mật sau khi đường hầm sụp từ tối quá rồi.
- Tao nhớ tảng đá lớn chiều qua mình núp nghe bọn chúng nói chuyện. Thấy tảng đá mình chạy chậm lại là vừa. Tảng đá đặc biệt phẳng lì như cái phản ở nhà tao đó.
Bình tiếp tục phóng như điên. Đĩnh theo bạn dần dần không muốn nổi. Nó chậm lại. Thân hình nó càng lúc càng nặng hơn. Nó giương mắt nhìn vào con đường trắng phía trước. Ô kìa! May quá. Tảng đá kia rồi. Nó sắp được nghỉ mệt.
Đến nơi Đĩnh nằm lăn ra thở dốc. Bình cũng mệt lắm, mồ hôi ướt áo. Nó đang giơ tay chân làm vài ba động tác hô hấp giải mệt. Đĩnh bắt chước bạn múa tay theo. Nó vụng về mất thăng bằng té nhủi trên đất mọc đầy cỏ xanh làm Bình đang mệt phải bật cười. Thằng Đĩnh thể dục dốt nhất lớp mà, mỗi lần thi thể dục thì mặt mày bí xị như ma đưa đám ma Đĩnh cười theo, và chúng hết mệt tức khắc.
Đĩnh hỏi Bình:
- Mình làm gì bây giờ?
- Mày lấy cây gậy dài này theo, chỗ nào nghi ngờ là hầm cứ thọc xuống thử là biết. Cẩn thận thì không phải sụp hố lần nữa, thằng Thi và con Yến cười cho.
- Mình đừng kể làm gì tụi nó biết mà cười?
- Thằng Thi tinh lắm. Nhìn quần áo mày bê bết đất như hôm qua là nó đoán ra ngay, khó khăn gì.
Bình gạt ngang qua chuyện khác:
- Tao với mày cùng đi tới nơi, mày không đi một mình đâu mà sợ. Mày nhảy sào được không?
Đĩnh hớn hở:
- Nghề của tao đó. Tao nhảy sào giỏi hơn mày nữa.
- Tốt lắm. Vậy mình đến sát miệng hầm dùng cây gậy này nhảy qua lẻn vào trong vườn bỏ hoang đó nghe. Mày nhớ xóa bỏ dấu chân đi trên mặt đất. Hôm nay trời đất khô đỡ ngại về dấu chân đi trên mặt đất phần nào.
Đĩnh phục bạn quá. Nó thấy kế hoạch của Bình thật tinh vi. Không chê vào đâu được. Bình chỉ thua Thi chút xíu thôi. Nó mới đúng là đoảng. Lúc ở nhà đi nó thắc mắc mãi về cây gậy dài đến ba thước Bình xách theo và bắt nó giữ một đầu. Hai đứa vừa khiêng vừa chạy mới mệt đừ. Phải đổi tay luôn. Lúc gần đến nơi Đĩnh nhọc quá cằn nhằn thì Bình nổi xung mang một mình. Cây gậy tre dẻo dai, chắc chắn, nhẹ nhàng nhưng hơi cồng kềnh. Bây giờ Đĩnh mới thương bạn lúc nãy vì mình vất vả.
Hai đứa trẻ tiến từ từ đến khu vực thám thính. Chúng bỏ đường mòn có sẵn đi trong đồng cỏ tranh mọc dài theo sườn đồi. Thỉnh thoảng Đĩnh lại đâm cây gậy tre thử xuống mặt đất xem gặp đường hầm chưa. Bình im lặng đếm bước đôi.
Đĩnh reo lên:
- Đây rồi Bình ơi. Hầm nè.
Bình gật đầu tính toán rồi bảo Đĩnh:
- Hai trăm bước đôi của tao. Mỗi bước là năm tấc, bước đôi một thước. Vậy từ tảng đá đến đường hầm là hai trăm thước đi theo cánh đồng cỏ tranh.
Đĩnh sốt ruột:
- Thế bây giờ mình vượt qua đường hầm này chứ.
- Dĩ nhiên. Mày nhảy qua rồi ném đầu gậy cho tao sang với.
Đĩnh lùi lại hai chục thước lấy đà chạy, hai tay nắm lấy cây gậy. Đến mức vạch sẵn nó chống một đầu xuống đất, thân hình theo cây gậy từ từ bốc thẳng lên và ngả sang bờ bên kia. Thế là xong. Bình cũng sang theo bạn ngay. Chúng cẩn thận xóa bỏ tất cả dấu giày trên đất trước khi vào thảm cỏ xanh. Bình nói với Đĩnh:
- Hai tao với mày tháo giày ra buộc vào thắt lưng. Trông tức cười thật nhưng được việc.
- Được việc gì hả Bình?
- Chân không đạp lên cỏ khó thấy vết cỏ rạp xuống lắm. Đế giày cứng bọn gian chỉ nhìn thoáng biết ngay có người lạ xâm nhập vì làm nát ngọn cỏ ngoài vườn này. Mày hiểu chưa?
- Hiểu rồi. Tao làm bộ hỏi mày vậy thôi.
Đĩnh nói gỡ sĩ diện. Bình cũng biết bạn không có kinh nghiệm đi rừng như nó và Thi nên không chấp. Nó tự ái nói gì thì nói. Mình có quyền nghĩ theo ý mình.
Hai đứa lụi hụi tháo giày. Hai đôi đều buộc giây nên rất dễ cột vào thắt lưng. Chúng cẩn thận chùi đế và gót giày thật sạch để khỏi giây bẩn vào quần áo. Chừng năm phút sau chúng đứng lên bắt đầu đi.
Bỗng Bình nhớ ra và bảo Đĩnh:
- Mày đem cây sào tre giấu sau cây keo um tùm kia đi. Lúc ra mình lấy theo để vượt qua đường hầm. Ờ, để thế được rồi. Mang theo vào bất tiện. Tao chắc bên trong không có đào hầm hố gì đâu. Để rồi mày xem.
Giọng Bình chắc nịch. Hai đứa mon men vượt qua hàng rào dễ dàng từ và đang đứng trước một lớp mạng nhện rất lớn, cái nọ đan vào cái kia chi chít. Lạ quá! Mạng nhện giăng ngoài vườn ngôi nhà bỏ hoang ít khi dầy và rộng như một bức tường rào thứ hai như vậy. Đĩnh linh cảm có gì bất thường dừng chân nói với Bình:
- Tao nghi mạng nhện này quá Bình ạ. Không phải mạng nhện thật đâu.
Bình nhìn kỹ, nó hơi sợ không dám đến gần:
- Đúng là mạng nhện thật. Mày sợ quá nhìn gà hóa cuốc thì có.
Đĩnh bị bạn diễu tức quá quên cả sợ hãi tới sát lớp mạng nhện. Nó tươi tỉnh ngay ngoắc Bình lại gần, chỉ trỏ đắc thắng:
- Tao nói có sai đâu. Sợi giây điện nhỏ xíu bằng ni lông trông xa y như mạng nhện. Mày nhìn trong góc thấy có sợi đồng đỏ sáng loáng nối với nhau đó. Còn cãi tao nữa thôi.
Đĩnh toát mồ hôi lạnh ướt trán. Nó bảo Đĩnh:
- Hú hồn. Suýt chút nữa không trông kỹ mình bứt đứt lớp dây điện này là chuông báo động bên trong kêu vang. Lúc đó hai đứa mình chắc chết quá.
Đĩnh lo ngại:
- Bên trong không hiểu chúng có nuôi chó không?
- Phải vào mới biết được. Ở ngoài này đoán chừng sao được. Mày giỏi tìm thử lối vào.
Hai đứa trẻ bắt đầu xem xét các ngõ ngách, kẽ hở để vượt qua lớp “mạng nhện” lợi hại này. Đĩnh lắc đầu thất vọng. Bình bảo bạn:
- Mình hết kế rồi đó. Đành liều. Mày sợ ở lại ngoài này, mình tao vào trong.
- Mày vào bằng cách nào?
- Tao cố gắng leo lên cây sát bờ rào đàng kia trèo lên cành thấp chuyền sang nhánh kế và nhảy xuống vườn mé bên kia. Tao xem rồi, trên cây chỉ mắc dây điện mình cẩn thận đừng đụng tay chạm chân hay quần áo vào những mối nối ấy là được. Rung rung sợi dây điện chắc không sao. Vì gió thổi rất mạnh ở đây vẫn rung cây là thường, mày nhớ chớ? Phải nhờ cái cây làm trung gian chớ mình không thể vượt qua “hàng rào” màng nhện này trực tiếp này được.
- Tao sẽ leo vào với mày. Tao không nhát gan như mày tưởng.
Đĩnh lập lại một lần nữa câu nó đã nói với Thi lúc ở nhà.
Bình kỹ lưỡng từng chút một. Mỗi bước chân nó leo lên cây, Đĩnh đều dòm trước sau và chỗ nào Bình sơ hở Đĩnh bảo cho bạn sửa lại. Bình thành công trong việc nhảy sang mé vườn đối diện và đến lượt Đĩnh chỉ dẫn cho bạn leo cây. Vì ở mé bên kia không thấy rõ lắm nên Đĩnh lại càng phải chú ý khéo léo nhiều hơn nữa. Trời chẳng bao giờ phụ người ngay. Những giây phút hồi hộp kéo dài lê thê như cả một thế kỷ rồi cũng qua đi. Hai bạn an toàn vào vườn bỏ hoang.
Chúng thở phào trút gánh nặng. Bình nhìn đồng hồ ở tay Đĩnh, hai mươi phút dùng để xem xét và leo cây vượt hàng rào mạng nhện. Bình nóng lòng bảo Đĩnh:
- Mình làm mau mau đi còn về. Ở lại vườn này thêm phút nào nguy hiểm phút nấy. Mình chậm quá Đĩnh à. Nếu có thằng Thi đi theo chắc chắn xong xuôi từ nãy.
Hai đứa trẻ núp sau những gốc cây lớn và cỏ dại mọc cao vượt quá đầu người chạy từng chặng thật nhanh vài phía trong. Vườn có nuôi chó không? Cả hai đứa cùng thắc mắc nhưng rồi quên mau. Chúng thấy vẫn yên ổn thì yên chí dần dần.
Đĩnh và Bình không có thì giờ ngắm nghía hay thưởng thức những đám hoa hồng và cúc đại đóa mọc lan đầy vườn. Chắc vị quan thượng thư kia là người phong nhã lắm thích trồng hoa thưởng nguyệt. Ông chết đã lâu nên những cây hoa quý lúc trước được vun trồng thành luống cẩn thận nay mọc ra khắp mặt đất, cạnh tranh với cỏ dại. Chỗ nào có bón phân sẵn lâu năm thì hoa mọc rực rỡ tốt tươi. Nơi khác cằn cổi toàn cỏ thì hoa héo hắt cọc còi, thấp lè tè, màu sắc nhợt nhạt. Nhờ nhận xét đó mà Bình và Đĩnh biết vị trí các luống hoa, bồn hoa của chủ nhân khuất bóng. Bình chắc lưỡi tiếc rẻ, giá ở đây bình yên nó sẽ vào bứng bớt ít cây hồng đại đóa mang về trồng trước nhà. Giống hồng tuyệt đẹp! Hoa lớn, đều và rất nhiều lớp cánh xếp chồng chất từ trong ra ngoài. Bình hít một hơi thật dài như muốn thu lấy tất cả hương thơm ấy vào trong hai buồng phổi khỏe mạnh của nó.
Đĩnh thoăn thoắt như con thỏ. Nó không phải bẩm sinh yếu ớt ngu muội, chỉ vì nó ít hoạt động chân tay nên người đần ra, thiếu xoay sở tháo vát rất cần thiết trong thực tế. Chơi với bọn Thi là Đĩnh tiến bộ lắm rồi. Đến hôm nay chắc Đĩnh thực sự trút bỏ lớp vỏ “cù lần” ngớ ngẩn. Nó trở thành một con người mới với một đầu óc mới, một quan niệm sống mới: Nó thích được giỏi giang, mau mắn như Bình và Thi.
Tòa nhà chính hiện ra sừng sững trước mắt. Đĩnh thấy rõ bụi mờ và mạng nhện bao phủ như lâu đài hoang phế cả trăm năm nay. Nó nghĩ lại hàng rào mạng nhện ngoài kia mà rùng mình. Đường đột xông vào cửa lớn là mang họa vào thân.
Bình bảo bạn:
- Mày vào trong kia xem có gì lạ không? Tao vòng sang bên trái nhé.
Đĩnh nhát lắm. Nó nghĩ đi hai đứa đỡ sợ hơn. Một mình nó vào trong gặp ma cà rồng xuất hiện giữa ban ngày hút máu cắn cổ nó thì sao? Nó chạy trốn kịp không? Chắc ăn là phải có thằng Bình đi kèm. Nó bảo Bình:
- Vào đất lạ tách đôi ra mỗi thằng một nẻo dễ bị bắt lắm. Thằng cha râu quai nón chiều hôm qua tao thấy không phải dân hiền. Nhóc con như mình hắn đá cho một cái đủ hộc máu rồi.
Bình thấy bạn nhát quá thì vừa buồn cười vừa bực mình. Song nó nghĩ lại thấy Đĩnh nói cũng đúng. Vào đất lạ lại biết chắc có sự đe dọa như vầy đi một mình chắc đứng tim luôn. Lỡ một đứa đi lạc đứa kia làm sao tìm thấy được? Chẳng lẽ gọi to để biết rõ vị trí bạn? Lộ hết, Bình biết “bọn gian” có mặt trong ngôi nhà và khu vườn hoang vắng này.
Hai đứa nắm tay nhau rón rén lần từng bước một vào trong. Chúng không dám chạy ào ào như khi còn ngoài vườn xa bên ngoài. Bình cảm thấy sự nguy hiểm đe dọa càng lúc càng trầm trọng hơn. Sơ hở một chút là hôm nay hai đứa hết về ăn cơm chiều.
Bình chú ý thấy nhiều vết đào trên đất vừa được lấp vội khoảng một hai ngày nay vì màu đất còn mới, sẩm hơn nền cũ nhiều. Bình toan nói cho Đĩnh nghe nhận xét ấy thì giật mình kéo tay bạn núp lẹ sau một thân cây dương cổ thụ:
- Anh Tư à, tôi tin cẩn ở anh lắm mới nói. Theo nguồn tin mới nhất thì kho vàng và bảo thạch ở đây gồm có mười rương gỗ chôn tại một nơi nào đó trong nhà hay ngoài vườn này. Lúc trước tôi biết chỉ có năm rương. Nếu thành công phần anh sẽ là 10 phần trăm số vàng ngọc lấy được.
Hai đứa trẻ đã lấy lại bình tĩnh sau khi sợ thất thần vì tiếng nói đột ngột trỗi lên ngay trước mặt chúng. Lão râu quai nón đang rảo bước cùng một người trẻ tuổi mắt ti hí luôn luôn liếc qua đảo lại tỏ rõ ra người nham hiểm. Lão râu kính cẫn giữ lễ lắm, tỏ rằng người kia có địa vị cao hơn lão nhiều:
- Thưa anh Hai, anh cho em bao nhiêu em xin nhận bấy nhiêu. Chúng ta hợp tác lâu không có chuyện có kè bớt một thêm hai. Anh là người tốt em biết chẳng bao giờ anh để em thiệt thòi. Anh tính tới chừng nào mình có thể lấy được vàng?
- Chừng tuần lễ nữa là cùng. Rồi mình dông để lại nơi đây lời đồn đãi có ma cà rồng. Ha ha, trời biết chúng ta làm thì không lên tiếng được. Người và quỷ thần nói được thì lại không hay.
Giọng nói gã trẻ tuổi cực kỳ ngạo mạn. Lão râu phụ họa:
- Anh Hai nói đúng. Có trời mới biết được!
Đĩnh lấy làm lạ, chúng đi không để lại vết chân trên đất. Bọn này là người có phải ma đâu. Đĩnh để ý nhìn xuống chân hai tên gian thì thấy dưới gót giày có cột tấm ván mỏng, chữ nhật to bản. Thảo nào, không nhìn được vết chân người trên mặt đất chỉ hơi lờ mờ dấu đất mới bị đào nhẹ trên mặt một lớp mỏng. Dấu này rất dễ nhòa đi lẫn lộn với đất cũ của tòa lâu đài bỏ hoang.
Bình cũng nhận ra dáng đi cả hai gã là lạ, gượng gạo thế nào. Đến khi Đĩnh chỉ trỏ nói thầm vào tai bạn thì Bình hiểu ngay. Vì cỏ mọc trên đất nên rất khó nhận ra phần chân từ đầu gối trở xuống của bọn gian đang rảo bước trên lối đi chính trong vườn. Hai tên phải đi ngang bàn chân, không trở gót nhấc lên đạp xuống nhẹ nhàng như người bình thường. Lão râu tiếp tục câu chuyện dở dang:
- Anh Hai chờ máy dò đặc biệt về đây phải không?
- Tối nay máy về. Mình khởi sự đào ngay. Tôi cho tăng cường thêm một máy đào đất chạy điện bằng bình ac-quy nữa cho mau. Trước đây dò theo bản đồ không chính xác lắm. Có lẽ bản này sao lại nên nhiều lầm lẫn.
- Lần này mình ăn chắc rồi anh Hai à.
Cả hai hớn hở ra mặt. Chợt người trẻ tuổi mắt lươn gằn giọng làm lão râu lính quýnh.
- Hôm qua anh Tư bảo là hầm sụp hả? Tôi linh cảm thấy hình như có ai lẩn quẩn quanh đây vô ý sụp hầm chứ không phải tự nhiên đất lỡ đâu. Anh Tư nói thật hay tính qua mặt tôi đó hả?
- Đâu có anh Hai. Em đâu dám qua mặt anh. Có một vài vết chân mà thằng Du nó bảo là chân gấu con.
- Chân gấu hay chân người?
- Không rõ lắm vì tụi em không đếm được số ngón chân. Em tin chắc là gấu. Gấu con mạnh và nhanh mới nhảy lên khỏi hố đào được. Người sụp hầm chịu chết ở đây rồi.
Gã mắt lươn dịu giọng:
- Tôi tạm tin anh Tư, nhưng anh điều tra cẩn thận lại rồi báo cáo ngay cho tôi những chi tiết mới đi nhé. Trễ nhất là tám giờ tối nay anh tới gặp tôi.
Lão râu tươi nét mặt:
- Anh Hai tin em đi, em biết chắc vùng này hoang vu chẳng ai dám đến vì truyền thuyết ma cà rồng. Không ai héo lánh lại đây làm gì. Chắc gấu con sụp hầm thật đấy.
- Anh Tư đi tuần chiều nay như thường lệ nhé. Chỗ nào, hầm gần sụp thì sửa sang lại cho thiên hạ khỏi nghi ngờ có đường hầm đào bên dưới lòng đất. Ráng làm đi. Chúng mình sắp phát tài rồi. Thôi chia tay nhé.
Người mắt lươn quay đi. Lão râu kính cẩn chào theo kiểu nhà binh. Bỗng lão gọi người trẻ tuổi trở lại:
- Thưa anh Hai, em xin phép được nuôi một con chó canh giữ trong vườn về đêm.
- Ngu ơi là ngu, mày nuôi để thêm xác con chó bị cắn cổ hút máu chết ở đây à? Thiên hạ sẽ thắc mắc ai là chủ chó.
Gã lẩm bẩm:
- Thằng khùng. Giấu đầu lòi đuôi.
Gã bỏ vào trong mặc lão râu đứng một mình ngơ ngẩn. Rồi gã cũng bỏ vào với tiếng quát sang sảng gọi tên ba người nào đó. Đĩnh và Bình đoán là ba gã thanh niên thuộc hạ lão chiều hôm qua.
Đĩnh hỏi bạn:
- Mình về hay vào bên trong sâu hơn nữa?
- Thôi về được rồi. Tao sợ vào thì dễ lúc ra không kịp, về hỏi ý thằng Thi đã chớ. - Đĩnh bàn:
- Phải rồi bọn này coi bộ còn đông lắm dễ gì thoát được một khi bị phát giác. Ra nhanh Bình ạ.
Hai đứa bé lủi nhanh, leo cây vượt qua hàng rào mạng nhện ra tới bờ đường hầm thu lại cây sào tre và Đĩnh nhảy trước. Đến lượt Bình sửa soạn thì có tiếng chân người dồn dập như có ai đuổi theo trong vườn. Bình lúc này sợ thật sự, nó giục Đĩnh:
- Ném sào qua cho tao mau lên!
Đĩnh ném qua cho Bình. Bình nhìn lại thấy hai ba người còn trong dãy nhà chính, không biết họ nhìn thấy Bình chưa. Nó làm gan chạy thụt lùi lấy đà chống cây sào vào cạnh đường hầm đất nhảy qua. May quá, thoát nạn rồi.
Vội vã, hai đứa trẻ phóng nhanh về phía tảng đá để ẩn núp. Bình chạy còn xách theo cây sào tre nên hơi vất vả. Nó vấp lên vấp xuống. Còn cách tảng đá độ 50 thước thì lô nhô ba bốn bóng người hiện ra bên kia đường hầm. Bình ra lệnh cho Đĩnh:
- Nằm xuống đi mày. Nằm lẫn vào những khóm cỏ tranh. Chúng không biết đâu. Chạy tiếp bị lộ ngay.
Hai đứa hồi hộp theo dõi đoàn người bên kia. Họ có xe máy dầu vọt qua đường hầm rồi phóng trên đường chính đuổi theo. Chúng chạy qua chạy lại chẳng thấy tăm tích gì đáng ngờ vực. Một tên dừng xe lại ngay chỗ cách hai đứa trẻ núp chừng 20 thước nói với tên ngồi yên sau lúc ấy đứng trên mặt đất dáo dác nhìn quanh.
- Rõ ràng tôi thấy có hai bóng người. Giờ đây đâu mất tiêu rồi, chẳng lẽ ma cà rồng thật hiện ra nhát tụi mình?
Tên kia gạt đi:
- Ma cỏ gì. Mày ở trong tổ chức lâu còn lạ chi nữa. Mày đừng tỏ vẻ mất tinh thần. Anh Tư cạo cho một mách nữa thì khổ. Hôm qua bị la sao đó không biết, anh Tư chửi tụi mình như tát nước vào mặt về vụ hầm sụp.
- Suỵt, nói nhỏ chứ. Đừng kêu anh Tư, phải gọi ông Tư đàng hoàng. Lão làm phách lắm tính hay bắt lỗi từng chút.
- Ông cái mốc sì. Lão có xứng đáng gì. Ăn trộm bị tù mới ra, kẽ răng còn dính hạt cơm tù chưa xỉa ra kịp mà.
Bọn thuộc hạ của lão Tư ghét láo lắm. Chúng không sợ oai người chỉ huy chút nào. Lão Tư và tên còn lại, đi trên chiếc xe máy dầu thứ hai lùng khắp mé bên kia. Lát sau xe ấy xịch lại:
- Tụi bây không đi lùng nó đứng tán gẫu hả?
- Chúng tôi không thấy ông Tư à. Chắc thằng Du nhìn lầm. Nó dạo này mắc bệnh thần kinh rồi đấy, điên điên khùng khùng.
- Có thể cũng làm tao hốt hoảng đi theo tụi bây. Đồ ăn hại. Chúng mày cất tấm ván bắc qua hầm chưa?
- Quên rồi ông Tư. Thôi để đó luôn chốc nữa về khỏi mất công bắc lại.
Bốp, bốp. Hai tiếng ròn tan. Lão râu quai nón vừa tát hai cái thật mạnh vào hai má tên thanh niên mới nói câu trên. Lão gầm lên làm Đĩnh và Bình giật mình, ngước mắt lên bắt gặp tia nhìn như đổ lửa của lão râu chiếu thẳng vào mặt tên thủ hạ:
- Mày dám ăn nói với tao như vậy hả? Đồ khốn kiếp. Quen ăn no làm biếng. Tao giết mày được là tao giết liền.
Nghe lão hăm tên Du sợ quá can dùm cho bạn:
- Ông Tư bớt giận. Thằng ấy nó lỡ lời. Ông trừng phạt vậy nó tởn rồi.
Lão quay sang tên Du:
- Còn mày nữa. Tội báo động ẩu để về nhà tao nói tới. Bây giờ đừng lên mặt. Mày là cái thá gì đòi ngăn cản tao?
Tuy nói thế nhưng lão không đánh đập gã thanh niên nữa, ngó lơ. Chợt lão chú ý đến cây sào tre Đĩnh và Bình quăng thật xa chỗ núp của chúng khi nãy chỉ tay bảo Du:
- Mày nhặt cây sào lại cho tao.
Tên còn lại đi chung với lão râu trên chiếc xe máy dầu thứ hai bàn ra:
- Thôi khỏi bảo thằng Du nhặt, ông Tư à. Tôi thấy cây sào ấy lâu rồi. Từ hồi mình mới tới ở đây.
Lão râu nửa tin nửa ngờ.
- Mày nói thật hả?
- Tôi có nói láo bao giờ đâu. Ông Tư tin tôi đi.
Suýt chút nữa thì Đĩnh và Bình đang núp trốn phải phì cười. Lão râu đối với kẻ dưới hung hăng bao nhiêu thì với bề trên lão sợ hãi bợ đỡ bấy nhiêu. Lão lớn tuổi mà xưng em ngọt xớt với gã trẻ tuổi mắt lươn. Thật là khôi hài và bi thảm đối với những người dưới tay lão gặp phải người chỉ huy tiểu nhân bất tài. Chúng nó trẻ con thật nhưng cũng hiểu ra là gã thứ tư thấy lão râu nổi giận lo cho tính mạng bạn vội vàng nói láo cho xong chuyện.
Lão Tư bảo ba tên kia:
- Thôi về đi. Ta chán tụi bây lắm rồi.
Khói xe phun bay đầy mặt mũi Đĩnh và Bình. Hai đứa sặc sụa nhưng không dám ho thành tiếng. Bình chỉ cho Đĩnh bắt chước mình lấy ngón tay trỏ đè vào cổ họng ngăn tiếng ho lại. Bọn họ vừa khuất bóng là hai đứa bỏ luôn chiếc sào tre trên đám cỏ tranh chạy tay không về nhà. Chúng sợ bọn lão râu trở lại thấy cái sào biến mất đoán được có người đến đề phòng cẩn mật thì khó lọt vào trong ngôi nhà hoang lần nữa.
Bình thấy đói cồn cào mới dừng chân trên đỉnh đồi lục trong túi quần khúc bánh mì thịt ra ăn. Nó nhìn đồng hồ thấy đã 11 giờ rưỡi, Đĩnh cũng đang nhai bánh mì ngon lành. Chợt nhớ ra điều gì Đĩnh nói với bạn:
- Chúng đi xe máy dầu sao không thấy vết bánh xe lăn trên mặt đất?
- Mày thiếu thông minh quá. Ở vè xe bánh trước và bánh sau đều có gắn cọ lớn giống chổi sơn sát đất. Cọ ấy xóa vết bánh xe, nhưng nhìn kỹ mày thấy có một đường cong tạo nên bởi màu đất mới thật mờ. Đúng chưa?
Bình và Đĩnh về nhà sớm hơn mọi hôm vào lúc 2 giờ trưa.

Chương 4. Săn đuổi
Bình và Đĩnh thuật lại câu chuyện buổi sáng cho Thi nghe. Thi kết luận:
- Có hai điều cần thiết phải nói là: Thứ nhất bọn người hiện ngụ trong tòa lâu đài bỏ hoang ấy có mục đích tìm vàng ngọc. Chúng không muốn cho những người ở vùng này biết tông tích và bố trí cạm bẫy, chuông báo động tinh vi như giả mạng nhện để đề phòng. Thứ nhì là ma cà rồng và bọn chúng liên can rất mật thiết. Chúng biết rõ chẳng phải ma cỏ thật sự, vậy chúng phải thường xuyên tiếp xúc hay gặp gỡ ma cà rồng hằng ngày. Theo ý tao thì đây là bọn người rất nguy hiểm, có thể có súng hay chất nổ mang theo. Lần sau tụi mày để tao vào trong lâu đài luôn thể. Tao sẽ chụp hình và đi sâu hơn vào trong nhà. Tao nghi lắm. Tao nghi chúng có nuôi những con dơi lớn hay một con vật gì đó giả làm ma cà rồng nhát dân trong vùng để họ không dám đến gần vùng chúng đang làm việc.
Ba đứa trẻ nghe Thi nói thật chí lý. Chúa đảng có khác. Chỉ nghe thuật lại thoáng qua là biết hết mọi việc. Yến nói với anh:
- Lúc nào anh Thi vào trong lâu đài cho em theo với nha.
- Em đứng ngoài thôi. Vào lỡ bị bắt thì sao?
- Chẳng sao cả. Em bị giam chung với anh cũng vui.
Thi lắc đầu dọa em:
- Không bao giờ chúng giam chung đâu. Bọn nó bắt em để trong hầm tối cho ma cà rồng hút máu như con chó Lu.
Yến xanh mặt. Nó chẳng dám hó hé gì nữa. Nó sợ quá rồi. Nhưng chỉ được vài giây ngồi yên nó lại đòi theo anh:
- Em theo anh được mà anh Hai. Em chắc không bị bắt đâu. Hai anh Bình và Đĩnh vào rồi vẫn về đây yên ổn có sao đâu.
Bao giờ thì Thi vẫn là kẻ bại trận sau cùng. Nó chịu thua em:
- Em đi theo cũng được nhưng có bị cái gì thì đừng trách anh nhé.
Thi bàn tiếp với Bình và Đĩnh:
- Tụi mày có thêm ý kiến gì nữa không?
- Tao tính mình đi báo cảnh sát cho rồi. Theo bọn gian phi này hoài sợ quá. Chúng cho mỗi đứa một phát đạn là toi đời.
Đĩnh nói xong Thi mới bảo:
- Tao đồng ý là báo cảnh sát, nhưng sau chuyến viếng thăm thứ nhì của bọn mình vào tòa lâu đài ấy đã. Tao muốn mạo hiểm làm thám tử chơi một lần cho biết…

* * *
Thi sốt ruột lắm. Nó muốn ông bà Thành đi mau ra tỉnh cho nó theo Đĩnh và Bình đột nhập vào trong ngôi nhà hoang. Nó muốn trở thành hiệp sỹ cứu khổ cho các nạn nhân của chúng. Thi tưởng tượng ra vậy. Trời chẳng chìu người, cha mẹ Thi ở nhà lo phòng thủ chống ma cà rồng. Ông bà cho người ra tỉnh mua thêm dây kẽm gai, cọc sắt, dây điện… để làm hàng rào quanh vườn cao thêm lên. Thi đi ra vào cho hết ngày giờ. Nó chờ tối mãi mà trời cứ sáng. Nó tức quá không biết trút nỗi bực bội vào ai. Nó lấy giấy báo cũ xếp thành chồng lớn ở góc nhà ra xé nát vụn thành những mảnh li ti bay khắp phòng.
Câu chuyện Bình và Đĩnh kể ban trưa ám ảnh Thi mãi và kích thích óc mạo hiểm của thằng bé liều lĩnh này đến cùng cực. Nó muốn biết rõ ma cà rồng này là con vật gì mà có người dám sống chung với ma cà rồng. Tình cờ một hàng tít lớn của một tờ báo cũ đập vào mắt Thi: “Quái vật hồ Thiên Đàng ở Phi Châu bị mắc lưới”, lập tức một tia sáng lóe lên trong đầu thằng bé. Nó đã nghĩ ra một phương cách nằm nhà mà vẫn bắt được ma cà rồng. Nó hy vọng như thế và tin chắc mình sẽ thành công.
Nó chạy qua phòng của Yến hỏi em:
- Yến ơi, em có thấy tấm lưới chăng ngang sân bóng chuyền lúc trước của mình đâu không?
- Em đâu có biết, anh cất đi mà. Ba bảo lưới ấy cũ quá, để lúc nào tiện ba mua cho tấm khác. Anh hỏi làm gì?
Thi bí mật:
- Em tìm cho anh ra đây rồi anh nói. Giấu em làm gì. Mau ngoan đi cưng.
Yến không chịu:
- Anh gạt em phải không? Anh có nói trước em mới đi tìm cho anh sau.
Thi lắc đầu thở dài:
- Em quá lắm nghe Yến, thôi lại đây anh nói thầm cho nghe.
Yến hởn hở đưa tai kề sát miệng Thi. Hai anh em thì thầm to nhỏ một lúc rất lâu rồi con bé chạy xuống nhà kho tìm tấm lưới chắn sân bóng chuyền trao cho anh. Hai đứa sửa soạn sẵn sàng, chờ tối sẫm. Thi dắt con chó con của Thi xuống vườn thế con Lu xấu số.
Thi và Yến lên phòng ngủ nằm trằn trọc mãi. Đến hơn 10 giờ Thi lẻn qua phòng Yến rủ em xuống nấp bên trong cạnh cửa kính phòng khách. Con chó nhỏ được xích chặt vào phần sân trống để xe, gần cây dương to lớn. Một sợi dây thừng bí mật của Thi giăng từ chiều, luồn qua khe thông hơi ra sát trần, buông rủ lòng thòng đầu thừng ngay ở tầm tay với của hai đứa nhỏ.
Thi chờ đợi và những phút chờ đợi là thời gian dài nhất. Một giờ nữa trôi qua như một thế kỷ. Yến bắt đầu buồn ngủ, con bé ngồi gật gà gật gù ở ghế sa-lông. Thi bảo em:
- Đi ngủ đi Yến à. Bao giờ có chuyện lạ, anh kêu dậy xem. Anh hứa.
Lần thứ nhất Yến dễ bảo ghê. Nó “vâng” một tiếng nho nhỏ rồi lên phòng ngủ. Còn lại mình Thi trong gian phòng khách. Bóng tối và ánh trăng mờ nhạt soi yếu ớt qua khung cửa sổ đục tạo cho các đồ vật quen thuộc trong gian phòng những hình thù kỳ lạ. Bộ ghế sa-lông, sáu cái ghế ngồi hàng ngày trông như một đàn heo rừng mập ú nằm ngổn ngang lười biếng. Cái quạt cây cao đứng sừng sững trong hang, nửa lộ ra, đầu phùng mang thành cái dấu tam giác khổng lồ. Tương tự các đồ dùng khác cũng thế. Tự nhiên Thi hơi sợ. Nó nghĩ đến ma cà rồng thật từ một xó xỉnh nào trong phòng khách nấp sẵn từ chiều tà, lững thững đi ra, hai tay đầy móng vuốt đất nghẹt thở. Ôi! Thê thảm và rùng rợn làm sao.
Thi mãi suy nghĩ tai không nghe thấy tiếng lộp bộp lạ lùng nổi lên. Tuy nhiên linh tính của Thi trỗi dậy. Thi quay lại nhìn ra ngoài khung cửa kính lớn của phòng khách. Nó bắt gặp ngay một cặp mắt đỏ rực tròn xoe như hai cục than hồng của một đống đen khổng lồ dán sát vào cửa kính che khuất hết ánh sáng vàng nhạt của bóng trăng ngoài trời rọi vào. Cặp mắt ấy sáng rỡ một cách kỳ dị có mãnh lực rất lớn với người đối diện.
Thi thấy lao đao chóng mặt. Nó mệt mỏi ngồi phịch xuống ghế sa-lông. Nó nhắm mắt giây lát lại phải mở ra nhìn đăm đăm vào hai con mắt đỏ ấy. Con mắt vừa dữ tợn đổ lửa vừa vuốt ve thân thiện lại oai nghiêm kỳ dị làm cho toàn thân Thi rung động như màn sương dầy che phủ, không suy xét gì được nữa. Thi cố gắng tập trung tinh thần chống lại nhưng thất bại. Nó biết mình đang thua trận chiến tinh thần này và chắc chắn sau cùng sẽ bị khuất phục. Thi còn sót lại trong một phần nào đó của bộ óc còn hơi tỉnh táo và nổi lên ý nghĩ: “Ma cà rồng”. Phải, chỉ có ma cà rồng mới ghê gớm đến thế! Ma cà rồng đang quyến rũ và sai khiến Thi đây.
Thi vội nhắm mắt lại nhưng lần này đôi mi nó càng nặng trĩu. Nó không khép mi lại nổi nữa. Nó tự biết là mình nguy rồi, chỉ một hai giây sau là thằng bé chịu thua cặp mắt đỏ rực thôi miên nó kia. Từ trong hai “hòn than lửa” toát ra mệnh lệnh “Hãy mở cửa cho ta”.
Thi tuân theo răm rắp. Nó bước giật lùi mắt vẫn nhìn thẳng vào cặp mắt đỏ kia tay quờ quạng tìm chìa khóa. Nó vớ ngay được chìa mở khóa ổ và tháo thanh cài cửa ngang ra. Còn sợi dây xích đặc biệt sáng nay ba nó mới lục trong nhà kho đem lên quàng qua cánh cửa nữa. Nó mò mẫm tìm ổ khóa dây xích. Chừng như sốt ruột. cặp mắt kia long lanh sáng dữ tợn gấp bội hình như đang nổi giận và Thi đọc được ý muốn của người đối diện: “Mau lên! Ta không chờ được nũa!”.
Thi cuống quít cúi xuống tìm lỗ khóa để mở cho nhanh hơn. Nhưng khi cúi xuống không bị cặp mắt đỏ ấy thôi miên nữa thì nó bình tĩnh, suy xét lại được. Vô lý quá. Tại sao phải tuân lệnh đôi mắt xa lạ ghê rợn kia? Mình phải chống lại.
Bị quyến rũ không chống lại được bởi một sức mạnh vô hình nhưng có đầy uy lực. Thi từ từ ngửng đầu lên nhìn vào cặp mắt đỏ kia trở lại. Và đầu óc thằng bé bỗng mất sáng suốt. Nó lấy tay lần mò sờ soạng tìm lỗ khóa.
“Cách” một tiếng khô khan. Thi đã mở ổ khóa cuối cùng của sợi dây xích siết qua hai cánh cửa. Nó tháo lần từng vòng xích một. Một, hai ba… nó từ từ mở toang hai cánh cửa kính dày và nặng trĩu của phòng khách.
Khối đen khổng lồ kia té xuống sàn gạch bông sang trọng. Nó lết đi rất mau, thân hình cao như một con chó, còn mặt rộng thì lớn bằng tấm chăn bông. Hai bên hông là hai cánh thỉnh thoảng đập phành phạch phát ra tiếng lộp bộp làm rung động lớp màng mỏng rộng. Hình dáng y như Thi và Yến thấy đêm qua. Chỉ khác là bây giờ lại rất gần Thi mà thôi.
Bây giờ thì Thi đang bị mê hoặc. mắt nó luôn luôn đăm đăm ngó vào cặp mắt đỏ không chớp. Nó đi giật lùi dẫn đường cho quái vật đen thui kinh khủng kia theo cầu thang lên gác, chỗ ngủ của ba má và em gái nó.
Ngoài sân con chó Nhật nhỏ của Yến ngủ thiếp từ lúc nãy. Có lẽ con quái vật đã thôi miên bắt con chó nhỏ ngủ đi rồi. Nó chê con chó bé quá không thèm hút máu cắn cổ như với con Lu.

* * *
Yến lên gác định ngũ một giấc đến sáng thật ngon nhưng tự nhiên con bé thấy tỉnh táo. Nó tỉnh như sáo sậu. Lúc còn ở nhà dưới chờ lâu Yến tưởng mình vào giường sẽ ngủ thẳng một giấc đến sáng mai 9, 10 giờ mới thức dậy. Lúc chui vào trong chăn ấm áp. Yến lại nhận ra rằng rình nấp bắt “ma cà rồng” với anh Thi sướng hơn.
Con bé ngại xuống thang gác một mình trong bóng tối. Nó sợ ma. Bao câu chuyện ma nghe kể lại từ trước tới giờ bỗng chốc hiện lên đầy đủ không sót một chi tiết rùng rợn nào trong óc Yến. Con bé trùm chăn lên đầu kín mít. Mồ hôi vả ra ướt hết áo dù bên ngoài rét lạnh căm căm.
Hai sức lực vô hình giằng co nhau dữ dội trong người Yến. Có nên xuống nhà dưới với anh Thi không? Xuống thì được nhưng nếu mình vừa ló đầu ra khỏi chăn bắt gặp ngay cái đầu lâu với chùm ruột gan lòng thòng bay trong phòng thì sao? Yến muốn ngất đi khi nghĩ tới đó. Năm phút sau, nó gan lại, mở hé mí chăn quan sát kỹ không thấy có gì đáng ngại mới giở chăn bông đặt sang bên, thò chân xuống giường xỏ dép rón rén xuống dưới nhà. Óc tò mò đã thắng.
Yến mới tới cầu thang thì một bàn tay lạnh ngắt sờ vào vai phải của nó. Yến gần xỉu tại chỗ, tim đập thình thịch như trống làng. Trời đất ơi! Nó gặp ma rồi. Chân tay nó ríu lại không chạy được nữa. Người nó mềm nhũn. Con ma bồng nó lên và hôn vào trán nó nóng ấm:
- Yến, con không ngủ đi đâu xuống nhà giờ này? Hả? Con không sợ ma à?
Yến thở phào mở mắt ra thấy cha. Râu ria ông tua tủa rậm rạp cọ vào má nó làm nhột nhạt hết sức. Nó làm nũng:
- Con giận ba rồi! Ba làm con hết hồn. Ban nãy con tưởng ba là ma chút xíu nữa chết giấc luôn đó.
Ông Thành cười:
- Ba trở dậy đi rảo trên lầu nhìn ra sân xem có gì lạ không đó mà. Suỵt, nói nhỏ cho mẹ con ngủ. Cha con mình nói thầm thôi nhé. Tối khuya rồi con đi đâu nói thật cho ba nghe đi.
Yến có ý nghĩ con ma cà rồng biến dạng thành cha nó để gạn hỏi Yến phá hỏng kế hoạch của anh em nó. Cha nó thường đâu có đi thêm như vầy. Bàn tay lạnh ngắt như nước đá! Trời ơi! Không biết đó là bàn tay của cha nó hay tay ma. Yến run rẩy không nói. Ông Thành giục giã:
- Ba còn để tội cho con đó nghe Yến. Có gì nói đi, ba giúp con cho mau. Lúc chiều con xuống nhà kho làm gì?
Yến mất hết sự nghi ngờ trong lòng. Đây đúng là ba nó thật, ba nó mới biết được lúc chiều nó xuống nhà kho. Ma cà rồng không thể biết vì mà không bao giờ xuất hiện ban ngày cả. Đến tối mới là thế giới loài ma.
Biết không giấu bố được, Yến thú thật.
- Con lấy tấm lưới căng sân bóng chuyền cũ đó ba. Tấm lưới ấy cũ nhưng còn chắc chắn lắm. Anh Thi bảo dùng tấm lưới ấy chụp bắt ma cà rồng.
Ông Thành trợn mắt:
- Bắt ma cà rồng! Làm sao bắt được?
Yến thủ thỉ:
- Anh Thi nói căng lưới ấy ra là lừa ma cà rồng vào quãng sân để xe hơi bằng con chó Nhật nhỏ của con đó ba à. Nó lọt vào sẽ sập lưới xuống bắt sống. Anh ấy bảo ma cà rồng không có, có lẽ nó chỉ là một loài vật rất lớn sống nhờ hút máu người và súc vật thôi.
- Thế bây giờ con tính xuống nhà làm gì?
- Con xuống rình bắt ma cà rồng với anh Thi.
Ông Thành cốc đầu con gái:
- Mày lém lắm. Đợi sáng mai ba hỏi tội cả hai đứa. Thằng Thi đâu rồi?
- Anh ấy xuống phòng khách rình ma cà rồng từ nãy.
Ông Thành chắc lưỡi:
- Tụi bây ghê thật. Thằng Thi có ra vườn chưa?
- Đêm qua anh ấy tính ra vườn tìm dấu vết ma một mình. Con ngăn lại bảo trời tối anh tay không ra vườn nguy lắm.
- Mày nói phải. Tao phải mang súng theo mới được. Tao nghĩ đêm nay thằng Thi dám ra lắm. Đợi tao chút xíu tao rình mà cà rồng luôn với anh em tụi bây.
Yến không dám mè nheo gì nữa. Nó biết khi ba nó nói “tao, mày” với các con là ông giận lắm. Chết rồi, thế này là sáng mai bị nọc ra ăn đòn sưng đít. Yến sợ quá khóc trước cho đỡ tội:
- Hu hu hu hu… Ba đừng đánh con nghe ba.
Ông Thành không trả lời đặt phịch Yến xuống đất. Ông vào phòng riêng lấy súng săn và lên đạn rồi trở ra cầu thang. Yến lúc đó hết sợ ma cà rồng vô hình rồi, nó chỉ còn nghĩ đến trận đòn sáng mai thôi. Bao tội lỗi cũ của nó được tha bổng, hay đúng hơn là tù treo, sẽ góp lại xử một lần. Mông nó sẽ vằn lên những vệt đỏ mọng sưng như những con lươn nhỏ. Ăn lươn thật no chứ hết muốn ăn cơm trưa sáng mai.
Yến thẩn thơ theo cha bước xuống thang gác. Mắt hai cha con làm quen dần với bóng tối. Yến lấy làm lạ gió lạnh thổi từng cơn thốc thẳng vào nhà trong như cửa lớn không đóng. Nó quên sắp bị đòn quay sang bảo cha:
- Anh Thi mở cửa phòng khách ra rồi ba ạ. Mở ra không đóng lại.
Ông Thành lầm lì không nói gì. Bỗng ông rú lên:
- Con gì đen đen hả Yến? Con nhìn rõ không? Thằng Thi đi giật lùi đến chân cầu thang làm gì? Sao lạ thế hả? Con lại góc tường bật đèn lên ba coi.
Ông bình tĩnh trở lại như thường. Đèn lóe sáng. Nhưng đồng thời một tiếng súng nổ vang bắn bể bóng đèn. Ông Thành đã bắt gặp cặp mắt đỏ rực kinh khiếp kia và khi Yến vừa bật đèn lên chưa ai kịp nhìn con quái vật hình thù ra sao thì tự nhiên ông tiếp nhận được từ cặp mắt đỏ rực một mệnh lệnh không thể chống lại là phải để bóng tối trở lại. Theo phản ứng tự nhiên là ông bắn bể bóng đèn điện trong phòng khách.
Yến thấy biến sợ quá. Ông Thành nhờ tiếng nổ tỉnh lại ngay không bị mê hoặc nữa. Thi cũng thế. Cặp mắt đỏ kia lại càng rực lên hơn bao giờ hết. Hai cha con, ông Thành và Thi lại đắm chìm trong sự u mê, ngoan ngoãn như những con chó tuân theo mệnh lệnh chủ. Yến khiếp đảm không dám nhìn vào đôi mắt than tàu – nó đặt tên như vậy – nên còn bình tĩnh sáng suốt.
Tiếng chân người chạy rầm rầm. Những người làm ở nhà dưới phóng lên. Mẹ Thi đang ngủ trên lầu nghe tiếng súng dữ dội choàng dậy xuống cầu thang. Yến nhanh như cắt vớ lấy khẩu sung ở tay cha. Súng nặng quá cầm trong tay một đứa con gái nhỏ như Yến trĩu nặng và muốn run rẩy. Yến cố gắng hết sức nâng mũi súng lên chỉa thẳng vào đống đen có cặp mắt kia lẫy cò.
“Đoàng!”
Tiếng nổ dữ dội thứ hai vang ra rất xa trong đêm vắng tĩnh mịch. Những người hàng xóm đổ xô lại nhà Thi xem có chuyện gì mà súng nổ giữa đêm khuya. Tới cửa họ chỉ thấy một vật gì cử động lù lù một đống bò rất nhanh như con dơi khổng lồ và biến mất ở cây dương.
Mọi người đang chỉ trỏ, bàn tán thì từ cây dương một khối đen khổng lồ rớt xuống và bay vùn vụt theo gió đêm. Tiếng vỗ cánh nặng nề khó nhọc và tiếng rơi lộp độp của máu từ thân thể con vật đó nhỏ xuống mặt đất và áo quần người đứng xem chứng tỏ rằng nó đang bị thương nặng. Nó như không nhận ra phương hướng chính xác, thay vì thoát khỏi cổng sắt qua đường trống thì bay trở vào vườn sau. Lúc bay qua nóc chỗ sân để xe hơi, nó cố bay cao lên, song không nổi phải chui bên dưới nóc. Và dính vào một màng lưới đổ úp xuống đất quấn chặt lấy thân hình.
Càng dẫy dụa thì lưới càng xiết chặt. Mọi người hò reo hớn hở. Một người bạo nhất vào vườn nhà Thi đến gần bên quái vật khổng lồ thì bị một cặp mắt đỏ ngầu đục đục từ từ mở ra. Cặp mắt ấy không còn sáng rực như hồi còn nằm trong gian phòng khách, trái lại đã mờ nhạt đi nhiều. Mờ nhạt nhưng vẫn còn đủ sức cám dổ đầy uy quyền mê hoặc. Anh chàng bạo gan lần lần không tự chủ được cúi xuống mở lưới trói cho quái vật. Anh đọc được ý nghĩ sai khiến rõ rệt tiềm ẩn trong cặp mắt ấy: “Hãy giải thoát cho ta!”. Và anh phải tuân lệnh.
Mọi người la ó ùa vào một lúc. Họ phản đối anh chàng kia. Nhưng không ai dám đến gần quái vật kia cả. Cách chừng năm thước đống đen lù lù đó có cặp mắt ma quái chiếu ra ánh sáng thù hận tàn nhẫn làm họ phải lùi lại, đứng im thin thít. Chẳng ai muốn chết lúc này liều mạng với quái vật.
Trong bóng tối đen một bóng đèn bấm lóe lên: Đó là của mẹ Thi, mọi người mới mừng rỡ chưa kịp nhìn kỹ thì ánh sáng tắt lịm. Bà Thành run tay làm rớt cây đèn pin vào tảng đá, bể mặt kính và bóng đèn bên trong.
Lưới vừa được mở tung ra thì bóng đen của quái vật lết thật nhanh lên ngọn cây đầu cổ thụ trong vườn. Nó leo gọn gàng, nhịp ngàng như khỉ vượn ở trong rừng. Và phút chốc một bóng đen thả rớt từ ngọn cây rơi xuống vỗ cánh bay đi mất hút.
Mọi việc xảy ra trong năm phút ngắn ngủi.
Yến ở trong nhà lo cứu tỉnh cho anh Thi và cha. Nó thương anh và cha lắm. Hai người này bị thôi miên nặng quá sau khi quái vật bò khỏi gian phòng khách, vẫn ngớ ngẩn như mất hồn. Miệng họ nói lảm nhảm những câu lạ lùng:
- Hãy mở cửa cho ta vào nhà!
- Mau lên, ta nóng ruột lắm!
- Hãy trả lại cho ta bóng tối! Ta không thích sáng!
Yến chẳng đoán được là ý nghĩa thế nào. Nó dìu hai người đến ngồi ở ghế sa-lông, hết vỗ vai người này lại giật tóc người nọ.
Bà Thành mời tất cả mọi người vào nhà. Bà bật ngọn đèn thứ hai của phòng khách. Ánh sáng trở lại xua đi bao sự hắc ám bí ẩn đáng khiếp đảm của đêm tối. Ông Thành và Thi vẫn ngớ ngẩn mất hết tri giác của một người bình thường. Cả anh chàng mở trói cho quái vật cũng vậy. Người ta dắt anh vào cho ngồi một ghế sa-lông ở phòng khách, anh vẫn chẳng biết gì.
Bầu không khí nặng trĩu. Mọi người đăm chiêu nhìn nhau. Mấy bà hàng xóm có tiếng lắm điều hay kháo chuyện bây giờ cũng im như cá. Mười phút sau ông Thành bắt đầu tỉnh, ú ớ:
- A… Tôi đang ở đâu đây… Con quái vật còn không… đèn sáng rồi hả… không, tôi nhớ đã bắn bể bóng đèn cơ mà…
Dần dà ông bình tĩnh và nhớ lại mọi việc. Ông lập tức lấy khăn ướt đáp lên mặt Thi và người kia cho họ tỉnh lại. Sau đó ông bắt đầu câu chuyện.
Ông Thành có khiếu ăn nói, tả cho mọi người nghe tường tận những diễn biến xảy ra như chính họ chứng kiến từ đầu đến cuối vậy. Người ta nín thở theo dõi từng lời một phát ra từ cửa miệng ông. Ông là người đứng đắn có uy tín nhất vùng nên không ai dám bảo là ông nói xạo. Câu chuyện thật hoang đường khó tin nhưng mọi người đều tin lời ông nói. Là vì chính họ đã lùi bước chịu thua cặp mắt than hồng ghê sợ kia lúc nãy rồi.
Thi cũng theo gương cha, thuật hết tất cả những gì xảy đến cho nó, từ việc nó chăng lưới bẫy ma cà rồng đến bất chợt nó gặp cặp mắt đỏ ấy thôi miên ra sao. Và tiếp theo là người bạo gan dám lại gần con “ma” bị sai khiến phải mở trói cho nó đứng lên trình bày.
Cha Thi đúc kết những ý kiến góp vào của các người có mặt và nói:
- Chúng tôi, những nạn nhân của ma cà rồng, tạm gọi thế đi, thề là những điều chúng tôi nói hoàn toàn sự thực. Tôi nghĩ là ma cà rồng chúng ta thường đồn đãi từ trước chỉ là giống vật khổng lồ như các bạn đã thấy. Tôi nghĩ có nhiều hy vọng đó là loài dơi khổng lồ hút máu người và súc vật. Các bạn có thấy nó có cánh không? Có. Nó phải bò lết mới leo lên một chỗ cao và buông mình rớt xuống lấy đà vỗ cành bay đi được. Nếu không phải là dơi thì nó cũng có nhiều đặc tính tương tự loài dơi. Quái vật chắc chắn phải là một sinh vật như chúng ta vì bị bắn bằng đạn đã để lại những vết máu đỏ rây trên mặt đất và quần áo vài người trong số chúng ta. Điều khó hiểu là cặp mắt ma quái kia tại sao lại có mãnh lực sai khiến những người nhìn vào trong đó.
Lúc đầu tôi nghe thằng Thi nói việc nó chứng kiến đêm qua, khi con quái vật đến hút màu cắn cổ con Lu, tôi không tin và chắc trẻ con nói bậy. Nhưng hôm nay những điều đập vào mắt bắt buộc tôi phải tin.
Sáng mai tôi sẽ lên tỉnh báo cho cảnh sách biết. Từ đồn điền này tới bót cảnh sát chỉ độ ba bốn cây số. Tất cả chúng ta sẽ được bảo vệ và chỉ dẫn cách phòng thủ chống lại những con vật ghê gớm này. Từ nay “ma cà rồng” chỉ còn là những huyền thoại mà thôi. Chúng ta sẽ điều tra và biết rõ sự thật. “Ma cà rồng” tôi coi chỉ như một loài thú dữ như cọp, beo, lợn lòi mà thôi. Hoàn toàn không phải ma quái chi hết. Các bạn có điều gì cần nói xin cứ phát biểu.
Mọi người từ giã ra về. Trời sắp rạng đông. Một đêm kinh hoàng chấm dứt và từ nay “ma cà rồng” không còn là một bí mật rừng thiêng nữa.
Khách ra về hết, Thi nói với cha:
- Thưa ba, trên đường đi vượt qua ngọn đồi trước mặt nhà mình xuống thung lũng có một lâu đài bỏ hoang.
Ông Thành gật đầu:
- Đúng, cái đó có gì lạ. Cha nhớ là chính cha đã nói chuyện con nghe cách đây một năm hay hơn nữa mà.
- Vâng, nhưng trong lâu đài ấy có người ở.
Ông Thành tròn xoe mắt:
- Thật hả con? Làm sao con biết rõ vậy?
Thi gượng gạo:
- Thưa ba có hứa không mắng con mới nói. Con gặp gỡ đây chỉ là tình cờ mà thôi.
- Ba hứa. Con nói mau đi.
Thi bắt đầu:
- Thưa ba sáng hôm kia. Vâng phải kể là hôm kia vì bây giờ là ba giờ sáng ngày thứ năm. Con, em Yến, Bình và Đĩnh đi sang bên thung lũng thả diều. Con đưa ra ý đó vì trước đến giờ chúng con chỉ đi gần đây thôi và đi gần đây mãi cũng chán. Quanh đi quẩn lại chỉ thấy có bấy nhiêu.
Thi nghe mẹ tắc lưỡi: “Chúng mày giỏi quá”, đầy vẻ không bằng lòng. Nó lặng thinh giây lâu rồi tiếp tục:
- Đường đi xa quá nên từ đỉnh đồi trở xuống thung lũng con bày ra trò thả diều thi. Ba biết là thả diều phải chạy nhanh và chạy nhanh sẽ rút ngắn đường đi lại. Chúng con chạy một lát đang ngon trớn thì… sụp hầm…
Ông bà Thành hét lên “Trời ơi!”. Thi vộp tiếp theo, nó nói thật nhanh để khỏa lấp:
- Hầm đào đất rộng và dài. Cao đến 5, 6 thước, dài có lẽ bao quanh khu vực tòa lâu đài bỏ hoang khoảng 5 cây số và rộng 3m hay hơn. Hầm nền đất, không có chông bên dưới.
May mắn quá!
- Té từ 5 thước rớt xuống chúng mày có sao không?
Thi nhăn răng cười:
- Nhờ trời phù hộ mẹ ạ. Không đến nỗi nào. Đau tay chân chút xíu rồi thôi. Em Yến khóc con dỗ mãi mới nín.
Yến nhìn mẹ sợ hãi đổ cho Thi:
- Tại anh Thi rủ con đi.
Ông Thành sợ vợ rầy và làm câu chuyện kể thêm lâu lắc, giục Thi:
- Tiếp đi con. Mọi việc ba phân xử sau.
- Chúng con phải dùng dây ny-lông thả diều bện lại thành sợi to chắc chắn mới vượt hầm lên được. Lúc đó đã trưa lắm rồi. Chúng con mở giỏ lấy đồ ăn ra và đi… ngủ.
Bà Thành nóng nảy:
- Mày kể mau lên Thi. Gì mà chỉ ăn, chơi và ngủ. Chán chúng mày quá.
- Con đang ngủ trưa thì em Yến kêu con dậy. Một bọn người bốn tên, chỉ huy là một gã râu xồm trung niên hì hục lấp đất khoảng đường hầm chúng con sụp ban sáng. Chúng còn nói chuyện với nhau bảo đường hầm mới đào cách đây một năm. Chúng tỏ vẽ sợ hãi có người đến gần khu vực lâu đài bỏ hoang và sụp hầm rồi lại vượt lên được ban sáng. Thấy lạ chúng con để ý theo dõi đầu đuôi. Một tên trong bọn phỏng đoán chắc gấu con sụp hầm và gấu con khỏe mạnh vượt hầm đi mất.
Ông Thành ngẫm nghĩ:
- Đường hầm dài quá như thế chúng chẳng phải tài thánh không thể đào xong trong một năm. Chắc có gì bí ẩn vì ba tin chúng nói thực. Làm sao chúng con biết bọn chúng ở trong tòa lâu đài có “ma cà rồng”.
- Thì ba tính xem tòa nhà bỏ hoang có đường hầm vây quanh, chúng đứng ở mé trong đường hầm và đi về hướng tòa nhà ấy lúc lấp xong đất mà.
- Còn dấu chân?
- Chúng con nhảy qua đại, lại thêm giỏ xách thức ăn kéo lê dập xóa lung tung chúng không còn trông rõ. Một tên nói là tiếc rằng đếm không đủ số ngón chân nếu đủ biết ngay là người hay là gấu.
- Phải đấy, chân người và chân gấu vết để lại gần giống nhau. Nó nói có lý.
- Các con có nhận xét gì chưa?
- Con nghĩ chúng phải có liên hệ chi đến ma cà rồng mới ở chung được với ma ở trong tòa lâu đài bỏ hoang nổi tiếng rất dữ xưa nay. Nhất là tối hôm kia khi con chó Lu bị cắn hút máu chết thì con lại càng tin là đúng. Ba thấy là dấu cắn ở cổ con Lu giống y như dấu của người đàn ông ngủ một đêm trong ấy cách đây 10 năm không?
- Thì phải giống nhau vì tất cả bị ma cà rồng cắn mà. Con nói tiếp đi.
- Sáng hôm qua thằng Bình và Đĩnh đến thăm con. Con có nói là con và em Yến không đi được vì ba má cấm. Con bảo thằng Bình và Đĩnh đi dò thám bên trong tòa nhà bỏ hoang ấy dùm con.
Bà Thành không nén được:
- Trời ơi. Mày xúi dại con nhà người ta. Chỗ nguy hiểm như vậy, xúi nó vào. Lỡ có sao thì lấy gì đền cho cha mẹ nó. Trẻ con chơi dại thật mà. Sao không báo cảnh sát.
- Con định vào hẳn trong nhà đó xem một lượt nắm đủ bằng chứng trong tay rồi mới báo cảnh sát. Nhưng tối nay gặp phải quái vật “ma cà rồng” quá dữ tợn và lợi hại con mới nói cho ba mẹ biết, sáng mai đi báo cảnh sát luôn một thể. Chuyện ly kỳ lắm mẹ ạ.
- Cái gì mày kể mau đi.
- Thằng Bình và Đĩnh vào bên trong vườn của tòa lâu đài bỏ hoang suýt nữa đụng phải hàng rào lưới nhện. Lúc ra về chút xíu nữa bị tóm vì bọn chúng có đứa phát giác nghi ngờ có người xâm nhập đuổi theo tìm bắt nhưng không thấy. Hai đứa thoát. Hú hồn!
Ông Thành bình tĩnh:
- Đĩnh và Bình có bắt gặp ở trong tòa nhà ấy điều gì lạ không?
- Tên râu quai nón bàn với một tên trẻ hơn, mắt lươn về việc đào kiếm kho tàng ở trong khu vườn và tòa nhà ấy. Chúng nói sẽ tăng cường máy dò tìm và máy đào đất chừng tuần nữa sẽ xong việc.
- Kho tàng? Lạ nhỉ. Hay là của quan Thượng Thư chôn giấu? Ba sẽ hỏi lại cảnh sát vụ này xem sao.
- Lúc bị rượt đuổi sau lưng, thằng Bình và Đĩnh núp rất gần bên bọn chúng nghe bàn là trong lâu đài không có ma cà rồng gì hết. Chúng biết rõ thế kia mà.
Ông Thành thắc mắc:
- Thằng Đĩnh và Đĩnh làm sao vượt qua đường hầm được mà chúng không biết. Con nói hầm sâu và có che đất lấp trên mặt đàng hoàng phải không?
Thi cười:
- Tụi nó nhảy sào ba ạ.
Ông Thành hiểu ra, cười ôm bụng:
- Khéo thật. Các con bây giờ thông minh hơn ba hồi nhỏ. Còn bọn gian thì vượt đường hầm bằng cách nào?
- Chúng có tấm ván rất cứng và dài bắc ngang qua bề rộng của hầm.
Ông Thành dặn hai con:
- Các con nghe lời ba, đừng dại dột lẻn vào trong ấy làm gì. Con Yến nữa, mày là con gái mà bạo gan quá. Tao cũng phải sợ. Mai ba báo cho cảnh sát họ đặt người bao vây tóm trọn ổ bọn gian ấy là được. Mọi người yên ổn sống. Ba biết hết vụ ma cà rồng rồi. Các con cứ lén đi chơi ba má sợ lắm.
Bà Thành giục:
- Các con đi ngủ. Trời sáng lắm rồi. Mai phải ở nhà luôn đấy. Ba mẹ không cho phép các con đi đâu hết, nhớ chưa?

Chương 5. Bao vây và truy nã
Ông bà Thành lấy xe hơi ra tỉnh lúc 6 giờ sáng. Trọn đêm qua hai người không ngủ được. Mắt họ nhíu lại, nặng trĩu và cay xé nhưng đây là việc gấp và bổn phận phải làm. Nguy cơ bọn gian phi ẩn nấp trong tòa lâu đài dài bỏ hoang là cả một sự đe dọa trầm trọng với dân lương thiện trong vùng.
Yến ngủ rất ngon lành vì đi ngủ rất trễ. Bắt đầu lên giường dỗ giấc đồng hồ đã gõ 5 tiếng. Gà gáy sáng từ lâu. Thi trằn trọc giây lát rồi thiếp đi. Lúc nó tỉnh dậy thì đã 10 giờ sáng. Cha mẹ nó ra tỉnh chưa thấy về. Nó qua phòng Yến. Con bé đang ngủ. Chắc em đang mơ một giấc mộng kinh khiếp, ứ ớ luôn miệng nên Thi bèn lay gọi:
- Yến à! Yến em dậy đi. Có anh đây mà.
Yến ú ớ thêm mấy câu nữa mới dụi mắt ngồi dậy. Mặt nó ngơ ngác như không tin đang trông thấy anh Thi hỏi:
- Em mơ gì mà sợ sệt quá vậy?
Yến ôm chầm lấy anh, dụi đầu vào ngực Thi miệng nói không ra hơi:
- Em bị con quái vật đêm qua rượt đuổi. Em chạy mãi từ trong phòng khách qua ngọn đồi và xuống đến thung lũng. Nó theo sát nút, có vẻ đùa cợt chưa muốn ra tay tựa con mèo vờn con chuột nhắt chán chê rồi mới xử tử. Có lúc nó bay lượn qua đầu em chặn ngay trước, cặp mắt đỏ rực sáng như hai hòn than trong lò sưởi lúc có gió thổi qua. Em hét lên thì nó nhe hàm răng nhọn trắng nhờn kêu lít nhít những tiếng lạ lùng như chuột rúc. Nó tránh qua một bên đường hai cánh vỗ lộp bộp đuổi cho em chạy tiếp. Cứ thế tiếp tục. Đến lâu dài không biết tại sao đường hầm biến mất, em vượt qua khoảng đất có hầm một cách dễ dàng và phẳng lỳ tựa như bãi đất thường ngoài vườn nhà mình. Em chưa kịp vào trong lâu đài thì một đàn chừng hai chục con quái vật giống con đang đuổi em vỗ cánh bay ra, quần qua đảo lại làm đen cả bầu trời, che khuất đám mây trắng bao quanh mặt trăng. Em sợ quá lên tiếng van xin thì một con nói được tiếng người bảo em: “Mày phải chết ở đây vì mày cầm súng bắn một đồng loại của tao bị thương. Tụi tao là ma cà rồng!”. Em hết hồn năn nỉ bọn quái vật vẫn trơ trơ. Một con ra nhóm lửa, nó đi bằng hai chân sau và hai chân trước cử động linh hoạt như người lửa bốc cao lên, nhìn kỹ vào trong đống lửa cháy, thì lạ chưa! Một người đang bị thiêu, da thịt nứt nẻ bốc lên mùi khét dễ sợ. Nhìn thấy cái đồng hồ dây đỏ ở tay trái em nhận ra anh. Con quái vật đầu đàn, em đoán thế, lên tiếng: “Thằng Thi phải chết trước mày, lúc nó thành than thì tụi tao khiêng mày quăng nốt vào đống lửa”. Cả bọn quây tròn lấy em và đống lửa vào giữa, dắt tay nhau nhảy múa ca hát một thứ tiếng âm u quái đản. Em tìm cách trốn luồn qua cánh một con bỏ chạy về nhà. Mới chạy được chừng hai chục thước thì bọn quái vật phát giác rượt theo bắt lại. Em cố gắng mãi mệt muốn đứt hơi. Khi vừa vào đến phòng khách chưa kịp đóng cửa kính thì một con quái vật bay tới. Em luống cuống… thì anh gọi dậy. Em thấy mệt và thở dốc giống như mình vừa chạy một khoảng đường rất dài thực sự vậy. Em không tin anh ngồi trước mặt em, vì em ngỡ anh bị quăng vào trong đống lửa ma quái rồi.
Thi vỗ về an ủi em:
- Đừng sợ Yến à. Có anh ngồi bên em đây. Em mơ ngủ đấy. Anh còn sống nhăn, chết chóc chi đâu. Nội ngày hôm nay bọn râu xồm và quái vật gớm ghiếc ấy sẽ bị giết chết hết. Gieo gió thì gặt bão. Chúng chết hết để bù lại tội đã gây cho em giấc mơ kinh khủng này.
Yến hài lòng nhưng thắc mắc:
- Ba mẹ đi báo cảnh sát hả anh? Ba mẹ về chưa?
Thi lắc đầu, Yến nói tiếp:
- Chúng bị bắt là đáng đời, nhưng chúng mình mất hẳn một dịp vui vào trong lâu đài khám phá bí mật bọn râu xồm anh ạ. Hai anh Bình và Đĩnh may mắn hơn mình được vào trong ấy một lần, tới lúc mình vào được thì cảnh sát dọn dẹp hết rồi còn gì.
Yến buồn bã thở dài. Thi bảo:
- Bắt gian phi là chuyện lớn, chơi đùa là việc nhỏ. (Thi tiến bộ và có ý thức đứng đắn lắm rồi đấy). Em đừng lo khi yên ổn mọi việc anh lấy lâu đài làm chỗ của tụi mình hộp họp.
Yến sáng mắt:
- Thiệt hả anh? Anh hay quá, nghĩ ngay ra được trò chơi. Từ giờ anh đi đâu em đi theo sát nút.
Thi cười. Nó đã quen với tính cô em gái lắm. Muốn gì là đòi cho được. Được rồi thì anh bảo gì cũng nghe.
Thi đang định trêu Yến một câu thì có tiếng còi xe hơi ngoài sân. Máy xe nổ dòn hình như có lẫn tiếng động cơ lạ nữa. Nó đoán là cha mẹ nó về với xe Cảnh sát luôn. Thi vén màn cửa sổ nhìn xuống sân: Quả nhiên có ba xe hơi tất cả: một du lịch của cha mẹ Thi và hai xe jeep. Nhân viên cảnh sát súng trường cầm tay ngồi lố nhố bên trong. Thi đoán mỗi xe chở ít nhất 6 người. Tất cả là một tiểu đội Cảnh sát.
Có tiếng gọi:
- Thi ơi! Yến ơi! Xuống ba mẹ bảo.
Hai đứa trẻ chạy vội xuống cầu thang. Chúng đi guốc mộc nên khua rộn cả nhà. Ông Thành bảo hai con:
- Thi và Yến chào ông Cảnh sát trưởng đi.
Chúng chào thật ngoan. Ông cảnh sát trưởng khen và bắt tay hai đứa.
- Trông hai cháu thông minh và khôn ngoan lắm.
Ông Thành bảo con gái:
- Yến sang nhà Bình và Đĩnh kêu qua đây cho ba nhé.
Yến dạ nhưng mắt nhìn anh cầu cứu. Thi lại gần em gái, nghiêng đầu cho em nói thầm, Yến thì thào:
- Hôm qua em lỡ lừa anh Đĩnh ăn trái ổi có sâu xanh, bây giờ qua thì quê lắm. Thôi anh đi dùm em nhé.
- Không được anh phải ở nhà kể chuyện cho ông Cảnh sát trưởng để bao vây bọn gian. Em chạy mau lắm mà.
Yến phụng phiệu nhưng đành miễn cưỡng nghe lời.
Thi thuật đầu đuôi câu chuyện cho ông Cảnh sát trưởng nghe. Nó nói rất mạch lạc rõ ràng. Ông khách bảo:
- Sáng nay tôi phải bàn tính kế hoạch với hai ông bà và sưu tập tài liệu cần thiết về ngôi nhà hoang nên dậy muộn. Cháu lớn rồi tôi nói chuyện cho nghe cũng không sao. Đừng mách lẻo kháo chuyện cho ai nhé.
Thi giơ tay phải lên:
- Cháu hứa.
- Ba tháng trước có một người tiều phu đốn củi bị mất tích bí mật. Sở dĩ tôi chịu thua không tìm ra thủ phạm. Điều tra chỉ biết được hai điều là người mấc tích đến khu vực gần ngôi nhà hoang và một nhân chứng đáng tin cậy cho biết anh ta còn chuyện vãn với người tiều phu kia lúc 5 giờ chiều. Thường họ về nhà khoảng 6 giờ. Chúng tôi suy đoán ra rằng anh tiều phu bị bắt cóc lúc đang trên đường về nhà.
- Thưa ông dấu vết để lại có gì không?
- Chỉ có vết chân anh ta và một mảnh áo cũ rách ra rớt xuống đất tơi tả. Chúng tôi hỏi thì vợ anh ta xác nhận là áo anh mặc lúc sáng sớm đi làm.
- Có ai nghe tiếng kêu hay vật lộn giằng co không ạ?
- Rừng rậm rạp vắng người, có ai ở đó mà nghe được. Những người bạn anh làm việc cách anh chừng một trăm thước thề rằng họ không thấy điềm gì khác lạ cả.
- Hay chính mấy người bạn rừng đó là thủ phạm?
Ông cảnh sát trưởng lắc đầu:
- Cháu nói có lý nhưng không đúng trong trường hợp này. Tôi cho thẩm vấn họ và kết quả chứng minh họ không phải là thủ phạm. Bọn trẻ chẳng hề xích mích, gây gổ, đánh lộn trước đó. Họ rất lương thiện, thật thà không đủ bản lãnh qua mặt chúng tôi. Huống chi cảnh sát lục soát các bờ đất quanh khu rừng rất kỹ. Nếu người tiều phu bị giết vùi xác ở một nơi nào đó thì chúng tôi biết ngay.
Ông vui vẻ tiếp:
- Nay tôi nhờ ông bà đây mà tìm ra thủ phạm: ma cà rồng.
- Ma cà rồng! Ông chưa tìm được xác nạn nhân bị cắn cổ họng kia mà.- Thi lý luận.
- Đúng thế. Nhưng ai cấm những con quái vật đó bay ra khỏi lâu đài lúc trời chạng vạng tối và cắp người tiều phu bay đi mất. Chúng đã to lớn mạnh mẽ như thế chỉ cần hai con là đủ quắp người mang đi. Nhất là mảnh vải, áo rách nát rơi trên mặt đất, chứng tỏ rằng nạn nhân bị một móng vuốt hay dụng cụ nhọn sắc tấn công thình lình và anh ta trở tay không kịp phản ứng. Tôi thấy giả thuyết đó rất có lý. Cháu nên nhớ ở đây chỉ 6 giờ chiều là trời tối lắm rồi nhất là trong rừng nữa. Tôi hỏi lại bên khí tượng và họ cho biết ngày ấy trời nhiều mây, sương mù, lấm tấm mưa nên ánh sáng mặt trời rất yếu. Cường độ bức xạ là…
Ông định nói tiếp song ngừng lại và cười:
- Cháu chắc không hiểu được những tiếng chuyện môn kỹ thuật. Cháu chỉ cần biết hôm ấy trời tối, rất tối. Và vụ mất tích xảy ra.
Cha thì xen vào:
- Thưa ông Cảnh sát trưởng, ông nghĩ thế nào về giả thuyết dơi hút máu người có thuật thôi miên?
Ông Cảnh sát trưởng đưa mắt ra hiệu cho viên phụ tá rất trẻ. Ông này nói:
- Tôi xin tự giới thiệu là đã tốt nghiệp khóa huấn luyện đặc biệt về sinh vật rừng nhiệt đới và bán nhiệt đới. Dơi hút máu có nhiều ở vùng Nam Mỹ tại những xứ như Brazil, Venezuela… thôi. Không có ở Việt Nam. Song nghiên cứu lại tôi thấy điều kiện về ẩm độ, nhiệt độ, rừng cây… ở vùng này có nhiều điểm khá giống bên Nam Mỹ. Vậy tôi không bác bỏ giả thuyết có dơi hút máu trong tòa lâu đài này. Phải kiểm chứng lại mới biết chắc được.
Thi gặn hỏi:
- Như vậy ông nói rằng có thể có dơi khổng lồ hút máu?
- Có thể có và cũng có thể không. Tôi chưa kết luận gì cả.
Thi chạy ra vườn lát sau mang vào một túi ni lông đựng đầy đất. Ông Thành và mọi người cùng ngạc nhiên. Ông hỏi:
- Con lấy đất làm gì?
- Thưa ba con biếu ông Cảnh sát vì đất này có những vệt máu đỏ con quái vật bị thương hôm qua nhỏ xuống đọng lại. Ba cho phép con nhé?
Thằng bé sao hôm nay lễ phép dễ thương lạ lùng. Ông Thành gật đầu vui vẻ. Thi trao cho ông cảnh sát.
- Thưa ông máu đọng từ tối hôm qua đã khô liệu bây giờ có phân chất được không?
Ông này vỗ trán:
- Rõ thật tôi đãng trí quá. Đáng lẽ tôi phải nghĩ ra ngay mới phải. Cám ơn em nhé. Tôi sẽ tự làm thí nghiệm xác định giống vật và kết quả sẽ có trong vòng bốn tiếng đồng hồ.
Ông Cảnh sát trưởng sốt ruột:
- Có mau hơn nữa được không?
- Tôi hứa sẽ cho kết quả sớm nhất và chính xác nhất.
- Anh ra xe về Sở làm ngay cho tôi nhé.
Lúc nhìn Thi ánh mắt nghiêm khắc của ông đã thoáng lộ cảm tình. Thi vui vẻ vẫy tay chào theo ông.
Ông Cảnh sát trưởng trở lại câu chuyện:
- Lúc đầu nghe ông bà kể chuyện tôi không tin. Nhưng sau thì bắt buộc phải tin vì nhiều người chứng kiến và ông bà là một người rất đáng tin cậy. Đôi mắt đỏ lợi hại của con quái vật có lẽ chỉ là năng lực bẩm sinh của một giống vật nào đó. Anh cảnh sát mới lúc nãy ngồi xe kể lại tôi nghe câu chuyện con rắn. Hầu hết các loại trăn rắn lớn có một đôi mắt xanh lục thật lạ lùng. Đôi mắt ấy có khả năng gần giống với thôi miên của loài người chúng ta. Nạn nhân của con rắn, người, thỏ, chuột… bị đôi mắt ấy nhìn đăm đăm sẽ bị mê hoặc mất hết ý chí kháng cự và làm mồi cho trăn hay rắn. Rất ít trường hợp nạn nhân có khả năng tinh thần mạnh hơn áp đảo được đôi mắt địch thủ và thoát nạn. Ông phụ tá nói là những con trăn ấy có thiên khiếu thôi miên trời cho, không cần phải tập luyện đặc biệt như người ta mới có. Về con dơi thì dơi mù hẳn. Nghĩa là nó có mắt cũng như không. Dơi bay được là nhờ phát ra những làn sóng siêu âm chạm phải chướng ngại vật dội lại. Dơi tiếp nhận làn sóng phản xạ ấy và phản ứng tránh né vì nó có thể đo lường được kích thước, khoảng cách từ vật đến nó, vì thế nó lẩn tránh rất tài tình vì mà chúng phản ứng nhanh đến mức nếu chúng ta cầm gậy đập chúng thì không bao giờ trúng được.
Vừa lúc đó thì Yến về tới nhà, theo sau nó là Bình và Đĩnh. Ông Thành giới thiệu:
- Đây là cháu Bình và Đĩnh tôi đã nói chuyện với ông. Còn đây là ông Cảnh sát trưởng.
Đĩnh lúng túng chào ông Cảnh sát trưởng. Nó vốn nhút nhát, ít giao thiệp với người lạ, Bình tự nhiên hơn nhiều nó vui vẻ:
- Thưa ông, chúng cháu biết mặt được 5 tên trong bọn gian phi trong tòa nhà bỏ hoang. Tên cầm đầu được gọi là anh Hai còn rất trẻ, mắt lươn ti hí. Tên râu xồm hơi đứng tuổi được kêu anh Tư, người này là một tên tù mới được thả cách đây một năm…
Thấy ông Cảnh sát trưởng im lặng có vẻ suy tư, Bình ngừng lại một chút, rồi tiếp:
- Ba tên còn lại là thủ hạ dưới tay của tên râu xồm đều là những thanh niên rất trẻ, vạm vỡ khỏe mạnh, một tên trong bọn được gọi là Du.
Ông Cảnh sát trưởng khoát tay:
- Tôi biết rồi. Chúng cải trang tài lắm cháu nhé. Có thể cháu bị lừa đấy.
- Thưa ông cháu nghĩ là chúng không ngờ bị theo dõi và giữa bọn chúng quen thuộc với nhau chẳng cần cải trang làm chi. Có thể đấy là mặt thật của bọn chúng.
- Cũng có lý. Cháu kể tiếp đi.
- Ngoài vườn chúng có giăng một lớp mạng nhện bằng dây điện báo động mỗi khi người lạ vô ý vướng phải lúc xâm nhập vào vườn bỏ hoang. Cháu và Đĩnh thấy rõ ràng những mối dây điện nhỏ xíu như sợi tóc đan lại với nhau ở các gốc cây lớn, có chỗ quấn bằng keo điện, có chỗ chắc tróc ra còn màu sáng đỏ đẹp của đồng.
- Các cháu làm sao vượt qua lớp hàng rào mạng nhện mà chúng không phát giác?
- Thưa ông cháu và anh Đĩnh trèo lên cây to chỗ giáp nối với dây điện. Chúng cháu cẩn thận tránh va tay chạm chân, quần áo vào các mối dây ấy. Lên cao vượt qua hàng rào chúng cháu chuyền sang những cành nhỏ mé trong, thế là thoát nguy.
- Cái cây rung, chuông không kêu à?
- Thưa chúng cháu đoán là cây rung một chút chắc chẳng sao vì bọn gian phải bố trí sao đó cho gió rừng hàng ngày dưới thung lũng rất mạnh thường rung chuyển cây cối ào ào kia không ảnh hưởng tới hệ thống của chúng. Báo động hoài như thế điếc tai chịu sao được.
Ông Cảnh sát trưởng gật gù:
- Cháu thông minh lắm. Cháu vào trong dẫm nát cỏ trong vườn bọn chúng nhìn dấu giày biết thì sao?
- Thưa tụi cháu tụt giày buộc vào thắt lưng và đi chân không trên bãi cỏ.
- Các cháu làm thám tử được đấy.
Ông Cảnh sát trưởng tiết lộ:
- Các nhân viên của tôi khởi sự bao vây quanh khu vực ấy vào lúc 8 giờ sáng nay rồi. Tôi hỏi cho rõ chi tiết ở bốn cháu đây và để cho cảnh sát có thì giờ bố trí cẩn thận. Chừng một giờ trưa nay, chúng tôi sẽ tiến vào bên trong lục soát. Ông bà có muốn đi theo không?
Ông Thành sốt sắng:
- Vâng tôi xin theo ông Cảnh sát trưởng. Vợ tôi yếu, bị nhức đầu phải nghỉ ở nhà.
- Tùy ý ông bà.
Thi vọt miệng:
- Xin ông Cảnh sát trưởng cho tụi cháu theo với. Chúng cháu biết rõ đường hầm và ngôi nhà bỏ hoang đó.
- Cũng là một ý hay. Ý kiến ông chủ thế nào?
- À, việc này tùy ý ông quyết định. Làm được việc gì giúp cho ông chúng tôi xin cố gắng.
- Thế thì cả bốn cháu cùng đi với chúng tôi.
Mọi người lui ra khỏi phòng khách. Trong phòng chỉ còn ông Cảnh sát trưởng và ông Thành. Hai người trầm ngâm bên tấm bản đồ rất rộng của cánh rừng già và khu vực quanh đấy có tòa nhà được ước lượng bằng một vết bút chì đỏ sậm.
Ông Cảnh sát trưởng hỏi:
- Ông đã cho ai biết vụ cảnh sát bao vây căn nhà hoang chưa?
- Thưa ông chưa. Hôm qua sau khi quái vật bay đi mất tôi có giải thích là “ma cà rồng” thật ra chỉ là một con thú dữ tầm thường như cọp, beo… Mình sợ hãi vì con vật này hút máu cắn cổ người. Tôi có nói sẽ nhờ cảnh sát giúp sức trừ quái vật ghê gớm. Thế thôi. Mãi tới khi đám đông giải tán hết chúng tôi đóng cửa đi ngủ thằng Thi mới nói tôi hay bọn gian phi đáng ngờ và đường hầm xung quanh tòa nhà bỏ hoang. Sáng sớm tôi lên báo ông biết ngay.
Ông Cảnh sát trưởng giật mình:
- Ông vô tình báo cho bọn gian biết rồi. Tôi đoán rằng chúng sẵn người lẩn quẩn sống lẫn vào dân chúng. Khi ông nói rằng ông nhờ cảnh sát bảo vệ chống quái vật là chúng biết đổ bể rồi. Tôi e chậm mất…
Ông đứng lên ra xe và quay vào bảo ông Thành:
- Làm ơn chở dùm tôi bốn đứa bé tới nơi, ông chủ nhé.
- Vâng, ông yên tâm.
Xe Jeep của ông Cảnh sát trưởng chạy trước. Chiếc Jeep thứ nhì nối gót. Xe du lịch của ông Thành cũng phóng như bay. Ông Thành bóp kèn xin qua mặt và nói mau với ông Cảnh sát trưởng:
- Ông để tôi dẫn trước lợi hơn vì đường hẹp và có bọn trẻ chỉ cho biết vị trí đường hầm. Xe sụp hầm nguy hiểm lắm.
Ông Cảnh sát trưởng luôn nhìn đồng hồ tay: 12 giờ đúng. Đường mòn bò qua đỉnh đồi bò xuống thung lũng quá nhỏ, không vừa bề ngang xe hơi nữa. Bánh xe cán bừa lên cỏ xanh mơn mởn hai bên đường.
Từ đỉnh đồi xuống thung lũng vì đường dốc nên xe phải hãm bớt tốc độ.
Ông Cảnh sát trưởng dùng máy vô tuyến liên lạc ngay với các nhân viên. Họ đang bổ vây giai đoạn cuối cùng và hứa sẽ cố gắng chu toàn nhiệm vụ. Họ báo cáo chưa có động tĩnh gì lạ, đáng nghi ngờ trong tòa lâu đài và khu vườn rộng mênh mông. Ông cảnh sát trưởng ra lệnh cứ thẳng tay chặn giữ lại tất cả những người từ trong nhà hoang đi ra hay lảng vảng ở đó có vẻ khả nghi.
Bỗng Đĩnh la lên:
- Chạy chậm chậm lại bác. Kìa! Tảng đá vuông vức tụi con nằm ngủ đó. Đúng 200 thước nữa thì tới đường hầm.
Ông Thành thận trọng đi nốt khoảng đường còn lại. Cả bọn xuống xe và Đĩnh nhặt lại cây sào tre bỏ lại hôm trước. Chỉ độ mươi bước là cây sào đâm xuống lút ngập đến hơn phân nửa. Đường hầm ở đó.
Ông Cảnh sát trưởng ra lệnh cho nhân viên lấy thang sắt gồm nhiều đoạn nối lại cứng nhắc làm cầu tạm bắc qua bề rộng đường hầm.
Năm phút sau cầu bắc xong. Không biết bọn gian còn bên trong hay đã trốn mất? Ông Cảnh sát trưởng ra dấu cho phân nửa cảnh sát ở lại giữ ngoài vườn, phân nửa theo ông leo vượt hàng rào mạng nhện theo phương pháp của Bình hôm qua. Tất cả vào trong vườn êm thắm.
Cửa phòng khách lớn gian nhà hoang khóa chặt. Ổ khóa rỉ sét lâu đời. Nậy mãi không ra ông Cảnh sát trưởng dùng súng hãm thanh riêng bắn vào ổ khóa tung ra từng mảnh. Mọi người ùa vào trong.
Một cảnh tiêu điều hoang phế bày ra. Nhà tối om, bụi bặm ngập đầy dưới sàn nhà in hằn dấu giày mỗi người bước đi. Chuột chạy trên trần ầm ầm, thỉnh thoảng rúc lên từng hồi gọi nhau nô giỡn. Một con chuột rớt ngay vào vai thằng Thi, nó hoảng hốt lên lấy tay gạt ra. Nó khó chịu mãi vì mùi hôi hám lạ thường của lông chuột trên áo. Một vài món đồ lặt vặt vô giá trị rất cổ, có lẽ của ông quan Thượng Thư thế kỷ trước còn sót lại. Một cái đôn sứ bể mặt trên, cái sập gụ nham nhở mốc thếch, một thanh kiếm mẻ chạm hình một con phượng ngậm quả châu. Lưỡi kiếm bằng đồng mờ đi nhiều với thời gian.
Các đồ vật quý ở nhà vị quan Thượng Thư chắc đã bị trộm cắp rinh hết sau khi ông, người cuối cùng trong gia đình chết bí mật. Thứ nào không đáng giá hay nặng nề bị bỏ lại. Ông Cảnh sát trưởng quơ tay hốt một ít mạng nhện. Đúng là mạng nhện thật, không phải những sợi dây điện li ti giăng mắc như ngoài vườn.
Ông lấy tay gõ vào vách tường thử xem. Vẫn là vách bình thường. Vách dày cả hai mươi phân xây bằng gạch với vôi và mật mía, chất xi măng ngày xưa. Mặt tường ram rám nhưng chẳng có dấu hiệu nào đáng lưu ý.
Ông chạy ra vườn xem xét cùng khắp mọi nơi. Lạ thật, mặt đất không có một dấu giày hay một chút gì chứng tỏ có người sinh sống ra vào hằng ngày tòa nhà bỏ hoang. Ông muốn không tin ở tri giác mình nữa. Tất cả đi ngược lại với sự suy đoán của ông. Ông thấy rằng đây là ngôi nhà bỏ hoang thật nếu không có hàng rào lưới nhện và đường hầm khổng lồ khó hiểu kia.
Chợt ông chạm tay vào một hàng mạng nhện. Lập tức ông nghe từ lòng đất nổi lên những tiếng u u không dứt. Có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề, ông không thể lầm được, đấy là tiếng chuông báo hiệu ngầm dưới đất. Thành công một điểm nhờ đầu óc ông sáng suốt minh mẫn hơn bao giờ hết. Hôm qua ở thung lũng có mưa đêm rất lớn và nước chảy trên mặt đất làm đất cũ, đất mới cùng màu như nhau nếu quả bọn gian có dùng máy đào tìm vàng ngọc của kho tàng bí mật. Dấu chân cũng bị xóa hết nếu chỉ in nhẹ hơi làm rạp mặt cỏ. Bọn gian không ngu dại ở trong tòa nhà chính của lâu đài bỏ hoang. Chúng đào hầm, ẩn dưới đất như những bóng may hay loài dế nhủi. Chúng ở đây lâu lắm từ hơn một năm nay mà.
Ông đoán chúng đã rút đi rồi. Rút hối hả không kịp tháo gỡ những gì chúng thiết lập. Ông cho lệnh tìm miệng hầm bí mật.

Hơn một giờ trôi qua mọi người mồ hôi vã ra như tắm. Họ đã cố gắng nhưng vô hiệu. Ông Thành tự nhủ: “Thiên bất dung gian” sao người lương thiện lại thua trí kẻ gian phi. Nhất là ông Cảnh sát trưởng mẫn cán giỏi giang có tiếng cũng bó tay.
Yến lúc đầu còn chú ý tìm kiếm, sau vì cuộc lục soát kéo dài quá nên nó chán nản và rủ anh Thi chạy rượt bắt. Thi thấy Yến trẻ con quá. Dù Thi cũng chẳng người lớn gì hơn Yến mấy nên không bằng lòng. Yến lẽo đẽo theo anh miệng nói huyên thuyên. Hai anh em xuống đến gian nhà kho thì việc lạ xảy ra.
Một con sóc nhỏ trắng xám chạy vụt vào trong góc nhà biến mất. Yến giục anh:
- Anh bắt cho em con sóc đi. Mình về tắm rửa xà bông sạch sẽ nó bảnh bao không kém con chó Nhật của em nuôi bây giờ. Mau lên đi anh.
- Đừng làm rộn để anh tìm miệng hầm. Em ra xe ngồi chờ anh đi Yến.
Yến rơm rớm nước mắt năn nỉ:
- Anh đuổi em phải không? Bắt giùm em con sóc đi anh Thi.
Không từ chối được, Thi rảo mắt nhìn, tìm con óc. A! Kia rồi. Sóc đang lấp ló ở trên dụng cụ treo cuốc, xẻng gắn ngang vách tường, mắt sáng long lanh dễ thương. Giàn gỗ lâu quá gần mục, sóc nhẹ nên đứng được vững vàng. Thi phóng lại với tay chộp thì sóc chạy đi. Tay Thi vơ vào giàn gỗ mục nát rã bụi rớt xuống ào ào. Thi thấy đầu ngón tay trỏ mình đau nhói hơi xót, nó nhìn lại: một con chuột bự đào ngang hầm trong vách đang nghiến chặt hai hàng răng nhỏ sắc như lưỡi cưa đeo tòng teng ở đầu ngón tay trỏ của Thi.
Thi hét lên một tiếng vẩy nó xuống nhưng con vật lỳ lợm không buông. Nó đành dùng tay trái nắm thân con chuột giằng ra. Chao ôi! Chuột nhũn nhùn nhầy nhụa Thi sờ vào người nó phát khiếp. Nó vội lẫn vào trong ổ cũ.
Yến đang bắt đền Thi vì con sóc chạy mất rồi. Thi rút khăn mùi xoa ra quấn lấy ngón tay bị thương, mắng em:
- Em thấy anh chảy máu tay đây không còn đòi mãi. Con gái hư.
Nó nổi giận lên nhưng rồi dịu lại, dỗ dành Yến:
- Mai anh nhờ tiều phu vào rừng bắt cho em con sóc khác đẹp hơn con này nữa. Sóc mới đẻ xinh lắm về nhà em tha hồ cho nó ăn sữa.
Thi vác khúc cây dài thọc sâu vào trong ổ quyết giết chết con chuột trù ác. Khúc cây chạm vào vật gì bằng kim loại kêu “cong, cong” ngân vang như chuông đồng. Lập tức nền đất dưới chân Yến thụt xuống. Thi ngạc nhiên quá không kịp kêu lên một tiếng, mắt thấy lỗ hổng bên cạnh sắp khép kín vội vàng nhảy xuống cứu em gái.
Nhà kho rộng thênh thang, cửa sổ và cửa ra vào khép kín nên tiếng kêu của Yến không vọng ra được bên ngoài. Lúc đó ngoài hai anh em Yến ở nhà kho chẳng có ai, vì nhân viên cảnh sát lục soát một lần rồi không thấy dấu vết khả nghi. Và anh em Yến mất tích luôn từ ấy.
Miệng hầm không rộng lắm nhưng bên dưới thênh thang có thể làm nơi họp mặt cho cả ngàn người. Vách xây thẳng đứng như bức tường, cao khoảng 4 thước. Nền đất cứng làm hai đứa trẻ đau điếng. Tuy thế Yến biết nguy hiểm không dám kêu khóc la lối to tiếng. Nó run rẩy nép sau lưng Thi. Thằng bé đang lần mò từng bước một tiến về phía trước mặt trong gian hầm tối om đầy đe dọa này.
Bầu không khí tù hãm ngột ngạt bị giam hãm dưới hầm lâu ngày rất nặng nề khó chịu. Thi dặn em:
- Em bước nhẹ chân không có bụi bay lên nhiều ngộp lắm đấy.
Đường hầm khá dài. Thi nhìn đồng hồ dạ quang. Nó đi bộ với Yến đã 15 phút rồi mà chưa hết. Đi chậm thế này thì chiều dài đoạn hầm tối thiểu phải 200 thước. Thi sờ soạng trong bóng tối và tay nó chạm vào một vật sừng sững lạnh lẽo ghê người, đó là cánh cửa sắt chắn ngang đường hầm. Bọn gian chắc đang ở trong đó. Thi thầm nghĩ.
Yến lắng tai nghe động tĩnh với anh. Cả hai chẳng thấy gì. Cánh cửa chốt then ngang cứng ngắc. Thi lấy hết sức mạnh dồn vào hai cánh tay bứng cây then lên, May là cửa này mở từ ngoài hay trong phòng đều được cả.
Cửa nặng quá. Hai anh em đẩy mãi nó mới từ từ hé ra một chút. Yến nhỏ con chui vào dễ dàng. Thi lách mãi mới lọt.
Có ánh đèn mờ nhạt như ánh trăng lọt ra từ khung kính mờ cách cánh cửa khá xa, chừng năm chục thước. Giữa là một phòng mênh mông, bên trong có mấy cái máy hình thù quái đản khổng lồ. Thi ngắm nghía những trục quay, dây courroie, dây xích và lưỡi đào rất lớn gần giống lưỡi cuốc. Nó chợt hiểu ra:
- A! Đây là máy đào đât Yến ạ.
Hai anh em nhìn sang góc phòng bên trái: Một đống trắng rời rạc lù lù. Thi lạnh lùng trông rõ bộ xương. Lạ quá sao em nó không hét lên? Thi dụi mắt thì đúng là bộ xương người trắng hếu nằm gục xuống bất động ở góc phòng.
Thi lại gần bộ xương nhưng ánh sáng mờ yếu quá, nó không quan sát được rõ rệt dấu vết chứng tỏ người ấy có phải là người tiều phu mất tích không. Nó cố tìm cây rìu nhưng không thấy.
Yến nhắc anh:
- Lỡ ông tiều phu bị dơi tha đi luống cuống đánh rớt cái rìu dọc đường thì anh tìm thấy sao được?
Thi nghe Yến nói có lý không tìm nữa. Hai đứa rón rén lại sát khung kính mờ nhìn qua lỗ khóa vào phòng trong. Thi thấy một người đầu sói. Không nghe Bình và Đĩnh tả lại hôm qua, không có râu quai nón hay mắt ti hí. Trái lại mắt lão trợn và xếch ốc nhồi thật dữ dằn. Lão mặc áo blouse trắng giống các nhà bác học, đầu dội một cái nón săn có gắn ngọn đèn đỏ. Thi nhìn lão chăm chú quá, có lẽ ánh mắt Thi làm lão linh cảm điều gì nên miệng lẩm bẩm:
- Ta thấy có gì là lạ. Kỳ quặc.
Câu tiếp theo làm Thi vỡ lẽ ngay.
- Dơi của ta nôn nao lồng lộn thế này là phải có người lạ. Dơi thính mũi như chó vậy.
Có tiếng dơi kêu chít chít, rúc lên từng hồi liên tiếp rộn rã trong phòng. Thi lạ lùng là lão này sao sống chung với dơi khổng lồ được không bị hút máu cắn cổ thì lão tiến ra cửa kính xoay chìa khóa một vòng toan mở cửa.
Hai đứa trẻ vội vã chạy vào trong xó tối núp sau mấy cái máy đào đất. Lão mắt ốc nhồi dòm ngó quanh quất rồi đóng sầm cửa lại:
- Không có ai tới phòng mình cả. Lạ thật.
Hú hồn! Thi và Yến lại chui ra. Lúc ấy lão mắt ốc nhồi tắt đèn vàng trong phòng lão và vặn nút bấm đèn đỏ trên nón săn lên. Một hơi khói quen thuộc xông lên. Thi nhớ đã gặp ở đâu rồi. Mùi khá thơm dễ chịu. Yến hít hà vài cái bảo anh:
- Năm ngoái hình như em đã hít hơi khói thơm này rồi thì phải.
Thi nhớ ra:
- Ờ, em nói phải. Chính phủ bắt bọn buôn lậu á phiện đốt bỏ công khai ở tỉnh mình đó. Đúng là khói á phiện.
Hai anh em gật gù đắc ý. Lỗ khóa hẹp quá không nhìn thấy con dơi được. Yến đề nghị:
- Lão chưa khóa cửa mình mở hé chút xíu nhìn vào đi anh Thi. Lão lo cho dơi không để ý biết đâu.
Thi rón rén xoay tay nắm cửa thật nhẹ. Khe hẹp vừa ló ra thì hai cái đầu cùng thò vào một lượt. Lão mắt ốc nhồi chẳng biết gì đúng như Yến nói. Lũ dơi cũng hết cả đánh hơi thính mũi như lão khoe. Chúng đang say sưa với khói á phiện cả rồi.
Lão áo trắng vừa hút vừa phà vào cho những con dơi khổng lồ. Thi đếm được tất cả bốn con, hai cánh xòe rộng như cái chăn lớn. Tám mắt đỏ quạch, lúc sáng rực, lúc đờ đẩn. Lão tự tiêm lấy và dơi dàn mõm dài ra sát chuồng sắt hít từng hơi khói trắng dài. Chúng có vẻ khoan khoái lắm.
Thi chú ý thấy chuồng sắt nhốt dơi thật kiên cố. Mở thanh sắt ngang lớn bằng bắp tay. Xem thế đủ biết dơi mạnh mẽ biết chừng nào. Một ổ khóa khổng lồ dính liền hai móc sắt to lớn của cánh cửa chuồng. Bốn con dơi nhốt chung một chuồng. Hai con trong đám đụng cánh vào nhau kêu chí chóe thật rùng rợn.
Lão áo trắng quay lưng về phía hai anh em Thi. Nếu lão đứng yên ở vị thế này tất chẳng tài nào khám phá ra Yến và Thi được. Bốn cặp mắt đỏ ngầu dữ tợn là thế mà gặp ánh đèn đỏ đặc sệt như máu từ chiếc mũ săn chiếu ra phải dịu lại. Lão mắt ốc nhồi cất tiếng nói nho nhỏ và cao như chim:
- Thần điểu của ta đêm nay phải cắn cổ bốn người dân ở xóm đồn điền cho ta. Nếu người lớn không được thì trẻ con. Nghe chưa?
Bốn con dơi nhảy dựng lên một lúc. Đầu dơi như đầu chuột gật gù thật tức cười. hai con dơi đứng giữa quay đầu vào nhau kêu chít chít tựa người ta kháo chuyện làm Yến sợ nhất. Nó nhắm mắt lại, rút đầu ra khỏi khe cửa cho khỏi khiếp, lát sau lại tò mò thò vào trong phòng xem tiếp hoạt cảnh:
Con dơi đứng bên trái ngoài cùng đứng bằng hai chân sau rúc lên một tràng dài. Lão áo trắng lắng nghe bảo:
- Mày đòi hút nữa phải không? Được rồi, mày làm xong nhiệm vụ đêm nay về tha hồ hút với tao.
Con dơi nhảy dựng lên, hai chân trước quào quào như người bất mãn múa may phản đối. Lão nói tiếp:
- Tao nói một là một, hai là hai. Mày không nghe tao thì tao bắn chết. Mày phải đi để trả thù cho bạn mày thiệt mạng đêm qua nghe không?
Dơi tiu nghỉu cúi đầu ủ rũ. Thi thất kinh bảo em:
- Yến ơi con dơi hiểu tiếng người. Em thấy không? Lão áo trắng nói gì bốn con dơi đều biết hết và tiếng dơi lúc nào cũng hiểu. Đúng lão này và bốn con dơi quỷ này là ma cà rồng đấy.
Bốn cặp mắt dơi chiếu ra luồng ánh sáng đỏ rực khủng khiếp. Thi rút kinh nghiệm cay đắng đêm qua biết sự lợi hại của những cặp mắt ma quái ấy bảo Yến:
- Em nhắm mắt lại đi Yến. Anh cũng nhắm mắt nữa. Lũ dơi nhìn thẳng vào mắt mình dễ bị mê hoặc như anh và ba đêm qua đó.
Hai đứa trẻ rút đầu ra khỏi phòng mắt nhắm nghiền lại. Chúng không trông thấy gì nữa chỉ nghe loáng thoáng bên tai giọng sắc nhọn lanh lảnh của lão mắt ốc nhồi:
- Ha, ha lũ chúng bay định thôi miên tao phải không? Vô ích các con ạ. Chúng mày có nhắm mắt lại không?
Lão bật nút gì đến tạch một cái. Có tiếng kêu lít chít đau đớn vang dội cả căn phờng. Đến mười lăm phút trôi qua tiếng kêu dịu bớt; có tiếng một con dơi nào đó rúc lên một hồi dài, lúc trầm lúc bỗng nghe kỳ dị lạ lùng. Tiếng rúc không lớn lắm nhưng tự nhiên Thi và Yến thấy lùng bùng hai lỗ tai. Lão áo trắng nói giọng sang sảng:
- Chúng mày chịu thua phải không? Thế thì được. Tao tha thứ cho một lần. Tao cho chúng mày hút thì chúng mày phải nghe lời tao, tính bội phản là tao bắn chết nghe các con.
Lão ngừng lại một chút tiếp:
- Chúng mày có bổn phận canh giữ không cho ai đột nhập vào trong đây về đêm. Chúng mày còn được phép đi kiếm ăn tự do cho dân chúng khiếp đảm không dám tới gần đây cho chúng tao dễ dàng làm việc. Bù lại chúng mày được hút chung với tao. Trao đổi công bằng đến thế còn gì?
Lão bảo dơi một cách oai vệ như chủ nhân quát chó giữ nhà;
- Chúng mày ngủ đi. Ngủ. Đêm tao gọi sẽ thức dậy.
Yến và Thi thò đầu vào phòng thấy dơi nằm im lìm trong chuồng. Lão áo trắng tắt ngọn đèn đỏ trên nón săn lúc ấy đang cháy sáng rực gấp chục lần Thi và và Yến trông thấy lúc đầu. Ngọn đèn có ánh đỏ rực, long lanh tựa như một mặt trời thứ hai. Dơi sợ đèn đỏ ấy là phải. Lão quay lưng đi ra. Thi và Yến vội khép cửa phòng và… tiếp tục dòm qua lỗ khóa. Mở tủ lấy chay rượu và cái cốc pha lê sang trọng rót một ly nhấm nháp. Lão tự khen thưởng.
- Ta tài quá. Ta giỏi quá. Trên đời này ai nấy sợ ma cà rồng thế mà ta sai khiến được. Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!
Lão rót liên tục cho đến khi chai rượu gần cạn. Tửu lượng lão mạnh thật, có lẽ lão xứng đáng làm bạn với Lưu Linh ngày xưa.
Lão vừa ghé ngồi xuống giường sắt sơn trắng vừa lẩm bẩm khoái trá:
- Whisky uống đã thật.
Chưa đầy năm phút lão cố gắng nhỏm dậy nhưng lại nằm bẹp xuống giường. Lão kêu lên
- Sao ta đau bụng quá xá thế này. Ruột ta đứt rời ra từng đoạn. Thằng Tư đâu rồi? Anh Hai! Anh Hai.
Bốn bề vắng lặng, không một tiếng đáp, lão kêu tuyệt vọng:
- Du ơi, Du. Vực tao đi bác sỹ. Tao sắp chết rồi.
Phòng lão đèn vàng khá sáng nên hai đứa trẻ nhìn thấy sự đổi sắc trên mặt lão tử màu đỏ ứng của kẻ say rượu qua màu tím bầm. Đúng là lão trúng độc nặng lắm. Hai đứa nhìn nhau có nên vào tìm cách cứu lão không? Thi và Yến không sợ lão. Nhưng những con dơi im ỉm kia là hiện thân của ác quỷ, đe dọa và đưa chúng vào cõi chết ghê gớm bất cứ lúc nào. Chúng ngán bốn con dơi lắm.
Còn đang dùng dằng thì lão ôm bụng phun ra một đống máu tươi, miệng thì thào tiếng gió. Yến thính tai hơn anh nghe rõ từng lời một trong căn phòng im lặng như tờ:
- Ta bị thằng Hai, thằng Tư phản rồi. Chúng lừa ta, đêm qua có máy dò tìm vàng ngọc chúng đào lên mang đi mất rồi. Chúng nó bỏ thuốc độc vào chai rượu whisky của ta để bớt một phần chia châu báu… Ta chết mất… Ta chết mất… Trời ơi! Thằng… Du! Cũng đi theo… tụi phản phúc…
Lão mệt quá không nói được nữa. Hau đứa trẻ ùa vào. Lũ dơi đang ngủ nghe động và ngửi thấy mùi da thịt người tỉnh dậy kêu lí nhí ầm ĩ. Một con xấu tính đập chân ầm ầm vào cánh cửa chuồng như muốn phá cửa xông ra. Hai đứa trẻ sợ quá muốn bỏ chạy ra ngoài phòng nhưng cứu người là trọng. Thi làm gan cố trấn tĩnh, một tay nắm chặt lấy tay Yến sợ em bị lũ dơi thôi miên làm mồi ngon lũ cho lũ quỷ sống hiện hình, tay kia nâng đầu lão mắt ốc nhồi lên hỏi lão:
- Chúng tôi cứu ông đây. Chúng tôi mang ông đi bác sỹ. Ông nói mau tụi đồng bọn phản phúc của ông trốn đi đâu mất rồi?
- Bọn khốn… kiếp… đó… mang hòm vàng ngọc… vào khu rừng già… băng qua đó… trốn sang biên giới.
- Hả, tụi nó đi bằng cách nào?
- Có hai chiếc Land Rover cũ sơn… xanh lá cây… đậm.
Lão nghẻo đầu sang bên. Thi sờ mũi thấy hơi thở thoi thóp, nó nóng ruột như lửa đốt ráng lay lão dậy:
- Ông đợi chút xíu bọn tôi lên khỏi hầm kêu bác sỹ. Ông chỉ lối ra ngắn nhất đi mau lên.
- Hả? Lối ra.. ngắn nhất…
Mắt lão thất thần đờ đẩn chốc lát rồi bừng sáng:
- Chắc không cứu kịp ta đâu. Ta làm phúc… bảo cho… tụi bay lần chót trong đời…lối… ra… ở… phía… sau… chuồng… dơi.
Lão thở hắt ra một tiếng Thi nghe ngực lão thấy tim lão ngừng đập biết lão chết hẳn. Yến sợ dơi quá bảo Thi:
- Mình tìm lối khác ra anh Thi. Lỡ lão này chỉ bậy hại mình cho dơi hút máu thì chết cả lũ. Em nghi lão này lắm.
Thi cười tin tưởng:
- Lão sắp chết lại bị đồng bọn phản bội uất ức lắm. Mình hỏi tin tức tụi kia chạy trốn lão nói ngay. Mình phải ra khỏi đây mới bắt được mấy đứa phản phúc đó chứ. Chắc lão phải nghĩ thế, anh tin rằng lão chỉ thật.
- Em vẫn sờ sợ thế nào ấy.
- Theo anh đi, anh trước em sau hết sợ ngay. Đừng nhìn vào mắt dơi là không nguy hiểm gì cả.
Yến run cầm cập núp sau lưng Thi. May cho hai đứa trẻ là trong phòng lão áo trắng ánh đèn vàng chói chang, mắt dơi có lẽ không chịu được cường độ ánh sáng lớn, nhìn mỏi mắt phải nhíp lại còn ti hí. Thì ra chúng chỉ có cặp mắt đỏ lợi hại thôi miên chết người trong bóng tối và dưới ánh đèn mờ. Hai anh em đi sát chuồng dơi ngửi thấy mùi lông và mùi máu đông đặc khô cứng trên sàn tanh hôi nồng nặc. Một con dơi lần ra phía chuồng bên cạnh lối đi ra của Thi và Yến lấy một chân bước quào quào. Yến muốn ngất đi tại chỗ. Thi bĩnh tĩnh hơn. Tuy nó cũng toát mồ hôi lấm tấm từng hạt lớn như hạt đậu trên trán, lấy tay gạt chân dơi qua một bên dắt em dông nhanh khỏi vùng nguy hiểm. Đường hầm quay ra cũng tối tăm gập ghềnh và dài chẳng kém lượt vào. Thi ân hận:
- Biết thế mình lấy theo ngọn đèn ăn của lão mắt ốc nhồi.
Yến bật cười về tiếng gọi của anh. Lão mắt ốc nhồi. Gã mắt lươn ti hí. Tên râu xồm xoàm. Những cái tên thật gợi hình và thật đúng.

Chương 6. Đoạn kết (hết)
Ông bà Thành được mời dự tiệc ở phòng cảnh sát. Đây là một bữa tiệc khá long trọng. Tiệc khao quân sau chiến thắng chống bọn gian tà nham hiểm sai khiến dơi giết người để cho chúng tự do hoạt động tìm vàng. Chúng không cướp bóc tài sản của ai nhưng chúng lấy đi quyền thiêng liêng nhất của con người, quyền sống.
Bốn đứa trẻ hôm nay là thực khách danh dự. Mở đầu tiệc ông Cảnh sát trưởng ứng khẩu đọc một bài diễn văn nho nhỏ:
- Thưa quý vị,
“Tôi hân hạnh được tổ chức buổi tiệc mừng hôm nay với hai mục đích: thứ nhất là mừng cho đồng bào từ nay làm ăn yên ổn, có thêm đất đai canh tác dành cho người nghèo khổ ở xung quanh tòa lâu đài bỏ hoang dưới thung lũng phì nhiêu kia, thứ nhì là đề cao sự mạo hiểm và can đảm của bốn anh em nhỏ là em Thi, Yến, Bình và Đĩnh.
Tôi xin nói trước là bốn anh em phá phách nghịch ngợm ở đâu tôi không biết. Nơi đây tôi xin giới thiệu với quý vị bốn anh hùng tí hon của tỉnh. Mời các em lên. Xin quý vị cho một tràng pháo tay…”
Tiếng hoan hô nổi lên rầm rầm. Bốn đứa trẻ bước lên đứng bên cạnh ông Cảnh sát trưởng. Ông xoa đầu bắt tay ân cần giới thiệu, thật tỉ mỉ từng đứa trẻ một về thói quen, tính tốt cũng như tính xấu, sở thích, học lực, thể thao… Và nhất là đầu óc ưa mạo hiểm và tinh thần hợp tác với nhân viên công quyền đem lại an ninh chung cho đồng bào.
Sở cảnh sát thưởng cho mỗi đứa một cái đồng hồ vàng. Chúng đeo ở tay ngắm nghía hãnh diện lắm. Yến và Đĩnh hai má đỏ bừng xấu hổ. Ông Cảnh sát trưởng nói tiếp:
- “Tôi xin cám ơn toàn thể quý vị hiện diện và quý vị giúp đỡ chúng tôi trong việc bắt bọn gian phi ấy. Chúng tôi biết nhiều quý vị căm thù chúng lắm, chỉ muốn xé xác mỗi đứa ra từng mảnh. Các vị có thân nhân bị ma cà rồng cắn cổ hút máu xưa nay. Xin quý vị chớ trút tất cả nỗi bực dọc vào đầu kẻ gian phi, tội nghiệp chúng. Vâng tôi không nói ngoa hay bênh vực tội nhân đâu. Bốn con dơi khổng lồ ấy thêm một con bị bắn trúng thương gục chết ở bìa rừng nữa là năm, hoành hành ở đây lâu lắm rồi. Tôi đoán chừng lúc đầu có lẽ là một cặp dơi khổng lồ này được sinh ra do hiện tượng ngẫu biến hết sức tình cờ của những nhiễm thể một cặp dơi nhỏ bình thường quen thuộc với chúng ta ở đây. Đặc tính di truyền phối hợp sẽ giúp cặp dơi ấy sinh sản ra thế hệ con cháu càng ngày càng lớn. Rất may cho ta là giống dơi này đẻ ra con và rất chậm chạp khoảng 5 năm chúng sinh nở một lần và thời gian sống một đời của chúng là 20 năm. Vị Thượng thư và gia đình ông ta chết đều bị dơi hút máu và cắn cổ cả. Chúng tôi tìm lại được tập di chúc bằng chữ Nho của ông tả và biết rõ mọi việc.
Quý vị có thể tự hỏi tại sao một vị quan Thượng thư lại chui vào một nơi rừng thiêng nước độc làm gì? Xin thưa, ông tìm được một khu vườn và ngôi nhà ông ta hiện nay ở, một ngôi đất đế vương theo khoa địa lý ngày xưa. Thung lũng đó là miệng rồng, 60 năm mới hả một lần. Ông phải cất nhà cùng gia đình ở luôn đấy chờ đợi vì ông tính được chính xác ngày giờ nào miệng rồng mở ra. Đường hầm quanh nhà của ông ta với hàng ngàn gia nhân gia công đào xới xây cất trong 10 năm trời mới xong. Ông chỉ chừa một đoạn 50 thước trước cổng chính lâu đài không đào hầm cho tiện qua lại. Bọn gian phi chỉ đào 50 thước đường hầm và sửa sang lại cho kín đáo. Thế thôi! Thời gian bọn chúng làm mất xấp xỉ một năm. Vâng, quý vị có đặt câu hỏi vị quan xây đường hầm làm gì? Ông ta cũng giống như bọn gian, không thích cho ai vào trong nhà mình vì chỉ khi nào đứng ở vị trí đất nhà chính của ông, người ta mới nhận ra rằng mình đang ở trong phần miệng rồng – Quý vị nhớ là tội tìm đất đế vương táng mộ ngày xưa là có ý phản nghịch, muốn lật đổ dòng vua hiện tại có thể bị tru di tam tộc - Tất nhiên vị Thượng thư ấy phải giấu diếm.
Giống dơi khổng lồ lợi hại có khả năng thôi miên con mồi rất mạnh, toàn thân con mồi không chạy trốn được nữa thì chúng lại cắn cổ hút máu. Chúng có khả năng đánh hơi rất thính, hơn chó nữa và nhờ thế bao giờ cũng tấn công những nạn nhân đi lẻ loi một mình. Vì vậy chúng luôn luôn thành công, chưa có một con dơi nào bị hạ bởi một người thứ hai có mặt ở đó. Bất cứ người nào gặp dơi đều chết thảm nên chẳng một ai nói lại cho người khác biết điều bí mật ghê gớm này. Vị quan rình rập nhiều ngày, sau cùng gặp dơi khổng lồ tử chiến. Ông bị rớt mất thanh kiếm cố gắng dùng sức mắt chống lại sức thôi miên của dơi. À, có lẽ tôi cần nói thêm lại loại dơi này rất khôn ngoan, chúng không bao giờ cắn cổ nạn nhân khi người này chưa bị sai khiến. Ông tập trung tinh thần ghi lại được những giòng cuối cùng. Gần sáng ông mệt mỏi quá và bị dơi hút máu chết luôn. Ông là người sau cùng sống trong tòa lâu đài ấy. Những tên lính hầu và gác lâu đài đã lén trốn về nhà từ lâu vì nạn “ma cà rồng” ghê gớm đó. Thành thật mà nói, chúng ta phải nhận là vị quan ấy có sức mạnh tinh thần ghê gớm.
Bọn gian phi tìm được bản đồ kho tàng gia truyền của vị Thượng thư trong một thư viện ở Huế. Chúng lén đánh cắp mấy lần thất bại phải can bằng giấy mỏng. Chữ Nho ghi chú của vị Thượng thư bí hiểm, ngoằn ngoèo khó đọc, chúng ghi lại sai nên đào cả năm trời khu vực rộng lớn ấy mà không tìm ra. Sau cùng chúng mua máy dò tìm vàng ngọc từ ngoại quốc về. Ngày đầu đến lâu đài một tên bị dơi hạ chết tức khắc. May cho chúng là trong bọn có tên Ba mắt ốc nhồi (Có tiếng cười khúc khích của Yến ở dưới) - rất giỏi nghề huấn luyện thú vật. Lúc trước gã đã làm huấn luyện cọp và sư tử ở một gánh xiếc. Gã khám phá ra mắt dơi chỉ có hiệu lực trong tối mà thôi và dùng mồi nhử dơi vào lưới bắt sống cả năm con dơi con. Gã nhốt dơi vào chuồng sắt và tập cho dơi hiểu tiếng người. Đang sức lớn nên khi được cung cấp đủ con mồi dơi lớn như thổi, có một năm mà lớn gấp đôi. Tai dơi chỉ nghe được những âm cao vút nên khi ra lệnh cho dơi gã phải hét lên những tiếng lanh lãnh chói tai. Dơi khôn ngoan hung tợn, gã sai khiến chúng bằng á phiện. Gã hút phà khói vào cho chúng ngửi theo. Lâu dần chúng nghiện và thành công cụ của gã. Gã tính huấn luyện cho dơi đi hạ sát kẻ thù nghịch: một tên buôn lậu ở bên kia biên giới, nhưng chưa thành công thì cả bọn đồng ý là cho dơi thực tập với dân chúng ở đây mục đích tăng thêm tiếng dữ của lâu đài để họ không dám bén mảng đến và chúng dễ dàng đào xới tìm vàng không ai phát giác. Hơn nữa khỏi tốn tiền mua mồi sống như heo bò cho năm con dơi khổng lồ.
Quý vị nên biết loài dơi này có thể bay đi rất xa hút máu và tha đi rất nhiều người. Chúng tha về ổ ăn dần sau khi đã no nê. Ở tỉnh ta có một người tiều phu, tôi tạm giấu tên, đã là nạn nhân của vụ dơi quắp mang đi. Đào được vàng, tên Ba bị đồng bọn là Tư và Hai phản bội và thuốc lão chết bằng rượu độc. Lão hối hận, chỉ chỗ trốn của đồng bọn cho hai anh em Thi và Yến lúc sắp chết. Nhờ đó chúng tôi chặn bắt được ngay. Số vàng ngọc được xung vào tài sản quốc gia vì giòng họ vị quan Thượng thư ấy không còn ai nối dõi, thừa kế. Bọn gian sẽ bị đem ra tòa xét xử một ngày gần đây.
Tôi xin hết lời và chúc quý vị một đêm vui”.
Tiếng vỗ tay át hẳn tiếng kèn trống bắt đầu trổi lên. Mọi người đều vui vẻ. Anh cảnh sát trẻ xuống bàn ngồi chung với bốn đứa trẻ. Tối nay anh cởi mở thân mật với bọn trẻ lắm. Anh mất hết vẻ gò bó nghiêm nghị hôm trước.
Nghe Yến kể chuyện Thi bị chuột cắn anh phá ra cười:
- Yến nói đúng. Thi có duyên với chuột thật đó còn chối gì nữa.
Yến được thể mè nheo:
- Anh Thi mai vào rừng sớm bắt con sóc cho em. Em cho nó ăn sữa bò. Anh hứa hôm đó rồi bữa nay cứ lờ lờ đi.
Đến cuối bữa tiệc anh cảnh sát thấy Yến vui quá mới hỏi nó:
- Anh nghe nói em Yến hay làm nũng mẹ lắm phải không? Thi có nói hôm trước ở phòng khách mà sơ lược quá, tôi muốn nghe rõ hơn. Em Yến kể lại chắc thực và sống động lắm phải không hả Đĩnh?
Đĩnh vui hẳn lên. Thi dàn cảnh gỡ gạc cho em gái:
- Yến từ hôm đó đến nay ngoan nhiều rồi phải không Bình?
Bình gật đầu. Anh cảnh sát trẻ nheo mắt:
- Chúa đảng ra lệnh hả? Ăn gian với tôi đó nhé. Tôi biết hết rồi. Ngày mai chắc lại có một cuộc vui chơi nữa phải không?
Thi cười ra hiệu bằng mắt cho em gái và hai bạn xác nhận lại buổi đi chơi ngày mai ở thung lũng “ma cà rồng”. Thung lũng ấy từ nay sẽ trở thành thiên đàng của bọn trẻ.



XUÂN QUANG
 

rs_lyly2009

Former Moderator
Thành viên BQT
Former Moderator
Đôi vòng huyết dụ
Tác giả: Xuân Quang
Tủ sách Hoa Đỏ
Sưu tầm & Đánh máy: Nguyễn Tuấn
26RO3HN1R2m73N1reGjjpuzy7vupQcdAv-hP4GzfV-RAgxsTV6iPksRUUpnjsKZUJc6iFCpv_FPji9dv67ndo0xB4gBl0qsFeAy5Iat5GIFm8r5_n8W4TPQAHjFVOB6j8lWaR16z7c8tR2d2wbG54xzHRC-E2QGtEocdAYWskNd4H-tVo-yal1JgtlRKtkx98t-QBaN_5P1VkNgOSJeGQm7qRmVeO6qQ19tldfPXs5Eho1wyvfLjUeI3BbkRmPOZCS1qqlMYFDETi7bIdm_bZIJURN9PxnY-RIggo__jebWyRCqz3VnZhawvHOcOqVQqmrcebbm_yaWWOYK5skzZqAl7ekokBBlOKQykuO_-kXda2jysjTHieikKS9ZDEt5DKZn5lSIkp-SBm4N1qBhoDyGHcmLO6gr4gW6XAmmHjxwBXzQkqXsbCzOWtnlfDTXj4DfNj1IQ2-gWvZLNEdI2KASlyx839kd8FMxyqKFmFTmWk_WuNrZjSvwKkWuQpibaebR0urtMghtSUKsu55X58FXo8wBcxgXPMAobmpF6TQrYtx1VbMYGMhqss7f4tQpFe8fy7_HthFL4uqftjj4lteu4VavzYZ49f5EnrTyzYdR2irBwWYJ9Eg=w500-h671-no


Chương 01. Buổi họp mặt
Quân hớn hở vào nhà trong xin phép mẹ :
- Thưa mẹ có Sang rủ con đi ăn. Con đi mẹ nhé.
- Ăn ở đâu hả con ?
Quân cười xòa :
- Có bữa tiệc họp mặt nho nhỏ ở nhà Sang đó mẹ. Chị của Sang mới ở ngoại quốc về chơi trong kỳ hè này...
- Mẹ hiểu rồi. Con đi nhớ về sớm nhé... Có phải để phần cơm cho con không ?
- Thôi mẹ ạ.
Quân chạy thật nhanh vào phòng thay quần áo. Nó diện thật kẻng từ đầu đến chân. Nào giầy mới đánh xi bóng như gương, chiếc áo sơ mi trắng cổ hồ bột thật cứng, quần tây màu xám tro. Sang có vẻ hơi nóng ruột, đi đi lại lại ngoài phòng khách. Quân vừa ló đầu ra, Sang đã trách :
- Mày sửa soạn lâu quá. Y như đàn bà.
Quân cãi :
- Mới mười phút mà mày kêu ca nỗi gì. Lỗi ở mày tự nhiên rủ tao đi.
- Thôi mình đi là vừa. Nào đi đi…
- Mày làm như đuổi tà không bằng.
Quân và Sang là bạn học cùng lớp đệ Tứ. Năm tới chúng lên đệ Tam. Hai đứa nói chuyện không mấy hợp nhau, chẳng hiểu sao lại trở thành bạn thân được. Bạn cùng học đã phê bình :
- Chúng nó như chó với mèo.
Sang phì cười :
- Ai bảo tụi mày là chó mèo không "sống chung hòa bình" được ?
Quân bồi thêm :
- Nên nhớ hai vật mang điện cùng dấu... đẩy nhau và hai vật mang điện khác dấu... hút nhau.
Lũ bạn phục tài hùng biện của hai đứa này quá. Nhưng chúng vẫn không chịu thua :
- Để xem tụi bây sống chung hòa bình được bao lâu.
- Hai đứa bay... hút nhau mãi thế nào cũng có ngày bươu đầu sứt trán. Thấy Quân trầm ngâm, Sang nhắc :
- Mày có nhớ thằng Minh không ?
- Minh nào ? Quân lơ đãng.
- Minh tóc dài đó.
- A ! Nhớ rồi. Nó làm sao ?
Sang buồn buồn :
- Nó mới bị giật mất cái đồng hồ vàng.
Quân ngạc nhiên quá :
- Giật hồi nào ?
- Mới sáng nay. Nó khóc sướt mướt như con gái. Tao an ủi mãi và để nó bớt buồn tao mời nó đến chung vui tối nay với tụi mình. Tao thấv mày không ưa nó nên phải dặn trước.
- Mày yên chí. Quá lắm là như tao... với mày là cùng.
Sang... không cười trước câu nói pha trò rất có duyên của Quân. Quân cũng biết tính bạn hay lo chuyện bao đồng nên cũng chẳng nói thêm gì nữa. Đường đi ngắn dần và hai bạn đến biệt thự Cao Sang lúc 6 giờ 25. Đây là nhà của Sang. Gia đình Sang còn đủ ba má và có ba người con : Anh Cao, chị Duyên và Sang là con út. Có lần Quân hỏi về tên biệt thự thì ba Sang bảo :
- Nữ sinh ngoại tộc cháu ạ. Vì thế bác lấy tên anh Cao và thằng Sang ghép lại đặt cho nhà này. Cháu nghĩ có phải không ?
Quân khôn khéo phản đối để ông già khó tính nệ cổ kia khỏi mích lòng :
- Bác dạy rất đúng nhưng... thời đại mới, kỷ cương mới...
Quân biết ông rất thích Nho học nên phải dùng chữ Hán cho ông hiểu và tôn trọng ý kiến của nó. Quả nhiên, ông già nhíu mày suy nghĩ, miệng lẩm bẩm :
- Thời đại mới, kỷ cương mới...
Lần ấy Quân không dám nói nhiều hơn sợ ông chạm tự ái. Nó ra về ngay, khi ra đến cổng còn hỏi Sang, giọng đầy ắp những thắc mắc :
- Ba mày xưa như thế làm sao chị Duyên du học được ?
- Chị ấy học giỏi lắm. Lúc xin học bổng giấu ba tao. Không cho ông biết. Khi được rồi thì ba tao la hét dữ lắm nhưng sau cũng để cho chị đi vì ông tiếc cơ hội bằng vàng cho con gái lập thân. Má tao nói vào giúp chị Duyên nữa. Sau cùng ba tao lên Lăng Ông xin xâm, theo quẻ dạy để chị đi học.
- Ly kỳ nhỉ ?
Câu chuyện ba tháng trước hiện ra rõ mồn một như mới xảy ra chiều hôm qua. Quân sung sướng hít một hơi hương hoa căng phồng hai buồng phổi. Ngôi biệt thự song lập này có một vườn hồng rất đẹp, rất thơm. Một thiếu nữ mảnh khảnh hiện ra. Mắt cô đen nhánh và sáng lấp lánh dưới ánh hoàng hôn. Nước da trắng như trứng gà bóc. Quân reo lên :
- Chị Duyên ! Còn nhớ em không ?
- Làm sao chị quên em được. Rõ em tôi khéo lẩn thẩn.
Duyên vuốt ve mái tóc... rối bù của Quân :
- Cậu công tử ăn diện đúng điệu lắm... nhưng sao tóc chưa chải...
Quân vội ngắt lời chị Duvên. Nó hơi thẹn :
- Chị đừng trách em. Tại Sang dục em quá xá...
- Chị không trách em đâu. Chị còn đang định cám ơn em nữa.
- Cám ơn em ?
Quân tròn mắt. Duyên gật đầu :
- Phải. Em có nhận thấy nhà này hôm nay có gì lạ không ?
Quân bỡ ngỡ :
- Bác làm tiệc đãi chị ?
- Không. Đó là vấn đề phụ, việc chính là… mà thôi em ra cổng nhìn kỹ lại sẽ thấy ngay.
Trời nhá nhem tối. Nhưng Quân tinh mắt có hạng. Nó nhìn ra ngay tên biệt thự. "Cao - Duyên - Sang".
Quân hét lên vui sướng :
- Nhất chị rồi đấy. Chị... Bây giờ bình đẳng với nam giới thực sự đó nghe. Sang láu táu :
- Ba tao có vẻ nghĩ ngợi từ hôm mày nói chuyện chị Duyên với ông. Và ông cho sửa lại tên nhà trước khi chị Duyên về. Tao sơ ý quên chưa cho mày hay.
Chị Duvên cảm động :
- Ba chị tiến bộ hẳn trông thấy em ạ. Ông nói : "Con nào chẳng là con". Chị mừng lắm.
Đèn điện thắp sáng choang cả nhà trong lẫn nhà ngoài. Khách đến càng lúc càng đông. Bạn của anh Cao, bạn của chị Duyên và bạn của Sang (Minh và Quân đấy). Mọi người vui vẻ cười nói. Tiệc tổ chức theo kiểu Mỹ, không có chỗ ngồi nhất định cho mỗi người, trái lại khách được tự do múc lấy đồ ăn, thức uống và tự do đi lại dạo chơi khắp vườn hoa hồng. Quân chợt nhớ đến Minh, hỏi nhỏ Sang :
- Nó đâu rồi ?
- Nó là ai ?
- Thằng Minh cứ còn ai nữa.
- Nó mới đứng đâu đây uống rượu ngọt với tao mà. Mình đi tìm nó nói chuyện chơi.
- Ừ thì đi tìm nó.
Sang nghe giọng Quân hơi miễn cưỡng thì lấy làm lạ :
- Tại sao ban nãy mày nhắc đến thằng Minh tao bảo đi tìm mày ngần ngại ?
- Gặp nó tao hơi ngượng. Lúc trước gây với nhau hoài.
- Theo tao là yên chuyện. Chín bỏ làm mười đi Quân ạ.
- Tao cũng định thế.
Sang kéo bừa Quân đi. Những ngọn đèn trắng được tắt bớt đi. Ánh sáng hơi mờ của những bóng đèn tròn bọc giấy bóng màu tạo cho khu vườn một vẻ huyền hoặc. Quân vừa kịp thấy dáng Minh thì ngay lúc ấy đèn tắt phụt. Có tiếng xôn xao của khách đến chơi. Vài cô gái mất bình tĩnh la hoảng lên. Trong số ấy có chị Duyên :
- Trời ơi ! Ai cứu tôi... Nó ăn cướp...
Quân dằng tay Sang ra, phóng mình về phía có tiếng chị. Hình như mấy anh lớn bạn chị Duyên và anh Cao cũng chạy rầm rập. Chỉ trong giây lát một quang cảnh hỗn độn vô cùng xảy ra. Tiếng chân chạy, người hét, tiếng quát tháo, kêu cứu… biến ngôi biệt thự xinh đẹp thành một địa ngục trần gian. Anh Cao la lớn :
- Đừng nhốn nháo. Ai ngồi yên chỗ nấy. Chút xíu điện sẽ có lại... Duyên chờ anh chút...
Phải cần đến anh hét ba bốn lần cảnh lộn xộn mới dịu dần. Quân đứng lại theo lệnh anh Cao. Lúc này nó mới hơi tỉnh táo để quan sát. Đèn ngoài đường lộ và ở các nhà chung quanh hàng xóm vẫn sáng. Chỉ riêng có biệt thự Cao-Duyên-Sang là tối như đêm ba mươi. Vậy là đường dây dẫn vào nhà bị đứt. Từ lề đường vào trong nhà xa quá nên ánh vàng vọt từ cột điện chiếu ra không đủ sáng tỏ khu vườn.
Quân đã lần mò đến được bên cạnh chị Duyên. Nó nhận ngay ra chị nhờ mùi thơm đắt tiền đặc biệt của nước hoa Chanel trên mái tóc huyền. Nó hỏi :
- Chị mất cái gì vậy hả ? Để em đi tìm cho.
Chị Duvên đang khóc thút thít. Anh Cao cũng vừa đến. Anh hỏi, dục dã :
- Nói đi Duyên.
- Em mới bị cướp mất chiếc vòng cẩm thạch anh ạ.
- Thật thế sao ?
Anh Cao thảng thốt kêu lên. Tiếng kêu não nuột đến mức Quân nghĩ rằng nó không thể nào có đủ can đảm nhìn mặt anh nếu đèn bật sáng. Một khuôn mặt tái xanh thất vọng... đến hết muốn sống ở đời. Quân lay mạnh vai chị Duyên :
- Chiếc vòng màu đỏ chị đeo ở tay hồi chiều đó phải không ?
- Em... em đừng hỏi...
Đó là một câu xác định gián tiếp nhưng rất hùng hồn. Quân đứng ngơ ngác thì Sang chạy đến :
- Mày đấy phải không Quân ?
- Ừ, tao đây. Chị Duyên mất chiếc vòng cẩm thạch rồi.
- Màv nói sao ?
Giọng Sang cũng ngạc nhiên không kém anh Cao. Thay vì lập lại câu chuyện một lần nữa, Quân hỏi gặng :
- Chiếc vòng mắc tiền lắm hả Sang ?
- Không, nó quý lắm... Mà thôi, mày cho là mắc tiền... cũng đúng...
Quân cười chọc tức bạn để Sang khai ra những điều nó cần biết :
- Màv giỏi lắm. Làm trai cứ nước hai mà nói. Màv không thích thì thôi, tao tìm thằng Minh.
Minh đứng ngay đấy từ hồi nào. Nó nói :
- Màv đừng giấu anh em nữa Sang. Tao biết cả rồi. Lúc đèn tắt, chị Duyên la cướp rồi một bóng đen chạy thật nhanh qua chỗ tao đứng. Tao chứa kịp phản ứng vì quá bất ngờ thì hắn leo rào ra đường. Lúc nhìn ra lộ thì chỉ còn nghe tiếng máy xe Honda từ xa vẳng lại.
Thế là hết. Sang gục đầu xuống thấp. Quân biết thế là vì hai tay nó đang giữ lấy hai vai Sang bỗng thấy nằng nặng. Nó an ủi :
- Mày đừng buồn. Chiếc vòng ấy đắt lắm hả ?
- … Đắt thì đắt thật nhưng quan trọng là vì chiếc vòng ấy là vật gia bảo của dòng họ nhà tao. Ba tao mới đưa cho chị Duyên đeo hồi chiều.
Minh xen vào :
- Vòng cẩm thạch có một đôi phải không ?
Sang ngửng phắt đầu lên :
- Ừ, nhưng tại sao mày biết ?
Chị Duyên và anh Cao cũng đang chăm chú theo dõi câu chuyện của ba đứa trẻ con. Minh từ tốn :
- Tao đoán thế là vì bóng đen ban nảy vừa chạy vừa nói lẩm nhẩm : Tiếc quá ! Tiếc quá ! Lúc đầu tao ngờ là nó giựt hụt vòng nay biết rõ là chị Duyên mất thật rồi nên lập tức tao đoán vòng có đôi. Hắn tiếc vì lấy được có một cái.
Ánh đèn mờ ảo nóng nực của đèn dầu hôi được thắp lên soi sáng bàn tiệc từ lúc nãy. Anh Cao chẳng biết làm thế nào vớ được một cái đèn pin rất mạnh đang cầm trong tay, anh bật lên soi khắp các chốn chung quanh chỗ chị Duyên bị giựt vòng ngọc một lần nữa rồi thở dài :
- Minh nói đúng. Mất thật rồi, em Duyên ạ.
Bỗng anh như nhớ ra điều gì vội chạy vào trong nhà. Giây lát sau một ánh sáng trắng dịu mắt của đèn măng-sông tỏa ra khắp vườn. Anh Cao xin lỗi :
- Tôi rất tiếc vì việc tắt điện ngoài ý muốn tối hôm nay...
Anh đang lúng túng sắp đi trong óc lời tiễn khách ra về thì Quân nói hớt :
- Em mong các anh chị ra về vui vẻ và đêm nay ngủ rất ngon.
Có tiếng vỗ tay rào rào tán thưởng thằng bé. Không khí ảm đạm, không chút hào hứng vẫn chưa xua đuổi đi được. Buổi tiệc họp mặt hóa ra phải ngưng nửa chừng. Quân nhìn đồng hồ 8 giờ 30. Chị Duvên nói thật khẽ với Minh và Quân :
- Hai đứa em về đi. Chị cám ơn lắm… nhưng trong nhà đang có chuyện buồn… đây là việc riêng của gia đình chị... hai em thông cảm.
Minh hăng hái :
- Em ghé qua bót Cảnh sát báo cho họ hay chị nhé.
- Đừng em. Ba chị và anh Cao đã điện thoại nhờ một văn phòng trinh thám tư quen biết lo dùm. Hai em cứ yên tâm.
Quân cúi đầu nói nhỏ :
- Em và Minh... thành thật chia buồn với chị và hai bác. Em mong sáng mai sẽ được Sang cho hay... chị mới tìm lại được vòng ngọc thạch.
Chị Duyên cốc nhẹ vào đầu Quân :
- Em phải cẩn thận chút nhé. Nói thế là em bảo chị làm rớt đâu đó rồi la hoảng phải không ?
- Em… không có ý nói thế. Em xin lỗi chị. Chào chị em về.
Hai đứa trẻ đứng ngoài đường đợi xe taxi. Nhà Quân gần, có thể đi bộ được nhưng nó muốn di cùng với Minh cho thân thiện. Bạn… mới làm quen lại mà. Bỗng Quân thấy Minh ngước nhìn lên cột đèn xế cổng nhà Sang, ngắm nghía, giây lát rồi mỉm cười. Minh bước lại, gần đầu dây điện đứt lòng thòng nằm trên mặt đất quan sát :
- Mày thấy có bao giờ nhà đèn dùng sợi dây nối để dẫn điện từ cột vào nhà không ?
Quân ngẫm nghĩ :
- Nếu có chắc hiếm lắm. Hôm nọ nhà sát cạnh nhà tao xin công tơ. Tao nghe ông thợ nói rõ rằng phải dùng dây nguyên vì nếu xài dây nối thì mối nối ấy dễ bị nóng đỏ lên có thể gây hỏa hoạn mỗi khi trong nhà dùng một cường độ lớn.
- Phải rồi. Mối nối điện trở lớn gấp bội đường dây thẳng. Mày nhìn xem có phải đầu sợi dây điện đứt cong cong không ?
Quân cãi :
- Nhưng nó đứt giữa sợi thực mà. Không tin mày nhìn lên trên cột còn thấy một đoạn ngắn dính lại.
Minh bí mật :
- Tao có nói ngược mày đâu. Nhưng tao cá mười ăn một là ở đầu dây đứt trên cột ấy cũng bị bẻ quẹo cong cong y như đầu nằm dưới đất. Thôi mình về.
Quân còn muốn nói thêm nữa nhưng một chiếc taxi vừa chạy trờ tới. Minh đưa tay ngoắc lại rồi mở cửa đẩy bạn vào trong trước miệng nói :
- Khuya rồi, về đi ngủ. Ngẩn ngơ gì ông tướng.
Chiếc xe chạy mau trong đêm. Đến trước cửa nhà Quân, Minh bảo tài xế ngừng lại rồi hẹn :
- Sáng mai 8 giờ mày đến nhà thằng Sang gặp tao nhé.
- Mầy lại nhà nó nữa sao ?
- Thì bạn bè thăm hỏi qua lại là thường. Mày nhớ nhé.
Quân vào nhà trong, đi ngủ. Lần đầu tiên nó trằn trọc mãi trên giường. Không phải Quân ngạc nhiên về sự "làm lành" mau lẹ của Minh. Đó là lẽ đương nhiên của tuổi trẻ, mau giận cũng mau quên. Chỉ lạ lùng về những đầu giây điện đứt cong cong kia.

Chương 2. Câu chuyện chiếc vòng huyết dụ
Quân ngần ngại mãi song lỡ hẹn với Minh cũng phải đến biệt thự Cao-Duyên- Sang lúc 8 giờ sáng. Thằng quỉ hẹn gì sớm quá, nhà thằng Sang giàu lắm khi giờ đó mới ngủ dậy và... đang ăn điểm tâm. Thật là bất tiện vô cùng.
Quân đến nơi thì Minh cũng vừa bấm chuông. Người làm công mở cửa. Hai bạn bước vào trong. Ông già, ba Sang vẻ mặt sầm sầm có vẻ không muốn tiếp khách. Cả chị Duyên và anh Cao cũng lơ là. Sang ngồi im thin thít một chỗ chẳng dám hé răng. Minh tự nhiên như không :
- Anh Quân hôm qua bỏ quên chiếc mù soa nên rủ cháu sáng nay đến tìm cho mau. Chúng cháu biết là bác đang bận...
Ông dịu nét mặt :
- Hai cháu ngồi chơi.
- Thưa bác ăn sáng chưa ? Nếu chưa xin bác cứ tự nhiên... Cháu sợ bác phiền...
Bất đắc dĩ ông phải mời :
- Hai cháu vào ăn sáng với bác. Đợi tí nữa người làm dọn xong mình đi qua phòng ăn.
Quân tức tối. Nó đâm ra thù Minh. Điều Quân tiên liệu trước đã không sai. Thằng Minh tóc dài nhà cũng giàu có tiếng thiếu gì bữa ăn điểm tâm mà tới đây giờ này. Minh dường như không biết tâm sự của bạn, nó sẽ thúc cùi chỏ vào hông Quân :
- Mày sướng nhé. Ghé tai gần đây tao nói nhỏ cho nghe. Tao muốn tạo dịp làm thân, thật thân với gia đình thằng Sang để điều tra vụ mất chiếc vòng cẩm thạch đêm qua.
Quân quên cả giận :
- Mày điều tra ? Mày có điên không ? Mày điều tra ra cái đồng hồ vàng mất chưa ?
Minh cười trừ :
- Mày đừng mỉa mai tao vô ích. Tả Ao ngày xưa còn phảí công nhận : Địa Lý không táng được mả nhà. Huống hồ tao chỉ là... thám tử tập sự. Quân cướp vặt giật bách một cái rồi chạy mất, tao chẳng phải cảnh sát điều tra sao ra được.
Quân hiểu ra, vừa buồn cười vừa tức tức :
- Mày bảo tao cướp vặt hả ?
Ngay lúc ấy một người bồi mặc quần áo trắng hiện ra lễ phép :
- Mời ông chủ và các cô cậu qua xơi điểm tâm.
- Được rồi anh sang trước đi.
Bữa ăn sáng kiểu cách và thịnh soạn đó đối với Quân không ngon chút nào. Món ăn mắc tiền, bổ dưỡng, làm rất khéo nhưng Quân bị gò bó, mất tự nhiên. Ở nhà thường mỗi ngày, Quân và các em nhồm nhoàm gói xôi hay khúc bánh mì thịt là xong. Vừa ăn vừa chạy đi chơi, có thể nói chuyện hay ngắm trời mây tùy thích. Minh trái lại, rất chững chạc, ung dung thưởng thức món ăn, khen :
- Trứng ốp la và jambon ngon quá. Bánh mì chắc không pha bột gạo hả bác ?
- Ừ. Bác dặn mua tận trên tiệm bánh Moderne ở đường Nguyễn Huệ đó.
- Bác thật sành ăn.
Ông già hứng chí :
- Bơ này cháu biết chưa ? Bơ Pháp, thứ đặc biệt người bạn bác mới đi về cho đó.
- Bác... tài thật.
Quân lấy làm lạ. Chẳng lẽ Minh chỉ "điều tra" bằng những lời đưa đẩy thông thường khách sáo ấy sao ? Mình như biết được ý nghĩ của bạn, nháy mắt ra dấu cho Quân nhẫn nại, tiếp tục :
- Bữa ăn bác cho tụi cháu sáng nay thật tuyệt.
Minh nói thế vì lúc ấy bữa điểm tâm gần tàn. Ông già mời mọc :
- Cháu và Quân dùng cà phê sữa nhé ? Cà phê cho dễ tiêu…
- Vâng, cám ơn bác.
Ngừng lại một chút Minh hỏi :
- Cháu thấy bác dường như có điều lo nghĩ, không để tâm thường thức cà phê. Cháu đoán là điều ấy có liên quan đến chiếc vòng ngọc thạch mất đêm qua...
Ông già gật đầu :
- Bác có nghe chị Duyên nhắc đến việc cháu đuổi theo tên cướp. Cháu thuật lại cho bác nghe đi.
- Vâng, cháu sẵn lòng.
Minh kể chuyện. Nó nói chẳng những bằng miệng mà còn bằng tay, chân, vẻ mặt, thân người. Chị Duyên đang buồn cũng bật cười khen :
- Em Minh diễn xuất khá lắm. Ráng học lớn lên thi vào trường Quốc Gia Kịch Nghệ.
Minh lắc đầu :
- Chị đừng nói thế. Em thề với chị là em nói thật, tất cả sự thật, không đóng kịch chút xíu nào đâu.
Quân xen vào :
- Chị đừng tin thằng Minh. Nó... xạo lắm.
Minh tảng lờ như không nghe thấy tiếp tục kể. Và nó kết luận :
- Cháu nghĩ không phải tự nhiên mà điện bị tắt. Và cũng chẳng tự nhiên mà dây điện từ cột vào nhà bị đứt. Có người phá hoại, bác ạ.
Ông già hơi ngạc nhiên bảo Minh :
- Cháu cứ nói tiếp.
- Hai đầu dây đứt cong cong chứng tỏ có người cắt đứt rời xa rồi nối lại. Cháu đoán họ nối sơ sài và có thể dùng sợi dây khác, không dẫn điện buộc vào ngay mối nối ấy, và thả dài xuống gần mặt đất. Khi nào họ muốn chỉ nắm đầu giây này giật mạnh một cái là dây điện đứt và điện trong nhà bị cúp ngay.
Ông già đổi ngay thái độ, rất vồn vã quý hóa Minh :
- Bác phục cháu là đứa trẻ có đầu óc. Cháu phân tích giống hệt nhà thám tử Phong tối hôm qua đến đây. Tuy nhiên có điểm khác là ông ta chưa dám đưa ra giả thuyết quá táo bạo là có người đứng ngoài đường giựt đứt dây điện...
Minh cười :
- Có lẽ từ giờ cháu nên dè dặt một chút.
- Khỏi cần cháu ạ. Cháu thấy có gì lạ cứ nói ngay cho bác hay anh Cao chị Duyên cũng được. Có cháu tiếp tay chắc bác tìm lại được chiếc vòng ngọc sớm.
- Cám ơn bác quá khen. Thưa bác cháu về.
- Cháu không tìm cho Quân khăn mù soa nữa à ?
Minh trêu chọc bạn :
- Chắc Quân nghe chuyện nãy giờ đủ... bù lại chiếc khăn mù soa bị mất rồi. Bác mặc kệ nó.
Hai bạn rút lui thật nhanh. Chị Duyên và anh Cao đi vào nhà trong từ lâu. Minh không quên nắm tay Sang :
- Mày đưa tụi tao ra cổng chứ.
Ông già gật đầu cho phép. Minh thừa thắng xông lên :
- Bác cho phép Sang đi chơi với tụi cháu ra phố mua sách một lát nghe bác.
- Các cháu về sớm đấy nhé.
- Vâng, bác yên chí.
Chỉ thoáng một phút, Sang thay quần áo xong xuôi. Nó chào cha và tung tăng theo hai bạn ra đường. Quân tâm lý :
- Mày ở nhà lúc này thấy không khí ngột ngạt lắm phải không ?
Sang thú nhận :
- Mày nói phải. Tao buồn quá.
- Mày nói cho tụi tao nghe chuyện cái vòng đi. Tao với thằng Minh hứa sẽ kín miệng như bưng. Chúng tao chỉ muốn giúp đỡ gia đình mày thôi.
Minh phê bình :
- Thằng Quân lâu lâu nói một câu tao nghe được.
Quân nhìn Sang chờ đợi, Sang bắt đầu :
- Cha tao muốn giữ bí mật chuyện riêng của gia đình không cho người ngoài biết. Nhưng đến tối qua thì không được nữa. Tao nghĩ có kể lại cho tụi mày biết cũng chẳng sao. Vòng cẩm thạch ấy có một cặp. Theo lời ông nội tao kể lại thì lâu lắm rồi, có một người Tàu họ Chu đói lả gần chết nằm gục ở trước cửa nhà. Ông bà tao hồi đó giàu có lớn, tính ham làm phúc nên mang anh ta vào cho ăn uổng tử tế. Sau đó vài hôm anh ta cũng chết.
- Tại sao ?
- Anh ta không chết vì đói mà vì bệnh sưng phổi. Sương đêm ngoài Bắc Việt quá lạnh. Trước khi chết anh ta trao lại đôi vòng ngọc cẩm thạch xanh nói là tặng cho ông bà nội tao đền ơn cứu tử.
- Mày nói lộn : Vòng đỏ chớ đâu phải xanh ?
- Không, vòng xanh. Mày phải biết vòng cẩm thạch xanh chôn theo người chết lâu ngày hóa đỏ dần dần...
Quân nhăn mặt :
- Tao cũng đã từng nghe nói qua rồi. Nhưng… ghê quá…
- Từ đó hễ trong họ có người chết là ông bà tao để nhờ vào quan tài cặp vòng ngọc, lúc bốc mộ sẽ lấy lên. Vòng đỏ từng tia một, rồi từng khúc và sau cùng là cả thân vòng.
- Sao hôm qua chị Duyên đeo có một chiếc ?
- Chiếc đó đỏ au tất cả vòng. Chiếc còn lại đang để dưới mồ của ông bác tao vì còn một khúc màu hồng lợt lợt.
- Vòng đỏ có ích gì ? Đắc giá hơn phải không ?
Sang gật đầu :
- Phần nào đúng như vậy. Theo thời giá cặp vòng ấy hiện giờ bạc triệu... Minh và Quân lè lưỡi. Sang tiếp :
- Vòng đỏ nghe nói kỵ gió, kỵ sương... ôi thôi nhiều thứ lắm. Mày về hỏi chị Duyên là rõ ngay.
- Mày kể chuyện người Tàu ấy nữa đi.
- Hết rồi. Ông ta trăn trối là nếu nhà tao có phúc đức thì sẽ nhờ chiếc vòng ngọc mà giàu thêm. Phú gia địch quốc. Chỉ có thế thôi.
Quân cười, dở giọng nửa nạc nửa mỡ :
- Mày thấy cặp vòng ngọc có đặc điểm gì không ? Nói đi, biết đâu tao với thằng Minh tình cờ thấy được nó... ở một nơi nào đó thì nhận ra ngay.
- Có hai chữ nho "Chu" và "Vương" khắc rất nhỏ đối diện nhau. Hai cái vòng giống nhau như đúc. Tiếc quá, chiếc vòng kia còn ở dưới… mồ nếu không tao lấy cho mày xem.
Minh cười :
- Chữ Hán khó thật nhưng nếu chỉ nhận biết có hai chữ thì cũng dễ. Lát nữa tao ghé hỏi ông thày Việt Văn. À, "Chu" và "Vương" viết theo lối chữ nào ? Triện hay Thảo ?
- Triện thì phải.
Minh lảng xa :
- Mày thích xi nê không hả Sang ? Tao bao luôn thằng Quân nữa.
- Thôi mình đi ăn kem rồi về. Tao không có hứng.
- Bây giờ không có hứng thì rồi sẽ có hứng. Không quan hệ.
Sang phản đối :
- Mày độc tài quá đâu được.
- Tao có lý do riêng. Bây giờ phải thi hành trước, khiếu nại sau.
Minh hai tay nắm lấy Sang và Quân đẩy vào một rạp xi nê bình dân gần đó. Nó hối hả lấy vé, mắt liếc chừng ra sau lưng. Chờ đợi lâu, Minh dục :
- Xé dùm tôi ba vé hạng nhất.
- Rất tiếc, phim này cấm trẻ con dưới 18 tuổi. Các cậu đưa thẻ căn cước tôi coi.
Minh đỏ mặt, nói gượng gạo :
- Xin lỗi, tôi sơ ý.
Sang và Quân nắm tay nhau cười khúc khích. Minh ra đến nơi, Quân bảo :
- Đáng đời mày Minh ạ. Cứ thích ra vẻ thông thái.
- Mày quê quá trời. Minh đành cười trừ. Nhưng chỉ nửa phút sau nó chỉ cho Sang và Quân về phía xa xa :
- Ở cuối đường hình như có đám cải cọ đánh lộn chi đó. Mình chạy mau ra xem.
Ba bạn phóng người nhanh như thỏ. Chạy mệt muốn đứt hơi tới nơi nhìn thấy trống trơn, Quân càu nhàu :
- Mày trông gà hóa quốc rồi Minh. Có gì đâu ?
Minh ung dung :
- Mày nhìn lại sau lưng xem.
Sang cũng ngoái cổ dòm lại. Một người đàn ông đứng tuổi đi rất hối hả cùng chiều với bọn trẻ. Minh giải thích :
- Hắn kín đáo lắm. Lúc đầu tao không phát giác ra được. Khi thấy rạp xi nê tao muốn thử lại bài toán nên rủ tụi bay vào xem chớp bóng, thất bại, tao bày ra trò "chạy đua" này. Và hắn mắc mưu, rượt theo. Tụi bay xem hắn đang đi chậm chậm lại đấy.
Sang và Quân nhìn Minh bằng cặp mắt thán phục. Quân gật gù :
- Tao công nhận thằng Minh có năng khiếu trinh thám đặc biệt và bén nhạy.
Sang hỏi :
- Làm sao mày biết có người theo dõi tụi mình trong khi chính mày vừa nói là không phát giác được ?
Minh đùa :
- Bí mật nghề nghiệp…
- Mày làm ơn nói rõ ra đi.
- … Thú thật là tự nhiên tao cảm thấy như thế.... có lẽ đó là giác quan thứ sáu…
Biết Minh không chịu nói. Sang im lặng. Gã đàn ông kia rẽ vào một đường hẻm nhỏ từ lâu. Minh bảo :
- Tụi mình đi dạo tiếp như thường...
Mặt Sang hơi tái. Nó nói :
- Tụi bay đưa tao về...
- Màv không về lấy được một mình sao ?
- Tao hơi sợ...
- Thế thì được rồi.
Ba đứa trẻ vừa cất bước được một quãng ba chục thước thì Minh liếc lại thấy người đàn ông lại lẽo đẽo theo sau. Quân lần này cũng biết thế đi sát nói thầm với Minh :
- Hay bọn cướp muốn bắt thằng Sang... Tao nghi chuyện này có liên quan đến chiếc vòng ngọc thạch.
- Đã hẳn rồi. Mày có muốn tóm cổ hắn không ?
- Tóm thế nào được. Hắn vô tội kia mà, ít nhất là cho tới giờ phút này.
Minh hạ thấp giọng :
- Thì tao cho hắn một tội nho nhỏ. Có hại chi đâu. Mày có học võ nhu đạo phải không ? -
Ừ mà mày hỏi chi vậy ?
- Đến cấp nào rồi ?
- Đai nâu…
- Tốt lắm. Mày đi trước tách rời tao và thằng Sang rẽ vào trong xó xỉnh nào đó mặc thêm chiếc áo mưa của tao ra ngoài cho khác đi. Đợi hắn đi đến mày gây chuyện thế nào đó kéo dài lời qua tiếng lại chừng năm phút kịp thời gian cho tao báo cảnh sát và thằng Sang lên xe taxi về nhà.
- Lỡ hắn trông rõ mặt tao thì sao ?
Minh quả quyết :
- Hắn chưa nhìn rõ mặt mày đâu. Có điều sau chuyện lôi thôi này… là hắn biết rõ mặt mày. Chỉ cần mày đề phòng từ đây về sau. Mày có học võ phòng thân rồi, sợ gì.
Nhanh như cắt, Quân lủi đi mất. Hai bạn Minh và Sang tiếp tục tản bộ. Được năm phút bỗng có tiếng ồn ào phía sau. Minh bảo Sang :
- Để mặc tao. Mày về một mình trước đi. Tao bảo đảm là sẽ không có gì xảy ra dọc đường đâu. Minh vẫy một chiếc taxi trờ qua và ấn bạn vào. Rồi nó phóng lại một viên cảnh sát gần nhất cách đó chừng 100 thước, nhờ can thiệp :
- Thưa thày, bạn tôi đang bị hành hung. Mong thày giúp cho.
Thày cảnh sát sốt sắng đi ngay. Vẹt đám đông người thì Minh thấy ngay Quân đang la lối :
- Ông đi vấp vào tôi làm rách áo mưa. Ông phải đền tôi đi chứ.
Người đàn ông quay sang viên cảnh sát phân bua :
- Thày coi thằng nhỏ ngồi nghênh ngang chân cẳng đưa ra ngáng lối đi. Tôi vấp phải suýt ngã. Chưa hỏi tội nó thì nó ào ào bắt đền.
Dĩ nhiên là cả hai được mời về bót. Minh gọi nhờ điện thoại công cộng về cho thám tử Phong. Rất dễ dàng nhờ cô điện thoại viên ở Tổng Đài sốt sắng tìm giùm Minh và chuyển đường giây nói cho thám tử Phong :
- Tôi là Minh, muốn nói chuyện với ông Phong, văn phòng trinh thám tư...
- Alô, tôi là Phong đây..
- Tôi là bạn của Sang, con út của thân chủ mới nhất của ông đêm qua, biệt thự Cao-Duyên-Sang đó… Ông nhớ ra rồi phải không ? Tôi có món quà tặng ông ở Sở Cảnh Sát... Có tên nọ theo dõi chúng tôi không rõ định làm gì, tôi đã lập kế nhờ cảnh sát tóm hắn... về tội cãi vả gây chuyện... với bạn tôi. Sang đã về nhà rồi. Mong ông đến ngay sở Cảnh Sát khéo léo điều tra hắn cho kín đáo. Chào ông.
Minh cúp máy.

Chương 3. Những tia sáng mong manh
Minh về thẳng nhà Quân chờ sẵn. Má Quân không biết chuyện gì, hỏi thì Minh chỉ cười bảo là bạn cùng lớp đến chơi thăm Quân. Bà vui vẻ :
- Quân nó nói với bác là lại nhà thằng Sang chơi. Nó đi từ sáng sớm. Cháu tên gì ?
- Thưa bác, cháu tên Minh.
- Ủa thế cháu Minh chưa gặp Quân sao ?
Minh bịa chuyện :
- Sáng nay cháu bị hư xe đến nhà Sang rất trễ. Lúc cháu đến thì Quân ra về rồi.
- Vậy thì cháu đợi nó một chút. Nó chắc cũng sắp về.
Bà nhớ ra khoe ngay cậu con :
- Thằng Quân ngoan lắm. Không bao giờ đi la cà ngoài đường mà không xin phép bác.
- Vâng, anh Quân thì số dách.
Minh thoái thác khôn khéo :
- Bác chắc đang bận dở tay làm bếp... xin bác cứ để cháu tự nhiên. Cháu ngồi đợi anh Quân chút xíu được rồi. Cháu sợ làm phiền bác.
Bà mẹ Quân đành xuống bếp làm tiếp công việc dở dang. Minh làm thế là vì nó sợ ngồi nói chuyện lâu với mẹ Quân, nó sẽ sơ hở dấu đầu lòi đuôi thì khổ. Dù sao nó cũng chỉ là một đứa trẻ con, nghĩa là chưa biết có đủ trí khôn để nói dối người lớn cho xuôi được hay không. Nửa giờ sau, thì Quân về đến nhà. Nó hớn hở :
- Đúng như mày nói. Tao được thám tử Phong lãnh ra ngay. Ông ta hình như bảo đằng Cảnh sát là ông nhờ tao làm công việc điều tra ấy. Tên theo dõi mất bình tĩnh, bị tao chọc tức mấy câu, nổi sùng đánh tao ngay ở sở Cảnh sát. Dĩ nhiên tao đề phòng trước, né được nhưng hắn bị nhốt một ngày và nộp phạt 500 đồng.
- Nghĩa là hắn còn ở trong đó đến ngày mai ?
- Phải.
- Mày định làm gì nữa đây ?
Quân ngạc nhiên :
- Sao mày hỏi tao ? Mày quyết định đi.
- Tao thử coi đầu óc mày minh mẫn đến độ nào.
Quân nghĩ ngợi một lúc rồi reo lên :
- Đúng rồi. Sao ban nảy tao quên khuấy. Mình đến nhà ông thầy Việt Văn năm ngoái để hỏi chữ "Chu" và "Vương". Như thường lệ, mẹ Quân vẫn dễ dãi cho con đi chơi với bạn. Quân nhìn đồng hồ : 11 giờ trưa.

***
Thám Tử Phong điện thoại đến nhà Minh. Ông gọi bất ngờ giữa lúc thằng bé đang ngủ trưa. Minh hơi tức mình, cầm ống nói mẹ chuyển cho, lơ là :
- Alô ! Alô ! Tôi đang được hân hạnh nói chuyện với ai đó ?
Có tiếng cười ha hả bên kia đường dây như chế nhạo giọng nói vừa ngái ngủ, vừa dằn dỗi của Minh. Rồi tiếng người đáp :
- Cậu Minh có biết mấy giờ rồi không ? Ba giờ hơn đấy. Ngủ trưa như thế là... đủ quá rồi.
Minh hét vào trong máy :
- Ông là ai ?
- Sao cậu bé thám tử của tôi bây giờ dở tệ thế ? Tôi là Phong, mới nói chuyện với cậu sáng nay đây mà.
Minh bẽn lẽn :
- Xin lỗi ông Phong... Sao tôi không nhận ra giọng nói của ông... Là lạ thế nào ấy… Sao ông biết số điện thoại nhà tôi mà gọi đến ?
- Có gì đâu. Tôi hỏi Sang biết số nhà cậu. Tra trong niên giám điện thoại là có ngay số điện thoại. Tôi vắn tắt chỉ nói một lời : mời cậu đến gặp tôi ngay.
- Để tôi đến rủ Quân luôn thể nhé ?
- Thôi, mình cậu đủ rồi. Chào cậu.
Và ông ta cúp máy y như Minh cúp lúc sáng. Cậu bé lầm bầm trong lúc thay quần áo :
- Rõ ràng là ông ta muốn ăn miếng trả miếng.
Minh lấy xe gắn máy lại nhà thám tử Phong. Ông đang ngồi chờ nó ở phòng tiếp khách. Trông ông còn trẻ, chỉ ngoài ba mươi. Đặc điểm có một hàng râu mép cắt tỉa rất công phu tạo cho ông một vẻ nghiêm nghị lạ lùng. Tuy thế ông hay mỉm cười và khuôn mặt ông luôn luôn như sáng lên không làm cho ông già trước tuổi. Ông mở lời trước:
- Hân hạnh được gặp cậu Minh...lần đầu tiên.
- Tôi cũng rất hân hạnh...
Thám tử Phong rất tự nhiên và... thông cảm tuổi trẻ :
- Chờ tôi chút nhé. Tôi lấy bánh ngọt và cà rem cho cậu Minh giải khát. Tôi cũng... hơi đói bụng rồi.
Khi cả hai ung dung nhâm nhi cà rem, Phong đề nghị :
- Tôi còn ít tuổi, vậy cậu Minh gọi tôi bằng anh cho thân mật nhé.
- Vâng, nếu anh cho phép.
- Anh bắt đầu nói lại câu chuyện hồi sáng cho em nghe. Tên đó là người Trung Hoa...
- Thảo nào ! Hắn nói tiếng Việt rất sõi nhưng giọng vẫn hơi ngọng nghịu.
- Nói đúng hơn hắn là người Việt gốc Hoa. Hắn họ Chu... Nghĩa là có một sự trùng hợp nào đó với chữ ... "Chu" khắc trên chiếc vòng...
Minh gật đầu nghe Phong nói tiếp :
- Hồ sơ cảnh sát của hắn rất minh bạch, không hề có dấu vết khả nghi. Chúng tôi chẳng có quyền hạn chi điều tra, thẩm vấn hắn trực tiếp về vụ chiếc vòng, đành thi hành pháp luật tạm giam hắn lại một ngày về tội hành hung. Hắn chối là không hề theo dõi ba em...
- Tức thật ! Nhưng mình cũng không nắm được chứng cớ rõ rệt... Minh công nhận.
- Vì thế anh nhốt hắn một ngày để xem phản ứng đồng bọn hắn bên ngoài còn đang tự do…
- Lỡ tụi đồng đảng không phản ứng ?
- Thì mình đành chịu. Tuy nhiên anh có thể theo dõi kín đáo hắn ta vì dù sao anh cũng đã rõ địa chỉ, gốc gác, lý lịch hẳn phần nào. Hắn tên là Chu Quốc, một người Tàu, thuộc hạng trung lưu, ngụ tại đường Khổng Tử, số 543 A.
- Còn nghề nghiệp ?
- Đại diện thương mại... tầm tầm nghĩa là quản lý một hãng chuyên chở đường biển nhỏ xíu, thuộc hạng… cắc ké. Tên hãng là Mạnh Tư.
- Chứ không phải Mạnh Tử ?
Cả hai cùng cười. Bỗng Phong nghiêm mặt :
- Dám là Mạnh Tử đấy. Anh quên không nhớ rõ lắm. Thôi em ăn cho hết cà rem đi, ngon lắm.
- Nhiều quá anh ạ. Em... ngấy cà rem quá rồi. Chào anh em về.
- Em về. Lúc nào muốn liên lạc với anh dùng điện thoại tiện hơn. Anh sợ... chính em cũng bị theo dõi nữa.
Minh về. Ba ngày sau, cuộc điều tra vẫn dậm chân tại chỗ. Tên Chu Quốc đã được thả tự do ra rồi. Hắn chẳng có điều gì mờ ám đáng ngờ vực nên Phong thấy nóng ruột như lửa đốt. Buổi chiều hôm ấy, Phong ngồi ăn phở ở một xe nhỏ đường Pasteur. Bỗng Quân đi qua, nhìn Phong ngờ ngợ. Phong vội hỏi :
- Em muốn nói với tôi điều gì ?
- Thưa ông có phải là Phong, thám tử.
- Phải. Em là ai ? Sao biết tôi ? Em ngồi xuống đây với tôi. A, tôi nhớ ra rồi... Tôi đã gặp em ở Sở Cảnh Sát mấy hôm trước.
Phong kêu thêm tô phở thứ nhì cho Quân. Khách hàng vắng, chỉ có hai anh em và ông chủ xe. Nhưng Phong cẩn thận :
- Em để lát nữa nhé.
Câu nói tối nghĩa ấy dĩ nhiên là Quân thừa thông minh để hiểu. Nó không khách sáo, so đũa lau chùi sạch sẽ và... ăn phở ngay cho nóng. Khi hai người ngồi trên xe Renault của Phong, chàng lẳng lặng quay kính xe lên, mở máy lạnh rồi bảo Quân :
- Em nói đi. Ở đây chỉ có trời mới đoán được chúng ta bàn chuyện gì. Tôi trách em nhát quá, đã gặp tôi một lần mà không dám nhận người quen ngay.
- Em là Quân, bạn của Sang và Minh.
- Anh biết.
- Em hôm nay tình cờ gặp ông...
- Gọi tôi bằng anh cho thân mật. Tôi đâu lớn hơn em bao nhiêu tuổi.
- Cảm ơn ông... anh.
- Em nói tiếp đi.
- Em có được thằng Sang kể lại câu chuyện chiếc vòng cẩm thạch. Nó nói nói hiện giờ còn một chiếc vòng thứ hai nữa... đang chôn dưới mồ ông bác.
- Anh biết là em muốn lấy chiếc vòng ấy lên…
- Em cũng tính như thế. Em đoán là bọn cướp đã lấy được một tất phải muốn có chiếc thứ hai cho đủ cặp. Mình sẽ dùng chiếc vòng còn lại làm mồi dụ bọn chúng. Phong vỗ tay :
- Một ý kiến hay. Vậy bây giờ mình đào lên...
- Không được anh ạ. Vì phải ba năm mới bốc mộ. Em hỏi kỹ thằng Sang rồi. Bác nó chết vừa đúng... 14 tháng. Làm sao bây giờ ? Đó là điều em muốn hỏi anh.
Phong nhíu mày suy nghĩ trong khi thằng Quân sung sướng tự nhủ : Mình có đầu óc trinh thám và mưu kế có thua gì thằng Minh. Tình cờ gặp anh Phong mà mình nghĩ ngay ra được đề nghị mới lạ và hấp dẫn đó. Phong nói :
- Có một cách thức cổ điển nhưng chắc ăn. Anh thấy ông già ba Sang có vẻ mê tín và xưa lắm. Nếu mình bảo thẳng ông ta bốc mộ để lấy chiếc vòng lên chắc hẳn ông ta không chịu. Đó là chưa kể đến vợ con của người quá cố nữa.
- Hay mình làm một chiếc vòng giả ?
Phong lắc đầu, giọng chàng đều đều như đang nói chuyện với chính mình :
- Cũng không ổn vì bọn cướp lẩn quất đâu đây sẽ nhận ra ngay là giả. Anh đoán chúng là dòng dõi người họ Chu bên Tàu, rất tinh mắt đối với ngọc thạch, nhất là tối hôm đó chúng đã đoạt được một chiếc vòng… thật và… hai chiếc vòng giống nhau như đúc.
Quân hỏi :
- Thế thì mình làm sao ?
- Em khoan hỏi - Phong hơi gắt gỏng
- A! Anh nghĩ mình có thể tìm một lý do gì để họ tự ý bốc mộ.
- Thí dụ như…
- Một thầy địa lý chẳng hạn, bảo gia chủ phải bốc mộ vì ngôi đất ấy sẽ triệt đường danh vọng phú quý của con cái về sau. Dù để mộ tạm thời chỉ trong ba năm cũng không ổn. Phải… bốc ngay lập tức.
- Anh kiếm đâu ra ông thầy địa lý…
- Anh sẽ nhờ một ông bạn vong niên khăn đóng áo dài đến thăm biệt thự Cao Sang lát nữa đây.
Hai anh em thích chí cả cười. Quân đính chính :
- Biệt thự Cao-Duyên-Sang chứ anh ?
- Ừ. Em cho anh biết thêm chi tiết về ngôi mộ ông bác của Sang đi.
- Sang nói sơ qua thôi. Tên ông là Nguyễn Thân, chết năm kia... được 14 tháng rồi... mộ ở nghĩa trang Gò vấp, khu sang nhất.
Phong bảo :
- Dĩ nhiên. Nhà giàu lắm mà.
- Đâu có anh. Nhà Sang giàu nhưng ông Thân chỉ trung bình. Ông già ba Sang phải chôn ông anh ở khu hạng nhất vì ông Thân đã giúp ông khá nhiều lúc mới vào đời.
- Ông ta phải làm đàng hoàng vì... còn chiếc vòng ngọc gởi nhờ trong quan tài ông Thân nữa. Lở có ai biết... lấy đi thì sao ?
Quân hơi rùng mình trước câu nói của Phong. Nó chép miệng :
- Anh nói nghe ghê quá. Khéo mình bị phỗng tay trên, mất cả chì lẫn chài.
- Hôm nay không phải ngày... thứ Sáu mười ba. Nếu phải chăng nữa thì anh cũng không bao giờ thất bại. Nếu tiền hung thì hậu phải kiết.
- Anh thật là một con người lạc quan.
Phong hơi kiêu ngạo :
- Những người có tài và tự tin ở tài mình thường lạc quan.

***
Bao giờ ở đời người ta cũng hay gặp những trục trặc bất ngờ. Đêm hôm ấy một bóng đen bí mật tiến gần lại xe hơi của Phong lúc gần 12 giờ khuya. Một cách rất dễ dàng hắn ta lấy chìa khóa mở cửa xe y như chủ nhân thiệt thọ và lúi húi gỡ một vật gì đó mang ra khỏi xe. Tất cả diễn ra trong vòng 5 phút. Rồi hắn khóa cửa xe lại và đi mất. Phong phải để xe hơi trên lề đường trước cửa văn phòng trinh thám tư của chàng. Trên lầu sau có một gian phòng ngủ nhỏ là nơi chàng nghỉ ngơi. Cô thư ký chỉ làm việc ban ngày và ra về sau giờ làm việc. Phong rất ghét súc vật nên chàng không nuôi chó để canh giữ nhà và văn phòng làm việc như một sổ đông đồng nghiệp khác. Phong đã trang bị cho trụ sở và xe hơi một hệ thống chuông báo động đặc biệt. Chàng có phần ỷ y quá đáng ở hệ thống ấy nên nay bị một vố thật nặng. Hậu quả thì sáng hôm sau chàng sẽ rõ. Chúng ta theo dõi người bí mật. Hắn chính là Chu Quốc. Một chiếc xe Traction cũ kỹ đưa hắn về một ngôi nhà lạ, nằm trên đường Lục Tỉnh. 12 giờ giới nghiêm. Đường vắng, xe hơi phóng thật nhanh và khi họ vừa về đến nhà thì còi hụ, báo hiệu giờ giới nghiêm. Vừa khéo. Họ vào nhà. Chỉ một cái nút ấn là máy thu băng nhỏ xíu đặc biệt phát ra tiếng nói của Phong và Quân. Tiếng người hơi rè nhưng vẫn nghe rõ. Chu Quốc nghe xong quay sang bảo người đàn ông ăn mặc theo kiểu Tàu, trạc ngoài 30 tuổi :
- Anh điện thoại cho bọn thằng Coóng làm việc ngay đi, khi hết giới nghiêm 5 giờ. Phải hoàn tất trước 6 giờ vì trời sáng. Đêm nay trời có mây, lát nữa mưa và trời u ám sẽ lâu sáng hơn mọi ngày. Tôi mừng là mình sẽ hoàn thành công việc. Nhờ Trời phù hộ cho dòng họ Chu.
- Anh Quốc nói đúng lắm. Chúng ta sẽ trở thành phú gia địch quốc. Có điều tôi muốn bàn là anh đừng nên đến nghĩa trang Gò Vấp sáng mai. Nếu anh đủ lòng tín nhiệm tôi, tôi sẽ thay anh cố gắng hết sức lo cho xong nhiệm vụ.
- Bao giờ tôi cũng tín nhiệm anh. Anh nói phải. Tôi có lẽ đang bị theo dõi. Thằng nhỏ chết bầm kia tự nhiên gây sự. Tôi tức muốn chết...
Người kia là Quách Tràng, anh em họ với Chu Quốc. Anh ta còn là một người bạn rất thân của Quốc từ ngày nhỏ xíu. Quốc đứng tuổi nhưng với Tràng quả là ý hợp tâm đầu. Đôi bạn vong niên này chẳng dấu nhau một chuyện gì dù nhỏ nhặt đến đâu.
5 giờ 5 phút một chiếc xe hàng đỗ lại trước cửa nghĩa trang Gò Vấp. Xe chưa ngừng hẳn một tiếng càu nhàu nho nhỏ :
- Muốn chết sao mà mày ngừng đây. Chạy mau đi rồi đến góc cuối đường nhả bớt ga chầm chậm cho thằng Cóong và các em nó xuống. Mày dừng xe lại bên kia đường ngang hông nghĩa địa chờ tụi nó. Dặn hoài cũng vậy thôi.
Năm sáu bóng người lố nhố lao xuống xe lẩn vào góc nghĩa trang như những bóng ma. Chúng khiêng theo một thùng dụng cụ nặng. Trời mùa hạ đáng lẽ phải sáng rồi nhưng vì đêm qua mưa và trời nhiều mây nên ánh sáng vẫn nhá nhem bao trùm bãi tha ma.
Không khó lắm, bọn gian tìm được ngôi mộ ông Nguyễn Thân. Mộ của ông được xây tử tế, có bia bằng đá xanh hẳn hoi. Tuy không kiên cố lắm vì sau ba năm còn bốc dỡ đi. Sáu người tất cả, làm việc cùng lúc. Cuốc và xẻng, xà beng bẩy được tảng đá ngôi mộ và đào sâu xuống huyệt. Huyệt nông chỉ độ 3 thước nên 10 phút sau cỗ áo quan lộ ra ngoài trời. Một tên trong bọn dường như mừng quá rú lên :
- Coóng ! Mày thấy chưa. Tụi tao số dách.
Coóng gắt :
- Chỉ hay khoe công không đúng lúc. Làm tiếp mau đi còn "chẩu" chứ. Cảnh Sát hốt hết bây giờ. 5 giờ 20 rồi. Nói gì thì nhớ khe khẽ dùm tao.
Tên kia cụt hứng hì hục làm. Chúng cho xà beng vào để bứng nắp áo quan lên. Một bộ xương trắng hếu hiện ra cùng với một chất nước lầy nhầy ghê tởm. Mớ tóc còn nguyên chưa tiêu. Một ít gân và da dính két vào xương ở các khuỷu khô đét lại. Một điều rất lạ vì nước vẫn lấp xấp trong áo quan.
Coóng hình như không để ý đến điều lạ đó. Thằng này thọc tay xuống dưới lớp nước mò móc hồi lâu rồi nói :
- Quái dị ! Tao không thấy chiếc vòng.
- Mày xem kỹ lại đi.
Coóng thọc sâu xuống dưới chân bộ xương. Nó mừng rỡ :
- Đây rồi. Lạ quá ! Vòng đeo ở tay thì lại ở dưới chân
- Mày không thấy bàn tay văng đi đâu mất à ? Gân mục rã ra, xương bàn tay trôi đi, cái vòng tuột khỏi cổ tay là phải có gì là lạ.
Coóng lấy một bình nước sạch mang theo đổ ra rửa sạch vòng ngắm nghía :
- Đúng là vòng nhà họ Chu. Có chữ "Chu" và "Vương" đây này. Vòng đỏ au thật đẹp. Thế này cầu hồn chắc linh lắm. Về mau, nhớ đừng bỏ lại bất cứ vật gì của mình.
5 giờ 30 là chiếc xe hàng vọt đi êm như ru. Mưa bỗng đổ xuống rầm rập như trút nước. Sấm sét đùng đùng. Người gác nghĩa trang thức giấc, ngái ngủ bò xuống giường :
- Mình để chuông 6 giờ thiếu 15. Còn sớm quá trời lạnh mình đánh thêm một giấc nữa. Chưa chắc có ai đi thăm mộ giờ này đâu.
Vì thế sáng hôm đó mãi... 7 giờ cổng nghĩa trang Gò Vấp mới chính thức mở rộng cho khách thăm mộ... đầu tiên là Phong, Minh và Quân.
Trở lại với Phong. Chàng đang ngủ say đến 6 giờ 30 thì đồng hồ reo. Phong thường thức giấc vào giờ này để tập thể dục. Chàng bỗng thấy nóng ruột như lửa đốt. Phong nghi ngờ bọn gian có thể chiếu cố đến chiếc xe hơi của chàng - thám tử mà mất xe thì hết chân cẳng chạy - nên ở trên lầu cao dòm xuống. Thấy chiếc Renault vẫn lù lù trước cửa chàng yên chí quay vào, tự nhỏ :
- Chắc tại đói bụng nên ruột gan cồn cào. Bao tử đòi thỏa mãn nhu cầu căn bản của con người. Ta đi làm đồ ăn là hợp lý.
Phong ung dung làm trứng chiên và sữa tươi lạnh để có một bữa điểm tâm thịnh soạn... thay luôn cho bữa cơm trưa. Ngày hôm nay chàng bận nhiều việc, không có thì giờ ăn trưa. 7 giờ thiếu 10 phút Phong xuống xe hơi bỗng chàng la lên :
- Ai đột nhập vào xe của tôi ? Sao chuông không báo động ? Phong mở cốp xe thì thấy chuông vẫn nguyên vẹn. Chàng ghé mắt dòm xuống gầm xe thì thấy sợi dây điện có dấu nối lại. Chàng lẩm bẩm :
- Đúng bọn chúng chơi ta ? Chúng đột nhập vào xe ta làm gì ? Chất nổ chăng ? Phong có thói quen dán một sợi tóc nhỏ xíu ngang qua cánh cửa xe ở gần phía sàn xe, rất xa ổ khóa. Đó là cách chàng kiểm soát sự xuất nhập vào xe dù… hệ thống chuông bị phá hỏng. Vì thế, sáng nay nhìn bề ngoài chiếc xe vẫn... bình thường, ngoan ngoãn nhưng Phong biết ngay có hiện tượng lạ xảy ra.
Một mẫu giấy bạc nhỏ xíu còn rớt trên nệm. Phong đọc sơ qua, choáng người :
- Rõ ràng quá rồi ! Sao ta vô ý thế. Hôm qua không kiểm soát xe để chúng đặt máy ghi âm. Thế này thì chúng ra tay trước ta ở nghĩa địa Gò Vấp rồi.
Phong tính toán nhanh như máy điện toán IBM. Chàng biết bọn gian chưa có ý giết mình. Nếu không chàng đã chết khi mở cánh cửa xe. Đặt chất nổ đối với chúng đâu phải là một tội ác ghê gớm mà chúng không dám làm. Xe Renault phóng như bay. Phong ghé qua nhà Quân rồi Minh, rước chúng đi phụ một tay với chàng, lục soát trước khi người gác nghĩa trang phát giác và báo cho Cảnh sát biết. Có nhiều người qua lại nơi đó sẽ thủ tiêu tất cả những dấu vết khả nghi có thể giúp chàng phăng lần ra manh mối. Hai thằng bé còn mặc quần áo ngủ. Chúng xin phép cha mẹ sơ qua rồi ra xe với Phong. Cha mẹ của Quân và Minh tuy hơi lạ nhưng cũng yên tâm vì thấy Phong là người đứng đắn.

Nhà Minh ở gần ngoại ô nên chỉ ba phút chạy xe là đến nghĩa trang. Chàng nóng nảy bóp còi liên tiếp. Người gác sợ hãi chạy ra mở cổng. Ông ta biết lỗi của mình, sợ chuyện bê trễ đến tai Hội Tương Tế thì mất một chỗ làm nhàn hạ.
Một cảnh điêu tàn diễn ra trước mắt ba người. Phong suy tính rất nhanh muốn chỉ cho Minh và Quân biết lối ra vào của bọn cướp. Chàng hỏi :
- Đố Minh biết bọn cướp ra bằng đường nào và vào bằng đường nào ? Minh lặng thinh. Nó ra bờ tường rào nghĩa địa quan sát hồi lâu rồi trở vào :
- Bọn chúng vào bằng góc nghĩa địa tận cùng kia và ra bằng lối ngang hông.
- Tại sao ?
- Vì em đoán bọn chúng phải leo rào vào nghĩa địa. Mà bờ tường bên hông có những vệt chân dẫm đầy bùn đất lem luốc hơn bờ tường ở góc nghĩa địa. Em nhớ đêm qua trời mưa và bên trong nghĩa địa là đường đất còn lề dường bên ngoài tráng xi măng.
- Đúng lắm.
Quân không bỏ lở cơ hội góp ý :
- Em đoán chúng mang theo nhiều dụng cụ lắm. Anh nhìn những vết chân lún sâu xuống đất ướt thì biết. Dấu chân in trên đất thành vai hàng đường chỉ rõ lối ra vào của bọn chúng.
- Em cũng giỏi lắm.
- Còn anh nhận xét thấy những gì ?
- Để về nhà anh nói. Câu chuyện dài lắm. Bây giờ mình phải điện thoại cho Cảnh sát và biệt thự Cao-Duyên-Sang.

Ông Cò tính chuyển giấy mời Chu Quốc đến Quận Cảnh Sát để điều tra lần thứ nhì nhưng Phong không tán thành. Chàng nói :
- Mình làm việc bí mật hay hơn. Rút dây động rừng.
Minh ngồi chờ Phong ngoài xe, buồn bã :
- Anh đã mời ông bạn giả làm thày địa lý đến nhà Sang hôm qua chưa ?
- Anh có đến nhà nhưng ông đi vắng. Bây giờ thì… mình khỏi nhờ ai cả. Quân chép miệng thở dài :
- Thế là phí hết bao công toi. Anh cho em… về nhà đi ngủ.
- Phải đấy, cả em Minh nữa. Các em mặc pyjama đi ngoài đường bất tiện. Khi Phong đã quyết thì không ai cản trở được ý định của chàng.

Chương 4. Người bạn của chị Duyên
Quân thì ngủ ngon ngay khi trở về nhà và… leo lên giường. Minh, trái lại, thay quần áo đến ngay nhà Sang. Cả nhà đang quây quần ở phòng khách, bàn tán xôn xao. Minh bước vào trong, lễ phép chào tất cả. Nó chú ý ngay đến một người thanh niên lạ mặt, có dáng dấp quí phái. Chị Duyên giới thiệu :
- Đây là anh Hưng, bạn thân của chị cùng học ở ngoại quốc cũng về chơi kỳ hè này. Anh học giỏi lắm.
Anh Hưng bắt tay Minh. Anh có đôi mắt rất sáng và tinh nhanh. Anh vồn vã :
- Em học cùng lớp với Sang hả ?
- Thưa anh vâng.
Vì cả nhà Sang đang nói chuyện về chiếc vòng, họ có vẻ mất tự nhiên khi có người lạ cùng ngồi chung phòng nên anh Hưng biết ý rủ Minh :
- Em ra sân nói chuyện với anh đi. Anh không có em trai nhỏ, anh thích em lắm.
- Vườn hoa hồng đẹp lắm hả anh ?
- Chỉ ngửi mùi thơm thôi là anh đã đoán được rồi. Sáng nay anh đến định rủ chị Duyên và anh Cao đi lên Thủ Đức picnic một bữa nhưng gia đình chị đang gặp chuyện xui xẻo.
- Anh cũng biết à ?
- Ừ. Chị Duyên có kể cho anh nghe về đôi vòng ngọc gia bảo của gia đình chị. Đôi vòng cẩm thạch huyết dụ ấy quí lắm. Nhưng anh không biết là còn một chiếc chôn theo xuống mộ ông bác chị Duyên cũng mới bị mất. Sáng nay anh tới chị mới nói lại. -
Hôm nọ anh có dự buổi tiệc tối ấy không ?
- Có chứ. Anh có nghe chị Duyên la cầu cứu và chị bị giật mất một chiếc vòng cẩm thạch ngay lúc tắt điện.
Tự nhiên Minh thấy trong lòng nổi lên một niềm nghi ngờ đối với người con trai tên Hưng này. Anh nói rất thành thực nhưng cặp mắt sắc như nước của anh lắm khi làm người đối thoại phải bối rối. Minh dò dẫm :
- Thưa anh tha cho em vô lễ, tên anh là gì… Hưng ?
- À, Đinh văn Hưng. Em hỏi chi vậy ?
Minh tránh ra : -
Em thấy mến anh, muốn biết tên anh chơi thôi mà.
Trong bụng Minh thầm nghĩ nếu anh Hưng thành thật - Kiểm chứng lại cũng dễ lắm, chỉ hỏi lại chị Duyên là rõ ngay chứ gì - thì quả anh không dính dáng gì đến đôi vòng ngọc. Anh là người Việt Nam, họ Đinh còn những người khả nghi họ Chu, gốc Trung Hoa. Minh đổi vấn đề :
- Anh học bên Mỹ chắc mất nhiều thì giờ lắm ? Em nghe nói thường thường sinh viên bên đó thức đến 2, 3 giờ sáng.
- Nhưng tụi anh bắt đầu học trễ. Thường là 10 giờ đêm. Ban ngày hoặc chơi thể thao hay làm thêm lấy tiền xài nếu nhà nghèo. Phần đông những sinh viên ngoại quốc và ngay cả người Mỹ bản xứ đều phải làm việc để lấy tiền đi học.
Câu chuyện lan man ra nhiều đề tài rất rộng rãi. Anh Hưng dường như thích chí, luôn miệng giảng giải thêm cho Minh. Anh bảo :
- Lúc nào Minh rỗi đến chơi với anh. Nhà anh ở số 1134 Trần Hưng Đạo. Nếu có thể, em mang thêm bạn học cho anh biết mặt nhé. À, cũng có khi anh ở tận trên Hương lộ xa lắm.
Minh cám ơn anh và chào từ giã. Một luồng gió mát thổi ẩm ướt hơi nước làm Minh khoan khoái. Nó dừng chân bên công viên, không xa biệt thự Cao-Duyên-Sang lắm, hai tay khuỳnh ra làm mấy cử động hô hấp phổ thông.
Minh không buồn ngủ chút nào. Nó tỉnh táo và sáng suốt như người vừa được uống thuốc tiên. Tại một quán hủ tíu gần đó mùi nước lèo thơm bốc lên nứt mũi. Mới ăn sáng xong mà Minh vẫn thấy thèm nhiễu nước miếng. Nó bước lại gần và… vào tiệm. Phổ ky chạy lăng xăng. Minh lấy một tô mì vịt. Phần đông những người ngồi ăn ở đây là Tàu. Họ nói tiếng Tàu với nhau nghe rất... quen tai dù Minh chẳng hiểu tí tẹo gì. Minh nhìn sang bàn bên cạnh. Mấy người đàn ông trẻ, lực lưỡng có vẻ thợ thuyền, phu phen tay chân còn lấm đang nhậu. Thật lạ lùng. Họ uống bia dữ thế rồi lát nữa đây làm sao làm việc được ? Thường dân lao động sáng sớm chỉ ăn bánh mì xíu mại với cốc cà phê đen là sang lắm rồi. Luôn luôn những người lao lực này phải vội vã, tranh thủ thời gian. Họ vội ăn, vội uống, vội nói, vội cười, vội đi, vội đứng. Những động từ chia đều bắt đầu thêm chữ vội. Mình đã từng nghe chú tài xế ở nhà nó bảo rằng có khi phu bến tàu uống cà phê bằng cách đổ ra dĩa cho nguội nhanh. Minh nhăn mũi cho rằng như thế chẳng còn thưởng thức được hương vị gì của cà phê. Uống như trâu uống.
Thình lình Minh lơ đãng dòm xuống chân họ rồi giật nảy mình. Người nào người nấy chân đi giày lấm đầy bùn và đất. Lại là thứ đất xám ngả đen đặc biệt giống màu đất ở nghĩa trang Gò Vấp. Chung quanh đây đất cát nâu nhạt tuyền một màu, làm gì có đất xám đen. Hay họ từ Gò Vấp lên đây uống cà phê, nhậu bia ? Vô lý. Dưới đó thiếu gì quán. Gần nhà hơn và… chắc chắn rẻ tiền hơn vì là vùng ngoại ô thành phố. Vậy có đến bảy chục phần trăm hy vọng nhóm người này chính là đám gian phi đột nhập vào nghĩa trang đêm qua. Không biết sự ước lượng của Minh có đúng không nhưng đám người kia - năm người tất cả - đang gọi thêm đồ nhậu. Có lẽ ít có đám khách lạ lùng đến thế nên nhà hàng hủ tiếu vội vàng phải vớt… xương bò ninh trong thùng nước lèo ra chiều khách. Minh nhìn biết buổi sáng nhà hàng không bán món nhậu. Muốn tò mò theo dõi đám người này Minh gọi thêm... một tô hủ tiếu và một chai nước cam vàng.
Thời gian trôi qua chậm đến sốt ruột. Bốn năm người khách vẫn… châm tiếng Tàu như bắp rang. Minh giận mình sao lại chẳng phải là người Tàu hoặc tại sao các trường Trung học Việt Nam không… dạy tiếng Tàu như một sinh ngữ để đến nỗi bây giờ họ nói gì Minh mù tịt. Chờ mãi Minh mới nghe thấy… một tiếng chửi thề tục tằn kèm vớí câu nói :
- Mẹ cha thằng Coóng ! Làm phách rủ đi ăn không thèm.
Minh chú ý lắng tai tuy tay vẫn không ngớt gắp hủ tiếu đưa lên miệng. Tên kia lè nhè tiếp :
- Tao thấy chiếc vòng chắc phải đáng bạc triệu. Tụi nó bủn xỉn chia cho tụi mình mỗi đứa có ba chục ngàn.
Suýt chút nữa Minh... làm rớt đũa khi nghe nói đến "vòng". Xác xuất trúng mục tiêu của Minh bay vù lên đến chín mươi phần trăm. Một tên khác nói át đi :
- Mày muốn chết không. Câm ngay. Mày say rồi.
Hắn say thật. Lướt khướt gần gục xuống mặt bàn. Một đứa khác xổ thêm một tràng tiếng Tàu chừng như đe dọa tên say. Thế là ngoài ba câu tiếng Việt ấy, chúng không nói thêm một chữ Việt nào nữa. Minh uống cho hết ly nước cam vàng rồi gọi điện thoại ở một trạm công cộng gần đó cho Phong. Nó thầm đoán chắc Phong cũng không có ở nhà. Anh ấy đang hoạt động dữ dội bên ngoài mà. Nhưng kết quả lại may mắn quá sức tưởng tượng :
- Tôi, thám tử Phong đây. Ai đang gọi xin cho biết quí danh ?
- Em đây, Minh nói chuyện với anh Phong đây. Em nói anh nghe, có lẽ em đang phát giác là ngồi chung quán với một bọn người rất khả nghi là bọn gian phi vào nghĩa trang Gò Vấp sáng nay… Vâng, em vừa nói chuyện vừa canh chừng bọn chúng. Địa điểm : Quán hủ tiếu Lợi Ký gần biệt thự Cao-Duyên-Sang..: chỉ cách chừng 100 thước về phía đầu đường... Anh đến ngay nhé.
Minh có vẻ vội vã lắm. Nó không kịp chào Phong cho phải phép như thường lệ vì ngoài kia bọn người năm tên say đã lũ lượt lảo đảo bước ra khỏi quán. Minh gác máy lao mình ra ngoài. Nó quên cả giữ gìn ý tứ. Một chiếc xích lô đạp lao vút qua thắng không kịp đụng phải Minh ngã lăn trên lề đường. Minh nhảy lên kịp thời nên chỉ bị xây xát nhè nhẹ. Người phu xe sừng sộ :
- Thằng nhỏ có mắt hay không mà chạy bạt mạng vậy ? Tao không thắng lại kịp là tiêu đời mày.
Minh nổi xung :
- Xe ông thắng không ăn thì đừng có chạy nhanh. Tôi không bắt đền ông thì thôi, ông gây với tôi nỗi gì ! Minh vô tình nhìn thấy một đôi giày dính đất bùn xám giống bọn… nó đang theo dõi… nằm ở chân người phu xe. Trời ơi ! Tên này cũng cùng bọn với tụi kia đấy mà. Minh trừng mắt nhìn rất kỹ vào mặt người đối diện :
- Sáng nay ông có đi vào nghĩa trang Gò Vấp phải không ?
Hắn ta biến sắc mặt... lầm lì không nói. Minh bảo :
- Đợi chút nữa cảnh sát tới phân xử chuyện phải trái giữa ông và tôi lúc nãy.
Và Minh hô lớn : "Bớ người ta ! Bắt lấy nó. Đồ ăn cướp".
Khi thấy hắn rút trong túi sau xe một khúc cây dài và vuông. Hắn ta võ rất giỏi. Minh đoán thế. Vì hành động rất nhanh đến nỗi Minh không kịp tránh đòn. Lúc Minh ngửng đầu lên khỏi mặt đất gượng nhìn theo thì chiếc xe xích lô chỉ còn là một bóng mờ ở xa xa.

***
Phong vực người bạn trẻ ra xe. Minh choáng váng. Phong xem qua vết thương rồi bảo :
- Không đến nỗi nào. Em chỉ cần nằm tỉnh dưỡng... chừng một tuần lễ là khỏi.
- Em... nhức đầu quá anh Phong.
- May mắn là khúc cây đập phớt qua xương sọ và em cũng không bị cạnh ngọn vuông... âu yếm hôn, em đừng lo gì cả. Em nằm nghỉ đỡ ở băng sau. Anh lái xe chở em về nhà.
Dĩ nhiên ba má Minh cuống cả lên. Phong an ủi :
- 5 phút nữa bác sĩ sẽ tới. Lúc chở Minh về nhà tôi đã ghé qua nhà một người bạn thân, y sĩ. Anh ấy tận tâm và giỏi lắm. Mong ông bà thứ lỗi cho tôi. Đáng tiếc là tôi không có thời giờ thăm bệnh cho Minh.
Phong muốn ở lại với Minh lâu hơn nữa nhưng thời giờ cấp bách không cho phép. Chàng... làm sao phải tìm ra và ngăn chận đôi vòng rớt xuống đáy bùn sâu thăm thẳm của bí mật. Chàng đã phạm nhiều lỗi lầm sơ đẳng của nghề trinh thám, quá chủ quan khinh địch, nay đến giờ hành động phản công.
Tự nhiên Phong rẽ vào biệt thự Cao-Duyên-Sang như một cái máy. Ông già quen thuộc ra đón :
- Có gì lạ mà anh gấp quá vậy ?
- Tôi muốn nhờ sự tiếp tay của anh.
- Rất sẵn sàng.
Phong trầm ngâm đốt một điếu thuốc lá, nhả khói một vòng tròn mờ nhạt bay chầm chậm lên không trung. Chàng mở lời :
- Tôi nghe nói anh rất thân với ông Lý Tường Phát, chủ nhân một tiệm bán đồ cổ kỷ vật Đông Phương đồng thời cũng là một nhà sưu tầm cổ vật rất nổi tiếng ?
- Phải, anh cần nhờ gì đến ông ta ?
- Tôi... muốn sáng mai ông ta sẽ mở một cuộc triển lãm đồ cổ.
- Trời ơi !
- Anh sợ không kịp ? Sửa soạn tốn công phu và thời giờ lắm phải không ?
Nhưng nhà ông ta đông người lắm cơ mà.
Phong tiếp :
- Anh vào thay áo để đi cùng với tôi đến gặp ông Phát. Nếu không, tôi sẽ... không thể bảo đảm việc tìm lại... đôi vòng ngọc.
Ông già đang trù trừ nghe Phong bảo thế vội đi thay quần áo ngay. Ông vẫn tiếc và muốn giữ đôi vòng kỷ niệm của cha mẹ và còn có ý định truyền lại cho con cháu làm của gia bảo. Ông đau lòng xót dạ... khi nghĩ đến việc mất đi đôi vòng vĩnh viễn. Tiệm đồ cổ "Gia Long" lộng lẫy nằm sừng sững trên đường Công Lý. Phong ngừng xe bảo :
- Mình đến viếng ông Phát ngay. Nhớ qua đường thật nhanh vì tôi sợ có người theo dõi.
Trời chẳng chiều người. Phong cẩn thận tránh được người theo dõi - Rất có thể có - thì… ông Phát đi vắng. Ông già bảo :
- Đành ngồi chờ vậy. Tôi mới nhờ cô thu ngân điện thoại về nhà riêng ông Phát cũng không có. Ông bạn tôi say mê đồ cổ lắm. Nếu ông không đến tiệm... trưng bày thì đừng tìm ông... ở chỗ khác vô ích. Ông như thế là rất bận việc cần và thường khi ông đi chẳng bao giờ cho người nhà biết trước.
Phong nóng lòng. Chàng hút hết điếu thuốc này lại châm lửa điếu tiếp theo ngay. Mắt chàng mở lớn, nhìn trừng trừng thẳng vào cuốn Reader's Digest mà chẳng đọc hiểu gì. Tiếng tích tích nho nhỏ của chiếc đồng hồ tay nghe rất rõ trong gian phòng đợi lớn rộng và yên lặng. Nửa giờ đồng hồ sau có tiếng xe hơi đỗ xịch lại. Ông già mừng rỡ :
- Ông Phát tới đó. Luôn luôn ông dùng chiếc Austin cũ kỹ.
Ông Phát bước vào. Ông già bắt tay ông Phát, giới thiệu :
- Đây là thám tử Phong, bạn thân của tôi và cũng là người đang giúp tôi tìm lại chiếc vòng ngọc. Anh hay tin chưa ? Tôi mất cả hai chiếc rồi.
- Trời ơi ! Thật ngoài sức tưởng tượng của tôi.
Là một người sành đồ cổ, ông Phát biết giá trị của đôi vòng ấy lắm. Ông cũng là một thương gia nghĩa là... có mang sự tính toán hơn thiệt luôn theo mình :
- Theo thời giá, đôi vòng ngọc ấy phải hơn ba triệu bạc.
Phong không chú ý đến... tiền bạc. Chàng nói trực tiếp vào vấn đề cấp bách :
- Thưa ông Phát, ông có vui lòng giúp ông bạn đây tìm lại được đôi vòng ?
- Dĩ nhiên là tôi rất vui lòng.
- Trong việc tìm lại vòng, tôi rất cần đến sự giúp đỡ của ông. Lúc nãy cô thu ngân có nói chuyện là năm nay ông có ý định mở một cuộc triển lãm cổ vật. Thưa ông có đúng không ?
- Đúng.
Phong thản nhiên trước sự lạ lùng của người đàn ông to béo, trán cao đầu hói kia. Chàng tiếp :
- Tôi muốn ông vui lòng tổ chức cuộc triển lãm ấy ngay ngày mai. Tôi sẽ xuất tiền túi ra để quảng cáo không công cho ông.
- Rất tiếc...
Không để ông Phát kịp dứt khoát từ chối, Phong tấn công :
- Tôi sẽ mời thêm một số nhà sưu tầm đồ cổ Đông Phương người ngoại quốc ở các Tòa Đại Sứ và ở những đại lý thương mãi đến trong buổi lễ khai mạc.
- Để tôi tính lại...
- Thời giờ gấp rút lắm rồi, ông Phát. Nếu cần trả tiền phụ trội cho nhân viên làm đêm, tôi sẽ đài thọ cả. Ông nghĩ sao ?
- Tôi…
- Tôi biết làm phiền ông lắm nhưng vì cần điều tra và trừng phạt tội ác mong ông nhận lời.
Ông già xen vào :
- Anh Phát đừng sợ lỗ lã. Tôi sẽ giới thiệu anh một số nhà xuất cảng đồ cổ ở Đài Loan và Nhật Bổn. Họ làm ăn lớn tính giá hạ hơn nhiều nơi khác, rất lời.
Ông Phát bằng lòng :
- Tôi đành chiều ý anh và anh bạn thám tử trẻ đây vậy.
Phong cám ơn và hỏa tốc ra xe. Chàng phóng như bay đến một người bạn gái cùng học một lớp ngày xưa. Cô này bây giờ đã có chồng và là chủ nhân một hãng... làm đồ nữ trang giả cho đàn bà. Dĩ nhiên Phong phải gọi cô bằng bà đàng hoàng :
- Thưa bà, tôi đến muốn gặp bà Long có việc cần.
- Tôi là bà Long đây ông cần chi ?
Bà Long dường như không nhận ra người bạn cũ. Tuy thế bà nhìn Phong ngờ ngợ :
- Hình như tôi có gặp ông ở đâu rồi ?
Phong nói đùa :
- Vâng cũng có thể. Tôi vẫn hay đi dạo phố mỗi buổi chiều thứ bảy, chủ nhật và cũng có nhiều… dịp dự những dạ tiệc. Bà nhớ ra tôi mang máng cũng phải..
Bà Long nhìn chàng giây lát rồi la lên :
- Anh Phong phải không ?
- Chính tôi đây.
- Anh cứ gọi tôi bằng… chị cho thân mật. Tôi không thích bạn cũ gọi bằng bà.
- Vâng, nếu chị cho phép.
Bà thở dài :
- Đàn bà chúng tôi mau già quá. Các anh trẻ lâu thật. Ngoài ba mươi vẫn là thanh niên...
Phong ngắt lời :
- Chị định nhạo tôi trẻ con chứ gì ? Chắc chị cũng biết tính tôi từ hồi Trung học, hay nói đùa, đến bây giờ vẫn không bỏ được. Tôi đến đây định làm... mặt lạ nhưng không dè chị nhận ra ngay, tài quá.
- Anh nghe nói làm… thám tử ?
- Vâng, và một thám tử không nên để cho... ngườí quen nhận biết nếu mình không muốn.
Bà Long cười vui vẻ :
- Ý anh định nói đây là một lỗi lầm nghề nghiệp... cố ý.
- Chị rất thông minh.
Chàng thám tử của chúng ta vẫn chưa bỏ hết thói tự kiêu. Chàng nói tiếp :
- Bởi vì trong vụ điều tra này tôi cần đến sự tiếp tay của chị nên tôi nghĩ… người quen chắc dễ nói chuyện hơn người lạ.
- Tôi có thể giúp anh được những gì ?
Phong nhìn thẳng vào mắt người bạn gái cũ. Chàng ngắm khuôn mặt trái xoan kiều diễm tuy hơi xuất hiện những vết nhăn lờ mờ và... khen :
- Chị trông vẫn trẻ đẹp như ngày nào.
Bà Long sung sướng :
- Cám ơn anh.
Người đàn bà vui lòng thì họ sẽ rất sốt sắng tận tụy giúp đỡ ta. Phong nghĩ thế, chàng tiếp :
- Tôi muốn làm một đôi vòng ngọc thạch màu huyết dụ. Trên thân có khắc chữ "Chu" và "Vương" rất giống vòng thật. Đối với chị chắc không có gì khó lắm.
- Anh có thể cho tôi xem vòng thật một chút không ?
Phong cười :
- Nếu còn vòng thật thì tôi cần gì phải đặt làm vòng giả. Chị yên trí, tôi có người biết rất rành vòng thật... đến cố vấn cho chị... miễn phí.
- Người đó là ai ?
- Chủ nhân vòng thật. Chị chờ một chút tôi điện thoại về nhà.
Phong gọi điện thoại đến cho Duyên. Cô đến ngay nhà riêng của bà Long. Phong chờ ở đấy. Chàng quả có con mắt tinh đời. Đàn bà thích và rành về nữ trang hơn đàn ông nhiều, nhất là với người con gái trẻ tuổi xinh đẹp như Duyên có một món nữ trang gia bảo rất quý giá là đôi vòng ngọc thạch.
Phong là bạn với ông già, cha của Duyên. Chàng còn ít tuổi, Duyên gọi chàng bằng chú. Phong bảo :
- Duyên hãy giúp bà Long, bạn của chú, làm một đôi vòng ngọc thạch thứ hai nhé.
- Chú nói sao ?
- Mình tạo ra đôi vòng thứ hai để gây sự hoang mang nghi ngờ cho bọn gian, Duyên hiểu chưa ?
- Cháu hiểu rồi.
- Cần nhất là phải thật giống mới được. Chú bận việc phải đi ngay, Duyên ở lại đây với bà nhé.
Phong đi đến các tòa Đại Sứ chàng quen biết để mời những nhân vật quan trọng đến dự. Chàng cũng chạy như ma đuổi để đến gặp và mời những người có tiếng tăm trong xứ sáng mai dự buổi khai mạc triển lãm đồ cổ của Lý Tường Phát. Phong có thể nói dối rất tài khi cần, nhưng chàng chẳng bao giờ thất hứa. Lúc ở nhà một vị giám đốc giàu có đi ra, Phong nhìn đồng hồ lẩm nhẩm :
- Một giờ trưa rồi. Mình phải kiếm cái gì dằn bụng đã.

Chương 5. Giương bẫy
Phong không mong tìm ra đầu mối tung tích bọn gian khi vào quán ngồi ăn bữa trưa như Minh. Chàng biết ở đời những sự trùng hợp rất hiếm khi xảy ra. Phong lân la hỏi người chủ quán hủ tiếu bằng tiếng Tàu về lũ khách say lạ lùng buổi sáng Minh điện thoại cho chàng. Phong học tiếng Tàu đã ba năm nay, chàng rất thông minh và miệng lưỡi liến thoắng nên từ lâu chàng rành tiếng Quảng Đông như tiếng Việt :
- Tôi thấy sáng nay ở quán có món sộp cho ông chủ lắm mà. Phải không ? Người Việt gốc Hoa bao giờ họ cũng thích những người biết tiếng Tàu. Nước Việt Nam chỉ là quê hương thứ hai của họ mà thôi. Người chủ quán cũng theo thông lệ ấy.
- Sộp thật nhưng nhiều rắc rối lắm. Anh có biết Cảnh sát hỏi thăm quán tôi không ?
Tử tế lắm ông ta mới trao đổi được bấy nhiêu lời. Phong thấy coi bộ ông ta lảng đi, vội vàng gợi chuyện :
- Cảnh sát đến làm gì ?
Phong lúc sáng nay chỉ đứng ở vòng ngoài, không ai chú ý thấy rõ mặt chàng dù chàng chở Minh về nhà vì chàng muốn như thế. Ông chủ quán cũng tưởng chàng là khách lạ qua đường rỗi thì giờ ngồi nói chuyện chơi mới bảo :
- Năm thằng cũng người Tàu đến đây nhậu. Có một thằng nhỏ người Việt Nam ngồi ăn mì rồi ra khỏi quán gọi điện thoại đi đâu không biết. Một tên Tàu khác đến nói vài câu với tụi năm thằng ban nãy rồi ra xe xích lô đạp định tông và gây sự với thằng nhỏ...
- Thế mấy đứa người Tàu ấy có thường đến đây nhậu không ?
Ông chủ lắc đầu :
- Không bao giờ. Chúng hoàn toàn lạ mặt. Sáng nay tôi vừa mở cửa quán được một chút là tụi chúng vào. Tôi thấy chúng chẳng phải dân lao động quanh đây.
Phong chẳng lạ gì những lời ông chủ nói. Vì ngay trước khi chở Minh ra xe hơi chàng đã được ông Cò cho biết sơ qua lời khai của người nhân chứng là chủ quán hủ tiếu. Bọn gian nọ đối với ông rất lạ. Chàng nghe có lý và tin người chủ quán nói sự thật với Cảnh sát nên mới bố trí vụ làm chiếc vòng giả với bà Long. Bây giờ chàng đến kiểm chứng lại, thế thôi. Phong hơi thất vọng vì chàng chẳng moi móc được gì thêm ở ông chủ quán. Phong dọn đường rút lui :
- Cảnh Sát hỏi thăm quán, ông chủ sợ gì ? Sợ bị "hỏi thăm" tới sổ sách lắm hả ?
Ông ta nhăn mặt cười trừ. Rồi nói :
- Thì tôi là người buôn bán mà. Chắc anh có quen người Tàu lâu năm rồi phải không ? Giọng nói giống lắm.
Phong bịa ra :
- Ba tôi người Việt. Má tôi là Tàu. Đến đời tôi thì vợ tôi... là Tàu. Nhưng tôi ở nhà bắt nói tiếng Việt là ngôn ngữ quê hương ba tôi.
Ông ta biểu đồng tình :
- Đàn ông phải có oai quyền trong gia đình chớ.
- Nhưng tôi thích... tiếng Tàu hơn.
Phong cốt ý la cà cho đến 2 giờ trưa là giờ bắt đầu công tư sở làm việc. Bây giờ nhìn đồng hồ 2 giờ kém 15 chàng cáo biệt :
- Chào ông chủ. Chúc ông buôn may bán đắt. Lúc nào rảnh tôi ghé thăm.
- Anh cứ lại ăn. Tôi tính giá rẻ đặc biệt.
Phong đến tòa báo đầu tiên lúc 2 giờ. Người giữ mục quảng cáo chưa đến. Chàng phải ngồi chờ. Cô mặc áo dài nâu nhạt có lẽ bận trang điểm nhiều nên 2 giờ 15 mới đủng đỉnh đến ngồi vào bàn. Phong bắt đầu câu chuyện :
- Tôi muốn đăng quảng cáo lớn… ngay số báo chiều nay.
Cô ta trợn mắt :
- Ngay chiều nay ? Làm sao kịp ?
Tôi không nhận được quảng cáo này. Phong "ga-lăng" :
- Cô nói chuyện hay lắm. Tôi nghe giọng cô như chim hót. Tôi có một chị bạn cũng người Huế như cô. Chị ấy cũng dễ thương như cô vậy.
Chàng ngừng lại một chút đợi phản ứng cô gái. Quả nhiên cô ta mất hết… vẻ cáu kỉnh, và cúi đầu dịu dàng, cho tương xứng với lời chàng khen. Phong năn nỉ :
- Ông chủ tôi bảo tôi đi đăng quảng cáo cho cuộc triển lãm đồ cổ của ông vào sáng mai. Tôi quên khuấy đi mất. Mãi bây giờ mới nhớ ra. Mong cô giúp tôi nêu không tôi sẽ... mất việc. Tôi biết báo bây giờ gần lên khuôn nếu làm gấp vẫn còn kịp. Mãi tối bảy giờ mới phát hành cơ mà. Cô giúp tôi nhé ?
Cô gái hơi ngần ngại :
- Không phải tôi tiếc gì nhưng ông Quản Lý khó lắm...
Phong ngắt lời cô một cách dịu dàng :
- Cô nhận là có họ hàng bà con của cô đến nhờ đăng chắc ông Quản Lý sẽ nể cô làm việc ở đây mà nhận lời chứ ?
- Tôi chỉ sợ không giúp ông được như ý muốn.
- Tôi biết cô sẽ giúp được. Đàn bà con gái khéo nói thường làm người ta siêu lòng hơn, phải không cô ?
- Tôi sẽ cố gắng hết sức. Chắc ông sẽ không thất vọng.
Phong trả tiền, chào cô và ra đi. Cũng tương tự ở những tòa báo và cơ sở quảng cáo khác, Phong không đến nỗi nào phải vào gặp nói chuyện thẳng với những viên Quản Lý khó khăn và mất cảm tình kia. Những cô gái trẻ tiếp khách hàng thân chủ đều sốt sắng giúp chàng hết lòng. Phong còn có một dụng ý khác. Đó là chàng không thích cho có quá nhiều người có "địa vị lớn" trong giới thương mãi biết việc triển lãm quá gấp gáp của ông Lý Thường Phát. Chàng nghi ngờ Chu Quốc là quản lý hãng chuyên chở đường biển Mạnh Tư ắt phải quen biết nhiều với những viên Quản lý ở những xí nghiệp cung cấp dịch vụ khác. Những cô thư ký tiếp khách có biết chắc cũng không hại mấy. Phong được rảnh rang (tạm thời thôi) và nhìn đồng hồ : 5 giờ đúng. Chàng ghé qua về nhà bà Long. Bà vẫn còn ở hãng. Phong phóng xe lại hãng. Bà Long khoe ngay khi vừa thấy Phong :
- Tôi chọn mãi mới được chiếc vòng nhựa trắng có cùng một kích thước với vòng cẩm thạch. Tôi nhuộm màu đỏ và cho máy mài lại. Khó nhất là phải làm cho nổi mấy đường gân màu đỏ cam. Nhờ cô Duyên chỉ dẫn tận tình chi tiết nên giờ đây tôi đoán anh trông thấy cũng phải nhầm giữa vòng thật và vòng giả. Này anh xem.
Phong ngắm nghía đôi vòng lóng lánh. Đẹp thật. Giống hệt cẩm thạch… bạc triệu, không có chỗ chê. Tuy thế Phong cũng hỏi Duyên :
- Duyên thấy thế nào ?
- Như khuôn đúc, chú ạ. Nhưng còn chữ "Chu" và "Vương" cháu không nhớ chữ Tàu nên máy khắc chưa được.
Phong gật đầu :
- Dễ quá. Để chú viết cho.
Chàng viết hai chữ Chu và Vương theo đủ các lối cho Duyên nhận mặt. Bà Long gật gù :
- Tôi không ngờ anh giỏi tiếng Tàu quá xá. Anh học hồi nào vậy ?
- Hơn ba năm rồi chị ạ.
- Tôi biết chữ Tàu nhưng chỉ những mẫu thông thường ở đồ nữ trang thôi, thí dụ "Phúc, Lộc, Thọ" hay "Cung, hỉ"… v.v... "Chu" và "Vương" là chữ riêng chỉ một dòng họ, tôi chịu.
Rất nhanh, máy khắc chữ tối tân đã làm xong nhiệm vụ. Bây giờ thì bà chủ hãng bảo :
- Các đồng nghiệp của tôi bây giờ nhìn ngoài cũng không thể biết nổi là vòng giả. Trừ phi họ... cầm lên tay thấy nhẹ.
Phong gật đầu :
- Như thế là chu tất chị ạ. Vì tôi có cho ai sờ mó đến đâu: Tôi sẽ trưng nó... trong tủ kính kín mít.
Bà Long góp ý :
- Vậy anh nên để lót một nền nỉ màu... đỏ nhạt bên dưới và dùng bóng đèn nhỏ chiếu ánh sáng xuyên qua lớp nỉ để óng ánh đẹp hơn.
Phong bảo Duyên :
- Duyên ra xe trước đợi chú.
Rồi chàng hỏi bà Long khi Duyên đã đi khuất :
- Chị tính hết bao nhiêu để tôi hoàn lại. Bạn là bạn và... công việc là công việc. Thật trước đây tôi không thể tưởng tượng được chị có thể làm đôi vòng giả y hệt vòng thật.
- Thôi để tặng anh.
Dù Phong nài ép bà Phong vẫn từ chối. Chàng đành bảo : -
Chủ nhật tới tôi muốn mời anh chị dùng một bữa cơm Tàu với tôi ở Chợ Lớn. Không biết anh chị nghĩ thế nào ?
- Rất hân hạnh. Nhưng... đó là anh trả tiền công tôi làm vòng... giả đấy phải không ?
Phong quả quyết :
- Chị nghĩ như thế oan cho tôi lắm.
Nhưng chàng lại cười và tiếp theo ngay :
- Nhưng tôi cũng không dám trái ý chị. Đàn bà muốn là trời muốn mà.
Một người đàn ông trạc bốn mươi tuổi vào cửa phòng làm việc của bà Long. Ông ta đứng tuổi nhưng rất khỏe mạnh và đẹp trai. Phong đoán biết đon đả :
- Thưa anh, chị đã nói với tôi rất nhiều về anh. Tôi là Phong bạn của chị hồi còn đi học.
- Anh vui tánh quá. Lại tôi chơi tối nay nhé. Tôi cũng muốn được quen biết thân với những bạn của vợ tôi.
- Tôi bận lắm anh ạ. Cảm ơn anh. Tôi hy vọng mình sẽ gặp nhau sáng mai tại phòng triển lãm của nhà sưu tập đồ cổ Lý Tường Phát. Tôi đã mời và chị đang chờ anh về hỏi ý kiến anh trước khi nhận lời.
Thực sự thì như chúng ta biết, Phong ban nãy quên quấy chưa mời bà Long đi coi triển lãm. Nhưng được cái chàng mau mồm miệng và bà Long cũng rất hiểu tính nết người bạn cũ nên họ hội ý rất mau. Bà nói với chồng :
- Phải đấy anh ạ. Anh nghĩ thế nào ?
- Anh rất sẵn sàng.
Phong bắt tay ông Long ra xe. Ông đứng ở cửa vẫy theo cùng với vợ từ giã chàng. Bỗng xe Phong rú lên rồi tắt máy. Chàng mở cửa xe hối hả nói :
- Xe tôi hết nước rồi. Xin lỗi chị cho tôi ít nước đổ vào xe nhé.
Ông Long để vợ đi chỉ chỗ cho Phong. Ông vẫn... là người đàn ông Đông Phương, không thích việc nhỏ mọn. Phong chỉ chờ có thế, chàng bảo nhỏ với bà Long :
- Xin chị tuyệt đối giữ kín việc làm giùm đôi vòng với mọi người và cả... anh nhà nữa nhé. Chừng tuần lễ nữa thì có thể nói ra ngoài được không hại gì. Xe tôi chỉ... thiếu nước tí xíu thôi, chị đừng lo lắm.
Bà Long mới vỡ lẽ là anh chàng thám tử vờ vẫn để dặn bà lời quan trọng. Phong nhẹ nhõm cả người khi ngồi trên xe hơi máy lạnh. Chàng đã đồng thời trả được... công khó của người bạn gái giúp mình bằng một buổi đi chơi hào hứng sáng mai ở phòng triển lãm, đồng thời tìm cho ông Lý Thường Phát thêm hai người khách sang trọng lượng lưu… dù người khách ấy không mua một món trưng bày nào cả.
Phong ghé lại nhà Minh thăm thằng bé. Cha mẹ Minh cho biết là thằng nhỏ đã đỡ nhiều. Nó chỉ còn hơi choáng váng lúc ngồi dậy và nhảy nhót mà thôi. Minh cũng quá xá lắm, nhiều phen muốn thử sức nên chạy chơi như thường và hơi… mệt. Phong hỏi thăm Minh vài câu. Rồi chàng điện thoại cho bác sĩ :
- Tôi là Phong ở nhà thằng bé Minh mới lỗ đầu lúc sáng đây. Xin bác sĩ cho biết Minh đã có thể làm việc rất nhẹ được chưa ?
- Chẳng hạn như…
- Như là nhận mặt một số người nào đó dính líu vào một vụ phạm pháp. Vì nhu cầu điều tra mong bác sĩ giúp cho tôi.
- Minh làm việc cũng chẳng hại gì. Nhưng tôi giúp ông bằng cách nào ? Phong suy nghĩ vài giây đồng hồ :
- Tôi muốn đem Minh đến một chỗ khác… nghĩa là khỏi nhà nó vào sáng mai.
- Khó quá.
- Ở đó có một số bức vẽ trẻ con...ồ… đang nô đùa chạy nhảy… đó là một điểm đặc biệt. Bác sĩ có thể viện lý do thằng Minh hiếu động nay phải nằm một chỗ, đầu óc tù túng khó chịu sẽ lâu lành để khuyên cha mẹ Minh đem con đến đó chơi một buổi để tâm thần thoải mái, giải thoát tất cả những dồn nén.
Giọng viên bác sĩ có vẻ ngạc nhiên. Nếu ông ta là bạn của Phong chắc chàng nói chuyện dễ dàng hơn nhiều. Đàng này, sáng nay vì quá cấp bách, Phong mời đại một viên bác sĩ lạ trên đường xe chàng đi. Phong thầm nghĩ : "Ông ta nệ cổ lắm. Ông ấy già rồi mà. Không chịu theo đúng... tiến bộ y học - dĩ nhiên là tiến bộ y học theo kiểu của Phong - Thật uổng công mình nói dối với cha mẹ Minh ông ấy là bạn thân của mình." Phong năn nỉ mãi, viên bác sĩ mới miễn cưỡng :
- Được rồi, tôi giúp ông. Ông đưa dây nói lại cho cha hay mẹ Minh gì cũng được.
Được viên bác sĩ nói chuyện, ông bà nhà giàu này mừng lắm. Đến khi ông bác sĩ khuyên nên tìm một nơi nhiều tranh ảnh trẻ con nô đùa chạy nhảy để Minh mau lành bệnh, đầu óc thơ thới thì ông cha của Minh suy nghĩ đến nỗi đầu dây đằng kia cúp mất lúc nào không biết. Phong vờ vĩnh hỏi thăm :
- Bác sĩ nói gì thế ông.
- Tôi khó nghĩ quá.
Rồi ông nói chuyện ra. Phong yên tâm - ban nãy chàng nói chuyện với Bác sĩ rất thấp giọng, chắc chắn trong nhà không ai nghe rõ - và sốt sắng :
- Để sáng mai tôi sẽ đưa em Minh đi chơi giúp ông bà. Chỗ này tốt lắm. Theo sự hiểu biết của tôi em Minh rất mạnh khoẻ.
Phong quan sát rất mau lẹ và rất sâu sắc. Lúc sáng ngồi chờ ông Lý Tường Phát cả nửa giờ đồng hồ, thời gian này đối với nhà thám tử quá đủ để chàng nhớ hết mọi vật trang hoàng trong cửa hàng và trong phòng riêng của ông ta. Các bức hí họa cổ về trẻ con chạy nhẩy đối với chàng bây giờ… thật vô cùng quí giá.
Chàng mang được Minh đi nhận mặt đám khách đến xem - chàng đoán chắc thế nào tụi gian phi cũng mò đến để tìm hiểu vòng nào thật vòng nào giả - mà cha mẹ Minh vẫn không ngờ con mình hành nghề thám tử. Minh đã cho Phong biết cha mẹ nó vẫn nghĩ là con mình bị du đãng gây sự, đập lỗ đầu và thấy Minh vẫn còn đau nên cũng không hỏi tội con trai vội. Phong đắc ý :
- Ta đoán không sai. Quả không uổng công ta đưa Minh về nhà. Để việc này cho nhân viên Cảnh sát thì sự việc thêm rắc rối. Ông bà tất sinh nghi, có thể cản trở công việc điều tra gần thành công.
Phong hẹn bảy rưỡi sáng mai sẽ lại rước Minh đi cùng với cha. Ông nhà giàu luôn luôn cẩn thận lo lắng cho đứa con. Ông tiễn chàng ra về.
Phong ghé qua nhà Quân bảo thằng bé sáng mai đến phòng triển lãm. Minh đau không hành động được thì Quân sẽ thế. Chưa chắc Chu Quốc đích thân đến xem trưng bày đồ cổ để có thể nhận ra là Quân chính là đứa trẻ gây sự với hắn hôm nọ mà sinh nghi, đề phòng. Đồng bọn năm sáu tên người Việt gốc Hoa của hắn chỉ rành mặt thằng Minh thôi. Đáng tiếc cho chúng là Minh lại… dấu mặt rất kỹ trong bóng tối. Phong gọi điện thoại lại nhà ông Lý Tường Phát. Tiếng ông oang oang :
- Cảm ơn anh Phong về chuyện đăng quảng cáo trên các báo và vẽ biển, băng vải kịp chiều nay. Nhưng... tôi không hiểu sao anh lại để thêm là đặc biệt có đôi vòng ngọc "Chu" và "Vương" của ông già bạn tôi trong số đồ cổ triển lãm ? Anh nói thế tôi lấy đâu ra bây giờ ?
Phong cười :
- Ông khỏi lo. Tôi sẽ mang đến sáng mai, trước 8 giờ. Ông sửa soạn giùm tôi hai chiếc hộp thật đẹp, để vừa đôi vòng ngọc đeo tay đàn bà, kích thước thông thường ấy mà. Nếu được nên lót nhung hay nỉ đỏ nhạt và rọi đèn cho có ánh đỏ lộng lẫy thêm thì tốt nhất...
- Tôi hiểu...
- Ông cứ bảo là của ông bạn già cho mượn trưng bày với những khách đến xem. Tôi mong ông sẽ hài lòng vì sáng mai có rất nhiều nhân vật quan trọng tai mắt trong và ngoài nước đến dự.
- Có những ai xin anh cho biết để tôi liệu bề đón tiếp ?
- Có cả hàng Đại sứ, Tổng trưởng... đủ cả... Tôi muốn nhờ ông một chút nữa nhé.
- Xin anh cho biết.
- Ông dời dùm tôi những bức tranh họa trẻ con chơi đùa chạy nhảy hồn nhiên vào phòng trong nhìn ra gian hàng. Có phải ông dùng gian hàng làm phòng triển lãm không ?
- Phải nhưng anh bảo tôi làm thế…
- Mục đích gì phải không ? Dài lắm sẽ giải thích với ông sau nhé. Tôi... chưa ăn tối đói bụng lắm rồi... chào ông... xin phép ông...
Phong ngắt điện thoại gọi sang đường dây nhà Sang. Chàng nghe tiếng ông già :
- Phong đấy phải không ?
- Vâng, mọi sự ổn thỏa lắm. Tôi cho quảng cáo cuộc triển lãm đồ cổ sáng mai của ông Lý Tường Phát trong đó có cả đôi vòng ngọc thạch. Việc đôi vòng hôm nay chắc Duyên đã nói chuyện với anh rồi...
- Có nói rồi...
- Tôi quảng cáo gợi sự chú ý vừa phải của người đọc về đôi vòng vì ồn ào quá sẽ dễ cho bọn gian sinh nghi. Nhưng thế nàn cũng đến tai bọn chúng.
- Tại sao ?
- Tôi đánh tiếng gián tiếp qua trung gian một người bạn gái tín cẩn... mới quen đến viên quản lý hãng chuyên chở đường biển Mạnh Tư...
- Thế à ?
- Phải. Thôi chào anh. Sáng mai nhớ đi dự nhé. Bây giờ thì khá khuya khoắt rồi.
11 glờ. Phong ngại ra đường kiếm tiệm ăn tối. Chàng lục lấy đồ nguội ăn đỡ. Chàng tự nhủ : "Kế của ta là hư hư thực thực khó lường. Bọn gian gian chắc chẳng khi nào lại dám tưởng tượng là ta dùng lại một kế dẫn dụ chúng mà... chính chúng đã rõ trong cuốn băng nhựa ghi âm. Vòng ngọc giả, vòng giả rồi lại thành vòng thật. Chúng sẽ còn phải điên đầu nấn ná ở lại đây vài hôm nữa chứ chưa dông đi mất ngay. Và chỉ vài hôm thôi, ta sẽ xoay chuyển lại tình thế. Tuy rằng có đôi phần mạo hiểm trong kế hoạch nhưng ta phải chấp nhận may rủi. Chắc chắn ta sẽ thành công. Ha ha... ha ha ha..."

Chương 6. Cuộc triển lãm của ông Lý Trường Phát
Phong dậy sớm từ 5 giờ sáng. Chàng không quên tập thể dục như thường lệ. Rồi... vào ăn điểm tâm thật no nê. Chàng cần có sức để đối phó với những việc dồn dập có nhiều phần nguy hiểm sẽ xảy đến buổi sáng hoặc chiều ngày hôm nay. Đồ nghề của Phong được thu gọn trong một sắc tay bằng da nhỏ, phải nói một túi xách thì đúng hơn. Nhìn hình đáng bên ngoài trông cũng khá giống xắc tay của đàn bà.
Phong đợi đến gần giờ hẹn mới lấy xe hơi đến rước Quân trước và Minh sau. Trong lúc chỉ có Phong và Quân trên xe chàng dặn dò Quân một vài điều cần thiết. Phong sẽ chạy đi mượn một xe Honda nhỏ dựng sẵn một nơi nhất định cho Quân sử dụng trong trường hợp bọn gian rời phòng triển lãm bằng xe hơi. Phong vồn vã bắt tay ông bố của Minh. Ông này lo lắng cho con thái quá. Phong phải bật cười :
- Ông đừng lo. Tôi sẽ ở luôn bên cạnh Minh để săn sóc phòng bất trắc. Ông cứ yên chí đi làm việc như thường ngày.
Ông ta coi bộ cũng không yên tâm lắm. Coi chừng ông tiếc lời hứa hôm qua mà không cho Minh đi nữa thì kế hoạch của Phong đổ vỡ hết.
Chàng trấn an bằng lời quả quyết :
- Ông nhìn thẳng vào mắt tôi xem tôi là người thế nào...
- Tôi biết ông tử tế...
- Tôi bảo đảm là Minh sẽ bình phục sớm hơn cả tuần lễ... sau buổi đi chơi sáng nay.
Chàng bắt tay từ giã ông ở phòng trong nhà ông Lý Tường Phát. Ông lưu luyến nhìn Minh mãi mới chịu đi. Phong vào ngay phòng tắm hóa trang. Chàng đội thêm một mái tóc giả bù xù, bộ râu cố hữu Phong tiếc không muốn... cạo nên chàng dùng một thứ dầu nhuộm đặc biệt bôi vào biến nó thành một màu nâu nâu đỏ... phù hợp luôn với mái tóc giả. Thật là nhất cử lưỡng tiện. Phong lấy xe... taxi đi lại nhà một người bạn chàng gần đó. Anh ta còn ngái ngủ. Phong riễu :
- Làm gì mắt nhắm mắt mở thế kia ? Trông xấu trai quá.
- Tôi chưa kịp rửa mặt đánh răng nữa kìa… Mời anh vào chơi.
Phong hỏi :
- Xe Honda của anh tốt chứ ?
- Thì đều đều như thường.
- Sáng nay anh có xài đến không ?
- Anh...
- Tôi muốn hỏi mượn anh ngày hôm nay. Xe hơi tôi bỏ garage. Anh cũng biết thám tử mà không xe... thật chẳng khác chi cao bồi mất ngựa giữa sa mạc.
Anh bạn sốt sắng :
- Anh cứ lấy đi. Tôi nhờ anh bạn cùng sở bên cạnh đây chở đi làm một thể cũng tiện. Anh đừng lo cho tôi.
- Cám ơn anh lắm. Phong mượn luôn chìa khóa xe và... thẻ chủ quyên nữa để cho người xử dụng được hợp pháp. Chàng trở lại phòng triển lãm thì đã 8 giờ thiếu 5. Chàng đích thân đặt đôi vòng cẩm thạch vào bên trong hai chiếc hộp rất đẹp kia và tìm Quân giao chìa khóa xe và... rút lui lặng lẽ như bóng ma.
8 giờ 30 là khai mạc. Phong đứng lẩn vào đám đông ở xa xa. Chàng nhìn ông Lý Tường Phát hớn hở ra vào tiếp rước quan khách. Ông ta nhiều lúc không được đàng hoàng lắm, hơi nhún nhường đến độ tự hạ mình thái quá. Chàng cười trong bụng : - Nhà buôn mới cần chiều để lấy lòng người ta. Thám tử như mình dẫu nguy hiểm nhưng ung dung tự tại hơn nhiều. Khỏi phải ra luồn vào cúi làm con người... hèn đi. Mà có lẽ bản chất con người ông Phát như vậy. Ông có hai bản thể : một là nhà sưu tập hào phóng chịu chi, hai là con buôn chính hiệu. Lúc này ông đang so kè bớt một thêm hai... về thu đoạt cảm tình của những người có thể sau này thành một mối tiêu thụ hàng hóa của ông. Ông già ba Sang cũng tiếp tay phụ với bạn. Ông đang sang sảng :
- Thưa Quí Vị, Tôi mạn phép trình bày một chút về đôi vòng ngọc thạch. Quí Vị thấy về nước và màu sắc, độ bóng bảo đảm không có một đôi thứ hai nào có thể sánh được. Đôi vòng này của họ Chu ở bên Tàu và biểu tôi để đền ơn. Lúc đó cẩm thạch xanh và sau nhiều đời chôn theo dưới quan tài, nó đã đổi sang màu đỏ đều và toàn bích như quí vị đang thấy. Tôi đã cẩn thận đặt một số vòng giả khắp nơi để đánh lừa kẻ gian phi. Và mới ngày hôm qua đây, sự đề phòng ấy không phải là vô ích vì kẻ gian đã dám quật mồ ông Nguyễn Thân, anh ruột của tôi để đoạt… một chiếc vòng giả...
Đám đông cười ồ lên chế nhạo. Ông già tiếp :
- Tôi xin bảo đảm trên lương tâm của tôi một điều : đôi vòng quí vị đang ngắm nơi đây là vòng thật, vòng thật… Có phải không ông Lý Tường Phát ?
Ông Phát gật đầu :
- Bạn tôi vì tôi mà cho mượn đôi vòng trị giá đến nhiều triệu bạc. Tôi xin cảm ơn bạn trước tất cả quí vị đây. Ông tiến lại bắt tay ông già. Đôi vòng càng sáng lấp lánh tỏa hào quang màu đỏ quí giá hơn bao giờ hết. Phong kín đáo quan sát thái độ của tất cả mọi người có mặt trong phòng triển lãm, nhất là đám đông đang xúm xít quanh đôi vòng cẩm thạch kia. Các bà các cô thích nhất, có tiếng trầm trồ :
- Ước gì tôi có một đôi !
- Làm gì có đủ tiền sắm vòng cẩm thạch bây giờ. Nghe nói giá tiền lên đến nhiều triệu bạc.
Một bà khác thực tế hơn :
- Nhìn đôi vòng biết ngay là đồ quí kỵ phong gió, đeo tốt lắm. Nhưng có tiền chồng ngay tại chỗ chắc gì chủ nhân chịu bán. Ông ta cũng giàu có lớn.
Phong hơi thất vọng. Chàng chưa tìm được một kẻ nào có dáng điệu khả nghi đáng chú ý.
Chàng từ xưa vẫn tự hào là khó có ai qua mặt chàng được trên đời này nên đành giải thích là chắc bọn gian chưa đến phòng triển lãm đó thôi. Minh và Quan đứng bên phòng trong nhìn qua khe cửa thấy rất rõ. Minh cũng đang mỏi mệt vì đông người quá, hoa mắt lên thì một bóng người mặc áo veste màu tím rất sang trọng bước từ cửa vào. Suýt chút nữa Minh đã la lên nếu Quân không kịp bịt miệng bạn lại :
- Hắn đó.
- Hắn nào ? Mày nói rõ cho tao làm phận sự.
- Tên giả làm phu xe xích lô tông vào tao rồi sau đó dùng gậy gỗ khện tao đó. Hôm nay hắn chải đầu bóng láng, cạo nhẵn nhụi râu ria lởm chởm, lại mặc bộ đồ lớn nên lúc đầu tao nhìn không ra.
Minh dừng lại một chút rồi hậm hực :
- Tức quá ! Tao không nằm liệt dễ gì nó đứng ung dung thế kia được. Tao khện nó lại một cây sắt bể đầu mấy hồi.
- Tao theo nó nhé.
- Mày cẩn thận lắm mới được. Thằng đó giỏi võ, nhanh nhẹn lắm chứ chẳng vừa đâu. Mày nằm luôn là tao buồn... đứt ruột.
Phong chú ý đến một thanh niên mặt trắng, dáng điệu trí thức. Anh ngắm mãi đôi vòng ngọc dường như không biết chán. Duyên từ xa tiến lại gần, thân mật :
- Anh Hưng đến coi triển lãm phải không ?
- Đúng đấy Duyên ạ. Tôi nghe quảng cáo có đôi vòng ngọc thạch của gia đình Duyên nên đến xem. Sao lạ vậy hả Duyên ?
Phong càng lúc càng thấy Hưng có nhiều nét khả nghi. Hưng là bạn của Duyên và biết rõ chuyện xảy đến cho gia đình Duyên rồi - chỉ cần nghe cách nói chuyện của Hưng là biết - nhưng giữa chỗ đông người anh ta gợi chuyện đó ra làm gì ? Phàm cái gì người ta muốn dấu, mình không nên hỏi tới. Duyên suỵt nhẹ :
- Anh Hưng theo Duyên ra đây. Duyên nói cho nghe.
Phong lảng vảng theo hai người bạn trẻ một cách kín đáo. Duyên không thể ngờ được rằng chú Phong lại chỉ cách mình có vài thước ngắn ngủi mà thôi. Phong mỉm cười. Chàng biết Duyên sẽ thi hành đúng kế hoạch của chàng.
- Anh Hưng đừng nói với ai hết nghe. Vòng mất là vòng giả đó.
Hưng vặn lại :
- Đó là sự thật mọi người ở đây đều biết công khai vì ba Duyên mới nói ra miệng ban nãy mà. Sao Duyên lại bảo tôi dấu chuyện đó ?
Duyên thoáng biến sắc. Phong đứng xa cũng lo dùm cho cô. Chàng biết Duyên không quen… nói dối trí trá như chàng. Nhưng vô cùng bất ngờ, Duyên bảo :
- Anh Hưng nghĩ cũng phải. Nhưng hai chiếc vòng mất thì... Một thật một giả.
Những lời sau cùng Duyên hạ giọng thấp nghe như những tiếng thì thầm. Phong là người đứng gần cô nhất. Dĩ nhiên không kể Hưng. Trong đám khách đến xem triển lãm và chàng thính tay đặc biệt thế mà cũng chỉ nghe được thoảng qua như hơi gió. Chắc chắn rằng ngoài Phong và Hưng ra, mọi người trong phòng hiện diện không thể biết được là Duyên đang nói gì.
Hưng cười :
- Vòng nào thật vòng nào giả ?
Duyên bí mật :
- Thiên cơ bất khả lậu !
Hưng cũng chẳng hỏi thêm gì nữa. Anh ta hẹn với Duyên một buổi đi chơi vào tuần tới bằng ca nô trên sông Sàigòn. Duyên vui vẻ nhận lời. Phong bám sát Hưng như hình với bóng. Và bóng là bóng ma vì người bị theo không thể phát giác ra được. Chỉ thoáng cái Hưng rời phòng triển lãm và ra xe hơi Citroen đậu sẵn có tài xế lái. Phong nhìn thấy băng sau chễm chệ một bóng dáng và khuôn mặt quen thuộc : Chu Quốc. Chiếc 2 CV lập tức vọt đi như tên bắn. Xe cũ kỹ ọp ẹp nhưng máy rất mạnh và êm như ru. Phong vội vàng vòng ra xe hơi của chàng rồi đuổi theo ngay. Phong thấy xe cộ dần dần thưa thớt. Chiếc 2 CV rẽ vào một hương lộ nhỏ. Đường đất xe chạy tung bụi mù mịt có tác dụng đối với Phong tựa như một con dao hai lưỡi. Vừa che chở cho chiếc 2 CV dễ dàng biến mất vừa... che chở cho xe Renault của chàng khó bị phát giác theo dõi chúng hơn.
Đang ngon trớn trên đường với tốc độ gần 80 cây số giờ bỗng Phong thắng lại rất gấp. Xe chàng cách chiếc 2 CV chừng mười thước tây. Rất may chàng phản ứng lẹ và thật tinh mắt, nếu không với tốc lực 80 cây số giờ và đám bụi mù kia thế nào hai xe cũng tông vào nhau dữ dội.
Phong càu nhàu :
- Đường xấu mà tụi nó ham chạy mau. Bộ chúng muốn ta ăn bụi hay sao chứ ? Chẳng bao giờ địch thủ của Phong phát giác được là bị chàng theo dõi. Phong cũng không tin lần này là ngoại lệ. Chàng nghĩ bụng chắc bọn gian làm chuyện lén lút nên chúng luôn luôn hấp tấp. Phong vọt xe qua mặt chiếc 2 CV đang đậu lại bên lề đường.
Chàng cố ý phóng thật nhanh và rất bất ngờ lao vút qua chiếc 2 CV để bụi đường xoáy thành cơn lốc nhỏ tung lên như một đám mây. Phong thành công vì chàng thoáng liếc qua thấy mấy người đang ngồi trong chiếc 2 CV quay mặt đi ôm lấy hai mắt. Tên tài xế buột miệng một câu chửi thề tục tĩu.
Thế này thì chúng không thể nhận ra chiếc xe hơi đang vượt qua là xe của thám tử Phong. Đáng tiếc !à chúng không có đôi mắt trổ phía sau lưng. Phong dừng xe trước cửa một quán cà phê nhỏ xíu cách chỗ chiếc 2 CV đậu chừng 50 thước. Quán cà phê trông ra hai mặt đường và Phong đậu xe hơi của chàng theo con đường ngang trong lúc chàng chọn một chiếc bàn ở mặt tiền con đường dọc và quan sát về hướng chiếc Citroen, Hưng bước xuống xe và Chu Quốc cũng bước xuống. Hai người nói chuyện bằng lời và bằng... cả dáng điệu nữa nhưng Phong không đoán được nội dung câu chuyện trao đổi giữa hai người. Lờ mờ chàng biết là Hưng đang nói về chiếc vòng ngọc thạch vì anh ta chỉ trỏ vào cườm tay. Chu Quốc lắc đầu có vẻ phản đối. Hưng cãi lại. Một lúc khá lâu Hưng đưa tay cho Chu Quốc bắt tỏ ý muốn từ giã để chấm dức cuộc cãi vã. Chiếc 2 CV quay đầu trở lại Sàigòn. Phong vội vã trả tiền, lấy xe hơi rượt theo nhưng xe chàng… kẹt đèn đỏ. Chàng đành dương mắt nhìn chiếc Citroen mất hút phía xa xa. Phong không phải là người có thói quen hay tiếc nuối. Chàng phân vân chẳng biết có nên đập cửa nhà Hưng hay không trong một giây rồi dứt khoát thái độ. Tạm thời chàng chưa nên chạm mặt Hưng, người mà Phong tin là có liên hệ với kẻ cướp. Nếu Hưng trong sạch, vô tội thì sao chàng ta hỏi vặn vẹo, điều tra Duyên để báo cáo với Chu Quốc ngay sau đó làm gì ? Phong ngờ là bọn cướp có nội ứng và kẻ nội ứng cho chúng là Hưng, bạn thân của Duyên.
Một tia sáng lóe lên ngời sáng trong đầu Phong : Hưng chính là người giật chiếc vòng ngọc đeo ở cổ tay Duyên trong buổi lễ họp mặt mấy ngày trước. Rất có thể như thế lắm. Quân theo sát nút tên lạ mặt mặc veston màu tím. Hắn ta đi quanh co trong phòng triển lãm rồi sau cùng dừng lại rất lâu ở món nữ trang, vòng, kiềng của bà hoàng hậu Trung Hoa đời nhà Thanh nằm ở trong tủ kính sát bên cạnh chỗ trưng bày đôi vòng huyết dụ. Hắn luôn luôn liếc sang bên cạnh. Quân muốn chạy lại bắt nọn hắn một câu xem có kết quả chi không nhưng rồi dừng chân đứng lại. Nhanh nhẩu đoảng chắc chắn sẽ bị anh Phong la. Phải tạm thời dấu kín tông tích, hành vi của mình tới lúc nào hay lúc ấy. "Hắn" quay sang bên cạnh hỏi một cô giúp việc của ông Phát :
- Đôi vòng này bán không cô ? Tôi muốn mua…
Cô lắc đầu :
- Ông Phát được người bạn cho mượn trưng đấy thôi. Tôi chắc ông sẽ không được vui lòng lắm vì đôi vòng không bán.
"Hắn" nhất định :
- Giá bao nhiêu tôi cũng mua. Miễn là tôi được xem qua tận tay để biết giá trị vòng thật hay... vòng giả.
Nếu Phong còn ở lại trong phòng triển lãm - nói thế vì chàng đã ra ngoài theo dõi Hưng và Chu Quốc từ 15 phút trước - ắt chàng sẽ phải bỏ... Hưng để bám lấy tên áo tím, một mục tiêu rõ rệt hơn. Quân cố nén lòng nghe tiếp câu chuyện :
- Tôi rất tiếc. Tôi đã bảo là vòng không bán. Nếu ông muốn hỏi thêm xin mời vào gặp thẳng ông chủ tôi, ông Phát.
"Hắn" vội rút lui :
- Cám ơn cô. Tiếc cho tôi quá. Chào cô.
Hắn nấn ná, ngắm nhìn đôi vòng trân trân một lần chót rồi rảo bước ra cửa. Quân lẽo đẽo theo sau. Tên lạ mặt vẫy một chiếc taxi vừa trờ tới và leo lên. Quân lấy xe Honda và theo dõi, nó cẩn thận chạy xa chiếc taxi một chút vì đường vắng và nó chưa... tin hẳn vào tài thám tử của mình. Chiếc taxi ra đến lộ, trực chỉ Thủ Đức. Đến làng Đại Học taxi ngừng lại. Tên áo tím bước xuống xe, đi bộ vô trong. Quân dựng xe Honda ở một xó tối để tiện theo dõi bằng... hai chân hơn. Tên mặc áo veste đang đi nhanh bỗng chậm lại. Quân chỉ cách hắn độ 10 thước. Nó vội thụt vào nấp sau bụi dâm bụt lòa xòa. Quả nhiên "hắn" ngó lại, mắt láo liên như sợ có người đi theo. Bỗng một đứa nhỏ chừng 10 tuổi chạy ra :
- Anh vào nhà để anh Bảy hỏi thêm chuyện gì ?
- Ừ.
Chỉ một tiếng ừ cộc lốc. Cánh cửa phòng khách của căn nhà số 18 lô H đóng lại. Quân đến ngay trước cửa sắt, núp sau cây cột gạch to lớn nhìn vào trong nhà. Nó phải hơi thụt xuống dấu cái đầu đen đen vì nó cao hơn cây cột. Quân cười tươi, tự nhủ : - Hên mình quá đi. Cửa phòng khách đóng thì cửa sổ… cũng đóng. Nhưng là cửa kính trong suốt nên bọn chúng bàn những gì mình chỉ cần nhìn miệng mấp máy là đoán biết hết. Thực tế Quân chẳng may mắn chút nào. Nó đã tưởng bở. Bọn gian có ngồi ở cửa sổ, môi mấp máy thực, nhưng lại là… tiếng Tàu. Quân cũng lâm vào hoàn cảnh như Minh trước đây ở quán hủ tiếu Lợi Ký. Thật tức chết đi được.
Nửa giờ sau, bọn chúng mở toang cánh cửa lớn phòng khách. Một tên mặt rỗ hoa oang oang… bằng tiếng Việt :
- Coóng à. Mày đừng ỷ được ông chủ cưng mà làm tới với tụi tao. Nếu cần tao sẽ giết mày !
Tên mặc áo veston tím cười lạt :
- Tao rất sẵn lòng so tài với mày nhưng phải sau buổi họp tối nay ở kho hàng đã.
- Tụi mình có nhiều kho quá. Mày muốn nói kho nào?
- Kho của hãng Mạnh Tư.
- Mày nhất định mấy giờ đi cho tao sửa soạn ?
- 2 giờ sáng.
- Tốt lắm.
- Tốt lắm. Quân suy nghĩ một chút rồi lẩn ra chỗ dựng xe. Nó phải về Sàigòn báo cho anh Phong hay tin này mới được. Bọn gian sẽ hội họp ở kho hàng Mạnh Tư đường Khổng Tử vào đêm nay trước 2 giờ sáng. Phong, Minh và Quân họp nhau ngay ở nhà của Phong. Phong hỏi :
- Có phải tên say rượu trước tiên hồi sáng hôm qua là tên mặt rỗ không ?
Minh nhớ lại trong trí gật đầu :
- Đúng hắn đấy anh Phong. Vậy hắn là một phần tử bất mãn trong tổ chức.
- Còn tên Bảy là đứa nào?
- Em không biết.
Phong xoa đầu Quân :
- Em giỏi lắm. Nhờ có em đêm nay bọn chúng khó thoát khỏi lưới pháp luật. Anh và nhân viên sẽ chờ chúng ở kho hàng của hãng Mạnh Tư. Chắc ăn anh cho bố trí từ chiều, sâm sẩm tối.
- Tên giả phu xích lô tên là Coóng. Em thấy nó có dáng điệu của một kẻ cầm đầu lũ gian phi.
- Anh biết rồi. Thôi hai em ở lại đây. Anh ra Sở Cảnh Sát bàn tính kế hoạch phối hợp.
Phong đi rồi, Minh buồn bã bảo Quân :
- Chắc tối nay tao phải ở nhà. Tao còn đau đầu và ba má tao sẽ không cho phép tao đi.
Quân quả quyết :
- Tao tin mày sẽ được đi. Vì có anh Phong xin phép dùm cho.
- Tại sao anh ấy xin phép ?
- Là vì mày nhận biết mặt sáu tên trong bọn gian. Nếu chúng thoát chạy và lẩn vào dân thì phải cần đến mày nhận diện chúng trong số những người lương thiện để việc điều tra dễ dàng và mau lẹ hơn. Minh sung sướng :
- Mày có lý. Ôi ! Tao sung sướng đến chết đi được. Tao sẽ được đi tối nay. Quân lấy làm lạ :
- Mày không thích ở nhà ? Ba má mày cưng mày lắm mà.
- Đành là thế. Nhưng ở nhà nhiều quá cũng chán.
Minh nói tiếp giọng vững tin :
- Mình sẽ thành công.
- Tao cũng tin thế nhưng nói thật mày đừng giận…
- Nói đi.
- Màv hơi quá chủ quan.
Minh chứng minh một cách cụ thể :
- Tao không lạc quan quá đáng đâu. Đây mày xem ngày hôm nay mình bắt tay vào việc với tất cả những xui xẻo. Tao bị thương nằm một chỗ, anh Phong vì quá cấp bách không mượn được xe khác để làm chân chạy đã phải dùng xe cũ của anh. Thế mà tụi gian không nhận ra xe anh, cũng chẳng hay là bị mày theo dõi. Làm việc gian mà như thế là đến ngày tàn.
- Và bây giờ mày tin là càng lúc mình càng hên hơn ?
- Phải. Vận may bám dính mình rồi. Tao tin là mình sẽ là kẻ chiến thắng trận sau cùng.
- Tao cũng… ráng tin như thế.

Phong và Minh cùng các nhân viên cảnh sát bố trí đã có mặt ở những địa điểm xung quanh kho hàng Mạnh Tư. Còn Quân và một hai nhân viên nữa thì canh chừng căn nhà ở trên hương lộ, nơi Hưng đang ở. Phong sợ ở kho hàng bọn gian hội họp đông đảo sẽ kháng cự mãnh liệt hơn nên cần đến đông nhân viên hơn. Bầu không khí căng thẳng lạ thường tiếp diễn đến 10 giờ đêm. Bắt đầu là tên mặt rỗ hoa vào kho rồi đến những đồng bọn khác. Coóng và hai tên nữa không thấy mặt đâu cả. Rồi Chu Quốc và một người đàn ông Trung Hoa còn trẻ - đó là Quách Tràng - tổng cộng Phong đếm được 5 người vào kho. Tất cả đều quen mặt với Minh ngoại trừ Quách Tràng. Chúng toàn nói tiếng Tàu xí xố. Lần này chúng không qua mặt được ai nữa vì đã có Phong... làm thông ngôn cho tất cả các bạn đồng nghiệp.

Ngay phút đầu tiên chàng đã biết được tên Quách Tràng. Phong lắng tai nghe cuộc thảo luận rất ngắn của chúng qua một cái máy nghe có sức hoạt động cực mạnh dùng thu tiếng nói của những người trong kho :
- Anh Tràng có thể bắt đầu cuộc cầu hồn được rồi.
- Khoan đã ông Chu, tôi muốn nói một câu.
- Mày nói đi Bảy.
- Ông Chu phải loại thằng Coóng. Nó ăn chặn đầu bớt đuôi của chúng tôi.
Có tiếng cười ha ha vang dội. Rồi tiếng Chu Quốc nói :
- Tao sẽ đền bù thiệt thòi cho mày và các anh em khác... sau khi đào lấy được kho tàng…
Phong vô cùng sửng sốt. Chàng nghe nói :
- Bây giờ thì mày có chịu im cái miệng ngay đi không ? Chúng tao mất bao công phu mới tìm lại được đôi vòng. Tao nói để mày rõ, đôi vòng này là tín vật để người chết canh giữ kho vàng chịu nhập vào xác phàm trỏ chỗ và cho phép người nhà họ Chu lấy đi. Ông tổ họ Chu sợ con cháu xài phí tiêu tán hết sản nghiệp khổng lồ và vì thời kỳ loạn lạc, giặc cướp nổi lên như rươi mới đem kho tàng chôn dấu, kỳ hạn chừng nào đôi vòng ngọc đã được yểm này màu đỏ huyết là lúc ấy con cháu có thể lấy kho tàng. Chu Quốc hình như hứng chí lại tiếp tục thao thao bất tuyệt :
- Đáng tiếc là tao không biết đây là vòng thật hay giả nên chưa mang đôi vòng đi xa khỏi Sàigòn. Tao không muốn chọc giận thần giữ của nhưng giờ đây đành thử thách vậy. Thằng Hưng bảo tao là đôi vòng tụi mình lấy được một thật một giả. Tao cứ làm đại cho mau đạt kết quả. Thế này nhé : Nếu một thật một giả thì thần giữ của sẽ không hiện lên chỉ chỗ và ngày mai mình sẽ tiếp tục tìm cách đoạt đôi vòng triển lãm. Còn hai cái vòng đều thật thì chúng mình sẽ thành công ngay đêm nay. Sáng mai dông sớm.
Quách Tràng xen vào :
- Không thể vì chuyện xích mích nhỏ mọn giữa thằng Coóng và thằng Bảy mà làm hư đại sự chúng tao. Thằng Coóng sẽ phụ trách việc đào tìm kho tàng trong đêm nay. Muốn thanh toán nhau thì sáng mai sẽ hay. Anh Quốc này, tôi chỉ giận thằng Hưng.
- Nó còn trẻ con quá anh Tràng.
- Trẻ con gì. Nó là cháu ruột anh, dù làm con nuôi họ khác vẫn là cháu anh. Nó không chịu giúp sức mình. Tôi ướm thử xa xôi mấy lần nhìn thái độ biết không được là bỏ ý định lôi cuốn nó ngay.
- Tôi cũng đâu dám ép một tên miễn cưỡng vào bọn mình. Tôi vờ như vô tình hỏi về đôi vòng ngọc nhà họ Chu của mình, nó thẳng thắng cho biết hết... trong cơn say rượu. Nó chắc chắn không biết là tụi mình tổ chức đoạt lại đôi vòng ngọc gia bảo. Sáng ngày nay tôi vờ tranh luận chọc cho nó tức, nó sùng lên phun ra rằng con Duyên bạn nó bảo rằng đôi vòng một thật một giả. Ha ha... ha ha... khi tôi muốn khai thác ai thì chẳng bao giờ nạn nhân đỡ đòn được cả.
- Nhất anh rồi.
Quách Tràng bỗng gằn giọng :
- Tao cảnh cáo thằng Bảy lần chót. Mày không được nói tiếng Việt lúc bàn chuyện. Bộ mày muốn cả Sàigòn này sôi lên đi lùng kiếm tụi tao sao ?
Một người nữa lù lù xuất hiện. Ông ta người Tàu, người gầy đét như con mắm từ một gian phòng nhỏ xíu tối tăm ở góc trái nhà kho đi ra. Chu Quốc, Quách Tràng đồng kính cẩn :
- Kính chào bác.
- Giờ này tốt. Chúng mày thắp hương lên bàn thờ để tao bắt đầu lễ cầu hồn.
- Cháu rất cám ơn bác giúp đỡ.
- Đừng khách sáo.
Chu Quốc đổt hương lên. Đèn le lói trong kho hàng được tắt nốt đi. Trên bàn thờ có vẽ một người con gái xõa tóc trên nền giầy ngả màu vàng. Trầm hương nghi ngút. Những lá bùa lạ lùng chằng chịt như mạng nhện trên những miếng giấy bồi cứng dựng đứng. Có thêm cả một tấm gương soi phản chiếu sáng quắc trong bóng tối.
- Thắp nến nữa chớ.
- Dạ thưa cháu quên, Bác đợi cháu một chút.
Ánh nến vẫn chẳng làm cho không khí bớt thê lương huyền bí chút nào. Ông già kia ngồi yên lặng, mắt nhắm nghiền như xác chết một lúc lâu. Nến cháy bập bùng gần hết. Bọn Quách Tràng, Chu Quốc lặng thinh không dám hỏi han cử động mạnh. Ông già từ từ đeo hai chiếc vòng ngọc đỏ lấp lánh vào hai cổ tay. Ông lim dim thả hồn đi đâu ấy.
Từ nãy giờ Pbong và những nhân viên cảnh sát nhìn qua một khe vách nhỏ ngang hông kho hàng vào bên trong. Tên Bảy gác cửa nên không thấy những người bí mật đang thi hành phận sự này. Minh và Phong có cảm giác lạc loài vào một thế giới khác, lùi lại hàng ngàn năm khi con người còn thờ thần sông, thần sét, thần sấm chớp, thần mưa, thần gió, Minh buột miệng :
- Không hiểu hồn người chết giữ của có về thật hay không hả anh Phong ? Chúng cầu hồn theo nghi lễ gì thật kỳ dị.
- Làm quái gì có hồn người chết về. Không tin em rán chờ kết quả lát nữa sẽ rõ. Chúng sẽ thất vọng vì không tìm ra kho tàng… tưởng tượng đâu. Nói thế nhưng Phong cũng không chắc chắn là mình nói đúng. Khoa học hiện thời có nhiều điều chưa giải thích thỏa đáng được. Tuy thế Phong vẫn không tin là có ma, có hồn người chết thật.
Bên trong ông già bắt đầu nói lảm nhảm. Phong cố lắng tai nhưng chàng đành chịu thua.
Ông ta nói quá nhỏ, không thể nghe rõ được. Giọng ông cao lên từ từ, nghe lanh lảnh như tiếng đàn bà :
- Thần nữ truyền cho con cháu nhà họ Chu được phép hỏi.
- Bẩm Thần nữ ngài có cần dùng chi không ? Chu Quốc nói.
- Không.
- Chúng con xin cầu ngài chỉ chỗ chôn kho tàng. Chúng con rất muốn ngài được siêu thoát.
- Ở trong ngôi nhà thờ họ Chu.
Quách Tràng sửng sốt :
- Nhà thằng Hưng đang ở đấy anh Chu Quốc. -
Bẩm Thần Nữ trong nhà thờ ở phòng nào ?
- Ngay phía dưới bàn thờ. Rồi ông già ngừng nói, đầu cũng lảo đảo chậm lại không thành vòng tròn như trước. Ông hét lên một tiếng sắc nhọn rồi gục đầu xuống.
Chu Quốc la lên :
- Thần Nữ thăng rồi. Anh Tràng lấy dùm tôi cái máy vô tuyến gọi cho thằng Coóng.
Quách Tràng lấy một cái máy liên lạc, thứ Cảnh sát vẫn dùng đưa cho Quốc. Chu vội vàng vặn máy hoạt động nói vỏn vẹn mấy chữ :
- Coóng đào cho tao ở nhà thằng Hưng, dưới nền gạch tàu, vị trí dưới bàn thờ tổ đó nghe.
- Thưa phải khiêng bàn thờ sang phòng bên sao ?
- Ừ. Mau lên. Quốc nói Phong nghe hai bên đối đáp không sót một chỗ nào. Ông Cò vội dùng máy vô tuyển liên lạc với nhân viên bao vây chung quanh nhà Hưng sửa soạn ập vào. Ông Cò tiến lại gõ cửa kho hàng. Một người Cảnh sát hô lớn :
- Mở cửa mau. Cảnh sát.
Không có tiếng trả lời. Phong vẫn nhìn qua khe hở. Chàng thấy năm tên gian rút dao trong túi vải dài chúng mang theo từ xe hơi. Phong chờ đợi những giây nghẹt thở sắp tới và chàng sẵn sàng tiếp tay với nhân viên Cảnh sát chế ngự bọn gian. Ông già lẳng lặng rút một khẩu súng tiểu liên ra cầm tay. Ông bảo bọn kia :
- Dao của chúng mày có ích gì. Liệu tẩu đi tao cản hậu.
- Bác đưa súng cho cháu. Quách Tràng năn nỉ.
- Không được. Tao đã quyết.
Phong nháy mắt ra dấu cho ông Cò. Chàng lấy súng lục cầm tay ngắm nghía cẩn thận qua khe hở và bóp cò. Đoàng ! Viên đạn bay ghim đúng vào cổ tay ông già. Khẩu súng máy rớt xuống sàn kêu một tiếng khô khan. Nhân viên Cảnh sát đang tông cửa tiến vào. Họ gặp khó khăn trong nửa phút vì ổ khóa quá chắc. Bọn gian bên trong nhốn nháo. Quách Tràng toan nhặt khẩu súng lên nhưng Phong đã quát rất lớn bằng tiếng Tàu :
- Sờ đến súng là chết.
Chàng dọa, bắn phớt qua tóc hắn. Hắn lùi lại ngã bệt ngồi bất động trên mặt đất. Viên đạn thứ hai của Phong ghim vào vách ván sâu hoắm. Năm tên và ông già Tàu lần lượt bị còng tay dẫn ra xe về Ty Cảnh sát. Ông Cò đã phải dùng súng bắn bể ổ khóa cửa kho. Phong chạy xe như bay biến đến hương lộ… thăm Hưng. Chàng đã rõ rằng Hưng chỉ vì vô tình bị lợi dụng cung cấp tin tức cho bọn gian còn thực ra Hưng vô tội. Đang lái xe hết tốc lực Phong chợt nhớ ra : - Đầu óc ta mau quên quá. Sao ban nãy ta không nhắc ông Cò về việc bảo vệ sinh mạng cho Hưng. Hưng cũng ở trong nhà ấy có thể bị coi là cùng bọn với thằng Coóng. Ông Cò cũng đang dùng xe Jeep đi theo Phong. Xe của Phong không có máy vô tuyến nên chàng chạy chậm lại, đợi xe Jeep vượt ngang qua. Ngay khi hai xe chạy song đôi, Phong nói lớn :
- Ông Cò nhớ bảo nhân viên bao vây chú ý đến Hưng nhé. Anh ta vô can trong vụ này.
- Anh yên chí. Ông Cò đáp.
10 phút sau xe Cảnh sát đỗ trước ngay cửa nhà Hưng. Bên trong sao vẫn im lìm. Đèn tắt tối thui. Ông Cò nóng nảy :
- Nhân viên của tôi ? Trời ơi !
- Ông đừng nóng. Chắc là có gì lạ một chút mà thôi. Phong rút súng lục cầm tay lao vào trong nhà. Đèn pin cực mạnh trên tay Phong rọi một vùng ánh sáng chói chan vào nhà. Đồ đạc nguyên vẹn. Một khoảng đất bị đào tung lên. Phong cúi xuống quan sát kỹ. Một vật gì óng ánh sáng, Phong nhận ra là tượng Phật bằng vàng : Kho tàng đã bị lấy đi mất rồi. Ông Cò bảo :
- Sao lạ thế này tụi chúng biến đi đâu ? Phong lầm lũi đi tới ngõ sau. Chàng thở dài nhìn theo bóng trăng soi tràn ngập bãi cỏ rộng :
- Chúng tẩu thoát mất rồi. Ông Cò có biết sao không ? Thằng Coóng quả là tay thủ đoạn. Tôi đoán là nhân viên của ta sơ xuất thế nào đó, chúng đã phục sẵn quanh đây - tôi biết chúng luôn luôn phái người canh chừng Hưng - hạ gục.
Ông Cò có để ý đến giọng nói của nhân viên trả lời máy vô tuyến không ?
- Lúc ấy vội quá. Anh để tôi nghĩ lại… đúng rồi tiếng nói hơi lạ… anh ta trả lời tôi rất ngắn ngủi, đoạn cuối lại thêm là đã báo cho cảnh sát địa phương rồi. Tôi yên trí, ai ngờ… Phong cũng phải thán phục bọn gian :
- Thằng Coóng là tay quyền biến lắm. Thế này là hai năm rõ mười. Bọn gian phi đã dùng máy vô tuyến của Cảnh Sát để gọi cho ông giả dạng nhân viên công lực đấy. Cho đến bây giờ sở Cảnh sát địa phương vẫn chưa biết gì cả. Lúc chiều chúng ta cũng không muốn tiết lộ việc ấy sớm quá vì lý do bảo mật.
- Mình làm sao đuổi theo chúng bây giờ ? Còn em Minh nữa ? Hưng ở đâu mà cũng mất dạng ? Anh có cần thêm nhân viên cảnh sát nữa để tôi gọi liên lạc với Sở Địa Phương.
- Cám ơn ông. Giờ này đã khuya lắm rồi. Quá giới nghiêm. Vậy chúng di chuyển bằng đường thủy. Phong quả quyết như đinh đóng cột.
- Tại sao ? Anh nói mau lên cho tôi làm việc.
Phong như trêu tức sự lo lắng và giận dữ của ông Cò. Chàng chậm rãi : - Thưa ông, chúng mang nặng, cả một rương vàng bạc hay có thể nhiều rương là khác, tất không thể khuân bộ được. Nếu đi bằng xe hơi ắt bị chặn xét và sa lưới ngay. Phương pháp trốn thoát an toàn nhất là lén chở vàng bạc xuống thuyền nhỏ chèo đi sát bờ. Tuy rằng vẫn nguy hiểm nhưng đỡ hơn đường bộ nhiều. Tôi đã để ý là phía sau căn nhà này là một bãi cỏ rồi dẫn đến một con rạch. Chúng có thể thừa thông minh để đánh cắp một con thuyền nhỏ nào đó và ra đi... vĩnh viễn.
Phong tiếp :
- Xin ông liên lạc dùm với sở Cảnh Sát để gặp ông chủ hãng chuyên chở Mạnh Tư.
- Để làm gì ?
- Tôi đoán tên Coóng có thể liên lạc với Chu Quốc để hy vọng sẽ được một tàu nhỏ hay xuồng máy ra đón khi trời vừa sáng. Tôi định sẽ dùng ngay gậy ông đập lưng ông. Chúng ta sẽ không để cho Coóng thất vọng. Ông Cò cười tươi :
- Nghĩa là tàu của hãng Mạnh Tư đón hắn như dự định và ta sẽ... còng đầu ba tên khốn kiếp ấy ngay trên tàu.
- Phải.
Phong quan sát chung quanh một lúc lâu nữa rồi chàng bảo :
- Tôi chỉ lạ là em Quân sao biến dạng.
Những nhân viên Cảnh sát đã tìm ra được Hưng và các người bố trí lúc chiều bị đánh gục bằng báng súng và bị trói như khúc giò, nhét giẻ vào miệng thật chặt. Họ bị thương khá nặng. Phong chỉ hỏi sơ qua rồi để xe Hồng Thập Tự chở họ đi nhà thương ngay. Cả khu đèn đuốc sáng trưng. Bóng những nhân viên Cảnh sát ra vào rầm rập.
Phong gật gù :
- Tên Coóng ở trên thuyền ắt đang cười ta bất tài. Nhưng rồi chính nó sẽ nhận ra là nó bại trận sau cùng.
Tiếng máy vô tuyến của ông Cò rè rè nổi lên. 10 phút sau ông xoa tay đắc ý :
- Nhân viên của tôi đã bắt được luồng sóng điện cầu cứu Chu Quốc của Coóng. Họ đã ép buộc Chu Quốc trả lời đúng theo kế hoạch của ta mới vạch ra.
- Nhân viên của ông có rành tiếng Tàu không ?
Phong lo lắng hỏi. Ông Cò cười xòa :
- Anh yên chí. Chính anh nhân viên đó... là người Tàu mà. Chu Quốc không thể báo hiệu cho Coóng bằng bất cứ mật khẩu nào trước áp lực của mũi súng và nhân viên chuyên nghiệp về mật khẩu.
- Ông chu đáo quá.
Phong thành thật khen ngợi. Và chàng nói :
- Ông còn dấu tôi một điều. Quân bị bắt làm con tin trên ghe. Coóng sẽ làm thịt thằng nhỏ nếu chúng ta không khéo léo.
Ông Cò ngạc nhiên sững người :
- Sao anh biết hay vậy ? Quả thật anh trách là oan cho tôi, tôi chưa kịp nói.
Phong đủng đỉnh :
- Đó là lý do khiến tôi không bảo ông đuổi theo ghe của Coóng, dù rằng hắn... chèo tay và mới đi trước chúng ta độ 10 phút.
Ông Cò đồng ý :
- Chó cùng cắn quẩn. Nếu Coóng biết ta đuổi theo mà làm liều thì nguy hiểm lắm.
Phong vội vã ra xe hơi. Ông Cò hỏi, chàng chỉ đáp :
- Tôi vào nhà thương để xin lỗi và an ủi Hưng.
Chiếc xe vọt đi trong bóng đêm. Khi đi ngang ông Cò, Phong nói với lại :
- Ông Cò có thể về nghỉ và ngủ ngon đến 5 giờ sáng. Và đến thăm toàn thể bọn gian vào sáng mai.

Chương 7. Đoạn kết (hết)
Phong, Minh, Sang và Quân họp mặt ở biệt thự Cao-Duyên-Sang. Ông già ba Sang, anh Cao, chị Duyên và anh Hưng, bạn của Duyên đều có mặt đầy đủ. Minh đã khỏi hẳn vết thương ở đầu. Chị Duyên đã đùa :

- Minh và Quân có thể làm em nghề nghiệp của chú Phong.
- Chị gọi anh Phong bằng chú vậy chúng em chị kêu bằng gì ?
Duyên đớ người trước câu hỏi lắc léo của thằng Minh. Nhất thời cô trả lời không xuôi. Cô biết mình hớ. Sang nói theo :
- Em là bạn của Minh nghe chị.
Phong xen vào "hóa giải" đòn độc của hai thằng bé :
- Thì chị Duyên sẽ kêu Minh và Sang bằng... em.
Quân tán thành :
- Em sẽ mãi mãi là em của chị.
Minh và Sang cụt hứng. Phong phải bảo :
- Thua keo này bầy keo khác các em ạ.
Thật là mồm miệng nhà thám tử… chuyên môn đổ dầu vào lửa cháy. Minh toan tìm lời trả đũa thì Phong lãng ra :
- Quân kể cho anh nghe em bị bắt dưới thuyền chở đi thế nào.
- Bọn chúng lợi hại lắm anh ạ. Em đang đứng nói chuyện với một ông Cảnh Sát cho qua thời giờ thì bị đánh lén. Em chưa gục hẳn vì nhờ lúc trước có tập võ. Tên Coóng liền bồi thêm một cú lên gối vào chấn thủy. Em mê đi. Lúc tỉnh dậy em nhìn thấy sao đêm soi vằng vặc trên bầu trời đen thẳm. Em đang nằm trên một tấm ván bồng bềnh trên sóng nước... Phong khen :
- Em vừa là thám tử lại có tài văn chương nữa.
Quân hơi đỏ má. Phong tiếp :
- Sao em ngừng lại ? Kể tiếp đi chứ. Em nên... để ý đến những lời khen nhiều hơn lời chê...
Thấy Phong nói chuyện ngược đời, Duyên xen vào hỏi :
- Chú nói gì lạ quá...
- Vì lời khen dễ làm mình sung sướng hơn lời chê hay tạo ra cho tâm hồn những thắc mắc. Sống ở đời người ta cần hạnh phúc, sung sướng nào ai thích thắc mắc bao giờ.
- Chú không cần sửa mình để tiến bộ hơn hay sao ?
Phong ranh mãnh :
- Chú từ nhỏ đến giờ vẫn chứng nào tật nấy chẳng sửa được tí nào. Thí dụ như bệnh chủ quan và… tự kiêu chẳng hạn. Còn Duyên thì sao ?
Cao nói hớt :
- Con nhỏ này giống chú như đúc. Chú cháu… thông thường vẫn không khác nhau bao nhiêu.
Duyên đỏ mặt, cô bảo :
- Anh Cao cũng là cháu chú Phong đấy nhé. Đừng ngạo em.
Ông già cười bảo Phong :
- Đấy anh xem. Anh em một nhà mà luôn luôn như thế đấy.
Phong dễ dàng :
- Có thế mới vui chứ. Như đôi bạn thân Quân và Sang trước mắt anh đây hợp nhau là ở điểm... luôn luôn bất đồng ý kiến.
Ông già nói :
- Ông Lý Tường Phát bây giờ thích anh lắm. Ông ta bảo nhờ anh cổ động dùm mà ông bán thêm được lời cả triệu bạc tháng này. Ông ta muốn mướn anh làm nhân viên giao dịch chiêu hàng nếu lúc nào anh chán nghề thám tử.
Phong đùa :
- Ông ta có chia cho tôi huề hồng lần này không ?
Ông già trợn mắt :
- Có chứ. 20 phần trăm nghĩa là anh được chia chừng ba trăm ngàn.
- Hân hạnh cho tôi quá. Giao tài mà nhân nghĩa không tận còn được hưởng của... trời ơi.
Quân nói :
- Anh Phong khao tụi em đi chứ. Anh nhờ tụi em công tác lu bù mà.
- Kể công với anh phải không ? Được rồi. Nếu một em nào trả lời được câu hỏi của anh thì anh trả công, cả vốn lẫn lời.
- Anh hỏi đi.
- Đố các em chớ hồn người chết có hiện về giúp tụi thằng Coóng và Chu Quốc tìm ra chỗ dấu kho tàng thật không ?
Minh nhanh nhẩu :
- Thì chắc chắn là thật rồi còn gì. Lúc trước em bài bác ma dữ lắm nhưng bây giờ thì bắt buộc phải tin một điều hiển nhiên trước mắt . Nếu không có hồn ma giúp sao tụi chúng nó đào được những hai rương vàng ngọc đầy nhóc.
Phong lắc đầu :
- Minh hời hợt lắm. Thông thường những điều phô bày ra ngoài chỉ là bức bình phong che dấu những bí ẩn bên trong. Quân và Sang có ý gì không ?
Hai đứa trẻ nhìn nhau cùng lắc đầu ; Phong nhìn Hưng và Cao. Hai anh cũng chịu. Phonghỏi Duyên :
- Duyên nghĩ thế nào ?
Duyên nhíu mày suy nghĩ rồi trả lời :
- Duyên nghĩ có lẽ ông già Tàu cho mượn xác để hồn ma nhập vào ấy... biết chỗ chôn dấu vàng thật.
Phong phê bình :
- Duyên nói gần đúng nhưng... đừng nên nhíu mày nhiều vì con gái có nét nhăn ở trán sẽ mất đẹp. Thế tại sao ông ta không chỉ chỗ cho Chu Quốc đào lên ? Duyên phải nhớ rằng ông là bác ruột của Chu Quốc, cũng mang họ Chu và hai bác cháu của họ rất tâm đầu ý hợp chẳng kém gì Chu Quốc với Quách Tràng.
- Cháu chịu.
Phong bảo :
- Không phải tại Duyên hay những người khác thiếu thông minh đâu. Mà là thiếu tài liệu để xét đoán và suy luận. Sự việc thực tế xảy ra như sau : -Ông già đó hồi còn nhỏ có được nghe lõm chuyện cha mẹ bàn với nhau về đôi vòng. Lúc đó ông già mới có 7 tuổi. Trẻ con vô tư, nghe mà không để ý đến lắm về chuyện vàng ngọc chôn dấu ở nhà thờ tổ họ Chu. Truyện đó chìm vào tiềm thức rồi đến vô thức...
- Tại sao cha mẹ ông ta biết chỗ lại không đào lên ? Duyên hỏi.
- Vì người chết bao giờ cũng được tôn trọng và nể vì, nhất là với những người Trung Hoa nệ cổ. Ông tổ họ Chu đã không muốn cho con cháu tiêu xài ngay của cải, khi chiếc vòng chưa đổi sang màu đỏ máu thì con cháu cũng không dám trái ý.
Phong nhấp một ngụm nước trà thấm giọng :
- Cha ông già chính là người họ Chu nằm lạnh và đói gần chết ở cửa nhà ông nội của Duyên và Sang. Người mẹ và ông già lưu lạc, cuối cùng đến trú ngụ ở gần nhà thờ tổ họ Chu. Rồi bà ta chết. Với sự tin tưởng tuyệt đối và khung cảnh… có vẻ thiêng liêng của buổi lễ cầu hồn Thần Nữ giữ kho tàng, ông già Tàu có cảm giác như là một người khác, thoát hồn khỏi xác trở về sống cuộc đời dĩ vãng. Và ông ta gặp lại những điều đã bị vùi quá sâu xuống vô thức, vùi sâu đến mức không thể hiện lên ngay cả trong những giấc mộng. Ông ta cứ tưởng mình là Thần Nữ, người duy nhất biết chỗ giấu kho tàng và nói ra sự thật... rất ít người biết rõ.
Minh không chịu :
- Còn giọng ông ta lúc đó sao rõ ràng em nghe giống giọng đàn bà, lanh lảnh cao vút ?
- Có gì khó hiểu đâu. Một khi sự tin tưởng tuyệt đối mạnh đến mức đào ra được những điều thuộc về vô thức thì cũng giúp người ta biến đổi tạm thời giọng nói khác lạ trong vài chục giây đồng hồ. Vì ông ta như mê đi, như trở thành một con người khác - Thần Nữ - lúc đó nên giọng nói của ông sẽ khá giống tiếng nói của… Thần Nữ, một người thuộc phái yếu. Duyên thán phục :
- Chú Phong giỏi quá. Chú nói như một bác sĩ phân tâm học.
Ông già xen lời :
- Thế con không biết là chính chú Phong đã tốt nghiệp Đại Học Y Khoa về Phân tâm học hay sao ?
Anh Cao lạ lùng :
- Thế sao chú không hành nghề Bác Sĩ ?
- Làm thám tử thích hơn Cao ạ. Chú muốn là người khám phá và tận diệt tội ác hơn là có tham vọng xoa dịu những khổ đau của người bệnh. Đó là tùy theo ý riêng mỗi người.
Minh, Quân và Sang nghe chuyện Phong đứng đắn quá cảm thấy hơi chán. Sang bắt đầu gây với Quân trước :
- Mày dở ẹt. Thám tử mà bị đánh gục và bắt theo làm con tin. Thế mà mấy hôm trước thằng Minh khen mày đáo để.
Quân cười hỏi móc :
- Thế đứa nào không dám đi taxi về nhà một mình phảị nhờ tao với thằng Minh làm hộ tống viên ?
- Cận vệ chứ. Sang cãi lại tuy đã đuối lý. Không phải tao sợ gì cả mà là có... oai thế bẩm sinh, tả phù hữu bật luôn luôn mà.
Phong vui vẻ bảo ông già :
- Đôi bạn của chúng ta lại bắt đầu "thân thiện" nữa rồi.



Viết xong ngày 10-10-1972


XUÂN QUANG
 


Top