Chiếc thìa bạc | VN-Zoom | Cộng đồng Chia Sẻ Kiến Thức Công Nghệ và Phần Mềm Máy Tính

Adblocker detected! Please consider reading this notice.

We've detected that you are using AdBlock Plus or some other adblocking software which is preventing the page from fully loading.

We need money to operate the site, and almost all of it comes from our online advertising.

Please add vn-z.vn to your ad blocking whitelist or disable your adblocking software. 

All the knowledge we share is completely free. If you are willing, please support us here.

×

Chiếc thìa bạc

malemkhoang

Rìu Chiến
chiec-thia-bac-kansuke-naka.jpg

Lời giới thiệu​

KANSUKE NAKA (1885-1965) là nhà thơ, tiểu thuyết gia người Nhật. Ông là học trò của tiểu thuyết gia vĩ đại Soseki Natsume, người đã hết lời khen ngợi “sự mới mẻ và trang nghiêm” trong văn xuôi của Naka và khuyến khích ông xuất bản tác phẩm đầu tay Chiếc thìa bạc.
Một trong những tác phẩm KINH ĐIỂN VĨ ĐẠI của văn học Nhật hiện đại. Chiếc thìa bạc là thước phim thuần khiết đượm màu “hoài niệm”, là tác phẩm được độc giả Nhật Bản vô cùng yêu thích kể từ khi xuất bản năm 1913. Cuốn sách là “tấm vé trở lại tuổi thơ” đầy đói khổ nhưng vẫn lạc quan, đau thương nhưng rực rỡ, để được đắm mình một lần nữa trong cơn mưa rào của những thay đổi nhanh chóng về văn hóa - xã hội Nhật Bản, mở ra thế giới rộng lớn hơn trong thời kỳ Minh Trị sau năm 1868. Bằng ngòi bút đầy tinh tế và đa màu, Naka đã cho chúng ta được trải nghiệm sự ngập ngừng, bỡ ngỡ, rón rén nhưng hân hoan đón nhận của một cậu bé sống trọn trong dòng thác đổi thay của xã hội thời bấy giờ.​
Kansuke NaKa.jpg

Chiếc thìa bạc (Gin no saji) của Naka Kansuke (1885-1965), được xuất bản dài kỳ lần đầu trên một tờ nhật báo hồi năm 1913, là cuốn hồi ký về tuổi thơ được yêu thích nhất từng được viết ở Nhật Bản. Như triết gia Watsuji Tetsurö (1889-1960) viết trong lời bạt dành cho cuốn sách này vào năm 1935 thì, “thế giới của đứa trẻ được khắc họa sống động một cách diệu kỳ.” Năm sau đó, khi đọc tác phẩm này để dịch một vài đoạn tiêu biểu sang tiếng Trung Quốc, nhà văn Chu Tác Nhân (1885-1967), em trai của nhà văn Lỗ Tấn (1881-1936), đã nhận xét rằng Naka là một tác giả “không chịu sự ảnh hưởng của các bậc tiền bối, không quan tâm đến những trào lưu của thế giới, ông dùng chính mắt mình để nhìn và chính con tim mình để cảm nhận.”
Hai thập niên sau, khi dịch một vài đoạn trong Chiếc thìa bạc sang tiếng Anh, học giả nghiên cứu văn chương Nhật Bản người Mỹ Howard Hibbett đã gọi đây là “sự tái hiện đẹp đẽ đến phi thường về thế giới tuổi thơ mà đến nay vẫn còn vẹn nguyên sự mới mẻ.”
Ở Nhật Bản trong giai đoạn gần đây hơn, cuốn hồi ký này được trìu mến gọi là “một câu chuyện trẻ em dành cho người lớn” (otona no döwa). Có lẽ cách gọi này bắt nguồn từ chính thuật ngữ “truyện trẻ em dành cho người lớn” (seijin no tame no döwa) mà Naka dùng cho một nhóm các câu chuyện ngụ ngôn do ông sáng tác và tập hợp lại thành một cuốn sách xuất bản năm 1961; những câu chuyện này lấy cảm hứng từ truyền thuyết Trung Hoa cổ đại, thơ ca Nhật Bản cổ đại, Kinh Thánh, cùng nhiều nguồn khác, và nó đòi hỏi một trình độ kiến thức nhất định về các tác phẩm kinh điển mới hiểu được. Ngược lại, Chiếc thìa bạc là một cuốn hồi ký thuần túy, không hề mang dụng ý huấn thị cho độc giả.​

Sự thay đổi trong xã hội Nhật Bản và hồi ký của Naka
Phần lớn thế giới tuổi thơ mà Naka mô tả trong Chiếc thìa bạc có liên quan đến những dịp lễ hội, hội chợ, những nghi lễ thường nhật và những trò chơi, mà mọi người tham dự vào đó như một lẽ tự nhiên, những niềm tin và mê tín tồn tại từ cổ xưa của họ không bị ảnh hưởng - phải nói thêm rằng, những đoạn mô tả này đã trở nên đặc sắc hơn rất nhiều nhờ sự có mặt của người bác từ tâm và kiên nhẫn khôn cùng, một thành viên bán thường trực trong gia đình tác giả và tự nhận về mình trách nhiệm chăm sóc cho Naka. (Người bác này là chị cả của mẹ Naka, bà Shö, 1849-1934. Nhưng bởi vì tên của bà không được xác định một cách chắc chắn, nên trong cuốn sách bà không có tên.)
Đối với những người hiểu biết về lịch sử Nhật Bản, thì sự tập trung vào “truyền thống” như vậy dường như hơi kỳ lạ. Suy cho cùng, Naka được sinh ra và lớn lên vào thời điểm vài thập niên sau phong trào Minh Trị Duy Tân diễn ra vào năm 1868 - đây là cuộc cải cách đưa Thiên hoàng trở về ngôi vị thống trị, từ đó chấm dứt 250 năm cầm quyền của chế độ Mạc phủ Tokugawa cùng chính sách bế quan tỏa cảng bán phần của chế độ này. Chính quyền mới không chỉ mở cửa để nước Nhật được thông thương và thiết lập quan hệ ngoại giao với quốc tế mà còn tích cực tiếp nhận mọi thứ từ phương Tây. Mục tiêu lớn nhất của quốc gia này vào thời điểm đó là cạnh tranh với phương Tây.
Vì thế, vào năm 1883, chỉ hai năm trước khi Naka ra đời, chính phủ Nhật Bản đã hoàn thiện Rokumeikan, “Lộc Minh Quán” (tòa nhà nai kêu), một tòa nhà bề thế hai tầng theo lối kiến trúc Phục hưng Ý ở thế kỉ XVI dùng cho các buổi vũ hội do kiến trúc sư người Anh Josiah Conder thiết kế, với lời tuyên bố của Bộ trưởng Ngoại Giao Inoue Kaoru vào ngày khánh thành: “Chúng tôi đã quyết định biến Rokumeikan trở thành nơi mà các quan chức cấp cao và các quý ông trong và ngoài nước Nhật có thể gặp gỡ và giao lưu, quên đi sự tồn tại của các kinh độ và vĩ độ, nơi mà họ có thể xây dựng nên mối liên hệ bạn bè bằng hữu không bị giới hạn bởi biên giới quốc gia.”
Năm 1889, khi Naka lên bốn tuổi, chính phủ sau nhiều năm cân nhắc thận trọng đã quyết định công bố bản Hiến pháp mới được mô phỏng chủ yếu dựa trên Hiến pháp của Đức, qua đó thiết lập nên chế độ quân chủ lập hiến. Năm 1894, khi Naka chín tuổi, trong nỗ lực công khai đầu tiên hướng đến mục tiêu cạnh tranh với các đế quốc lớn, Nhật Bản tham chiến với Trung Quốc và giành thắng lợi.
Tuy nhiên, hầu hết những biến cố lịch sử ấy không ảnh hưởng đến tuổi thơ của Naka, ít nhất là theo như ông nhớ về nó - ngoại trừ cuộc chiến tranh Thanh-Nhật vừa nhắc đến ở trên. Như Naka kể trong một chi tiết của Chiếc thìa bạc, sự nổi lên bất ngờ của chủ nghĩa dân tộc cực đoan và sự sụp đổ gần như ngay lập tức về thanh danh của một dân tộc mà người Nhật trong suốt chiều dài lịch sử của mình vẫn giữ lòng ngưỡng mộ đã tạo nên một cảm giác bất mãn sâu sắc trong lòng cậu bé mười tuổi. Chu Tác Nhân, nhà văn Trung Quốc được đề cập đến ở phần trên, đặc biệt ấn tượng với chi tiết này: vào thời điểm giữa những năm 1930, khi ông đang ngồi dịch một số trích đoạn tiêu biểu của Chiếc thìa bạc, thái độ “nước lớn” của Nhật Bản đối với Trung Quốc kể từ sau khi Nhật Bản bắt đầu các nỗ lực Âu hóa đã tạo ra một tình huống nan giải ở chính đất nước của ông.
Về khía cạnh “truyền thống”, thiết nghĩ cũng nên đề cập đến một chính sách nữa. Để quảng bá hình ảnh “văn minh và khai sáng” mà phương Tây đại diện, chính phủ Nhật Bản từ sớm đã tuyên bố rằng năm dịp lễ hội theo mùa[1] và các lễ hội truyền thống khác là lạc hậu và độc hại. Mục đích ở đây không chỉ nhằm quảng bá cho quá trình Âu hóa mà thiên về dụng ý củng cố tinh thần sùng bái Nhật hoàng vốn hầu như không tồn tại khi ấy - điều này được thể hiện rõ qua những ngày quốc lễ mới được ban hành để thay thế các dịp lễ hội và sự kiện đã bị hủy bỏ, trong đó phải kể đến lễ Tenchösetsu (sinh nhật Thiên hoàng) để kỷ niệm ngày sinh của Thiên hoàng (ngày 3 tháng Mười một) và lễ Kigensetsu (ngày Quốc khánh) để kỷ niệm ngày được coi là ngày thành lập đất nước Nhật Bản (ngày 11 tháng Hai). Theo lời kể mang tính bán thần thoại trong cuốn Nhật Bản thư kỷ (được biên soạn vào năm 720), đó là ngày Jinmu lên ngôi trở thành vị hoàng đế đầu tiên ở quốc gia này.
Những mệnh lệnh nặng tính áp đặt này khiến người dân bối rối và hoang mang, và những người tạo ra chúng biết rõ điều đó. Trong Hỏi đáp về sự khai sáng (Kaika mondö, 1874), một trong số rất nhiều cuốn sách ra đời để nâng cao nhận thức của dân chúng về những yêu cầu của kỷ nguyên mới, nhân vật Kyühei (hay Lạc Hậu) hỏi Kaitarö (Khai Sáng) như sau:
Kể từ khi lịch bị thay đổi [từ âm lịch sang dương lịch, vào năm 1873), những ngày lễ quan trọng như năm ngày lễ theo mùa và Lễ hội Đèn lồng đều bị xóa bỏ để tôn vinh những ngày không thể hiểu như Tenchösetsu và Kigensetsu. Ngày tám tháng Tư là ngày sinh của Đức Thích Ca Mâu Ni và ngày thứ mười sáu của Lễ hội Đèn lồng là ngày cửa Địa ngục mở ra - ngay cả những đứa trẻ miệng còn hôi sữa cũng biết điều này, thưa ngài. Còn về nguồn gốc của các ngày Tenchösetsu[2] và Kigensetsu, thì ngay cả kẻ Lạc Hậu già cỗi như tôi đây, những kẻ ăn canh dải thịt bò hầm rau củ, cũng chẳng mảy may hay biết.
Việc nhân vật Lạc Hậu nhắc đến món “canh dải thịt bò hầm rau củ” (“gyünabe”, ngày nay được gọi là “sukiyaki”) là sự châm biếm về sự đảo lộn trong chế độ ăn uống. Trước đó, nước Nhật theo Đạo Phật không tiêu thụ thịt bò, nhưng người phương Tây đã mang đến thói quen ăn món thịt này. Ngụ ý của Lạc Hậu ở đây là anh ta đủ văn minh và khai sáng để biết rằng không nên ăn thịt, nhưng anh ta chưa đủ khai sáng để có thể hiểu được ý nghĩa của những ngày quốc lễ mới được tạo ra. Tiếp đó, Lạc Hậu mỉa mai về quốc kỳ của Nhật Bản, một sự áp đặt mới nữa đối với một dân tộc vốn trước đó không có thứ gì gọi là biểu tượng quốc gia, cùng với yêu cầu người dân phải thực hiện những cuộc “rước đèn lồng” vào các ngày kỷ niệm.
Về việc chính phủ buộc chúng tôi phải lấy ra một cái băng-rôn trông giống biển hiệu của cửa hàng bán lửa và đèn lồng để kỷ niệm những ngày như thế này vốn không hề tồn tại trong tâm trí của những người dân bình thường như chúng tôi, thì quả thực là không có lý do nào để làm điều đó, thưa ngài. Suy cho cùng, ngày lễ là ngày mà thường dân tổ chức khi họ cảm thấy muốn tổ chức cùng nhau. Thiết nghĩ việc ép buộc chúng tôi phải tôn vinh những ngày mà chúng tôi không cảm thấy muốn tổ chức là điều vô cùng phi lý.
Với giọng điệu bề trên, Khai Sáng trả lời lý do vì sao hành động của chính phủ không hề phi lý chút nào, và Lạc Hậu có vẻ bị thuyết phục. Dù sao thì đó cũng là bố cục của cuốn sách.
Dĩ nhiên, “những người dân bình thường” không dễ dàng bị thuyết phục như vậy. Giống như những gì vẫn thường xảy ra trong các giai đoạn có nhiều biến động xã hội tương tự, tới thời điểm Naka chào đời, quả lắc từng phóng đi lúc này quay trở lại, và người dân Nhật Bản đã khôi phục lại nhiều phong tục và lễ hội từng tồn tại trước phong trào Duy Tân, thậm chí còn khiến chúng trở nên sống động như thể từng bị loại bỏ. Theo như lời nhận xét của giáo sư kiêm dịch giả của các tác phẩm văn chương tiếng Anh Baba Kochö (Katsuya: 1869-1940) khi ông trìu mến hồi tưởng lại Tokyo trong thời kỳ Minh Trị (1868-1912), có lẽ người dân khôi phục lại lề lối cũ là bởi cuộc cách mạng Minh Trị là “một chiến thắng và sự chinh phục của thiểu số tiến bộ trước đám đông không tiến bộ” và đứng ở vị trí tiên phong, thiểu số ấy đã không nghĩ nhiều đến một thực tế rằng phong tục tập quán và các hoạt động hội hè tương tự cần một thời gian lâu dài mới ăn sâu bén rễ vào đời sống nhân dân.

Tổ tiên và gia đình
Dòng họ của Naka Kansuke bắt nguồn từ một thầy thuốc tên là Kansetsu sống vào thế kỷ XVII ở một thái ấp nhỏ gọi là Imao ở Mino (ngày nay là thành phố Gifu) - dù rằng Imao chỉ được chính thức công nhận là một thái ấp độc lập vào năm 1868 khi chế độ Minh Trị bắt đầu. Nhờ tài y thuật đặc biệt, Kansetsu nhận được một khoản thu nhập đáng kể hằng năm, tính bằng thóc, là 150 koku, tương đương gần 800 giạ thúc. Nhưng khoản thu nhập với cách đo lường trên chỉ là danh nghĩa, phần thực nhận ít hơn rất nhiều, và tới đời con cháu ông còn bị cắt giảm hơn nữa. Không những thế, những biến động về xã hội và chính trị trong giai đoạn cuối cùng của chế độ Mạc phủ Tokugawa đã bóp nghẹt đời sống kinh tế của tầng lớp samurai. Tới đời cha của Naka, ông Kan’ya (1842-1906), gia đình lâm vào cảnh khó khăn khi mức thu nhập của ông là 13 koku, chỉ vừa đủ sống đối với một samurai.
Chính phủ mới cũng thực hiện các biện pháp nhằm giảm bớt địa vị của tầng lớp samurai nói chung, và vì thế khó khăn chồng chất khó khăn. Năm 1869, chính phủ ban hành lệnh cắt giảm đáng kể mức thu nhập của samurai. Năm 1872, bốn tầng lớp đang tồn tại trong xã hội thời bấy giờ - được xếp lần lượt theo thứ tự là samurai, nông dân, thợ thủ công, và thương nhân - được phân loại lại thành ba tầng lớp - quý tộc (kazoku), quý tộc nhỏ (shizoku), và thường dân (heimin). Mặc dù Naka Kan’ya thuộc về tầng lớp quý tộc nhỏ, được tạo thành từ tầng lớp samurai trước đây (ngoại trừ những người có mức thu nhập hằng năm từ 10.000 koku trở lên - những người này được gia nhập vào hàng ngũ quý tộc), nhưng theo cách nói của nhà Nhật Bản học thuộc thế hệ đầu tiên Basil Hall Chamberlain (1850-1935), thì lúc này “không còn tồn tại rào cản không thể vượt qua giữa các giai cấp khác nhau nữa.” Điều đó có nghĩa là sự lưu chuyển giữa các tầng lớp đã trở nên dễ dàng hơn so với thời kỳ Edo (1600-1867), dù rằng nhận thức giai cấp vẫn tồn tại mạnh mẽ cho đến khi Nhật Bản thua trận vào năm 1945 và hệ thống giai cấp mới bị xóa bỏ hoàn toàn. Năm 1876, tầng lớp samurai bị tước đặc quyền mang kiếm.
Nhưng Naka Kan’ya có mối quan hệ đặc biệt với người chủ mà ông phục vụ, Takenokoshi Masamoto (1851-1910), địa chủ đầu tiên (và cuối cùng) của tái ấp Imao, và có lẽ điều này đã giúp ích được phần nào. Vợ của Masamoto chính là con gái nuôi của ông. Khi chính thể mới được thành lập, Kan’ya được giao một chức vụ khá cao trong ngành cảnh sát là gon-daizoku, sau đó là daizoku. Năm 1872, ông chuyển tới Tokyo với ông chủ của mình trên cương vị phó quản gia (kafu). Năm tiếp theo, Kan’ya và vị quản gia (karei) thành lập một công ty nhập khẩu mang tên Yöhakusha do Kan’ya làm chủ tịch; công ty này chuyên nhập bạc, kẽm, và nhôm từ Đức để góp phần xây dựng tài chính cho gia tộc Takenokoshi. Có vẻ như tình hình làm ăn của họ rất phát đạt.
Khi Kansuke lên bốn tuổi, vì sức khỏe của cả vợ lẫn con đều không được tốt, nên Kan’ya xây nhà mới ở Yamanote, một khu vực được tầng lớp quý tộc nhỏ ưa chuộng, rồi chuyển cả gia đình tới đó. Nhiều năm về sau, khi Kansuke bán ngôi nhà này và các tài sản khác mà Kan’ya truyền lại, ông đã thu về một số tiền rất lớn. Khác với nhiều thành viên trong tầng lớp cũ của mình, Kan’ya có khả năng ứng phó khá tốt trước những sự thay đổi sâu sắc đang diễn ra trong xã hội khi ấy. Dù sao, tới thời điểm Kansuke ra đời, giai đoạn nghèo túng ban đầu đã trở thành một phần trong những câu chuyện kể của gia đình và thời kỳ đó hầu như không có ảnh hưởng gì đến tuổi thơ của ông.​

Naka Kan’ya nhớ lại quá khứ
Trong Chiếc thìa bạc, Naka mô tả rằng mỗi khi chiều xuống cha ông thường ngồi ôn lại chuyện cũ bên gia đình và người thợ mộc - dù rằng, như chúng ta sẽ thấy, về sau Naka đã chỉnh sửa nội dung cuốn hồi ký khá nhiều và gạch bỏ những đoạn dưới đây cùng nhiều đoạn khác. Cảnh này diễn ra trong ngôi nhà mới ở Yamanote.
Bác thợ cả Tatsu-san làm việc cho chúng tôi chuyển vào sống trong ngôi nhà nhỏ xây trên khuôn viên nhà chúng tôi. Bác khoảng hơn 30 tuổi, một nam nhân thực thụ của thời Edo đang ở vào giai đoạn phong độ nhất, và là người vô cùng cứng rắn. Bác hay khoe khoang về những chiến tích cũ, chẳng hạn như lần làm việc ở đâu đó, bác một mình đương đầu với ba gã to con và đánh bọn chúng một trận nhừ tử, hay hồi 16 tuổi bác chạy trốn khỏi ông chủ rồi xin ăn dọc đường để đến Ise; hay lần bác đi qua một hẻm núi khi trên tay chỉ có duy nhất một quả dưa chuột để ăn; hay lần bác sửa mái cho ngôi miếu do tổ tiên để lại, vị sư thầy trông nom ngôi miếu đó tham lam quá mức khiến bác bực mình nên đã nhổ hết đinh trên mái, và khi vị sư ngu ngốc leo lên để kiểm tra, ông ta ngã sụp xuống cùng với toàn bộ phần mái nhà và bị xây xẩm mặt mày đến mức một lúc lâu sau mới đứng lên được.
“Lão sư thầy khốn kiếp đó bị sốt và phải nằm liệt giường suốt ba ngày,” Tatsu-san nói. Khi ngồi uống rượu buổi chiều với cha tôi, lần nào bác cũng khoác lên mình hết tầng này tới tầng khác những bộ trang phục của thợ mộc mà bác tích cóp từ nhiều nơi khác nhau như các quý bà mặc bộ trang phục 12 lớp; phần diễn xuất mà bác tự đảm nhiệm là bắt chước giọng của kép hát Kinokuniya, sau đó tự tán thưởng cho mình bằng cách hô to, “Kinokuniya!”
Cha tôi ngồi trước chiếc khay chắc chắn rộng tới 0,2 mét vuông, bên trên bày những chiếc bát đĩa lớn gấp đôi bát đĩa thông thường; những lúc này ông thường gắp một miếng đậu phụ nóng đưa lên miệng và vừa ăn vừa thổi phù phù, rồi rót rượu sake vào chiếc cốc dày ưa thích và uống ực, rồi lại rót và uống. Chúng tôi ngồi xung quanh ông, bắt đầu là mẹ và bác tôi, rồi đến sáu đứa con chúng tôi, bác Tatsu-chan, vú em và mấy người giúp việc. Mỗi lần màn bắt chước giọng đào kép của bác Tatsu-chan kết thúc, cha tôi lại ha hả cười rất sảng khoái.
Vào những dịp như thế này, ông cũng kể cho lũ trẻ chúng tôi nghe chuyện ngày xưa: năm ông 18 tuổi, khi cuộc cải cách Minh Trị sắp diễn ra, ông nội qua đời và tất cả những gì ông được thừa kế là một chiếc tủ đơn và vài đồng xu lẻ, phần còn lại là những món nợ lớn bé; hay chuyện sau khi chế độ thái ấp được thay thế bằng các quận, ông trở nên nghèo túng đến độ sau khi làm hết việc cho nhà chủ, ông lại thức đêm để bán ngói và làm khung diều. Khi hơi rượu đã ngà ngà và tinh thần trở nên hưng phấn, ông sẽ nói về những cuộc diễn tập quân sự kiểu phương Tây hiiyari-dondoko-don [có trống và sáo] mới được đưa vào thực hiện khi ấy, thậm chí ông còn nói cho chúng tôi nghe những từ bằng tiếng Hà Lan mà ông khoe rằng ông dùng để ra lệnh cho người của mình trước mặt ông chủ đang khoác chiếc áo ngoài mà các samurai thường mặc khi ra chiến trường. Ngồi bên cạnh ông, mẹ tôi, người bạn đời đã trung thành ở bên cạnh chồng trong suốt quãng thời gian nghèo khó ngày xưa, gật đầu tán thành ngay tức khắc mọi điều mà ông nói. Bác tôi, vốn cùng từng trải qua những hoàn cảnh gian nan tương tự nhưng kết cục lại thảm hại hơn nhiều, thì vừa lắng nghe vừa thả hồn về quá khứ, còn bác thợ cả ngơ ngác như lạc vào màn sương mù, trầm trồ ngạc nhiên trước mọi điều bác nghe được.​

Người anh trai Kin’ichi của Kansuke
Khi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp viết của Naka Kansuke, chúng ta không thể bỏ qua người anh trai Kin’ichi của ông. Kansuke là con trai thứ năm của Kan’ya, nhưng ba người anh trai của ông đã mất sớm, chỉ còn lại người anh thứ hai là Kin’ichi (1871-1942). Kansuke còn có hai chị gái và hai em gái.
Kin’ichi học đông y tại Đại học Hoàng gia Tokyo. Năm 1902, năm ông cưới Nomura Sueko, con gái của Tử tước Nomura Yasushi khi đó 19 tuổi, chính phủ cử ông sang Đức để nghiên cứu thêm về y học và khi trở về vào năm 1905, ông được bổ nhiệm làm giáo sư tại Trường Y Fukuoka (vào năm 1911, trường này được nâng cấp lên thành Đại học Hoàng gia Kyüshü).
Nhưng chưa đầy bốn năm sau khi từ Đức trở về và đang ở vào giai đoạn đỉnh cao trong sự nghiệp, Kin’ichi gặp một cơn đột quỵ nghiêm trọng và mặc dù vốn là người có tính tình hòa nhã, sau biến cố này ông trở thành một người tàn phế nửa điên khùng, gặp trở ngại về ngôn ngữ, và hung dữ. Trong 30 năm tiếp theo, ông không những phá hủy cuộc đời của vợ mình - người phụ nữ được bạn của Kansuke, nhà triết học kiêm nhà giáo dục nổi tiếng Abe Yoshishige (1883-1966), mô tả là người “mà tôi tôn trọng và yêu mến nhất, người vừa hấp dẫn lại vừa đáng ngưỡng mộ, hơn nữa còn là một người chân thành, xa lạ với thói hiểm ác của lòng người” - mà còn phá hủy cả cuộc đời của người em trai Kansuke. Sau khi Kin’ichi trở thành người tàn phế, theo hệ thống tổ chức gia đình thời bấy giờ tại Nhật Bản, Kansuke bị đẩy vào vị trí người chủ gia đình để đảm nhiệm cái mà ông gọi là “gánh nặng gia đình”.
Kansuke rất quý trọng người chị dâu Sueko - ông chỉ gọi bà là một cách đơn giản là “chị tôi” (ane) - vì bà đã cùng san sẻ hoàn cảnh khó khăn này, và ông đã viết nhiều mẩu truyện ngắn đầy cảm động về bà bằng lối hành văn như viết nhật ký, trong số đó có các tác phẩm Phá băng (Köri o waru) viết về giai đoạn sau khi bà phải nằm liệt giường vì một cơn đột quỵ (xuất huyết dưới nhện) vào năm 1940, và Ong mật (Mitsubachi) viết về giai đoạn sau khi bà qua đời vào năm 1942. Ông gọi bà là “ong mật” vì bà luôn chăm sóc chu đáo cho chồng và chu toàn việc nhà mặc dù Kin’ichi “bệnh tật, tàn nhẫn và hằn học,” và “40 năm trống trải cô độc cùng những khó khăn trong suốt 40 năm ấy”.​

Natsume Söseki và Chiếc thìa bạc
Naka vào học tại trường Cao trung Nhất, sau đó vào Đại học Hoàng gia Tokyo. Giáo viên dạy môn tiếng Anh cho ông ở cả hai nơi là Natsume Söseki (1867-1916). Söseki nghỉ dạy ở trường đại học từ đầu năm 1907 để chuyển sang làm việc cho tờ nhật báo Asahi Shinbun trên cương vị “cộng sự” và viết bài toàn thời gian - với thỏa thuận đi kèm là mỗi năm ông sẽ viết ít nhất một cuốn tiểu thuyết cho tờ báo này. Vài tháng sau đó, Naka đổi chuyên ngành học từ văn học Anh sang văn học Nhật Bản. Ông tốt nghiệp vào năm 1909.
Trong thời gian Söseki còn giảng dạy, một số học trò thường xuyên đến nhà thăm ông, và những người này về sau trở thành những nhà văn, học giả, và nhà giáo dục nổi danh; họ được gọi là các “đệ tử” của Söseki. Naka cũng hay đến nhà thăm thầy, và sau này cũng nổi tiếng, nhưng với tính tình dè dặt, lạnh lùng, và khó gần, chàng sinh viên trẻ không hòa nhập vào nhóm học trò kia, dù rằng Söseki đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa Naka đến với công chúng lần đầu tiên. Theo những lời tâm sự trong Thầy Natsume và tôi, bài viết mà Naka viết cho số ra tháng Mười một năm 1917 của tờ Mita Bungaku, trong số ba truyện dài trong tuyển tập Lồng chim cút của Söseki xuất bản năm 1907, ông thích tác phẩm Gối cỏ nhất, nhưng lại không thích Tôi là mèo, tác phẩm đầu tay của Söseki và cũng là tác phẩm đã mang về cho ông sự nổi tiếng và nhiều lời khen ngợi. Naka còn viết rằng ông thấy bản thân nhan đề tác phẩm trên thật “ghê tởm”. Ông nói thẳng trong bài viết trên, và có lẽ cũng từng nói trực tiếp, rằng ông không phải là một độc giả nhiệt thành, càng không phải là một độc giả ngưỡng mộ các tác phẩm của người thầy cũ của mình.
Tuy vậy, người mà Naka gửi cuốn hồi ký Chiếc thìa bạc để xin ý kiến vẫn là Söseki. Và Söseki, một con người vô cùng bao dung dù rằng thi thoảng ông lại lâm vào một đợt suy nhược thần kinh nghiêm trọng, đã rất ấn tượng với cuốn sách này nên đã tích cực tác động để nó được đăng tải trên tờ Asahi Shinbun. Ông viết cho một biên tập viên của tờ nhật báo như sau:
... Hôm nọ tôi được nhờ đọc hai bản thảo. Cả hai đều thú vị và tờ Asahi chắc chắn sẽ không bị mất mặt nếu đăng tải chúng với mục đích giới thiệu các tác giả chưa được công chúng biết đến. Trong hai bản thảo này có một bản là tác phẩm của một cử nhân tên là Naka Kansuke; đây là những hồi ức về giai đoạn cậu ta lớn lên cho đến năm 8 hoặc 9 tuổi, và tôi tin rằng nó là bản thảo xứng đáng hơn để Asahi đăng tải, bởi vì lời văn mới mẻ và trang trọng, và cách viết cũng rất chân thực. Chỉ có điều, khác với những cuốn tiểu thuyết được viết sao cho có thể minh họa được, bản thảo này lại không có nhiều kịch tính (henka) hay diễn biến phát triển cốt truyện (shinten)...
Tờ Asahi chấp nhận sự tiến cử của Söseki và tiến hành đăng tải dài kỳ nội dung cuốn hồi ký Chiếc chìa bạc, từ ngày 8 tháng Tư đến ngày 4 tháng Sáu năm 1913. Thực ra, Söseki không chỉ giới thiệu cuốn sách này. Ông còn đưa ra cho chàng thanh niên Naka rất nhiều lời khuyên hữu ích về cách viết: những lỗi đánh vần, việc Naka thường xuyên bỏ qua các đoạn văn, viết câu dài bằng hệ kana (hệ thống ký hiệu âm tiết) mà không sử dụng hệ kanji, “ký tự chữ Hán”, một cách hợp lý. Trong hệ thống chữ viết của Nhật Bản, hệ kanji đóng vai trò là những chỉ tố cú pháp riêng biệt.
Năm tiếp theo, khi Naka viết phần hai cho cuốn sách, một lần nữa, Söseki cũng “rất thích nó” như lời ông viết cho Naka, dù rằng ông cũng lưu ý là nó “không có sự kiện nên những độc giả bình thường có thể sẽ khó theo dõi.” Lần này, tờ Asahi cũng nghe theo lời tiến cử của Söseki và đăng tải dài kỳ cuốn sách mới, từ ngày 17 tháng Tư đến ngày 2 tháng Sáu năm 1915, với nhan đề Kẻ chống đối (Tsumujimagari). Cuốn này về sau trở thành Phần II của Chiếc thìa bạc.
Khi việc đăng tải phần thứ hai hoàn tất, Söseki thậm chí còn ngỏ ý muốn viết lời giới thiệu cho cuốn hồi ký này và đưa nó xuất bản thành sách. Nhưng Naka nói rằng nó quá ngắn, không đủ để làm sách, và khi Söseki đề nghị bản thân ông sẽ viết bổ sung thêm một phần nữa để sách trông dày hơn thì Naka cho biết ông không thích phần mà Söseki đặt tên. Vì thế chuyện này không đi đến đâu cả.​

Xuất bản thành sách và danh tiếng được nâng cao
Năm 1922, bạn cùng lớp của Naka là Iwanami Shigeo (1881-1946) cho xuất bản cuốn hồi ký này thông qua nhà xuất bản Iwanami Shoten do ông thành lập như một phần minh họa cho các phần được đăng tải dài kỳ trên báo, nhưng có cắt bỏ một số chỗ. Bốn năm sau, nhà xuất bản này phát hành cuốn hồi ký như một cuốn sách thông thường. Cho lần tái bản này, Naka đã chỉnh sửa và cắt bỏ khá nhiều để tạo nên câu chuyện với hình thức hiện tại, trong đó ông không chỉ bỏ đi những đoạn lặp mà còn bỏ cả những chi tiết tạo hình ảnh tốt đẹp quá mức cho ông. Kết quả là, số chương ở Phần I giảm từ 57 xuống còn 53, và ở Phần II giảm từ 47 xuống còn 23 - ở Phần II, hình thức dài kỳ ban đầu hầu như đã bị cắt bỏ.
Số lượng độc giả của cuốn sách bắt đầu có sự gia tăng rõ rệt từ sau năm 1935, khi Iwanami đưa Chiếc thìa bạc vào series sách bìa mềm của mình và kèm thêm phần lời bạt của Watsuji như đã trích dẫn ở trên. Lịch sử in nối bản của cuốn sách kể từ thời điểm này trở đi chính là bằng chứng sinh động cho thấy sức hấp dẫn ổn định của nó.
Tháng Mười năm 1943, khi Nhật Bản đang giao chiến với Mỹ và các nước khác (và nhanh chóng thảm bại), Naka viết một bài thơ có nhan đề “Tem” (Ken’in) và úp mở nói rằng “sẽ có điều bất ngờ ở lần in nối bản thứ 12,” khiến doanh số bán cuốn sách tăng vọt lên đến 15.000 bản. Lúc này, ngành xuất bản đang chịu sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ và tình trạng khan hiếm giấy ngày càng gia tăng.
Hơn nửa thế kỷ sau, vào năm 1999, khi Chiếc thìa bạc đạt tới lần in nối bản thứ 108, Iwanami Shoten giới thiệu một ấn bản mới, và ấn bản này cũng bán chạy. Tới cuối năm 2008, ấn bản mới được in nối bản 11 lần, và tính gộp lại cuốn sách đã bán được tổng cộng 1 triệu bản kể từ khi ấn bản đầu tiên ra mắt vào năm 1935.
Chiếc thìa bạc đã được xuất bản theo nhiều hình thức và ấn bản khác nhau, trong đó có hai bộ là “tác phẩm hoàn chỉnh” của Naka: bộ thứ nhất gồm 13 tập do Kadokawa Shoten xuất bản từ năm 1960 đến năm 1965, và bộ thứ hai gồm 17 tập do Iwanami Shoten xuất bản từ năm 1989 đến năm 1991. Ngoài Iwanami, nhiều nhà xuất bản khác cũng tham gia xuất bản cuốn hồi ký này bằng các ấn bản bìa mềm.
Nếu như Chiếc thìa bạc không đặc biệt hút khách trong khoảng hai thập niên đầu tiên, thì lý do chính ở đây rất có thể là như Natsume Söseki đã chỉ ra: thiếu kịch tính và diễn biến phát triển cốt truyện, và thiếu các sự kiện. Để làm ví dụ minh họa ngược lại, Söseki có thể nhắc đến một trong những tác phẩm ban đầu của ông, Botchan, được chào đón ngay từ lần xuất bản đầu tiên vào năm 1907. Tác phẩm này chỉ nói về tuổi thơ của nhân vật chính, cũng là người kể chuyện, ở phần đầu, và toàn bộ nội dung của nó toát lên sự châm biếm và hài hước. Tuy vậy, cách hành văn lại súc tích và đầy khí lực, nội dung truyện có rất nhiều kịch tính, tiết tấu nhanh, và không thiếu những sự kiện lý thú.
Vậy thì đâu là sức hấp dẫn của Chiếc thìa bạc?
Một lần nữa, nhận định của Söseki dường như lại đúng. Naka kể lại rằng trong một lần trao đổi, người thầy giảng dạy môn văn học Anh của ông đã nhắc đến Tom Brown’s School Days (tạm dịch: Những ngày đi học của Tom Brown), cuốn tiểu thuyết của Thomas Hughes xuất bản năm 1857, và Peck’s Bad Boy (tạm dịch: Gã trai xấu của Peck), series đăng báo của George W. Peck được tập hợp lần đầu vào năm 1883, để chỉ ra rằng “những lĩnh vực mà họ viết là khác nhau.” Ông cũng nhắc đến Shönen (tạm dịch: Những đứa trẻ), một câu chuyện ngắn của nhà văn Tanizaki Jun’ichirö (1886-1965) cùng thời với Naka, để chỉ ra rằng “nó có sự khác biệt một chút về nhân vật” - thực ra, đây là lời nhận xét có phần nhẹ nhàng, bởi vì tác phẩm Shönen nói về thiên hướng khổ dâm và ác dâm trong thời kỳ dậy thì. Nagai Kafü (1879-1959), biên tập viên của Mita Bungaku, đã không tiếc lời ca ngợi câu chuyện này cùng với bốn truyện ngắn khác, trong số đó có tác phẩm Shisei (tựa Việt: Xâm mình), và điều này đã khiến nhà văn trẻ Tanizaki trở thành tâm điểm chú ý.
Trong các đoạn dưới đây theo lời kể của Naka, người thầy được nhắc đến là Söseki.
... Tôi nghe một người bạn kể rằng Thầy đang một mình đứng ra bảo vệ cuốn Chiếc thìa bạc trước sự chỉ trích của mọi người. Và tôi chợt nghĩ rằng có lẽ Thầy thích cuốn sách đó hơn là tôi.
Tôi không nhớ vào dịp nào, nhưng khi bình luận về cuốn Chiếc thìa bạc, Thầy nói, “Đó không phải là cuốn sách mà có thể được mô tả với tính từ ủy mị.”
Khi nghe thấy lời này, tôi chợt nghĩ hẳn là đã có người dùng từ đó [“ủy mị”] để phê bình cuốn sách.
... Đó là cuốn sách hay, Thầy nói. Một mô tả chi tiết. Thầy cũng bảo, ở nó có sự độc đáo. Khi nghe đến từ “độc đáo,” tôi nghĩ thầm, từ ngày học đại học tới giờ tôi chưa từng nghe lại từ đó. Thầy nói, thầy không hiểu vì sao một tác phẩm được đẽo gọt tỉ mỉ đến vậy mà không hề phá hỏng sự thật. Tôi nghĩ bụng, không có gì khó hiểu cả bởi vì việc đẽo gọt phục vụ cho sự thật sẽ không phá hỏng sự thật. Khi nói về người nào đó cho rằng Chiếc thìa bạc không có chút thú vị nào, Thầy thường nói rằng kẻ đó chỉ thấy thú vị với những cảnh như hai người tình tứ cùng cắn chung một quả đào. Thầy còn bảo nên để cho kẻ đó đọc những tác phẩm như thế này, như thể Thầy cho rằng thật bất hợp lý khi lại có người thấy cuốn sách nhàm chán trong khi những người khác lại thấy nó thú vị...
Chúng ta có thể tin rằng Söseki quả thực đã nói những lời này theo đúng những gì mà Naka kể lại, bởi như những trích đoạn trên đã chỉ ra, Naka là người thích đi ngược lại số đông, ông sẵn sàng thẳng thừng phủ nhận bất kỳ ai lên tiếng khen ngợi cuốn sách. Söseki gọi ông là henjin, nghĩa là kẻ lập dị, và Naka thừa nhận điều này.
Chiếc thìa bạc còn mang một nét thuần khiết đượm màu “hoài niệm”. Đối với những độc giả sống cùng thời với Naka, đặc điểm này có thể là tầm thường và nhàm chán, nhưng trong mắt của độc giả thuộc các thế hệ về sau, đây có thể là khía cạnh đáng thưởng thức nhất, như kết quả cuộc khảo sát do Iwanami thực hiện năm 1987 đã chỉ ra. Đây là cuộc khảo sát nhằm kỷ niệm 60 năm ra mắt series sách bìa mềm của nhà xuất bản, trong đó họ yêu cầu “các độc giả đại diện cho nhiều lĩnh vực khác nhau” kể tên ba cuốn sách trong series lưu lại ấn tượng sâu đậm nhất trong lòng họ, và Chiếc thìa bạc xếp hạng đầu. (Cuốn sách bán chạy nhất là Socrates tự biện, Crito và Phaedo của Plato.) Trong số 300 người tham gia khảo sát, nhiều người cho biết rằng cuốn hồi ký của Naka đã mô tả thế giới của đứa trẻ thật nhạy cảm, thật đẹp đẽ, đến mức nó “thanh lọc được tâm trí của họ”. Nhưng ý kiến phổ biến nhất là cuốn sách đã làm sống lại những ký ức tuổi thơ của chính bản thân họ.
Xét ở khía cạnh này, cuốn Yöshö jidai (tạm dịch: Thời thơ ấu) của Tanizaki Jun’ichirö mang đến một sự tương phản giúp chúng ta hiểu rõ hơn về Chiếc thìa bạc. Cả hai cuốn sách đều viết về cùng một giai đoạn lịch sử và cùng một giai đoạn trong cuộc đời của tác giả, từ nửa cuối thập niên 1880 đến đầu thập niên 1900, từ thuở mới lọt lòng cho đến tuổi thơ. Nhưng sự tương tự giữa hai tác phẩm chỉ dừng lại ở đó.
Naka mô tả cuộc sống diễn ra chủ yếu ở Yamanote, nơi cư dân phần lớn thuộc về tầng lớp quý tộc nhỏ; còn Tanizaki mô tả cuộc sống ở Shitamachi với cư dân đa phần là dân thường. Naka viết hồi ký vào cuối độ tuổi 20 và đầu 30, và những gì ông viết rõ ràng là dựa vào ký ức; Tanizaki viết hồi ký khi đã 70 tuổi và không chỉ dựa vào ký ức của bản thân mà còn tham khảo thêm lời kể của họ hàng, người quen, và bạn bè cũ, ngoài ra ông còn sử dụng đến các ghi chép, những bài bình luận về lịch sử, thậm chí cả những tác phẩm kinh điển. Vì hồi tưởng lại quá khứ nên tầm nhìn của Naka chỉ giới hạn ở môi trường gần xung quanh và những người có tiếp xúc với ông khi ông còn nhỏ cùng những cảm giác và cảm xúc mà những cảnh và người ấy gợi lên; trong khi đó, Tanizaki mở rộng phạm vi sang bối cảnh và thời đại chung để xây dựng lại thời thơ ấu của mình trong giai đoạn 10 năm.
Nhưng điểm khác biệt đáng lưu ý nhất có lẽ là điều mà trong phần lời bạt dành cho ấn bản Chiếc thìa bạc xuất bản năm 1935 Watsuji Tetsurö đã chỉ ra là “chưa từng có tiền lệ”: rằng đây “không phải là thế giới của một đứa trẻ trong mắt người lớn, cũng không phải là những ký ức tuổi thơ được hồi tưởng trong trải nghiệm của người lớn”. Thay vào đó, đó là những ghi chép đơn giản, chính xác về cuộc sống mà một đứa trẻ quan sát và hiểu được. Ngược lại, Thời thơ ấu là một trong hai hoặc thậm chí là cả hai điều trên mà Watsuji phủ nhận ở cuốn hồi ký của Naka. Thi thoảng Tanizaki gác lại những cảm nhận và ý nghĩ của một đứa trẻ để mang đến một cái nhìn hồi tưởng - chẳng hạn khi ông viết “bây giờ khi tôi nghĩ lại chuyện hôm đó” - nhằm nhấn mạnh điều mà ông nghĩ rằng khi ấy mình đã cảm thấy, hay cách mà ông đã phản ứng với sự việc và con người. Trên thực tế, cuốn sách của ông là một câu chuyện đa chiều mang hơi hướm của hành trình đi tìm thời gian đã mất.
Chiếc thìa bạc trong sự nghiệp sáng tác của Naka
Như đã đề cập, Naka để lại cho chúng ta một kho tàng phong phú các tác phẩm văn chương, trong đó bao gồm những câu chuyện ngụ ngôn được tập hợp trong Những câu chuyện của các loài chim và nhiều tác phẩm hư cấu khác. Một số tác phẩm của ông mang tính hiện thực cao độ. Đặc biệt, cuốn Inu (tạm dịch: Chó) mà ông viết năm 1922 có phần hiện thực quá mức trong những phần mô tả về sự giao hoan giữa những con chó, đến nỗi nhà xuất bản cuốn sách này, Iwanami Shigeo, bị triệu tập tới Sở Cảnh sát Thành phố và buộc phải kiểm duyệt cắt bỏ một số phần. Về sau, cuốn sách cũng bị cấm phát hành hoàn toàn. Câu chuyện kể về một lão tu khổ hạnh người Ấn Độ, vì không vượt qua được dục vọng đối với một phụ nữ trẻ đẹp nên đã biến cả bản thân và cô gái thành chó để có thể thỏa thích quan hệ tình dục với cô.
Naka viết câu chuyện này và một câu chuyện tương tự, Devadatta (tạm dịch: Đề Bà Đạt Đa), khi ông đang cân nhắc đến việc “tự tử hoặc đi tu”, và bản thân ông cũng đang thực hành lối sống khắc kỷ. Có giai đoạn ông ăn đồ ăn kém dinh dưỡng tới nỗi mắc chứng beriberi[3] nghiêm trọng. Vào thời điểm này, ông tự nhủ rằng: “Nếu việc yêu ai đó chỉ để nhắm đến mục đích quan hệ tình dục hoặc đưa tình dục trở thành điều kiện tiên quyết, thì mình không có tình yêu cũng không muốn yêu. Mình là người kiên quyết muốn kiểm soát mọi dục vọng, thanh lọc chúng, tận dụng chúng một cách toàn vẹn thông qua trí tuệ, và biến chúng trở thành nguyên liệu phục vụ cho sự phát triển về mặt đạo đức.”
Ngoại trừ truyện ngụ ngôn và các tác phẩm hư cấu như trên, các tác phẩm còn lại của Naka chủ yếu bao gồm những sáng tác mà ông gọi là shöhin, “đoản văn”, và một thể loại khác có tên là nikki-tai zuihitsu, “những tác phẩm được viết theo lối nhật ký”. Cả hai nhóm đều là những ghi chép về những chuyện diễn ra hằng ngày và những quan sát của tác giả, sau đó được trình bày thành các bài viết. Watanabe Gekisaburö, học giả nghiên cứu về Naka, đã so sánh chúng với một phạm trù rộng lớn hơn gọi là “biên niên sử cuộc đời” bắt đầu với Chiếc thìa bạc.
Tuy nhiên, những thiên đoản văn tưởng chừng như vô thưởng vô phạt này không phải không mang theo những rắc rối. Chẳng hạn, nữ tiểu thuyết gia Nogami Yaeko (1885-1985) từng ghi vào nhật ký riêng ngay từ năm 1935 rằng cách tiếp cận của Naka buộc ông phải liên tục “lý tưởng hóa” bản thân, biến bản thân thành “một dạng đạo đức giả”. Năm 1951, bà cho biết bà cảm thấy “bực mình” vì Naka “tự đóng kín mình trong một tấm vỏ tự phụ và luôn tự cho là mình đúng... mỗi khi tự nói về mình, ông không lúc nào quên tự đeo huy hiệu người tốt cho mình”. Năm 1954, bà cảm thấy “lo lắng” khi ông sẵn sàng lợi dụng những “người ngưỡng mộ” mình. Thực ra, không phải tác giả nào cũng nghĩ đến chuyện biến những lá thư mà người hâm mộ gửi đến thành một câu chuyện như cách làm của Naka với tác phẩm Yose (tạm dịch: Phần đời còn lại) được xuất bản năm 1947. Câu truyện này chủ yếu được tạo thành từ những lá thư do độc giả gửi tới ông sau khi đọc tác phẩm Ong mật, trong đó có những lá thư được gửi từ tiền tuyến trong thời kỳ chiến tranh.
Học giả nghiên cứu văn học Pháp Ikushima Ryöichi cũng cảm nhận được “tính tự phụ” của Naka đằng sau lớp vỏ ngoài nhẹ nhàng của tính cách cũng như cách viết của ông; Ikushima cho biết ông hình dung rằng Naka “trong thâm tâm luôn phải vật lộn đương đầu với tính tự phụ này”.
Tuy nhiên, những ý kiến phê bình của Nogami có điểm nổi bật một phần bởi bà từng có lần thổ lộ tình yêu với Naka và rõ ràng bà vẫn giữ tình cảm quý mến với ông, kể cả sau khi đã kết hôn với người bạn cùng lớp với ông là Toyoichirö, người sau này trở thành một nhà giáo dục danh tiếng. Mặc dù ngày nhỏ ốm yếu, nhưng Naka lớn lên trở thành một chàng trai cao to, ưa nhìn. Kobori Annu (1909-1998), con gái của nhà văn nổi tiếng thời Minh Trị, Mori Ögai (1862-1922), và bản thân bà cũng là nhà văn, nhớ về ông với “những đường nét Bắc Âu đẹp như tạc tượng và vóc người đường bệ, to lớn, khác hẳn với phần đông người Nhật Bản”. Ông không thiếu bạn bè thuộc phái nữ, bất chấp quyết tâm kiểm soát khao khát nhục dục của mình. Tuy nhiên, ông vẫn duy trì cuộc sống độc thân cho đến năm 1942, khi ông bước sang tuổi 57 và cưới người vợ Shimada Kazu khi đó đã ở vào tuổi 42.

Phong cách của cuốn Chiếc thìa bạc và bản chuyển ngữ
Có lẽ để tái hiện lại quá trình tư duy của một đứa trẻ, giữa những câu trần thuật ngắn Naka thường đặt xen vào những câu dài có cấu trúc phức tạp nhằm phát huy tối đa khả năng chấp nhận của ngôn ngữ Nhật Bản đối với những câu dài được kết nối lỏng lẻo với nhau bằng liên từ. Ông sử dụng cả câu trực tiếp và gián tiếp, đôi khi có kèm ngoặc kép, đôi khi không. Dấu phẩy được sử dụng khá ngẫu nhiên. Mặc dù những đặc điểm này không phải là điều làm nên sự khác biệt ở Naka, nhưng tôi vẫn cố gắng mô phỏng lại chúng bất cứ khi nào có thể; thực ra, trong lúc chuyển ngữ tôi luôn cố gắng trung thành với văn bản gốc. Vì vậy, bản dịch này sẽ có một đôi chỗ không được thuận tai lắm, dù rằng khi nói điều này tôi không khỏi nhớ đến lời nhận xét đầy châm biếm của Vladimir Nabokov rằng: “Trong những bài phê bình về các tác phẩm dịch theo lối tôn trọng nguyên tác, tôi thường nổi cơn tam bành trước những nhận xét như: ‘Bản dịch của ông A (hay bà B) đọc nghe rất mượt mà’.”
Ngoài văn phong của Naka, Chiếc thìa bạc còn có vài đặc điểm nữa khiến việc theo dõi tác phẩm không được nhất quán - không chỉ đối với độc giả nước ngoài mà đối với cả các độc giả Nhật Bản ngày nay. Naka nhớ các chi tiết rất chính xác. Ông gọi tên mọi thứ - cây cối, côn trùng, các lễ hội và tất cả mọi thứ liên quan đến chúng - một cách cụ thể và sinh động. Ông còn tham chiếu rất nhiều từ các tư liệu lịch sử và văn chương. Vì vậy, cũng dễ hiểu vì sao vài năm trước nhà xuất bản Iwanami quyết định bổ sung vài chục chú thích chân trang cho ấn bản bìa mềm của cuốn hồi ký này. Trong quá trình chuyển ngữ, tôi cũng mở rộng các mục cần chú thích vì có một số chi tiết tuy có thể vẫn là kiến thức phổ thông đối với độc giả Nhật Bản nhưng lại xa lạ với độc giả ngoại văn.
Điều cuối cùng: Cuốn hồi ký của Naka đáng tin cậy đến mức độ nào?
Trong bài thơ Tem mà tôi nhắc đến ở trên, Naka nói rằng Chiếc thìa bạc là sự tập hợp “những ký ức cũ về những điều có thật và không thật”. Nhận định này có thể đúng, bởi vì trong hầu hết các trường hợp, những điều mà người ta nhớ được từ quá khứ thường mơ hồ, trong khi những điều nhớ được cùng lắm chỉ là những mảnh chắp vá giữa thực tế và phi thực tế. Nhận định của Nabokov về cuốn tự truyện Speak, Memory (tạm dịch: Nói, ký ức) của chính ông có lẽ cũng áp dụng được cho Chiếc thìa bạc: “Hành động nhớ lại một cách sinh động những mảnh quá khứ là điều mà tôi vẫn làm rất hăng say trong suốt cuộc đời mình,” trong khi ông định nghĩa quá trình nhớ lại này là “một loại ảo thuật... một trò chơi phức tạp của sự mê hoặc và lừa dối”.
Chúng ta cũng có thể nói rằng Naka Kansuke đã thực hiện thành công màn ảo thuật của mình trong Chiếc thìa bạc.​
 
Sửa lần cuối:

malemkhoang

Rìu Chiến

PHẦN I - 1 -​


1
Trong một ngăn kéo chứa đồ linh tinh của chiếc tủ sách trong phòng học của tôi, tôi vẫn giữ một chiếc hộp nhỏ làm bằng gỗ xốp có dán các dải giấy họa tiết hoa mẫu đơn ở các mối nối. Có vẻ như ban đầu nó là hộp đựng thuốc lá nhập khẩu từ phương Tây về. Chiếc hộp không có điểm gì đặc biệt, nhưng với tông màu nhẹ nhàng và bề mặt mềm mại của lớp gỗ, cùng với âm thanh trầm ấm mà nó tạo ra khi đóng nắp, nó vẫn luôn là một trong những món đồ yêu thích của tôi. Bên trong hộp đựng một vỏ từ an bối[1], vài hạt giống hoa trà, và vài thứ lặt vặt linh tinh là đồ chơi của tôi ngày nhỏ, nhưng tôi chưa từng quên trong số đó có một chiếc thìa bạc với hình dáng kỳ khôi. Lòng thìa hình cái bát tròn rộng khoảng 1,3cm và cán ngắn hơi cong. Nó khá dày, nên nếu cầm ở đầu cán sẽ thấy nặng. Thi thoảng tôi lấy nó ra khỏi hộp, cẩn thận lau sạch mấy vết bẩn, và nhìn chăm chú vào nó hồi lâu mà không thấy chán. Bây giờ ngẫm lại, có lẽ tôi đã tình cờ tìm thấy chiếc thìa bạc này từ rất lâu rồi.
Ban đầu, nhà tôi có một cái tủ chén. Khi đã đủ lớn để có thể kiễng chân với lên mặt trên của tủ thì tôi thường mở cửa tủ rồi kéo các ngăn kéo ra để xem thử độ lỏng chặt và những âm thanh khác nhau mà chúng phát ra. Một trong hai ngăn kéo nhỏ nằm cạnh nhau với tay cầm bằng mai rùa bị méo nên trẻ con khó mở được, nhưng điều này chỉ càng khiến tôi thêm tò mò, cho đến một ngày, sau một hồi chật vật, cuối cùng tôi cũng mở được nó ra. Trống ngực tôi đập rộn ràng vì hứng khởi, tôi đổ các món đồ trong đó ra chiếc chiếu tatami và trông thấy chiếc thìa bạc nằm lẫn lộn giữa những món đồ điêu khắc nhỏ và những thanh giữ thẳng ống quyển. Không hiểu vì sao khi vừa trông thấy chiếc thìa tôi đã muốn có nó nên tôi vội vàng mang nó tới gặp mẹ.
“Mẹ cho con cái này nhé?”
Mẹ đang đeo kính làm việc trong phòng ăn. Bà có vẻ hơi sửng sốt nhưng rồi cũng nói, “Con phải giữ gìn nó cẩn thận đấy.”
Việc mẹ đồng ý ngay tắp lự như thế này thật khác thường, nên tôi vừa vui mừng lại vừa có phần thất vọng. Cái ngăn kéo ấy đã bị hỏng khi chúng tôi chuyển nhà từ Kanda sang Yamanote, và ngay cả mẹ cũng quên mất chiếc thìa bạc ấy cùng lai lịch kỳ lạ của nó. Đây là điều mà mẹ nói cho tôi biết trong lúc bà vẫn tiếp tục may quần áo
[1] Dùng làm bùa hộ mệnh cho thai phụ lúc sinh con.​

2

Mẹ phải trải qua một cơn thập tử nhất sinh mới sinh tôi ra đời. Ngay cả bà đỡ già nổi tiếng thời bấy giờ cũng chịu bó tay, vì thế họ phải gọi một thầy lang Trung y tên là Tökei tới. Thế nhưng bài thuốc của ông dường như cũng chẳng phát huy tác dụng là bao, khiến bố tôi vốn đang sốt ruột buột miệng quát tháo ầm ĩ. Ông Tökei cũng luống cuống, hết đọc đoạn này sang đoạn khác trong cuốn sách y khoa của ông, cố gắng chứng minh rằng ông không kê đơn sai, trong lòng khẩn thiết cầu mong tình thế xoay chiều. Sau khi hành cho mẹ một trận ra trò như vậy, cuối cùng tôi cũng chào đời. Nhưng cảnh ông Tökei lâm vào đường cùng, liên tục nhấm nước bọt lên ngón tay để giở từng trang sách rồi lục tung hòm thuốc lên còn lưu lại mãi về sau này trong những màn bắt chước giống hệt của người bác hài hước đã nuôi tôi lớn, và suốt một thời gian dài, hình ảnh này vẫn là đề tài chọc cười trong gia đình tôi.
Tôi không những yếu ớt ngay từ khi ra đời, mà không lâu sau đó tôi còn bị một trận nổi mề đay nặng lan lên hết cả đầu và mặt, khiến tôi trông “chẳng khác gì quả thông” theo như lời mẹ kể lại. Vì thế, tôi tiếp tục được ông Tökei chăm sóc. Để mề đay không xâm nhập vào bên trong cơ thể tôi, ông cho tôi uống một loại thuốc sền sệt màu đen và thoa bột mài từ sừng tê giác mỗi ngày. Bởi vì rất khó dùng thìa bình thường để đổ thuốc vào miệng của một đứa bé, nên bác tôi đã tìm được chiếc thìa bạc này ở đâu đó rồi dùng nó đút thuốc cho tôi trong lần ốm ấy. Mặc dù trước đó không hề biết đến sự tồn tại của nó, nhưng khi nghe kể lại chuyện này trong tôi dâng lên điều gì đó tựa như một ký ức trìu mến về chiếc thìa, và tôi quyết tâm không bao giờ để mất nó.
Thấy tôi trằn trọc không yên cả ngày lẫn đêm vì ngứa ngáy khắp người, mẹ và bác tôi phải thay phiên nhau dùng một chiếc túi cám gạo nhỏ bên trong đựng đậu adzuki để vỗ vỗ lên miệng vảy. Tôi nghe kể lại rằng, mỗi lần được gãi ngứa như thế, tôi hớn hở ra mặt, chiếc mũi nhỏ cứ chun chun lên. Tôi cứ oặt ẹo và mẫn cảm như thế cho tới khi lớn hơn một chút và cứ cách ba ngày lại đau đầu một lần. Thế là hễ có khách đến chơi, cả nhà lại bảo tôi bị hỏng não bởi vì mẹ và bác lấy túi cám gạo vỗ vào đầu tôi. Nói chung, tôi mang theo vô vàn rắc rối khi đến với thế giới này.
Và phần vì mẹ tôi chưa hoàn toàn khôi phục sức khỏe kể từ sau khi sinh tôi ra, phần vì khi ấy không có ai khác hỗ trợ, nên mọi người quyết định rằng bác gái đang sống cùng chúng tôi sẽ đảm nhiệm công việc chăm sóc tôi, ngoại trừ những lúc mẹ cho tôi ti sữa.​

3

Chồng của bác tôi tên là Söemon, ở trong tỉnh là một samurai nhưng có địa vị thấp. Cả hai vợ chồng bác đều là người hiền lành thiện lương, chỉ là khi cuộc Minh Trị Duy Tân diễn ra, họ đều rơi vào cảnh khốn khó. Do vậy, sau khi bác Söemon qua đời trong một đợt dịch tả xảy ra vào năm nào đó trong thời Minh Trị, việc duy trì gia đình càng thêm chật vật, nên cuối cùng, bác gái phải đến nương tựa vào nhà tôi. Ở quê, không chỉ những người khó khăn mà cả những người không khó khăn cũng tìm cách lợi dụng lòng tốt của vợ chồng bác tôi để vay mượn tiền bạc, và hai người dù trong nhà không còn gì ăn cũng vui vẻ móc túi ra cho họ vay. Kết quả là, chẳng bao lâu nhà họ hết sạch tiền. Đến lúc đó, những người từng đến mượn tiền họ trước đây lại cười nhạo họ sau lưng.
“Đúng là lành quá hóa đần,” họ chế nhạo.
Thực ra, vào lúc cùng cực quá, vợ chồng bác cũng đến nhà những người có vẻ dễ nói chuyện để đòi tiền. Nhưng tất cả những gì họ nhận được là những câu chuyện thương tâm đầy nước mắt mà những người vay tiền kể, thế là họ đành quay về, miệng không ngừng than, “Thật đáng thương, thật đáng thương!”
Không chỉ có thế, họ còn rất mê tín nữa. Có lần, họ mua ở đâu đó về một cặp chuột, nói đó là sứ giả của Thần Daikoku[1] và đặt tên cho chúng là Ông Bà May Mắn, rồi hai vợ chồng ra sức chăm chút nâng niu chúng. Và không cần nói thì hẳn ai cũng biết, chúng sinh con đàn cháu đống. Cuối cùng, trong nhà lúc nào cũng có hàng đàn chuột chạy tán loạn khắp nơi. Thế nhưng vợ chồng bác tôi lại coi đó là phước lành lớn, và hễ vào các ngày lễ là họ lại nấu cơm trộn đậu adzuki hoặc rang đậu rồi đổ tới ngọn vào một cái hộp gỗ hình vuông cho lũ chuột. Và thế là khi người ta vay mượn hết sạch số tiền ít ỏi mà họ có và những sứ giả của sự may mắn ăn hết số gạo trong thùng, vợ chồng bác tôi chẳng còn lại của nả gì ngoài bộ quần áo mặc trên người nên phải dắt díu nhau tìm đến tận nhà tôi - chúng tôi đã chuyển đến đây cùng với ông chủ. Không lâu sau đó, bác Söemon qua đời vì dịch tả, để bác gái ở lại thành một quả phụ nghèo khổ cùng cực. Nói về thời ấy, bác tôi kể rằng nạn korori - “đột tử” - lan tràn khắp Nhật Bản bởi vì những người Công giáo sống ở một đất nước xa lạ đã gửi một con sói độc ác theo đường biển tới giết hại người Nhật Bản; bác còn cho biết chuyện này xảy ra hai lần, “korori một” và “korori ba”. Bác Söemon nhiễm bệnh vào đợt “korori một” và bị đưa đến phòng cách ly, nơi các bệnh nhân đã tím tái vì sốt và bị để mặc cho chết mà không được uống lấy một ngụm nước. Bác tôi kể rằng tất cả những bệnh nhân qua đời đều bị tổn thương nặng nề lục phủ ngũ tạng.
Đối với bác, việc nuôi dạy tôi là niềm vui sướng duy nhất trong cuộc đời. Thực ra, lý do rất có thể là bác không có nhà cửa, con cái, tuổi tác thì đã cao nên không có điều gì để trông chờ cả, nhưng còn có một lý do bí ẩn khác giải thích vì sao bác lại chăm sóc cho tối tâm huyết đến vậy. Khi người anh trai trước tôi mất vì chứng động kinh không lâu sau khi chào đời, bác tôi đã đau khổ rất nhiều, như thể chính con ruột của mình mất đi vậy; bác gào khóc và nhắn nhủ, “Xin con hãy đầu thai lần nữa, hãy đầu thai lần nữa nhé!”
Vì thế, năm sau đó khi tôi ra đời, bác đinh ninh rằng nhờ ơn trời Phật, đứa trẻ đã mất nay đã đầu thai trở lại, vì thế bác quyết định sẽ chăm sóc tôi thật tốt. Hẳn là lúc ấy bác đã rất hạnh phúc và cảm động khi nghĩ rằng đứa bé này, dù rằng khắp người đang nổi mề đay, đã không quên những lời nguyện cầu của bác nên đã vì bác mà từ bỏ ngôi nhà của mình ở đài sen trên thượng giới! Vì vậy, sau khi tôi lên bốn hoặc năm tuổi, khi dâng hương trước bàn thờ Phật - công việc mà người bác sùng đạo của tôi vui vẻ thực hiện mỗi sáng - thi thoảng bác dẫn tôi tới trước ban thờ và cố gắng dạy tôi, một đứa trẻ vẫn chưa biết mặt chữ, ghi nhớ Pháp danh của người anh đã quá cố của tôi, Ikkan Sok’ö Döji, có nghĩa là đứa trẻ đã đáp lại lời nguyện cầu. Trong suy nghĩ của bác, đây chính là tên của tôi khi ở trên Thiên đàng.
[1] Một trong Thất Phúc Thần, tượng trưng cho sự giàu có và sung túc. Trong các hình vẽ minh họa, người ta thường vẽ thêm cảnh chuột đi theo Thần, ngụ ý rằng thóc gạo của Thần không bao giờ cạn kiệt, có thể nuôi vô số chuột.​

4

Có lẽ khi ở trong nhà thì không, nhưng hễ ra khỏi nhà dù chỉ một bước, tôi đều bám trên lưng của bác. Nhưng có lẽ bác cũng không muốn để tôi ra ngoài, thậm chí có lần thì kêu đau hông, khi khác lại bảo tay bác bị tê cả rồi. Hẳn là phải đến khi năm tuổi, tôi mới chạm chân xuống đất, và mỗi khi bác đặt tôi xuống để làm những việc như chỉnh lại đai lưng cho tôi, tôi lại thấy trời nghiêng đất ngả, đến nỗi phải bám chặt vào ống tay áo của bác. Hồi ấy, tôi có một bộ đai lưng màu xanh nhạt buộc cao trên ngực với một chiếc thắt lưng nhỏ có treo một tấm bùa hộ mạng xin ở núi Narita. Đó là ý tưởng của bác tôi. Dĩ nhiên, tấm bùa là để tôi không bị thương, không bị ngã xuống mương nước hay sông. Còn quả chuông là để phòng khi tôi đi lạc khỏi bác, bác nghe tiếng chuông mà biết đường tới tìm tôi. Chẳng là mắt bác bị mờ nên không thể nhìn xa được. Nhưng đối với một đứa bé suốt bao nhiêu năm qua chưa từng rời lưng bác mà nói thì cả quả chuông và tấm bùa hộ mạng đều là vô nghĩa.
Bởi vì ốm yếu nên trí não tôi cũng chậm phát triển. Không những thế, tôi còn dễ bị trầm cảm nặng và hiếm khi nở nụ cười, ngoại trừ với bác tôi. Tôi cũng vô cùng ít nói và hầu như không có phản ứng gì kể cả khi người nhà đang nói chuyện với tôi; cùng lắm tôi chỉ lặng lẽ gật đầu, mà đấy còn là những khi tôi đang có tâm trạng tốt. Tôi ốm yếu và nhút nhát đến mức chỉ cần trông thấy người lạ là tôi lập tức úp mặt vào lưng bác mà khóc. Tôi gầy đến trơ cả xương sườn, và thứ duy nhất có vẻ to trên người tôi chính là cái đầu. Và bởi vì mắt tôi nằm sâu tận trong hốc mắt, nên mọi người trong nhà gọi tôi là Bé Bạch Tuộc, Bé Bạch Tuộc. Về phần mình, tôi cải biên tên Kanbö và tự gọi mình là Kanpon[1].
[1]Tên khai sinh của tác giả là Kansuke, gọi tắt là Kan, nhưng bởi vì âm này rất ngắn nên có lẽ gia đình ông gọi ông là Kanbö, “Kan Boy”. Tuy nhiên, cậu bé Kansuke chưa phát âm được từ này nên nối chệch sang thành “Kanpon”.​

5

Tôi được sinh ra ở một nơi đậm chất Kanda, và lẽ dĩ nhiên, thuộc khu Kanda, nơi những vụ hỏa hoạn, ẩu đả, say rượu, và trộm cắp diễn ra hằng ngày. Những ngôi nhà để lại ấn tượng trong trí não ốm yếu của tôi là dãy nhà phía bên kia phố - hàng gạo, hàng kẹo, rồi hàng đậu phụ, nhà tắm công cộng, sân chứa gỗ, và vô vàn những căn nhà tương tự. Nhưng nổi bật hơn cả hàng rào màu đen của nhà thầy thuốc ở cuối phố và cánh cổng dẫn vào khuôn viên của ông chủ, cũng là nơi mà chúng tôi ở.
Vào những hôm đẹp trời, bác tôi thường cõng tôi ra ngoài chơi - nhìn tổng thể, chúng tôi trông giống một con quái vật trong Nghìn lẻ một đêm - và đến những nơi mà bác nghĩ là tôi thích xem hoặc đến khi đôi chân già nua của bác không chịu nổi nữa. Ở cuối con đường ngay sau lưng chúng tôi là nhà làm đậu Bồng Lai: những người đàn ông chỉ đóng khố, để lộ những hình xăm Kurikara[1], và trên đầu quấn khăn vừa hát vừa nổ đậu. Nhưng tôi không thích tới đó bởi vì tôi sợ những người đàn ông xăm trổ giống như quỷ ấy và âm thanh lốp bốp mà họ tạo ra khiến tôi khó chịu. Hễ khi nào bị đưa tới những nơi không lấy gì làm thoải mái ấy, tôi lập tức sụt sùi, rồi vặn vẹo trên lưng bác và không nói lời nào mà lấy tay chỉ về hướng mà tôi muốn đi. Vốn rất hiểu thằng quỷ con của mình, bác tôi liền đưa tôi tới đúng nơi mà tôi muốn.
Tôi thích nhất là chỗ miếu thờ thần cáo ở Izumi-chö gần sông Kanda. Vào những buổi sáng sớm khi xung quanh không có ai, tôi thường tự chơi bằng cách ném đá xuống sông hoặc kéo sợi dây gắn với chiếc chuông trông giống như một quả hạch lớn. Bác tôi sẽ chọn một tảng đá sạch để tôi ngồi lên hoặc đặt tôi lên bậc thềm của ngôi miếu rồi cầu nguyện. Những đồng xu rơi lách cách xuống hòm công đức nghe thật vui tai. Cho dù đứng trước Đức Phật hay vị thần linh nào đó, lời cầu nguyện đầu tiên của bác vẫn là: Xin người phù hộ cho đứa trẻ này lớn lên khỏe mạnh.
Một ngày nọ, tôi bám vào hàng rào gỗ và nhìn ra sông còn bác đứng đằng sau giữ đai lưng của tôi. Mấy con chim lông trắng bay tới bay lui để bắt cá. Cái cảnh chúng lặng lẽ bay, duyên dáng sải đôi cánh thật dài và trông thật mịn màng dường như được đặc biệt sắp xếp để dành cho một đứa trẻ yếu ớt, dễ đau ốm như tôi. Vì thế, hiếm khi tôi cảm thấy vui vẻ nhường ấy. Nhưng thật không may, một cô bán hàng rong đeo trên lưng một chiếc giỏ đựng trứng và bánh quy bột mỳ đi ngang qua ghé vào nghỉ ngơi, và thế là như thường lệ, tôi lập tức bám lên lưng bác. Người phụ nữ nọ đặt giỏ xuống, lấy chiếc khăn đang quấn quanh đầu ra để lau cổ, và bắt chuyện với chúng tôi. Cô khéo nói tới nỗi dụ dỗ được cả một đứa nhút nhát là tôi. Khi tôi ra quyết định e dè là tụt khỏi lưng bác một lần nữa, cô mở ra một chiếc hộp bên trong đựng đầy những chiếc bánh quy trông rất hấp dẫn rồi nhặt lên một chiếc đặc biệt thơm ngon có hình giống như hình đồng xu vàng kéo dài ra và lấy ngón tay xoay xoay nó. Sau đó, cô đặt cái bánh vào lòng bàn tay tôi, miệng thủ thỉ, “Bé ngoan, bé ngoan.”
Bác tôi không thể làm gì khác ngoài việc trả tiền cho cái bánh. Ngay cả bây giờ, mỗi khi trông thấy một người phụ nữ bán hàng rong nào mệt mỏi đặt những quả trứng trắng hồng nằm lấp ló trong lớp vỏ trấu và những chiếc bánh quy bột mì với mùi hương thơm nức, tôi lại có mong muốn mua hết những gì mà người phụ nữ nghèo khổ ấy có. Bây giờ ngôi miếu thờ thần cáo đã được cải tạo trông khang trang dễ nhìn hơn và thu hút được nhiều người lui tới hơn, nhưng cây liễu năm xưa vẫn còn đó, vẫn lả lướt đùa theo từng trận gió.
[1] Ở đây nói về Vua Rồng, hiện thân của Bất Động Minh Vương thường được mô tả bằng hình ảnh một con rồng cuộn mình xung quanh một cây kiếm dựng thẳng trên một tảng đá và đang cố gảng nuốt cây kiếm ấy, xung quanh là lửa.​

6

Vào những ngày không đưa tôi tới miếu thờ thần cáo, bác lại cõng tôi tới sân tù, trước khi đi bác còn lấy tiền để mua đồ và vé vào cửa rồi cho vào chiếc ví đã cáu bẩn của mình. Chỗ này trước kia là nhà tù Tenma-chö nổi tiếng, nhưng bây giờ nó là nơi tổ chức nhiều trò tiêu khiển khác nhau. Các tiểu thương cũng dựng lên một dãy gian hàng bày bán đủ thứ, nào là ốc xà cừ nấu nguyên vỏ, đậu nổ, nước cam ép, và khi vào mùa sẽ có ngô, hạt dẻ nướng, và hạt sồi đá. Ở lối vào một khu vui chơi dùng tấm bạt sọc đỏ trắng quây tạm thành, một người đàn ông ngồi bắt chéo chân, trên tay cầm bộ gõ bằng gỗ và thẻ đánh dấu guốc mộc, thi thoảng ông ta lại khum tay che lên miệng và hô to, “Höban! Höban!” Một người đàn ông khác thì giơ một cái cánh gà ngay trước mũi một con chó hoang đang bị xích lại để dụ nó sủa. Một con kappa[1] trông có vẻ đáng ngờ với chiếc đĩa ở trên đầu đang vẫy vùng ở một bể nước. Những người giảng đạo Deroren[2] thổi vỏ ốc và gõ những thanh kim loại, chốc chốc lại hô lên, “Deroren! Deroren!” Những cảnh này hoàn toàn không có gì lý thú đối với tôi, nhưng bác tôi lại thích nên vẫn thường xuyên đưa tôi đến chơi.
Trong một lần hiếm hoi, một gánh múa rối về biểu diễn, họ treo tấm áp phích vẽ một cô gái trông giống các nàng công chúa mà tôi từng nhìn thấy ở những cuốn truyện tranh đang nhảy múa cùng một chiếc trống bên một ngọn đồi xanh nở đầy hoa anh đào. Tôi háo hức bước vào, nhưng ngay lúc đó một âm thanh lách cách đáng sợ vang lên và một sinh vật kỳ dị, mặt và tay chân đều là màu đỏ, ống tay áo bị cái đai lưng vặn xoắn kéo lên, khiến tôi sửng sốt rồi òa khóc. Về sau tôi được nghe giải thích rằng đó là con cáo Tadanobu trong vở kịch Nghìn cây đào[3].
Một trong những chương trình mà tôi yêu thích là trận đấu vật giữa người và một con đà điểu. Đấu sĩ quàng khăn đầu và mặc áo giáp giống như trong đấu kiếm, anh ta đi nghênh ngang đóng giả làm một con chim đang muốn thách thức con đà điểu hòng khiến nó nổi giận và đá anh ta. Đôi khi con đà điểu bị vật ngã xuống đất, cổ bị ghìm chặt; đôi khi đấu sĩ bị nó đá đến nỗi phải bỏ chạy, vừa chạy vừa la toáng lên, “Mày thắng rồi! Mày thắng rồi!” Một lần, khi con đà điểu thắng, đấu sĩ tiếp theo đang ngồi ăn cơm ở một góc, còn con đà điểu quanh quẩn bên cạnh rồi đột ngột lao ra chộp lấy hộp cơm trên tay người kia. Cảnh anh ta thất kinh nhảy dựng lên trông buồn cười tới nỗi khán giả cười nghiêng ngả. Nhưng bác tôi lại nhỏ nước mắt.
“Con đà điểu đang đói mà thậm chí còn chẳng được ăn,” bác nói. “Bác thấy thương cho nó quá.”
[1]Kappa: Một loài thủy quái huyền thoại tồn tại trong văn hóa dân gian Nhật Bản, có hình dáng giống một đứa trẻ 4-5 tuổi, nhưng mặt giống mặt hổ, có mỏ, và có mai rùa sau lưng. Một đặc điểm nổi bật khác là trên đầu quái vật này có một vết lõm giống một chiếc đĩa.
[2]Deroren saimon: Ban đầu là những người hát rong, đi từng nhà và hát những bài giảng đạo đức đơn giản. Từ giai đoạn Edo tới thời Minh Trị, một vài người trong số này trở thành các diễn viên trên sân khấu.
[3]Trong vở kịch này có kể một phần về chuyện con cáo thần. Nhân vật tướng quân Yoshitsune trước khi ra chiến trường đã đem tặng cho người yêu của mình là Shizuka một chiếc trống. Chiếc trống này được làm từ da của cha mẹ con cáo thần, vì thế nó hóa thành Satö Tadanobu, một người lính vô cùng trung thành với Yoshitsune và đi theo Shizuka. Mỗi khi cô vỗ trống nhảy múa, con cáo thần lại hiện ra.​

7

Đối với tôi mà nói, được sinh ra ở Kanda là một sai lầm tựa như thủy quái kappa nở ra ở giữa sa mạc vậy. Trẻ con xung quanh đều là những đứa trẻ hư, được rèn luyện để sau này lớn lên trở thành người Kanda. Chúng không chỉ không thèm chơi với một đứa ốm yếu như tôi mà còn không bỏ qua cơ hội nào để hành hạ tôi. Đặc biệt, thằng con trai nhà bán tất tabi[1] ở bên kia đường thường rình lúc bác tôi không để ý đột ngột xuất hiện đằng sau tôi, tát tôi vào má một cái rồi chạy vọt đi. Tôi bị dọa sợ đến nỗi dần dần sợ cả việc đi ra ngoài.
Khi tôi ở trong nhà, bác tôi thường bế tôi đứng lên chiếc cửa sổ xây cao quay mặt ra ngoài đường, để tôi bám tay vào tấm lưới sắt, rồi ôm tôi từ đằng sau và dạy cho tôi biết tên của những gì xuất hiện trong tầm mắt - nào là con ngựa, nào là cái xe. Một con gà của nhà bán gạo bên kia đường bị què chân vì bị xe cán qua. Hễ khi nào trông thấy nó trên đường, một chân lúc nào cũng co lên, lông cánh và lông đuôi xác xơ và bẩn thỉu, bác lại bảo, “Con gà tội nghiệp!” vì thế tôi dần dần trở nên không thích trông thấy nó.
Thường thì tôi chơi trong căn phòng khá tăm tối trải ba chiếc chiếu, cũng là nơi đặt ban thờ Phật. Ban đêm nó là phòng ngủ của tôi, nhưng thi thoảng các chị tôi cũng vào học ở đó. Khi ấy hai chị khoảng 12-13 tuổi, đang là học sinh trung học, và tôi vẫn nhớ họ thường lấy những cuốn sách màu đen ra khỏi chiếc cặp hình chiếc phong bì theo kiểu Âu, trải sách lên những mặt bàn gỗ cũ kỹ rồi tập viết. Một chiếc bàn rộng khoảng 0,9 mét với hai ngăn kéo có tay cầm là cành cây bọc trong giấy vào đút vào chỗ hai tay nắm cũ đã bị mất. Chiếc bàn còn lại thì có ngăn kéo rất nông và nó nhỏ tới nỗi chỉ trẻ con mới có thể khoanh chân đút dưới gầm bàn được. Đây là những chiếc bàn được truyền từ thời anh tôi cho các chị gái, rồi sau này đến tôi, và từ tôi truyền lại cho em gái, cứ thế trong suốt vài chục năm.
Nếu bác đặt tôi đứng trên chiếc bàn nhỏ để nhìn qua chiếc cửa sổ trổ ra vườn, tôi có thể trông thấy những bụi cây đỗ quyên thật lớn mọc gần hàng rào đen. Vào những ngày mùa hè, nơi đó tràn ngập những bông hoa đỏ tươi tuyệt đẹp, và mặc dù nhà ở giữa khu phố, nhưng thi thoảng lũ bướm cũng ghé lại thăm và đánh chén một bữa mật ong thỏa thích. Cảnh lũ bướm hối hả đập cánh như đang vội sấp vội ngửa trông thật cuốn hút. Vào những lúc như thế, bác thường vươn đầu qua vai tôi và nói rằng con bướm đen là ông trong loài bướm đuôi nhạn, còn bướm trắng và bướm vàng đều là công chúa. Thực ra, các cô công chúa đều rất đáng yêu, nhưng con bướm ông thì trông rất đáng sợ mỗi khi nó vỗ vỗ đôi cánh lớn đen như than và bay qua bay lại.
Bác cũng lấy ra cho tôi nhiều món đồ chơi đựng trong một chiếc giỏ được đậy một cách tỉ mỉ bằng những trang xé trong các cuốn sách thiếu nhi. Trong số rất nhiều món đồ chơi mà tôi có, tôi thích nhất là chú chó bằng đất sét và tô mực đen mà chúng tôi nhặt được ở rãnh nước trước cửa nhà. Khuôn mặt của chú chó mang một vẻ dịu dàng khiến tôi mê mẩn. Bác tôi đặt tên cho nó là Chó Thần; bác còn lập một ngôi miếu cho nó từ một chiếc hộp rỗng và mấy thứ linh tinh khác, rồi đặt nó vào bên trong và cầu nguyện. Ngoài ra, tôi cũng rất thích con bò đỏ[2] thô ráp. Thực ra, hai món đồ chơi này là hai người bạn thân duy nhất mà tôi có trên đời.
[1]Tabi: Loại tất ngắn tách riêng phần xỏ cho ngón chân cái và có móc gắn ở phía sau. Loại tất này chủ yếu được sử dụng trong những dịp trang trọng.
[2]Món đồ chơi được tặng kèm khi mua loại thuốc Ushibeni (nghĩa đen là bò đỏ) màu đỏ dùng để thoa môi.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

- 2 -

8
Ngoài những món đồ chơi đó, chúng tôi còn có đủ thứ vũ khí, từ kiếm, kích, cung tên, cho đến súng ống. Bác tôi thường biến tôi trở thành một chiến binh hoàn hảo bằng cách trang bị cho tôi những thứ như mũ đội đầu đã được sơn cẩn thận và lưỡi dao có thể đâm xuyên áo giáp. Sau đó, bác lấy băng buộc đầu quấn lại sau gáy và tự mình cầm lấy một lưỡi kích. Và chúng tôi chia nhau đi tới hai đầu hành lang để bắt đầu đánh trận giả với nhau. Sau khi đã vào vị trí sẵn sàng, chúng tôi từ từ tiến về phía đối phương với tinh thần cảnh giác cao độ. Khi chạm trán nhau ở giữa hành lang, tôi sẽ dõng dạc hô to:
“Mi có phải là Shiöten không?”
Và kẻ thù sẽ đáp lại:
“Mi có phải là Kiyomasa không?”
Sau đó cả hai đồng thanh:
“Thật tuyệt vời vì giờ đây ta đã gặp nhau!”
Ngay lập tức sau đó, chúng tôi cùng hét, “Yä, takatakatakataka!” và ra sức đâm chém nhau. Qua một lúc, cuộc chiến vẫn bất phân thắng bại. Đây là một cảnh trong Trận chiến Yamazaki; tôi là Katö Kiyomasa, còn bác tôi vào vai Shiöten, thống đốc của Tajima. Dần dần, chúng tôi ném vũ khí ra chỗ khác rồi lao vào túm lấy nhau. Sau một màn long tranh hổ đấu ngoạn mục, Shiöten trông thấy Kiyomasa đã có vẻ mệt nên thì thầm một tiếng phẫn nộ, “Chết tiệt!” rồi ngã xuống. Thế là tôi tự hào ngồi dạng chân trên lưng bác và ấn bác xuống. Bác nhập vai Shiöten cho tới cùng, thậm chí còn đổ mồ hôi ròng ròng.
“Đứng đưa ta vào tù!” bác nài nỉ. “Hãy chặt đầu ta đi!”
Và thế là Kiyomasa rút thanh đoản kiếm ra rồi cưa qua chiếc cổ đã nhăn nheo của Shiöten, còn Shiöten nhăn nhó như thể đang rất đau đớn. Trận chiến kết thúc khi bác nhắm mắt lại, giả vờ đã chết, cơ thể mềm nhũn không còn chút sức lực. Nhưng vào những hôm trời mưa gió, tôi thường đòi chơi đánh trận giả tới bảy, tám lần khiến Shiöten kiệt sức đến mức đứng không nổi. Nhưng bác tôi vẫn đứng thẳng người, kể cả lúc rên rỉ, “Chịu thôi, không thể chơi tiếp được nữa! Chịu thôi!” cho đến khi tôi chán và đòi ngừng chơi. Thi thoảng, khi mệt quá, bác không thể đứng dậy sau khi bị chặt đầu. Mỗi lần như vậy, tôi lại sợ rằng nhỡ đâu bác chết thật nên nhẹ nhàng lay lay bác.​

9

Trong dịp Lễ hội Myöjin[1], khu phố nhà tôi trở nên náo nhiệt kinh khủng. Các thanh niên trong khu đi một vòng quanh các nhà để trang trí lên mái những bông hoa giấy màu đỏ và trắng và treo đèn lồng có dấu tomoe[2] hoặc vòng tròn đại diện cho mặt trời. Tôi rất vui khi thấy mái nhà nhà mình cũng được trang trí hoa và treo đèn lồng. Vào những ngày như vậy, một vài cửa hàng sẽ lấy thảm lót sàn nhà và bày biện Shijinken[3]. Hai chiếc đầu hổ khắc họa cầu kỳ được thành kính đặt trên một cái bệ cùng với một lọ rượu sake cỡ lớn dâng cho các vị thần, bên trong lọ là một cuộn giấy được tạo hình giống một cây tre. Chiếc đầu hổ vàng có cặp mắt bạc sáng chói và trên đầu đội viên đá trang sức[4], còn komainu[5] màu đỏ tươi có cặp mắt vàng sáng lấp lánh cùng một chiếc bờm sư tử với dáng vẻ hoang dã. Bác tôi lại vận dụng chiến thuật mà bác từng dùng để biến Chó Thần và Bò Đỏ trở thành bạn tôi, và bác cũng khiến con sư tử và komainu trở nên thân thiện hơn với tôi, và tôi không sụt sùi khóc, dù rằng khuôn mặt của chúng thật đáng sợ.
Nam giới trẻ tuổi của thị trấn, từ thanh niên cho đến trẻ nhỏ mới tập đi, tất cả đều mặc đồng phục yukata, quấn khăn quàng đầu rất phong cách, xắn ống tay áo lên rất khéo léo bằng một sợi dây gai dầu nhuộm màu vàng nghệ - tôi thích những sợi dây này được trang trí thêm quả chuông và búp bê lật đật - chân chỉ đeo tất tabi trắng và khoe ra những bắp chân căng mọng, huênh hoang đi lại khắp nơi, mỗi người vác theo chiếc mandö[6] to nhất mà họ có thể mang. Ánh nến lung linh sáng cả trong những chiếc đèn lồng treo dọc các mái nhà lẫn trong những chiếc đèn mandö đang diễu khắp thị trấn. Trên đỉnh của chiếc mandö sơn màu đỏ và trắng có treo nhiều cụm giấy thường dùng để thờ cúng. Cảnh tượng chúng xoay tròn trong không trung trông thật vui mắt. Ở mỗi địa điểm chiến lược trong thị trấn, một nhóm người lớn và trẻ nhỏ tụ tập lại xung quanh chiếc thùng mikoshi[7] để cùng bàn bạc về các chiến thuật đánh nhau.
Bác tôi, vốn luôn có hứng thú với chuyện như thế này, một lần cũng đưa tôi ra ngoài, dĩ nhiên là trước khi đi bác cũng xắn ống tay áo lên và đeo khăn quàng đầu cho tôi để tôi trông cũng giống tất cả mọi người khác. Tôi bám trên lưng bác, chiếc quần màu đỏ bằng vải flannel thò ra bên dưới đường viền của chiếc kimono và ống tay áo dài đã được xắn lên bằng một sợi dây, trên tay đung đưa một chiếc mandö nhỏ. Thật không may, một đứa bé hư đang đứng tụ tập quanh chiếc thùng mikoshi trông thấy tôi nên đã thình lình ném vài viên đá về phía tôi.
“Quỷ tha ma bắt!” cậu ta hét lên. “Nó nằm trên lưng một ả đàn bà lại còn dám cầm đèn mandö kìa!”
Bác tôi hoảng hốt.
“Xin hãy nhẹ nhàng với thằng bé, nó chỉ là một đứa trẻ ốm yếu!” bác hô lên rồi vội vàng chạy đi chỗ khác. Nhưng vài đứa vẫn cố tình đuổi theo chúng tôi, kéo lấy chân tôi hòng lôi tôi xuống. Có lúc tôi sợ quá, bám chặt vào cổ bác và khóc òa lên như bị bỏng. Bác thì suýt bị tôi bóp cho nghẹt thở, cố gắng tìm cách gỡ tay tôi ra, và cuối cùng hai bác cháu cũng chật vật về được đến nhà. Sau khi đã hồi sức, bác mới nhận thấy là tôi đã đánh rơi chiếc mandö mà bác mua cho tôi, và rơi cả đôi guốc mộc - đôi guốc mà tôi rất yêu quý, bởi vì tôi có thể dùng sợi dây màu xanh nhạt buộc chúng vào chân mình.
[1]Myöjin (Minh thần): Vị thần được sắc phong theo quy định ban hành vào năm 927 thời Engi, hoặc các ngôi đền thờ các vị thần này. Trước khi kết thúc Thế chiến II, ít nhất mỗi năm có 4 lễ hội Myöjin, nhưng ở đây Naka nhắc đến Lễ hội Myöjin ở Kanda; vào thời của ông, lễ hội này được tổ chức vào trung tuần tháng Chín hằng năm; ngày nay lễ hội diễn ra vào tháng Năm.
[2]Tomoe: Thường được dịch là biểu tượng dấu phẩy. Đây là một biểu tượng hình xoáy trông giống dấu phẩy, thường được dùng trong các huy hiệu của người Nhật Bản. Thông thường, một biểu tượng như vậy là một cụm gồm hai, ba, hoặc bốn dấu phẩy nằm trong một vòng tròn.
[3]Shijinken: Theo một số người, shijinken có nghĩa là thanh kiếm hoặc lá cờ in hình bốn vị thần. Những thanh kiếm và lá cờ này tượng trưng cho tứ thần trong truyền thống Trung Quốc cai quản bốn phương trời và bốn mùa trong năm, bao gồm Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, và Huyền Vũ. Tuy nhiên, theo như lời mô tả phía sau của Naka, thời của ông, shijinken chỉ hai hình đầu hổ bằng gỗ được sơn màu sặc sỡ.
[4]Höshu: Vật hình tròn có một đầu nhọn, thường được đặt ở giữa mái của chiếc đèn lồng đá.
[5]Komainu: Tượng chó trông giống sư tử, thường được đặt thành đôi trước cửa đền để trông coi.
[6]Mandö: Chiếc đèn lồng hình hộp được buộc trên một cây gậy.
[7]Mikoshi: Đền thờ di động do một nhóm người khiêng trong một số dịp lễ hội. Đối với các cậu bé, một thùng rượu sake đôi khi cũng có thể thay thế cho một ngôi đền.​

10

Tôi ốm yếu đến nỗi hiếm khi nào tách xa được thầy thuốc. Tuy nhiên, ông Tökei với đống bột sừng tê giác không lâu sau đã qua đời, và tôi bắt đầu có thầy thuốc mới là ông Takasaka, vị “bác sĩ Tây học.” Những vết mề đay mà ông Tökei vất vả lắm mới làm giảm bớt được thì nay đã được một liều thuốc phương Tây xóa sạch sẽ và chẳng mấy chốc, tôi đã được chữa khỏi hoàn toàn. Mặc dù có gương mặt hơi dọa người, nhưng ông Takasaka rất giỏi dỗ trẻ con. Tôi vốn đã trở nên cực kỳ ghét loại thuốc sền sệt của ông Tökei, nhưng lại rất vui vẻ mà uống thứ thuốc lỏng ngòn ngọt mà vị bác sĩ mới mang đến. Về sau, ông Takasaka gợi ý rằng, để sức khỏe của hai mẹ con tôi tốt lên, chúng tôi nên chuyển đến vùng Yamanote là nơi có bầu không khí trong lành. Thật may mắn, bởi vì cha tôi lúc này đã hoàn thành gần hết công việc với ông chủ nên có thời gian rảnh rỗi, ông giao việc còn lại cho người khác và quyết định chuyển đến vùng núi Koishikawa.
Khi ngày chuyển nhà cuối cùng cũng đến, mọi người ai cũng nhắc đi nhắc lại với tôi rằng chúng tôi sẽ không bao giờ quay trở về ngôi nhà ấy nữa. Nhưng tôi mải mê với những ồn ào huyên náo của những người quen đến giúp chúng tôi dọn nhà. Hơn nữa, tôi cũng rất lấy làm vui mừng vì được ngồi cùng xe với bác, nên tôi cứ ríu rít nói không ngừng. Đoàn xe đi được một lúc thì trên đường dần thưa người hơn và sau khi leo qua một con dốc dài bằng đất - cho tới khi đó tôi vẫn chưa biết đường dốc là gì - cuối cùng chúng tôi cũng đến một ngôi nhà cũ có hàng rào tuyết tùng bao quanh. Đây sẽ là nơi ở mới của chúng tôi.​

11

Ở khu mới mọi người sống lặng lẽ trong những ngôi nhà cũ có hàng rào tuyết tùng bao quanh. Hầu hết đều thuộc tầng lớp quý tộc nhỏ đã sinh sống ở đây qua nhiều thế hệ, từ thời kỳ Mạc phủ cũ. Đây là những người vì thế cuộc đổi thay mà địa vị của họ cũng bị kéo xuống, nhưng họ đã tránh được cảnh rơi vào cuộc sống nghèo túng được bữa nay lo bữa mai và sống một cuộc sống khiêm nhường nhưng yên bình. Ở vùng nông thôn này, nhà cửa thưa thớt, hàng xóm không những quen biết nhau mà còn biết rõ cả trong nhà nhau trông như thế nào. Họ sống thân thiện như vậy đấy.
Bên trong những hàng rào tuyết tùng um tùm không người chăm sóc, bao giờ cũng có những khoảng đất trống để trồng cây ăn quả, và khoảng đất giữa các ngôi nhà được chăm bón làm nơi trồng rau hoặc chè, đồng thời là sân chơi lý tưởng cho tụi trẻ nhỏ và lũ chim muông. Trong mắt tôi, những vườn rau, hàng rào cây, và bãi trồng chè đều rất mới mẻ và đẹp đẽ. Ngôi nhà mà chúng tôi vào ở thực ra chỉ là tạm thời, để chờ xây ngôi nhà mới ở mảnh đất rộng rãi kế bên. Ở tiền sảnh tối tăm có trồng một cây “nhượng diệp[1]” có lá và cuống lá màu đỏ mà tôi rất thích. Thi thoảng tôi lấy một chiếc lá trơn mượt trên cây rồi áp nó lên môi hoặc má mình. Ngày hôm sau khi chúng tôi chuyển đến, có người bắt được một con ve sầu liền bỏ nó vào trong một cái chuồng chim tình cờ nằm ngổn ngang gần đó và mang cho tôi. Bởi vì chưa từng trông thấy hay nghe thấy tiếng ve sầu bao giờ nên tôi rất lấy làm tò mò, nhưng hễ tôi cứ lại gần là nó lại trở nên hung dữ và phát ra những tiếng chói tai khiến tôi phát hoảng.
Mỗi buổi sáng, tôi đều bị gọi dậy từ rất sớm và bị bắt đi chân trần trên bãi cỏ. Đối với tôi, riêng việc cố gắng ghi nhớ tên của các loại cây mọc ở đó, chẳng hạn cây rau tế và cây củ gấu, đã là cả một nhiệm vụ nặng nề. Bà tôi, khi ấy đã gần tám mươi tuổi, cũng chống gậy đi dạo buổi sáng sớm cùng tôi, trên mái đầu trọc trùm một chiếc khăn bằng vải satin. Một buổi sáng, bà chọn ra ba hạt dẻ rồi chôn xuống mô đất ở cạnh hàng rào ở sân sau và nói rằng tới khi các cháu của bà lớn lên, chúng sẽ được ăn hạt dẻ. Sau khi bà mất, chúng tôi gọi chúng là cây hạt dẻ Bà Ngoại và thay nhau chăm sóc. Bây giờ chúng đã rất cao lớn, và vào mùa thu, chúng tôi lại rung cây cho hạt rụng và nhặt được vài giỏ mang về để bóc cho lũ trẻ ăn.
Không lâu sau khi chúng tôi chuyển đến nơi ở mới, việc xây nhà được tiến hành. Mặc dù hơi sợ, nhưng tôi vẫn ngồi trên lưng bác đi xem lũ ngựa và bò chở gỗ đến rồi được buộc ở chỗ hàng rào. Những con ngựa vừa ăn lá tuyết tùng vừa thở phì phì ra hơi nước từ hai lỗ mũi lớn, còn những con bò thì ợ một tiếng rồi nôn ra thứ gì đó từ trong bụng và nhai tóp tép. Tôi thích những con bò mặt tròn trĩnh trông yên bình, thường xuyên đưa lưỡi liếm cái miệng đầy dớt dãi của chúng hơn là những con ngựa mặt dài ngoằng và bướng bỉnh. Ở chỗ xây dựng, những chiếc đục, rìu lưỡi cong, và rìu lưỡi rộng thi nhau tạo nên đủ thứ tiếng ồn, khiến ngay cả một đứa bé ốm yếu và buồn bã như tôi cũng cảm thấy hưng phấn. Trong số các thợ xây, bác Sada-san là người rất dịu dàng. Hễ khi nào tôi đứng bên cạnh bác mê mẩn ngắm nhìn những vỏ bào mượt mà cuộn khỏi cái bào của bác rồi rơi xuống đất, bác sẽ nhặt lên những vỏ bào đẹp cho tôi. Nếu đưa vỏ bào của cây tuyết tùng và cây bách có màu đỏ như máu vào miệng rồi mút, bạn sẽ cảm nhận được một vị khiến lưỡi và má mình đang bị bóp chặt lại. Ngoài ra, tôi cũng rất thích lấy hai tay vốc lấy một đống mùn cưa mềm mềm xốp xốp rồi để nó rơi xuống qua những kẽ tay, khiến ngón tay buồn buồn tê tê.
Sada-san bao giờ cũng nán lại sau khi những người thợ khác đã ra về. Sau đó bác vỗ hai tay và cầu nguyện mặt trăng. Tôi thích la cà ở chỗ xây nhà để xem bác làm điều đó, nhưng những người thợ khác đặt cho bác biệt danh là “đồ lập dị” và thường nguyền rủa rằng bác sẽ chết sớm.
Rồi tôi nhìn quanh chỗ đó sau khi nó đã được quét tước sạch sẽ, vết chổi còn hằn rõ trên mặt đất; đối lập với cảnh nhộn nhịp và ồn ào của ban ngày, sương mù buổi tối bắt đầu lặng lẽ giăng xuống nơi đây. Đến khi có người gọi vào tôi mới miễn cưỡng rời đi, và chờ đợi tới ngày hôm sau. Tôi không bị khó chịu với mùi gỗ và cảm thấy hào hứng khi quan sát ngôi nhà mới đang mỗi ngày một hoàn thiện hơn trong niềm kinh ngạc.
[1]Nhượng diệp: Danh pháp khoa học bằng tiếng Latin là Daphni-phyllum macropodum. Cây này có tên gọi “nhượng diệp” là bởi vì lá già chỉ rụng sau khi lá mới đã mọc đầy đủ.​

12

Cách nhà chúng tôi một khoảnh vườn chè về phía nam là một ngôi chùa gọi là Thiếu Lâm[1]. Bởi vì chùa có khuôn viên rộng, và có lẽ bởi vì người bác sùng đạo của tôi cảm thấy thoải mái hơn khi ở chùa, nên thi thoảng bác lại đưa tôi tới đó. Dọc hai bên con đường độ dài khoảng 36 mét và được lát hai hàng đá dẫn từ cổng chùa tới cửa chính điện, có những khóm chè không người chăm sóc, những cây tuyết tùng và các loại cây khác mọc hoang khắp nơi. Tôi thường đòi bác hái cho một bông hoa chè. Hoa chè vốn không bám chắc vào cành cây, nên khi một bông bị hái, nhiều bông khác cũng rụng xuống theo. Sau mưa, khóm chè nào cũng đọng lại rất nhiều hạt nước lấp lánh. Bản thân bông hoa chè không có điểm gì nổi bật, nhưng nó gợi lên cảm giác cô độc rất phù hợp với những ký ức tuổi thơ. Những cánh hoa tròn trắng muốt bao dung ôm lấy nhụy vàng, và hoa nở dưới sự chở che của những chiếc lá tròn màu xanh thẫm. Tôi có thói quen đưa một bông hoa lên gần mũi, che mũi lại rồi hít hà hương hoa.
Ở bên tay trái, cạnh giếng nước, là một cây hoa mộc lan; mỗi khi hoa nở, một mùi hương ngọt ngào lan tỏa khắp không gian. Âm thanh kẽo kẹt của cái ròng rọc bắc trên miệng giếng bay qua những khóm chè yên tĩnh để vào nhà tôi. Trên tấm mành lớn treo ở tiền sảnh của phòng chính có vẽ đôi chim công màu sắc sặc sỡ. Con chim trống đang đứng trên cao, chiếc đuôi dài rũ xuống như chiếc áo mưa bằng rơm; ngay bên cạnh nó là con chim mái nhỏ hơn đứng khom người như đang mổ gì đó. Xung quanh chúng là những đóa hoa mẫu đơn đang khoe sắc rạng rỡ và mấy con bướm đùa quanh.
Thi thoảng bác tôi cũng đưa tôi tới đền thờ đức Đại Nhật[2] ở gần đó để chơi. Khi tôi kéo sợi dây thừng dày và vặn xoắn để gõ chiếc chuông “có hình miệng cá sấu” ở trên đỉnh, bác tôi thả vài đồng xu và cầu nguyện. Sau đó bác lần lượt chạm tay lên đầu tôi và đầu ngài Tân-đầu-la[3] để mong chữa trị cho chứng bệnh về đầu óc của tôi, rồi bác khẽ đưa tay lên xoa mắt mình. Chiếc bệ gỗ bên dưới tượng Tân-đầu-la bị lộ ra, trông bóng loáng và nhem nhuốc vì những vết dấu tay, còn bức tượng ngồi chéo chân trên bệ, mắt mở lớn nhìn trừng trừng. Trong ngôi đền đó, giống như ở bất kỳ ngôi đền nào thờ Phật Đại Nhật, có một cái giếng, phía bên trên treo những chiếc khăn mặt màu quả hồng vàng mà người ta cúng dường. Trên mặt giếng thả một chiếc gàu làm bằng gỗ, loại gàu trông giống chiếc của O-Tsuru trong cuốn truyện tranh Awa no Naruto của tôi. Bác tôi thường xin nước ở giếng để lau mắt, và khi mở mắt ra, bác nói, “Tạ ơn đức Đại Nhật, hình như mắt con có thể nhìn thấy rõ hơn một chút rồi.”
Người ta nói rằng thẻ xăm của đức Đại Nhật ở ngôi chùa này rất chuẩn xác, và nhiều người ở tận xa cũng kéo về. Một hôm, bác tôi quyết định tìm hiểu xem Ngài phán thế nào về bệnh tình của tôi. Bác đi vào mé phòng có dựng bức bình phong bằng giấy để ngăn với điện thờ.
“Thưa thầy.” Khi bác vừa nói xong, từ bên trong vọng ra tiếng đáp, “Vâng, chào bác,” và một vị sư trẻ mới cạo đầu xong thò mặt ra ngoài. Bác tôi kể vô cùng chi tiết sự tình từ đầu tới cuối rồi xin một thẻ xăm. Vị sư đi đến phía trước bức tranh thờ, đọc lời cầu nguyện một lát, rồi lắc lắc nhiều lần chiếc lọ, làm phát ra những tiếng lách chách nhịp nhàng. Sau đó, thầy rút ra một thẻ xăm, tiến về phía chúng tôi, và cẩn thận chép lại nội dung trên thẻ lên một tờ giấy khác cho chúng tôi. Bởi vì bác tôi không biết đọc “chữ vuông[4]”, nên thầy phải giảng giải từng chữ một cho bác. Tóm lại, thẻ xăm nói rằng đứa trẻ này trong tương lai sẽ trở nên khỏe mạnh và có một cuộc sống hạnh phúc. Trên đường trở về nhà, bác tôi cứ cười vui vẻ suốt.
[1]Tên này bắt nguồn từ ngôi chùa Thiếu Lâm ở Trung Quốc, nổi tiếng vì là nơi đức Đạt Ma ngồi diện bích suốt chín năm và cũng là nơi môn võ karate ra đời. Nhưng đây cũng là tên chùa phổ biến ở cả Trung Quốc và Nhật Bản. Horibe Isao cho rằng Naka dùng tên này để nói về ngôi chùa Ryuköji.
[2]“Đại Nhật”: Tiếng Phạn là Mahävairocana. Đây là vị thần chính trong Mật Tông, đại diện cho bầu trời. Trong bối cảnh truyện, đây là một ngôi đền thờ vị thần này. Horibe cho rằng đó là đền Myösoku-in.
[3]Tên đầy đủ trong tiếng Phạn là Pindolabhäradväja, tiếng Nhật gọi là Binzuru. Đây là học trò xuất sắc nhất của Thích Ca Mâu Ni. Là vị La Hán có khả năng chữa trị bách bệnh, tượng của Ngài thường được đặt trước nơi thờ Phật để người dân có thể chạm vào như bác của Naka làm.
[4]Tức là chữ Trung Quốc.​

13

Cách khoảng 90 mét về phía khu vực thưa người hơn là nhà của một cặp vợ chồng già nuôi mấy con gà trong một bãi đất trống có hàng rào cây thục quỳ bao quanh. Họ bán những chiếc kẹo với giá rẻ. Tôi đặc biệt thích mái nhà lợp rạ - lần đầu tiên tôi được trông thấy một thứ như vậy - những bức tường trát bùn đã bong tróc, và cái cần múc nước giếng mỗi lần sử dụng lại kêu kẽo kẹt. Một trong những điều mà tôi trông ngóng nhất là cùng bác tới đó mua kẹo. Cả hai ông bà đều nghễnh ngãng và chậm chạp ra đón khách. Nếu bạn gọi to vài lần, một trong hai người sẽ dò dẫm bước ra và tìm các hộp kẹo ở đâu đó rồi mở nắp. Kinkatö, kingyokutö, tenmontö, mijinbö[1]. Nếu ngậm ống tre đựng thạch đỗ, bạn sẽ ngửi thấy mùi tre tươi trước khi thạch trượt vào lưỡi. Nàng Ota-san[2] trong một chiếc kẹo cười rồi khóc, ngoảnh mặt ra hướng này rồi hướng nọ. Nếu bạn cắn vỡ chiếc kẹo có sọc xanh đỏ và mút vào, một mùi thơm ngọt ngào sẽ từ đó lan ra.
Tôi thích nhất là thanh kẹo quế. Đó là một thanh aruhei[3] được phủ một lớp bột quế nên trong vị ngọt của nó có lẫn cả hương quế cay nồng đặc trưng. Một ngày trời mưa tầm tã, không hiểu vì sao đột nhiên tôi cảm thấy thương hai cụ lại vừa muốn ăn một thanh quế. Tôi nằng nặc đòi đi, khiến bác tôi đành phải chiều ý, cõng tôi trên lưng rồi hai bác cháu cùng mặc chung một chiếc áo khoác ngắn. Thật không may, ngày hôm ấy họ không còn thanh quế và tôi thất vọng tới mức khóc rỉ rả suốt dọc đường về. Nếu tôi chịu uống “sữa bò[4]” mà không phản kháng hoặc khi tôi chơi cả ngày mà không khóc, khi đó bác tôi sẽ mua một cái lúc lắc thưởng cho tôi. Cái lúc lắc này có hình như quả đào hay con trai và được nhuộm sọc trắng đỏ xen kẽ. Trên đường mua lúc lắc trở về, tôi vẫn bám trên lưng bác, thích thú lắc lắc nó, và khi về đến nhà thì nó cũng kịp vỡ, để lộ ra bên trong một cái trống hoặc cây sáo nhỏ làm bằng thiếc. Tôi trân quý những món đồ chơi ấy như thể chúng là báu vật giá trị nhất trên đời. Một số món có hình tam giác được quấn bằng loại da màu bùn, chỗ hợp lại có hình một diễn viên.
[1]Kinkatö là loại kẹo được làm từ đường trắng và nặn thành hình con cá và các hình thù khác, sau đó nhuộm màu. Kingyokutö là loại kẹo mùa hè trong suốt được làm từ gelatin, đường, và gia vị, phủ ngoài là một lớp đường hạt. Tenmontö có thể là rễ măng tây ngâm đường. Mijinbö là loại kẹo có hình giống như một cây gậy bị vặn xoắn làm từ hạt gạo nướng và đường. Để tham khảo hình ảnh những chiếc kẹo giá rẻ mà Naka nhắc tên, bạn đọc có thể xem bức “Naka Kansuke đi tới cửa hàng kẹo” tại địa chỉ http://www.toraya-group.co.jp/gallery/dat02/dat02_047.html.
[2]Tên đầy đủ hơn là O-Tafuku-san, “Đa Phúc Tiên.” Tên của một loại búp bê có gương mặt tươi cười với cặp lông mày cao, chiếc mũi nhỏ, và đôi má phúng phính. Ở đây Naka đang nói đến O-Tafuku-ame, một loại kẹo hình cây gậy có gắn gương mặt của búp bê này sao cho dù quay kẹo về hướng nào gương mặt đó cũng hiện ra.
[3]Xuất phát từ từ alfeloa trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là loại kẹo được du nhập vào Nhật Bản trong nửa sau thế kỷ XVI. Kẹo này được làm từ đường, bột lúa mỳ và có hình dáng bông hoa, trái cây, hoặc hình cây gậy như ở đây.
[4] Để trong ngoặc kép bởi vì ngày đó sữa vẫn được coi là một loại thuốc.​
 


Top