Tuyển tập truyện Tủ sách Tuổi Hoa | Page 2 | VN-Zoom | Cộng đồng Chia Sẻ Kiến Thức Công Nghệ và Phần Mềm Máy Tính

Adblocker detected! Please consider reading this notice.

We've detected that you are using AdBlock Plus or some other adblocking software which is preventing the page from fully loading.

We need money to operate the site, and almost all of it comes from our online advertising.

If possible, please support us by clicking on the advertisements.

Please add vn-z.vn to your ad blocking whitelist or disable your adblocking software.

×

Tuyển tập truyện Tủ sách Tuổi Hoa

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Đồng tiền giả
Tác giả: Nam Quân
Tủ sách Hoa Đỏ
Nguồn: Vnthuquan
WmMccFQxMY3g7ze_WUbBWYkVvISAwrHIlDydcmwsKAulyAE0MeJUA2KIIK4APBIdx4myBksWgVSAG65zAFVrIBEhpGEUJApxHcPz7vnw-2xBa_IE39lse8bBG_zSWmkzHUMS0TD4OL0f53vbq5-rRRJKK3-UgqpQqvjwolLYKc8YWSKwmpQ7ZXekQOaDHp58asdb8VQRACI_OuPlk2FIxrBI56SJ3nhsyfYbyDr8-sLUxl-HPEI4QiLyLSLtEJBtPSMZE5vzrGYaD8gc48QbA8JIWfEOUrj0Oo7s8kUI08LoSf2KicH3jnn6bT8QTSEVkAFG_tcoXvd8q4DuQQyQvKnNMHzMIe6b6egXEEFC6qC8TxXBdZL0vZzwKhdmzRe6LAIIVEiTpJZ9QI1qd8aBYGrST4eWAQOpgNFSXEDE2CDLh5HYgVXYBirJvtLiXZ1iTpr4bt8mTroWb-KTpabk5dhvtrfC7Vj0JD8MVuKWfGzSVnRdCcBMePQlVShi9NmJHORV0-7zwjgvUBNY-IacWmAHKyXpXBuX9l__0Y-OlUgYGwePSLpXOpISlGzzMrfwUkUKyunvTx632s81Cp66ttSrT70ylVFICmR7SEH5y9Aga5atwdJQ0g=w500-h668-no

Chương 1.
Coi dáng dấp bên ngoài thì Chiêm cũng không có gì đặc biệt, so với các chú bé khác.
Có thể nói răng trông nó cũng giống như trăm ngàn các em nhỏ Việt Nam . Và chính nhờ cái chi tiết "cũng giống như" này mà Chiêm không bị người đời chú ý đến mấy . Không bị chú ý là 1 ưu điểm rất lợi cho cái nghề mà Chiêm khoái nhất: nghề làm trinh thám . Chiêm làm trinh thám ? 1 chú bé 13 tuổi mà đã làm được cái nghề cao quí, khó khăn và nguy hiểm ấy ? Các bạn trong gia đình Tuổi Hoa chắc ngạc nhiên lắm ? Không ngạc nhiên sao được, vì chú Chiêm hạt tiêu... đã có mặt trong gia đình chúng ta... từ lâu rồi mà đâu có ai biết . Chỉ biết rằng, mỗi khi tay nào trốn học đi chơi hoặc ra đường đánh lộn, chạy lăng quăng đuổi nhau trên đường đầy xe cộ là y như lúc đi học về thế nào cũng bị ba má hoặc anh chị hạch hỏi trúng ngay boong, hết đường chối cãi . Vậy muốn khỏi lo lắng gì hết, anh em chúng ta chỉ có việc đi học thì đi tới nơi về tới chốn, không la cà đây đó, và tháng nào cũng đưa về cho ba má, anh chị chiêm ngưỡng 1 cái bảng danh dự .., thế là yên chí . Ngược lại, nếu bướng bỉnh không nghe, lỡ vi phạm điều gì, là thế nào cũng bị mắt thần của Chiêm tinh theo dõi... "méc" ba má thì ăn roi mây là 1 điều khó lòng tránh thoát.
Vậy thám tử tí hon "Chiêm Tinh" là ai, tên thật là gì ? Người kể lại chuyện này, vì đã hứa danh dự với Chiêm nên không dám tiết lộ . Chắc các bạn trong gia đình Tuổi Hoa bực mình lắm vì óc tò mò không được thỏa mãn ? Vậy để chuộc tội lập công, xin kể chuyện công tác của chàng thám tử ở rất xa mà lại rất gần chúng ta . À mà không! Xin đề nghị với các bạn là để tôi được đóng vai thám tử Chiêm kể lại chuyện của mình thì hơn... và sau đây là lời của Chiêm:
Tôi làm "thám tử" đã lâu rồi . Trên 2 năm chứ không ít . Thám tử tư, dĩ nhiên, tức là không phải công chức ăn lương của nhà nước.
Tôi cộng tác với 1 anh bạn rất thân . Tên thật của anh ta là Chính . Nhưng các bạn quen biết Chính lại cứ gọi là Trí, vì lý do gì tôi sẽ nói sau . 2 đứa tôi đã thành lập hãng thám tử tư đặt danh xưng là "Sê tê hai"! "Sê tê hai"? Chắc anh em nghe thấy lạ tai lắm ? "Sê tê hai" là cái quái gì ? Bình tĩnh suy nghĩ 1 chút thì thấy cũng có có gì đáng gọi là ly kỳ lắm . Này nhé: "Sê" là C tức Chiêm, và "Tê" là T tức Trí, "hai" là con số 2 hay là 2 người cũng vậy . Tóm lại "Sê tê hai" chỉ có nghĩa là Chiêm Trí 2 người thành phần cốt cán của hãng thám tử tư "Sê tê hai" hay viết cho nó đẹp mắt và có vẻ khoa học 1 tí thì là CT2. Và dĩ nhiên Giám đốc hãng tất cả phải là CT1, là Trí, còn tôi là CT3!
Tôi thân với Trí từ hồi còn bé . Tên thật của anh ấy là Chính kia, nhưng các bạn đồng học chỉ thích gọi anh là Trí, lâu ngày quen miệng, nên ai cũng gọi, Trí, Trí . Và cái lý do khiến mọi người thích gọi anh là Trí, chính vì cái trí thông minh tuyệt vời của anh . Ngay từ hồi mới 9, 10 tuổi, tôi đã phục anh sát đất rồi . Đáp lại, Trí cũng quý mến tôi lắm . Chắc là do ở cái điểm cả 2 đứa chúng tôi đều thích làm công việc điều tra các vụ trộm cướp giết người... nghĩa là làm thám tử . Và chúng tôi góp sức thành lập hãng CT2. Các anh em đừng tưởng là chuyện giỡn nghe! Báo chí đã đăng tải nhiều vụ điều tra thật hữu ích của hãng tôi và nhiều vụ rắc rối, cơ quan cảnh sát nhiều khi phải bó tay, mà chúng tôi đã khám phá thành công đấy . Câu chuyện sau đây là 1 trong những công tác, cách đây hơn 1 năm, của hãng tôi đã được báo chí đăng tải dưới 1 cái "Tít" lớn: "Nhờ 2 em học sinh, 1 ổ đúc bạc giả tại Thủ Đức đã bị khám phá"...
Buổi sáng hôm đó, sau khi đi phân phát nhật báo về, (trong kỳ nghỉ hè, tôi vẫn lãnh báo và phân phát cho các nhà mua tháng để kiếm ít tiền tiêu vặt) tôi tạt vào sạp sinh tố của anh 3 Đốc ở Thủ Đức tự thưởng cho mình 1 ly mãng cầu . Nhà ở Saigon mà sao lại phải lên tận Thủ Đức để uống sinh tố lận . Nói để anh em rõ: Tờ báo Chuông Vàng nhiều độc giả lắm . Có ông ở tận Thủ Đức kìa . Gần đưa trước, xa đưa sau . Và cái ông độc giả tên Bách này bao giờ cũng là người cuối cùng nhận báo do tay tôi phân phối.
Tôi nhắc lại, khi ở nhà ông Bách ra, lúc đó khoảng 11 giờ sáng, tôi tạt vào anh 3 Đốc gọi 1 ly mãng cầu, loại ly lớn, để tự thưởng công lao mệt nhọc phóng xe đạp từ Saigon lên Thủ Đức . Gian hàng của anh 3 Đốc, ngoài cái xe sinh tố ra, còn bán cả đồ chạp phô nữa . Kể cũng hơi lạ! Trời lúc đó không trưa lắm mà sao hàng anh ấy coi bộ vắng khách dữ . Có mỗi mình anh ngồi sừng sững phía sau quày thu tiền . Thoáng thấy bóng tôi, anh 3 Đốc nhảy vội xuống, đi lại mở cánh cái tủ lạnh vĩ đại, lấy 1 chai nước mãng cầu lạnh buốt đặt trước mặt tôi, không nói 1 tiếng . Chúng tôi chỉ đưa mắt nháy nhau 1 cái... thông cảm: 3 Đốc thuộc từ lâu thói quen của tôi thích uống loại sinh tố này.
Tợp 2, 3 ngụm, ly nước mát như gột rửa hết mọi cái mệt nhọc bụi đường, cạn tới đáy . Tôi liệng 1 đồng "cắc" 20 lên mặt quầy . Vẫn im lìm, anh 3 Đốc quơ lấy đồng tiền "cắc" đoạn tiến lại chỗ thùng đựng tiền . Đột nhiên anh đứng sững lại:
- Ê! Nhỏ! Lại coi này! Đồng "cắc" này sao kỳ vậy ?
Rồi anh liệng đồng tiền lên mặt quầy . Tôi sáp tới, cúi xuống ngó kỹ . Quả nhiên, không phải đồng cắc 20 bạc Việt Nam . Đồng tiền này làm bằng bạc thứ thiệt, to sấp sỉ đồng 20 của chúng ta, 1 mười 1 chín . Bề cạnh vòng tròn đã mòn vẹt . 1 mặt có hình 1 cái mũ sắt, mặt kia là hình 1 con cú có đôi mắt to thô lỗ...
Tôi ngẩn người:
- Ủa! Lạ quá! Ở đâu ra vậy không biết!
- Chắc ông khách mua báo tháng nào trả lộn chú rồi!
- Chắc vậy!
Rồi tia mắt vẫn đăm đăm đồng tiền lạ, tôi thọc tay vào túi, vét ít đồng lẻ, đếm cẩn thận và xem lại cũng thật cẩn thận, trước khi trao cho anh 3. Miệng không ngớt lẩm bẩm:
- Kỳ thật! Chẳng hiểu là tiền nước nào đây và đúc từ hồi nào kìa ?
Anh 3 Đốc thản nhiên:
- Ai biết được!... À này, nhưng mà coi bộ cái đồng tiền đó có vẻ hiếm, bán ra tiền đấy nghe!
Anh cười rộ lên, đoạn tiếp:
- Nhưng lợi đâu chưa thấy, chỉ biết là chú bị toi mất 20 bạc rồi đấy . Thôi, tùy! Tính sao thì tính, tùy em! Xếp chuyện đó lại! Uống gì thêm không ?
- Thôi, cám ơn anh 3!
Xếp chuyện đó lại, hừ... ! Đâu có dễ thế! Phải rồi, anh 3 Đốc đâu có là nhân viên của CT2. Thây kệ, để anh đi lo mấy cái vụ nước sinh tố, la de, nước ngọt và đồ chạp phô của anh cho rồi . Sau 1 lúc suy nghĩ kỹ, tôi tụt xuống khỏi chiếc ghế đẩu sao, chạy ra phòng điện thoại công cộng cách nhà anh chừng 20 thước . Phòng có 2 ngăn, 2 máy, ra vào bằng 2 cửa riêng.
Tại đây, tôi đã phạm vào điều sơ xuất đầu tiên trong ngày . Ngăn bên trái đã có 1 người đàn ông . Người này đứng quay lưng ra phía ngoài, đang nói chuyện, nhưng nói rất khẽ, đôi môi dán vào ống nói, ý chừng không muốn để người thứ 3 nghe lọt nội dung cuộc đối thoại, trừ người đầu dây nói đằng kia . Về sau, nghĩ lại tôi mới tiếc là để lỡ dịp . Đáng lẽ lúc đó tôi phải để ý ngay, chờ ông ta quay lại, nhìn cho rõ mặt . Nhưng lòng rộn lên vì đồng tiền lạ vô tình có được trong tay, tôi đã để lỡ mất dịp may . Tiền của quốc gia nào, đúc từ bao giờ, tôi mù tịt nhưng "sếp" CT1 của tôi, chắc phải biết . Đút vào khe máy 1 đồng 10, tôi quay số điện thoại của Trí:
- Allo! Allo ?
Hại quá! Đầu giây nói vang lên giọng the thé của Bà 5 Rằng vị nữ quản gia của CT1. Tôi đã hy vọng được gặp anh, không ngờ lại vớ phải cái bà rắc rối, tò mò này . Chưa hết! Bà 5 lại còn có vẻ kỵ công việc thám tử của tôi và Trí, coi thường như trò trẻ con . Nhưng tôi vẫn phải lễ phép, niềm nở:
- Dạ thưa bà 5, cháu đây! Chiêm đây ạ, bà 5! Bà cho cháu nói chuyện với Trí á, á không... dạ dạ, Chính ạ!
May quá, suýt chút nữa thì nguy tai! Cháu bà tên Chính, nếu gọi trại đi là Trí thì chết với bà chứ không giỡn đâu! Bà vốn rất ghét cái lối thanh thiếu niên ngày nay cứ hay gọi chệch tên của nhau đi.
- À nói chuyện với Chính hả ? Hừ! Thằng nhỏ còn đang chúi mũi chúi tai trong cái "phòng thí nghiệm" của nó đó . Sáng sớm tinh mơ, mở mắt thức dậy là đã chui vào trong đó rồi! Chờ 1 chút đi, để tôi kêu nó cho, nghe!
Đầu máy o o... 1 hồi rồi là tiếng nói của "sếp" CT1!
- Allo!
- Trí hả ? Chiêm đây ..! 1 tiếng "cách" khẽ vang lên . Tôi biết ngay là Trí đã hãm ống nghe để tiếng tôi nói khỏi lọt vào tai bà 5 Rằng . Các chốt hãm do tay anh chế ra và riêng chỉ có mình anh và tôi biết . Bà 5 mà khám phá ra cái đó là chúng tôi có chầu nguy...
- Cẩn thận chút nghe CT3! Áp dụng phương pháp thường lệ đi!
- Rồi! Đây, CT3 báo cáo!
- CT1 nghe! Nói se sẽ chút!
Tôi hắng giọng:
- Phi thuyền "T bình phương" đã bay vào quỹ đạo!
Dĩ nhiên đó là câu ám ngữ có nghĩa là: "Tin tức quan trọng". Tôi hí hởn đinh ninh là thế nào "sếp" cũng phải ngạc nhiên và vui mừng khi được tin mới; cụt hứng quá, Trí vẫn tỉnh như không:
- CT3 có tin gì thú vị đấy hả ? Chắc phải quan trọng lắm nên mới mất công gọi điện thoại từ nhà anh 3 Đốc ở Thủ Đức về chứ, hả ?
Người ngạc nhiên thay vì Trí, lại hóa là tôi:
- Ủa! Sao anh lại biết tôi gọi điện thoại từ đâu về! Tiếng tôi oang oang, quên bẵng cả lời "sếp" dặn là phải cẩn thận nói se sẽ chứ!
- Phân tích sơ sơ thôi! Có gì là khó! Này nhé! Ngày nào sáng nào, CT3 lại chẳng để tua cuối cùng mới lên Thủ Đức, đến nhà ông Bách, liệng tờ báo xong là vọt vào nhà anh 3 Đốc làm 1 ly mãng cầu . Nhìn đồng hồ ở tay là biết được ngay, có khó gì đâu nào ?
- Quả có thế! Dễ hiểu quá, tôi đâm ra coi thường, nên không để ý, thành ra chẳng thấy gì hết!
Miệng nói, nhưng trong lòng tôi ấm ức thầm . Nhiều lần bị thua sút Trí rồi . Lần này gặp dịp may, tôi có ý định chiếm kèo trên để trở thành thám tử trứ danh, nếu không hơn được "sếp" CT1 thì ít nhất cũng phải ngang tay chứ bộ...
Tiếng Trí ong óng ở đầu giây nói:
- Thôi, có gì nói lẹ lên CT3, tôi còn nhiều việc lắm đấy!
Kệ cho Trí giục, tôi cứ đủng đỉnh, đặt đồng tiền cổ lên kệ máy điện thoại rồi đứng xả hơi . Trong phòng điện đàm chật hẹp, không khí ngột ngạt, nên phải đẩy cánh cửa hé ra cho thoáng 1 chút . Qua khe cánh cửa, gió lọt vào mát rợi, đồng thời nghe được tiếng người đàn ông ở máy bên sầm sì nói chuyện . Cố lắng tai hết sức, tôi cũng chẳng nghe rõ ông ta nói gì . Thành thử việc mở cánh cửa phòng điện thoại, ngoài 1 chút gió mát, lại hóa ra 1 điều tai hại thứ 2 tôi gây ra trong ngày.
Tôi kể cho Trí nghe điều mới khám phá được . Tia mắt nhìn chăm chú vào đông tiền lấp lánh nằm trên kệ gỗ, tôi miêu tả hết sức tỉ mỉ . Càng nói càng hứng trí vì tưởng tượng đến món tiền kếch sù đồng tiền lạ ấy có thể đem lại: Từ khi lính Mỹ và lính đồng minh đặt chân lên đất nước Việt Nam, tôi đã thấy nhiều người Việt trở nên giàu có bạc triệu, bạc tỉ nhờ nghề buôn đồ cổ, đặt biệt là tiền cổ . Có 1 người Tàu bán được 1 đồng tiền từ đời Vua Khang Hy tới giá 200 ngàn đồng . Đồng tiền đó trông rất kỳ quái vô cùng, nó to bằng miệng hộp thuốc lá con mèo mà ba tôi vẫn ưa hút cái loại hộp tròn 50 điếu ấy . Ba tôi kể chuyện lại, chính mắt ông đã nhìn thấy các cô gái thuộc sắc tộc thiểu số miền Tuyên Quang (Bắc Việt) đeo lủng lẳng trước ngực loại tiền cổ, coi là 1 thứ đồ trang sức rất quý, hiếm . Và cáca nàng đó thuộc bộ lạc người Mán, gọi là Mán tiền, vẫn sống tại khu vực núi rừng âm u giữa khoảng phân cách 2 tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên (Bắc Việt).
Tiếng Trí:
- Suỵt! Suỵt! CT3 lại mất bình tĩnh rồi! Tôi đã bảo nói se sẽ chứ! Nếu không, tôi cúp máy đó nghe!
Bực quá! Trí hay có cái giọng trịch thượng ấy đối với tôi . Tôi đã định nổi sùng ăn miếng trả miếng anh mấy câu cho bỏ tức, thì tiếng nói sầm sì ở ngăn điện thoại bên cạnh đột nhiên im bặt . Người đàn ông cao lớn đã thôi nói chuyện từ lúc nào . Liếc mắt lên tấm kính trước mặt, tôi thoáng thấy bóng dáng ông ta lướt qua . Có lẽ, vô ý nói chuyện to tiếng quá, tôi đã làm phiền ông ?
Lập tức tôi hạ thấp giọng:
- Này, Trí! Trên đồng tiền bằng bạc thật này có 1 chi tiết hơi lạ: 1 đường trũng chạy từ đường viền vào đến giữa tâm vòng tròn.
- Á, à! Vậy hả! Giọng CT1 có vẻ lắng đọng suy nghĩ . Tôi đã biết tính "sếp": khi nào mải nghĩ về 1 cái gì, anh rất ghét bị quấy rộn . Và tôi im lặng chờ xem ý kiến của anh thế nào.
Đột nhiên tôi cảm thấy 1 cái gì là lạ: 1 cảm giác nhột nhạt mà các nhà thám tử thường có . Đúng vậy! Tôi cảm thấy hình như mình đang bị rình mò, theo dõi . Người thường gọi đó là trực giác hay giác quan thứ 6, 1 thiên tính, 1 khả năng bẩm sinh gì đó không rõ, nhưng có điều rõ rệt là: có người đang nghe trộm cuộc nói chuyện bằng điện thoại giữa tôi và Trí . Bất giác ngước mắt lên, tôi liếc nhanh qua khe cửa hé mở: bóng người đàn ông gọi điện thoại vừa rồi đang đứng cách chỗ tôi chừng 5, 6 thước, im lặng, vểnh tai nghe tôi nói chuyện . Tóc trên đầu tôi như biết cựa quậy, dựng đứng cả lên.
Rồi qua cái tranh tối tranh sáng của khe cửa khép hờ, tôi thấy rõ 1 con vật gì có 5 chân dài nghệu khẳng khiu như 1 con nhện kềnh càng, lông lá bò vào . Nhưng không phải con nhện . Ngó kỹ chính là... 1 bàn tay người, lông lá rậm rì đen sì sịt . Móng ngón tay cái lại đen thẫm hơn nữa, móng tay của 1 ngón tay cái bị thương.
Cái bàn tay ghê gớm ấy, đột nhiên vùng lên rồi lạ xuống nhanh như cắt, chộp lấy đồng tiền cổ tôi để trên kệ.

Chương 2.
Tôi thét lên 1 tiếng kinh hồn, tưởng như ai ở cách đó tới 500 thước cũng còn nghe rõ . Lập tức, bàn tay thụt lại và biến mất . Cái cửa đang khép hờ cũng đóng sâp lại nghe cái "rầm".
Tôi nhẩy xổ lại, túm cánh cửa giựt mạnh . Không chuyển . Cánh cửa phòng điện thoại nào cũng chỉ đóng khóa từ phía trong, tôi biết rõ như thế!
Nhưng cũng hết gần 1 phút sau tôi mới mò được quả đấm cánh cửa . Cửa mở, tôi vọt ra, nhẩy 1 bước ra giữa lề . 1 bóng người đàn ông to lớn chạy khuất sau góc phố . Tôi lao người đuổi theo nhưng có cái gì giữ cẳng chân cứng lại, rồi ngã sóng soài trên bờ hè . Mắt nổ đom đóm, thái dương giựt liên hồi . Tuy vậy, tôi vẫn còn đủ sức lao người bò đại bằng 4 chân . Cảnh vật trước mắt mờ hẳn

đi như bị bao trùm trong 1 tấm màn "voan" mỏng . Rồi bóng dáng anh 3 Đốc sừng sững hiện ra ngay trước mắt . Anh 3 đứng lom khom cúi xuống nhìn tôi vẻ mặt lo lắng . Anh giơ tay định đỡ tôi dậy, nhưng bỗng tôi rên lên:
- Chết rồi, anh 3! Cẳng chân trái tôi làm sao thế này ?... Á, á... không cục cựa được nữa, hà!
Anh 3 thở 1 hơi dài nhẹ nhõm:
- Úi chao! Thế này thì còn cựa quậy thế quái nào được nữa! Chú thụt chân vào 1 chiếc thùng các tông rồi đây này!
Đã bớt hốt hoảng, tôi giương mắt ngó kỹ mới thấy rằng anh 3 nói đúng . Rút chân ra, tôi khoan khoái nhận thấy không bị 1 vết thương trầy trụa:
- Vì mãi đuổi theo 1 người đàn ông, tôi chẳng trông thấy gì cả nên mới vướng chân vào đó.
Anh 3 Đốc ngạc nhiên:
- Ủa, người đàn ông nào nhỉ! Có ai đâu nào!
Tôi lờ đi không nói gì thêm . Vô ích! Dù có nói anh cũng chẳng tin . Giựt mình, tôi nhớ lại đồng tiền cổ . Chết rồi! Đồng tiền đâu mất rồi ? Không biết gã đàn ông kia đã vớ được chưa ? Để mặc anh 3 đứng ngây người, tôi chạy lao trở lại phòng điện thoại . Đến nơi, tôi thở ra 1 hơi dài khoan khoái: đồng tiền vẫn nằm yên chỗ cũ . Qươ tay cầm lẹ, tôi nhét ngay vào túi áo . Nhưng quái!! Có tiếng gì kêu ọ Ọ từ trong máy nói đưa ra . Thì ra cái ống nghe chưa được gác lên máy bị lủng lẳng ở đầu giây . Và tiếng ọ Ọ phát ra từ đấy cho biết rằng Trí vẫn đang còn ở đầu máy đằng kia . Tôi nhấc ống nghe đặt vào tai:
- Chiêm, Chiêm! Cái gì thế hả ? Đang nói chuyện, sao

lại... Giọng nói tôi làm ra vẻ quan trọng:
- Thong thả chút đi! Rồi tôi kể lại anh nghe.
Đoạn tôi thuật lại việc vừa qua cho Trí nghe! Không sót 1 chi tiết . Khi nghe kể chuyện xong, anh ra lịnh vắn tắt:
- Về "Trụ sở" ngay lập tức nghe CT3, tôi chờ! Hà! Chuyện này không phải thường đâu nghe! Cái người đàn ông thò tay vào định lấy đồng tiền đó, cố ý dấu mặt, điểm ấy đáng nghi lắm! Chúng ta phải bắt tay vào cuộc điều tra ngay mới được . Hắn ta đã âm mưu 1 lần, chắc thế nào cũng quen tay làm nữa cho coi! Cẩn thận đấy, CT3!
- Được! CT1 yên trí! Tôi sẽ cẩn thận! Giọng nói của tôi bất giác có vẻ hơi run.
Rồi quay ra lấy xe, nhẩy lên, tôi phóng 1 mạch về Saigon . Trí và tôi đều ở khu cổng xe lửa số 6 cả, nhưng nhà anh cách nhà tôi 4 con hẻm . Về đến nơi, thay vì tiến thẳng đến cửa nhà anh, tôi dắt xe đi vòng ra phía sau vườn, nơi nhà kho để dụng cụ làm vườn . Đó! "Trụ sở" của hãng "Sê Tê Hai" thám tử tư của chúng tôi đó . Nóc nhà kho khá cao và có nhiều sà ngang thật to . Trí và tôi đã mầy mò xin được ở hãng cưa gần đấy nhiều thanh cây, mảnh gỗ, ván ép ở các thùng đồ cậy ra rồi sau gần 1 tuần lễ hì hục cưa đục, đóng... 2 chúng tôi đã hoàn thành được cái trụ sở quá tươm tất . Trí hân hoan đặt cho nó cái tên là "phòng thí nghiệm" . Kín đáo và bí mật lắm! Mở cửa bước vào nhà kho, tôi tiến tới cây cột thứ 3, ấn vào 1 cái đinh ngầm đóng sát chân cột . Trần nhà kho bằng ván ép, lật xuống 1 miếng vuông vức, cạnh

60 phân . 1 cái thang gỗ nhỏ nhắn nhưng thật chắc, cũng do 2 anh em đóng lấy, tự động tụt xuống . Tôi trèo lên hết 5 bậc, chân vừa đặt lên mặt trần nhà thì cái thang cũng tự động rút lên, kéo theo cả miếng gỗ vuông đậy kín lỗ hổng.
Trí đã ngồi sẵn tại bàn làm việc . Trên mình, anh choàng chiếc áo blouse trắng, chiếc áo anh thường mặc mỗi khi ngồi trước bàn thí nghiệm hóa học . Bên trên bàn ngổn ngang chai lọ, ống nghiệm to nhỏ đủ loại . Anh đang gầm đầu xuống 1 quyển sách dầy mở rộng . Tôi bước lại, anh ngẩng đầu lên:
- A! CT3! Tốt! Đâu, đồng tiền đó đâu ? Đưa mình coi!
Trí cầm lấy đồng tiền lạ tôi đưa cho . Anh đứng dậy tiến về phía 1 cái bục ván dầy ta vẫn thường thấy trong xưởng của thợ mộc . Anh quay lại nhìn tôi, hất đầu về phía quyển sách:
- Trong khi chờ đợi CT3, tôi đã tham khảo kỹ tài liệu về tiền cổ học . CT3 có biết gì về tiền cổ học không ? Này nhé... !
Trí có 1 nhược điểm khiến thiên hạ khó chịu: anh ưa thuyết trình . Gặp 1 vấn đề gì hơi đặc biệt 1 chút là anh trịnh trọng giải thích, nói thao thao bất tuyệt, rành mạch khúc triết, lưu loát như nước chảy . Tôi khổ tâm lắm, nhưng cứ đứng im nghe:
- Đây là 1 đồng tiền cổ lâu đời lắm rồi của thành phố Atêna thuộc nước Hy Lạp, đúc từ hồi thế kỷ thứ 5 trước Thiên Chúa giáng sinh . Cái mũ sắt tượng trưng Nữ Thần Athéna, và ở mặt kia, hình con cú 2 mắt thô lố là phù hiệu đặt biệt của người.
- Thế còn vết vạch lõm từ mép đường vòng vào tới tâm ?
Trí mỉm 1 nụ cười tươi.
-

Đó là dấu vết trục trặt kỹ thuật . Nhiều khi máy đúc dập xuống sai lệch 1 chút . Nhưng theo tôi, chuyện trục trặc đó ít khi xảy ra . Vậy thì chắc chắn đây là vết khía của 1 tay lái buôn nào nghi ngờ sự thật giả, đã làm ra để xem xét cho tường hư thực đó.
- Rồi! Thế tất cả vấn đề có ăn nhằm gì đến người đàn ông móng tay cái đen kia đâu mà y lại có ý định nẫng đi, để làm gì vậy ?
- Thắc mắc của CT3 rất chính đáng! Nhất định là còn phải có nhiều "cái gì" lắm chứ! Tôi cần phải xem xét lại nhiều nữa, cho thật kỹ rồi mới biết được!
Đoạn Trí đặt đồng tiền lên mặt gương phẳng, dưới ống kính hiển vi săm soi, nhìn ngó . Bên cạnh bàn, tôi lặng lẽ đứng im.
Đột nhiên anh thẳng đứng người lên: CT1 đã khám phá được điều gì khác lạ . Tôi biết chắc như thế . Ở gần Trí lâu nên tôi thuộc gần hết mọi thói quen của anh . Anh gần như la lên:
- Chiêm, Chiêm! Lại coi, lại coi! Mau lên!... Thấy gì lạ không ?
Tôi sáp lại, dán mắt dòm qua ống kính hiển vi; tới gần 1 phút sau mới ngập ngừng đáp:
- Có... có! Cạnh tròn của đồng tiền có vết bằm!
- Đúng! Và những vết bằm đó ra sao ? Có gì lạ ?
- Những vết bằm đó... a... Ơ... Ơ... đều xiên về 1 chiều!
- Rồi!... thế còn cái vết khía từ mép đồng tiền chạy vào đến tâm ? Vết khía ấy cũng có vết bằm chứ ?
Tôi đáp ngay:
- Không, vết khía đó trơn lu, không có vết bằm rập gì hết!
- Khá lắm, Chiêm! Vậy là đủ rồi! Hà! Hà! Thú lắm!
Lúc tôi rời khỏi ống kính thì Trí lượm đồng tiền lên . Rồi

trước đôi mắt mở tròn vì kinh ngạc của tôi, Trí đưa đồng bạc sát miệng và... thè lưỡi liếm liếm . Tôi bật ra tiếng... gần như quát lên:
- Cái gì kỳ vậy, Trí ?
Đôi chân mày hơi nhíu, vẻ mặt đăm chiêu, giọng bạn tôi trầm hẳn xuống, nghiêm nghị:
- Chiêm! Đồng tiền này giả!
- Cái gì ?
- Nghe rõ rồi còn hỏi nữa! Những vết bằm ở cạnh đều do giấy nhám tạo ra: kẻ nào đó đã chủ tâm cạ cạ mép đồng tiền bằng giấy nhám để cho nó có cái vẻ cũ kỹ, cổ xưa giả tạo . Còn cái vết khía dài kia cũng tân tạo nốt để người khác tưởng lầm là vết tích của sự trục trặc trong khi đúc tiền!... Chưa, chưa hết! Như Chiêm đã thấy đó, mình liếm liếm bằng lưỡi để nếm thử mùi vị... Ốc xít! Chiêm biết ốc xít không ? Ốc xít là kết quả phản ứng hóa học do các chất muối trong không khí tác dụng lên kim loại . Nếu thực sự là 1 đồng tiền cổ, chất ốc xít sẽ không còn vị gì nữa! Đằng này đồng tiền của Chiêm lại có 1 vị đắng rất rõ rệt...
- Nhưng mấy cái đó có ăn chung gì đâu nhỉ!... Và vậy ra đồng tiền này không có giá trị gì hết!
- Đúng như vậy!
- Ủa! Nếu thế thì cái người có móng tay cái đen kia định đoạt lấy... định nẫng trộm để làm gì vậy ?
"Sếp" tôi trịnh trọng:
- Đó là 1 điều chúng ta phải điều tra tìm hiểu, CT3! Mà muốn điều tra đặng tìm hiểu, chỉ có 1 cách: Lột mặt nạ cái con người bí mật đó!

Chương 3.
Lột mặt nạ con người bí mật đó ?
Tôi ngạc nhiên đến sửng sốt . Không phải nghi ngờ gì cái khả năng của hãng CT2 nhưng có điều...
- À... à... mà anh có biết dân số tại Thủ Đức là bao nhiêu không đã, chưa kể các khu phụ cận ?
Trí thản nhiên:
- 71,838 người, và kể cả vùng phụ cận thì...
Tôi vội cắt:
- Thôi được, được rồi!
Chẳng hiểu có đúng không! Nếu đúng thì "Sếp" CT1 cúa tôi quả thật là 1 quyển tự vị sống! À, ừ, nhưng... liệu cái dân số mà anh biết quá kỹ đó có giúp được gì chúng ta khi bắt tay vào khởi sự cuộc điều tra không đây ?
- Sao lại không ? Phương pháp phân tích, Chiêm lại quên rồi ? Đây: Đồng tiền này do đâu Chiêm có được ? Có phải sau khi đưa báo rồi thu tiền, đúng không ? Bây giờ chỉ việc coi lại cái danh sách quý vị khách hàng, tên, địa chỉ, rồi đi khắp lượt "điểm danh" 1 tua nữa cho đến khi gặp được ông móng tay cái đen là... rồi.
Quái! Chỉ giản dị có thế mà sao tôi chẳng bao giờ nghĩ ra ngay được . Nhưng có 1 cái gì làm cổ họng tôi nghèn nghẹn:
- Kế của anh hay lắm!... Nhưng nếu gặp được người đàn ông này rồi thì ta phải làm gì lúc đó ? Nếu... hắn định giở trò gì với chúng ta thì sao ?
- CT3 quên rằng nghề nghiệp của chúng ta đòi hỏi chúng ta lúc nào cũng phải sẳn sàng để đương đầu với hiểm nguy sao ?
- Ồ, đúng, tôi nhớ rồi . À này! Trong trường hợp nguy biến tại sao ta lại không báo cảnh sát ?
- Bình tĩnh nghe tôi nói đây này CT3! Hiện giờ vụ này hãng chúng mình đang nắm trong tay . Tội gì lại hấp tấp báo cho Cảnh sát biết vội! Như vậy chả hóa ra "cốc mò cò ăn" không! Cứ thủng thẳng, làm cẩn thận từng bước 1. Khi nào công việc đi tới chỗ vượt quá quyền hạn của chúng ta, sẽ báo cho họ biết sau . Chiêm hiểu ý tôi chưa ?
- Tôi hiểu! Và vì hiểu cho nên tôi phải tuân hành.
1 lần nữa, Trí lại chơi trội hơn tôi rồi . Anh xứng đáng là CT1, còn tôi, có lẽ suốt đời chỉ có thế là... CT3. Phải công nhận Trí tài ba hơn tôi thật . Nhưng sao tôi vẫn cảm thấy lo lắn thế nào . Trên đường về nhà để ăn cơm trưa, đầu óc tôi cứ sôi bỏng lên, phần thì tại Trí, đôi khi, vì "rành nghề" quá, cứ khiến tôi bực mình quásức . Ngồi và cơm ăn, tay gắp thức ăn đưa vào miệng mà thực tôi chẳng hiểu rõ ăn những gì . Ba má tôi thấy tôi thẫn thờ, đâm lo, cứ săn đón hỏi han xem tôi có đau ốm gì chăng ?
Ăn vội cho xong bữa, tôi hối hả chân trước chân sau, định quay ra tới nhà Trí . Đúng lúc đó, chị Trâm con bác Cả, anh ruột ba tôi, nhà ở sát bên, gọi qua hàng rào cho biết là có ai gọi tôi qua điện thoại . Bác Cả tôi làm thầu khoán, nhà có máy điện thoại, vẫn để cho gia đình tôi dùng chung.
- Chiêm!
Tiếng má tôi:
- Thằng Bình nó gọi con kìa! Nó bảo có việc quan trọng lắm!
Tôi bực mình ra mặt:
- Cái thằng quỷ đó, cái gì nó cũng bảo là quan trọng hết á! Rút cục lại chẳng có quái gì hết! Má cứ nói là con đi vắng rồi!
Dứt lời tôi nhảy lên yên xe đạp, đạp vút đi.
Tới nhà Trí, đã thấy anh ngồi trong "phòng thí nghiệm". Tay anh cầm 1 tờ giấy đánh máy . Trí đưa cho tôi giấy đó, và tôi chăm chú đọc:
Kính thưa Ông Xã Trưởng,
"Chúng tôi, ký tên dưới đây, nhân dịp lễ sinh nhật kỳ thứ 40 của ông, trân trọng kính gởi tới ông Xã Trưởng tấm lòng quý mến và biết ơn người đã để hết thì giờ và tâm trí phục vụ công ích cho toàn dân trong xã... "
Bức thu được đánh rõ ràng, sạch sẽ, lối hành văn thật bay bướm . Cuối trang giấy để chừa 1 khoảng trống khá lớn dành cho các chữ ký.
- Để làm gì đây, Trí ?
"Sếp" tôi mỉm 1 nụ cười:
- Không lẽ CT3 đi tìm gặp lại các quý vị thân chủ lấy báo tháng mà không có lý do chính đáng ? Đó, lý do đó! Và quý vị dân trong xã, khi ký tên vào bức thơ mừng sinh nhật ông Xã Trưởng, sẽ vô tình để cho CT3 kiểm soát lại ngón tay cái... có cái móng đen sì! Được không ?
Các bạn đã thấy Trí "mưu trí" ghê chưa ? Đúng là Gia Cát Khổng Minh! Trong tôi, sự bực mình, sự khó chịu vì thua sút CT1 lập tức lui bước, nhường chỗ cho sự kính phục . Trí quả nhiên xứng đáng là ông "Sếp" chỉ huy tôi . Được làm thuộc viên của 1 người khôn ngoan cơ trí, kể cũng... thú vị!
Tôi hân hoan:
- Anh "quá xá" thiệt!
- Thôi, ta lên đường! Nhiều thân chủ lắm đó chớ không ít đâu . Và cần nhất là đừng để cho di 5 tôi chộp được tụi mình là có chầu xách giỏ đi chợ cho bà ấy lắm đó nghe!
Dứt lời, Trí tụt xuống sàn nhà kho, lẻn ra vườn . Tôi theo anh bén gót . 2 đứa vừa cưỡi lên yên xe đạp thì đã nghe tiếng gọi the thé của bà 5 Rằng . Trí rỉ nhanh bên tai tôi:
- Vọt lẹ đi! Làm như tụi mình không nghe tiếng gì hết á!
Tiếng gọi vẫn theo gió đuổi theo 2 đứa tôi:
- Chiêm! Chính! Chính! Về đây cái đã! Mau! Có việc cần lắm! Mau lên!
Trong cái giọng của bà 5, tôi cảm thấy 1 cái gì có vẻ khẩn khoảng dữ lắm . 2 chiếc xe đạp bon đi khá xa rồi, tôi đạp chậm lại, ngập ngừng bảo Trí:
- Hay ta quay lại xem cái gì, anh Trí! Chắc có cái gì thật đấy!
- Không! Cứ việc thẳng tiến! Dì 5 thì cái gì cũng quan trọng hết! Ra chợ mua đồng bạc ớt, 2 đồng mùi tàu cũng cứ... rối tinh lên thôi! Tôi còn lạ gì nữa...
Nhưng lần này thì Trí Gia Cát đã... lầm . Vì nếu chúng tôi nghe bà 5, quay xe trở lại, thì buổi sáng hôm đó, 2 anh em đã tránh được nhiều cái phiền phức và đỡ tốn thì giờ biết bao nhiêu . Nhưng chúng tôi vẫn cứ cắm đầu mải miết đạp đều đều . Trí đã quyết định theo đúng lộ trình đi đưa báo của tôi.
Gạt bỏ ra ngoài, loại trừ tất cả các nữ thân chủ sống độc thân, chúng tôi tập trung chú ý nhằm vào những gia đình gồm tối thiểu 1 người đàn ông . Vào nhà nào, Trí cũng cao giọng đọc bức thư chúc mừng ông Xã Trưởng, xuất trình bản giấy đánh máy, xin chữ ký . "Ông" nào cũng tươi cười vui vẻ và thò bút ký tên và không quyên khen ngợi sáng kiến đặc biệt của 2 anh em tôi . Nhưng cũng có 1 vài chỗ trục trặc, không phải về kỹ thuật mà về... tâm lý . 1 số người không mấy ưa ông Xã Trưởng, lắng tai nghe Trí đọc bức "tâm thư", ngập ngừng nhưng rồi cũng hạ bút ký đại và "trình diện" dưới mặt tụi tôi... ngón tay cái của bàn tay phải . Không có gì lạ! Cho đến khi tới nhà thầy Linh, Hiệu trưởng trường tôi và Trí . Gặp thầy Linh, đột nhiên Trí và tôi giật thót mình: Ngón tay cái bàn tay mặt của thầy buộc băng trắng kín mít . Thầy tươi cười khen 2 anh em có tinh thần xã hội, biết làm việc công ích . Và thầy đứng lên đi tìm cây viết máy . Trí loáng tia mắt thật nhanh ngó tôi như ngầm nói: Người đàn ông bí mật chúng tôi đang truy tầm... là thầy Linh ? Tóc tôi dựng đứng lên . Tiếng nói chỉ còn phào phào như hơi thở:
- Vô lý quá! Người đàn ông sáng nay đâu có băng nóng tay cái.
Trí nói thật nhanh:
- Ngón tay có bị thương nặng thì cái móng mới đen kịt lại! Biết đâu vết thương đó chẳng mói làm nguy trở lại và cần phải băng nữa! Chiêm cứ yên tâm... Để rồi coi!
Thầy Linh cầm bút máy đi ra . Trí giả vờ lính quýnh xoay tờ giấy cho thầy đặt bút ký tên, rồi rất nhanh anh cố ý đụng mạnh khuỷu tay vào ngón bị thương của thấy Hiệu Trưởng . Thầy Linh "á" to 1 tiếng rụt bàn tay lại, suýt soa . Trí sốt sắng nắm lấy bàn tay thầy xin lỗi và xin thầy để cho anh coi, cột lại ngón tay đau . CT1 lẹ tay tháo cuốn băng, nhấc miếng bông gòn: Quả nhiên 1 vết đứt nằm xéo nơi đốt dưới ngón tay cái của thầy . Nhưng cái móng tay thì lại trơn tru bóng láng, màu hồng nhạt . Tôi thở nhẹ 1 hơi thật dài . Từ xưa tới nay, lòng riêng tôi vẫn 1 niềm mến phục thầy Linh hết sức!
2 anh em líu ríu ngượng nghịu xin phép thầy... rút lui . Trong lòng áy náy không yên vì đã chót lỡ .. nghi ngờ thấy Hiệu Trưởng.
Trí thở ra:
- Vậy là chỉ còn nhà ông Bách là hết đấy!
- Thôi, anh lại đó 1 mình nghe! Tôi không muốn giáp mặt thằng Bình đâu! Sáng nay nó đã gọi điện thoại mà tôi lờ đi đó!
Đột nhiên có tiếng gọi lanh lảnh:
- Chiêm! Chiêm ơi! Chờ tao với!
Quay ngoắc đầu nhìn lại phía sau, tôi thấy thằng Bình đang cắm cổ đạp xe phóng tới.
- Hấp! - Tới nơi, nó vọt lẹ xuống . - Úi chà! Tao đạp xe đuổi theo tụi bay muốn hụt hơi . Tức ghê đi! Sáng nay chút xíu thì gặp được mày ở nhà, Chiêm ạ! Sau đó, tao gọi giây nói sang bên thằng Trí, bà 5 cho biết là tụi mày mới đạp xe đi rồi.
A! Bây giờ thì tôi hiểu vì sao bà 5 đã gọi 2 đứa tôi đến thất thanh lên như vậy.
- Rồi, rồi! Bây giờ gặp được tụi tao đây rồi, có chuyện gì thú vị thì nói đại đi! Chắc mày mới khám phá được 1 cái tàu ngầm biết bay, heng ?
Thằng Bình bực mình ra mặt:
- Đừng nói ẩu, Chiêm! Có điều là mày đã lấy của tao 1 món đồ!
- Lấy đồ của mày ? Á .. mà cái gì mới được chứ ?
- Đồng tiền cổ Hy Lạp của tao đó!
Tôi hét lên, tim đập thình thịch:
- Cái gì ?... đồng tiền cổ... !
Trí đưa đồng bạc ra trước thằng Bình:
- Có phải đồng tiền A-tê-na này không ?
Thằng Bình, mắt sáng rỡ, reo lên:
- A! Đây rồi! Đúng rồi! Sáng nay má tao đã đưa lộn cho mày, lúc mày đi đưa báo đó mà!
Tôi chợt thấy Trí nè nhẹ rung động thân mình, và riêng tôi, tôi cũng cảm thấy đầu óc quay cuồng đảo lộn . Rõ chán! 2 anh em đang lò mò đi tìm lời giải đáp cho bài toán hóc búa, chạy xe hết hơi lên tận Thủ Đức, trong khi đó, lời giải đáp lại... chạy đuổi theo sau chúng tôi... bằng xe đạp! Tôi buột miệng lẩm bẩm:
- Vậy là xong! Nội vụ thế là... xếp!
Tiếng Trí nghe thật êm êm, thật thong thả:
- Chiêm lầm rồi, Chiêm ơi! Phải nói rằng nội vụ bây giờ... mới bắt đầu đó, Chiêm ạ!

Chương 4
Tôii quay lại ngó Trí:
- Cái gì ? Anh nói sao ? Bây giờ mới bắt đầu ? Tôi tưởng chúng mình đã tìm ra xuất xứ, người chủ của đồng bạc cổ đó rồi . Chỉ việc trả lại thằng Bình và bảo má nó trả lại cho tôi 20 bạc là xong, chứ còn gì nữa ?
- Chiêm có lý 1 phần! Nhưng hiện chúng ta vẫn chưa tìm ra tung tích người móng tay cái đen và lý do tại sao ông ta lại có ý chiếm đoạt đồng tiền cổ giả đó ?
Tiếng thằng Bình ngạc nhiên:
- Cái gì! Đồng tiền cổ này... giả ? Trời ơi! Tụi bay có nói giỡn không đó ?
Trí và tôi phải ôn tồn kể lại mọi việc đã xảy ra từ đầu cho tới lúc này, như thế nào cho Bình nghe: Tôi có đồng tiền ấy lẫn trong mớ tiền bán báo, rồi bàn tay lông lá thò vào định chộp và sau chót là việc giảo nhiệm rất khoa học đã đưa đến 1 kết quả: biết được đồng tiền cổ này... là đồ giả.
Bình nói gần như khóc:
- Vậy thì khổ tao rồi! Để dành dụm mãi, 1 năm trời dòng dã mới được 2,000 đồng bạc, giốc ngược heo đất moi hết đem đi mua... định để bán lại tưởng ít nhất cũng được 10, 15 ngàn đấy . Ngờ đâu, trời ơi, thật tao không thể nào ngờ nó lại là đồng tiền giả!
Trí và tôi cũng buồn giùm cho nó . Đột nhiên, Trí bảo:
- Yên trí đi Bình, mày mua ở đâu đem đến đó trả lại đi! Có quyền mà! Mày có quyền trả lại lấy tiền về mà!
- Vậy hả ? À, nếu vậy tao phải đi gấp đòi tiền lại mới được . Không xa đây mấy đâu! Tao mua lại ở tiệm cầm đồ đằng kia kìa, đường Gò Gốm đó . Ừ đúng rồi, tao còn nhớ cả tên ông chủ tiệm cầm đồ đó nữa! 6 Goòng! Ừ phải rồi! 6 Goòng!
Nhìn theo hướng tay thằng Bình chỉ, tôi chợt nhẹ rùng mình vì hướng đó đúng là hướng đi về phía cái quán điện thoại kế bên nhà hàng của anh 3 Đốc . Cái quán điện thoại với bóng người đàn ông bí mật và cái bàn tay lông lá sù sì, cái móng tay cái đen kịt . Mà anh 3 Đốc thì nhỏ con và 2 bàn tay anh thì mịn màng trắng tươi, móng tay hồng đẹp, chỉ còn lại ông 6 Goòng nào đó! 6 Goòng... chủ tiệm cầm đồ, hừ!... Tôi nói to:
- Tiệm của 6 Goòng ở đó hả Bình ? Hừ! Quán điện thoại gần nhà anh 3 Đốc cũng gần đấy . Á, à... biết đâu chừng!... hừ!
Trí cũng gần như reo lên:
- Ừ hay lắm, Chiêm ơi! Ê, Bình, tao cũng khoái coi tiệm cầm đồ lắm mày . Bao giờ mày đem trả lại đồng tiền đó, nhớ rủ tao đi chơi với, nghe!
Thằng Bình sốt sắng:
- Ừ, càng vui! Thôi tụi mình tới đó ngay bây giờ đi! Mới có 3 giờ rưỡi chiều mà, sớm chán... !
Tiệm đồ "lạc soong" ở vào 1 khu phố tồi tàn trong quận Thủ Đức, tầng dưới của 1 căn nhà có lầu lụp sụp . Cửa hàng gồm nhiều ô kính bụi bám từng lớp dầy, đến nỗi phải khó khăn lắm mới đọc nổi hàng chữ:
TIỆM BÁN ĐỒ CŨ
Bên trong ngổn ngang những món đồ tập tàng cũ sỉn như những bức tranh sơn thủy, bình phong tróc sơn, rồi những cái đèn cũ, những pho tượng sứt mẻ, nhiều cái đồng hồ trông thật kỳ dị . Rồi có cả những bộ da, lông thú nhồi bông và nhiều thứ nữa không ai hiểu công dụng là gì.
Bất giác tôi kêu lên:
- Trời ơi! Những món đồ quái quỷ này thì ai mua ?
- Chiêm tưởng thế! Có nhiều tay sẵn tiền ba má, anh chị cho, không biết tiêu dùng vào việc có ích, cứ bạ cái gì cũng mua hết á!
Câu nói châm biếm của Trí đã khiến Bình đỏ mặt . Tay nó chỉ vào 1 tấm biển sơn trắng kẻ chữ xanh, miệng lầu bầu:
- Làm sao tao đoán biết được là tiền giá kia chứ!
Hàng chữ trên tấm biển rõ ràng và dễ đọc:
TIỀN CỔ HY LẠP
từ 2,500 năm trước
($2,000 một đồng)
- Hừ! Đúng là mồm mép... con buôn bịp bợm!
Lòng tôi giận sôi lên . Trí ôn tồn ra lệnh:
- Vào đi Chiêm! Tụi này theo sau!
Tôi lui lại 1 bước, giọng lễ phép:
- Xin mời "Sếp" đi trước!
Trí nguýt tôi 1 cái rồi đưa tay mở cửa . Tôi bám sát anh và Bình đi đoạn hậu.
3 đứa tôi có cảm giác như khi bước vào 1 cái hầm tối tăm ẩm ướt . Nhất là có cả mấy chú dơi thấy động vỗ cánh phành phạch, bay tứ tung . Về phía sau gian hàng "lạc soong" văng vẳng có tiếng búa đập, đôi lúc lại có tiếng sắt thép kêu leng keng . Ngay lúc đó 1 bóng người cao lớn đi qua luồng ánh sáng chiếu hắt lên bức tường cáu bẩn . Tôi buột miệng, tiếng nói hơi run:
- Lão ta... làm cái gì ở phía sau thế không biết!
Trí đưa nhẹ cùi chỏ hích vào hông tôi trong khi tiếng búa đập đột nhiên im bặt . Luồng ánh sáng yếu ớt trên tường cũng biến mất . Bất giác, tôi đưa mắt ngó nhanh về phía sau . Không khí im lặng đặc sệt tưởng chừng có thể lấy dao mà cắt được . Tôi rỉ tai Trí.
- Quái! Lão ta lỉnh đâu mất rồi!
Bình cũng đã tiến sát sau lưng tôi . Nó nói không ra hơi nữa:
- Trong này sao âm u... rùng rợn quá!
Đột nhiên từ phía sau lưng 3 đứa, 1 giọng nói ồm ồm xé tan không khí yên lặng:
- Vào đây làm gì, những thằng lỏi kia ?
Như bị điện giựt, 3 anh em cùng quay ngoắt lại: 1 người đàn ông to lớn, đầu trọc tếu, đôi mắt hấp him, tia nhìn đanh ác, sống mũi dài, khoằm xuống hình như mỏ két, cổ dài nhằng nhăn nhúm khiến ai trông thấy cũng liên tưởng ngay đến cái đầu gớm ghiếc ngất nghiểu trên cần cổ của 1 con kên kên . Trong tay ông ta nắm chắc 1 cái bứa lớn.
Sau hết, Bình lên tiếng:
- Chúng tôi tới đây vì cái đồng tiền cổ ông bán cho tôi đó mà, ông 6 Goòng!
Miệng nói lắp bắp, tay lẩy bẩy chìa đồng bạc Hy Lạp ra, nhưng nó rung quá làm đồng bạc rớt ngay xuồng đất . Trí cúi nhanh xuống lượm lên.
Nưo=`i đàn ông hầm hầm:
- Thế sao ? Đồng tiền đó làm sao ? Hả ?
Tiếng Trí đột ngột cất lên, nghe cũng hơi run:
- Đồng tiền đó là đồng tiền giả!
Đôi mắt ông 6 Goòng đã nhỏ sẵn, giờ đây lại thu nhỏ hơn nữa và tia nhìn còn dữ tợn gấp bội:
- Tụi oắt con chúng bây thì biết thế nào được là thật, thế nào là giả kia chứ, hả!
Tiếng ông ta nói nghe gầm gừ chẳng khác gì chó sửa . To6i nhận thấy Trí đã lấy lại được bình tĩnh:
- Ông 6 à! Xin nói rõ để ông biết rằng, chúng tôi đã xem xét đồng tiền cổ này rất tỉ mỉ, rất cẩn thận và rất khoa học nữa . Mà không phải xem xét bằng mắt thường đâu, ông 6. Chúng tôi đã xử dụng những máy móc khoa học thật tinh vi, và nếu ông 6 cần biết hư thực ra sao thì tôi sẽ xin trình bầy rõ rệt mọi chi tiết...
Ông 6 Goòng đột nhiên thay đổi thái độ, dáng điệu và lời nói đầy vẻ ông hòa và rõ rệt:
- Thôi được! Nếu chú em đã cho biết như vậy thì qua cũng sẵn sàng tin chú em! Được rồi!
Dứt lời, 6 Goòng nhấc tấm áo choàng bên ngoài bằng da, thọc tay vào túi áo trong, móc ra 1 cuộn giấy bạc 200 đồng và 500 đồng thật bự, nhưng nhơm nhếch bẩn thỉu:
- Này đây! Tôi trả lại cho các chú tiền mua đồng bạc cổ đó! Và thôi, bỏ chuyện đó đi, heng.
Tôi đưa mắt lặng ngó ông 6 đếm 10 tấm giấy bạc 200 đồng . Đột nhiên hơi thở trong ngực tôi như nghẹn tắt: Nogón tay cái người đàn ông này chụp kín trong 1 cái bao da, ngón tay cái của bàn tay phải.
Nhẹ nhẹ quay đầu định báo động cho Trí biết, nhưng nhìn mắt anh, tôi hiểu ngay là anh cũng đã để ý cái ngón tay "da" đó rồi, đồng thời Trí liếc ngó tôi thật nhanh và lắc đầu khe khẽ . Tôi hiểu là anh bảo ngầm tôi: "Bình tĩnh! Đừng nói gì hết vội"!
Tiếng ông 6 Goòng:
-Rồi! Đây tiền trả lại các chú đây! Đưa đồng bạc Hy Lạp đó cho tôi!
Dứt lời, ông đặt 2,000 đồng lên mặt quầy và chìa bàn tay to lớn ra chờ nhận đồng tiền cổ.
Đột nhiên Trí cất tiếng rành rọt:
- Rất tiếc, ông 6 à! Trả lại tiền cho chúng tôi, được rồi, chúng tôi xin nhận và cám ơn ông 6! Nhưng chưa hết... !
Thằng Bình "ơ" lên 1 tiếng sững sờ:
- Kỳ vậy! Trí! Còn gì nữa kìa ?
Trí vẫn thản nhiên "nói chuyện" với ông 6:
- Ông 6 à! Hôm nay 3 anh em chúng tôi đến đây, ngoài chuyện trả lại ông đồng tiền cổ làm giả ra, chúng tôi còn muốn nhân danh những người công dân lương thiện, lúc nào cũng sẵn sàng bảo vệ lợi ích chung, xin hỏi ông 6 ba điểm sau đây:
- Cái đồng tềin giả này do đâu ông có ?
- Nó đã được chế tạo tại nơi nào ?... Và...
- Ai đã chế tạo ra nó ?
Cần cổ dài ngoẵng của ông 6 Goòng đỏ ửng và tôi thấy rõ đôi xương quai hàm ông ta bạnh lên, trông lại càng giồng đầu con kên kên đang tiến tới bên 1 cái xác chết chương sình:
- Mấy chuệyn đó ăn chung gì đến mày, hả thằng lỏi này ?
6 Goòng hộc lên như beo gầm:
- Tao mua nó ở đâu mặc tao, mày hỏi làm gì ? Chỉ biết là chúng mày không muốn mua nữa, trả lại tao thì tao hoàn tiền lại! Có thế thôi! Rắc rối cái gì ? Đưa đây, mau lên!
Trí vẫn thản nhiên, giơ đồng tiền ra trước mặt người đàn ông:
- Ấy, ấy! Ông 6 bình tĩnh chút đi! Cần gì phải tức giận như vậy . Ông 6! Chúng mình đều là những công dân lương thiện cả, do đó tôi nhhĩ rằng ông 6 sẽ sẵn sàng cho anh em chúng tôi biết qua chút síu tin tức về cái đồng tiền giả này...
Đột nhiên tôi thấy ngay rằng Trí hớ hênh quá, đồng tiền nơi tay anh chỉ còn cách bàn tay của người đàn ông dễ sợ kia có mấy phân tây . Mà đôi mắt ti hí của 6 Goòng, liếc thật nhanh, cũng đã nhận thấy rõ như thế . Tôi linh cảm là thế nào ông cũng chộp nó bất thình lình . Bất giác buột miệng, tôi khẽ kêu:
- Coi chừng . Trí!
Chậm mất rồi, bàn tay ngón chuối mắn của ông 6 đã vút nhanh như 1 lưỡi kiếm tuốt ra khỏi vỏ.
Ông ta đã nhanh, Trí lại nhanh hơn! Anh thụt bàn tay lại lẹ như ánh chớp xẹt . Bàn tay 6 Goòng lỡ trớn, văng đụng góc tủ buýp phê kêu 1 cái "cộp" . Người đàn ông rú lên:
- Úi cha! Chết rồi! Đau quá, trời ôi! Ông ta vẹo hẳn người đi, ôm chặt bàn tay phải, mặt mũi nhăn nó, miệng suýt soa:
- Ối! Ối! Đau quá! Ngón tay của tôi! Đụng đau quá!
Lúc đó tôi mới nhận ra cái mánh lới tuyệt vời của "sếp". Anh đã đoán biết trước tất cả, nhưng cứ tảng lờ . Quả nhiên 6 Goòng đã bị hố to . Ông ta hối hả gỡ cởi cái dây cột túi da bao ngoài ngón tay cái bị thương . Tôi đưa mắt nhìn Trí . 1 nụ cười kín đáo phớt nhẹ trên làn môi tươi . Tia nhìn anh dõi thẳng cái bao da nơi bàn tay phải của 6 Goòng đang được nới dây cột, đã bắt đầu nhúc nhích . Chưa được nửa phút sau, chúng tôi đã trợn tròn mắt đứng sững như trời trồng: Người dàn ông bí mật có cái móng tay đen nơi ngón tay cái bàn tay bên phải, chính là... Sáu Goòng!

Chương 5
Mắt mở lớn, tôi ngó trừng trừng cái móng tay đen kịt của 6 Goòng . Bất giác toàn thân run lên nhè nhẹ, khi chợt hồi tưởng cái bàn tay lông lá, cục cựa, bò vào quán điện thoại và sự thất đảm đã trải qua...
Vậy là... tụi tôi đã tìm ra kẻ khả nghi số 1. Nhưng rồi sao? Còn 1 lô vấn đề cần phải giải quyết đây!
Đâu đã hết! Như: Tại sao ông 6 Goòng lại thiết tha hết sức đoạt lại đồng tiền cổ đó, dù đã biết nó là thứ đồ giả? Tại sao ông ta cố ý dấu xuất xứ của đồng tiền đó? Ông ta muốn che chở dấu diếm cho 1 người nào đó, và tại sao!
Tôi cứ loay hoay với những cái "tại sao" đó mãi, trong khi Trí đã ngang nhiên bắt tay vào tấn công bài toán khó. Anh nói với ông 6 Goòng:
- Chết chửa! Tôi vô ý quá đã làm ông 6 bị đau! Quả tình không cố ý! (Câu này nhất định "sếp" tôi đã nói xạo). Thôi, ông 6 à! Để cho hết rắc rối trong vụ này, xin mời ông 6 cùng anh em chúng tôi tới nhờ cảnh sát giải quyết dùm cho đi!
- Ồ, việc có quái gì đâu mà phải phiền phức thế ? Kéo tới Cảnh sát thì cũng vậy thôi! Cũng đến bảo tôi phải trả lại các cậu tiền là hết đất . Mà tiền thì tôi sẵn sàng trả lại cho các cậu đây, ngay bây giờ. Mất công đến bót Cảnh sát làm cái khỉ khô gì?
Lời nói của 6 Goòng coi bộ có lý quá. Quả có thế! Cảnh sát thì cũng chẳng có thể buộc ông ta làm cái gì hơn! Nhưng, tôi vẫn tin rằng "sếp" của tôi thế nào cũng có 1 miếng đòn gì khác lạ. Quả nhiên:
- À! Nếu vậy thì ông 6 chưa hiểu rõ cặn kẽ vấn đề! - Giọng nói của Trí nghe có vẻ lừng khừng. - Ông 6 chưa xét kỹ mọi khía cạnh về việc này. Thật ra anh em chúng tôi còn định báo cho Cảnh sát biết rằng... chính ông đã toan tính... ăn trộm.
- Toan tính ăn trộm! Sắc mặt 6 Goòng tái hẳn đi, thấy rõ, - Cậu nói gì kỳ vậy?
- Có gì đâu mà kỳ, ông 6! - Trí giơ tay chỉ tôi. Chính ông sáng nay đã định lấy trộm đồng tiền cổ của người bạn tôi tên là Chiêm đây tại quán điện thoại, bên gian hàng của anh 3 Đốc mà!
Rồi chỉ thẳng vào ngón tay cái bị thương, móng đen sì của 6 Goòng, CT1 dõng dạc như Quan Tòa buộc tội:
- Kẻ trộm đó cũng có móng tay cái bên phải đen kịt như cái móng kia, ông 6 à!
- Hừ! Như vậy đâu đã đủ bằng chứng để kết án gán tội? Sáng nay tôi đâu có tới gian hàng của anh 3 Đốc! Cậu lầm rồi!
Quả thật cái bằng chứng này cũng hãy còn mơ hồ lắm. Làm sao bây giờ đây? Đột nhiên trong óc tôi lóe lên 1 mưu mẹo. Xưa như trái đất, nhưng vì kẹt quá, tôi vẫn cứ mang ra xài đỡ:
- Ồ! Ông 6 sao lại nói thế được nhỉ? Tôi đã trông thấy rõ ràng ông 6 tới nhà anh 3, rồi vào phòng điện thoại công cộng ngay sát bên căn của tôi mà!
- Xạo! Ông 6 Goòng hét lên, - chú nhỏ không trông rõ mặt làm sao lại dám nói quyết là tôi? Lúc đó tôi xây lưng ra phía cửa phòng và...
6 Goòng đột nhiên biết mình lỡ lời, sa vào bẫy rập, nên ngừng ngay lại không nói thêm tiếng nào nữa. "Sếp" của tôi khoái lắm, nhưng giọng nói vẫn từ tốn, điềm nhiên:
- Ông 6 đã tới phòng điện thoại bên nhà ông 3 Đốc! Ông làm ơn cho biết: ông tới đó làm gì?
Mặt mũi 6 Goòng coi bộ bí sị, bèo nhèo như 1 quả banh của con nít sì hết hơi. Đã chót lỡ miệng vướng bẫy rồi, ông hết đường chối cãi, đành khai thật:
- Tôi cần gọi điện thoại cho 1 khách hàng! Và trong khi nói chuyện thì chợt nghe nơi căn sát bên có tiếng ai nói léo séo. Lời lẽ đối thoại nghe có vẻ là của 1 tay thám tử, luôn luôn tự xưng là CT3 và báo cáo cho sếp về việc 1 đồng tiền cổ Hy Lạp rất kỳ lạ, cần phải mở cuộc điều tra v.v...
Tuyệt quá! 6 Goòng cũng phải công nhận lối nói chuyện của tôi có vẻ thám tử lắm. Khoái trí quá, tôi đứng thẳng người lên ưỡn ngực, quắc mắt chiếu tia nhìn thẳng ngay mặt kẻ tình nghị 6 Goòng rút mùi xoa trong túi ra lau mồ hôi ướt đẫm trên trán, rồi nói tiếp:
- 1 lúc sau, tôi đã biết được là tay thám tử nọ cùng ông sếp của y nói về 1 đồng tiền cổ do chính tay tôi đã bán cho chú nhỏ kia! - Ông ta giơ tay chỉ thằng Bình.
- Rồi sao nữa?
- Rồi là tôi đâm hoảng hốt, muốn lấy lại đồng tiền đó cho phi tang đi để khỏi bị rắc rối với cảnh cát!
Liếc nhanh mắt, tôi thấy Bình cứ há hốc miệng ra mà nghe chuyện. Trong thâm tâm tôi ngấm ngầm sung sướng, tự nhủ lòng:
"Thế là Bình từ nay phải phục tôi sát đất!"
CT1 cất tiếng nói nghe như 1 làn roi quất vụt:
- Bất kể lý do nào ông nêu ra, ông vẫn bị buộc đã phạm vào tội "mưu toan lấy trộm". Vậy, nếu ông không chịu nói cho chúng tôi biết do đâu ông có được đồng tiền Hy Lạp giả kia thì... nhất định phải trình Cảnh sát!
Đôi mắt 6 Goòng nheo lại trông chỉ còn nhỏ bằng cái tăm, tia nhìn lọt ra coi thật dữ dội, nhưng đột nhiên đường môi mỏng rộng ngoác của ông ta nhếch 1 nụ cười. Tôi liên tưởng ngay đến 1 loại kỳ nhông có cái khả năng đặc biệt thay đổi được màu sắc trên thân mình tùy theo ý muốn.
- Thôi được! Các chú nhỏ! Các chú đã thắng cuộc! Tôi xin chịu thua! Để tôi nói các chú biết do đâu tôi có được đồng tiền giả đó!
6 Goòng im lặng tới vài phút. Rõ rệt là ông ta bắt óc làm việc ghê gớm lắm để tính kế. Đột nhiên người đàn ông nổi giận đùng đùng:
- Được! Để tôi dẫn các chú đến tận nhà thằng cha lưu manh này! Đi! Kệ thây nó! Việc gì tôi lại cứ phải che chở cho nó để rước họa vào thân nhỉ? Nó hại tôi quá mà! Hừ! Để nó nói chuyện với các chú nhỏ!... Chờ đó đi! Các chú em! Chờ đó! Tôi vào lấy cái áo rồi đưa các chú đi gặp cái thằng cha lường gạt này ngay bây giờ!
Dứt lời, 6 Goòng lui vào phía sau gian hàng. Tôi lợi dụng ngay mấy phút giây ngắn ngủi đó để rỉ tai Trí khen tặng anh mấy câu. Nhưng "sếp" tui lại tỏ vẻ ưu tư ra mặt:
- Mình cũng chưa chắc là tay 6 Goòng đã nói hết sự thực!
- Vậy ra hắn còn dấu chúng ta 1 vài điểm gì đó?
Trí nhẹ nhún vai và không nói thêm tiếng nào nữa.
6 Goòng đi vào phía trong lâu lắm không thấy ra. Tôi băn khoăn tự hỏi: "Chỉ choàng cái áo ngoài vào thôi mà làm gì phải lâu đến thế?" À kìa! Ông ta đã ra kia, trên môi nở nụ cười. Nụ cười ấy chẳng khiến ai vui vẻ, trái lại nó càng làm tôi phải để tâm đề phòng. Gã 6 Goòng này đã bị bắt quả tang phạm vào 2 tội: Nói dối và mưu toan ăn trộm đồ vật của người khác. Giờ đây hắn còn định giở trò gì nữa?

Chương 6
Nhưng lạ thay, ông Sáu Goòng không giở trò gì hết . Trái hẳn thế, ông còn đưa thẳng chúng tôi tới phố Bích Câu, nơi buôn bán sầm uất nhất của quận Thủ Đức . Ông ta dừng chân trước 1 cửa tiệm nhỏ . Trên cửa kính kẻ 1 hàng chữ bằng sơn trắng:

DANH ĐIỀM
Mua bán tem cũ, tiền cũ.


Sáu Goòng lên tiếng:
- Đây rồi!
Trí, Bình và tôi dựng xe đạp vào tường rồi theo chân ông Sáu bước vào trong gian hàng . Bên trong sáng sủa, sạch sẽ, xếp đặt thật gọn ghẽ . Tem và đủ loại tiền cổ xưa xếp ngay hàng thẳng lối trong các ô kính kê giọn 1 cách khéo léo . Tại 1 cái bàn nhỏ đặt nơi cuối dãy ô kính, 1 người đàn ông ngồi trên ghế đang săm soi ống kính hiển vi lên mấy cái tem thư . Thấy có khách vào, ông ta đứng dậy tiến ra, và tôi nhận thấy nước da ông ta rất xanh . Bộ quần áo rộng thùng thình khoác ngoài cái thân hình nhỏ thó mảnh mai khiến tôi nghĩ ngay "chắc ông chủ mới bị gầy sút thời gian rất gần đây". Tiếng nói của ông lại có 1 cái giọng trẻ trung không ai ngờ được:
- A! Chào ông Sáu Goòng! Mạnh giỏi ông Sáu ? -- Và hướng nụ cười tươi về phía chúng tôi -- Các cậu nhỏ đâycũng đi cùng với ông Sáu ?
Các "cậu nhỏ" lạnh lùng chỉ sẽ nghiêng đầu cho phải phép, đồng thời đưa 3 cặp mắt nhìn trừng trừng ông chủ tiệm . Tiếng ông Sáu Goòng vang lên:
- Đúng rồi! Ông bạn Danh Điềm! Tụi nhỏ này đi với tôi đó! -- Và hướng về Trí, ông Sáu hất hàm -- Ê nhỏ, đưa cho ông ta đồng tiền đi mày!
Trí không để giục đến lần thứ hai, và ông Danh Điềm đón lấy đồng bạc cổ đưa ra chỗ sáng xem xét, rồi cười vui, ông nói với Sáu Goòng:
- À, đúng rồi, đúng là đồng tiền Hy Lạp tôi mới bán cho ông tháng trước đây mà!
Trí đưa tia mắt ngạc nhiên nhìn tôi . Vậy thì ra ông Sáu Goòng đã nói thật . Ông đã mua đồng tiền ấy ở tiệm này.
Ông Danh Điềm vẫn tươi cười ngắm nghía đồng tiền cổ:
- Đẹp, đẹp thật, ít có loại tiền nào đúc đẹp như loại tiền Hy Lạp này!
Tiếng ông Sáu Goòng bỗng vang lên như tiếng quát:
- Phải, đẹp, đẹp lắm! Có đẹp mới là đồ giả! Đồ giả mới đẹp chứ đồ thật làm sao đẹp được! Ông bạn lừa gạt người ta thật tài! Tôi chịu ông đấy!
Ông chủ tiệm Danh Điềm đỏ mặt tía tai, 2 bàn tay run rẩy thấy rõ . 2 hàm răng ông cắn chặt vành môi như cố gắng níu giữ cho tâm hồn được bình tĩnh . Tiếng ông nói nghe vẫn ông nhu hòa nhã:
- Ô kìa, ông Sàu! Bình tĩnh chút đi, rồi đâu có đó mà, ông Sáu! Cứ để từ từ cho tôi xem lại chút đã nào.
Sáu Goòng đối khẩu chua như dấm:
- Thì cứ việc xem lại đi! Xem cho kỹ nào! Nó đã là đồ giả thì xem cách nào nó cũng vẫn chẳng thật được! Xem đi!
Ông Danh Điềm tiến lại phía bàn giấy hồi nãy, soi kỹ đồng tiền dưới ống kính hiển vi.
Trí nói khẽ vào tai tôi:
- Để ý theo dõi nghe, Chiêm.
Tôi nghĩ bụng: "Khỏi phải dặn". Rồi đưa mắt theo dõi, không những ông Danh Điềm mà cả ông Sáu Goòng hiện đang đứng ngay sau lưng tôi, đang đưa mắt ngắm nhìn các ô kính . Vẻ mặt ông ta hầm hầm và móc mùi xoa trong túi ra chùi tay . Chắc ông Sáu đã mó phải cái gì dính bụi . Đúng lúc Sáu Goòng đút mùi xoa vào túi thì ông Danh Điềm trở lại phía chúng tôi . Nét mặt ông ngơ ngác:
- Kỳ thật! Ông Sáu à! Đồng tiền này đúng là đồng tiền giả, không còn cãi vào đâu được nữa! Nhưng có 1 điều là không phải đồng tiền mà tôi đã bán cho ông tháng trước!
Sáu Goòng thản nhiên:
- Khoan, khoan! Ông bạn! Ông nhớ giùm cho rằng tôi đã mua đồng tiền này tại đây, cửa tiệm của ông . Chính ông đã cam đoan với tôi là tiền thật và tôi đã tin lời ông . Sau đó, mới tuần qua đây tôi đã bán lại cho cậu nhỏ này! -- Sáu Goòng giơ tay chỉ tên Bình.
Bình đứng thẳng người lên, có vẻ quan trọng:
- Đúng như thế! Tôi đã mua đồng tiền cổ này của ông Sáu Goòng với giá 2 ngàn đồng bạc đó . Tất cả món tiền để dành suốt 1 năm trời đó!
- 2 ngàn đồng! -- Tiếng nói của ông Danh Điềm có vẻ ngạc nhiên tột độ, -- Ông đã mua của tôi với giá 2 ngàn rưỡi kia mà, ông Sáu . Sao ông lại bán cho chú kia 2 ngàn đồng là thế nào ?
Sáu Goòng gầm lên:
- Thì đã sao chưa ? Cần tiền thì bán lỗ vốn đấy, có sao không ? Bộ tội tử hình đó chắc ?
Giọng nói ông Danh Điềm thật thiểu não:
- Đâu có! Đâu có! Ông bạn có thể đem đi cho không người ta cũng còn được nữa mà!
Sáu Goòng vẫn hầm hè:
- Thôi! Không nói nhiều! Ông trả lại tiền cho tôi đi, nếu không...
Ông Danh Điềm run rẩy liệng đồng tiền cổ lên mặt quầy hàng đoạn cũng la lên:
- Lẽ đâu ông lại buộc án gán tội cho tôi 1 cách ngang xương như vậy, ông Sáu ? Ông phải nhớ rằng mọi loại tiền cổ, khi đến tay tôi là hết thảy đều được xét lại kỹ càng trước khi mua để bày bán lại cho những người sưu tầm tiền cổ . Ngay đến cả từng cái tem 1 tôi cũng không hề sơ xuất . Và tôi dám bả đảm với ông Sáu: Đồng tiền cổ Hy Lạp tôi đã bán cho ông là tiền thật 100%. Giờ đây ông kiếm ở đâu ra cái đồng tiền giả này đem đến đổ vấy cho tôi . Xin lỗi! Cho phép tôi khỏi cần biết tới vụ này!
Sáu Goòng mặt đỏ tía, tức giận đến sùi cả bọt mép:
- Này ông Danh Điềm! Quả thật ông chỉ là 1 tay lưu manh trộm cắp . Tôi đã nhân nhượng, dành cho ông 1 lối thoát, nghĩa là chỉ có việc trả lại tiền là xong, tôi sẵn sàng xóa bỏ hết . Vậy mà ông còn không muốn . Giờ đây chỉ còn 1 cách: Đến chỗ phải trái.
Dứt lời, Sáu Goòng hầm hầm bước ra khỏi cửa tiệm . Ông Danh Điềm da mặt đã xanh, giờ đây lại trắng nhợt như tờ giấy . Ông cứng lưỡi không nói nên lời . Đưa tay thọc nhanh vào túi áo, ông móc ra 1 ve thuốc, dốc 1 viên đưa vào miệng . Tôi biết ngay rằng ông Danh Điềm hiện đang ốm đau chưa lành . Tôi cảm thấy lo lắng và băn khoăn tự hỏi xem nên nán lại hay nên rút lui . Chưa kịp quyết định dứt khoát thì Sáu Goòng đã trở lại, dắt theo 1 nhân viên Cảnh sát . Chưa ai kịp làm gì, Sáu Goòng đã liến láu, tay chỉ thẳng ông Danh Điềm:
- Thưa ông Thẩm Sát viên, đây là tên lường gạt! Hắn đã bán cho tôi 1 đồng tiền cổ giả rồi không trả lại tiền tôi!
Nhân viên công lực thong thả rút quyển sổ tay bọc bìa da và 1 cây viết máy; ông quay lại nhìn Sáu Goòng:
- Ông cho biết đầu đuôi nội vụ ra sao! Lẹ lẹ lên 1 chút!
Sáu Goòng miệng lưỡi thật lanh, tóm tắt rất gọn mọi diễn tiến đã xảy ra về vụ đồng tiền cổ giả, nhưng ông ta dấu nhẹm hẳn việc ông định nẫng trộm đồng tiền đó tại phòng điện thoại, gần nhà hàng anh Ba Đốc . Nghe kể chuyện xong, người Cánh sát lên tiếng:
- Thôi được rồi! Thôi được rồi thằng nhỏ Bình kia có mặt tại đây, vì lý do gì thì tôi đã biết! Nhưng còn 2 chút kia, các chú là ai ?
Tôi bộp chộp:
- Dạ thưa...
Tôi định nói thật chúng tôi là 2 thám tử tư . Nhưng chưa kịp phát ngôn, thì Trí đã hích nhẹ cùi chỏ vào bên hông và anh cướp lời:
- Xin lỗi ông Thẩm sát viên, ông cho phép chúng tôi tự giới thiệu: Chúng tôi là bạn của Bình . Ngày hôm nay chúnt tôi theo y tới đây để nhờ pháp luật phân xử.
Trong khi "sếp" của tôi còn mãi đối thoại với nhân viên công lực thì Sáu Goòng hầm hầm đi đi lại lại trong căn tiệm, chân ông ta dặt bước nện xuống sàn thình thình, tia mắt nhìn gườm gườm ngay mặt ông Danh Điềm ốm yếu . Rồi đột nhiên có tiếng la của ông Sáu:
- Ái cha! Trời ơi, đau quá xá! Úi cha... chếc cái cẳng tôi rồi, trời! Này ông Danh Điềm! Cửa hàng cửa họ của ông sao mà lủng cà lủng củng, kê giọn gì đâu kỳ vậy . Chết chân người ta rồi còn gì!
Mọi người quay đầu lại nhìn vào chân ông Sáu . Quả thật có 1 cái học dưới quầy nhô dài ra và ông Sáu vô ý va gióng chân vào bị... ng khá đau . Mặt nhăn nhó, Sáu Goòng cúi khom người đưa tay xoa xoa ống cẳng liên hồi.
Có tiếng Trí:
- Để tôi đóng nó lại giùm cho!
Vừa dặt tay vào miệng hộc sử soạn đẩy nó vào, đột nhiên "sếp" khựng lại:
- Á, á... kỳ quá ta! -- Dứt lời, anh thọc tay vào ô hộc... lôi ra 2 thanh sắt.
Người cảnh sát trừng mắt:
- Sao ? Cái gì vậy ? 2 thanh sắt ấy là những cái gì vậy ?
Tiếng Trí:
- Phiền ông thử ngó qua nơi đầu 2 thanh sắt này coi!
Tôi cùng tất cả mọi người xáp lại gần thì thấy rõ nơi đầu 1 thanh có trạm trũng xuống: hình 1 con cú và bên dưới rành rành 3 chữ lộn ngược A O E . Còn đầu thanh sắt kia... rõ ràng có hình trũng sâu của 1... chiếc mũ sắt.
Bàn tay Trí quơ nhanh đồng tiền cổ trên mặt quầy . Anh nhẹ nhàng đặt đồng tiền vào 2 cái khuôn tròn trên đầu 2 thanh sắt . Đồng tiền lọt thỏm vào khuôn vừa khít . Nhân viên cảnh sát trợn tròn đôi mắt ngó "sếp" tôi . Miệng ông ta há hốc... không nói được tiếng nào.
Trí cất giọng dõng dạc, như khi anh khởi đầu 1 bài thuyết trình:
- Thưa quý vị! Chúng ta đã nắm được trong tay... bộ khuôn đúc đồng tiền cổ Hy Lạp đây rồi!
1 trái lựu đạn nổ ngay giữa gian hàng cũng chưa chắc đã gây ra được 1 quang cảnh như hiện tại . Mọi người ai nấy đứng chết sững như đã biến thành tượng đá . Nhưng Sáu Goòng là người thức tỉnh trước hơn ai hết . Y reo lên:
- A ha! Các ông đã tin lời tôi chưa, hả ? Thấy chưa, chứng cớ rành rành ra đó! Hết đường chối cãi nhé, hà!... Đồng tiền giả kia... đã được làm ra tại đây! Rõ rệt rồi nhé!
Sắc mặt ông Danh Điềm nhợt nhạt trắng bệch như tấm vải trải giường . Đôi mắt như bật ra khỏi tròng, ông nhìn trùng trùng 2 cái ô khuôn đúc ở 2 thanh sắt mà lẩm bẩm nói gì không ngớt . Lắng tai chú ý lắm, tôi mới nghe loáng thoáng:
- Kỳ lạ! Kỳ lạ! 2 cái khuôn đúc đó! ở đâu ra thế ? Ở đâu ra ?
Có 2 giả thuyết: 1, ông Danh Điềm đóng kịch rất tài . 2, ông hiện là người đau khổ nhấ trên đời . Nhưng trong cả 2 trường hợp, ông đều không hy vọng thoát khỏi tù tội . Ông đã bị mọi người bắt được tang vật trong hộc tủ tại quầy hàng của ông.
Chợt có tiếng trẻ con phía sau lưng . Tôi quay lại: Cánh cửa ra vào bị đẩy bật tung ra . Bóng 1 chú bé mặt quần xanh, áo sơ mi trắng, như gió cuốn lao vào giữa chúng tôi đứng . Nhìn lại thì là 1 chú bé con chừng 10 tuổi, đầu đội 1 chiếc mũ lưỡi trai . Chú bé ôm lấy tay ông Danh Điềm:
- Ba! Tốt chứ ba!... Cái gì vậy, ba ?
- Tốt, tốt... không, không! Có gì đâu con, Thơ à! Có gì đâu! Ba đang nói chuyện với mấy ông khách hàng đó thôi mà.
Nét mặt bé Thơ còn đầy vẻ ngơ ngác bán tín bán nghi . Lại thêm tiếng của Sáu Goòng với cái giọng đắc ý nói huỵch toẹt cho chú bé biết 1 sự thựa tàn nhẫn:
- Có gì đâu, chú nhỏ! Chỉ có ba em vừa mới bị bắt quả tang về tội đúc tiền giả thôi mà . Có gì đâu! Hà hà!
Chú bé tên Thơ hét lên:
- Không, không! Ông nói láo! Ba tôi không làm bậy bao giờ! Các ông làm gì bắt ba tôi được!
Sáu Goòng trề môi:
- Thật không ? Thế cái gì đây ? Đó, 2 cái khuôn đúc tiền giả của ba mày đó! Không có chú gì kia thì đố ai tìm ra được đó!
Tia mắt của chú bé Thơ nhìn theo ngón tay chỉ của Sáu Goòng gặp đôi mắt Trí . "Sếp" tôi bất giác đỏ bừng mặt vì hổ thẹn dưới tia nhìn đầy oán hận của chú bé . Tôi có cảm tưởng, nếu có thể thì Trí đã độn thổ ngay lập tức để tránh đôi mắt thiên thần nổi giận đó . Anh lúng túng:
- Ô! Tôi... a... vì tình cờ ngó vào ngăn hộc... tình cờ... a... thấy...
Bé Thơ nghiến 2 hàm răng:
- Vậy đó hả ? Anh tình cờ mà lại đi ngó vào hộc tủ của người khác, hả ?
Câu nói vừa dứt, cậu bé đã vung nắm tay lên quất xuống thật lẹ . Cú đấm có thể làm Trí ngã sóng soài nếu anh không phản ứng kịp bằng cách hụp nhanh đầu xuống né . Và khi Trí né kịp, tất nhiên người nào đứng sát sau lưng anh... lãnh đủ . Quả đúng như vậy! Người luôn luôn bám sát sau lưng "sếp" còn ai nữa ngoài điệp viên CT3... Tôi lãnh trọn quả thôi sơn của chú bé Tặc Dăng nổi giận, nằm bò càng ra đất . Chống tay nhốm người đứng phắt dậy, tôi lao vào thằng oắt con định nện cho nó 1 chầu, nhưng chưa kịp thì đã bị nhân viên cảnh sát giữ chặt lấy cổ áo . Trí hoảng hốt la lên:
- Chiêm, bình tĩnh lại đi, Chiêm! Chịu đựng 1 tí mà! Đừng có đập nhau với chú ấy!
Tôi còn ức lắm:
- Tại sao lại không đập ?
"Sếp" tôi nói nhanh:
- Vì chú ấy là... con gái! Coi kìa!
Tuân lời "sếp" tôi ngó theo và thiếu điều bật ngửa người . Cái mũ rớt từ lúc bé Thơ động thủ để lộ mớ tóc dài mịn như tơ cột theo kiểu đuôi ngựa . Tôi ngơ ngác:
- Con gái! Con gái sao lại đội mũ "dô kề"?
Cô bé tên Thơ quắc mắt:
- Cho nó tiện, được không ? Mà dù có là con gái, đây cũng dư sức chấp cả bọn anh đó!
Dứt lời cô bé lại chồm tới, nhưng ông thẩm sát viên Báu đã kịp can ra:
- Thôi đi! Bọn nhỏ này! -- Ông quay ngó mấy người lớn -- À việc này quan trọng lắm! Tôi không đủ thẩm quyền giải quyết đâu! Cảm phiền các vị theo tôi tới trình diện ông Biện Lý, đi!
- Ông bắt giữ tôi, thưa ông thẩm sát viên ? -- Ông Danh Điềm cất giọng thiểu não hỏi người cảnh sát . Bàn tay trắng xanh của ông đặt lên vai cô con gái nhỏ như 1 cụ già tựa thân mình mệt nhọc lên chiếc gậy chống.
- Ông Danh Điềm thông cảm giùm tôi . Không bao giờ tôi nở bắt giữ ông, nếu tôi đủ thẩm quyền . Kẹt 1 điều là đã xảy ra việc đánh lộn và việc phát giác tang vật của 1 trọng tội . Vậy bắt buộc phải mời các ông đi theo tôi tới Biện Lý cuộc . Cả các chú nhỏ kia cũng vậy! Các chú là những nhân chứng!
Thế là mấy phút sau đó, chúng tôi đã thầt thiểu lê bước dắt xe đạp, đi trên con đường tới Biện Lý cuộc.
Vừa đi, tôi vừa phân vân tự hỏi chẳng hiểu ông Biện Lý sẽ xét nét chúng tôi thế nào ? Không biết ông có yêu hay ghét tụi con nít, nhất là tụi con nít học đòi làm thám tử... Nguy thật! Biết đâu ông Biện Lý lại chẳng bực mình vì tụi trẻ lộn xộn, ký giấy tống giam cả lũ thì thật... chết .

Chương 7
Té ra mọi giả thuyết của tôi đều sai bét cả . Tôi đã lầm tất cả mọi điểm về ông Biện Lý Nguyễn Bảo Kỳ . Giờ đây tôi mới biết ông là người thật giỏi giang và giàu lòng nhân ái . Ông quyết định mở cuộc điều tra, nhưng vẫn cho ông Danh Điềm được tự do thong thả . Ông lại còn buộc Sáu Goòng phải trả lại 2 ngàn đồng cho thằng Bình . Ông Sáu Goòng tức lắm, nhưng luật pháp bắg ông phải tuân theo.
Cả bọn ra tới ngoài sân cuộc biện lý . Lòng tôi thơ thới nhẹ nhõm kho6ng thể tả . Sáu Goòng ném về phía tụi tôi 1 cái nhìn căm hận trước khi bỏ đi . Còn cô bé Thơ thì nắm tay ngó tôi dứ dứ . Ông Danh Điềm choàng tay vào vai con gái yêu, đặt những bước chân không vững . Tôi chắc rằng nếu không vướng bận nâng đỡ người cha thân yêu, cô bé đáo để kia thế nào cũng lại nhẩy xổ đến uýnh lộn với tụi tôi 1 chầu nữa! Eo ôi!... Con gái con đứa gì mà khiếp thế.
Thằng Bình lấy lại được đủ số tiền để dành có vẻ khoái lắm . Cứ đưa mắt nhìn Trí mà thán phục ngấm ngầm . Và trước khi chia tay, "sếp" tôi bắt buộc nó không được bép xép cái miệng, mà phải giữ bí mật mọi việc.
- Ê, Bình à! Tóm lại, thì hiện giờ thì chúng mình chưa thể biết được có đúng ông Danh Điềm là thủ phạm trong vụ làm tiền giả này hay không! Phải chờ ông ông Biện Lý quyết định đã . Vậy cần phải tuyệt đối giữ bí mật, nghe!
Thằng Bình nói lời hứa danh dự . Trước mắt nó, giờ đây, Trí là 1 vị anh hùng và mỗi lời phát ngôn của anh, đối với nó, là 1 lời truyền phán linh thiêng.
Khi 2 anh em đạp xe trên con đường đi về cổng xe lửa số 6, tôi hỏi Trí:
- Anh có ý nghĩ như thế nào mà lại tuyên bố là "chưa biết ông Danh Điềm có đúng là thủ phạm trong vụ làm tiền giả này hay không?" Tang vật rành rành ra đó rồi còn gì ?
- Thì ai chẳng biết! Nhưng có điều là những cái khuôn tiền giả ấy xuất hiện đúng chỗ và đúng lúc quá! Và chính cái sự "đúng quá" nó khiến tôi nghi ngờ sự phạm tội của ông Danh Điềm... có thể không phải là sự thực!
Thành thực mà nói, riêng tôi thì tôi đâm ra hoang mang không còn hiểu ý nghĩ của Trí ra sao nữa . Lái xe đạp hết cả tỉnh táo, đến chỗ rẽ vào đường đi vào nhà, suýt nữa thì tôi cứ lao xe đi thẳng.
Tiếng Trí:
- Theo tôi nghĩ, 1 người đã đủ tài đúc được tiền giả thì không khi nào lại ngây thơ dại dột đến nỗi hớ hênh đem để bừa bãi những tang vật có thể hại mình ngay trong cửa hàng... tại 1 chỗ khơi khơi ai cũng dễ dàng nhìn thấy được như thế! Chưa hết! Còn cái ngăn kéo nữa! Nếu cái ngăn kéo ấy đã được mở từ trước, hừ! Ngăn kéo của 1 cái quầy hàng nằm chình ình giữa nhà như thế, sao không 1 ai trông thấy cả ? Mà lại mãi đến khi có sự hiện diện của 1 ông cảnh sát... cái ngăn kéo mở toang hoác đó mới bị phát giác ?
- Thì chính anh đã phát giác 2 thanh sắt khuôn đúc tiền giả đó chớ còn ai nữa!
- Quả có thế! Tôi không hcối cãi điều đó! Nhưng tôi nghĩ rằng ai đó đã lẹ tay kéo cái ngăn hộc đó ra với 1 chủ ý rõ rệt sau khi đã nhét vào trong đó 2 thanh sắt khuôn đúc tiền kia... để lại người.
Tôi buột miệng la lên:
- Vậy thì ai đã đặt để 2 thanh sắt ác hại kia vào đó ? chắc không phải là anh, tôi hay thằng Bình rồi! Và nếu không phải là ông Danh Điềm thì còn ai vào đây nữa... ngoài tên Sáu Goòng ? Rắc rối nhỉ!
"Sếp" tôi lơ dãng nhắc lại như 1 tiếng vang:
- Ờ! Ngoài Sáu Goòng ra, thì còn ai vào đáo nữa!
- Vậy thì theo ý anh, chúng ta dã làm 1 người vô tội bị tù oan ? - Miệng hỏi mà lòng tôi xôn xao áy náy vô cùng.
- Không! Hiện thòi ông Danh Điềm chưa bị giam cầm gì hết! Và nếu chúng mình hoạt động tích cực 1 chút, chúng ta sẽ minh oan được cho ông trong ngày xử án . Nhiều việc gấp lắm đó, nghe CT3 . Vậy sáng mai CT3 đến gặp tôi đi, chúng ta sẽ cùng nghiên cứu cặn kẻ vấn đề rồi đặt chương trình hành động, nghe!
Trả lời CT1, giọng tôi yếu sìu:
- À, à! Ngày mai chủ nhật đấy! Chắc tôi bị kẹt quá vì đã chót hứa với ba tôi là sẽ ở nhà ôn lại chương trình toán . Tháng vừa qua điểm toán sụt, ông già la dữ quá!
- Thôi, thôi được, không sao! - Tiếng Trí hơi có vẻ bực mình, - Được rồi! Nếu vậy thì tôi sẽ làm nốt 1 vài công việc dở dang trong "Phòng thí nghiệm". Vậy Chiêm cứ việc ở nhà gạo kỹ toán đi đã . Nhưng nhớ kêu điện thoại dặn anh Ba Đốc nếu có tin gì lạ thì báo gấp cho tụi mình, nghe!
Tối hôm đó, về đi ngủ, tôi trằn trọc mãi không nhắm mắt được . Trong đầu cứ vẩn lên ý nghĩ ray rứt là đã vì tụi mình mà 1 người bị tù tội oan uổng . Thêm nữa, trong Thánh Kinh cũng có lời răn: "Con sẽ không bao giờ làm chúng gian cho ai cả" lại càng làm tôi ân hận không cùng.
Ba má tôi đã tới ăn cỗ tại nhà 1 người bạn của các cụ . Chị An thì lại đi họp với Ban Kịch của chị . Ở nhà còn mỗi 1 mình tôi . Cả 1 ngày dài với quyển sách toán dầy cộm, trông ngại quá.
Ngồi tại bàn kê sát cửa sổ, quyển sách mở rộng trước mặt, tôi vùi đầu vào mớ định lý và công thức đại số . Để có thể tập trung tư tưởng đặng học mau thuộc, tôi xây lưng ra phía cửa sổ để khỏi bị cảnh vật bên ngoài làm xao lãng trí óc . Đột nhiên, 1 cảm giác lạ lùng và nhột nhạt như bò trường theo dọc sống lưng khiến tôi chợt nghĩ: "Có ai đang rình tôi thì phải!" Đồng thời tôi cảm thấy 1 đôi mắt lạ như đang rờ mó vào từng đốt xương sống lưng . Rờ mó tới đâu, xương tôi như biến thành nước đá tới đó . Trong gian nhà rộng chỉ có mỗi mình tôi, ngoài ra không còn 1 người thứ 2 nào . Vậy thì đôi mắt rình rập đó không thể là từ phía trong nhà . Tất nhiên phải là từ phía ngoài vườn, qua ô kính cửa sổ . Bất thình lình và nhanh như chớp, tôi quay ngoắt lại... suýt nữa thì ngất xỉu luôn: Sau lưng tôi, qua khung cử sổ, 1 cái gì vừa cục cựa và biến mất tăm không đầy 1 giây đồng hồ, không nhìn rõ được đó là cái gì: 1 bộ mặt người, 1 cái bàn tay, 1 món vũ khí... không biết được . Nhưng có điều chắc chắn là tôi đã thoáng trông thấy "1 cái gì".
Thu hết can đảm, tôi ngó nhanh qua cửa sổ . Tàng cây, bãi cỏ còn ướt đầm . Hơi sương sớm bao phủ cảnh vật trong 1 bức màn hư ảo . Có vậy thôi! Tuyệt nhiên chẳng có 1 cái gì khác thường! Tôi tự nhủ: chắc mình trằn trọc khó ngủ sáng ra mệt mỏi lại gầm đầu vào sách liền tù tì hơn 1 tiếng đồng hồ đến nỗi mắt hoa, trông gà hóa cuốc, chứ thực ra đâu có cái gì . Mạch máu lại bắt đầu lưu thông đều hòa . Nhưng đúng lúc đó, tôi chợt thấy rõ ràng 1 bóng đen chuyển động đằng sau gốc 1 cây bàng lớn trong vườn . Cơn sợ hãi lại choàng xuống toàn thân tôi như 1 màng lưới khổng lồ.
- Quái thật! Ai lại lọt vào vườn nhà tôi làm gì vậy không biết, và có ý theo rình tôi với mục đích gì đây ?
Nhưng dù thế nào đi nữa thì kẻ đang rình rập tôi kia nhất định là có 1 chủ ý không tốt lành gì . Nếu không thì tại sao lại lẩn lút bí mật như vậy . A, mà y có võ khí không nữa ? Biết đâu y lại chẳng đang chĩa súng nhắm tôi, sắp sửa lẩy cò ?
Sợ quá hóa liều, tôi lao mình chạy vào phòng trong luồn cửa sau, chui qua rào sang nhà bác Cả tôi, vồ lấy máy điện thoại . Tay run quá làm ống điện thoại vuột đi lăn lốp cốp xuống sàn nhà gạch bông, suýt nữa thì bể nát vụn . Nhưng rốt cuộc tôi cũng vớ lại được và quay số gọi cho Trí.
May quá! Đúng như lòng thầm mong ước, "sếp" lên tiếng ở đầu giây . Tiếng tôi nói nghe lắp bắp:
- Trí hả!... Có 1 người đang rình tôi trong vườn! Không nhận ra là ai... nhưng chắc chắn y có ý hại tôi đó . Tính sao bây giờ, Trí ?
- Bình tĩnh chút đi CT3! Bình tĩnh nói lại rõ rệt tôi nghe!
- Thì nói rồi đó! - Tôi gầm như hét lên . - Tên gian rình tôi chớ có rình anh đâu mà anh lo, phải không ? - Thôi! tôi chạy đi, nghe, nếu không, nó tấn công thì biết làm sao ?
CT1 chợt nghiêm giọng lại, ra lệnh:
- Chớ! Chớ! Chớ có rời khỏi nhà đó nghe! Nhất định phải là 1 tên trong bọn gian làm bạc giả chứ không sai! Dò biết được Chiêm là 1 nhân chứng quan trọng trong nội vụ, tụi nó cho người đến để diệt trừ đấy.
Diệt trừ! Trời ơi! Sao "sếp" tôi lại có cái lối nói trấn an người ta lạ lùng như vậy kìa ?
- Nghe rõ đây! Chiêm! Mình chợt có 1 ý kiến hay lắm! Này, gian nhà kho ở cuối vườn nhà Chiêm có đóng khóa không đó ?
- Không! Không khóa! Nhưng anh định bảo tôi chạy trốn vào đấy hả ?
- Không! Tôi không bảo Chiêm trốn vào đó đâu! Hiện đang ở đâu cứ việc ở đó đi! Cứ để nguyên đèn sáng và làm bộ vẫn ngồi học như thường nghe! Làm như chưa biết có người rình mò gì hết! Mình tới liền đấy!
- Trời ơi! Lẹ lên "ông"! Nghe Trí! Lỡ tôi chết ngắt rồi mà anh chưa đến kịp thì sao ?
- Đừng nói tầm bậy, Chiêm! - Dứt lời, Trí cúp máy nghe cái "rốp".
Tôi cũng gác ống nghe, trong lòng nóng như lửa đốt . Nhưng tôi bỗng tỉnh trí lên được 1 chút, từ từ chui rào, lẻn qua cửa về nhà và tiến qua phòng khách.
"Làm như chưa biết gì hết"! Trí nói dễ nghe ghê! Cho nên tôi cứ liếc mắt qua ô cửa sổ và thấy rõ ràng tên gian phi, đang ẩn mình sau 1 lùm cỏ cao, tiếp tục theo dõi cử động của tôi... bằng 1 cái ống nhòm . Rồi bằng cách nào không biết, tôi lại lần tới bàn học quơ quyển sách Toán cầm nơi tay . Mắt nhìn vào trang giấy mà đâu có thấy chữ gì, đầu óc chỉ vẩn lên ý nghĩ: tên gian kia có ý định làm gì tôi đây mà chiếu ống nhòm theo dõi sát sạt vậy ? Và sao mãi Trí chưa tới ?
Gan ruột như lộn phèo lên hết, định nhảy sang nhà chị Trâm vớ điện thoại kêu cảnh sát, đột nhiên tôi nghe có tiếng động nhè nhẹ... từ phía... trong nhà . Không sai! Đúng là tiếng cánh cửa sau phòng ăn thông ra ngoài sân vừa bị ai khép lại nhẹ kêu 1 tiếng "clic". Tôi chồm ngay lên, với lấy bình bông đặt trên cái máy truyền hình "Méo mó có hơn không"! Cái bình bông chẳng ăn nhằm gì nhưng cũng còn hơn là tay không! Đang rón rén nép theo sát tường thì tôi nghe rõ rệt tiếng chân người bước... trong phòng ăn . Cánh cửa thông sang phòng tôi học vẫn khép kín . Tiến sát lại, tôi mím môi giơ cao cái lọ hoa. Rồi nhanh như chớp, tôi xoay quả đấm cửa, hất gót gạt mạnh sang bên, nhẩy xổ vào... liều chết để tự vệ . Tôi muốn ngã xuống, xỉu đi luôn: Trí, "sếp" CT1 của tôi đang đứng sừng sững như cột đồng trụ, đôi mắt nhìn tôi đăm đăm như chế riễu:
- CT3! Chưa chết hả ?
Tôi muốn choảng luôn cái bình bông vào đầu "sếp". Anh đã làm tôi vừa sợ vừa tức muốn chết đi được! Tôi nói nmà như hét lên:
- Anh làm gì mà mãi bây giờ mới tới ? Tôi tưởng không kịp nữa chớ!
- Nói sẽ chứ! Chiêm! Tôi có mặt tại đây từ 10 phút trước rồi còn lúi húi dưới nhà kho mãi mới mò lên đây đó!
- Anh làm cái gì ở dưới nhà kho mới được chứ ?
- Bộ Ở không rồi ngủ dưới đó chắc! Tôi giăng 1 cái bẫy để sập kẻ thích khách anh chơi! - Và Trí đặt 1 chiếc hộp Plastic lên bàn ăn.
- Giăng bẫy bắt tên gian ? Bằng cái đó ?
- Chứ còn gì nữa! Bình tĩnh chút đi! Tôi giảng cho CT3 nghe! Đây là bộ phận phát thanh của máy radio, tôi làm lấy từ lâu vẫn cất đi để dành . Đây là "ăng-ten"! Khi lọt vào nhà kho trong vườn của Chiêm, tôi đã lén đặt 1 bộ phận thâu thanh kèm theo cả ống khuếch đại, chạy bằng pile, ở dưới sàn gỗ rồi.
Dứt lời, Trí kéo dài ăng-ten, móc túi ra 1 cái micro nhỏ đoạn đặt vào trong hộp plastic . Trí giải thích tiếp:
- Khi nói vào cái micro này, lập tức âm thanh truyền ngay vào bộ phận thâu đặt dưới nhà kho!
Càng nghe Trí giải thích, tôi càng mù tịt chẳng hiểu 2 cái bộ phận phát thanh này thì ăn nhậu gì đến chuyện vây bắt kẻ gian phi . Tôi nhếch môi cười, hỏi Trí:
- Lạ quá! Sao tôi vẫn chưa hiểu cái đồ nghề này của anh sẽ giúp chúng ta bắt thằng gian phi kia cách nào ?
- Đây nhé! Chút nữa đây chúng ta sẽ nói vào cái micro tí xíu này . Tên gian phi đang núp ngoài kia sẽ nghe được cuộc đối thoại của chúng ta . Nhưng có điều đặc biệt là, tuy chúng mình đứng đây nói chuyện... mọi âm thanh lại sẽ từ dưới nhà kho cuối vườn kia... bay vào tai tên gian nhờ bộ phận tiếp nhận có kèm theo ống khuếch đại . Tất nhiên nó phải sáp tới gần nhà kho để nghe cho rõ... Thế là chúng ta chỉ việc đột kích từ phía sau lung là thộp được cổ nó chắc chắn! Bây giờ Chiêm chắc đã hiểu rõ ?
"Sếp" đã giải thích thì còn gì mà không hiểu . Chúng tôi tắt hết đèn tối om:
- Để tên gian khỏi nhìn thấy Chiêm, cho đến khi nó nghe chúng ta nói léo xéo trong nhà kho!
2 anh em đi vào trong nhà bếp ngay bên cánh trái phòng khách, tiến sát phía cửa sổ, bộ phận phát thanh đặt trên bàn bếp, giữa 2 người.
Trí rỉ khẽ vào tai tôi:
- Tôi thấy nó rồi! Nó đang chiếu ống nhòm tìm kiếm Chiêm đó . Bây giờ cẩn thận nghe! Tôi cắm micro đây này! Đoạn chúng ta bắt đầu "vở kịch đối thoại" về cái vụ đồng tiền giả đó, nghe! Nói hươu hỏi vượn gì cũng được miễn là có tiếng phát thanh thì thôi, nghe!
- Rồi! Hiểu rồi!
Trí ghé sát micro:
- Ê! Điệp viên CT3 hôm nay tôi đến tìm CT3 1 cách bí mật như thế này để không ai biết được điều chúng ta muốn dấu! Về vấn đề đồng tiền cổ Hy Lạp giả kia còn có nhiều uẩn khúc lắm...
Trí ngưng lại, liếc mắt và chỉ tay vào micro ngầm ra lệnh:
- Nói đi!
Tôi làm ộ nghiêm trọng:
- Đồng ý với "sếp"! Chúng ta phải điều tra cho vụ này, bất kể hậu quả sẽ ra sao!
- Đúng như vậy! Đây chương trình hoạt động của tụi mình ngày mai đây! Trước hết phải truy ra bằng được mấy kẻ tình nghi tại Thủ Đức.
- Sếp muốn nói cái nhà bán đồ lạc soong hay cửa tiệm của ông Danh Điềm ?
Vừa "nói chuyện" 2 đứa tôi vừa đưa mắt ngó ra vườn: qua hơi sương đục, 1 bóng người hướng về phía nhà kho, đang đặt những bước chân rón rén... Thật đúng như mọi điều CT1 đã tiên liệu: tên gian phi nghe lọt cuộc bàn soạn của chúng tôi vẳng ra từ phía nhà kho đang cố sáp lại thật gần để nghe cho rõ . Tiếng Trí vẫn điều điều:
- CT3, bây giờ cố gắng nhớ lấy điều bí mật này nghe!
Rồi vẫy tay ra hiệu bảo tôi theo sau, Trí đi nhón gót tiến ra cửa bếp thông ra sân:
- Đây chương trình hoạt động của chúng mình là thế này...
Đột nhiên anh hạ thấp giọng nói, sầm sì những tiếng gì nghe không rõ, đoạn, nhẹ tay đặt chiếc micro nhỏ lên mặt bàn, rồi nhón gót rời khỏi căn bếp . Tôi cũng vội vã theo chân Trí . Ra tới ngoài sân, chúng tôi trông thấy rõ ràng tên gian đang ngồi chồm hổm dựa vào vách nhà kho, chăm chú ngó vào trong . Chắc hẳn nó đang nín thở nghe ngóng . Màn lưới sắp sửa buông sụp xuống mà nó không hay biết gì hết! Qua màn sương mờ mờ như hơi nước, khó mà ước lượng được tầm vóc nó cao lớn hay bé nhỏ, gầy béo thế nào . Tim tôi đập thình thịch như trống làng . Còn đang phân vân chưa quyết, đột nhiên Trí hích khẽ khuỷu tay vào hông, nhẹ hất đầu ra lệnh tấn công! 2 đứa chúng tôi lao chạy vun vút qua sân, xáp đến gần tên gian... và nhảy chồm tới ! Đúng lúc đó, y thấy động, quay lại . Muộn rồi! Chúng tôi đã ôm choàng lấy nó, giữ thật chặt.
Tên gian phi bé nhỏ mảnh mai nhưng có sức mạnh bằng 4 người hợp lại . Nó vùng vẫy khỏe như 1 con sư tử con và quất 1 cú thật lẹ trúng ngực Trí khiến anh ngã lộn xuống đất . Trí hét lên:
- Giữ chặt lấy nó! Giữ chặt nó cho tôi, Chiêm!
Nhưng dù tôi đã nghiến răng ôm chặt, tên gian vẫn vùng vãy vuột ra được và lao đầu chạy như tên bắn qua bãi cỏ . Thế là nó chạy thoát rồi! Ủa! Đột nhiên tôi thấy nó ngã chúi xuống, lộn đi 1 vòng rồi nằm bẹp rí trên cỏ . Thì ra, 1 cái rễ cây bàng lớn trồi cao trên mặt đất đã cản chân, làm tên gian vấp giây mất đà té rụi, không ngóc dậy được nữa . Không để lỡ cơ hội, tôi chồm đến, cưỡi ngay lên lưng . Trí cũng sáp tới tiếp tay . Và lúc đó, 2 anh em mới nhận ra rằng trên gian phi chỉ là 1 thằng nhóc lỏi . Nó hét rầm lên:
- Bỏ tao ra! Bỏ tao ra ngay! Không tao vặn cổ tụi bay hết!
Lập tức, Trí và tôi rời tay tên gian ra . Chúng tôi đã nhận được giọng nói của ai rồi: tên thích khách đã chiếu ống nhòm rình rập tôi, không phải ai khác, mà chính là cô bé Thơ!

Chương 8.
Bất giác Trí và tôi thụt lại 1 bước . Cô bé Thơ trụ thân mình sắp sửa chồm vào đánh 2 đứa . Đúng lúc đó 1 tiếng gọi thất thanh vang lên phía sau lưng:
- Bé Thơ! Thơ!
Đúng là tiếng chị An tôi gọi.
- Ô! Xin chào chị An! - Cô bé Thơ đột ngột cất tiếng chào, rồi 2 tay xoắn vào nhau, cúi mặt nhìn xuống mũi giầy bê bết đất.
Tôi thảng thốt kêu lên:
- Ủa! Quen nhau hả ?
Tiếng chị An:
- Chứ còn gì nữa! Chị biết bé Thơ tại trại hè năm ngoái ở Vũng Tàu kia mà! Thơ là đội viên trong tiểu đội của chị đó! Còn nhớ không, Thơ ? 1 năm qua rồi, chưa được gặp lại . Bây giờ mới được thấy mặt thì lại đang... đánh lộn tưng bừng! Có chuyện gì đó, các em ?
Chết, nguy quá! Thế nào cô bé nghê gớm này cũng sà vào ôm lấy chị tôi kể lể chuyện lôi thôi xảy ra hôm qua tại Thủ Đức thì tụi tôi nguy mất . Lộ bí mật hết trơn còn gì!... Nhưng tôi đã lo hão! Và tôi chưa hểiu bé Thơ nhiều! Không ngờ bé lại là loại con gái đủ can đảm chịu đựng những cái rắc rối riêng tư, không hề mách lẻo cho bất cứ ai biết để cầu cứu.
Cô gái nhỏ ngó chị An tươi cười, nói lảng:
- Có gì đâu chị An! Em đang chiếu ống nhòm đi tìm bắt 2 con chim đẹp của em bay lạc vào đây mà không thấy... Có vậy thôi chị An à!
Tôi giật mình vì câu nói xéo của bé Thơ nhưng vẫn điềm tĩnh... trả đũa:
- Co6 bé lang bang đi vào bờ cỏ vườn nhà mình, chị An à, trên tay khệ nệ cái ống nhòm làm em nghi cô ta rình rập cái gì trong nhà mình, nên em và Trí đã bắt giữ lại đó!
- Thôi được, chị hiểu rồi! Thôi bắt tay giảng hòa đi . Vào tất cả trong bếp này! Chị pha cho mỗi em 1 ly nước ngọt uống . Hà, vui quá! Nhưng tiếc là chị không ở lại lâu được với các em đâu! Ối chà! Đang tập kịch thì chợt thấy quên mất mấy trang phụ bản nên chị phải cấp tốc về lấy . Uống nước đi, 3 em! Và hứa với chị là không lộn xộn nữa, nghe!
Rồi bẹo má bé Thơ 1 cái, quay lại mỉm cười với Trí và tôi, chị nhẹ nhàng bước ra.
Bé Thơ uống cạn ly nước nho, đặt ly và đẩy nhẹ vào giữa bàn:
- Rồi! Giờ đây tôi bảo thẳng cho 2 anh biết: Ba tôi chưa hề thấy mặt 2 cái khuôn đúc tiền quái quỷ đó bao giờ . Mà không hiểu 2 anh moi ở đâu ra vậy không biết ?
Tôi nói ngay:
- Hừ! Có thể là bác nhà chưa từng thấy mấy cái đó thật! Nhưng phải có ai đặt để vào ngăn kéo từ trước thì tụi tui mới lôi ra được chứ! Không lẽ 2 thanh sắt ở đâu rồi tự động "bò" vào nằm sẵn đó ?
Giọng nói bé Thơ chua như dấm:
- Phải! Anh lý luận hay lắm!
Trí quay lại:
- Đừng nói vậy bé Thơ! Chiêm nó nói đúng đó! Vì, nếu không ba bé để 2 cái khuôn vào đó thì ai, ai để ?
Bé Thơ lại nổi giận vì câu hỏi khó trả lời:
- Anh muốn làm khó tôi ? Thì đây, tôi cho anh biết này! Ba tôi làm cái nghề buôn bán tem cổ, tiền cổ này đã từ 20 năm nay rồi chứ không ít đâu, nghe! Và không bao giờ ông chịu làm điều gì gian dối cả! Còn các anh! Các anh hãy còn mới síu siu tuổi đầu mà về vấn đề tiền bạc này sao đã có vẻ thành thạo ghê, há!
Tôi nhịn không nổi nữa:
- Á, à! Vậy ra cô nghi ngờ chúng tôi đấy! Và cố mò đến tận nhà tôi để rình mò do thám đấy, hừ!
- Tôi chỉ muốn tìm hiểu những gì còn mờ ám trong vụ này, và lý do tại sao các anh sốt sắng, hăm hở về việc khám xét bắt bớ ba tôi dữ vậy ? Các anh là... gì mới được chứ ? Các anh làm công việc gì, hay các anh là... thám tử ?
"Sếp" tôi hắng giọng:
- Cô bé Thơ nói đúng! Chúng tôi là thám tử tư!
Con nhỏ nheo nheo cái mũi, ánh mắt nghi ngờ:
- Thôi đi! Xạo!
Trí liền chạy xuống nhà kho lôi cái đồ nghề truyền âm cùng cái máy phát âm, cái micro tí xíu cho bé Thơ coi, đồng thời anh kể 1 lô những dụng cụ khoa học như kính hiển vi... cho cô bé nghe . Lúc này nét mặt con nhỏ đổi khác hẳn, vui vẻ rạng rỡ:
- Vậy ra các anh là thám tử tư thiệt hả ? Nhưng vì sao các anh lại mò đến tận nhà tôi lận ?
CT1 liền kể lại nội vụ từ đầu cho tới lúc phát giác được 2 cái khuôn đúc tiền giả trong cửa tiệm của ông Danh Điềm, ba cô, cho cô nghe.
Bé Thơ lẩm bẩm:
- Những khuôn đúc tiền giả! Hừ! Chắc các anh chưa hiểu được nỗi khổ của cha con tôi khi thấy các anh moi ra từ trong hộc quầy 2 các khuôn ác hại ấy!
Trí nói ngay:
- Chúng tôi cũng rất ân hận, cô Thơ à! Nhưng chúng tôi chỉ làm việc theo bổn phận.
Bé Thơ bất giác đưa tay lên chùi mắt . Giọng nó nghẹn ngào:
- Tôi vẫn biết khóc là hèn, là xấu lắm, nhưng thật tình tôi lo cho ba tôi quá, trời ơi!
Thế rồi bé Thơ kể lể cho 2 đứa tôi nghe chuyện gia đình của bé! Má bé đã mất đi được 3 năm rồi . Và từ ngày đó, ông Danh Điềm đâm ra mắc bệnh đau tim khá nặng . Bác sĩ đã căn dặn phải hết sức tránh cho ba bé mọi sự xúc động, mọi lo lắng ưu tư . Nếu không, hậu quả sẽ có thể vô cùng tai hại . Rồi cô bé kế luận:
- Như các anh thấy đó, chuyện rắc rối tự đâu đem tới này rồi sẽ hành cơn bệnh ông ra sao ? Còn ai dám tới mua đồ nhà tôi nữa ? Cha con tôi sẽ nghèo khổ, sạt nghiệp! Trời ơi! Không biết kẻ nào đã manh tâm gian ác đem liệng 2 cái thanh sắt ác hại đó vào ngăn kéo nhà tôi ? Không thể đoán biết kẻ đó là ai, tôi muốn phát điên lên được đó!
Trí sốt sắng:
- Muốn thế, chỉ còn cách là giao phó việc khám phá cho những nhà chuyên môn thì có thể hy vọng!
Tôi phụ họa theo:
- Những nhà chuyên môn theo dõi kẻ gian, thân thập mọi dấu vết khả nghi... để truy ra thủ phạm.
Bé Thơ đột ngột reo lên:
- Nếu vậy thì tôi có thể nhờ các anh, vì các anh là thám tử mà! - Cô bé bỗng đỏ ửng mặt: "Miễn là... miễn là các anh đừng đòi 1 giá tiền quá cao... "
Trí khoát tay:
- Thôi! Khoan nói đến chuyện tiền nong trả công cho thám tử vội! Chúng tôi chỉ cần ba bé Thơ chia cho anh em tôi 1 số lợi tức 1 khi công việc buôn bán của bác lại hoạt động đều hòa, lời lãi thu vào kha khá như trước . Vậy thôi!
Đôi mắt cô bé loáng lên 1 ánh vui mừng:
- Nếu vậy thì hay quá! Vậy thì chắc chắn ba tôi sẽ trút được gánh nặng lo âu nếu hay được tin này...
Trí vội vã ngắt lời bé Thơ:
- Ấy, ấy! Không được đâu! Chớ nói hở cho bác biết 1 tí gì về v. này, vì 2 đứa tôi hoạt động rất bí mật . Ngoài bé Thơ ra, nếu có người nào nữa hay được, thì cuộc điều tra sẽ hư hết đó!
- Thôi được! Tôi hiểu rồi! Ý anh muốn là tôi phải hết sức giữ bí mật về hoạt động của các anh, ngay cả với ba tôi, tôi cũng không được thố lộ, phải không ? Nhưng liệu việc điều tra kéo dài chừng bao lâu ?
- Cái đó còn tùy nhiều trường hợp chứ! Chưa thể nói chắc được! Có nhiều điểm cần phải điều tra tìm hiểu ngay . Ví dụ như sự việc tên Sáu Goòng đem bán đồng tiền cổ mà chịu lỗ 500 đồng bạc chẳng hạn!
Tôi hí hửng đưa ra 1 nhận xét để bé Thơ phải phục sát đất:
- Có gì mà phải điều tra tìm hiểu cái điểm đó ? Sáu Goòng túng tiền thì chịu bán lỗ . Có vậy thôi! Mà chính ông ta cũng đã nói ra miệng như vậy mà!
Trí mỉm 1 nụ cười:
- Ờ há! Thế rồi su khi bán lỗ cho thằng Bình, 8 ngày sau, Sáu Goòng lại còn có tiền trả lại 2 ngàn đồng cho thằng nhỏ . Và như chúng ta đã thấy, khi lấy tiền trả lại cho Bình, Sáu Goòng đã móc ra 1 bó bạc bự toàn giấy 500 xanh . Như vậy mà Chiêm dám bảo là lão Sáu... kẹt tiền đó, hả ?
Quả tình tôi đã quên bẵng mất chi tiết đó . Đúng! Tay Sáu Goòng thật ra không nghèo và không bị kẹt tiền 1 ly nào hết.
Trí tiếp tục:
- Chưa hết! Còn 1 điểm này nữa! Khi chúng mình đem đồng tiền cổ đến trả và cho y biết rằng đó chỉ là 1 đồng tiền giả, rõ ràng là y không hề để ý xem xét coi đồng tiền đó có giả thiệt không, hay là chúng mình nói láo . Thử gặp bác Danh Điềm coi, bác sẽ săm soi bằng kính hiển vi thật cẩn thận rồi mới quyết đoán lời chúng ta nói là đúng hay sai . Như vậy chúng ta có thể kết luận rằng: "Khi thấy tụi mình đem đồng tiền cổ đến nhà trả lại lão, lão đã biết trước là đồng tiền ấy... giả!
Tiếng bé Thơ:
- Nhưng còn 2 cái khuôn đúc kia, mà các anh lôi từ ngăn kéo nhà tôi ra đó! Giải thích ra sao ? Đó là điều làm cho ba tôi đau buồn nhất đấy!
- Tôi đã thảo luận kỹ với "vị phụ tá" của tôi đây và chúng tôi đều đồng ý ở 1 điểm là: 2 cái khuôn đúc đó đã được ai để sẵn vào đấy với dụng ý khiến cho mọi người chỉa mũi nhọn nghi ngờ vào ba cô.
Mặt bé Thơ cau lại:
- Nhưng ba tôi có bị người nào thù ghét bao giờ ? Vậy mà ai lại nỡ làm cái việc hại người ghê gớm đó ?
- Hừ, ai ? Thì tất cả vấn đề là ở đó! Là ở cái chữ "ai" đó! Tìm được câu trả lời thỏa đáng cho chữ "ai" đó là 1 bài toán khó coi như đã tìm thấy đáp số!
Đột nhiên Trí đứng lên, tiến ra cửa:
- Thôi, xin lỗi tất cả nghe, tôi phải trở về làm nốt mấy cái hình chụp bằng ánh sáng đỏ đây . CT3! Ngày mai 10 giờ đến gặp tôi tại "tổng hành dinh" nghe!
Bé Thơ gọi to:
- Ấy, chút xíu đã anh Trí! Này, công việc diễn tiến tới đâu, làm so tôi biết được, anh ?
Trí quay mặt lại . Lời đáp của anh có 1 giọng rất nhà nghề:
- "Thân chủ" của chúng tôi ai ai cũng nhận được báo cáo hàng ngày . Cô có thể yên trí là sẽ nhận được tin tức đều đều mỗi ngày về hoạt động của hãng chúng tôi.
Bé Thơ hăm hở:
- Tôi có thể phụ với các anh 1 tay trong cuộc điều tra này ? Tôi đã đọc nhiều truyện trinh thám cho nên tin rằng sẽ giúp sức được.
Trí nhẹ nhún vai và... tôi cũng bắt chước anh . Giọng nói của "sếp" lại đầy vẻ trịnh trọng:
- Cô cứ để vụ này cho chúng tôi lo!
Tôi vội vã thêm:
- Vì nó có thể nguy hiểm cho những ai không chuyên môn!
Bé Thơ xịu mặt:
- Thôi được! Nhưng nếu có cái gì cần đến, các anh cứ cho biết ngay, tôi sẽ sẵn sàng tiếp tay với các anh.
Dứt lời, cô bé lủi thủi ra về . Trí cũng nhẩy lên xe đạp . Trước khi đạp vút đi, anh dặn tôi:
- Ngày mai, 10 giờ nghe Chiêm! Đến đúng giờ đấy! Chúng mình sẽ đi Thủ Đức, tới nhà Sáu Goòng . Hà! Cái cửa tiệm lạc soong của ông ta đã làm tôi "khoái" rồi đó! Đi ngủ sớm đi, nghe! E có dịp cần đến sức mạnh nhiều đấy!
Nghe dứt lời Trí nói, bất giác tôi cảm thấy 2 cánh tay sởn da gà và tóc trên đầu như dựng đứng cả lên . Lý do: trong trí nhớ vừa hiện lên ánh mắt dữ dội của Sáu Goòng lúc ở Biện lý cuộc đi ra .

Chương 9
Sáng hôm sau, khi thức giấc, tôi cảm thấy lo lắng vô cùng, nhưng cũng cố làm ra vẻ vui tươi lúc ngồi vào bàn ăn sáng . Rồi sau khi chạy loanh quanh mua cho má tôi ít đồ vặt vãnh, tôi xách xe đạp lỉnh thật lẹ, phóng đến nhà Trí . 2 anh em lập tức lên đường.
Qua khỏi cầu Bình Lợi, tôi cho xe sáp gần xe Trí . Đoạn đánh liều nói cho Trí biết niềm lo ngại vẫn nặng trĩu trong lòng:
- Đến chạm trán với tay Sáu Goòng này, tôi thấy có vẻ hơi nguy hiểm đấy nhé! Cha ấy dám thẳng tay xơi tái anh em mình nếu mình chọc giận hắn, chứ không giỡn đâu!
Trí thản nhiên:
- Nguy hiểm đứt đi rồi chứ còn "hơi hơi" gì nữa! Nhưng nghề nghiệp của chúng ta là thế! Mình có bổn phận phải điều tra tìm hiểu thật kỹ về tay Sáu Goòng này, dù nguy hiểm tới đâu cũng kệ!
- Nhưng tới nơi rồi, tụi mình sẽ làm cái gì đây ? Không lẽ cứ đứng sừng sững trước cửa tiệm của lão ta rồi ngó qua cửa khính là thôi sao ?
- Tôi biết nàh Sáu Goòng có 1 cửa đi lối sau nữa! -- Trí chỉ tay về phía bên mặt: -- Đó con hẻm này ăn vào cửa sau nhà Sáu Goòng! Bây giờ tụi mình xuống xe bên góc cái tường kia đoạn vòng về mặt trước nhà ông ta cho khỏi bị ai để ý, đi!
Nhưng đúng lúc 2 anh em sắp đi hết con hẻm để vòng ra cửa trước thì chợt tôi có cảm giác như đã bị có người theo dõi . Quả nhiên dấn thêm vài bước nữa, tôi và Trí đã đụng đầu với... bé Thơ . Con nhỏ ngó tụi tôi cười toe toét:
- Ê! Chào các bồ! Tôi đã thấy các anh dựng xe đạp ở góc tường đàng kia rồi! Các anh đến khu vực này làm gì đây ?
Trí hơi sửng sốt:
- Khu vực này ? Tại sao bé lại biết tụi tôi đến: "khu vực này"?
Bé Thơ giọng tự đắc:
- Dễ ợt! Trong truyện trinh thám nào cũng vậy! Cuộc điều tra bao giờ cũng bắt đầu từ kẻ bị tình nghi số 1 . Mà ai là kẻ tình nghi số 1, ngoài lão Sáu Goòng ? Đó anh thấy chưa! Tôi cũng biết phân tích chớ bộ!
Tôi bực mình ra mặt . Đang trên đường thi hành 1 sứ mạng khá nguy hiểm, bỗng nhiên con bé rắc rối này nhẩy vào bám theo như 1 cái đuôi nhằng nhẵng . Định nổi xung lên thì Trí đã giơ tay ngăn lại:
- Bé Thơ nói đúng đó, Chiêm! Bé Thơ có thể giúp được chúng ta nhiều lắm . Này bé, bé biết rõ khu vực này ?
- Dĩ nhiên! Tôi ở với ba tôi ở đây lâu rồi!
- Vậy bé Thơ có biết 1 ngõ ngách nào ăn thông tới gian hàng bán đồi lạc soong của lão Sáu Goòng không ? Ngõ ngách kín đáo không ai biết cơ!
Bé Thơ thần mặt ra suy nghĩ tới gần 1 phút rồi đột nhiên miệng tươi hẳn lên với tiếng reo khẽ:
- Rồi, có rồi! Theo tôi mau lên!
Lạ quá! Bé tThơ lại dắt tụi tôi đi theo hướng ngược chiều với tiệm Sáu Goòng . Bất giác tôi liếc nhanh Trí tỏ vẻ lo ngại... Nhưng chúng tôi đã lo hão huyền . Bé Thơ sau khi dẫn chúng tôi đi quanh khu vực gần hết 1 vòng, cuối cùng lách vào 1 lối chỉ vừa 1 người đi lọt, bước chừng 20 bước, chúng tôi đã đứng trước 1 bãi đổ rác ăn thông sang 1 con hẻm khác . Từ bãi rác ngập ngụa những mảnh chiếu rách, thùng cát tông nát, cách chừng 6, 7 thước... là mặt sau của 1 dãy nhà.
Bé Thơ dừng chân nói sẽ sẽ:
- Đây rồi!
Tay bé Thơ chỉ vào 1 bức tường loang lổ kế bên 1 dãy nhiều bức tường khác nhỏ thấp hơn . Mặt sau dãy nhà này, đều có cửa ra vào . Đưa nhanh tia mắt nhìn Trí, tôi thấy anh mừng rỡ ra mặt . Theo tia nhìn đăm đăm của anh, tôi nhận thấy căn nhà Sáu Goòng cách gian nhà hàng xóm 1 lối đi chừng 1 thước . Tường có trổ 1 cửa sổ trông ra lối đi . Qua khuôn cửa sổ, ánh sáng rọi vào soi rõ căn phòng phía sau cửa tiệm của lão.
Trí giơ tay làm hiệu bảo chúng tôi cứ đứng nguyên tại chỗ . Đoạn nhón gót, anh rón rén bước lại gần ô cửa sổ . Nhẹ nhàng như 1 con mèo rình chuột, Trí thận trọng ghé đầu dõi mắt qua khung kính . Đột nhiên tôi thấy anh lắc đầu tỏ vẻ bực mình, rồi đưa nhanh bàn tay xoa xoa cho sạch bụi, đoạn kề sát mũi vào ô kính . Thời gian Trí dòm vào không biết được mấy phút, nhưng riêng tôi, tôi có cảm tưởng như cuộc quan sát của anh đã kéo tới mấy tiếng đồng hồ . Nhưng kìa, Trí đang giơ vẫy tôi . Lập tức cúi khom người, tôi nhón gót lao nhanh tới , trống ngực đập thình thịch vì chắc rằng "sếp" đã ngó thấy 1 cái gì rồi . Mắt nhìn tôi, Trí chỉ chỉ ngón tay ra hiệu cho tôi nhìn vào trong nhà . Mặt kính phía trong cũng bám đầy bụi nhưng vẫn trông suốt qua được . Tôi đã đoán đúng: ô cửa sổ là của căn phòng phía sau mặt hàng đằng trước cửa Sáu Goòng . Gian phòng trong này cũng bẩn thỉu bề bộn như gian phòng phía ngoài . Đột nhiên tôi giật thót mình: trước mắt tôi, Sáu Goòng ngồi lù lù, may quá lão lại xây lưng lại phía tụi tôi đứng . Lão ngồi bên cái bục thợ mộc và đang gõ búa xuống 1 cái gì đó mà vì tảng lưng đồ sộ của lão che lấp, chúng tôi không nhận ra là cái gì . Thỉnh thoảng lão lại ngưng tay búa, giơ tay với lấy cái gì trông như 1 cái kéo cắt sắt . Bỗng lão hơi quay nghiêng cái đầu . Trên mắt bên trái Sáu Goòng đeo kính 1 cái kính "lúp" ống đen, loại kính lúp thợ đồng hồ vẫn dùng để coi máy và các bánh xe nhỏ tí xíu . Rõ ràng là lão đang chăm chú làm 1 cái gì đó tỉ mỉ lắm.
- Ấy ơi! Ấy ơi! -- Bé Thơ kéo áo sau lưng tôi, -- Cho tôi ngó vào coi chút!
Tôi hất tay bé Thơ ra . Cái con bé này bực thật! Cứ chồm chồm lên thôi . Quay lại trừng mắt để cô bé thôi đi, đến lúc quay nhìn vào, suýt nữa tôi buột miệng kêu lên 1 tiếng: Sáu Goòng bỗng nhiên ngưng tay, không làm việc nữa . Tôi sợ cứng người tưởng ông ta đã nghe tiếng tụi tôi nói rồi . Nhưng, may quá, không phải! Sáu Goòng đưa mắt ngó ra nhà ngoài . Rồi đột nhiên, bỏ chiếc lúp xuống và... biến mất.
Vội vàng ngồi thụp xuống, tôi gọi Trí:
- Ê! Lão ta biến đâu mất rồi . Không trông thấy đâu nữa!
Trí sáp lại nhìn qua ô kính:
- Kia, kia! Mình lại thấy ông ta rồi . Ở bậc cửa nhà ngoài đó! Ông ta đang đứng với 1 người nào đó... 1 người phu trạm thì phải! Á, á! Người phu trạm đưa cho lão 1 gói gì kìa!
Nôn nóng, tôi giơ tay chùi sạch 1 ô kính khác để lấy chỗ nhìn . A, đúng rồi, lão Sáu Goòng cầm 1 gói gì không lớn lắm trong tay . Đi vào nhà trong, lão để rơi cái gói lên bục thợ mộc nghe đánh bịch 1 tiếng! Cái gói có vẻ nặng! Không biết bên trong là cái gì ? Tôi thầm mong lão mở gói, nhưng Sáu Goòng chỉ giơ tay tháo bỏ chiếc yếm da dài khoác ngaoài khi làm việc . Rồi lão mặc 1 chiếc áo "vét", quơ tay cầm cái gói, đoạn tiến ra phía cửa trước.
Trí đứng thẳng người lên:
- Lão Sáu đi rồi!
Bé Thơ chợt nói to:
- Làm sao bây giờ đây ? Lão ấy đi rồi, làm sao tụi mình còn dò xét được nữa, hả ?
Dứt lời, cô bé rắn mắt đã lao người chạy vút đi vào con đường hẻm dẫn ra đường Gò Gốm . Trí và tôi giơ tay chặn lại mà không kịp . Tiếng nói chua như chanh vẳng lại theo hơi gió:
- 2 anh chờ tôi ở đây, nghe! Để tôi chạy xem lão Sáu đi đâu!
Trí hét lên:
- Bé Thơi, quay lại lập tức, mau! -- Nhưng trễ rồi! -- Trí vò đầu bức tai: "Lạy trời cho Sáu Goòng đừng bắt gặp bé Thơ!"
Nhưng mới 2 phút sau, tuy chưa thấy mặt, Trí và tôi biết ngay là bé Thơ đã quay trở lại... nhờ ở tiếng loảng xoảng của 1 cái thùng rác bị xô trúng đổ lăn kềnh! con gái con đứa gì mà "đầu bò" hơn con trai khiếp quá!
Tôi chưa kịp tặng cô bé câu mắng vốn như trên, bé Thơ đã vùng vằng nói như muốn khóc:
- Lão... lão lên xe mất tiêu rồi! Lúc lão mở cửa bước vào xe thì tôi mới chạy đến đầu phố! Khổ ghê! Sao mấy anh không chạy theo tôi chứ ? Nếu không, chúng mình đã nhẩy lên xe đạp theo hút được lão rồi!
Trí cắt ngang:
- Thôi! Bình tĩnh lại đi, bé Thơ! Sáu Goòng đi khỏi lại càng là 1 dịp tốt!
Tôi nín thở, chẳng hiểu Trí nói như vậy là có ý gì:
- Nhưng Sáu Goòng đi rồi, thì chúng mình dò xét ai bây giờ đây ?
Trí trừng mắt ngó tôi, gằn từng tiếng một:
- Chẳng dò xét ai cả! Chúng ta bắt đầu giai đoạn 2 của cuộc điều tra: khám xét gian hàng "lạc soong"!
Rồi quay trở lại ô cửa sổ hồi nãy, CT1 đưa tay ấn ấh để cố mở ra.
Tôi phản đối "sếp":
- Trí! Anh định đột nhập vào nhà người ta bằng cách phá cửa ?
- Ở đó nói hoài! Tiếp tôi 1 tay coi nào! Đúng đấy! tôi sẽ mở cái cửa sổ này bằng được, bất chấp hết!
-... Bất chấp hết sao được, chú nhỏ ?...
1 giọng nói trầm trầm từ phía sau lưng làm 3 đứa tôi quay phắt lại: giữa lối đi chưa đầy 1 thước, 1 người đàn ông cao lớn đứng sừng sững.
Chúng tôi bị sa bẫy rồi!

Chương 10
Cả 3 đứa biến thành phỗng đá, không cử động được, hơi thở cũng khó khăn, 3 đôi mắt trợn muốn rách khóe, tia nhìn dính chặt vào người đàn ông đứng chắn đường: ông ta thật cao lớn, thêm to ngang, tóc và râu mép đen nhánh . Miệng ông ngậm 1 điếu xì gà bự, tia mắt, qua làn khói thuốc, ngó chúng tôi đăm đăm . Thời gian mấy phút mà tôi tưởng có tới hàng giờ, ông ta mới lên tiếng hỏi:

- À! Các chú nhỏ! Các chú có thể cho tôi biết các chú lúi húi ở đây làm cái gì thế ?

Riêng tôi sợ quá nên cướng lưỡi đứng im, đầu óc trống trơn . May quá! Trí mau mắn đã lấy lại được bình tĩnh, trả lời:
- Dạ, thưa ông! Chắc ông nghi ngờ chúng tôi định làm cái gì bậy . Nhưng quả thật, bất ngờ bị lạc vào hẻm này, gặp cái cửa sổ đây, chúng tôi thử ngó qua xem may ra có trông thấy 1 lối ra nào khác không.
- Hừ! Chú nhỏ này coi bộ có vẻ tò mò lắm nhỉ! Coi chừng tò mò, tọc mạch có hại hắm đấy, em ơi! Nhưng tôi muốn biết các chú đây là ai ? Nói mau đi!
Trí định trả lời nhưng chưa kịp thì người đàn ông cao lớn đã đưa tay nhấc điếu xì gà bự cắn chặt giữa 2 hàm răng ra chỉ chỉ cái đầu điếu thuốc về phía bé Thơ mà cất tiếng nói như beo gầm:
- Còn con nhó kia! Ha! Ha! Tao biết mày rồi! Mày đúng là con gái Danh Điềm, tên là con bé Thơ, phải không ?
Bé Thơ lính quýnh gật đầu:
- Dạ... à... dạ!
Người đàn ông đáng sợ này lại hỏi:
- Vậy chắc mày cũng biết tao là ai rồi chứ, hả ?
Bé Thơ run bắn lên:
- Dạ biết!... Ông là ông Đặng Lân . Giám Đốc hãng mua bán nhà cửa,... đất đai ạ!
- Đúng đó! Đây ba cái nhà này là của tao hết! Hà! lâu lắm tao mới có dịp đi xem chừng lại coi có cần sửa chữa gì không, và tình cờ thấy mày đang chạy theo sau lão Sáu Goòng lúc lão bước lên xe vừa rồi đó!
Trí liếc mắt nhìn tôi thật nhanh như ngầm bảo: "Chúng mình lo sợ rất đúng".
Người đàn ông vẫn nói với bé Thơ . Giọng nói hơi dịu đi:
- Này, con nhỏ! Cháu chịu khó nói cho bác biết tụi cháu đến đây làm gì, có việc gì ? 2 thằng nhỏ này lạ hoắc, bác không biết chúng nó! Nhưng mày thì biết . Vậy nói đi, bé Thơ!
Tôi cũng lo lắng vô cùng . Chỉ sợ bé Thơ bịa chuyện nói ẩu! Trông bộ dạng cái ông Đặng Lân này thật không dễ gì mà đánh lừa được . Tốt hơn hết là cứ nói đại sự thực ra, nếu không thì trước sau rồi ông ta cũng biết.
Bé Thơ đưa mắt ngầm hỏi ý kiến thì được Trí gật đầu ra hiệu cứ việc nó sự thật . Bé liền hít thở 1 hơi dài, kể lại câu chuyện từ đầu cho tới đoạn ông Danh Điềm bị hàm oan vì cảnh sát bắt được tang vật trong nhà . Tôi hơi ngạc nhiên vì thấy bé Thơ có ý lờ lờ không nói chút gì đến hãng thám tử tư CT2 cả . Người đàn ông có tên là Đặng Lân, từ đầu chí cuối, chỉ im lặng đứng nghe không nói 1 tiếng . Điếu thuốc sì gà lóe đỏ luôn luôn và phun khói mù mịt . Câu chuyện chấm dứt thì mặt ông ta cũng đỏ phừng phừng vì tức giận . Giọng nghẹn ngào, ông cất tiếng:
- Cháu Thơ! Bác về quê mới lên nên chẳng nghe biết 1 chút gì về chuyện này . Bác chỉ biết ba cháu vốn là người làm ăn lương thiện nổi tiếng xưa nay, không bao giờ lại có thể nhúng tay làm cái việc đê hèn đó!
1 lúc sau, tôi mới cho là ông Đặng Lân quả đã tin ở câu chuyện bé Thơ và bất giác tôi thở ra 1 hơi dài nhẹ nhõm . Nhưng, bất thình lình tiếng nói của ông ta lại đầy vẻ đe dọa:
- Nhưng còn các chú bé này! Coi chừng đó! Đừng chơi cái trò dọ thám, trinh sát, nguy hiểm lắm nghe!
Chúng tôi chưa kịp sửng sốt ngạc nhiên, người đàn ông đã tiếp:
- À không! Bây giờ tôi có thể giúp các em cái này! Nguyên là chủ mấy căn nhà này nên tôi có đủ chìa khóa để mở tất cả các cửa . Thế các em có chịu tôi mở cửa căn này (tay ông chỉ căn nhà Sáu Goòng) để các em có thể vào xem xét 1 phen không ? Riêng tôi thì tôi cũng chẳng biết cái ông Sáu Goòng này là ai, tuy ông ta đã thuê nhà tôi được 2 năm rồi đó . Phải, biết dâu, ông ta lại chẳng dính dáng vào cái việc lén lút hại người này . Cùng cần xem lại cẩn thận 1 chút cho chắc ăn!
Vừa nói, Đặng Lân vừa tiến tới gần cửa và móc trong túi ra 1 xâu lớn chìa khóa.
Tôi vui sướng thiệt tình! Được thêm 1 tay đồng minh nữa! Mà lại là 1 đồng minh cỡ lớn!
Chiếc chìa khóa xoay trong ổ . Cánh cửa rít lên ken két . Trí lao vào thì bàn tay hộpháp của ông Đặng Lân đã giơ ra túm áo anh giữ lại:
- Ấy! Ấy! Khoan đã chú bé! Chú cho tôi cái hân hạnh trinh sát trước tiên để có tóm được cái gì thì cho tôi được hưởng công đầu chứ! Tất cả cứ đứng đây chờ tôi nghe ! Có gì... tôi sẽ gọi lớn lên, nghe!
Trí bồn chồn ra mặt khi nghe có tiếng lục lạo phía trong nhà Sáu Goòng.
- Hữ! Không biết cái ông này làm gì trong đó . Coi chừng vô tình làm mất cả dấu vết đi cho coi!
Nhưng rồi ông Đặng Lân cũng trở ra . Vẻ nghiêm trọng hiện rõ trên nét mặt:
- Các em có lý! Quả Sáu Goòng đang làm dở dang 1 cái gì đó trên cái bục thợ mộc ở trong ấy!
Và đột nhiên ông ta phá lên cười, làm tôi ngạc nhiên hết sức . Nếu quả thực Sáu Goòng đang dở làm 1 cái gì đó, mà cái gì đó lại là tiền giả chẳng hạn thì có điểm nào dáng cười đâu nhỉ ? Lạ quá!
Ông Đặng Lân vẫy tay đon đả:
- Vào đi! Vào lẹ đi, các em! Vào mà coi cái mà Sáu Goòng đang làm dở! Vào đi!! -- Đôi vai đầy thịt của ông ta vẫn rung lên vì chuỗi cười sằng sặc.
3 đứa chúng tôi len lỏi đi vào 1 lối đi hẹp và tối, ngổn ngang những thùng lớn cùng những chồng báo cũ . Chõ nào cũng giăng đầy mạng nhện và mọi đồ vật đều bao phủ 1 lớp bụi đầy.
- Vào, vào đi các chú em! Vào gần đi mà coi cho rõ!
Giọng nói ông Đặng Lân nghe có âm điệu vui vui . Lập tức tia nhìn của 3 đứa, không hẹn mà cùng quay nhìn chiếc bục thợ mộc: giữa 1 đống dụng cụ lỉnh kỉnh, lù lù 1 cái đồng hồ to tướng hình con chim lạ.
Trí đứng bên tôi, khi chợt thấy cái đồng hồ, anh khẽ "a" lên 1 tiếng . Tôi thầm nghĩ: "thế là hết cả nghi ngờ, hết cả nhận xét, phân tách với theo dõi . Mọi việc đã đi vào 1 ngõ cụt!" Nhưng xem chừng "sếp" tôi vẫn chưa chịu bỏ cuộc . Anh bảo với ông Lân:
- Để tôi lại gần coi kỹ 1 chút, nghe ông!
Người đàn ông đang đưa mắt châm biếm ngó tụi tôi, khi nghe Trí nói, ông chợt nhíu cặp chân mày 1 cái rất nhanh, rồi lấy lại vẻ tươi cười còn nhanh hơn nữa:
- Cứ việc! Chú cứ việc lại coi cho kỹ đi! Đừng ngại gì hết! Có điều muốn nói là tôi cũng đã lục lọi kỹ lắm rồi đó!
Trí tiến sát lên bục thợ mộc . Đế giày anh siết lên những mảnh kim khí rất nhỏ nghe lạo xạo . Nhìn xuống đất, đôi mắt anh thấy rõ những miếng sắt hay thiếc gì đó vụn nhỏ như hạt chấu vương vãi bừa ra đó . Ông Đặng Lân cũng chợt thấy, nên vội nói:
- À! Tôi cũng quên chưa nói cho các em biết là chỗ đó có nhiều mảnh sắt vụn lắm, coi chừng giẫm phải đứt da chân ạ!
Trí làm như không để ý gì . Anh chỉ sáp lại bên chiếc đồng hồ hình con quái điểu . Rồi anh đưa tay lục lọi đủ mọi đồ vật ngổn ngang quanh đó . Ông Đặng Lân lộ vẻ sốt ruột ra mặt:
- Thôi, liệu lẹ tay lên chút đi, chú em! Đó, có thấy gì lạ đâu, heng!
Giọng ông nói cố làm ra vẻ thản nhiên nhưng nghe vẫn cáu kỉnh thấy rõ, nhất là khi thấy Trí rờ mó xem xét từng món đồ như 1 chút chó săn tinh khôn đánh hơi tìm con mồi trong bụi rậm.
Người đàn ông quay lại nhìn tôi, ánh mắt mỉa mai châm biếm:
- Này! Bồ của chú luôn luôn có cái tật rắc rối như vậy đó hả ?
Ông Đặng Lân này quả có óc nhận xét khá tinh vi . Thái độ và cử chỉ của Trí coi bộ kỳ cục thiệt tình . Nhưng đối với ai kia, chứ tôi thì tôi biết . Tôi biết là mọi chi tiết nhỏ nhặt đã được anh ghi nhớ như in vào bộ Óc thông minh để rồi 1 vài tuần, có khi cả 1 vài tháng sau, anh vẫn có thể mô tả lại từng cái không sai 1 nét.
Trí đứng ngay người lên . Anh lễ phép nói với ông Lân:
- Cám ơn sự tiếp tay của ông rất nhiều!
Không nói 1 tiếng, người đàn ông bảo tụi tôi đi ra, khép cánh cửa khóa lại . Đoạn, ông ta cất tiếng vui vẻ:
- Ồ! Có gì mà cám ơn, chú nhỏ! Giúp được các em 1 tay là tôi thích lắm rồi!
Rồi ông quay lại ngó bé Thơ; lúc này da mặt cô bé tái nhợt, ánh mắt đầy tuyệt vọng:
- Bác rất ái ngại cho hoàn cảnh của ba cháu! Thôi được rồi! Để bác sẽ cố gắng thu xếp việc này cho! Sáu Goòng thuê nhà của bác! Bác sẽ khuyên bảo ông ta rút đơn khiếu nại ba cháu ra! Cứ yên tâm . Đừng lo ngại gì hết, cháu ạ!
Ông Đặng Lân thiệt là 1 người nhân đức!
Tiếng bé Thơ:
- Cháu cám ơn ông nhiều lắm!
- Có gì đâu, cháu Thơ!
3 đứa tôi theo chân ông Đặng Lân đi hết con hẻm ra tới đầu đường Gò Gốm . 1 chiếc xe hơi sơn màu đỏ chót, lộng lẫy, đậu sát lề, gần đầu đường . Người đàn ông tiến lại, mở cửa xe . Trước khi bước lên, ông ngoái đầu lại ngó chúng tôi, giọng nói đầy vẻ ngọt dịu như người cha nói với các con:
- À, này các cháu! Việc các cháu làm là 1 việc nguy hiểm lắm đó nghe . Đừng có dại dột thế nữa nhé! Cũng may hôm nay lại gặp được bác, chớ ai khác bắt gặp là thế nào các cháu cũng bị lôi thôi liền đó! Liệu về mà lo học hành đi! Và nếu có tin tức gì mới lạ về các vụ tiền giả này thì tới cho bác hay liền, nghe! Bác sẽ tìm cách giúp các cháu nhiều nữa!
Ông Đặng Lân tử tế này quả thật là 1 đồng minh quý báu của bọn tôi.
Ông lên xe đi rồi, chúng tôi buồn nản quay về chỗ để xe đạp . Trong 3 đứa, bé Thơ trông có vẻ khổ sở buồn rầu nhất . Đôi môi bé run lên, giọng nói nghe có mùi nước mắt:
- Tôi cứ tin chắc là khi đến nhà Sáu Goòng là thế nào cũng ra được 1 vài dấu vết gì đó có thể gỡ oan cho ba tôi đấy... Bây giờ thì...
Trí vội vã an ủi:
- Đừng nản chí như vậy, bé Thơ! Chúng tôi còn nhiều vấn đề rất đặc biệt về vụ này! Lão Sáu Goòng cũng mới chỉ là 1 vấn đề nhỏ trong cuộc điều tra khám phá mà thôi...
Bé Thơ nở nụ cười gượng:
- Ừ, thôi được! Nhưng các anh cố làm lẹ lên nghe! À, này! Ba tôi đã được ông Biện lý báo cho biết là tuần lễ sau Tòa sẽ đem vụ này ra xử đó!
Dứt lời, cô bé nhảy vút lên xe đạp vút đi, đưa nhanh tay áo lên mắt . Tôi biết cô bé đã lại khóc và có ý dấu không để 2 đứa tôi hay rằng trong lòng bé đang như lửa đốt vì lo lắng cho thân phận của người cha ruột thịt thân yêu.
2 chiếc xe đạp của Trí và tôi lăn bánh song song bên cạnh nhau . Tôi liếc nhanh mắt nhìn anh . Rõ ràng là "sếp" tôi đang mải mê suy nghĩ . Và trong những lúc như thế, tôi biết là anh rất ghét bị quấy rộn, nên cứ để mặc anh tự do . Về đến trước cửa nhà Trí, 2 chiếc xe đạp dừng bánh, tôi hỏi "sếp":
- Sao ? Rồi chúng mình sẽ làm cái gì đây ?
"Sếp" tôi nhẹ nhẹ thở ra:
- Thú thực với Chiêm mình cũng đang suy nghĩ mà chưa biết làm sao đây!... Quả tình lúc nãy mình đã phải làm mặt tỉnh để cho bé Thơ yên lòng đấy! Mình đã hy vọng là mò đến nhà Sáu Goòng thế nào cũng vớ được 1 vài bằng chứng gì có ích kia đấy! Không ngờ, hừ!... Thôi để mình về tiếp tục thí nghiệp mấy cái hình chụp bằng ánh sáng đỏ xem sao đã . Hẹn gặp lại, nghe . Chiêm!
Thế rồi thôi! Trí cũng chẳng hẹn ngày mai hay bữa nào sẽ cùng làm việc nữa!
Tôi thẩn thờ đạp xe về, định tới chiều ăn cơm xong sẽ tới nhà Trí xem có gì lạ không . Giờ đây phải lo chạy 1 vòng đi đưa báo đã . Trong lòng chẳng thấy hứng thú 1 chút nào! Thêm 1 cái bực mình nữa! Lốp xe đằng sau chẳng hiểu sao lại xẹp lép . Thế là tốn mất bao nhiêu thì giờ mới chạy xong tua đưa báo . Khi ở Thủ Đức về thì cả nhà đã ăn xong cơm chiều . Tôi thui thủi ngồi ăn 1 mình dưới nhà bếp, đoạn đi lên nhà trên trình cho ba má biết là tôi đi chơi loanh quanh 1 lát . Mẹ tôi cho biết:
- Chiêm à! Má quên nói cho con là thằng "Chính" có gọi điện thoại cho con hồi 5 giờ chiều đó! Má bảo con mắc đi đưa báo thì nó dặn khi nào về tới phải gọi nó ngay đó!
Gọi ngay! Tôi ngó nhanh lên mặt đồng hồ đeo tay: 8 giờ tối . Vội vàng chạy ù sang nhà bác Cả, tới máy điện thoại, tôi quay con số quen thuộc thân mến . Tức khắc tiếng nói của CT1 đã ong óng ở đầy giây.
- Đến "Tổng Hành Dinh" ngay, CT3! "Phi thuyền CT2 đã bay vào quỹ đạo"!
Đúng rồi! "Sếp" tôi chắc đã tìm ra được 1 cái gì đó! Nếu không, anh đã chẳng dùng câu ám ngữ để thông tin cho tôi! Không kịp lấy xe đạp, tôi ba chân bốn cẳng chạy như bay về phía nhà Trí.

Chương 11
Gần 9 giờ, tôi đã có mặt tại "Tổng Hành Dinh". Vào phòng thí nghiệm tôi thấy Trí dang đi lò cò 1 chân . Nhìn xuống, anh chí còn mang có mỗi 1 chiếc giày . Tôi thở không ra hơi:
- Cái gì lạ vậy ?
- Tới xem này, tới đây, Chiêm!
Anh kéo tôi tới 1 cái bục gỗ, bên trên đặt ống kính hiển vi, ống kính anh đã dùng để soi đồng tiền giả hôm trước . 1 chiếc giày của anh nằm úp sấp trên mặt gương phẳng ngay đầu ống kính.
- Ngó vào đó coi đi, Chiêm! Và nói cho mình biết là Chiêm thấy cái gì lạ!
Theo lời, tôi ngó qua ống kính thì chỉ thấy 1 góc đế giày . Đế giày bằng cao su như trăm ngàn cái đế cao su khác . Á, á... có, có! Tôi đã thấy 1, á, nhiều cái gì là lạ:
- Thấy, thấy! Mình thấy nhiều mảnh kim khí vụn...
- Đúng, đúng là những mảnh thép vụn . Đúng là thép vụn nạo ra từ những... cái lỗ đồ khuôn đúc đồng tiền cổ đó!
Tôi gần như hét lên:
- Trí! Trí! Nhưng mà...
- Đúng đó, Chiêm ơi! Mình đã đạp dính những mảnh thép vụn này tại gian hàng phía sau nhà lão Sáu Goòng đấy . Như vậy nghĩa là khi ngó qua cửa sổ, chúng mình trông thấy lão đúng là lúc lão đang gọt đẽo cái khuôn đúc tiền giả đó . Hà! Tụi mình dò đường đúng rồi đó nghe!
Tôi hứng trí:
- Và trước khi ra đi lão đã cẩn thận cất dấu bộ khuôn đó đi và chỉ bầy biện cái đồng hồ cà khổ đó ra, làm bộ như đang dở sửa chữa cái đồng hồ chỉ đáng vất đi đó . Ha! Lão này cũng quá xá thiệt tình, heng!... Vậy bây giờ tụi mình định tính sao đây ?
- Còn phải tính gì nữa! Chỉ có việc làm lại, lục lọi 1 phen nữa cho thật kỹ lưỡng, chứ không lơ mơ như lần trước đâu!
Bất giác tôi vỗ tay reo:
- À! Ông Đặng Lân! Phải báo cho ông biết tin này mới được . Và chắc chắn ông sẽ giúp cho tụi mình được 1 tay thật ngon lành!
Trí đồng ý:
- Đúng rồi! Sáng mai chúng mình sẽ tìm tới ông Đăng Lân! 9 giờ! 9 giờ sáng mai CT3 phải có mặt tại đây! Chúng mình sẽ lục tìm trong số điện thoại cái danh hiệu "Đặng Lân", mua bán nhà cửa, vườn tược, đất đai là thế nào cũng có.
Chết thật! Bây giờ tôi mới chợt nhớ ra là ông Đặng Lân đã quên không cho tụi tôi địa chỉ! Nhưng Trí, Trí không để sót 1 chi tiếc nào.
Sáng hôm sau, gần 10 giờ, 2 anh em đã tới Thủ Đức . Trí rỉ tai tôi bảo đạp xe né tránh con đường qua nhà bé Thơ . Tôi ngẫm nghĩ muốn bật cười cho cái "tật" quá cẩn thận của anh . Nhưng chỉ mấy phút sau tôi đã thấy rằng cái tật ấy lại là 1 đức tính tốt quá . Đúng lúc chúng tôi lái xe đạp vào con đường tới hãng của ông Đặng Lân thì đột nhiên, Trí tóm chặt lấy cánh tay tôi làm tôi suýt ngã lộn mèo xuống . Tôi bực quá, la lên:
- Ô kìa! Làm gì vậy Trí ? Điên hả ?
Không thèm trả lời 1 tiếng, Trí nhảy mạnh xuống đất, nhướng mắt ra hiệu bảo tôi làm theo anh . 2 đứa chúng tôi dắt xe chạy lại dựng vào góc tường 1 căn nhà cửa đóng . Ngơ ngác tôi chẳng hiểu "sếp" tôi có ý định gì . Nhưng vì tuân hành lệnh của "sếp" đã quen tôi chỉ lặng lẽ làm theo . Trí chạy vút ra 1 con phố nhỏ chạy ngang gần đó, nép sát dãy nhà bên lề và đưa nhanh mắt liếc về phía đầu đường . Tôi tưởng anh bắt gặp bé Thơ và đang cố tránh mặt nó . Nhưng anh đã chỉ tay ra dấu cho tôi nhìn về phía anh vừa ngó . Vừa nhô đầu ra nhìn về phía Trí chỉ, tôi đã lật đật thụt vào thật nhanh, trống ngực dập thình thình: Tôi vừa trông thấy lão Sáu Goòng!
Lão từ đầu phố đi lại, bước chân chậm rãi đặt đều đều trên vỉa hè đối diện, quay đầu ngó vào cửa kính các cửa hàng như quan sát đồ bày trong tủ, kỳ thật lão liếc mắt thật nhanh về phía sau nhu có ý coi xem có người theo dõi không . Tới gần 1 khuôn cửa hẹp, lão chậm bước lại, đảo mắt ngó quanh quất 1 vòng rồi đưa tay xoay quả đấm . Cửa hé mở, lão lẻn vào thật nhanh, biến mất trong căn nhà.
Tôi nhướng đôi mắt ngó Trí:
- Anh nhận thấy lão Sáu có vẻ khả nghi chưa ? Rõ rệt là lão ngại có người biết được lão tới đây đó!
Trí hỏi khẽ:
- Chiêm có đoán được là lão đi đâu đó không ?
- Không!
- CT3! Thử ngó kỹ lại cái coi! Và thử đem hết khả năng quan sát ra xử dụng 1 lần xem sao nào!
Nghe giọng "sếp" đầy vẻ nghiêm trọng, tôi lập tức nhô đầu nhìn kỹ: phía trên cánh cửa lão Sáu vừa mở để lách vào, in rành rành hàng số và chữ: "5278 - đường Bích Câu Thủ Đức". Địa chỉ của hãng mua bán bất động sản Đặng Lân!
Tôi băn khoăn tự hỏi:
- Quái! Lão Sáu Goòng tới hãng Đặng Lân này làm gì nhỉ ? Hay lão đến để trả tiền nhà ?
Trí cau mặt cười khẩy:
- Không có lẽ! Hôm nay mới là ngày 25 tháng Tư dương lịch! Còn quá sớm để trả tiền thuê nhà về tháng Năm, mà quá muộn nếu là tiền thuê về tháng Tư ?
- Á, à! Có lẽ ông Đặng Lân cho gọi lão Sáu đến bảo lão rút đơn khiếu nại ông Danh Điềm ra đó mà! Ông ấy đã chẳng hứa với bé Thơ rồi đó sao ?
Trí lẩm bẩm:
- Ờ! Có thể như thế!... A! Nhưng tại sao lão Sáu lại phải lén lén lút lút như vậy chứ ? Rõ rệt là lão có ý đề phòng sợ người theo dõi mà!
Vừa nói, Trí vừa ngóng cổ nhìn chăm chú căn nhà của ông Đặng Lân . Bỗng anh nói nhanh:
- Ê, Chiêm! Chiêm! Coi kìa! Ngó kỹ giùm cái đi kìa! Lẹ lên!
Tôi cũng nghiêng người ngó theo anh: rõ ràng trên ô cửa sổ tầng lầu, ông Đặng Lân đang kéo kín riđô và thò tay nới sợi dây thả bức mành xuống che kín cái cửa sổ . Trí lẩm bẩm:
- Lạ thật! Sao lại phải hạ mành mành xuống làm gì kìa ? Hướng cửa sổ này làm gì có nắng chiếu vào! Có lẽ ông Đặng Lân này có cái gì không muốn cho người ngoài biết . Nói rõ hơn, ông chủ hãng bất động sản Đặng Lân muốn dấu kín sự hiện diện của Sáu Goòng trong căn phòng ông.
Tôi thì thầm bên tai Trí:
- Chúng mình theo đúng đường con mồi rồi đó, "sếp"!

Chương 12
Rồi lo lắng hỏi tiếp:
- Bây giờ tụi mình phải làm gì đây ?
- Chúng mình phải cố gắng tìm biết bằng được 2 người đó muốn che dấu cái gì . Có lẽ 2 đứa mình phải lao sang bên đó, ghé tai vào lỗ khóa cửa nghe trộm mới được, Chiêm à!
Tôi hoảng hồn:
- Trời! Đột nhập vào đó ? Lỡ bị tụi họ bắt gặp thì sao!
- Không lo! Mành mành và ri- đô cùng buông kín mít thế kia, mình không trông thấy họ, ngược lại, họ cũng không thể ngó thấy tụi mình được . Yên trí! Nào ta lao sang và lẻn vào nhà đó ngay đi, mau Chiêm!
Tôi chạy theo Trí . Anh đưa tay mở cánh cửa, 2 đứa lọt vào . Trí quài tay khép chặt cánh cửa . 2 đứa dừng lại tại chân 1 cầu thang chạy cuốn trôn ốc đưa lên các tầng lầu . Trên tầng lầu thứ nhất, đã trông thấy 1 tấm biển kẻ những hàng chữ lớn:
VĂN-PHÒNG ĐẶNG-LÂN
Cơ-sở Thương-Mãi Bất- Động-Sản.
Ngóng cổ nhìn lên, chúng tôi thấy 1 khuôn cửa lắp kính mở ngay dưới tấm bảng chữ . Nhất định đó là văn phòng của ông Đặng Lân vì có tiếng nói chuyện sầm sì từ bên trong lọt ra . Nghe tiếng người nói chuyện thôi, chớ không thể biết được họ nói gì.
Bên tai tôi vừa vẳng nghe 1 tiếng nói cộc lốc: "Lên" thì Trí đã lao người chạy thật nhanh lên cầu thang . May mắn sao, dọc theo bậc thang bằng gỗ bóng loáng có trải nệm đỏ dầy lắm, nên tiếng bước chân chạy không gây ra tiếng động nào cả.
Tôi lo quá . Bây giờ tụi họ bất thình lình mở cửa đi ra bắt gặp tụi tôi, thì không biết phải làm sao đây!
Trí tiến nhẹ lại trước cửa văn phòng Đặng Lân, ngồi xổm xuống ghé tai nghe ngóng . Tôi lo lắng đưa mắt quan sát chung quanh . Bên hàng ba đối diện cũng có 1 ô cửa lớn lắp kính mờ, bên trên treo 1 tấm bảng kẻ 4 chữ: "Văn phòng cho thuê" . Thật là may mắn cho chúng tôi quá! Không sợ có người từ nơi đó đi ra bất thình lình! Tôi nhón gót nhẩy đến ngồi cùng chỗ với Trí.
Tiếng nói của 2 người đàn ông tuy nghe qua làn cửa kính có khác đi đôi chút, nhưng 2 anh em đã phân biệt được tiếng nào của Sáu Goòng và tiếng nào của Đặng Lân . Hơn nữa, Đặng Lân lại nói rất lớn . Ông ta đang nổi cơn giận dữ vì sao đó, có lẽ thế!
Tôi và Trí lắng tai nghiêng vào lỗ khóa . Quả nhiên, dự đoán của tôi không sai . Đặng Lân đập tay xuống bàn, hầu như hét lên:
- Sáu Goòng! Anh điên thiệt mà! Tôi đã nhiều lần dặn đi dặn lại anh là phải hết sức dè dặt cẩn thận khi xử dụng những đồng tiền giả đó mà! Chỉ chút xíu nữa là cả 1 tổ chức bị tiêu tùng vì 2000 đồng bạc của thằng oắt con đó.
Tiếng Sáu Goòng cố làm lành:
- Thì nói khẽ 1 chút đi anh Đặng Lân, nói khẽ chứ! Quả tình tôi có sơ ý 1 chút!
Đặng Lân vẫn to tiếng:
- Thiếu chút nữa là cả tụi bị "chộp" hết! Hừ! Mà là do tại anh cả! Chưa hết đâu! Thế nào cũng còn nữa à!
- Thì anh không thấy là tôi đã hết sức cố gắng tìm cách đoạt lại đồng tiền giả ấy bằng được sao ? Mong anh nghĩ lại kỹ 1 chút thì anh sẽ thấy lỗi không hoàn toàn do tôi tất cả . Giả thử thằng khỉ con Bình kia không trả lộn cho thằng oắt Chiêm bán báo thì đâu đến nông nỗi . Rồi lúc phòng điện thoại kế bên nhà Ba Đốc, tôi đã chẳng, thiếu chút xíu là đã cướp đoạt được đó thôi!
- À! Sáu Goòng! Anh làm tôi phát bịnh lên mất thôi đó! Cứ động làm chuyện gì là y như hư chuyện đó! Mà tại sao anh lại phải lôi Danh Điềm vào vòng rắc rối là thế nào ?
Sáu Goòng! Hình như cũng có bực mình vì cứ bị Đặng Lân khiển trách mãi . Tiếng "Anh" thân mật lão dùng để kêu Đặng Lân, giây phút này đã được thay thế bằng danh từ "Ông Chủ" trang trọng:
- "Ông chủ" nên nhớ giùm cho là tôi cần phải có 1 đồng tiền cổ thật để làm khuôn mẫu chứ! Vậy thì kiếm ở đâu ra nếu không đến nhà tay chuyên môn buôn bán tiền cổ nổi tiếng như Danh Điềm ? Ông chủ cứ yên trí đi mà! Tôi đã lo đâu vào đó cả . Tôi đã hướng mọi mũi nhọn nghi ngờ vào Danh Điềm . Nói để ông chủ hiểu rõ hơn nữa: chính tôi đã đem 2 cái khuôn đúc tiền cổ giả tới nhà y và thu xếp cho thằng con nhà lão Bích Tâm, tên là gì đây này... à! À! Tên Chính hay Trí gì đó... phát giác ra . Bây giờ thì chúng ta có thể yên trí rồi, ông chủ!
Liếc nhanh mắt ngó Trí, tôi nhận thấy anh có vẻ uất hận ghê gớm vì bị mắc mưu 1 tên "không đáng gì" là Sáu Goòng . Và tên "không đáng gì" này, giờ đây đang khoe khoang thành tích với chủ, yên trí là thế nào cũng được ông chủ ban khen tán thưởng.
Sự thực lại trái ngược hẳn ! Khen đâu chẳng thấy mà chỉ thấy Đặng Lân gầm lên như sấm sét:
- Hả ? Anh tưởng thế! Còn lâu nghe! Còn lâu mới có thể yên trí được! Có ngu như con bò tót mới đi tin là đã có thể yên trí, như anh ấy! Nói có sách, mách có chứng! Đây, tôi dẫn chứng cho anh coi . 2 thằng nhỏ: tên Chiêm bán báo và tên Trí con lão Bích Tâm, tuy oắt tì mà còn khôn bằng vạn anh! Hôm mới rồi đây, tôi bắt gặp tụi nó cùng với con bé Thơ, con gái Danh Điềm đang rình rập quanh cửa tiệm của anh đó .Và chính tôi đã mở cửa cho chúng nó vào nơi anh ở đấy!
Sáu Goòng la lên:
- Ủa! Ông mở cửa cho tụi nó vào nhà tôi ? Kỳ không! Vậy thì cái người ông chủ bảo là ngu như bò tót ấy chắc không phải là tôi rồi!...
Đặng Lân chặn lời lão Sáu, giọng hắn ta đầy vẻ tự đắc:
- Đừng có nóng! Sáu Goòng! Tôi đâu có dại! Tôi mở cửa nhà anh cho chúng vào thật đấy... nhưng lại dành vào trước để xóa hết dấu vết . Đến lúc tụi nó vào thì chỉ phát giác được, trên cái bục thợ mộc của anh, 1 tang chứng rất quý báu: Cái đồng hồ cà cộ hình con chim kỳ quái của anh! Ha! Ha! Tôi đã bắt bồ với tụi nó và giả vờ phẫn nộ vì sự Oan ức của Danh Điềm . Tôi lại còn hứa với tụi nó là sẽ can thiệp để thuyết phục anh rút đơn khiếu nại ra . Tụi cá tép đã dính mồi và nuốt luôn cả lưỡi câu . Giờ đây chúng đã tin tôi hết mình và còn hứa là nếu có tin tức gì lạ sẽ tới cho tôi biết ngay nữa đó!
Tiếp theo câu nói là 1 chuỗi cười ha hả . Trí và tôi thẹn quá không dám nhìn nhau nữa . Nhưng tôi biết chắc là mặt anh cũng như mặt tôi, cả 2 đều đã đỏ như trái gấc chín.
Sáu Goòng khoái trí:
- Ông chủ quá xá thiệt! Đáng mặt xếp sòng!
Rõ rệt, tên Đặng Lân này cũng là 1 người thích được người khác "tưng" . Giọng nói của ông ta vui vẻ thân mật:
- Thôi được! Vậy là yên trí, yên trí rồi!... Thế nào ? Còn cú áp phe bự của tụi mình ra sao ?
Sáu Goòng:
- Tiến triển với đôi hia 7 dậm! Tôi đã hoàn tất gần xong cả 4 cái khuôn . 2 cái của đồng tiền cổ Hy Lạp và 2 cái của đồng cắc 20 bạc Việt Nam... chỉ còn chút xíu trở ngại...
Đặng Lân nôn nóng:
- Cái gì trở ngại ? Anh cho biết còn cái gi trở ngại!
Sáu Goòng vẫn bình tĩnh:
- Trở ngại kỹ thuật chút xíu thôi! Cái nét mặt cô con gái xách bó lúa trên đồng cắc 20 Việt Nam đó, tôi sửa mài, mà soi kính kỹ, sao nó vẫn có vẻ mặt đàn ông quá, hà!
Đặng Lân vỗ vào vai người đồng bọn bồm bộp, cười vui vẻ:
- Tôi biết là anh lại giở cái khó tính nhà chuyên viên của anh ra rồi! Bỏ đi ông ơi! Không ai có thì giờ mà xét kỹ cái mặt cô gái xách bó lúa trên mặt đồng bạc đâu... trừ ông Sáu Goòng!... Vậy là xong nghe! Chúng ta sẽ bắt đầu đúc ngay khi anh hoàn tất cả 4 cái khuôn! Tôi sẽ cho đúc 1 số ít đồng tiền cổ Hy Lạp thôi, còn thì bao nhiêu là đúc đồng 20 Việt Nam, hết! Tiền cổ hồi này tiêu thụ không chạy lắm . Tôi đã cho người đi đổi thật nhiều bạc cắc loại 1 đồng Việt Nam rồi . Cứ 3 đồng 1 thì đúc được 1 đồng 20 đấy . Các phái viên thu thập bạc cắc 1 đồng cứ gởi đều đều hàng về quan đương Bưu Điện, tới địa chỉ anh.
- Biết rồi! Hôm qua tôi đã nhận được 1 gói và đã đem tới "xưởng đúc" rồi!
Đặng Lân gật đâu:
- Vậy, tốt! Thôi bây giờ anh về, "sửa sang dung nhan" cô gái xách lúa của anh chút đi, đừng khó tính nữa nghe ông, để xong sớm giờ nào hay giờ đó đi, nghe!
Giơ lẹ 1 ngón tay, Trí ra hiệu cho tôi nhích ra xa cánh cửa . Tôi hiểu ngay là Sáu Goòng sắp sửa đi ra . Điều cần là chớ để lão thấy mặt tụi tôi . Nhưng cánh cửa dưới chân cầu thang đột nhiên kêu "clic" 1 tiếng . Tôi biết ngay là có 1 người nào đó đang sắp sửa đi lên . Vậy là chúng tôi bị kẹt rồi.
Đặng Lân và Sáu Goòng cũng đã nghe tiếng cửa đóng . Tiếng Đặng Lân:
- Có người nào đó! Biết đâu lại chẳng là 1 thằng lỏi rắt mắt đó ?

Chương 13
Tôi sợ tái người, chân tay cứng ngắc . Cầu thang là lối đi duy nhất . Trí bước ra từ trước đang định lao người chạy xuống, đột nhiên tôi thấy anh quay chạy ngược lên, hướng vào cái "văn phòng cho thuê" . Tôi cũng chạy vút theo vào, không quên quài tay khép chặt cánh cửa lồng kính mờ . 2 anh em thở hổn hển không ra hơi . Tiếng chân người lạ bước lên cầu thang nghe thình thịch . Cánh cửa phòng Đặng Lân mở bét . Ông ta nói oang oang:
- A! Huỳnh Bân! Vào đây, Bân, Bân! Có tôi và Sáu Goòng thôi à! Sao ? Có gì lạ không ? Trụ sở bình an chứ ?
Chúng tôi cố lắng nghe mà không biết Huỳnh Bân trả lời ra sao . Rồi là tiếng nói xôn xao ồn lên nhưng không thể nghe rõ được lời đối thoại của 3 người . Đoạn, có tiếng chân cả bọn bước ra phía cầu thang Đặng Lân nói gneh thật rõ:
- Được rồi! Huỳnh Bân! Để tôi xẹt qua đằng đó coi lại coi! Còn Sáu Goòng, về coi lại ngay "cô gái xách lúa" của anh chút đi; nhưng theo tôi thì "tốt" rồi đó, tôi đã biết cái tật khó tính của anh quá mà! Tối nay cố gắng đến 1 chút nghe! Tôi cho chạy thử khuôn mẫu 12 cạnh của anh đấy (ý nói đồng bạc cắc 20 Việt Nam hình đa giác 12 cạnh)!
Sáu Goòng lẩm bẩm nói cái gì đó mà tôi cho rằng y nhận lời . Kế đó văng vẳng có nhiều tiếng bước chân: cả bọn đang xuống cầu thang . Tiếng Đặng Lân ra lệnh:
- Đừng có ra cả 3 người 1 lúc! Sáu Goòng ra trước đi! Khéo khéo 1 chút! Đừng để ai thấy nghe!
Tiếng cánh cửa phía cuối cầu thang mở ra rồi khép lại . Hé mắt dòm qua khe cửa sổ từ căn phòng trống, 2 đứa tôi thấy rõ tên Sáu Goòng nhìn ngược ngó xuôi 2 bên rồi rảo bước đi về hướng đường Gò Gốm . 2 người kia khựng lại 1 chút rồi mới bước ra . Gả có tên Huỳnh Bân vóc người nhỏ thó, ốm tong teo, chân bước nhẹ như không, y hệt bước chân mèo . Hắn bước lên chiếc xe hơi của Đặng Lân . Ông này ngồi ở ghế lái, mở máy và chiếc xe bắt đầu lăn bánh.
Trí thở ra 1 hơi dài:
- Ôi cha... a... à!
Tôi cũng muốn thốt lên 1 tiếng "ối chà" khoan khoái như thế, nhưng Trí đã nói trước nên tôi đành chỉ lặng im mà thích thú ngấm ngầm . Rồi chẳng ai bảo ai, 2 đứa ù té chạy ra ngoài, cắm đầu cắm cổ lao tới chỗ cất xe đạp.
Nhẩy lên yên, 2 anh em đạp xe như các tay đua suốt quãng đường dài về đến tận "tổng hành dinh" . Dọc đường không ai nói với ai 1 tiếng nào . Lên đến "phòng thí nghiệm", Trí lôi từ ngăn kéo ra 1 tập hồ sơ, phía ngoài dán nhãn ghi rõ: "Vụ Ô . Danh Điềm".
Từ lúc đi công tác về, bây giờ mới là lần đầu tiên 2 anh em đối thoại . Trí mở miệng trước:
- Xin lỗi nhé, CT3! Tôi phải cấp tốc ghi trên giấy trắng mực đen cuộc đối thoại chúng mình mới được nghe cách đây nửa giờ . Phải ghi ngay, nếu không thì quên hết những chi tiết bổ ích.
Tuân hành lệnh sếp, tôi hết sức giữ im lặng cho tới khi anh viết xong . Và cứ tự hỏi không biết anh nghĩ gì về các việc vừa qua . May quá, "sếp" tôi đã hắng giọng:
- Ê, CT3! Vụ này quan trọng không thể tưởng tượng được nghe! Cả 1 tổ chức gian phi ghê gớm à, nghe!
Quả tình tôi cũng đồng ý nghĩ như Trí, và đột nhiên cất tiếng đề nghị với anh 1 điều chợt đến trong đầu óc mà tôi chắc anh không bao giờ chấp thuận:
- Vậy chúng ta chỉ còn 1 cách là đi báo cho cảnh sát ?
- Đâu được! Nhà chức trách sẽ không tin chúng ta vì tất cả mọi việc chúng ta đã làm được, hiện có gì làm bằng chứng đây ? 1 ít mảnh sắt vụn dính vào đế giầy, rồi là... hết!
- Nếu thế thì làm sao đây ?
- Chỉ còn 1 cách là dò ra bằng được cái trụ sở mà Đặng Lân đã nói, nghĩa là sào huyệt của bọn gian!
- Ối! Không! Không làm cái đó được đâu!
Trí không nghe tiếng tôi nói:
- Tôi chắc sào huyệt của họ cũng không xa lắm đâu . Chỉ trên con đường từ Thủ Đức đi Biên Hòa là cùng . Khó gì đâu! Muốn biết chắc thì chỉ việc mò đến tiệm lạc soong của Sáu Goòng 1 tua nữa là thế nào cũng có kết quả!
- Anh điên rồi hả Trí ? Không thể nào được nữa!
- Sao lại không thể là thế nào ? CT3 nên nhớ bữa này đã thứ ba rồi đây này, và hết ngày chủ nhật là hết nghỉ lễ rồi, thấy chưa! Thì giờ đâu có còn nhiều!
Tôi vẫn càu nhàu:
- Thật đúng là dẫn thân đến hang hùm động sói rồi còn gì!
Trí cương quyết:
- Tôi cam đoan với Chiêm là không sao đây này! Tụi gian không ngờ tụi mình lại trở lại đó vì họ tin rằng tay Đặng Lân đã khiến được chúng ta hết nghi ngờ rồi . Thêm nữa, tối nay thế nào Sáu Goòng cũng phải đi gặp Đặng Lân tại 1 nơi chốn nào đó, chưa biết! Vậy là thế nào cũng vắng nhà!
Đôi mắt anh sáng quắc lên:
- CT3, tối nay ta đi! Đúng 7 giờ 30 có mặt tại Tổng Hành Dinh!
Đoạn anh quay vào, để mặc tôi vò đầu bứt tai khiếu nại đủ thứ.
Rút cục, hồi 8 giờ 15 tối hôm đó, khi Trí bước nhanh nhẹn dọc theo con hẻm ngang gian nhà sau của Sáu Goòng, tôi đã bám sát cạnh anh như bóng theo hình.
Chỉ có mỗi 1 ngọn đèn mờ ở nơi đầu hẻm hắt ra chung quanh 1 vòng ánh sáng vàng vọt, cửa sổ gian nhà sau lão Sáu Goòng chìm trong bóng tối . Trí rỉ khẽ bên tai tôi:
- Đèn "pin" đâu ?
Tôi đưa vào tay anh chiếc đèn bấm . 1 luồng ánh sáng yếu ớt chiếu mờ mờ . Có tiếng Trí gắt khẽ:
- Trời ơi! Trước khi lên đường Chiêm chẳng chịu xem lại "pin" gì cả!
Tôi vừa định trả đủa lại anh 1 câu: "Thế sao trước khi ra đi anh không thử bấm 1 cái xem pin mới cũ ra sao ?" Nhưng cha kịp thì đã sợ tái người: dưới ánh đèn mờ mờ hiện ra 2 đốm lửa xanh lè rồi có cái gì mềm mềm ấm ấm cọ lướt vào chân . Giật nẩy người, tôi nhảy vọt 1 cái, suýt nữa thì rút lên 1 tiếng . Trí nghiến răng:
- Nỡm ở đâu á! Con mèo chứ cái gì đâu mà...
Rồi anh chiếu đèn lên cửa sổ . Tôi hí hửng bảo anh:
- Lần trước tụi mình đã chịu chết, đâu có mở được! - Và trong lòng ngầm hy vọng mong anh bỏ cuộc.
- Bên trong không có chốt sắt mà chỉ gài sơ sơ 1 cái then ngang thôi! Lần trước vào với tay Đặng Lân, tôi đã để ý thấy rồu!
"Sếp" tôi quả là 1 tên rắt mắt "can không nổi".
Anh ra lệnh:
- Chiêm ở đây canh kỹ 2 đầu hẻm để mình mở cửa sổ, nghe!
Rồi tiếng dao díp của anh rạch gỗ nghe rẹt rẹt . Chỉ độ 3 phút sau, bỗng nghe "cách" 1 tiếng, tôi biết Trí đã mở được rồi.
Tôi sáp lại gần: "Sếp" đã ngồi vắt vẻo trên thành, 1 chân thòng vào bên trong gian nhà tối đen như mực . Tối thì tối, còn khoái hơn là đứng canh ngoài con hẻm vắng hoe, trông phát ớn . Tôi leo qua thành cửa sổ vào trong nhà.
Tiếng Trí phào nhẹ bên tai:
- Bám sát lấy tôi! Nghe! - Và anh phăng phăng len qua lối đi hẹp giữa đám đồ tập tàng cũ rích đã thấy kỳ trước . 2 đứa cứ hướng theo ánh đèn pin lờ mờ . Rõ khổ!... Luồng ánh sáng đèn yếu, tối dần... rồi tắt ngúm.
Tôi hoảng quá run giọng hỏi khẽ:
- Trí! Trí! Anh đâu rồi ?
1 giọng nói thân mật khẽ vang ngay trước mặt:
- Đây, đây, "bố trẻ"! Bố bấu chặt áo blouson của người ta rồi mà còn kêu hoài!
Khẽ trước, người sau, 2 anh em thận trọng đặt từng bước . Bỗng nhiên 1 que diêm bật xòe lên . Trong vòng ánh sáng, Trí đang giơ tay châm 1 ngọn nến vẫn đặt trên cái bục thợ mộc của Sáu Goòng.
- Trời đất! Làm sao anh mò được cây nến đó ?
- Hôm trước tôi đã để ý thấy rồi! Thôi, ở đó mà ba hoa mãi! Lẹ chút đi!
Dứt lời, anh quay ra tuần tự lục mọi ngăn kéo, đủ các loại hộp dòm vào từng chiếc thùng lớn nhỏ . Tôi cũng làm phụ anh nhưng tia mắt luôn luôn liếc về phía cửa ra vào, thấp tha thấp thỏm, chỉ sợ Sáu Goòng bất ngờ xuất hiện, súng lục lăm lăm trong tay.
Bỗng Trí gọi hơn lớn tiếng:
- Chiêm! Chiêm! Đây rồi! Tóm được "nó" đây rồi!
Tôi quay người lại . Trí cầm trong tay 1 cái hộp gỗ, đặt lên tấm bục thợ mộc, sửa soạn mở nắp . Tôi chạy sáp tới . Nắp hộp bung ra Trí lượm lên 4 cục gì tròn tròn gói trong lớp giấy nhật trình cũ . Cởi bỏ lớp giấy bao: 2 khuôn đồng tiền cổ Hy Lạp và 2 khuôn đồng các 20 Việt Nam.
Tôi gần như rú lên, như người mới bắt được 4 viên kim cương:
- Thành công rồi, ha! ha! Tuyệt quá Trí ơi! Thôi, chỉ còn có việc đem tới cảnh sát là rồi đời Sáu Goòng!
Nhưng Trí lại nhè nhẹ lắc đầu:
- Đâu được! Nếu vậy thì đồng bọn lão thấy động, chúng sẽ chuồn êm hết, cảnh sát làm sao mà bắt được trọn ổ vì chưa biết được sào huyệt của chúng! Không, không, Chiêm à! Chỉ báo cho cảnh sát khi mà tụi mình đã làm xong tất cả . Lúc đó tụi chúng sẽ sa lưới không sót 1 móng.
- Nhưng ác cái là để lại 4 cái khuôn này thì còn đâu tang vật, mà đem đi thì Sáu Goòng sẽ biết ngay là bí mật của tụi y đã bị lộ, sẽ...
Trí điềm tĩnh:
- Yên trí! Yên trí đi Chiêm! Mình đã có cách!
Dứt lời, anh nghiêng cây nến cho nhỏ giọt vào 4 cái lỗ khuôn chưa đầy 1 phút sau, Trí đã có được 4 khuôn bằng nến rõ và đẹp vô cùng.
Tôi reo lên:
- Hoan hô "sếp"! Quả thực tôi không nghĩ tới cái kỹ thuật đó!
Giọng Trí trịnh trọng:
- CT3! 1 khi đã là thám tử thì phải biết tùy cơ ứng biến trong mọi trường hợp . Việc cần làm bây giờ là rút lui cho lẹ, chúng mình nấn ná ở đây đã gần tiếng đồng hồ rồi.
Dứt lời, anh thổi ngọn nến tắt phụt . Tôi lại nắm gấu áo blouson theo sát anh, mò ra phía cửa sổ . Đi trong bóng tối mà Trí đi thật hay... như mèo vậy.
Đúng lúc cả 2 đang trèo qua cửa sổ thì có tiếng kẹt cửa . Trí nói nhanh:
- Sáu Goòng đó! Nhảy xuống! Chạy mau!
Không để "sếp" phải nhắc tới 2 lần, nhẩy 1 bước đã ra tới giữa đường hẻm, 2, 3 bước nữa đã tới quá nửa đường ra lộ lớn . Đột nhiên, tôi có cảm giác thiêu thiếu 1 cái gì cần thiết lắm: Trí không còn ở bên cạnh tôi nữa! Đang lao đầu chạy, tôi dừng ngay lại . Hay "sếp" đã gặp sự gì không may ? Hay là anh bị thương ?
Nghĩ đến chuyện quay trở lại đâm vào bóng đêm đen kịt, tôi ngại quá . Nhưng không thể để anh sa cơ như thế được . Thu hết can đảm, tôi trở vào phía căn nhà Sáu Goòng.
Đột nhiên đang lao người, tôi suýt hét lớn lên 1 tiếng . 1 người nào đó đâm sầm tới làm tôi thiếu điều ngã ngữa . May quá: Trí . Tôi hổn hển nói chẳng ra hơi:
- Sao vậy! Anh bị thương hay sao mà lâu thế, hả ?
Vừa kéo tôi cùng chạy, Trí vừa nói nhanh:
- Còn phải đóng lại 2 cánh cửa sổ đã chứ!
Quả thật không 1 chi tiết nào anh không để ý đến, dù là chi tiết rất nhỏ nhặt . Như việc đóng lại 2 cánh cửa sổ . Việc nhỏ nhặt như vậy, nhưng hậu quả lại có thể tai hại gớm ghê . Quả có vậy! Nếu bắt gặp cửa sổ mở toang hoác như vậy, Sáu Goòng sẽ giật mình cũng sẽ leo qua phóng đuổi theo thì 2 đứa tôi hết chạy . Càng nghĩ lại càng thầm cám ơn Trí . Chạy khá xa, liếc nhanh mắt ngó về đằng sau, đã thấy gian phòng trong của nhà Sáu Goòng đèn bật sáng trưng . 2 đứa tôi lại càng gia tăng tốc độ . Tới chỗ để xe, may quá, 2 cái xe đạp vẫn y nguyên . Nhẩy vút lên, chúng tôi cắm cổ đạp 1 hơi . Nửa giờ sau về đến nhà . Không dừng xe, Trí ra lệnh ngay:
- Sáng mai nghe, Chiêm! Sau khi ăn sáng xong, nhớ đừng quên đó!
Đúng hẹn, sáng hôm sau, khi tới phòng thí nghiệm, tôi đã thấy Trí đang cắm đầu viết chăm chú . Tôi vào, anh cũng không ngửng lên, chỉ đưa tay ra hiệu cho tôi ngồi, rồi vẫn không ngừng bút, anh lên tiếng:
- Tôi phải viết bản phúc trình chi tiết cho thân chủ của hãng chúng mình! Chiêm đợi đó, xong Chiêm đích thân cầm đi đưa tận tay bé Thơ, nghe!
Tôi bất giác nhăn mặt, không phải vì ngại lên Thủ Đức nhưng chính là vì ngại 1 cô thân chủ rất rắc rối là bé Thơ . Trí cứ lờ đi làm như không trông thấy nét mặt kém vui của vị phụ tá . Anh lại còn giao thêm 1 công tác dò cho ra bằng được các kiện hàng gửi đường Bưu Điện cho Sáu Goòng, bên trong chứa đựng những gì.

Chương 14
Ở Thủ Đức về, tôi tới thẳng Tổng Hành Dinh . Trí đang làm việc . Trong phòng thí nghiệm có ánh đèn sáng chưng . Tuy nhiên khi tôi vừa bước lên, đột nhiên đèn tắt tối thui . Tôi lên tiếng gọi:
- Trí! Đâu rồi!
Trong bóng tối im lặng, đột nhiên nghe 1 tiếng "clic"; không đầy 1 phút sau, ánh sáng lại chan hòa . Anh mỉm cười vui vẻ:
- Đừng thắc mắc, nghe Chiêm! Mình đang làm nốt mấy "pô" chụp hình bằng ánh sáng đỏ!
Tôi nóng lòng báo cáo công tác nên không tò mò thắc mắc gì thêm về chuyện chụp mình bằng ánh sáng "tối" của anh.
Trí im lặng nghe tôi báo cáo công tác tường tận và đưa anh coi mấy đồng bạc cắc 1 đồng Việt Nam do chính tay tôi nhận được từ tay 1 nữ nhân viên Ty Bưu Điện . "Sếp" trừng mắt nhìn tôi:
- Chiêm làm cách nào lấy được mấy đồng này trong bưu kiện gởi cho Sáu Goòng ? Coi chừng việc làm này bất hợp pháp à, nghe!
Tôi "trấn an" Trí:
- Anh yên tâm! Đây là kết quả tài ngoại giao của bé Thơ! Nữ nhân viên vui tính của Ty Bưu Điện, sau khi nghe bé Thơ giới thiệu tôi là đặc phái viên của 1 nhật báo lớn tại thủ đôi, tờ Chuông Vàng, đã vui vẻ cho tụi tôi coi qua thành tích của Ban tiếp nhận và phân phát bưu kiện . Bà ta hy vọng sẽ được nêu tên và thành tích hoạt động phục vụ quần chúng lên trong báo lớn, nên đã cho tôi và bé Thơ chiêm ngưỡng mấy cái kệ lớn chất đầy bưu kiện . Trong số bưu kiện đó có 1 hộp các tông lớn để địa chỉ Sáu Goòng...
- Hộp các tông lớn cở nào ?
- Bằng cái thùng sữa! Nặng lắm! Bà nữ nhân viên cười hi hí cho biết rằng đã có lần Sáu Goòng đến nhận lãnh, lúc bê ra đáy thùng bị bục, há ra để lọt mấy chục đồng bạc các bò tung tóe . Bà ta phải giúp lão Sáu lượm lên, nhưng còn sót lại mấy đồng này trong khe quầy . Và bà này không hiểu sao lão Sáu Goòng mất công nhờ người đổi nhiều bạc các ở tận đâu về . Có hỏi thì lão cho biết đem về đổi cho các bạn hàng cần tiền lẻ để thối cho khách, cứ 100 đồng, lão lời được 5 đồng.
Trí cầm mấy đồng bạc các tiến lại phía bàn làm việc, cắm cúi đọc trong 1 quyển sách lớn . Dáng điệu anh chăm chú, và tôi tôn trọng triệt để giây phút im lặng của anh . Bỗng anh ngẩng mặt, tia mắt sáng ngời . Tôi biết là anh đã tìm được 1 cái gì lạ.
- Ê, CT3! Theo các tài liệu do cảnh sát sưu tầm về việc "đúc tiền giả", thì các tay chuyên viên phạm pháp này bao giờ cũng theo đúng kỹ thuật sau đây: Đun cho chảy lỏng đồng tiền nhỏ cùng 1 thứ kim loại với đồng chúng đã chọn làm "mục tiêu". Như vậy chúng không lo bị người khác nhận ra là đồng tiền giả bằng cách nhồi nhồi xuống sàn để nghe tiếng kêu . Còn hình vẽ trên 2 mặt thì được thực hiện nhờ khuôn đúc . Tụi Sáu Goòng cũng đã tính kỹ lắm . Cứ 3 đồng cắc 1 đồng, thì đúc được thành 1 đồng 20. Như vậy, ta thử làm 1 con tính . Thùng bưu kiện bằng cỡ thùng sữa kim cương chẳng hạn . Mà mỗi thùng sữa có 48 hộp . Má tôi hay để tiền cắc 1 đồng vào lon sữa bò . Hễ đầy thì bà lại đem ra đếm, được trên dưới 500 đồng . Vậy 48 hộp tức là được (Trí quơ tay lấy bút chì và tờ giấy trắng, hí hoáy làm tính nhân)... 24,000 đồng . Mà cứ 3 đồng thì đổ khuôn được 1 đồng 20. Vậy 24,000 đồng bạc các 1 sẽ thành 8,000 đồng bạc 20. Nhân 8,000 với 20, ta có 160,000 đồng . Chiêm đã thấy lợi hại ghê chưa ? 24,000 đồng đã thành 160,000 đồng . Mà theo lời nữ nhân viên Bưu Điện cho biết thì trung bình mỗi tháng Sáu Goòng nhận được 8 lần . Vậy tổng cộng số tiền giả tụi chúng cho ra thị trường tiêu thụ là 1 triệu 280 ngàn đồng!
Tôi bất giác huýt gió:
- Vậy, cứ 1 tháng thì tụi Sáu Goòng lại có 1 tay trở thành triệu phú!
Trí đáp:
- Đúng như vậy, chứ còn gì nữa!... Nhưng tôi, tôi nhất định cương quyết không để tụi nó là như vậy được! Chiêm thử tưởng tượng 1 số lớn các cụ già của chúng ta buôn thúng bán bưng, mỗi ngày lời lãi chừng trên dưới trăm bạc... mà trong số đó lại lẫn vào hai ba đồng 20 giả thì còn có gì nữa đâu! Quả là 1 tai họa cho đồng bào nghèo khổ!
- Chúng ta báo cho cảnh sát ?
- Không! Chưa phải lúc, Chiêm à! Phải lùng cho ra bằng được sào huyệt đúc tiền giả của chúng đã . Đó là việc cần làm trước nhất!
- Mà bằng cách nào ?
- Theo hút lão Sáu Goòng!
Tôi cứ đứng ngây như tượng gỗ vì 2 lý do: Lý luận của Trí thật đúng, thật sắc bén khiến tôi không cải được, và tinh thần mạo hiểm của anh làm tôi sởn da gà . Tôi thú thực với anh là việc theo hút lão Sáu có vẻ "nguy" quá . Nhưng 1 lần nữa, tôi thua anh về tranh luận, và quay về nhà, đi lủi thủi như 1 kẻ bại trận nhưng không còn thắc mắc gì và sẵn sàng tuân lệnh "hành quân" của anh.
Sáng hôm sau, ba má tôi và chị An đi thăm bác tôi trên Túc Trưng . Ở nhà còn mỗi mình tôi, tha hồ làm vương làm tướng . Má tôi gọi tôi tới dặn cách thức sửa soạn để nấu bữa cơm chiều đặng ở Túc Trưng về sẽ có cơm ăn ngay . Rồi 2 cụ cùng chị An lên xe đi hồi 9 giờ . 5 phút sau, Trí đã dựng xe đạp trước cửa nhà tôi . Trước ngực anh lủng lẳng 1 ống viễn kính lớn đựng trong bao da.
- Lên đường lập tức, CT3! Chúng mình phải có mặt tại địa điểm quan sát khi người phu trạm đem bưu kiện đến cho Sáu Goòng! Nào, ta dông!
Không biết chắc là Sáu Goòng có nhận được bưu kiện nội ngày hôm đó không, nhưng chúng tôi cứ liều . Biết đâu! Vậy mà 2 anh em tôi lại thắng cuộc! Quả nhiên người phu trạm đã dừng lại trước cửa tiệm Sáu Goòng . Lão này xuất hiện, nhận hàng . Mấy phút sau, y đã khệ nệ khiêng "thùng sữa" tới bên 1 chiếc xe hơi đậu gần đó.
Trí căn dặn tôi:
- Đừng theo sát quá, nghe Chiêm! Lão Sáu để ý ngó thấy là mệt ạ!
Việc theo hút 1 người lái xe hơi trong thành phố mà kẻ theo hút lại chỉ đạp xe đạp quả là 1 việc không mấy khó . Vì đường phố chật hẹp, đông xe cộ và đèn xanh đèn đỏ đủ thứ... Nhưng ra đến ngoại ô thì lại là chuyện khác . Đường tương đối trống vắng hơn, Sáu Goòng tăng gia tốc độ . 2 anh em cắm cổ đạp, nhưng khoảng cách cứ xa dần . Tới 1 con đường giốc khá cao, lại thêm gió ngược, 2 chiếc xe đạp chỉ còn rì rì như người đi bộ... Ngước mắt nhìn: Sáu Goòng và chiếc xe hơi đã mất hút.
Tôi càu nhàu lên tiếng, khi cả 2 đã leo hết quãng đường giốc:
- Quái! Đường trước mặt thẳng tắp và xa hun hút thế kia mà xe của lão biến đâu mất ?
Trí im lặng, đưa tay lên lấy ống nhòm quan sát chung quanh . Đột nhiên anh reo lên, và đưa tôi ống viễn kính:
- Chiêm! Coi này! Bãi ruộng thấp kia kìa, có cái nhà sau 1 lùm cây lớn rậm đó, thấy không ?
Quả thật, giữa tàn cây xanh đậm, nhô lên 1 mái nhà nhọn hoắt.
Giọng tôi đượm vẻ hoài nghi:
- Anh cho lão đã chạy xe vào nơi đó ?
- Còn gì nữa! Chung quanh đây còn có cái nhà nào nữa đâu ?
Nhưng dù sao chúng mình cũng phải lùng xét kỹ 1 tua.
2 anh em quay tìm 1 con lộ dẫn về hướng lùm cây rậm lá đó . Lại nhẩy lên yên, chúng tôi thả cho xe lăn bánh theo con đường đất rộng chừng hơn 2 thước, giốc xiên xiên . Tôi nói to át cả tiếng gió:
- Trời ơi! Anh định cứ lùng lững thế này đến gõ cửa cái nhà đó hả ?
Trí không trả lời . Anh im lặng xuống xe, dúi sâu con ngựa sắt vào trong bụi sim rừng rậm lá, và ngoắc tay bảo tôi dấu xe:
- Gần tới rồi! Khom người xuống mà tiến lại khu nhà đó nghe! Đừng gây tiếng động đó!
Đừng gây tiếng động quả thật là khó! Bãi gì mà đầy vỏ bia hộp, chai lọ vỡ, khẽ đụng là kêu lanh canh rộn lên . Khó thật! Đúng là 1 bãi đổ rác! Càng lom khom bò tới gần, tôi lại càng cảm thấy sống lưng lạnh buốt . Nếu dự đoán của Trí mà đúng thì thật quả là 2 đứa tôi đang bò vào... động sói.
Trước mắt, khu nhà hiện ra rõ rệt . Thì ra, đây chỉ là 1 căn nhà lớn, bỏ hoang phế từ lâu.
Trí rỉ khẽ bên tai tôi, mũi anh chạm sát đất:
- Ngó vào sâu coi, Chiêm!
Từ từ ngóc đầu lên, tôi thấy rõ cái thùng tróc sơn phía sau xe của Sáu Goòng . Trí bò 4 chân, tiến lên mấy thước nữa . Tôi cũng bám sát theo . Sân trước mặt đã hiện ra 1 khoảng lớn: 2 anh em lại bắt gặp 2 cái xe nữa, 1 cái màu đỏ của Đặng Lân, còn cái kia là 1 cái xe "cam nhông nết". Phía sau 2 chiếc xe là 1 gian nhà xe rộng, cửa làm bằng những thanh gỗ đóng thưa.
Từ trung tâm nhà cổ vẳng ra 1 loạt tiếng động gì nghe rầm rì đều đều như tiếng máy chạy . Tiếng Trí lọt vào tai tôi:
- Máy rập tiền giả đấy!
Nhưng chú ý lắng tai kỹ thì lại nghe có 1 thứ tiếng gì sình sịch như tiếng 1 cái động cơ . Trí đoán được ngay thắc mắc của tôi:
- Phải có hơi điện thì máy đúc tiền của chúng mới chạy được chứ! Tiếng sình sịch là động cơ phát điện đấy!
Hai ba phút sau, tôi đã nhận thấy 1 làn hơi phụt theo đám khói đang tỏa ra nơi đầu ống khói tại phía trên mái dãy nhà xe rộng.
Tôi khẽ lẩm bẩm:
- Đây chắc là lò nung chảy kim khí!
Giả thuyết của tôi được chứng nghiệm tức khắc . Vì ngay lúc đó Đặng Lân cùng với Sáu Goòng xuất hiện từ trong gian nhà rộng bước ra . Qua khung cửa mở, tôi trông thấy rõ ràng 1 người đàn ông ở trần trùng trục, 2 tay nắm 1 thanh tre thật lớn đặt trên 1 cái lò thật bự cháy bằng gaz . Gần đó, có mấy cái bình to, loại bình sắt đầy vẫn dùng để đựng dưỡng khí hoặc khí đá.
Nhưng tất cả tâm trí của 2 đứa tôi đều tập trung vào 2 nhân vật chính: Đặng Lân và Sáu Goòng.
2 người này bước qua sân rộng, đặt chân lên 1 con lộ nhỏ... tiến thẳng về phía chúng tôi . Chẳng ai phải bảo ai, Trí và tôi dắn sát hết cở thân mình, rúc sâu vào đám cỏ rậm . Tôi có cảm giác như có 1 mảnh lực mầu nhiệm vô hình nào đó đã sui khiến làm họ mờ mắt không bắt gặp chúng tôi . Chân bước, tia nhìn họ ghim xuống đất, cả 2 chìm đắm trong câu chuyện mãi mê . Tiếng Đặng Lân khen Sáu Goòng nghe như có hơi men hừng hực của 1 ly rượu mừng:
- Anh Sáu! 4 cái khuôn của anh quả đáng "mê" thật! Nhất là đôi khuôn 12 cạnh . Nguyên liệu rồi rào lắm rồi . Rập thử đồng mẫu 12 cạnh đó, như anh khó tính thế mà còn phải chịu là đẹp, huống hồ tụi tôi . Vậy chiều nay cho rập hết cả chỗ nguyên liệu thằng Phồn đang nung chẩy đó nghe!
Sáu Goòng đưa tay mở cửa chiếc xe của lão và ngồi vào ghế lái . Cả 2 tên gian đều xây lưng về phía Trí và tôi đang nấp . Lúc này chẳng chuồn thì còn đợi lúc nào ? Chúng tôi đã "nhìn" thấy nhiều cái "hay" quá rồi! 2 anh em vạch cỏ mà đi lom khom tìm đường ra cùng lúc với Sáu Goòng mở máy cho xe lăn bánh chạy trên con đường đất hẹp dẫn ra đường cái nhựa.
Tình hình có vẻ "an ninh" trăm phần trăm như vậy . Nhưng quái thật! Đột nhiên tôi thấy lạnh buốt nơi xương sống y hệt bữa ở nhà 1 mình bị bé Thơ rình rập . Nhưng cảm giác ớn lạnh nơi đây lại còn khủng khiếp hơn: Tôi linh cảm Sáu Goòng đã... nhìn thấy 2 thằng đang chạy băng qua đám cây rậm . Và tôi thấy sự đó vô lý quá sức . 2 tên gian đã quay lưng lại, cho xe chạy rồi, chúng tôi mới mò ra kia mà! Vô lý thì vô lý! Tiếng thét của lã Sáu tưởng chừng như đứng cách hàng cây số cũng còn nghe tiếng . 1 trái bom nổ trúng giữa căn nhà bí mật tưởng hậu quả ghê gớm cũng chỉ tới cỡ đó . Gần 1 chục người, trừ tên Phồn ở trần, tất cả đều mặc quần áo xanh, chạy túa ra.
Trí hét lên:
- Lấy xe đạp! Mau!
Tôi lao người chạy như bay, giầy gần như không đụng mặt đất . Nhưng không hiểu sao tôi lại còn ngoái đầu ngó về phía xe hơi lão Sáu . A! Lạ thiệt! Không hiểu tại sao lão Sáu Goòng tự nhiên lại quay đầu xe trở lại hướng khu nhà . Và 2 bánh sau xe loay hoay thế nào lại thụt xuống 1 cái hố bùn lớn ở trên mặt đường, chiếc xe quay ngang, chặn hết lối đi . Tên Đặng Lân ngồi bên đang gào hộc lên vì tức giận, giơ tay nắm thành quả đấm, dứ dứ vào mặt Sáu Goòng.
2 đứa tôi ngắm ghi đông xe đạp, phóng nhảy vút lên yên như những tên cao bồi chính hiệu, đầu óc mê muội đi không còn nhớ được cái gì nữa, ngoài vấn đề chúi đầu đạp xe như 2 người điên vậy . Tới mép đường cái nhựa, bỗng Trí bóp phanh nghe cái "két" . Anh hổn hển nói chẳng ra hơi:
- Kỳ quá! Mắc cỡ chết được! Thám tử gì mà lại sợ hãi đến như gần chết vậy không biết! Đạp xe muốn đứt hơi luôn.
Bực mình tôi phun 1 câu nói mát:
- Ờ há! Giá anh em mình cứ tà tà ở lại để chờ tụi nó ra mời "ngồi chơi sơi nước", thì hay hơn há!
Trí làm như không nghe câu nói móc của tôi, đưa ống viễn kính lên mắt, miệng lẩm bẩm:
- Để coi thử tại sao tụi nó không rượt theo tụi mình!
Anh im lặng quan sát có tới hai ba phút rồi đưa ống nhòm cho tôi: Qua ống kính, tôi thấy rõ chiếc xe của Sáu Goòng vẫn nằm ườn chắn ngang đường . Lão Đặng Lân đang cố gắng cho chiếc xe sơn đỏ của lão lách qua mà không được . Mấy tên quần áo xanh lố nhố đứng quanh chỉ chỉ chỏ chỏ giơ tay múa chân . Chắc chúng đang hò hét dữ lắm.
Tôi bảo nhanh Trí:
- Lợi dụng lúc này... vọt lẹ đi!
Suốt dọc đường hướng về Thủ Đức chân đạp xe, đôi mắt Trí không ngớt liếc từng lùm cây, cột trụ, gò đống 2 bên đường, miệng lẩm bẩm như học bài . Tôi biết là anh đang cố ghi và trí nhớ mọi đạc điểm địa hình, địa vật trên suốt quãng đường dài... để 1 ngày kia... còn trở lại . Tôi thấy lạnh buốt nơi sống lưng như người sắp lên cơn sốt .

Chương 15
Còn chừng non 1 cây số nữa thì tới Thủ Đức, đột nhiên 2 đúa tôi nghe tiếng động cơ xe hơi, liền quẹo xe đạp vào hẻm ngang . May mắn thật! Chiếc xe sơn đỏ của Đặng Lân lao vút qua như 1 mũi tên . Lão này lái xe, còn tên ngồi bên cạnh là... Huỳnh Bân . Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau . Tôi bảo Trí:
- Không hiểu lão Sáu Goòng có nhận ra chúng mình không ?
- Tụi mình phải tìm con đường khác mà đạp về cho chắc ăn hơn!
Câu nói vừa dứt, bỗng 1 chiếc xe hơi từ phía Sài Gòn lao vun vút đến rồi lướt qua mặt 2 đứa như 1 chiếc hỏa tiễn . Chiếc xe của Sáu Goòng! Và chính lão ta cầm lái . Không biết lào có thấy tụi tôi không mà chỉ biết là đầu và mặt lão cúi sát trên tay bánh.
Trí hất hàm ra ý bảo tôi phải thận trọng:
- Vậy là Chiêm hiểu rồi, heng!
Tôi cười trừ:
- Cũng tàm tạm! Nhưng đã ra tới đây rồi là bất chấp!
Về đến trước cửa nhà tôi, 2 anh em tạm chia tay.
Tôi bảo Trí:
- Tôi phải về tắm, thay quần áo rồi làm 1 tua chạy báo xong, về lại phải sửa soạn bữa cơm chiều ba má và chị An về ăn đây!
- Rồi, bồ! Tôi sẽ gọi cho bồ sau! Chúng mình cần phải bàn soạn kỹ lưỡng 1 chầu để đặt kế hoạch mới được! Có lẽ sau bữa cơm chiều! Thôi, dông! Tắm 1 cái đi nghe, CT3! Trông như ở dưới lỗ móc lên vậy đó!
Trí nói đúng . Nhưng tôi lại khoái trí vì nhận thấy anh cũng chẳng sạch sẽ gì hơn tôi.
Tia nước mát từ bông sen trong phòng tắm, gột rửa sạch hết cát bụi đường trường . Thân xác mát mẻ, và tôi thấy tinh thần sảng khoái vô cùng . Chuyến "hành quân" vừa rồi quả là thập tử nhất sinh, nhưng 2 đứa đã lọt thoát.
Tắm rửa, thay quần áo xong xuôi, tôi làm 1 tua thám sát bên trong tủ tại phòng ăn, để sửa soạn bữa cơm tối đặng ba má, chị An về ăn . Vừa mới ngoạm 1 miếng bánh mì ngọt, đang nhai nuốt ngon lành thì chị Trâm cho biết chuông điện thoại đang reo vang.
Tôi bực bội rủa thầm:
- Thằng cu Trí quỷ này! Hắn ta không thấy đói và không cần ăn, chắc!...
Và tôi nhấc ống nghe:
- Allo ?... Cậu Chiêm! Cậu Trần Đình Chiêm đó hả ?
Tôi giật thót mình . Tóc gáy dựng đứng cả lên . Không phải tiếng nói của Trí, mà là giọng ồ ồ của 1 người đàn ông lớn tuổi, như thể nghẹt mũi, hình như có ý làm cho tiếng nói đổi khác đi bằng cách bít đầu ống nói bằng 1 chiếc mùi soa.
- Vâng! Chiêm đây ạ! Xin lỗi, ông là ai thế ạ ?
- 1 người bạn đây!...
Tiếng nói nghe quen lắm, nhưng không thể nhận ra là ai, lại tiếp tục:
- Cậu là 1 cậu nhỏ rất ngoan, tôi biết lắm! Nhưng hiện cậu đang mua rắc rối vào mình đó! Khuyên cậu 1 điều là chớ có dại dột dính dáng vào cái vụ tiền giả tiền thật vừa rồi đó, nghe! Nếu không thì là... mệt lắm đó . Và nhất là chớ có liều mạng mò tới khu nhà lúc sáng các cậu đã tới nữa nghe! Cho cậu biết: Đây là lời khuyến cáo đầu tiên mà cũng là lời cuối cùng nghe! Nếu còn tái diễn thì sửa soạn mà và nhà thương đi... nghe!...
Rồi 1 tiếng "clic", tôi biết là người đối thoại đã gác máy.
Đôi mắt trợn tròn ngó trừng trừng ống điện thoại, tôi tưởng chừng như nó mới biến thành 1 con rắn hổ mang khủng khiếp . Đột nhiên tôi lại thấy sống lưng ớn lạnh . Chạy về, căn nhà sao mà trống vắng im lặng quá chừng . Chỉ thầm mong ba má tôi hoặc chị An bỏ dở cuộc đi Túc Trưng mà quay về lập tức . Bất giác đôi môi run run, tôi bật lên 1 tiếng: "Trí".
Và tôi lại qua bên bác cả quay số gọi anh . Trí đã ở đầu giây . Tôi nói nhanh:
- Trí! Tôi vừa nhận được 1 cú điện thoại ghê quá, Trí!
Trí cắt ngang:
- Biết rồi! Biết rồi! Tôi cũng vậy! Cứ bình tĩnh nghe, Chiêm! Tôi đến ngay bây giờ!
Lời nói anh có vẻ vẫn thản nhiên, nhưng nghe kỹ, giọng Trí có âm điệu run run khác hẳn ngày thường . Chưa đầy 5 phút sau, "sếp" tôi đã dắt xe đạp vào trong vườn . Tôi vội nói:
- Trí! Phải nói cho ba má tụi mình biết chứ! Nguy quá!
- Nói sao kịp được! Ba má Chiêm và ba má tôi đều đi vắng cả, làm sao mà báo cho kịp! Đừng sợ, không sao đâu, Chiêm à! Tụi nó chỉ muốn dọa cho anh em mình sợ đó thôi . Tôi chắc rằng tụi nó cũng chưa biết anh em mình đã phát giác được cái gì . Và giờ đây chúng lại càng yên trí là tụi mình đã sợ rúm người lại rồi, nên sẽ không dám hành động gì nữa . Do đó, tụi gian sẽ không thi hành điều nó đã hăm dọa mình đâu, nghe! Nhưng mình vẫn phải đề phòng, như vậy chắc ăn hơn . Chúng mình sẽ ở sát cánh nhau suốt ngày hôm nay, chờ ba má chúng ta về tới nhà đã, nghe!
Thái độ và cử chỉ của "sếp" coi bộ thản nhiên, nhưng tôi biết rõ, trong thâm tâm, anh cũng run như tôi vậy . Và, không hiểu sao, thấy tình hình như vậy, tôi lại đâm ra không sợ mấy nữa.
Trí ở lại bên tôi suốt buổi chiều . Hồi 4 giờ, anh "hộ vệ" tôi làm 1 tua đi đưa báo... , lên cả Thủ Đức, dĩ nhiên, cứ mỗi lần gặp 1 chiếc xe hơi, trống ngực tôi lại đập thình thịch: tụi gian mà bắt gặp, chúng nó dám lao xe nghiến nát 2 đứa lắm, để... diệt khẩu! Nhưng may sao, chuyến chạy hàng đã được trót lọt . Trí kèm sát bên tôi về đến tận nhà . Anh đề nghị cùng vào để cho tôi đỡa sợ . Nhưng tôi cám ơn Trí vì anh đã hy sinh nhiều thì giờ ở bên tôi rồi . Không dám làm phiền anh thêm nữa . Vả lại, 2 tiếng đồng hồ vừa rồi đi đưa báo, thấy tình hình có vẻ êm ru, và ba má, chị An cũng sắp về tới nơi . Có thể yên trí được!
Tôi quay ra gọt mấy củ khoai tây, chẻ rau muống để sửa soạn bữa cơm chiều . Vừa chẻ rau, tôi vừa cố nhớ lại những lời má tôi dặn cách thức ninh khoai tây với sườn heo thế nào . Chợt ngẩng nhìn đồng hồ treo trên tường, tôi giật thót mình: Ủa! Sao giờ này mà ba má tôi với chị An chưa về tới kìa . Lạ quá! Không khí im lặng nặng nề đè trĩu tâm hồn, da thịt tôi sởn gai ốc khi tưởng chừng như có người nào đó đang trừng mắt nhìn và nhe răng cười thầm trong bóng tối . Bỗng nhiên... có tiếng bác cả gái gọi bảo điện thoại reo kêu khiến tôi giật nẩy mình buông rớt cả dao chẻ ra, các cộng rau xanh vung vãi tung tóe . Tôi bỗng, vì sợ quá, hóa giận sôi lên, chạy sang chộp lấy ống nghe! Được rồi, bất chấp tên gian, nó có làm gì tôi cũng không sợ! Nó mà mò mẫm đến đây, tôi sẽ ăn thua đủ!
Tiếng reng reng vẫn vang như muốn xé rách màng tai . Tôi chồm lên nói như quát:
- Cái gì! Ông bạn "không quen biết" muốn gì nữa đây ? Hả ? Ông tưởng làm thế chúng tôi sợ lắm đấy hả ?
1 giọng nói trầm ấm quen thuộc vẳng bên tai:
- Ủa! Chiêm! Chiêm đó hả ?
Tôi đã nhận ra tiếng nói của ai rồi:
- Ba!
- Ờ! Ba đây! Có gì đó con! Chiêm! Sao con hoảng hốt hét ầm lên thế, hả ?
- Ba ơi!... Có người gọi điện thoại a... a...
Ba tôi cắt ngay:
- Biết rồi! Ba biết rồi! Cái anh chàng nào đó gọi đến nhờ ba mua dùm cho mấy cuốn sách gì đó mà! Bảo anh ta là ba đi vắng rồi, nghe! Này Chiêm à, ba má và chị An con hiện còn ở cách Saigon 50 cây số nữa thì xe "pan"...
- Á... á... nghĩa là tối nay ba chưa về được... ?
- Đúng thế đó con! Ba má và chị An con đành phải ăn và ngủ tại khách sạn trên dọc đường . Mai về sớm cho mát.
Chết rồi, vậy là tôi phải ngủ ở nhà 1 mình ? Nguy quá! Chắc tôi không kham nổi mất rồi!
- Ba ơi! Nghe con nói này, ba!
Khổ quá, ba tôi vẫn hồn nhiên như không:
- Chiêm! Má con, mới xa con 1 ngày mà đã thấy nhớ con rồi! Con nói chuyện với má chút nghe!
Rồi là tiếng má tôi:
- Chiêm, có gì lạ không con ? Nhớ má không ? Nấu cơm, ninh khoai tây mà ăn cơm đi con nghe! Bánh bông lan má phần con ở trong trạn đó . Ăn xong tráng miệng... rồi đi ngủ sớm cho khỏe nghe con! Đừng loa gì cho ba má và chị An con hết á, nghe! Sáng mai má về sớm! Chị khó ngủ 1 mình, 1 đêm, đừng sợ nghe con!
"Đừng sợ"! Hà! Tôi còn biết nói sao với má tôi đây ?
Rồi là tiếng má tôi gác máy . Đưa tia mắt ngó qua cửa sổ: bóng tối đã bao trùm cảnh vật . Tụi gian phi mà biết tối nay tôi ở nhà có 1 mình, chắc chúng sẽ mò tới, trói tôi lại mà tra khảo xem tụi tôi đã biết được những gì về công việc ám muội của chúng.
Tôi lại sang bên bác, chộp ống điện thoại, quay gọi Trí . Tiếng ông Bích Tâm ở đầu giây . Ông bảo đợi ông đi gọi Trí cho . Tôi nói rõ tình hình cho "sếp" biết:
- Tôi không dám ngủ nhà 1 mình đâu, Trí à! Trí xin phép ba má cho tôi lại đằng anh ngủ nghe, được không ?
Sau chừng nữa phút im lặng, tiếng "sếp" reo vui:
- Được, được chứ, Chiêm! Tôi nói với ba má tôi liền bây giờ đây . Chắc chắn ba má tôi đồng ý . Chờ đó!
Tôi nghe rõ tiếng anh đặt ống nghe lên bàn, rồi là tiếng anh gọi: "Má má! Má ơi! Bên Chiêm cả nhà đi vắng hết, có mỗi mình nó ở nhà, má cho con qua ngủ với Chiêm cho nó đỡ sợ, nghe má!"
Tóc tôi lại dựng đứng trên đỉnh đầu . Và tôi hét lên:
- Trí! Trí! Tôi có bảo Trí qua bên tôi ngủ đâu! Tôi sang bên ấy kia mà! Trời ơi! Sao kỳ vậy! Trí ?
Giọng Trí vẫn thản nhiên:
- Vậy là yên trí rồi, nghe, Chiêm! Má tôi bằng lòng rồi! Tôi qua liền bây giờ đó!
Đoạn để mặc tôi nói khan cả cổ, Trí gác máy . Chừng 15 phút sau anh đã đạp xe tới, na theo 1 túi thật bự.
Tôi bĩu môi:
- Anh dọn nhà đấy hả ?
Trí lạnh lùng trả miếng ngay:
- Đồ cần dùng tối thiểu! Dọn nhà gì ?
Không nhịn nổi nữa, tôi nói lớn:
- Nhưng anh đã lầm, quá xá lầm! Tôi, tôi này! Chính tôi muốn sang ngủ bên đó với anh, chứ có bảo anh sang đây ngủ với tôi đâu!
- Biết! Biết rồi! Nói hoài! Nhưng tôi, nhân danh giám đốc hãng CT2, tôi lại quyết định khác . Như thế này: 1 căn nhà vắng người lớn là hậu cứ lý tưởng cho 1 cuộc hành quân ban đêm . Chiêm phải nhớ kỹ điều đó!
Tôi chợt giật mình, trợn tròn mắt:
- Thế là thế nào ?
Giọng Trí tinh quái:
- CT3! Tôi quyết định là tới sào huyệt của bọn đúc tiền giả... ngay đêm nay . Tôi muốn chúng ta sửa soạn... lên đường tức khắc!

Chương 16
Sau khi phát ngông câu tuyên bố nẩy lửa như vậy, Trí giốc ngược chiếc túi lên bàn sa lông . Anh lôi ra 2 bộ "piđa-ma" mà chúng tôi vẫn gọi là đồ ngụy trang và 1 cái thắt lưng da đeo dính 1 chiếc bao da trong đó có cái máy chụp hình và kèm theo cả đèn chớp.
Anh vỗ vỗ vào cái máy ảnh:
- Cái món này quan trọng nhất đây! Chúng mình sẽ chụp trộm tất cả công việc của bọn làm bạc giả trong sào huyệt của chúng!
Giọng tôi châm biếm:
- Khá lắm! Chúng ta sẽ chụp được có tới "một" pô hình chứ không ít, và rồi ánh đèn chớp sẽ lôi cuốn cả 1 tiểu đoàn địch quân kéo tới há!
Tiếng Trí nghe chắc nịch:
- Yên trí đi, Chiêm! Cái bóng đèn này lóe lên 1 luồng ánh sáng đỏ, mắt người thường không thấy được! Thử ngó cái hình này xem, ai đó, Chiêm ?
Trong tấm ảnh, rõ ràng là hình tôi lúc đang bước vào "Phòng thí nghiệm", đôi mắt mở lớn như đang cố trông tìm 1 cái gì trong bóng tối.
Ngạc nhiên, tôi hỏi Trí:
- Anh chụp bao giờ thế này ?
- Ha, ha! Chỉ 1 câu hỏi đó là đủ chứng tỏ cái giá trị tuyệt vời của ánh sáng hồng ngoại tuyến rồi! Mình chụp hôm nọ, lúc Chiêm mò vào "Tổng Hành Dinh" đó, nhớ không ? Bữa mà Chiêm sững sờ ngạc nhiên khi bước vào thấy mình làm việc trong bóng tối đó!
Chợt nhớ ra, tôi lẩm bẩm:
- Ừ, nhớ rồi! Nhớ ra rồi! Tuyệt quá hả!
Trí liền giảng rõ cho tôi tính chất đặt biệt của cái máy chụp hình này . Cũng không có gì khác lạ lắm so với các máy ảnh khác, duy cái ống ngắm thì tinh vi hơn và mặt lăng kính thì lại có 1 tấm màng mỏng màu đen bao kín.
- Chiêm chỉ việc nhấc tấm màng đen này ra bấm chụp, đoạn thay bóng đèn này, có vậy thôi hà!
- Bất hủ thật! Vậy thì chúng mình cứ việc chụp lia lịa mà tụi nó không phát giác được sự hiện diện của chúng mình, há! Và để làm tang chứng thì... tuyệt cú mèo... heng!
Đang cao hứng, đột nhiên tôi im bặt trợn mắt nhìn Trí . Anh đang ngoác miệng đến tận mang tai mà nghe răng cười khoái trí . Thì ra cá đã cắn câu: nói cho rõ ra là tôi đã vô tình "ô kê" với anh trong việc... hành quân trinh sát địch ngay trong đêm nay.
15 phút sau, Trí và tôi đã đạp xe song song bên nhau qua những con đường chìm ngập trong bóng tối . Mãi mê suy nghĩ, tôi cũng quên không nhắc Trí có cần né tránh con đường đi ngang nhà bé Thơ không . 2 đứa chưa kịp đề phòng thì đã nghe tiếng gọi nheo nhéo sau lưng:
- Ê hê! Chiêm, Trí, chờ tôi đi với, Chiêm Trí!
Tôi hét lên:
- Không được, bé Thơ! Con gái con đứa làm sao mà đi... lột mặt nạ cả 1 bọn... a... a...
Chưa nói dứt câu, cùi chỏ của Trí đã thúc vào hông bảo tôi im ngay đi.
Nhưng tiếng nói chua như chanh của bé Thơ đã lại lanh lảnh như còi xe lửa:
- 1 bọn kia lận, hí, hí! Vậy chờ tôi, chờ tôi đi với, nghe!
Trí gắt lên:
- Đã bảo không mà! - Rồi anh nhấn cẳng đạp mạnh và mau hơn.
Tôi mím môi đạp nhấn theo anh . Cả 2 bỏ cách bé thơ thật dễ dàng . Nghĩ cũng thương hại bé Thơ nhưng thiệt tình không thể cho bé đi theo được.
Chẳng mấy chốc, 2 đứa tôi đã ra khỏi địa phận Thủ Đức . Bóng tối đen đặc bao phủ tứ bề . Nhưng "sếp" tỏ ra bình tĩnh lạ lùng . Thì ra anh đã thuộc đường! Đôi lần tôi thấy anh đột ngột ngoái đầu nhìn lại phía sau lưng . Cho xe sát gần tôi, anh khẽ nói:
- Ê Chiêm! Mình có cảm giác là lạ! Hình như có người theo dõi tụi mình thì phải!
Giật thót mình, tôi cũng quay đầu ngó lại, không thấy gì lạ.
1 lúc sau, chúng tôi đã tới con đường dốc bữa hôm trước, rồi là lùm cây rậm đen nơi bãi thấp phía xa xa . 2 anh em xuống dắt xe đi vào đường đất dẫn tới khu nhà "sào huyệt" của bọn "bạc giả" . Bỗng Trí giẫm phải 1 hòn cuội lớn khiến nó lăn lông lốc gây ra tiếng lộc cộc vang lên mãi không ngớt . 2 anh em nín thở ngồi thụp ngay xuống . Nếu lão Đặng Lân khôn ngoan kia mà đặt sẵn 1 người gác "chìm" tại đây thì thật 2 anh em đã sa vào bẫy tức thì . May sao, bốn bề vẫn im lặng . 2 anh em bấm nhau từ từ nhô lên rồi dắt xe dè dặt tiến đến 1 cái cột xi măng mang tấm biển kẻ 2 chữ: "đất bán". Chúng tôi dựng xe đạp dựa vào cây cột . Trí thì thầm:
- Tấm biển này quả là điểm mốc dễ nhận nhất trong trường hợp cấp kỳ!
Tôi rợn người:
- Cấp kỳ! Cái gì mà "cấp kỳ" ?
"Sếp" không trả lời . Anh lấy bộ "piđa-ma" ngụy trang ra mặc vào . Tôi cũng lập tức làm theo . Xong, anh xoa lên mặt bằng 1 miếng giẻ cháy dở, than bụi đen thui, đoạn đưa cho tôi bảo "hóa trang" lẹ đi.
Phút sau, 2 đứa đã sẵn sàng "tác chiến".
Nằm rạp xuống đất, Trí và tôi, hướng về phía khu nhà bí mật, trườn tới . Mặt trăng lúc mờ, khi tỏ, khiến chúng tôi không thể nhìn rõ vật gì trước mắt, dù chỉ cách độ 1 thước, lúc lại phải nằm im như giả chết vì mặt trăng chợt nhô khỏi cụm mây tỏa ánh sáng chói chang như hỏa châu vậy . Cũng may mà đường tiến quân lại lọt vào đúng 1 cái đường mương ăn thẳng vào khu nhà hoang phế . Căn phòng chính giữa có ánh sáng le lói chiếu hắt ra: đồng bọn của Đặng Lân chắc đang lúi húi làm việc . Trí bóp khẽ cánh tay và rỉ tai tôi cứ nằm phục tại chỗ . Nhẩy đánh vút 1 cái, anh đã băng qua con đường đất đỏ, sáp lại ô cửa sổ đang rộng mở . Chưa đầy 1 phút sau, anh đã quay trở lại . Kề môi sát tai tôi:
- Chiêm phải tiến thật sát ô cửa sổ . Nếu không, khoảng cách xa quá ảnh sẽ mờ, hỏng hết đó, nghe!
Hồi hộp quá, tôi đâm ra cáu sườn, nghiến răng hỏi móc "sếp":
- Anh có cần tôi vào bảo tụi gian ngồi thật điệu để tôi bấm máy "pô" cho đẹp không ?
Nhưng khi Trí quay ra tiến về phía cửa sổ, tôi cũng theo anh bén gót . Đặt nhẹ đầu ngón như bước chân mèo, tôi kiễng lên dòm qua ô kính: Đặng Lân đang đứng bên 1 người áo xanh điều khiển 1 cái máy rập . Tên thợ đút từng thanh "sắt" dài bẹt, 1 thanh kim loại gì đó chớ chắc không phải sắt, vào ổ máy, rồi đưa tay đón những miếng tròn tròn, nối đuôi nhau rớt ra . Chốc chốc, Đặng Lân lại nhón lấy một, hai cái đồng tròn xinh xinh đó, ngắm nghía, suýt xoa, đoạn để vào trong 1 cái khay cùng với các đồng khác.
Trí hạ thấp giọng:
- Bấm 1 "pô" hình Đặng Lân đang ngắm nghía đồng tiền giả của hắn đi, lẹ lên!
Tôi tuân hành, làm ngay . Luồng sáng đỏ lóe lên, nhưng mắt thường không ai trông thấy được . Cứ mỗi lần thay bóng đèn, tôi lại cảm thấy ngón tay nóng như bị bỏng, và tôi yên trí rằng máy đã chụp ngon lành . Cho máy qua ô cửa sổ, tôi bấm liền 2 "pô" nữa trước khi tiến qua cửa sổ thứ 2 kế cận đó . Tại căn phòng này, Sáu Goòng cùng 2 tên nữa đang gọt rũa lại từng đồng tiền giả 1 để cho hết những miếng vẩy thừa, 1 người thợ nữa đang bưng cả khay tiền nhúng vào 1 cái chậu lớn đựng chất lỏng gì đó.
Trí khẽ giải thích:
- Sáu Goòng đang chải chuốt vuốt ve cho những đồng tiền giả đó . Nó cho nhúng khay tiền vào chậu đựng ốc-xít pha loãng để đồng nào đồng nấy bớt đi cái vẻ mới sáng loáng quá, trông dại mặt, khiến người ta dễ nghi ngờ . Chiêm hiểu chưa ?
Trong giây phút thập phần nguy hiểm như vậy, thế mà tôi suýt bật phì cười với ý nghĩ: "Trí rành về cái món này như vậy, giá hùn hạp với Sáu Goòng, Đặng Lân thì hay quá... ".
Tôi bấm liền 2 "pô" nữa, thì chợt thấy 2 tổ này đặt bước tiến ra phía cửa . Tôi liền theo bén gót Trí vòng qua sân phía sau . Đúng lúc 2 anh em vừa nhô khỏi đằng đầu hồi nhà thì chợt thấy Sáu Goòng và Đặng Lân băng qua cái sân rộng tiến vào nhà xe rộng lớn . Tiếng Đặng Lân nghe rõ mồm một:
- Chà! Mấy đồng các 20 bạc Việt Nam đẹp ác à nghe!
Giọng Sáu Goòng đúng là giọng kể công:
- Thì đó, cái khó tính chuyên viên đục trạm của tôi bây giờ mới thấy là có lý, phải không ? À, này anh Đặng Lân ngoài cổ phần ra không kể, còn cái món tiền thưởng thì tính sao, mong anh liệu tính sớm giùm cho! Chờ đợi là 1 điều tôi ghét nhất đấy!... À, nếu vậy thì tính ra có thể đúc được mỗi tháng ít nhất là hơn 1 triệu bạc, heng! Vậy thì anh khỏi cần phải kể chuyện cà kê dê ngỗng gì hết vì tôi sẽ... không tin đâu! Chỉ xin anh trả lời cho 2 điểm là: bao giờ, mấy bữa nữa, anh cho tôi lãnh tiền thưởng và tiền thưởng đó là bao nhiêu ? Có vậy thôi!
Không nghe Đặng Lân trả lời sao, vì lúc đó 2 người đã tiến đến cửa nhà để xe và đang lạch xạch mở 2 cánh cửa . Núp sau 1 chiếc xe đậu gần đấy, tôi giơ máy chụp hình, hướng về phía đó bấm liền mấy "pô" nữa . Đoạn, Trí ra hiệu cho tôi: đã đến lúc rút lui.
Mặt trăng lúc đó đã lẩn kín vào trong mây . Bóng tối thật đen và thật dầy tưởng chừng như lấy dao mà sắt ra được . Nhưng, nhờ ở chỗ nẻo đường tiến quân cũng như lối rút quân, duy nhân chỉ là con mương đào, nên 2 đứa tôi mò ra chỗ lấy xe đạp không mấy khó.
2 anh em chăm chú bò hết con mương . Được khoảng nửa đường, đột nhiên Trí húc nhằm 1 người nào đó trong bóng tối; tôi bò sát ngay phía sau nên cũng ngã chồm lên người anh . Cả 3 nằm ngổn ngang trên mặt đất, chân tay vướng khoặc vào nhau . Trí đứng phắt dậy, la khẽ:
- Người của Đặng Lân! Chạy mau, Chiêm!


Chương 17
Không phải giục tới lần thứ hai, tôi theo Trí, lao đi như gió cuốn . Đột nhiên phía sau có tiếng ré lên:
- Chờ tôi với! Chờ tôi với!
Và tiếng đó, khổ thật, đúng là tiếng bé Thơ . Trong giây phút nguy tai đó, tôi còn biết làm gì hơn là chìa tay ra cho nó nắm, rồi cả 3 lao đầu chạy bán sống bán chết ra phía con lộ đất đỏ.
Trong khu nhà đã nghe tiếng rục rịch: tiếng mở cửa, tiếng người chạy túa ra khoảng sân rộng, và... ánh đèn "pin" chiếu loang loáng.
Có tiếng nói lớn:
- Có thấy gì đâu nào! Chắc anh thần hồn nhát thần tính rồi, anh Lân ơi! Có gì đâu nào! Yên tĩnh như thường hà!
Tiếng Đặng Lân:
- Biết đâu đấy! Rõ ràng tôi nghe tiếng nói nheo nhéo mà! Xục vào các bờ bụi coi! Đó! Cái bụi cỏ cao đó! Tụi oắt con đã giấu xe đạp trong đó hôm qua đấy!
Rúc trong đám cỏ rậm, 3 đứa chúng tôi thở không ra hơi, hoảng sợ xanh xám cả người đi . Cây cột xi măng, chỗ dựng xe đạp chỉ còn cách khôn gbao xa, mà không đứa nào dám nhúc nhích . Liếc mắt nhìn kỹ, tôi giật bắn người khi nhận ra... có thêm 1 chiếc xe đạp nữa... cũng dựa nghiêng vào cây cột.
Tiếng bé Thơ phào phào bên tai:
- Xe của tôi đó! Để đó không sợ lạc chỗ, heng!
Tôi nghiến răng kèn kẹt:
- Ừa, ừa! Để xe đó dễ thấy lắm! Tụi Đặng Lân mà tiến lại thêm chút nữa, chắc bắt gặp mấy cái xe đạp cũng không khó, heng!
Vừa nói, tôi vừa tức giận tưởng phát điên lên vì cái con bé "tiểu nữ tặc", nhưng không lẽ lại... hét rầm lên.
Trí nhẹ chỉ bàn tay về phía bên trái!
- Chúng ta bò vòng qua phía bên này . Tụi nó đã tràn lên con lộ đất và chặn đường rút lui của tụi mình rồi . Cẩn thận, nghe, nào... tiến!
Sau hơn 1 phút bò 4 chân, chúng tôi đã vớ được xe đạp, nhẩy phóc lên, đạp bạt mạng, ngược với hướng đi ra đường cái nhựa . Có tới 10 phút sau, Trí mới là người đầu tiên cất tiếng . Anh hét lên:
- Trời đất ạ! Bé Thơ kỳ quá! Đã bảo đừng đi theo, không nghe . Chút xíu nữa làm tụi này bị chộp hết à!
Con bé chấu mỏ:
- Thì đã bị bắt đâu nào ? Nói hoài!... Tôi cũng có quyền đi theo để xem cuộc điều tra đã tới đâu rồi! Tôi cũng là khách hàng của hãng các anh, chớ bộ!
Ối! Cãi lý với bé Thơ "đầu bò" thiệt là mệt! Nó luôn luôn giành phần phải về mình . 1 lúc sau, Trí thắng xe lại:
- Chà! Chúng mình đạp xe chạy lung tung hết rồi! Làm sao tìm đường về đây ? Lạc đường nguy quá!
Bé Thơ bĩu dài môi:
- Lạc đường! Các anh lạc thì có, chớ tôi thì còn lâu . Tôi biết mà! Tôi biết rõ là hiện thời tụi mình đang ở đâu cơ!
Cô bé lên giọng rất hách:
- Ê! 2 anh cứ việc theo tôi mau! Không có tôi là đố các anh có làm được cái trò trống gì! Đi!
Tuy bực mình ghê lắm, tôi vẫn phải công nhận lần này quả thật bé Thơ lợi hại vô cùng . Cô bé thuộc đường ở vùng đồng ruộng này quá xá và hướng dẫn chúng tôi lần về tới Thủ Đức không mấy khó khăn.
Tới nhà, cô bé đứng trên ngưỡng của, giơ cao tay, giọng tinh nghịch:
- Về ngủ ngon, nghe, các bồ! Các anh may mắn gặp được tôi đó, nghe!
Tiếng Trí:
- Ngủ ngon! Bé Thơ! Cám ơn nhiều lắm, nghe bé!
Cô bé rắn mắt còn cố gài thêm 1 câu:
- Thôi mà! Chút đỉnh mà ăn thua gì!
Bé Thơ chưa nhận ra tính chất châm biếm trong giọng nói của "sếp" tôi . Ánh mắt anh liếc nhìn tôi đã nói lên điều đó . Nhưng đột nhiên 1 chuỗi cười khanh khách làm 2 đứa giật nẩy người:
- Và này! Về nhớ tắm rửa, lau sạch mặt lem mũi lọ đi nghe! Hí, hí! - Rồi tiếng cánh cửa đóng nghe cái "sầm".
Lúc đó chúng tôi mới trợn mắt nhìn nhau: trên người 2 đứa vẫn đeo 2 bộ"piđa-ma" ngụy trang và mặt bôi lọ than đen như 2 anh chàng Hynos . 2 anh em lập tức chạy vào 1 góc hè kín đáo, trút bỏ 2 bộ rằn ri và rút mùi xoa lau sạch mặt mũi . Rồi lên xe thong thả đạp về nhà.
Đến trước cửa nhà tôi, Trí ngập ngừng:
- Mới 9 giờ 30, Chiêm à! Hay là tụi mình về đem cuốn phim rửa mấy cái ảnh quý giá đó coi đi!
Tôi cũng không ngờ là trời vẫn còn sớm đến thế, nên vui vẻ tuân lệnh "sếp" ngay.
2 anh em lặng lẽ tiến vào gian kho nhà Trí . Anh nhẹ nhàng ấn nút mở cửa bí mật . Vào đến trong "phòng thí nghiệm", anh bật đèn sáng trưng, rồi bắt tay ngay vào việc . Để tráng phim, rửa ảnh, Trí đã sáng chế sẵn 1 bộ đồ nghề trông thật lạ mắt, rất xinh . Anh vặn nút điều chỉnh 1 lúc lâu, đoạn đặt phim vào cái hộc nho nhỏ, rồi pha phách thuốc nước tráng phim ảnh . Ngâm phim trong đó, và trong khi chờ đợi, anh tiến lại ngồi bên tôi.
- Máy tráng phim và rửa hình này tự động!... Chúng ta chỉ việc buông tay ngồi chờ chừng nửa tiếng đồng hồ.
Thật, từ xưa tới nay, chưa bao giờ tôi lại thấy cái nửa giờ nào mà lại kéo dài lâu đến như thế . Và tới khi cái máy tự đọng reo lên 1 hồi chuông báo là việc rửa ảnh đã xong, tôi cảm thấy thể xác mệt mỏi rã rời tưởng chừng như mới đứng gác 1 lèo liền tù tì trong 8 tiếng đồng hồ.
Trí tiến tới bên máy, kéo 1 ô hộc thứ hai ở phía bên kia, lôi ra 1 băng giấy ướp lạnh, ẩm ướt . Giọng nói của anh nghiêm trọng:
- Đây ảnh của CT3 chụp tụi gian phi đây! - Và anh tiến lại sát ngọn đèn điện.
Vô cùng hồi hộp, tôi cũng sáp lại bên anh, dòm qua vai, chiêm ngưỡng tác phẩm . Trí thận trọng giở dài cuộn giấy ướt . Và tôi có cảm giác như cả cái trần nhà trên đầu đang sập xuống: cuốn giấy hình... trắng xóa!
Giọng nói tôi run bắn lên:
- Ủa! Trí! Hư hết rồi hả ?
- Ừa! Hư cả! Trắng lốp hết!
Dứt lời, anh quay trở lại bên chiếc máy rửa hình, lôi cuộn phim ra: cũng trắng xóa nốt!
"Sếp" tôi thần mặt, lẩm bẩm:
- Lạ! Thật tình tôi không hiểu sao lại kỳ vậy! Mình đã thử đi thử lại tới hơn 1 chục lần rồi kia mà! Vô lý hết sức! Hừ! Sao lại có thể thế này được nhỉ ?
Bực mình quá, tôi cũng nổi sùng không kém.
- Hừ! Trí cứ làm như mình là nhà bác học Einstein ấy! Bây giờ đã ngã ngửa người ra chưa ?
Tôi hét vào mặt anh:
- Này! Thôi anh lại còn kêu ca gì nữa ? Chính anh đã muốn thế thì sự việc nó xảy ra như thế! Còn gì nữa mà kêu! Anh đã muốn có những bức hình chụp không cần phải có ánh sáng, tức là ánh sáng vô hình, thì đó... anh đã được những bức ảnh vô hình đấy, còn đòi gì nữa, "ông" ? Hợp lý quá rồi còn gì ?
Trí cắn môi:
- Thôi!... nói hoài, mệt quá!
Tôi vẫn chưa chịu thôi:
- Nói hoài! Anh còn bảo tôi "nói hoài"! Tôi nói đúng quá mà, làm sao nhịn được chứ! Phải vào sinh ra tử mới chụp được mấy "pô" hình đó! Đặng Lân và đồng bọn có thể giết chúng mình như chơi vậy đó! Tôi chỉ yêu cầu anh 1 điều rằng, trước khi đem cái "bảo bối" gì của anh ra dùng... thì cần phải soát xét lại cẩn thận trước đã!
Được dịp "xài xể" sếp, tôi khoái chí tử, nhưng Trí tỏ ra không mấy quan tâm mấy đến những lời mỉa mai của tôi . Anh chăm chú kiểm soát lại các bộ phận trong chiếc máy ảnh, ấn cái nút này vặn cái chốt kia, rút tung mấy cái ngăn hộc nhỏ xinh xinh ra, dốc ngược một hai cái ve nước hóa học gì đó đưa lên mũi ngửi ngửi.
Bực bội quá chừng, tôi xây lưng lại phía anh, khoanh tay đi đi lại lại trong "phòng thí nghiệm" nghiến răng kèn kẹt như muốn nhai nát cái thất vọng đắng cay.
1 lúc sau, anh khẽ cất tiếng gọi tôi:
- CT3 lại đây coi chút đi!
Tôi bước tới, tự hỏi thầm chẳng hiểu anh còn định viện dẫn lý do "tại", "bị" gì nữa đây... để cải xóa khuyết điểm tai hại của anh.
Tiếng Trí buông gọn:
- Quan sát lại máy ảnh đi, CT3!
Tôi nhắc chiếc máy lên . Chiếc máy tôi đã dùng để chụp những "pô" hình gay cấn nhất . Bất giác tôi lẩm bẩm:
- Quái! Máy chụp đâu có cái gì trục trặc nhỉ ?
Tiếng nói của Trí chậm rãi như đến từng chữ một:
- Ống kính thu hình! Coi kỹ cái ống kính thu hình đi!
Giọng tôi gay gắt:
- Ừ, sao ? Ống kính thu hình thì sao mới được chứ ? Vẫn ngon lành như thường, có trục trặc gì đâu mà... á... á...
Tôi bỗng há hốc miệng nói không ra tiếng, suốt người như bị xối 1 gáo nước lạnh buốt! Chết tôi rồi! Cái màng mỏng màu đen... vẫn úp chụp bao kín bên ngoài ống kính thu hình . Khi bấm chụp, tôi đã quên bẵng đi không nhất cái nắp đậy màu đen đó ra . Hèn gì mà... phim lại chẳng bị trắng xóa hết.
Tôi run giọng nói với Trí:
- Trời ơi! Lỗi tại tôi rồi, Trí ơi!... Làm sao bây giờ đây ?
Quả có thế! Ăn làm sao, nói làm sao bây giờ đây ? Tôi chỉ còn biết đứng ngây ra như phỗng đá, cổ họng khô bỏng, nuốt nước miếng thấy khó khăn như nuốt hòn sỏi.
Trí đưa những ngón tay run run lùa vào mái tóc rối . Da mặt anh xanh rờn, vô cùng mệt mỏi.
Tôi luôn miệng:
- Trời ơi! Làm sao bây giờ đây ? Trời ơi!
- Mình cũng xin chịu! Chiêm à! Thiệt tình mình cũng không còn biết làm sao nữa đây chứ!
Đang lúc 2 anh em y hệt 2 trái banh sì hết hơi như vậy, thì lại nghe tiếng... báo động . Trước khi chiều xuống, hôm nào cũng vậy, bao giờ Trí cũng vứt rải rác 1 vài mẫu gỗ hoặc đá cuội trên mặt sàn nhà kho, người vô ý bước vào thế nào cũng đá hất trúng những cái món bừa bãi đó . Sỏi, đá, mẫu gỗ nhỏ sẽ đụng vào 1 hệ thống đường giây thép nhỏ nối liền với 1 dãy lon sữa treo dấu trong "phòng thí nghiệm" . Và giờ đây "chuông báo động" đó kêu lanh canh!
Trí thấp giọng:
- Có biến rồi! Tắt đèn đi, Chiêm! Và vớ lấy 1 cái gì đó làm võ khí, mau lên!
Tôi làm theo lời Trí, trống ngực đập thình thình . Nhất định là tụi Đặng Lân đã theo hút tụi tôi về đến đây rồi!

Chương 18
Trí bước êm như mèo đi, sáp lại nhòm qua kẽ sàn gỗ xuống dưới nhà . Tôi lăm lăm cầm 1 thanh cây gỗ chặn cửa, giơ cao, chờ Trí mở cửa trần nhà la lên 1 tiếng là choảng luôn... cho chắc ăn.
Đột nhiên tôi thấy miếng gỗ đậy nắp trần bật mở rồi tiếng... cười phá lên của Trí . 2 anh em theo bậc thang tụt xuống và chạm trán ngay với... bà Bích Tâm.
- Chính! Chiêm! - Bà cất tiếng gọi lớn - 2 anh em lúi húi làm cái gì vậy ? Má tưởng 2 anh em ngủ cả bên nhà Chiêm kia chứ ?
- Đúng thế đấy, má ơi! Nhưng chúng con chợt nhớ ra là có 1 cuộc thí nghiệm quan trọng quá chưa làm xong, má à!
- Vậy hả ? Thế thì làm nốt đi! Khi nào xong, thì liệu mà đi ngủ đi, nghe! Khuya rồi! Đừng mất công lặn lội qua nhà Chiêm nữa! 2 anh em ngủ lại luôn đây đi! Chính nhớ lấy bộ "piđa-ma" của con cho Chiêm mượn, nghe!
Tôi lầm lũi bước theo Trí về phòng ngủ của anh . Đến nơi, tôi giật mình ngó xuống tay . Trời đất! Cái máy chụp hình của Trí tôi vẫn nắm chắc từ lúc nào không hay! Thì ra... lúc "báo động" tôi đã quýnh quáng quơ lấy máy chụp hình, yên trí là 1 thanh gỗ sẵn sàng quất vào đầu quân địch . Rồi mọi việc xảy ra dồn dập khiến tôi quên bẵng mất không để trả lại tại "phòng thí nghiệm". Tôi có cảm giác mấy đầu ngón tay như bị nóng bỏng liền đặt chiếc máy lên kệ gần cửa sổ . Trí lặng lẽ đưa tôi 1 bộ "piđa-ma", không nói 1 tiếng.
Tôi gượng cười buồn bảo Trí:
- Tóm lại, tôi đã phạm 1 lỗi lầm tai hại quá chừng! Trí à! Nhưng ai cũng có thể bị lỗi lầm được chứ phải không ? Vậy thì anh cũng chẳng nên bực bội, buồn phiền vì tôi nữa, nghe!
Trí nhè nhẹ lắc đầu:
- Cũng không hoàn toàn lỗi tại Chiêm cả đâu! Chúng ta đã cùng đồng lao cộng khổ . Thắng, chúng ta cùng vui, mà bại thì chúng ta cùng buồn rầu chia sớt với nhau . Có vậy thôi! Sao mình lại có thể phiền Chiêm được!
Tôi nhìn Trí, ngấm ngầm cảm động, thầm cám ơn anh . Và miệng tôi không ngớt lẩm bẩm:
- Không biết xoay sở cách nào đây ?
Trí đã nằm xuống giường . Anh kéo chăn lên đến cổ và nhắm mắt lại . Tôi còn ngồi sừng sững trên giường kế bên, đưa đôi mắt buồn bã nhìn anh . Trí mấy máy đôi môi:
- Mình cũng chưa biết phải xoay sở cách nào đây nữa! Thôi ngủ đi Chiêm, mau sẽ hay!
1 lúc sau, nhịp thở anh đều đều cho tôi biết là anh đã ngủ say . Còn tôi thì không thể nào đặt mình nằm xuống nổi, đôi mắt cứ thao láo đăm đăm nhìn vào bóng đêm . Trong lòng tôi buồn khổ không bút nào tả xiết . Lỗi tại tôi tất cả, thật rõ ràng quá rồi . Trí khổ công lo làm đủ thứ, gần đi đến kết quả, mà chỉ vì tôi sơ ý 1 chút làm cho hư tất cả... Hà! Sai 1 ly, đi 1 dậm là thế này đây!
Trăng lên từ lúc nào, chiếu qua song cửa sáng trưng . Trên mặt bàn kê sát cửa sổ, chiếc máy hình tôi tiện tay để từ hồi nãy, nằm lù lù như hiện thân của số mệnh . Tôi biết chắc trong máy có 2 cuộn phim . Mỗi cuộn gồm 6 "pô" kèm theo 6 bóng đèn . Tôi nhớ rõ là đã dùng hết 8 bóng, như vậy còn lại 4 "pô" và 4 bóng nữa.
Như bị 1 mãnh lực vô hình nào sai khiến, tôi nhẹ nhàng đứng xuống sàn, mặc quần áo, tiến lại bên cửa sổ . Qươ tay vớ chiếc dây da của túi máy hình, tôi quàng vao vai rồi quay ra mở nắp 1 cái thùng, trong đó, tôi biết là Trí để 1 cuộn thang giây anh vẫn thường dùng để trèo xuống sân mà không muốn để ai biết.
Sửa soạn ngồi lên thành cửa sổ, tôi còn đưa mắt ngó Trí 1 lần nữa . Anh vẫn thở đều đều, chìm trong giấc ngủ say . Tôi chợt có ý định để lại cho anh mấy chữ . Nhưng ngại mất thì giờ, vả lại tôi sẽ cố gắng trở về trước 12 giờ đêm, nên xét ra việc báo cho anh biết cũng không cần thiết lắm.
Đường phố, nhất là khi chiếc xe đạp bon bon ra tới ngoại ô, như đen tối hơn nhiều so với lúc cùng đi với Trí mấy tiếng đồng hồ trước đây . Mặc! Tôi nghiến răng, mắm môi mắm lợi cắm đầu ra sức đạp . Chẳng mấy chốc, khu nhà bí mật, sào huyệt của tụi Đặng Lân đã hiện ra thấp thoáng.
Tôi đưa mắt tìm ra cây cột si măng không 1 chút khó khăn và dúi sâu chiếc xe đạp vào trong đám cỏ rậm gần bên chân cột . Rồi, cúi xuống thật thấp, tôi bò vào đường mương . Bò trong lòng mương hẹp cùng với Trí, tôi đã thấy khó; giờ đây bò trườn 1 mình, tôi lại thấy còn... khó hơn nữa . Nhưng, dù run thì run, tôi vẫn nghiến răng... thẳng tiến, bất chấp mọi nguy hiểm . Tôi nhất quyết chụp lại bằng được những tấm hình mà vì 1 giây sơ ý tôi đã chụp hư, làm hỏng tất cả mọi việc, làm khổ cho "sếp" tôi không ít . Càng bò gần đến khu nhà, tiếng máy chạy sầm sầm nghe càng rõ: Đặng Lân và đồng bọn vẫn còn đang làm việc.
Không cần phải nhắc, tôi cũng đưa tay gỡ cái màng "voan" đen che ống kính thu hình . Rồi, 2 hàm răng nghiến chặt đến nỗi xương quai hàm bạm bên, tôi tiến sát tới bên ô cửa sổ, thi hành sứ mạng tự tôi vạch ra để lập công chuộc tội.
Thế rồi... cuộc đụng độ hãi hùng đã xảy ra như thế nào, tôi mê mụ cả người đi, không còn nhớ được chút gì nữa . Chỉ biết rằng, ngay lúc đó, thoáng nghe tiếng sỏi lạo sạo phía sau lưng, rồi không đầy 1 giây đồng hồ, 1 bàn tay to lớn áp chặt vào miệng tôi muốn kêu lên cũng không còn được nữa . Chân tay tôi đấm vung vít như 1 con chó sói bị sa lưới, quẫy đạp lung tung; vô ích: tôi đã bị bắt!
Gã đàn ông chộp giữ tôi la lớn:
- Huỳnh Bân! Tới đây, mau lên! Bân!
Trời đất! Đúng tiếng nói của Đặng Lân!
Dứt lời, hắn kéo tôi sềnh sệch vào trong nhà, đèn đuốc sáng trưng, đẩy mạnh tôi tới trước mấy người thợ đang trợn tròn mắt lên nhìn, mặt ngây ra vì kinh ngạc . Trong đám thợ đó tôi nhận thấy có cả Huỳnh Bân!
Tên Đặng Lân gầm lên:
- Các anh mở lớn mắt ra mà ngó cho rõ đi! Hừ! Các anh chưa tin tôi mà! Tôi đã bảo là rõ ràng tôi nghe tiếng người léo nhéo mà các anh còn cười khẩy bảo tôi là sợ hão kia mà! Và tôi đã tuyên bố trắng với anh em là thế nào chúng nó cũng còn trở lại nữa . Không cả 2 thì cũng 1 thằng! Đúng hay sai! Hả ?
Không 1 người nào trong bọn thợ lên tiếng . Nhưng riêng tôi, tôi phải tự nhủ thầm: "quả hắn đoán không sai!".
Tên Huỳnh Bân đưa tay gỡ chiếc máy ảnh từ tay tôi ra, giơ lên xem xét trước khi rút cuộn phim:
- Ha! Thằng ranh con này gớm thật! Nó chụp ảnh bằng tia sáng hồng ngoại tuyến, hừ!
Đặng Lân túm chặt cổ áo sơ mi, dúi mạnh tôi vào tường, gầm lên:
- Thằng ôn con khốn kiếp này! Tao đã bảo mày đừng có dính dáng vào chuyện này kia mà! Tại sao mày không nghe! Hả ? Đừng có hối nghe chưa!
Tôi sợ quá muốn ngất xỉu đi được . Nhưng sợ quá hóa liều, 1 cơn giận ở đâu bỗng như 1 lượng sóng loạn cuồng lấn tới tràn ngập toàn thân khiến tôi thu hết can đảm . Ngửng phắt đầu lên, tôi ngó thẳng vào mắt Đặng Lân, dõng dạc dằn từng tiếng như những cú roi da quất vụt:
- Được! Được! Các ông đã bắt được tôi rồi! Muốn làm gì thì xin cứ việc! Nhưng xét ra thì cũng chẳng đi đến đâu! Các b.an tôi đã nắm được đầy đủ bằng chứng để đưa các ông vào khám Chí Hòa rồi! Ông... và cả băng tụi gian phi của ông!
Tên Đặng Lân sáp lại:
- Cái gì ? Mày nói sao ? "Chúng tôi" ? Mày nói "chúng tôi"! À, thì ra cái thằng nhỏ ốm cao lênh khênh bữa nọ đi với mày cũng "rắc rối" vào vụ này nữa hả ? À, khá lắm! Tốt!... Vậy thì mày muốn sống muốn tốt phải khai thật cho tao biết: hiện thời nó ở đâu! Nói mau!
Tên trùm chúa kề kề sát mặt nó vào mặt tôi, hơi rượu bay nồng nặc, tia máu đỏ trong đôi mắt tròng mắt trắng đã hằn lên non thật rõ.
- Người bạn tôi đó hả ? À... à... anh ấy đang bận tráng phim rửa mấy bức hình tụi tôi đã chụp tại đây để dùng có việc cần . Ông nhớ giùm cho rằng, tụi tôi đã biết hết mọi hoạt động của các ông tại đây, cũng như việc làm ám muội của Sáu Goòng tại cửa tiệm lạc soong của y . Chúng tôi lại có cả bản rập cái khuôn mẫu đồng tiền cổ Hy Lạp cũng như khuôn mẫu đồng cắc 20 bạc Việt Nam, mà các ông làm giả và đang sản xuất lén lút tại đây nữa . Người bạn tôi sẽ đến nói chuyện với cảnh sát về vụ này!
- Hả! Chưa đâu, mày! Thằng khốn kiếp! Nó chưa kịp trình báo gì hết đâu! Câm miệng mày lại! Yên trí đi! Chúng tao còn dư thì giờ mà!
Huỳnh Bân nôn nả:
-... Dư thì giờ... là sao ? Anh Lân ?
- Dư thì giờ để "nhổ neo" chứ gì nữa! Chúng ta đã có 1 số vốn kha khá, dụng cụ, đồ trang bị đầy đủ cả rồi... Chỉ nội 2 tiếng đồng hồ là đã chất hết được tất cả lên xe cam nhông và... khi tụi cớm có tới thì anh em mình đã xa chạy cao bay rồi, hà!
Huỳnh Bân tán thành:
- Có lý! Có lý!
Rồi y quay ra phân phối mỗi người mỗi việc, sửa soạn... rút lui.
Đặng Lân thì giơ chân múa tay, luôn miệng hò hét mọi người chuẩn bị . Gã hét bảo Huỳnh Bân:
- Bân! Mày nhảy lên xe chạy đi báo cho thằng Sáu Goòng gấp, nghe chưa! Bảo nó thu dọn chiến trường lẹ lên, gói tất cả bộ khuôn mẫu tiền của nó lại, rồi đến đây cho tháo máy ngay bây giờ . Đi, đi!
1 tay thợ chỉ vào tôi:
- Còn thằng oắt con này, tính sao đây "sếp"?
Đặng Lân không thèm quay lại nhìn:
- Quẳng nó vào hầm tối cho tao! Tao sẽ tính đến nó sau!
2 người quần áo xanh xáp tới, lấy dây da trói 2 chân, 2 tay tôi lại, đoạn lôi sềnh sệch, đẩy vào 1 cái hầm tối hù dưới chân cầu thang tại phòng kế bên . 2 tên thợ này đẩy mạnh tôi vào trong hốc cầu thang, sập cửa, khóa trái lại . Trán đập mạnh vào tường đau điếng... và tôi ngất xỉu luôn.
1 lúc sau lâu lắm, khi tỉnh lại, cái mà tôi trông thấy trước nhất là 1 ô cửa sổ nhỏ ở tít trên cao . Trời chưa sáng nên tôi biết được rằng thời gian bị ngất xỉu đi không lâu . Nhưng không mong gì trốn thoát được vì chân tay tôi đã bị cột chặt . 2 tay lại còn bị trói quặt ra đằng sau nữa.
Lắng tai nghe, qua lần cửa sổ dầy, văng vẳng tiếng la hét của Đặng Lân hối thúc thuộc hạ thu dọn đồ nghề, máy móc . Có cả tiếng Sáu Goòng . Y đã được Huỳnh Bân cấp báo và chạy tới kịp thời.
Lòng buồn vô hạn, tôi âm thầm tự trách là chỉ tại mình mà đến nỗi bao công lao của Trí, trong phút chốc đã như công dã tràng xe cát . Tôi đã làm động ổ, chỉ nội sáng mai đây là tụi gian phi đã ngon lành cao bay xa chạy . Còn riêng thân phận tôi thì... hừ!
Như đáp lại mọi ray rứt thầm kín trong đầu óc tôi, tiếng lão Huỳnh Bân lanh lảnh vang lên hỏi tên sếp sòng:
- Chuẩn bị nhổ neo gần xong rồi, ông chủ! Trời sáng đến nơi rồi! Thằng nhỏ, ông chủ liệu tính sao đây ?
- Được! Cứ yên trí đi Huỳnh Bân! Tôi sẽ lo chuyện đó . Trước khi xe lăn bánh là xong xuôi hết . Anh để mấy khuôn mẫu đồng tiền vào xe tôi ngay đi!
Tôi run lên như phát sốt . Thế là hết! Bao nhiêu công lao khó nhọc coi như đổ xuống sông xuống biển hết hảy.
Đột nhiên 1 giọng nói lanh lảnh cất lên, át tất cả các tiếng nói khác, từ phía ngoài vọng vào chứ không phải từ trong nhà đưa ra . Tôi giật mình lắng tai nghe: Quái lạ! Sao âm điệu lại vẳng vẳng như 1 tiếng vang, từ phía sau khu nhà vọng lại:
"Chú ý! Chú ý! Đặng Lân và đồng bọn! Các anh sa lưới rồi! Không thể trốn thoát được đâu!"
Trời đất! Giọng nói đó... tôi đã biết là của ai rồi . Hà! Tuy âm điệu nghe có khác đi đôi chút thiệt, nhưng tôi vẫn nhận ra tiếng nói của ai: Trí! Trí! Hà! Trí đã có mặt tại đây!...
Giọng nói lanh lảnh vẫn tiếp tục:
"Coi chừng đó, Đặng Lân! Bọn ta đã thâu thập đủ bằng cớ rõ rệt để buộc tội các anh! Các anh không thể nào tránh khỏi hình phạt đang chờ đợi các anh đâu!"
Bên phòng phía ngoài, sát với cái hốc cầu thang nơi tôi bị giam cầm, đột nhiên im lặng 1 cách lạ thường . Bỗng có tiếng Đặng Lân nói khẽ, hỏi Huỳnh Bân:
- Cái gì vậy, Bân ?
Tiếng Huỳnh Bân trả lời:
- Có đứa nào nấp ở đám cây rậm ở phía sau nhà đó! Nó gọi loa thì phải!
Đặng Lân nghiến răng:
- Ê! Tất cả ùa ra, lùng bắt cho bằng được, bất chấp nó ba đầu sáu tay! Hừ! 10 người đánh 1 chẳng chột cũng què! Mau đi! Ra!
Từ trong hầm tối, tôi nghe rõ bước chân bọn người rầm rập chạy túa ra sân.
Tiếng nói của Trí lại vang vang:
"Thả chú nhỏ bị tụi các anh vừa bắt ra ngay lập tức! Nếu không anh sẽ bị bắn hạ liền . Đừng tính chuyện tẩu thoát, vô ích! Các anh bị vây chặt rồi!
Ôi! Trí! Anh đã liều mạng để cứu tôi! Anh xả thân để cứu mạng 1 kẻ đã làm hư hỏng mọi chuyện.
Đột nhiên nơi phòng ngoài đang im lặng, bỗng nghe có tiếng động lạ . Hình như tiếng chân người bước thật nhẹ, rồi 1 tiếng thì thào: "Chiêm! Chiêm! Chiêm bị giam ở chỗ nào đó, Chiêm, Chiêm ?"
Tôi nhảy dựng người, gào lên:
- Trí! Trí! Chiêm đây! Chiêm đây này! Ở gầm cầu đây này!
Trong nháy mắt, cánh cửa bật tung, Trí nhảy vào, quỳ xuống bên tôi đang nằm co quắp, rút dao díp cắt đứt dây trói . Trong lúc đó, tiếng nói của anh từ đằng xa vẫn vọng lại:
"Coi chừng đó! Đặng Lân! Sửa soạn mà đền tội đi nghe! Có vay thì phải có trả, nghe! Sửa soạn mà trả nợ đi!"
Tôi nói không ra hơi:
- Trí! Sao kỳ vậy! Sao anh lại có thể vừa ở đây, vừa ở đằng xa đó cùng 1 lúc là thế nào ?
Trí nói nhanh:
- Sẽ giải thích Chiêm hiểu sau! Bây giờ phải chuồn đi cho lẹ đã, mau lên!
Dứt lời anh xốc nách đỡ tôi đứng dậy . Cổ chân cổ tay bị trói máu huyết tắc nghẹn làm 2 bàn chân tôi gần như tê liệt không cất nổi bước . Tiếng nói của Trí vẫn lồng lộng từ phía đằng sau khu nhà:
"Sửa soạn mà chịu tội đi, nghe! Đặng Lân... "
Tiếng nói đột nhiên im bặt với 1 tiếng oe oe tắt nghẹn nghe rất kỳ cục . Tôi hoảng hồn đưa mắt nhìn Trí . Không nói không rằng, anh lao người chạy vút ra ngoài . Tôi bám sát lưng.
2 anh em vừa ra tới ngoài sân thì... Sáu Goòng, Huỳnh Bân và 4 tên nữa từ trong bụi rậm nhô ra . Trong tay Sáu Goòng là 1 chiếc... máy thâu băng . Bắt gặp 2 anh em, lão nhếch miệng nở 1 nụ cười trông mà phát sởn gai óc . Nguy rồi! Lại sa vào tay bọn gian lần nữa . Và lần này chắc... hết trốn thoát . Lão Sáu Goòng giơ cao chiếc máy ghi và phát âm:
- Hà! Hà! Thằng oắt con này (lão giơ tay chỉ Trí) dám lừa chúng mình bằng cái này đây! Gớm thật! Nó mở băng cho phát thanh để nhử cho tụi mình chạy ra ngoài hết đặng lẻn vào đánh tháo cho đồng bọn . Khá lắm! Hà, hà!
Dứt lời lão Sáu thả tay cho cái máy rớt đánh "bộp" xuống bờ hè xi măng, rồi nghiến chặt 2 hàm răng lại:
- Nhưng thất bại rồi các "cháu" ơi! Tụi ông đã tóm được cổ 2 cháu bỏ rọ, hết đường rồi nghe các "cháu"!
Trí quắc mắt:
- Này! Ông Sáu! Ông làm gì mà phải quăng quật cái máy của tôi dữ vậy ?
Lão Sáu lừ lừ tiến sát mặt 2 anh em . Đôi mắt tôi trừng trừng dán chặt vào 2 bàn tay to tướng đang ve vẩy của lão.
Sáu Goòng liếc mắt cho toán người rít lên:
- Mần 2 đứa nó đi, tụi bây! Thanh toán 2 vị thần đồng đi cho rồi! Nào!

Chương 19. Hết
Bọn gian vừa nhúc nhích thì đột nhiên có tiếng quát giật giọng.

- Sáu Goòng! Anh và đồng bọn mà động tới chéo áo của 2 thằng nhỏ đó là các anh hết sống, nghe!

Bất giác tôi quay ngoắt lại, ngạc nhiên hầu như nghẹn cả thở, khi chợt thấy Thẩm Sát Viên Báu từ nơi đầu góc nhà, xuất hiện.
Lão Sáu Goòng rụng rời chân tay, run giọng:
- Thôi chết rồi! Cảnh sát.
Và lão quay người dợm chân chạy nhanh như gió.
Người nhân viên công lực cười khẩy, nói to:
- Đừng chạy trốn vô ích, Sáu Goòng! Cả khu nhà này bị vây kín rồi! Nhân viên của tôi có lệnh nổ súng vào bất cứ người nào chạy trốn đấy! Liệu hồn!
Nhưng lão Sáu gan to mật lớn, cứ lao người, vắt giò lên cổ mà chạy . Liếc nhanh mắt ngó nét mặt ngơ ngác của Trí và tôi, thẩm sát viên Báu mỉm cười thật tươi:
- Các em yên trí! Nhân viên của tôi đã nấp sẵn tại chỗ đó rồi!
Quả nhiên, chưa đầy 2 phút, Sáu Goòng đã lầm lũi quay trở lại, 2 nhân viên cảnh sát đi kèm 2 bên . Bộ mặt lão Sáu hết hẳn vẻ nhâng nháo kiêu căng hồi nãy.
Ông thẩm sát viên Báu quay lại ngó Trí và tôi:
- Trong 2 em đây, ai tên là Trí ?
"Sếp" tôi tiến lên 1 bước:
- Thưa ông thẩm sát viên! Dạ, tôi ạ! Thưa ông, xin nói để ông biết là hiện ở trong chiếc "cam nhông nết" kia có nhiều tang vật chứng tỏ việc làm ám muội của tụi gian phi ? Những tang vật mà hồi nãy tôi đã tả rõ khi gọi điện thoại cho ông đó ạ! Thưa, tôi xin trình thêm để ông rõ là... tên trùm đảng chưa bị bắt đâu, ông ạ! Cho nên...
Đang nói đột nhiên Trí ngưng bặt vì... Đặng Lân xuất hiện... cùng với 2 nhân viên cảnh sát, mỗi người đi kèm 1 bên . 1 người nói với thẩm sát viên Báu!
- Thưa "Sếp"! Tôi bắt được người này đang bò trườn trốn lủi dưới đường mương ăn thông ra đám cỏ rậm đằng kia kìa, Sếp!
Gã Đặng Lân miệng lưỡi liến thoắng:
- Thưa "Sếp"! Tất cả chỉ là 1 sự lầm lẫn, 1 sự lầm lẫn tai hại vô cùng, chớ không phải chuyện giỡn đâu, sếp! Không biết mấy thằng nhỏ này nói tầm bậy cái gì với sếp, chớ riêng tôi, tôi xin thề với sếp là tôi không dính dáng với bất cứ ai, với bất cứ 1 việc cỏn con nào trong cái nhà này hết... tôi không gì hết á... và...
Trí cắt lời tên gian:
- Thôi đừng thuyết bậy nữa đi, ông Đặng Lân! - Vừa nói Trí vừa rút trong túi ra 1 cuộn giấy hình - đây tôi vừa mới rửa thử "8" pô hình chúng tôi chụp bằng ho6`ng ngoại tuyến đây! Trong bức hình nào ông cũng đứng vào vị trí 1 tay sếp sòng mà còn nói là không dính dáng vào 1 việc cỏn con nào thì ai mà tin được!
Biết rằng không còn chối cãi nổi, tên trùm gian phi sịu mặt, 2 bờ vai suội xuống, lắc đầu, chép miệng:
- À! Thôi sự thể đã vậy thì thôi, cũng đành! Thôi được! Tôi xin chịu thua! Các ông đưa giấy tờ đây để tôi làm tờ tự cung!
Lão Sáu Goòng đứng ngay phía sau đàn anh, la lên, bằng lòng ra mặt:
- Có thế chứ! Hà hà! Được cùng ăn, thua cùng chịu chứ, hả! Tôi cứ lo phải xộ khám 1 mình thì buồn chết ha, ha!
Đồng bọn của 2 tên lục tục đi tới, có tới 4 nhân viên cảnh sát kèm sát . Thẩm sát viên Báu reo lên:
- Xong rồi, anh em! 2 chú bé này nữa, đi với anh, mau lên! Ông biện lý Nguyễn Bảo Kỳ đang nóng lòng chờ đợi anh em mình đem tin lạ về lắm đó! Chúng ta dông! Đi!
Nhưng không đầy phút sau, ông ta đã quay lại nhìn chúng tôi, ánh mắt thân ái:
- À! Tôi quên! 2 chú em đi xe đạp hả ? Vậy thì các em về ngựa sắt nhé! Mai đến trình diện ông Biện Lý nghe! Ông sẽ hỏi han các em nhiều điều! Nghe!
Thế là Trí và tôi quay ra nhảy lên xe đạp, đạp băng băng . Ngồi trên xe, gió đồng nội thơm ngát, mùi lúa chín, 2 bánh xe bơm căng êm êm bon đi làm chúng tôi có cảm tưởng như bay bổng trên tầng mây cao tít . Ra tới đường cái nhựa, 2 anh em nhắm hướng Thủ Đức thong thả đạp đều đều, Trí bắt đầu kể tôi nghe rành rọt mọi sự việc:
Cái thang bằng dây thừng có cột kèm những gióng tre ngang bị gió dập vào tường trên tầng lầu cao nhà Trí, kêu lạch cạch đã đánh thức anh trỗi dậy vào lúc trời hãy còn sớm lắm . Nhô đầu ra cửa sổ, anh biết ngay là tôi đã bỏ đi . Các máy chụp hình cũng biệt tăm cho anh hay nơi chốn mà tôi mò đến . Và chiếc đồng hồ báo thức trên bàn báo cho anh là tôi ra đi đã được bao lâu rồi.
- Và tôi nghi rằng tụi gian đã bắt được Chiêm, nên mới tìm cách bố trí đặt 1 cái máy chạy băng kèm 2 ống loa khuếch đại thanh, ấn nút cho phát thanh để điệu hổ ly sơn, đặng mới lẻn vào phá ngục cứu Chiêm ra được chứ!
Tôi bất giác reo lên:
- Anh quá xá thiệt!... Và nay sao mà cảnh sát lại cũng tình cờ ập tới hợp lúc quá chứ, heng!
Trí mỉm cười . Nụ cười của anh ngoác rộng đến tận mang tai:
- Tình cờ may mắn hả ? Đâu có cái chuyện tình cờ may mắn lạ thế . Chiêm! Nguyên là khi thấy Chiêm tự động vác máy ảnh ra đi, mình lo quá, hoảng hốt vác xe đạp đi ngay . Cắm đầu cắm cổ đạp, khi ra đến ngoại ô, gió đêm lành lạnh, tỉnh trí lại, mình mới biết rằng là dại . Không phải là sợ hay ngại gì đâu . Mình nghĩ là đã dại dột ra đi mà không báo cho ai biết; - ánh mắt anh ngó tôi như thầm bảo: "ra đi ẩu" như Chiêm vậy đó ? - Liền rẽ vào 1 cái phòng điện thoại công cộng gọi báo tin cho cảnh sát . May mắn sao lại gặp trúng ngay thẩm sát viên Báu . Rồi là diễn tiến ra sao thì Chiêm đã biết.
- À, ra thế!
Trí tiếp:
- Gọi điện thoại xong mình yên trí đạp thẳng đến khu nhà bí mật bố trí đặt máy phóng thanh cho băng chạy, mở lớn hết cỡ...
Tôi lặng người đi, suy nghĩ có tới 2, 3 phút sau mới cất tiếng hỏi anh:
- Nhưng rồi lúc cuối cùng anh giở cuộn giấy hình ra trước mặt các ông cảnh sát và bọn gian! Sao anh liều khiếp thế ? Anh cũng dư biết là cuốn giấy ảnh đó tôi chụp hư... trắng xóa hết kia mà!
Trí cười thích thú:
- Ai chẳng biết thế! Nhưng Đặng Lân "có tật giật mình", và chắc y cũng đã bị Chiêm "hù" từ trước rồi nên chưa kịp xem, đã vội vàng "lậy ông tôi ở bụi này" . Và y yêu cầu xin cho được viết bản tự cung khai thú tội . Chúng ta còn muốn gì hơn nữa chứ ?
Trí nói đúng! Chúng tôi đã thành công mỹ mãn như vậy, hỏi còn muốn gì nữa chứ ? Hân hoan ngập tràn trong lòng, đến muốn nói thêm cũng chẳng còn biết nói gì nữa . Tôi chỉ biết đưa mắt nhìn Trí, nhìn thật lâu người bạn đã làm hết mọi cách có thể làm được để cứu mạng mình . Đôi môi tôi mấp máy mãi câu nói nghe thật ngớ ngẩn:
- Cám ơn Trí nhiều, nghe Trí!
Viền môi tươi của anh lại nở nụ cười sung sướng . Nụ cười thật rộng hầu như làm lộ hết cả 2 hàm răng trắng bong.
Khi 2 anh em đạp xe ngang nhà bé Thơ liền ghé lại báo cho bé và ông Danh Điềm tin vui . Gặp 2 cha con bé Thơ, chúng tôi mới biết là thẩm sát viên Báu cũng đã ghé đây rồi.
Ông Danh Điềm, 1 con người làm ăn lương thiện nổi tiếng xưa nay, 1 người cha rất thương con không hề nghĩ đến hạnh phúc của riêng mình, từ ngày vợ mất, vẫn ở vậy nuôi con . Người đàn ông hiền lành ốm yếu ấy đã run lên cảm động khi được nghe tin vui do Trí và tôi nói lại cho ông biết với đầy đủ chi tiết.
Muốn nói mấy câu cám ơn tha thiết mà ông nói chẳng nên lời.
Phần bé Thơ, cô gái ranh mãnh này thì lại thích thú vô cùng . Cái miệng xinh xinh liến thoắng:
- Trời ơi! Vậy mà các anh không đến rủ tôi cùng đi với, xem mặt mũi và bộ dạng tụi gian lúc bị bắt ra sao, có phải khoái biết mấy không! Và rồi có gì thì tôi cũng giúp được các anh 1 tay... chớ bộ... đồ bỏ sao ?
Trời đất! 2 đứa tôi đã suýt chết vì cô bé tinh quái này rồi mà cô vẫn còn cho là chưa đủ sao chớ!
Trên đường về, Trí và tôi đạp xe mà đầu lâng lâng tưởng chừng như có 2 vùng hào quang chiếu rọi trên mái tóc . Nhưng 2 anh em không dè là khi về tới nhà Trí thì có việc lạ xảy ra: 2 đứa vừa xuống xe thì bà Bích Tâm, má Trí, chạy lao ra, ôm chặt lấy anh, trên nét mặt vẫn đầy vẻ hoảng hốt.
Thì ra, cả nhà không ai biết là 2 đứa đột nhiên bỏ đi đâu mất tăm, mất hút . Không khí nghiêm trọng âu lo, lập tức tan biến khi ba má Trí được nghe anh thuật lại tình tiết cái thành quả tốt đẹp trong việc 2 anh em giúp nhà chức trách khám phá và bắt trọn ổ bọn đúc bạc giả.
Trời đã sáng rõ lắm, Trí và tôi mệt nhoài, liền tuân lời bà Bích Tâm lên lầu ngủ 1 giấc để phục hồi sức khỏe . Sau đó, chúng tôi đã tới trình diện ông biện lý Nguyễn Bảo Kỳ . Rồi các nhiếp ảnh viên chụp hình, phóng viên các nhật báo tại thủ đô phỏng vấn, hỏi han đủ chuyện.
Sau đó, 1 cú điện thoại gọi tôi cho biết là ba má và chị An tôi đã về tới nhà . Tôi tức tốc tên xe đạp về . Ra- đi- Ô cũng đã loan tin tức vụ bạc giả 1 cách khá đầy đủ . Và cả nhà nóng ruột chờ đợi tôi về, nhất là người mẹ thương yêu của tôi chỉ thích nghe câu chuyện phiêu lưu mạo hiểm do chính miệng vị tiểu anh hùng tham chiến, đứa con trai yêu quý của bà thuật lại.
Phải công nhận buổi sáng hôm đó đúng là 1 ngày vinh quang nhất đời tôi . Khi chiều xuống, cơm nước xong, tôi sửa soạn và chắc mẩm phải ngủ 1 đêm thật ngon lành để đền bù lại những giây phút khó nhọc vất vả, thoát khỏi bàn tay tử thần trong đường tơ kẻ tóc.
Vừa mới thay bộ "piđa-ma" thì chị An từ nhà ngoài đi vào, tay cầm 1 chiếc phong bì đỏ:
- Ba! Con lượm được cái thơ kỳ dị này ở phòng ngoài, Ba! Có lẽ ai đã nhét qua khe cửa, liệng vào đó à, ba! Không đề tên người nhận gì hết trọi!
Ba tôi mở chiếc phong bì màu đỏ, lôi ra 1 mảnh giấy trắng nhỏ xíu . Ông giương mắt chăm chú đọc, nét mặt sửg sốt:
- Quái thật! Chắc đứa nhỏ nào tinh nghịch liệng vào trêu chọc người ta đây mà! Hừ! Phong bì đỏ, giấy trắng, viết bằng mực xanh!... Cái gì lạ: "Phi thuyền không gian CT2 đã bay vào quỹ đạo!" Trời đất! Thế là cái quái gì ? Ối chao! Con nít bây giờ sao có lắm trò chơi thiệt kỳ cục quá sức!
Rồi, ba tôi vò viên cả phong thơ, liệng vào sọt giấy, coi như 1 mảnh giấy vô giá trị của 1 chú nhỏ rắn mắt nào đó.
Riêng tôi, tôi biết là "Sếp" CT1 quái quỷ của tôi lại sắp sửa có 1 cái gì đây!
Chui vào trong chăn định dỗ giấc ngủ . Những hình ảnh gay cấn vừa qua, rồi sự hiện diện của chiếc phong bì đỏ như báo trước những ngày gian lao sắp tới . Cái khổ tâm của nghề thám tử là như vậy . Mà hiện tại thì tôi cần ngủ 1 giấc thật ngon.
Muốn cho đầu óc trống trơn, tâm trí thảnh thơi để dễ ngủ, chỉ còn 1 cách: để tâm hồn bay bổng tới vườn trẻ của Tòa Soạn Tuổi Hoa, nơi có những thảm cỏ mịn mướt, cây lá xanh êm với hoa đỏ, bướm trắng, tím, vàng.
Rồi, nhẹ như cánh bướm, hồn tôi bay theo gió cùng đậu trên từng cánh thược dược đỏ tươi, nhụy hoa ngọt lịm, tung tăng trên đám cỏ nhung êm, nhẩy múa theo giòng nước trong đang nô giỡn trên nền cuội trắng.
Trong khi đó, thân xác tôi thoải mái nằm trên nệm êm, đắp chăn ấm... chìm sâu, thật sâu vào giấc mộng của... Tuổi Hoa...


NAM QUÂN
 
Sửa lần cuối:

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Đời phiêu lưu của Tuấn
Tác giả: Nhật Lệ Giang
Tủ sách Hoa Đỏ
Sưu tầm & Đánh máy: Đèn Biển
XQ_so-Jm-lv0IDPLV63Cp0Uf0FMWEFatETGEmsp_BLTy-sLctXx_opBZ9Lk3c4ygtPzQRHz-uJZemXNBxwknnmIDAxWJ7ZO3u-C8oLyqsvy4GERrYsi5qsKeGy4wMCzD1d0IeV-x_vWmDxrmf_3M-CaZLUmLMoPhMsSGZHHhgNtkoS7Qe-Uc98GC9aok9Xu4JfMspYbxYLjWlIwRwDTk8bsXbZRAeFNymPzoFvratHj45j9zUn6H_s3KpI8263Nb9o0aUK93eQ4tNV-UyC3pNq7M8WlaH6UUrcV09kvlK1SJY9Fk7x2IL_u1eB1lJDrRjD5iNt5O_oLbaaQPTRG4zA62zR3kGSoR_FG_I1qKkX6GvKKQ2KolpTJAP6elLWXpwjjYcBcl3zAFpJz14hXrzwaPTJw5YxG2Zn2STrgD9oBhlFfKgQj3ziLGq_xygthgccDhQjpUZ2mevP-3gHi9aiMzSmIdifwCimCM30G41E_HnVZPdCJtQzGXfLbEQ11HzKmWbpO1ZSzZQdfG14vuMkgDq3AGJiVB8JOsWlT53NMpnBU0vykpK8M-TyhOSs7ChwZwyTp5CfB0asGeTRcCh24XxAb6LGw93uJGygVVs5qz8xoWNgwzLQ=w500-h682-no


Chương 1
Gà trong xóm bắt đầu gáy sáng. Tuấn giật mình choàng dậy. Nhìn xuống bếp, thấy má đang lúi húi ngồi hấp bánh, Tuấn cảm thương má vô hạn.
Tuấn đưa mắt nhìn lên bàn thờ ba. Sau ngọn đèn dầu leo lét, toả ánh sáng lờ mờ, hình ảnh ba Tuấn lung linh như đang nhìn Tuấn…
Tuấn ứa nước mắt, thở dài. Chỉ trong vòng có mấy ngày mà trong gia đình Tuấn đang yên vui, bỗng xẩy đến một cái tang đau đớn nặng nề ! Tương lai Tuấn sụp đổ theo cái chết bất ưng của ba Tuấn.
Năm học vừa qua, Tuấn đã học hết lớp nhất và được cấp chứng chỉ Tiểu học. Vì trường xã không có lớp Trung học, nên ba cậu đã hứa sẽ thu xếp cho cậu lên trường Quận để học tiếp. Tuần vừa rồi, ba cậu đã đem cậu lên trường Quận, nạp giấy tờ để thi vào Đệ Thất. Một gia đình quen, đã hứa sẽ cho Tuấn ở trọ. để đi học với con họ. Tuấn tin chắc, thế nào cậu cũng thi đậu, vì các môn học ở lớp nhất, cậu đều xuất sắc. Tối hôm ấy, ba Tuấn nói với má Tuấn :
- Bà tính sao ? Con Hiền học trường xã thì không tốn kém bao nhiêu. Còn thằng Tuấn nếu thi đậu vô Đệ Thất, thì cũng đỡ được vài trăm bạc học phí. Còn tiền ăn mỗi tháng, tệ nhất cũng hơn một ngàn. Biết mình có chạy ra tiền mỗi tháng cho con không ?
Má Tuấn trầm ngâm suy tính một lúc rồi trả lời :
- Tôi tính thế này, ông xem có được không ? Năm nay, ông lãnh thêm một thửa ruộng của ông bà Tư Bá để cấy thêm lúa. Còn tôi, mỗi ngày tôi cố dậy sớm, hấp ít bánh ú, bỏ mối cho bạn hàng ngoài chợ, kiếm ít tiền lời. Nếu trời cho trong gia đình không ai đau ốm, thì có lẽ cũng tạm đủ.
Ba Tuấn vui vẻ nhìn má Tuấn :
- Mình tính như vậy là hay nhất rồi. Thôi, đến đâu hay đó, lo quá nó mệt cả người !
Rồi ông quay lại bảo Tuấn :
- Con thấy đó, chỉ vì muốn cho con học hành thêm chút ít để mai sau con được nhờ, mà ba má phải lo nghĩ, mệt nhọc rất nhiều. Con nhớ cố gắng học hành, đừng chơi bời lêu lổng, mà uổng công ba má lo cho con !
Tuấn khoanh tay, ngước mắt nhìn ba má, đầy vẻ biết ơn :
- Thưa ba má ! Con xin hết lòng cám ơn ba má, trọn đời con sẽ không bao giờ quên. Con xin hứa với ba má, con sẽ tiết kiệm tiền bạc và cố gắng học hành để khỏi phụ công ba má lo cho con. Và con định bụng, ngoài giờ học hành, con sẽ giúp đỡ các việc vặt trong nhà con trọ, may ra họ có bớt cho được ít tiền cơm thì cũng đỡ !
Ba Tuấn vuốt tóc Tuấn, khen :
- Con biết suy tính như vậy, ba má bằng lòng lắm. Ba má tin chắc tương lai con sẽ khá. Nhờ đó, ba má cũng được an ủi khi về già !
Tuấn lo ôn lại bài vở để dọn thi. Má Tuấn may sắm thêm cho hai đứa, mỗi đứa một bộ áo quần mới. Ba Tuấn sang nhà ông bà Tư Bá, xin canh tác thêm một mẫu ruộng sâu, được ông bà chấp thuận.
Một buổi chiều, ba Tuấn đi cày về, tay xách một xâu ếch. Ông đưa cho Tuấn :
- Con đem xuống bếp, phụ với má con, làm một bữa thịt ếch ăn chơi !
Tuấn reo lên :
- Làm sao ba bắt được nhiều vậy, ba ?
Ông tươi cười :
- Ba cày gần xong thửa ruộng, thấy nhiều ếch lấp ló trong hang, nên ba nghỉ cày, đi bắt ếch. Một lúc mà được gần cả chục con !
Bữa cơm chiều ấy thật là vui vẻ. Nhưng đến nửa đêm, ba Tuấn đang ngủ, bỗng kêu lên ú ớ. Má Tuấn vội thắp đèn lên. Ba mẹ con chạy lại giường ông nằm, thấy ông hai tay ôm lấy ngực, thở một cách rất mệt nhọc, mắt mở trợn trừng. Má Tuấn thất kinh, cúi xuống hỏi dồn dập :
- Mình ! Mình làm sao thế, mình ?
Thấy vợ con, ông phều phào :
- Hồi chiều, tôi bắt ếch trong hang, bị rắn cắn nơi tay, nhưng tôi không lấy làm điều, vì tưởng là rắn nước. Không dè, đó là con rắn độc ! Bây giờ nọc độc nó chạy đến tim… chắc tôi… chết mất !
Má Tuấn hốt hoảng :
- Không ! Không ! Để tôi chạy kêu nhờ bà con lối xóm đem ông đi nhà thương ngay.
Ba Tuấn lắc đầu, nói một cách khó nhọc, đứt quãng :
- Không kịp nữa đâu mình à ! Nọc độc… chạy về tim rồi ! Tôi sắp sửa bị cấm khẩu… đến nơi ! Thôi… mình ở lại… rán nuôi con… Tuấn… Hiền… các con…
Ông nói chưa hết lời, thì miệng ông đã méo xệch, cứng ngắt. Tay ông quờ quạng, run rẩy. Tuấn vội nắm lấy bàn tay ba nó.
Một lát sau, ông tắt thở, mặt mày ông tím bầm. Má Tuấn ôm lấy xác chồng, khóc như điên dại. Tuấn và Hiền cũng khóc rống lên :
- Ba ơi ! Ba ơi !
Cả xóm náo động khi nghe tin ông Hai chết bất ngờ vì rắn cắn. Ông vốn ăn ở hiền hoà với bà con láng giềng, nên ai cũng mến. Họ kéo nhau đến giúp đỡ, kẻ ít người nhiều. Ông bà Tư Bá cũng đến thăm và cho số tiền để mua hòm. Bà Hai như người mất hồn, hai hàng nước mắt chảy dài trên má. Bà khóc khản cả tiếng. Các bà xúm lại an ủi và săn sóc cho bà.
Nhờ mọi người tận tình giúp đỡ, đám tang ông Hai tuy đơn sơ, nhưng rất cảm động. Bà Hai bước đi như một kẻ không hồn, nhờ hai bà mạnh khoẻ dìu hai bên. Hai anh em Tuấn thất thểu theo sau quan tài. Con Hiền còn nhỏ quá, chưa hiểu gì lắm. Nó chỉ gào khóc :
- Ba ơi ! Ba ơi !
Còn Tuấn có trí khôn hơn, cậu thấy rõ cái chết bất ngờ của ba cậu là như cả trời đất sụp xuống trên đầu má con cậu ! Thế là hết ! Bao nhiêu dự tính của ba má cậu đều tan thành mây khói !

***
Sau ngày chôn cất chồng, bà Hai sụt sùi nói với Tuấn :
- Con ơi ! Lúc ba con còn sống, ba má đã hứa cho con tiếp tục học hành. Suốt đời ba má đã phải vất vả làm thuê làm mướn, ba má ước ao cho con được một tương lai khá hơn nhờ sự học. Nhưng ý người muốn mà ý Trời không định. Bây giờ má một thân, chân yếu tay mềm, không biết làm sao cho con được như ý nguyện. May ra, má có thể lo cho em Hiền con học thêm chút ít…
Nói đến đó, bà oà lên khóc nức nở. Tuấn cũng khóc theo…
Nghe má nhắc đến em Hiền, Tuấn thương em vô hạn. Ngày ba còn sống, có lẽ em Hiền thương ba nhất nhà. Ai cho cái gì, em cũng bảo để dành cho ba. Tuấn suýt bật cười, khi nhớ lại, hồi em còn bé tí : mỗi ngày, thấy má đi chợ mua cá, mua rau về, thì em lân la hỏi :
- Má mua cá, mua rau cho ba ăn, phải không má ?
Nếu má trả lời :
- Ừ, má mua về cho ba ăn !
Thì em không hỏi gì nữa. Nhưng nếu má nói :
- Không, má mua về để má ăn, chớ không cho ba ăn đâu !
Thế là em nằm lăn ra khóc, cho đến khi má phải dỗ ;
- Ừ, má mua về cho ba ăn !
Nó mới nín. Nay ba không còn nữa, Tuấn thấy tội nghiệp cho em hết sức. Tuấn muốn hy sinh tất cả đời mình cho em được sung sướng. Tuấn nói với má :
- Thưa má, số Trời định cho con như thế, con xin cúi đầu vâng chịu. Má đừng quá buồn mà sinh bệnh, kẻo anh em con lại càng khổ hơn. Con xin má lo cho em con học được chừng nào hay chừng ấy.
Phần con, ông bà Tư bảo con đang còn nhỏ, chưa cày cấy gì được, tạm thời con sang chăn mấy con bò cho ông bà. Vài ba năm nữa, con lớn lên sẽ nối nghiệp ba con. Con chắc má cũng đồng ý như thế !
Bà Hai lau nước mắt :
- Con ơi ! Nhà đã vắng người, nay con lại đi nữa, thì chỉ còn má và em Hiền con mà thôi ! Nhưng không lẽ má con ta ngồi với nhau mà chờ chết đói ? Con sang ở với ông bà Tư, tối nào rảnh, con xin phép ông bà về ngủ bên này cho vui.

***
Ngày tựu trường gần đến, Tuấn gặp các bạn cùng lớp. Hầu hết đều tiếp tục đi học. Đứa có bà con ở Sàigòn thì lên học Sàigòn, đứa lên học ở Biên Hoà, đứa đi trường Quận. Tuấn cho các bạn biết ý định của mình, ai nấy đều ngậm ngùi xót thương số phận hẩm hiu của Tuấn.
Trước lúc chia tay mỗi đứa một ngả, cả bọn định tổ chức một bữa cơm trưa ngoài đồng. Đứa nào có gì sẽ đem ra ăn chung với nhau.
Sáng hôm họp nhau lần cuối, Tuấn buồn bã nghĩ đến các bạn, ngày kia đã tung tăng cắp sách đến trường. Riêng cậu, từ nay thế là hết, mộng học hành tan thành mây khói, thực tế sẽ là mấy con bò sữa của ông Tư. Bất giác, Tuấn ngẩng đầu lên nhìn hình ảnh ba, cậu chắp tay khấn vái :
- Ba ơi ! Ba sống linh, chết thiêng ! Xin ba phù hộ cho má, cho các con !
Bà Hai sắp bánh vào thúng đem ra chợ. Bà định lên nhà trên thức Tuấn dậy, bỗng bà thấy con đang gục đầu trên bàn. Biết con đang buồn, bà nhẹ nhàng bảo con :
- Tuấn ơi, con coi nhà cho má ra chợ một lát. Con đợi má về rồi hãy đi chơi, nghe con !
Ra đến cửa, bà còn quay lại dặn :
- Em Hiền con ngủ dậy, con lấy hai cái bánh trong tủ cho em. Má cũng dành cho con 10 cái để con đem góp phần với chúng bạn đó !
Tuấn đứng dậy, vuôn vai :
- Vâng, má đi mau về, nghe má !***
Bốn cậu học trò, mỗi cậu mang một xách, đi vào trước sân nhà Tuấn, gọi :
- Tuấn ơi ! Tuấn ơi !
Tuấn nghe gọi, vội chạy ra, thấy các bạn, cậu reo lên :
A ! Khánh, Lịch, Phú, Hiếu ! Các anh đợi tôi một chút nghe !
Tuấn chạy xuống bếp. Má cậu đang sắp bánh và mấy trái cây vào xách cho cậu. Cậu cầm lấy xách :
- Thưa má, con đi. Các bạn con đang chờ con ngoài sân.
Bà Hai âu yếm dặn con :
- Các con chọn chỗ nào khô ráo mà chơi. Nhớ đừng bắt ếch, lỡ gặp rắn độc, nghe con !
Tuấn dạ rồi chạy ra sân, tươi cười :
- Xong rồi ! Chúng ta đi ! À, các bạn kia đâu ?
Khánh vừa nhảy chân sáo, vừa trả lời :
- Tụi tôi vô kêu anh, còn chúng nó kéo nhau ra đồng cả rồi !
Ra đến đồng, cả bọn bàn nhau đến một bãi tha ma rộng, có nhiều mộ xây gạch sạch sẽ, bỏ các xách vào một chỗ, đoạn bày trò chơi.
Tuổi trẻ thật vô tư, chơi đùa la hét om sòm, vang dậy cả cánh đồng. Chơi chán, mệt, mồ hôi ướt đẫm áo, bon chúng cởi áo ra phơi lên mấy tấm bia cao, rồi ngồi thở. Nghỉ một lúc, cả bọn ùa lại lấy xách, lôi đồ ăn ra. Tuấn cẩn thận trải mấy tờ giấy báo xuống nền gạch, bỏ các thức ăn lên trên. Tuy mỗi đứa đem theo một vài thứ, nhưng góp lại một chỗ, trông thật no con mắt ! Nào gà luộc, gà quay, chả lụa, nào là bánh nếp, bánh ú, trái cây đủ thứ. Tha hồ ăn !
Tuấn tươi cười bảo các bạn :
- Hôm nay, thật là một ngày vui nhất của chúng ta. Biết khi nào chúng ta lại họp mặt đông đủ như thế này nữa ?
Hiếu nhanh nhẩu :
- Có chứ, dịp nghỉ lễ Noen tới đây, tụi mình lại tổ chức một bữa nữa, các bạn đồng ý không ?
Cả bọn vỗ tay tán thành :
- Đồng ý ! Đồng ý !
Dưới bầu trời thanh, chói chang ánh nắng, gió thổi hây hây, cả bọn vừa ăn, vừa cười đùa, tưởng không có gì vui thú bằng ! Riêng Tuấn, cậu thoáng vẻ buồn man mác, khi nghĩ đến hoàn cảnh ngày mai của mình.
Cuộc vui nào cũng sẽ tàn. Cơm nước xong, cả bọn thu xếp trở về, vì sợ cơn mưa chiều bất ưng kéo đến. Trên đường về, đứa nào cũng có vẻ buồn. Đến gần nhà Tuấn, cả bọn siết chặt tay từ giã Tuấn, hẹn ngày tái ngộ.
Tuấn thất thểu vào nhà. Em Hiền đang chơi trước sân, thấy Tuấn, reo lên :
- A, anh Hai về ! Má ơi, anh Hai về !
Bà Hai trong bếp bước vội ra hỏi con :
- Đi chơi có vui kkhông con ? Các bạn con tới đông đủ không ?
Tuấn đang buồn, nhưng cố làm mặt vui :
- Thưa má, vui lắm ! Tụi bạn con đến đông đủ hết. Đồ ăn chúng nó mang đến nhiều quá, ăn không hết. Còn dư bao nhiêu, chúng nó bắt con xách về. Má xem, con mang một xách nặng đây !
Tuấn tháo xách trên vai xuống đưa cho má. Bà Hai đỡ lấy, bảo con :
- Thôi, con vào nghỉ một lát rồi đi tắm cho khoẻ.

Chương 2
Tuấn đến ở với ông bà Tư Bá đã được một tuần. Công việc của Tuấn : buổi sáng, lùa 2 con bò mẹ và 4 con bò con ra đồng cho ăn cỏ. Buổi chiều, đi cắt cỏ và dọn dẹp trong vườn. Công việc không có gì nặng nhọc lắm, nhưng phải làm luôn tay.
Khu vườn ông Tư khá rộng, có lẽ gần ba mẫu tây đất. Vườn bao một hàng giậu kín, có mương nước chạy vòng quanh. Trong vườn trồng nhiều cây ăn quả : dừa xiêm, xoài, ổi xá lỵ, mãng cầu v.v… Cây cao, cây thấp, rợp bóng mát.
Giữa vườn là nhà ở : Một nhà lớn nằm dọc và một nhà nhỏ nằm ngang. Nhà xây gạch, lợp ngói, theo lối cổ. Nhà lớn là nhà ở, còn nhà nhỏ làm kho lúa và làm nhà bếp. Trước nhà là một sân rộng, tráng ximăng.
Ông Tư Bá là một điền chủ hạng trung bình. Ruộng đất ông đều cho người ta canh tác. Đến mùa, họ đong lúa cho ông. Ông chỉ chăm sóc vườn cây ăn trái và nuôi vài cặp bò sữa.
Ông Tư Bá còn có một sở thích đặc biệt là sưu tầm đồ cổ. Hễ ở đâu, dẫu xa xôi, có những đồ cổ muốn bán, ông cũng lần mò đến xem, hợp ý thì giá nào ông cũng mua. Hai gian nhà lớn, gồm phòng khách và gian chái, là giang sơn riêng của ông chứa đồ cổ : các chậu, bình, bằng sứ, bằng đồng, đủ kiểu lớn nhỏ. Theo các nhà sành sõi nhận xét, có nhiều thứ sản xuất từ mấy thế kỷ trước.
Thường ngày, ông Tư ở nhà lau chùi, đánh bóng, hết bình đồng này, đến chậu sứ khác. Khi ông đi đâu vắng, thì ông đóng cửa kỹ.
Ông bà Tư Bá sinh được 4 đứa con, nhưng chỉ nuôi được 1 gái và 1 trai : Cô Thu Dung 10 tuổi và cậu Vinh, 8 tuổi. Thu Dung học lớp nhì, Vinh học lớp tư, tại trường xã.
Bản tính ông Tư Bá nghiêm trang, ít nói, hoà nhã với mọi người. Ông ít giao thiệp, hằng ngày chỉ quanh quẩn trong vườn với mấy cây ăn quả và với mấy món đồ cổ của ông. Bà Tư là người từ tâm hiếm có. Hễ chòm xóm láng giềng, ai gặp hoạn nạn gì, bà đều tận tình giúp đỡ. Bởi đó, người trong xã đều cảm mến ông bà.
Mấy ngày đầu, Tuấn mới đến giúp việc, chiều nào, bà Tư cũng cho Tuấn ăn cơm sớm để về nhà với má. Nhà ông bà Tư ở xóm trên, nhà Tuấn ở xóm dưới, cách nhau độ vài cây số, nhưng đường nhỏ khó đi. Nhất là Tuấn phải đi ngang qua một bãi tha ma lạnh lẽo, dễ sợ.
Bà Hai bị ám ảnh bởi cái chết của chồng vì rắn độc, nên lúc nào bà cũng phập phồng lo sợ cho con. Bà lên xin bà Tư đừng cho Tuấn về nhà mỗi tối nữa, mà chỉ cho về chiều ngày chủ nhật.
Lúc đầu lạ, sau quen dần, Tuấn bắt đầu thích thú công việc mới. Cậu săn sóc tắm rửa, trìu mến vuốt ve mấy con bò. Mấy con vật này cũng quen hơi cậu, nhất là mấy con bò con, hễ thấy cậu ra mở cửa chuồng, là chúng nó nhảy nhót tưng bừng, lè lưỡi liếm vào tay cậu và húc đầu vào người cậu như để tỏ lòng yêu mến.
Buổi tối, không có việc gì làm, Tuấn đọc sách và nhiều khi chỉ vẽ bài vở cho Thu Dung và Vinh. Dần dần, hai đứa nhỏ thương mến Tuấn như anh ruột. Ông bà Tư rất bằng lòng tính nết Tuấn. Thỉnh thoảng, bà Tư lại cho Tuấn đem Thu Dung và Vinh về dưới nhà chơi trọn ngày chủ nhật. Xem ra bé Thu Dung và bé Hiền hạp tính nhau lắm. Hai chị em chơi với nhau, ríu rít cả ngày không chán.

***
Một buổi chiều, Tuấn đi cắt cỏ về, thấy em Vinh đang ngồi khóc trước cửa. Tuấn lấy làm lạ, hỏi :
- Vinh, sao em khóc ?
Vinh mếu máo :
- Em đuổi con mèo, nó nhảy qua cửa sổ vô phòng ba, em nghe “xoảng” một tiếng không biết nó làm vỡ cái gì của ba, em sợ ba về ba đánh em !
Tuấn tái mặt, hỏi dồn :
- Thế ba má và Thu Dung đi đâu ?
Vinh vẫn sụt sùi :
- Ba sang đánh bài bên bác Ba, còn má và chị Thu Dung đi thăm bà Năm đau bịnh.
Tuấn bỏ giỏ cỏ trước sân, vào nhà xem. Cái cửa phòng trong ăn thông sang phòng khách, thường ông Tư đi đâu, ông đóng kỹ, hôm nay ông lại quên không đóng. Tuấn lấy ghế trèo lên nhìn qua. Cậu suýt la to lên, vì vật bị mèo làm vỡ, chính là cái bát Giang Tây rất quý, mà ông Tư mới mua được vài hôm nay !
Theo lời ông thuật lại, thì cái bát quý giá này có từ đời vua Khang Hy bên Tàu. Phía trong đáy bát, họ vẽ hai con cá vàng vờn nhau, chung quanh có những cành rong xanh. Nét vẽ rất tinh xảo. Đặc điểm quý giá của nó là lúc ban đêm hay trong phòng tối, thắp một ngọn nến, đổ nước trong vào bát : Dưới ánh đèn lung linh, người ta sẽ thấy hai con cá vàng sống động đang bơi lội đùa rỡn với nhau trong bát !
Thế mà bây giờ nó bị vỡ rồi ! Tuấn lo sợ cho em Vinh, tuy không phải chính nó làm vỡ, nhưng vì nó đuổi con mèo, chắc ông Tư sẽ cho nó một trận đòn nên thân, vì ông quý cái bát này lắm. Ông còn đang dự định làm một bữa tiệc mời bà con đến thưởng thức cái bát quý. Ai dè !
Tuấn nhảy xuống khỏi ghế, ra sân. Em Vinh chạy lại ôm lấy Tuấn, oà lên khóc :
- Anh Tuấn ơi, bây giờ làm sao, anh ? Ba về, ba đánh em đau lắm !
Tuấn thương hại, cậu nghĩ cách cứu em :
- Thôi em đừng khóc nữa ! Để anh nhận với bác là chính anh đuổi con mèo. Nhưng em phải đi chỗ khác chơi. Nếu bác có đánh anh, em cũng đừng nói gì hết, nghe ! Anh lớn rồi, bác đánh anh không đau đâu, em đừng lo !
Bé Vinh nghe anh Tuấn nói thế, nhoẻn miệng cười, nét mặt rạng rỡ :
- Cám ơn anh ! Khi ba về, em sẽ ra sau vườn chơi.
Tuấn đem cỏ cho bò ăn, rồi vào đứng xớ rớ trước sân nhà, phập phồng chờ đợi tai hoạ sẽ đến, không biết nặng nhẹ thế nào ?
***
Ông Tư vừa mở cửa bước vào phòng, đã chạy ra hét oang oang :
- Đứa nào làm vỡ cái bát của tao rồi ? Đứa nào ?
Tuấn tái mặt, chắp tay, ấp úng :
- Thưa bác, cháu… cháu…
- “Bốp, bốp”, mầy à ! Mầy làm sao, thằng quỷ kia ?
Hai má thằng Tuấn đỏ hồng, in rõ bàn tay ông Tư, mắt nó nảy đom đóm :
- Thưa bác, cháu đuổi con mèo, rủi nó nhảy qua cửa sổ vào phòng làm vỡ cái bát !
Ông Tư tiếc của đay đảy, hét lên :
- Mầy đuổi con mèo, con mèo làm vỡ, tức là mầy làm ! Tao bắt mẹ mầy phải bán nhà mà đền cho tao !
Rồi ông ngồi phịch xuống sân, rên rỉ :
- Trời ơi ! Tôi mua được cái bát quý hơn vàng ngọc, chưa kịp xem cho thoả, thì nó đã làm vỡ mất rồi ! Trời ơi là trời !
Bà Tư và Thu Dung vừa về đến cổng, nghe tiếng ông quát tháo, chạy vội vào. Bà dịu dàng hỏi ông :
- Có chuyện gì thế, ông ?
Ông Tư đứng dậy, nắm lấy hai tay Tuấn, mắt ông vẫn còn long lên sòng sọc :
- Tôi vội đi quên đóng cửa sổ, thế là cái thằng quỷ này đuổi chó mèo làm sao mà mèo nhảy qua cửa sổ vô phòng làm vỡ mất cái bát Giang Tây quý giá, tôi vừa mua được hôm kia rồi !
Bà Tư chưng hửng, đứng yên một lúc, bà cũng tiếc của, nhưng sự đã rồi biết làm sao ? Bà ngọt ngào nói với chồng :
- Thôi, ông à ! Cháu nó lỡ dại, mình tha cho nó. Rồi mình sẽ kiếm mua cái khác !
Ông Tư cười sằng sặc, giọng cười nghe ghê rợn :
- Mình tưởng kiếm mua cái khác dễ lắm à ? Mình thử tìm xem khắp thế giới này, xem còn cái nào nữa không, chứ đừng nói tìm khắp nước Việt Nam này ! Không, tôi sẽ bắt má nó bán nhà đi mà đền cho tôi.
Bây giờ tôi tạm giam nó trong kho lúa, nhưng tôi cấm mình không được cho nó ăn. Ngày mai, tôi sẽ kêu má nó tới đây !
Nói rồi, ông bỏ vào nhà, đóng cửa lại. Tối hôm ấy, ông uống rượu say mèm rồi lăn ra ngủ. Bà Tư lén đem cơm cho Tuấn ăn và đem mùng, chiếu cho nó ngủ.
Cơm tối xong, ba mẹ con bà Tư buồn bã, cũng đi ngủ sớm. Bé Vinh nằm cạnh mẹ, khóc thút thít. Bà Tư ngạc nhiên hỏi con :
- Vinh, làm sao mà con khóc ?
Bé Vinh ôm lấy mẹ, mếu máo :
- Thưa má, chính con đuổi con mèo vô phòng ba, chớ không phải anh Tuấn đâu !
Bà Tư sửng sốt, ngồi dậy, hỏi nhỏ :
- Thật thế sao con ?
- Thưa má, đúng như vậy. Anh Tuấn sợ ba đánh con đau, nên anh bảo con đi chơi chỗ khác, để ba về, anh nhận là anh đã đuổi con mèo !
Bà Tư không ngờ Tuấn lại có lòng hy sinh đại độ như thế, bà vội vàng xuống mở cửa kho, ôm lấy Tuấn, giọng bà nghẹn ngào :
- Con ơi, bà biết con thương em Vinh mà cam lòng nhận tội thay cho nó. Con thật là đại lượng, bà cám ơn con lắm. Nay việc đã lỡ dĩ rồi, bà tính như vầy :
Bà có một người em gái tên là Bích Hà lấy chồng làm cảnh sát ở Sàigòn. Bà viết một lá thư ghi địa chỉ rõ cho con cầm lên cho em bà. Em bà sẽ cho con ở tạm. Vài hôm nữa, bà lên Sàigòn, sẽ lo mọi sự cho con.
Bà ngẫm nghĩ một lát rồi nói tiếp :
- Bây giờ, con thu xếp áo quần, bà đi viết thư. Con về thưa má con tự sự, rồi sáng sớm, con ra đón xe đò đi Sàigòn ngay.
Nhà em bà rất dễ tìm. Đến bến xe xa lộ, con xuống xe, đi bộ qua cầu Phan Thanh Giản vào thành phố Sàigòn. Con cứ đi thẳng cho đến ngã tư, con rẽ sang phía trái là đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Con đi lên độ một cây số, rồi xem số nhà bà ghi trên bao thư, hỏi thăm người ta chỉ nhà cho con. Nếu con không gặp ai, con lại hỏi thăm mấy ông cảnh sát gác giữa đường.
Con cứ yên tâm mà đi, mọi sự ở nhà có bà lo xong hết. Bà sẽ liệu cách giúp đỡ má con.
Đêm ấy, hai mẹ con bà Hai ngồi nói chuyện với nhau suốt đêm. Đến sáng, bà Hai đưa Tuấn ra đường, đón xe lên Sàigòn. Bà đứng nhìn chiếc xe đò chở con đi khuất rồi mới trở về.

Chương 3.
Lần thứ nhất, Tuấn đi Sàigòn. Chiếc xe đò chạy như bay trên xa lộ rộng thênh thang. Tuấn thích thú nhìn ra hai bên : xe cộ ngược xuôi như mắc cửi. Càng gần đến thành phố, nhà cửa hai bên càng chi chít.
Đến bến xa lộ, xe dừng lại, mọi người tranh nhau xuống. Tuấn chờ cho mọi người xuống gần hết, mới xách cặp bước xuống. Cậu đứng vào vệ đường, tần ngần nhìn kẻ qua người lại. Chỉ trong vòng mười phút, chiếc xe đò cậu vừa đi, đã đầy người, đang quay đầu trở về Thủ Đức.
Tuấn rảo bước đi vào thành phố Sàigòn. Vừa đi, cậu vừa móc túi lấy lá thư bà Tư gởi để xem địa chỉ. Tuấn ngạc nhiên, vì không thấy lá thư đâu cả. Cậu bỏ cặp xuống đất, lục hết túi trên, túi dưới, cũng chẳng thấy ! Tuấn lo sợ lẩm bẩm một mình :
- Chết cha, lá thư rơi đâu mất ! Mình đã cẩn thận cặp chung với mấy trăm bạc. Bạc còn đây, sao lá thư lại mất nhỉ ?
Tuấn bỗng nhớ ra :
- Phải rồi, có lẽ mình làm rơi trên xe đò, khi mình lấy tiền trả tiền xe ! Bây giờ mình biết làm sao mà tìm cho ra nhà bà Bích Hà đây ?
Tuấn đứng lại phân vân một lúc, rồi tiếp tục đi :
- Mình cứ đi qua cầu đến đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, rẽ sang phía trái, đi thêm một quãng độ một cây số, mình sẽ hỏi thăm nhà bà Bích Hà, chắc có người biết. Nếu tìm không ra, thì chiều mình trở về nhà lại !
Bụng nghĩ thế, nhưng Tuấn cũng hơi sợ, lỡ về nhà mà ông Tư Bá bắt gặp thì nguy !
Qua cầu, đến ngã tư, Tuấn thấy có tấm bảng treo trên cột điện, đề “Đường Nguyễn Bỉnh Khiêm”, Tuấn mừng rỡ, rẽ sang phía trái. Cậu vừa đi vừa đếm bước chân để đo đường. Độ hơn một cây số, như lời bà Tư dặn, cậu đón đường một người đàn ông đang đi ngược chiều, lễ phép hỏi :
- Thưa ông, ông có biết nhà bà Bích Hà ở đâu đây không ?
Người đàn ông đứng lại nhìn kỹ Tuấn, ngạc nhiên :
- Em hỏi như vậy, không ai biết đâu ! Thế em không biết số nhà bà ta sao ? Em ở quê mới tới phải không ?
Tuấn vững bụng, trả lời :
- Thưa ông, vâng, cháu ở Thủ Đức lên. Cháu cầm bức thơ có ghi địa chỉ nhà bà Bích Hà , nhưng rủi cháu làm rơi trên xe đò rồi !
Người đàn ông lắc đầu :
- Như vậy thì khó tìm lắm ! Hay là em thử hỏi mấy người ở trong dãy nhà này xem. Tôi ở xa không quen biết ai ở đây.
Nói rồi người đàn ông bỏ đi một mạch. Tuấn tần ngần một lúc, rồi lại đi :
- Thây kệ ! Mình cứ lang thang đây, thấy ai ở trong mấy nhà nầy đi ra, mình sẽ hỏi thăm, chứ đường đột vô nhà người ta, lỡ may chó cắn thì khổ !
Đi thêm một quãng, bỗng Tuấn thấy ba, bốn cậu ở trong hẻm trước mặt đi ra đường, rồi quẹo trái, cùng một chiều với Tuấn. Tuấn mừng rỡ chạy theo. Nghe tiếng chân thình thịch phía sau, một cậu lớn nhất, đứng lại nhìn. Tuấn vừa chạy đến, rụt rè hỏi :
- Thưa anh, anh ở đoạn đường này, anh có biết nhà bà Bích Hà, có chồng làm cảnh sát ở đâu đây không ?
Cậu kia vừa nghe xong, đã giơ hai tay lên trời, cười ha hả :
- Chú em hỏi thăm nhà kiểu đó, thì có Trời mới biết ! Miền quê thì được, chớ ở thành phố, nếu không biết số nhà thì đành chịu thôi !
Cả bọn đi trước cũng đứng lại nhìn lui. Cậu kia vừa trả lời Tuấn xong, bỏ chạy theo các bạn. Một cậu nhỏ hơn, hỏi :
- Nó nói gì mà mầy cười ha hả thế ?
- Nó hỏi thăm nhà bà Bích Hà, có chồng làm cảnh sát ở đâu đây ? Hỏi như thế mà không tức cười sao được, mầy ? Thật đúng là mán ở rừng mới về thành phố !
Cậu nhỏ kia thấy Tuấn đứng tần ngần, tuyệt vọng, lấy làm thương hại :
- Thôi, mấy anh đi tắm trước đi, để tôi lại giúp nó một chút. Cạnh nhà tôi, có ông làm cảnh sát, may ra hỏi thăm được.
Mấy cậu kia cười hề hề, bỏ đi trước. Cậu nhỏ trở lại chỗ Tuấn đứng :
- Anh hỏi thăm nhà bà Bích Hà có chồng làm cảnh sát, mà anh không biết số nhà bà ta, thì làm sao mà tìm được?
Tuấn thấy cậu nhỏ này có vẻ thiện cảm, liền đem sự thật bày tỏ hết. Nghe xong, cậu nhỏ bảo Tuấn :
- Tôi tên là Minh, gần nhà tôi có ông làm cảnh sát, may ra hỏi thăm được. Bây giờ, tụi tôi đi tắm nơi hồ tắm gần đây. Anh đi chơi theo tôi, chốc nữa, tôi về hỏi thăm nhà cho anh.
Tuấn mừng rỡ, cám ơn rối rít, rồi lẽo đẽo xách cặp đi theo Minh. Khi cả hai tới nơi, thì bọn kia đang vùng vẫy dưới nước. Minh quay lại hỏi Tuấn :
- Tuấn có tắm không, để tôi mua cho cái vé ? Bọn tôi thì đã có “cạc” tháng rồi !
Tuấn không hiểu mua “vé”, mua “cạc” gì, nhưng cậu không muốn tắm, nên lắc đầu :
- Anh cứ tắm đi, tôi ngồi chơi chờ anh.
Minh bỏ áo xống cạnh Tuấn rồi nhảy ùm xuống nước với các bạn. cả bọn bày trò chơi tạt nước vào mặt nhau, xem ai chịu đựng được lâu. Có cậu bị tạt nước ào ào, rát quá, la oai oái. Chơi chán, các cậu lại bàn nhau bơi thi. Minh kêu Tuấn nhờ làm trong tài ra hiệu để cả bọn chơi. Tuấn thấy vui vui, đứng lên vỗ tay làm hiệu.
Tức thì “ầm, ầm” cả bọn nhào xuống bơi lấy bơi để. Đứa thì bơi ếch, đứa bơi sải, đủ kiểu. Đang bơi, bỗng Minh kêu thét lên :
- Tao bị vọp bẻ, bây ơi ! Chao ôi, đau quá !
Thấy Minh quặn người, hai tay ôm lấy chân, rồi chìm nghỉm, cả bọn sợ quá, bơi vội vào bờ, kêu cứu vang lên. Nhưng rủi người gác đi chơi đâu, kêu mãi mà không thấy ai ra tiếp cứu hết. Tuấn đứng trên bờ, thấy vậy, để nguyên áo quần, nhảy ùm xuống hồ.
Tuấn vốn bơi giỏi và biết cách cấp cứu người chết đuối, nên cậu cẩn thận lặn xuống sâu để xem xét. Cậu thấy Minh, hai tay quờ quạng dưới đáy hồ. Tuấn bơi nhẹ nhẹ đến phía sau lưng Minh, đỡ bổng Minh lên mặt nước. Tuy cẩn thận thế, mà suýt nữa tay Minh nắm phải đầu Tuấn.
Tuấn đẩy Minh vào đến bờ hồ, cả bọn xúm lại kéo Minh lên, thì người gác cũng vừa chạy đến cấp cứu. Tuấn trèo lên bờ. Tuy không bị uống nước, nhưng vì nín thở quá lâu và phải vật lộn với Minh, nên Tuấn mệt lử. Cậu đang ngồi thở dốc, thì cha mẹ Minh - nhờ một cậu chạy về báo tin - cuống cuồng chạy tới.
Thấy con đã tỉnh táo, ông bà sung sướng trào nước mắt. Khi nghe các bạn Minh thuật chuyện lại, ông bà vội vàng chạy đến, nắm lấy tay Tuấn, cám ơn rối rít. Minh cũng đến ôm choàng lấy Tuấn. Thấy áo quần Tuấn ướt mèm, ông thân của Minh nói với Tuấn :
- Cháu à, việc trước hết là cháu về nhà ông bà để thay áo xống đã, kẻo bị cảm. Chuyện gì khác sẽ hay !

***
Sau khi nghe Tuấn kể hoàn cảnh, ông thân của Minh ôn tồn bảo Tuấn :
- Cháu quả thật là một cậu bé đầy lòng vị tha và can đảm, ông bà cảm phục cháu lắm. Bây giờ, ông bà bàn với cháu như thế này :
Cháu chả cần đi tìm nhà bà Bích Hà làm gì nữa, cháu cứ ở lại đây với ông bà. Ông bà nhận cháu làm con nuôi, cho cháu đi học với em Minh.
Ông trầm ngâm một lúc rồi nói tiếp :
- Nói cho cháu rõ : Ông là ông Thái Phong, làm chủ chiếc tàu buôn Nam Hải. Ông bà không giàu có lắm, nhưng nhờ Trời cũng dư ăn. Ông bà hiếm hoi, chỉ sinh được một mình em Minh đó mà thôi ! Vậy mà hôm nay, nếu không có cháu, thì em Minh đâu còn nữa ? Cho nên, chính cháu là cứu tinh của gia đình ông bà đó !
Cháu cứ yên tâm ở lại đây, chỉ viết thư về cho má cháu rõ, để má cháu cho bà Tư hay. Mai mốt yên yên, ông sẽ đem cháu về thăm má và em cháu.
Tuấn cảm động, khóc sụt sùi : Cậu không ngờ hạnh phúc lại đến với mình một cách quá đột ngột như thế. Cậu nghẹn ngào, không nói lên được lời gì.
Bà Thái Phong thấy Tuấn làm thinh, bà nghĩ thầm : có khi nó sợ bà gượng ép theo ý muốn của ông, nên bà vuốt tóc Tuấn, ngọt ngào :
- Con đừng nghĩ ngợi gì hết. Tuy mới biết con, nhưng ông bà thương con cũng như thương em Minh vậy !
Minh cũng nắm lấy tay Tuấn :
- Anh Tuấn ở lại đây với em đi. Anh em mình sẽ đi học với nhau !
Tuấn ngước mắt đẫm lệ nhìn ông bà, đầy vẻ biết ơn :
- Thưa hai bác, cháu không dám nghi ngờ lòng tốt của hai bác đâu, nhưng vì cháu sung sướng quá, nên không nói ra được đó thôi ! Cháu được hai bác thương nhận làm con, cháu đội ơn hai bác không biết chừng nào !

Chương 4
Bốn năm trôi qua…
Tuấn được ông bà Thái Phong nuôi cho ăn học. Thỉnh thoảng, Tuấn về thăm má và em, nhưng về tránh trút, vì sợ ông Tư Bá bắt gặp.
Tuấn và Minh cùng học chung một lớp. Ý ông bà Thái Phong muốn cho cả hai học đến Đại học, nhưng Tuấn thấy mang ơn cha mẹ nuôi quá nhiều. Vả lại, ý Tuấn không muốn chọn một nghề cần bằng cấp cao. Ước vọng của cậu là một mảnh vườn trồng cây ăn quả và vài mẫu ruộng cấy lúa, để vui sống cạnh mẹ già, em dại, thế là cậu mãn nguyện.
Vì thế, cậu giấu cha mẹ nuôi, nạp đơn xin dự kỳ thi Trung học tráng niên và cậu đã được kết quả như ý. Mãi đến ngày ghi tên vào Đệ Tam, Tuấn mới tỏ thật với cha mẹ nuôi để xin thôi học. Ông Thái Phong ngạc nhiên hỏi :
- Con mới 16 tuổi, còn học hành được, tại sao lại thôi ? Con định làm gì ?
Tuấn nhỏ nhẹ :
- Thưa bác, từ lâu, con chỉ ước mong học đến Đệ Tứ. Cái chết của ba con đã làm cho con tưởng là tuyệt vọng. Nhưng may Trời dun dủi cho con được gặp hai bác thương giúp. Nay con học được như thế này, là con đã mãn nguyện lắm rồi.
Trong tương lai, con không có tham vọng làm việc gì cần bằng cấp cao, mà con chỉ thích làm ruộng, làm vườn. Vì thế, con xin bác cho con được đi theo tàu bác điều khiển vài năm, trước là con được đi đây đi đó để học hỏi thêm những điều tai nghe mắt thấy, sau là con có thể dành dụm được ít tiền cho má con mua một miếng vườn, để mẹ con sống với nhau.
Ông Thái Phong nghe Tuấn giãi bày, ông cảm động nắm lấy tay Tuấn :
- Bác thấy con có hiếu, bác mừng lắm ! Nếu con không muốn học nữa thì bác cho con đi với bác !

***
Thế là ít lâu sau, Tuấn trở thành một thủy thủ trẻ tuổi làm việc dưới tàu Nam Hải.
Tàu Nam Hải trọng tải trung bình, nhưng được kể vào hạng tàu lớn do người Việt Nam làm chủ. Tháng nào, tàu Nam Hải cũng chở hàng từ Sàigòn đi Tân Gia Ba và lãnh hàng ở đó chở về Sàigòn. Và cứ sáu tháng, tàu lại đi một chuyến qua Nhật và một chuyến sang Ấn Độ. Về mùa biển hay động mạnh, tàu được kéo vào ụ để xem xét, sửa chữa và sơn quét lại.
Ngoài ông Thái Phong là Thuyền trưởng, còn có một phụ tá và một số thuỷ thủ chừng 15 người.
Công việc của Tuấn cùng các bạn : chùi rửa tàu mỗi ngày, xem sóc tất cả các phòng và kho hàng. Những ngày tàu bốc hàng và dở hàng, thì công việc của thuỷ thủ vất vả khó nhọc hơn ngày thường.
Các bạn thuỷ thủ, ai cũng biết Tuấn là con nuôi ông Thuyền trưởng, nhưng Tuấn không vì thế mà lên mặt với ai. Cậu coi mình như một thuỷ thủ tập sự, tận tâm làm việc dưới quyền điều khiển của những bậc đàn anh. Bởi đó, nhân viên trong tàu, ai cũng quý mến cậu. Trong số các bạn thuỷ thủ, Tuấn rất thân với Dũng. Tàu cập bến một hải cảng nào, nếu được phép đi dạo phố, thế nào Tuấn Dũng cũng đi cặp với nhau. Dũng đã làm việc dưới tàu Nam Hải lâu năm, đã đi đây đi đó ; nhờ Dũng mà Tuấn học hỏi được thêm nhiều điều hữu ích. Ông Thái Phong cũng muốn cho Dũng chỉ vẽ cho Tuấn trong bước đầu mới vào nghề, vì ông nhận thấy Dũng là một thanh niên đứng đắn.
Đến kỳ tàu sắp sửa chở hàng xuất cảng sang Nhật, ông Thái Phong đưa tin cho nhân viên biết. Tuấn mừng thầm, vì được dịp đi xem một nước mà kỹ nghệ đã nổi tiếng nhất nhì miền Đông Nam Á.
Một tuần trước khi tàu nhổ neo, ông Thái Phong cho Tuấn về thăm nhà. Bà Hai dặn dò con, cố gắng làm việc cho tử tế và ăn ở hoà nhã với mọi người, Em Hiền bá cổ anh, nhõng nhẽo :
- Anh Hai đi Nhật, nhớ mua quà Nhật cho em, nghe anh !
Tuấn hôn lên hai má lúm đồng tiền của em, hứa hẹn :
- Ừ, anh sẽ mua cho má một cái “radô”, chạy bằng “bin” để má nghe cải lương nè ! Còn em, anh sẽ mua cho em một cái máy thu băng, để em thu tiếng em hát, em cười vào trong máy, rồi mở ra nghe lại, y hệt tiếng em vậy !
Hiền tưởng anh nói đùa, xịu mặt xuống :
- Thôi, nghỉ chơi với anh Hai đi, em không tin đâu ! Máy gì mà lạ vậy ?
Tuấn ôm lấy em, vỗ về :
- Tại em chưa thấy, nên em lấy làm lạ, chớ anh đã thấy rồi. Nhiều kiểu lắm, có thứ nhỏ xíu hà, bằng cuốn tập thôi !
Bà Hai cũng chưa hề thấy loại máy lạ đó :
- Máy gì mà hay quá nhỉ ? Mà có mắc tiền lắm không con ?
Tuấn cười :
- Ở Sàigòn, người ta cũng có bán mà mắc. Còn như bên Nhật là nơi họ chế tạo ra, chắc rẻ hơn nhiều.
***
Suốt mấy ngày bốc hàng lên tàu, Tuấn và các bạn làm việc không ngừng tay. Những chiếc xe vận tải hạng nặng, nối đuôi nhau chở từng kiện hàng to tướng, cặp sát vào hông tàu. Người điều khiển cần cẩu, móc hàng lên rồi bỏ xuống kho. Một số người đứng trong kho, khiêng sắp các kiện hàng cho có thứ tự. Họ phải cẩn thận, nhẹ nhàng, khi di chuyển những kiện hàng có chữ đỏ to tướng : “DỄ VỠ”.
Hàng chất vào kho tàu xong xuôi, các thuỷ thủ được nghỉ ngơi một ngày. Sáng hôm khởi hành, nhân viên quan thuế lên tàu kiểm soát một lần chót, đoạn cho lệnh nhổ neo.
Chiếc thang lên tàu đươc xếp gọn vào hông tàu và chiếc neo khổng lồ vừa kéo lên, thì máy tàu chuyển động mạnh hơn. Tàu từ từ ra khỏi bến, để lại đằng sau, những giòng nước xoáy trắng xoá. Từ bến Sàigòn ra đến cửa biển Vũng tàu, chiếc Nam Hải do một hoa tiêu riêng cầm lái. Hoa tiêu này do hội Hoa Tiêu chuyên môn lái tàu trên quãng sông Sàigòn- Vũng Tàu, vì họ biết rõ lòng sông. Ra đến biển, họ giao tay lái cho hoa tiêu của tàu rồi trở lại Sàigòn bằng tàu riêng của họ.
Lênh đênh hơn một tuần lễ trên mặt biển rộng mênh mông, Tuấn tuy không bị say sóng, nhưng cậu cảm thấy buồn bã, vì suốt ngày chỉ quanh quẩn trên tàu. Các thuỷ thủ khác, vui vẻ hơn, vì họ đã quen đi như thế nhiều lần.
Tàu cập bến Yokohama vào một buổi sáng. Hải cảng này lớn gấp mấy lần hải cảng Sàigòn. Tàu thuỷ, cái lớn, cái nhỏ, đậu chi chít. Tuấn so sánh chiếc Nam Hải với mấy chiếc tàu dầu đang đậu gần đó, thật chẳng khác gì con chó với con voi !
Các thủ tục xong xuôi, tàu Nam Hải hạ neo và bỏ thang xuống bến. Trong việc giao dịch với người ngoại quốc, dân Nhật dùng tiếng Anh, còn khi họ tiếp xúc với nhau, họ dùng tiếng bản xứ. Tuấn để ý nghe hai người Nhật nói chuyện với nhau : giọng họ nói cũng na ná như mấy ông Ba Tàu ở Chợ lớn nói chuyện với nhau vậy.
Bước chân lên đất Nhật, điều Tuấn nhận thấy trước tiên là sạch sẽ. Bến tàu, nhà cửa, đường sá đều sạch sẽ.
Chuyến đi Nhật lần này, ông Thái Phong theo đài khí tượng tiên đoán, sợ có giông bão xẩy đến, nên đã quyết dịnh rút ngắn thời gian ở đất Nhật, để trở về Sàigòn sớm hơn dự định. Bởi đó, sau khi dở hàng xuống bến, ông Thái Phong cho Dũng dẫn Tuấn đi xem thành phố Tokyo (Đông Kinh) một ngày, để trở về cho kịp.
Sáng sớm, Dũng đưa Tuấn lên tàu điện. Dũng đổi một số tiền kền Nhật, để mua vé. Cậu xem giá tiền xe đi Tokyo , rồi bỏ tiền vào “ghi sê” có ghi chữ Tokyo , vài giây sau, một cái vé xe lòi ra cùng với số tiền lẻ thối lại. Dũng bỏ tiền lần nữa, để mua một vé khác cho Tuấn.
Một lát sau, tàu đến, Dũng léo Tuấn bước vội lên tàu, vì chỉ trong mấy phút là tàu sẽ tự động đóng cửa và chạy ngay. Khi tàu bắt đầu chạy, Dũng cắt nghĩa cho Tuấn hiểu :
- Tàu điện ở đây cứ độ mươi phút là có một chuyến. Đường tàu đi và về khác nhau, nên không bao giờ đụng nhau. Ghi sê bán vé tự động chớ không có người. Mình muốn đi đâu, cứ theo giá tiền ghi trên bảng, mà nhét tiền vào “ghi sê”, máy sẽ tự động đưa vé ra cho mình. Và nếu mình đưa dư tiền nó cũng sẽ thối tiền lẻ lại. Điều cần nhất là mình phải dùng tiền Nhật bằng kền, mới mua vé được. Bởi thế, chính phủ Nhật đúc tiền kền từ 1 đồng đến 100 đồng, trên 100 đồng mới in bằng giấy.
Tuấn gật gù khen :
- Kể ra kỹ nghệ họ tiến quá, nên cái gì họ cũng xài máy móc, bớt được nhiều nhân công. Mà đồng tiền Nhật gọi tên là gì, anh nhỉ ?
Dũng cầm một đồng tiền Nhật giơ lên :
- Gọi là đồng Yen. Đồng Yen của Nhật, nhờ mức xuất cảng trong nước mạnh, nên có giá trị quốc tế, không phải như đồng bạc Việt Nam mình phải dựa vào đồng Mỹ kim.
Bỗng có tiếng cô chiêu đãi viên nói, phát ra từ máy phóng thanh gắn trong mỗi toa xe. Dũng nhìn ra hai bên đường, rồi chỉ tay bảo Tuấn :
- Thường tàu đi qua chỗ nào có di tích lịch sử, đền thờ hoặc thắng cảnh gì, thì nhân viên trong tàu lại chỉ dẫn cho du khách hiểu. Vừa rồi là họ lưu ý chúng ta xem về phía Tây Bắc, có ngọn núi Phú Sĩ, mà dân chúng Nhật Bản tôn thờ, quý trọng. Ngọn núi này khá cao, xưa kia là một núi phun lửa, nhưng đã tắt từ lâu. Trên đỉnh núi luôn luôn có tuyết bao phủ. Về mùa hè, có người leo lên tận đỉnh núi, nhưng số đông, chỉ lên tới lưng chừng.
Tuấn vừa nghe Dũng kể, vừa phóng tầm mắt nhìn hai bên. Nhà cửa san sát, cái cao, cái thấp. Các đường xe hơi chạy rộng rãi, có thể chạy mỗi chiều 3, 4 chiếc thong thả. Xe đến các ngã tư, không phải dừng, vì có cầu bắc ngang trên cao, có đường dọc phía dưới, thật rất tiện lợi, đỡ mất thì giờ và bớt tai nạn lưu thông. Bỗng Tuấn quay lại hỏi Dũng :
- Anh Dũng nè, hình như ở đây họ lái xe đi bên trái, chứ không phải đi bên mặt như bên nước mình, phải không anh ?
Dũng gật đầu :
- Phải ! Ở Nhật, Hồngkông, bên Anh và một số nước khác, họ lái xe đi phía tay trái. Vì thế, xe cộ ở các xứ đó, bánh lái thường nằm bên phải, còn như bên mình, bánh lái để bên trái.
Xe chạy chừng nửa giờ, có lúc xe đi qua giữa phố xá, có lúc chạy gần biển, phong cảnh thật đẹp mắt. Tuấn đang mơ màng thì Dũng lay gọi :
- Tuấn ơi, đến Tokyo rồi, xuống mau !
Tuấn vội đứng lên đi theo bạn. Thành phố Tokyo thât đẹp. Đường sá rộng và sạch sẽ như được lau chùi cẩn thận ! Phố xá, cái thấp, cái cao, có nhiều dãy cao ngất, có lẽ đến 40, 50 tầng, Tuấn nhìn ngợp mắt !
Cả hai đi vào một lề phố. Người qua lại tấp nập. Đàn ông hầu hết bận âu phục. Còn phụ nữ, có người bận đầm, có người bận Kimono. Trông bề ngoài, người Nhật có vẻ nhanh nhẹn, đi lại vội vã, hình như họ ít thì giờ nhàn rỗi.
Dũng quay lại bảo Tuấn :
- Muốn sang dãy phố bên kia, phải theo đường riêng, chứ không băng ngang qua chỗ nào cũng được, như bên xứ mình đâu ! Cậu xem kìa, giữa đường xe chạy có thấy người đi bộ nào đâu !
Tuấn gật đầu :
- Kể ra họ tổ chức thật đàng hoàng, nhưng đáng phục nhất là người dân biết tôn trọng trật tự công cộng mới được như thế này.
Dũng xem đồng hồ, bảo Tuấn :
- Gần 11 giờ rồi. Chúng ta không có thì giờ để đi xem nhiều nơi đâu, Tuấn à ! Bây giờ, chúng ta vào siêu thị gần đây xem. Trong siêu thị này, anh muốn mua gì cũng có : từ cây kim, sợi chỉ cho đến chiếc xe hơi. Ở Tokyo , hầu như dãy phố nào cũng có một siêu thị.
Đi qua một căn phố trống, phía trong có bậc thang đi xuống hầm, Dũng chỉ tay bảo Tuấn :
- Đây là đường hầm đào sâu dưới đất cho tàu điện chạy khắp thành phố. Cứ 5 phút có một chuyến. Ai muốn đi xa xa, di chuyển bằng tàu điện, đỡ tốn hơn đi tắc xi.
Hai người đi đến một toà nhà cao 14 tầng, Dũng vui vẻ bảo Tuấn :
- Siêu thị Phú Sĩ đây rồi, cậu muốn mua máy móc gì, vào đây xem.
Vừa bước vào, Tuấn đã thấy hoa cả mắt, vì cảnh rộng lớn, sáng sủa của ngôi nhà. Hàng hoá bày la liệt, nhưng rất ngăn nắp thứ tự, trông thật hấp dẫn. Dũng đọc bảng chỉ dẫn rồi cắt nghĩa cho Tuấn :
- Đây là bảng ghi cho biết tầng nào bán những thứ gì :
Tầng dưới hết, bán thực phẩm. Tầng 1, bán đồ chơi trẻ con. Tầng 2, bán máy móc, Tivi, Radio, máy thu băng, quạt máy, tủ lạnh v.v… Tầng 3, bán dụng cụ về điện. Tầng 4, bán…
Tuấn la lên :
- Thôi, thôi… biết chỗ bán radio là được rồi ! Mình lên xem, mua xong, nếu còn giờ thì đi coi mấy tầng kia, không thì thôi !
Dũng cười :
- Thì ít nữa cậu đi một vòng dưới này xem họ bán thực phẩm ra sao đã !
Nhiều hàng tủ dài, có máy lạnh, chứa các thứ rau tươi, trái cây. Các đồ hộp chất cao, loại nào theo loại ấy. Tuấn thấy các bà nội trợ đẩy xe đi vòng quanh, lấy thứ này, thứ kia, chất vào xe. Cậu ngạc nhiên, quay sang hỏi dũng:
- Sao không thấy người bán đâu cả ? Họ không sợ mất à ?
Dũng thản nhiên đáp :
- Cửa hàng rộng lớn như thế này, nhưng nhân viên rất ít. Người mua tự do chọn lựa những hàng mình thích, chất lên xe, đẩy tới văn phòng gần cửa ra. Ở đó, có nhân viên kiểm hàng và làm hoá đơn. Họ tính bằng máy điện tử, nên rất nhanh. Trả tiền xong, có người đưa ra tận xe cho khách.
Siêu thị lại còn tổ chức đem hàng đến tận nhà cho khách nữa. Các bà nội trợ, bận việc, chỉ gọi dây nói tới xin thứ này, thứ kia, trong chốc lát, có xe đưa hàng đến.
Tuấn buột miệng khen :
- Tuyệt quá nhỉ ! Tổ chức chu đáo như vậy, vừa tiện vừa lợi !
Dũng gật đầu :
- Còn việc anh hỏi : Sao họ không sợ bị mất ? Đó là anh chưa hiểu bản tính người Nhật. Người Nhật rất ghét tính trộm cắp. Có thể nói được rằng, cả triệu dân Nhật, mới có một vài người có tính tham. Bởi đó, không ai lo nạn mất cắp.
Tôi còn nhớ năm trước đây, ông chủ và tôi lên Tokyo có việc cần. Chúng tôi thuê phòng ở khách sạn, rồi đi phố. Khi trở về khách sạn, ông chủ quên cái cặp đựng nhiều giấy tờ quan hệ trong xe tắc xi. Đang lo lắng, chưa biết trình báo thế nào, thì bỗng có tiếng gõ cửa, tôi chạy ra mở : Ba nhân viên Cảnh sát bước vào hỏi tên ông chủ và giao trả cái cặp. Họ cắt nghĩa :
- Vừa rồi, một tài xế tắc xi, đến trình báo họ là có hai người Việt Nam đi xe anh ta, bỏ quên lại cái cặp trong xe, nhưng anh ta không biết địa chỉ của chủ nó. Nhân viên chúng tôi hội lại, mở cặp ra xem và thấy trong cặp có địa chỉ ghi số phòng ở khách sạn này.
Ông chủ mừng quá, cám ơn rối rít và ngỏ ý xin đưa một số tiền để thưởng công người tài xế tắc xi. Nhưng họ lễ phép từ chối :
- Đó là bổn phận của mọi công dân Nhật !
Nghe bạn nói xong, Tuấn cất mũ, cúi đầu một cách trịnh trọng :
- Thiệt tôi xin bái phục đức tính cao quý ấy của họ. Theo tôi nghĩ, họ được như thế này là nhờ một truyền thống hào hùng từ ngàn xưa để lại và nhất là từ thơ ấu, họ đã được giáo dục cho biết : đức tính thật thà là cao quý và trộm cắp, gian tham, là một cái gì đáng ghê tởm. Nhờ đó, họ cầm hãm được lòng tham của.
Dũng gật đầu, đồng ý :
- Anh nhận xét rất đúng ! Chính nhờ gương tốt của tiền nhân họ và nền giáo dục vững chắc đã đào tạo họ được đức tính cao quý đó !
Rồi Dũng vỗ vai Tuấn :
- Thôi, tụi mình lên tầng hai mua máy và đi ăn cơm trưa. Xong, chúng ta sẽ đi xem vài công viên, để trở về Yokohama , kẻo ông chủ mong.
Cả hai đi thang máy lên tầng hai. Tuấn loá mắt vì đủ mọi thứ máy. Nguyên chỗ chưng bày Radio mà cũng đã hàng ngàn kiểu khác nhau. Tuấn và Dũng chọn một cái Radio nhỏ và một máy thu băng xinh xinh, vừa cầm, đưa đến quầy trả tiền.
Trước khi gói, họ thử cho thấy là máy tốt và chỉ dẫn cách sử dụng rất chu đáo. Đến khi trả tiền, vì họ biết hai anh là người ngoại quốc, nên họ bảo :
- Nếu hai ông có giấy thông hành, đưa cho chúng tôi ghi vào hoá đơn, chúng tôi sẽ bớt cho được hai chục phần trăm.
Dũng và Tuấn nghe vậy, khoái quá, lục túi lấy giấy thông hành đưa cho họ. Tuấn vui vẻ bảo Dũng :
- Giá bán ở đây rẻ hơn Sàigòn nhiều, lại còn được bớt nữa, đỡ quá chừng !
Mua xong, Dũng hỏi Tuấn còn muốn lên xem mấy tầng kia nữa không ? Tuấn lắc đầu :
- Xem cái gì cũng thích, mà không có tiền mua, buồn chết ! Thôi đi ăn cơm đã anh. Mọi sự hậu bàn !
Cả hai tươi cười trở xuống, đi tìm hàng cơm. Hàng cơm ở đây cũng nhiều. Tuỳ hạng sang, nghèo, nhưng hàng nào cũng rất sạch sẽ, thứ tự. Đủ các thứ món ăn Tây, Tàu , Nhật, tuỳ thích mỗi người. Dũng bảo Tuấn ăn thử cơm Nhật cho biết mùi vị. Nhật cũng dùng đũa như ở Việt Nam nhưng món ăn có vẻ khác. Các cô bồi bàn, y phục toàn trắng, tiếp đãi rất lịch sự, nhưng đứng đắn.
Cơm nước xong, Dũng đưa Tuấn tới một công viên nghỉ trưa. Công viên này khá rộng. Phía mặt tiền, một hàng cây anh đào đang trổ hoa, trông hết sức thơ mộng. Tiếp đến là bồn hoa chạy dài, trồng nhiều loại hoa quý, màu sắc rực rỡ mà Tuấn chưa hề thấy. Ở giữa công viên là một hồ sen, có hàng chục vòi nước phun liên lỉ, có nhiều loại cá vàng thật đẹp. 4 đường hình chữ thập rải sỏi trắng đi vào hồ. Ngoài ra là một thảm cỏ lúc nào cũng xanh mướt.
Phía cuối công viên là những cây cao, cành lá sum sê, rợp bóng mát. Dưới mỗi gốc cây, sắp rải rác nhiều ghế đá cho du khách nghỉ chân, ngắm cảnh.
Lúc hai anh em đến nơi, thì đã có nhiều người đang nghỉ trưa ở đó. Kẻ ngồi đọc báo, người nằm nghỉ, ai nấy đều im lặng. Dũng đưa Tuấn đi một vòng, chọn một ghế đá xa xa, vừa nghỉ chân vừa trò chuyện :
- Công viên này dành cho người lớn. Công viên của trẻ con thì có đủ thứ trò chơi : máy bay, xe lửa, tàu điện, xe hơi v.v… Nhưng phải công nhận là trẻ con ở đây chơi đùa rất lễ độ, biết giữ gìn đồ chơi chung chớ không phá phách như trẻ con xứ khác.
Tuấn ngồi xuống dựa lưng vào thành ghế, lấy mũ úp lên mặt, mơ màng :
- Tôi mới xem tận mắt nước Nhật được vài giờ mà đã thấy nhiều cái lạ lùng, huống chi là được xem cho hết, thì còn thấy biết bao nhiêu công cuộc, chứng tỏ họ văn minh và kỹ nghệ họ tiến vượt bực.
Dũng gật đầu :
- Đúng thế, nếu Tuấn được đi xem các nhà máy sản xuất xe hơi, máy móc truyền hình, truyền thanh, các xưởng đóng tàu thủy, máy bay v.v… lớn nhất nhì thế giới, chắc Tuấn phải hoa mắt !
Về kỹ nghệ, xét ra họ không thua gì các nước Âu Mỹ, mà về giáo dục, họ cũng có nhiều điểm tuyệt hảo. Trẻ con từ thành thị đến thôn quê đều bắt buộc phải học hết Trung học.
Về nghề nghiệp : ai muốn làm gì, cũng phải có bằng cấp chuyên môn, dù là những nghề rất tầm thường. Một người muốn đi xin việc làm, mà không có bằng chuyên môn, không mong được thâu nhận.
Người Nhật sống với nhau rất hoà nhã, ít gây sự với nhau, ngay trẻ con cũng thế. Có anh bạn kể cho tôi nghe : Anh ta đã ở gần hai năm giữa khu lao động, mà chưa hề thấy trẻ con đánh lộn nhau.
Nước Nhật có nhiều phong cảnh tuyệt đẹp, nơi thì hùng vĩ, nơi thì xinh xắn. Phong cảnh thơ mộng là nhờ có biển bao bọc tứ phía. Bờ biển thì chỗ nào cũng có cây thông mọc trên bãi cát hay cạnh những tảng đá, thân cây uốn khúc lả lướt trên mặt nước.
Phong cảnh nên thơ tạo cho đa số dân Nhật có óc thẩm mỹ. Họ rất thích bông hoa, âm nhạc và thể thao. Lối sống họ thật thanh nhã. Nhà nào dù nghèo, giàu, chật hay rộng, họ cũng sắp đặt đồ đạc trong nhà một cách rất mỹ thuật. Trên bàn, lúc nào cũng có một bình hoa tươi, đẹp mắt.
Hai anh em mải mê trỏ chuyện. Khi ngẩng đầu lên, thì công viên đã vắng hết người. Cả hai cũng đứng dậy. Dũng xem đồng hồ, bảo Tuấn :
- Gần 2 giờ chiều rồi, chúng mình đi về là vừa. Chuyến sau, tôi sẽ xin phép ông chủ đưa anh đi xem các cơ sở kỹ nghệ, để anh thấy cái đà tiến của họ.
Trên đường trở lại trạm tàu điện, Tuấn thấy một đoàn người ăn mặc sặc sỡ, họ mang trước ngực và sau lưng một tấm bảng lớn. Họ vừa đi vừa đánh trống, thổi kèn, vừa đọc nghê nga. Tuấn lấy làm lạ, quay lại hỏi :
- Họ làm gì thế anh Dũng ? Xuống đường hả ?
Dũng cười ngặt nghẽo :
- Chú mầy bị ám ảnh, hễ thấy đông người kéo nhau đi, là nghĩ đến chuyện xuống đường. Không phải đâu, họ đi quảng cáo hàng mới đó !
Ở đây, hàng hoá sản xuất do nhiều công ty khác nhau. Hãng nào muốn hàng mình bán chạy, phải quảng cáo thật hăng, đồng thời hàng phải tốt và rẻ. Trên thương trường, họ cạnh tranh nhau từng ly… nhờ đó mà dân nghèo ai cũng sắm sửa được đủ mọi tiện nghi theo thời đại mới !
***
Nhờ ông Thái Phong tiên liệu, Tàu Nam Hải vừa tới Cần Giờ, thì bão thổi mạnh từ Phi Luật Tân qua vịnh Bắc Việt.
Tuấn về đến Sàigòn, vội vã xin phép ông Thái Phong cho đi thăm má. Bà Hai được cái “radô” để nghe cải lương, bà mừng lắm. Còn bé Hiền, được anh Hai tặng cho cái máy thu băng, thích thú hơn được vàng.
Thôi thì cô bé xách máy đi thu đủ thứ : thu tiếng chúng bạn hát, reo cười v.v… cô còn thu cả tiếng bò rống, heo kêu, gà gáy ! Có lần, cô bé thấy má và anh Hai ngồi nói chuyện, cô lén thu vô băng, rồi mở ra cho má nghe, khiến bà ôm bụng cười ngặt nghẽo.

Chương 5
Đi Nhật về được ít lâu, tàu Nam Hải lại được xem xét kỹ lưỡng, để chở hàng sang Ấn Độ. Tuấn được tin ấy, cậu vui mừng khấp khởi.
Trước đây, Tuấn đọc báo Thế giới Tự do, thấy nói ở xứ Marát ( Madras ) bên Ấn Độ, người ta bắt rắn độc để lấy nọc của nó, bào chế thành một thứ thuốc chữa trị những người bị rắn độc cắn.
Cái chết oan uổng của ba Tuấn làm cho Tuấn nuôi một ước mộng : Phải chi vùng Tuấn ở, mà có thuốc đó, chắc cứu được nhiều người thoát chết vì tai hoạ rắn cắn. Ước mộng đó, Tuấn chưa hề nói ra cho ai biết, dù với má Tuấn.
Khi biết chắc chắn mình sẽ được đi theo tàu, Tuấn đêm ngày ôn lại Anh ngữ, để có thể nói cho người ta hiểu được. Đồng thời, cậu cũng mua một bản đồ Ấn Độ, để xem cho biết đường. Từ Bombay, là nơi tàu Nam Hải cập bến, đến Marát khá xa. Bombay ở miền Tây Bắc Ấn Độ, còn xứ Marát lại nằm về phía Đông Nam Ấn Độ.
Muốn biết cho thấu đáo, Tuấn làm quen với mấy chú Chà để hỏi. Họ cho Tuấn biết :
- Từ Bombay đi Marát, gần một ngàn cây số, có xe lửa tốc hành đi và về, mỗi ngày đêm có 6 chuyến. Cách 4 giờ có một chuyến khởi hành. Tính ra phải mất hơn mười giờ đồng hồ mới tới nơi. Còn đi xe hơi thì nhanh hơn, nhưng mất nhiều tiền.
Tuấn thử làm một bài tính : Nếu ông Thái Phong cho đi chơi trọn ngày, chưa chắc mình đi về kịp. Huống chi có nhiều lần, ông chỉ cho xả hơi nửa ngày thì biết làm sao ?
Suốt mấy đêm, Tuấn không ngủ yên giấc vì bài tính không đáp số đó. Có lần cậu định bụng :
- Hay là mình cứ nói sự thật ra, để xin phép bác ?
Nhưng rồi cậu lại tự nhủ :
- Biết bác ấy có cho phép không, hay là bác lại cho là mình mơ mộng như trẻ con thì hỏng việc hết !
Một ý nghĩ liều lĩnh hiện ra trong đầu óc Tuấn :
- Thôi, tới đâu hay đó ! Dù thế nào, mình cũng đi Marát cho kỳ được.
Bài toán đã có đáp số, không biết đúng hay sai, nhưng đã làm cho Tuấn trở nên vui vẻ hăng hái.

***
Đường biển từ Sàigòn đi Ấn Độ xa gấp ba Sàigòn đi Nhật Bản, nhưng Tuấn cảm thấy vui thích hơn.
Thành phố Bombay toạ lạc trên một hòn đảo dựa vào rặng núi Western Ghâts sừng sững đàng xa. Chung quanh là làn nước xanh biếc của vịnh Oman bao bọc. Bờ biển đầy cây dừa cao ngất, tập hợp thành một bức tường thành tuyệt đẹp.
Đến Bombay , việc trước tiên của Tuấn là làm quen với mấy thủy thủ Ấn Độ, để hỏi xem các giờ xe lửa tốc hành đi Marát và các giờ xe hơi. Họ cho biết :
- Xe lửa tốc hành từ Bombay đi Marát, mỗi ngày và đêm có 6 chuyến : 8 giờ sáng, 12 giờ trưa, 16 giờ chiều, 20 giờ tối, 24 giờ đêm và 4 giờ sáng. Ở Marát đi Bombay cũng khởi hành cùng giờ như vậy.
Còn xe hơi thì vô chừng, hành khách đầy xe thì họ chạy. Nếu mình muốn nhanh, thì bao luôn cả chuyến.
Tuấn vừa lo dở hàng xuống, vừa suy tính :
- Thường khi bác Thái Phong cho thủy thủ nghỉ ngày mai, thì bác báo cho biết tối hôm trước. Như vậy, mình sẽ đi xe lửa ban đêm, sáng ngày đến Marát, mình sẽ ở lại Marát vài giờ. Độ 9 giờ sáng, mình bao xe hơi trở về Bombay . Nếu bác ấy chỉ cho đi chơi nửa ngày, thì mình sẽ cố về sớm hơn !
Nghĩ đến việc trốn đi cả đêm mà không cho bác Thái Phong biết, Tuấn thấy không ổn. Cậu phân vân không biết tính cách nào. Cuối cùng, cậu định viết một lá thư dài, trình bày cho bác rõ, và để thư ấy lại trên bàn.
Hàng dở xuống xong, các thủy thủ được đi dạo phố một buổi chiều, để hôm sau lại bốc hàng lên tàu.
Khác hẳn với dân Nhật, người xứ Ấn Độ phần nhiều mặc màu trắng, có lẽ cho bớt nóng. Phụ nữ Ấn Độ còn choàng đầu và vấn quanh người bằng một tấm vải dài, có cô chỉ còn thấy hai con mắt và một chấm đỏ giữa trán.
Nước Ấn Độ có vẻ nghèo nàn, không có gì đặc biệt. Khi bước chân vào thành phố, Tuấn lấy làm lạ, vì có nhiều con bò đi nghênh ngang, có con nằm nghỉ ngay giữa đường, xe cộ qua lại phải tránh chúng nó. Dũng cắt nghĩa cho Tuấn :
- Tại vì dân Ấn Độ coi con bò là một con vật linh thiêng, nên không dám chạm tới chúng. Tuấn biết, dân Ấn không ăn thịt bò đâu, nghe !
Rồi Dũng che miệng cười :
- Phân bò, họ cũng quý lắm. Họ cung kính hốt về, trét lên tường cho khô để làm than đun bếp !
Tuấn cũng cười theo :
- Phong tục cũng lạ nhỉ ?
Dũng khoát tay :
- Đi một quãng nữa, anh sẽ thấy đời sống dân chúng ở đây, chia hẳn thành hai thái cực rõ rệt : giàu thì giàu sụ, nghèo thì nghèo xác, nghèo xơ, chớ không xô bồ như ở nước ta.
Ấn Độ dân cư đông mà tài nguyên ít, nên nhiều người đói khổ. Những năm mất mùa, số người chế đói có khi lên hàng vạn !
Ấn Độ là một nước có chế độ giai cấp duy nhất trên thế giới. Chế độ này phát sinh bởi đạo Bà-la-môn tức là Ấn-độ-giáo bày đặt ra. Lúc đầu chỉ có 4 giai cấp chính, nhưng về sau lại chia ra nhiều giai cấp phụ, tính ra có đến 3.000 giai cấp !
Tuấn cười :
- Giai cấp gì mà nhiều dữ vậy ?
Dũng cũng cười, nói tiếp :
- Ấy, Tuấn để yên tôi kể cho mà nghe : Giai cấp nhiều thế đó, vậy mà mỗi giai cấp lại có luật lệ phong tục riêng biệt. Người ở giai cấp này không được kết hôn với giai cấp kia, không được ngồi ăn cùng bàn với giai cấp kém hơn mình. Họ phải triệt để tuân theo luật lệ của giai cấp mình, không thì bị trục xuất. Kẻ bị trục xuất khỏi giai cấp, sẽ sống bơ vơ, không ai dám cưu mang, giúp đỡ !
Trong các giai cấp thì giai cấp cùng đinh thường bị khinh rẻ, có khi còn bị coi kém hơn cả súc vật. Họ chỉ sống chui rúc, cực khổ ở những nơi dành riêng cho họ. Họ không được may mặc những thứ vải của giai cấp trên, không được vào các đền chùa !
Tuấn ngạc nhiên :
- Thế họ bằng lòng chịu số phận hẩm hiu như vậy mãi sao ? Họ không tranh đấu gì hết à ?
Dũng lắc đầu :
- Giai cấp cùng đinh này đông lắm, có lẽ hơn 60 triệu, so với tổng số dân Ấn là 450 triệu. Nhưng hạng cùng đinh này mặc cảm rằng : giai cấp họ là ti tiện, đáng khinh, nên họ chỉ âm thầm chịu đựng không hề than trách !
Nhiều nhà lãnh tụ Ấn đã tìm cách phá tan thành kiến đối với giai cấp cùng đinh, nhưng vẫn không mấy kết quả.
Chắc anh đọc sách, cũng biết ở Ấn Độ có ông Gandhi, mà dân Ấn kính tôn như một vị đại thánh. Hồi sanh tiền, ông Gandhi đã từ bỏ giai cấp quý phái để hoà mình với giai cấp cùng đinh. Ông gọi họ là con của Thượng Đế và hô hào toàn dân Ấn xử đãi với giai cấp khốn khổ này như anh em, nhưng kết quả vẫn còn mong manh lắm.
Muốn phá tan thành kiến đó, thiết tưởng phải cách mạng tư tưởng tất cả dân Ấn mới mong kết quả !
Dũng kéo Tuấn vào quán nước bên vệ đường, mua nước uống, rồi tiếp tục kể :
- Ấn Độ có nhiều tôn giáo. Dân họ lại cuồng tín, sẵn sàng hy sinh tính mạng mình vì tôn giáo, vì thế thường có những cuộc nội chiến do các tôn giáo gây ra.
Hai tôn giáo chính của Ấn Độ là Ấn-độ-giáo hay là đạo Bà-la-môn, có độ 250 triệu tín đồ. Và Hồi-giáo có độ 50 triệu tín đồ.
Ngoài hai tôn giáo đó, còn có nhiều tôn giáo khác.
Đa số dân Ấn ở Decan theo đạo Parsi, một tôn giáo thờ đa thần : Thần Đất, thần Sông, thần Lửa, nên các tín đồ phải tránh làm uế tạp các vị Thần này. Khi có người chết, họ không dám chôn xuống đất, vì sợ phạm đến Thổ thần. Họ không dám quăng xác chết xuống sông, vì sợ Thủy thần, cũng không dám hoả thiêu, vì sợ Hoả thần nổi giận.
Bởi thế, họ phải xây một cái tháp cao ở một nơi xa làng xóm. Tang gia đưa thi hài người chết phơi trên tháp cho đàn chim kên kên và quạ đến rỉa thịt.
Vì tháp này ở xa làng xóm, suốt ngày không có một tiếng người, chỉ có tiếng kên kên và quạ, nên dân chúng gọi là Tháp Yên Lặng.
Theo lời người gác Tháp Yên Lặng, mỗi lần có một xác người chết đem bỏ vào Tháp, thì chỉ trong vòng mấy phút là đàn chim đến rỉa hết thịt, còn trơ lại bộ xương. Sau khi làm xong công việc, đàn chim lại bay lượn trên trời, mắt nhìn về phía con đường từ làng đến tháp, hình như chúng nóng ruột chờ đợi một đám tang khác !
Tuấn chắt lưỡi than :
- Tôn giáo gì mà có những điều luật kỳ lạ quá !
Hai người vào trung tâm thành phố. Phố xá khá đẹp, hai bên san sát các cửa hàng bán tơ lụa. Dũng cắt nghĩa cho Tuấn rõ :
- Bombay chia ra nhiều khu. Khu này là khu thương mãi nằm dọc thoe bờ biển. Nhưng đẹp nhất là khu Marine Drive và khu Malabar Hill. Khu Marine Drive cũng nằm dọc theo bờ biển, phố xá xây thật đẹp và ăn khớp với nhau theo một chương trình xây cất, nên coi như là một khối đồ sộ, hùng vĩ. Khu Malabar Hill thì nằm trên một dãy đồi. Ban đêm ở ngoài biển nhìn vào, thấy đèn điện như sao sa, thiệt đẹp. Khu này, có nhiều công viên xem không chán mắt. Dưới chân đồi là một bãi cát rộng chạy dọc theo bờ biển. Chiều chiều người ta tấp nập kéo nhau ra đây ngồi hóng mát.
Nhưng nếu muốn biết Ấn Độ thuần túy, phải đến xóm gần phố chợ. Ở đây, nhà cửa chật hẹp, thấp lè tè, chỗ nào cũng có đền chùa. Ngoài đường, người qua lại chen chúc như nêm cối và thuộc đủ mọi hạng người khác sắc tộc. Người nào người nấy giữ nguyên bản sắc địa phương mình, từ y phục đến ngôn ngữ, phong tục và tôn giáo…
Dũng che miệng ngáp :
- Nói chuyện về Ấn Độ thật không cùng. Thôi chúng ta vào xem ngôi chùa gần đây một lát !
Dũng dẫn Tuấn vào viếng một ngôi chùa. Vừa vào khỏi cổng, cả hai chợt thấy một ông già, 1 tay xách cái giỏ, 1 tay cầm ống sáo. Dũng khẽ bảo Tuấn :
- Chúng ta đi theo ông già này mà xem sự lạ !
Tuấn chưa hiểu gì nhưng cũng rảo bước theo bạn. Ông già vào cạnh một gốc cây bỏ giỏ xuống lấy sáo ra thổi. Một điệu nhạc buồn buồn vang lên. Độ mươi người đang viếng cảnh chùa, nghe tiếng sáo cũng kéo đến xem. Ông già đột nhiên thay điệu nhạc vui nhộn, tức thì cái giỏ động đậy và một con rắn màu loang lổ, nhô đầu lên cao, lên cao dần. Đầu con rắn hình tam giác, hơi dẹp, hai mắt có hai vòng tròn trắng, lắc lư theo điệu nhạc, lưỡi nó ngo ngoe, tiết ra một tiếng huýt nho nhỏ. Mọi người đều lộ vẻ kinh hoàng, nín thở, vì con rắn này chính là con hổ mang có tên là cobra, nọc độc nó thật khủng khiếp. Kẻ nào bị nó cắn, chắc khó sống ! Cả bọn lùi xa một bước, nhưng vẫn dán cặp mắt vào đầu rắn đang lắc lư như khiêu vũ theo điệu nhạc. Ông già lại thổi điệu nhạc buồn buồn. Con rắn từ từ thu mình cuộn tròn vào đáy giỏ. Bấy giờ, mọi người mới thở phào ra, như trút được một gánh nặng. Họ bỏ tiền thưởng vào cái thau ông già để sẵn trước mặt. Dũng kéo Tuấn đi chỗ khác :
- Ông già vừa rồi thuộc hạng tương tự như thầy phù thủy, người Ấn gọi là Fakir. Đời sống mấy ông nầy kỳ lắm. Ông thì nuôi rắn hổ mang đi biểu diễn như chúng ta thấy đó. Có ông ngồi yên một chỗ, một chân vắt lên vai, suốt đêm ngày như thế. Ai cho gì thì ăn, không thì nhịn đói. Mà họ nhịn đói rất tài.
Có ông lại nằm, tháng này qua tháng khác, trên một tấm ván đóng đầy đinh nhọn lởm chởm.
Tôi còn nghe kể một truyện kỳ lạ khác nữa : Có một lão Fakir ngồi chống tay vào má, lâu ngày đến nỗi móng tay dài ra đâm thủng cả má, thế mà ông ta không hề cựa quậy. Câu truyện chả biết thật hư thế nào, mà nghe có vẻ thần thoại quá !
Tuấn trầm ngâm :
- Trước đây, tôi đọc sách nói về Ấn Độ là một xứ đầy huyền bí, mà quả thật, Ấn Độ huyền bí đến dễ sợ !

Chương 6
Chiều hôm tàu Nam Hải chất xong hàng hoá, ông Thái Phong tuyên bố cho thủy thủ nghỉ ngơi từ sáng mai cho đến 3 giờ chiều. Ai muốn đi chơi đâu tùy thích, nhưng phải lo trở về cho kịp giờ. Vì lối 3 giờ 30, sau khi quan thuế kiểm soát xong, tàu sẽ nhổ neo. Ông Thái Phong còn thêm một câu :
- Cậu nào mà về trễ là phải ở lại đây 6 tháng, đợi tàu sang chuyến khác !
Cơm tối xong, Tuấn hồi hộp để lá thư trên bàn, rồi theo chúng bạn đi xem thành phố lúc về đêm. Lên bờ, Tuấn lẩn sang lối khác đến nhà ga, lấy vé lên xe tốc hành đi Marát.
Xe chạy khá nhanh, chỉ dừng lại những ga lớn. Cả ngày bốc hàng vất vả, nên Tuấn ngủ say mê mệt. Đến Marát, trời vẫn còn tối mù, Tuấn vào trong ga, kiếm một chỗ trống, nằm xuống ngủ tiếp.
Lúc cậu sực tỉnh dậy, thì trời đã sáng hẳn. Cậu kiếm nước rửa mặt, rồi đi hỏi thăm địa điểm bào chế thuốc rắn. Tuấn hỏi 2, 3 người, nhưng họ lắc đầu, tỏ ý không hiểu gì. Tuấn than thầm :
- Chết cha ! Không có ai biết tiếng Anh, giờ làm sao đây ?
Nhưng cậu lại tự nhủ :
- Có lẽ mấy bác nhà quê không biết tiếng Anh, chớ mấy người sang sang, chắc họ biết. Ấn Độ trước kia là thuộc địa của nước Anh mà !
Nghĩ thế, cậu đi tìm mấy người bận âu phục hay ăn mặc có vẻ sang, để hỏi thăm. Nhưng tiếng Anh của Tuấn cũng “bá trật, bá vuột” lắm, nên có người không hiểu cậu định nói gì, có người chỉ hiểu vài chữ.
May sao, Tuấn gặp một ông, có lẽ đã đi đây đó nhiều, ông ta bảo Tuấn nói thong thả từng chữ một, và ông đã hiểu ý Tuấn. Ông dắt tay Tuấn, dẫn đến một con đường lớn, chỉ tay bảo :
- Đây là con đường đi vào sở đó. Cậu đi chừng vài cây số, sẽ thấy một công viên lớn, bên phải là một dãy nhà cao, có hàng rào lưới bọc ngoài, đó là nơi bào chế thuốc rắn mà cậu muốn biết !
Tuấn chắp tay cám ơn, rồi đi ngay. Đi một quãng xa, Tuấn thấy nhiều tấm vải rằn ri, chăng phơi hai bên đường. Ở xa, trông như những tấm da rắn khổng lồ.
Tuấn sực nhớ lại, trong báo Thế giới Tự do đã mô tả vùng này. Trước kia, dân cư trong vùng vốn làm nghề dệt vải thường. Nhưng từ khi họ thấy da rắn phơi ở Trung tâm bào chế thuốc, có nhiều mầu sắc lạ mắt, họ mới nghĩ ra cách dệt vải theo mầu sắc ấy. Và từ đó, mức sản xuất loại vải này tăng lên rất mạnh. Nhiều nước trên thế giới, mỗi năm đặt ở đây hàng triệu thước vải loại này.
Khi Tuấn đến nơi, thì công viên đầy trẻ con đang chơi đùa, và một số trẻ khác đứng ngoài hàng rào lưới nhìn vào Trung tâm, xem người ta làm việc. Tuấn cũng lần đến đứng xem. Hàng rào che bằng lưới thép dày mắt, cao bằng ba người đứng. Phía trong, là sân tráng ximăng khá rộng. Tuấn thấy nhiều người đang làm việc. Vài người khiêng đến những giỏ dài bịt kín. Người khác bưng đến những bình thủy tinh đặt trên bàn.
Tuấn nghĩ thầm :
- Có lẽ họ đang sửa soạn lấy nọc rắn.
Quả thật, một lát sau, ba người ở trong nhà đi ra, họ bận đồ trắng như y tá, tay mang găng đen và 1 người cầm kìm nhỏ sáng loáng.
Hai người kéo cái giỏ lại gần, tháo dây cột miệng, rồi kéo ra một con rắn. Họ nắm chắc ngang lưng và cổ, để người thứ ba một tay bóp miệng rắn há ra, một tay cầm kìm thò vào bấm đứt cái răng chứa nọc độc. Hai người nắm con rắn, chúc đầu nó xuống và một chất nước trắng như sữa, từ từ chảy vào bình thủy tinh. Một lúc sau, màu trắng sữa đổi sang màu xam xám.
Con rắn, sau khi lấy hết nọc độc, họ bỏ vào một cái thùng lớn. Không hiểu rắn ở đâu mà nhiều thế. Hết giỏ này, người ta khiêng đến giỏ khác. Bình thủy tinh đã gần đầy nọc độc. Họ thay bình khác và cẩn thận đậy kín bình kia, đưa vào nhà.
Từ hàng rào nhìn vào chỗ họ đang làm việc chỉ cách 3, 4 thước, nên xem rất rõ. Tuấn say mê theo dõi cách thức họ làm, quên hẳn giờ khắc.
Tuấn thấy hai người khiêng ra một cái giỏ dài và nặng. Họ nói xầm xì với mấy người đang lấy nọc độc. Lập tức, cả bốn người cùng ngồi xuống. Họ cẩn thận tháo miệng giỏ và cùng thò tay vào lôi ra một con rắn dài độ 4, 5 thước. Đầu nó to, trên đầu có cái mồng đỏ như mồng gà, coi rất dễ sợ. Con rắn khá lớn, mỗi người phải giữ chặt một khúc bằng cả hai bàn tay. Họ hì hục nhấc bổng con rắn lên đem lại gần bàn…
Hình như con rắn biết người ta sẽ làm hại nó, nó liền quẫy mạnh một cái, vuột khỏi tay bốn người đang nắm giữ, phóng mình bay bổng về phía hàng rào. Thân mình nó rơi xuống nằm vắt ngang trên hàng rào thép !
Qua mấy giây sững sờ, mấy nhân viên mới hò nhau chạy vòng ra phía ngoài để chận bắt. Có người tưởng con rắn bị vướng trên hàng rào, vội đi kiếm cây sào khều nó xuống. Nhưng chỉ một phút sau, con rắn đã cựa quậy tụt xuống đường phía ngoài hàng rào, bò về phía công viên.
Từ lúc con rắn rơi xuống nằm vắt trên hàng rào, bọn trẻ sợ hãi bỏ chạy về công viên. Đứa sau xô đẩy đứa trước, khóc la chí choé. Tuấn cũng phóng chạy ngược về phía khác, thấy con rắn bò về phía công viên, cậu yên tâm bước lần theo sau nó.
Bỗng vài người còn lại ở trong sân kêu thét lên, vì con rắn phóng nhanh hơn, mà mấy nhân viên đi chận bắt chưa chạy ra tới nơi. Trước mặt con rắn, ba đứa trẻ đang chạy. Đứa cuối cùng là một bé gái độ 7, 8 tuổi, chỉ cách con rắn một quãng ngắn.
Nghe tiếng người kêu la, cô bé quày đầu lại, thấy con rắn sắp bò tới nơi, sợ quá, cố bé khuỵu hai chân, ngã xỉu trên mặt đường !
Trong giây phút thập phần nguy hiểm, Tuấn phóng mình chạy theo con rắn. Cậu chụp lấy đuôi nó, nhưng bị vuột. Cậu chụp lần thứ hai, nắm được đuôi. Cậu giật một cái thật mạnh, rồi cứ thế, cậu lôi con rắn xềnh xệch trở lui. Muốn cho chắc, cậu giật đuôi rắn thêm vài cái nữa rồi mới thả ra. Con rắn bị rãn xương sống, không bò được nữa, nhưng đầu nó cất cao, phun nước phè phè, trông rất dễ sợ !
Thấy Tuấn cứu được cô bé, người trong sân vỗ tay hoan hô ầm ĩ. Và mấy nhân viên chạy ra chận con rắn cũng vừa tới. Họ chia nhau kẻ bồng em bé đi cứu cấp, người bắt rắn bỏ vào bao. Đoạn họ chạy đến vây quanh Tuấn, kẻ nắm tay, người vỗ vai, khen ngợi Tuấn rối rít. Tuấn ngơ ngác, không hiểu mô tê gì hết, chỉ nghe họ nói :
- Ả ra… ả ra… ả ra…
Một lát sau, có hai ông bà quý phái cũng chạy đến. Mấy người có mặt ở đó, tỏ vẻ cung kính hai ông bà lắm. Họ dãn ra để hai ông bà đứng giữa, và một người chỉ Tuấn, nói gì với hai ông bà một thôi dài. Ông bà vừa nghe xong, ôm chầm lấy Tuấn, nói rối rít. Và Tuấn cũng chỉ nghe mấy tiếng :
- Ả ra… ả ra… ả ra…
Thấy Tuấn ngơ ngác làm thinh, mọi người mới nhận ra cậu là một thanh niên lạ mặt, không phải là người bản xứ vì cách ăn mặc, vì màu da.
Bấy giờ, Tuấn mới bập bẹ bằng tiếng Anh :
- Cháu tên là Tuấn, người Việt Nam ở Sàigòn, cháu theo tàu buôn sang Bombay . Cháu nghe nói ở đây có bán thuốc trị rắn độc nên cháu đến mua.
Mọi người tỏ vẻ cảm phục Tuấn. Ông quý phái cầm lấy tay Tuấn dắt đi :
- Thôi, cháu về nhà ông một chút đã. Thuốc trị rắn, cháu muốn bao nhiêu cũng có !

***
Nhà hai ông bà ở phía trái công viên, trong một khu vườn có tường cao, biệt lập với các nhà chung quanh. Cửa cổng bằng sắt và có người gác. Nhà kiến trúc theo lối cổ Ấn Độ. Trong nhà, trưng bày nhiều đồ quý giá. Tuấn nghĩ thầm :
- Có lẽ ông bà này làm chức gì lớn lắm ?
Quả thật, khi vào trong phòng khách, ông quý phái ôn tồn mời Tuấn ngồi. Đoạn ông kể lai lịch cho Tuấn biết :
- Ông là Mô-ha-mét Ích-miên (Mohamed Ismael) tù trưởng cai quản hạt Marát này. Ông bà được 8 đứa con, trừ Xuy-dan (Suzanne), còn nhỏ, ở nhà với ông bà, bảy đứa lớn đều đi học xa. Cô bé Xuy-dan là con út, nên ông bà cưng lắm.
Ông đằng hắng rồi nói tiếp :
- Xuy-dan từ nhỏ đã bị yếu tim. Nếu hôm nay không có cháu cứu kịp thời, chắc nó sẽ chết vì sợ hãi !
Ông nhìn Tuấn đầy vẻ biết ơn :
- Thật ông bà mang ơn cháu rất nhiều !
Ông nói đến đây thì bà Ích-miên bồng Xuy-dan về đến cửa. Cô bé đã trở lại bình thường. Nó chạy a về phía ông. Ông giơ hai tay ôm choàng lấy con, hôn lấy hôn để. Rồi ông chỉ Tuấn, bảo con :
- Xuy-dan, con lại cám ơn anh đây đi. Anh đã cứu cho con khỏi rắn cắn đó !
Xuy-dan bước lại nắm lấy tay Tuấn, tỏ dấu biết ơn. Tuấn mỉm cười ôm lấy em, vuốt mái tóc em.
Đồng hồ treo trên tường điểm giờ. Tuấn giật mình nhìn lên, hốt hoảng kêu :
- Trời ! Mười giờ rồi !
Cậu vội vàng đừng dậy, nói với ông bà :
- Xin ông bà bán thuốc rắn cho cháu ngay, vì cháu phải trở về Bombay cho kịp trước giờ tàu nhổ neo đi Sàigòn!
Nghe vậy, ông Ích-miên cũng cuống lên. Ông bảo bà :
- Bà gọi tài xế lái xe đưa cậu Tuấn về Bombay , nhanh lên. Để tôi đi lấy thuốc cho cậu.
Bà Ích-miên bước lại ghé vào tai ông, nói nhỏ… ông gật đầu lia lịa. Bà vội vàng vào nhà trong. Chỉ một lát sau, có tiếng còi xe hơi trước cửa. Ông Ích-miên cầm 5 lọ thuốc đưa cho Tuấn :
- Cháu bỏ vào cặp đi, để ông đưa cháu lên Bombay . Dọc đường, ông sẽ chỉ cách dùng thuốc cho cháu.
Bà Ích-miên cũng xách một giỏ trái cây cho Tuấn bỏ vào xe. Thấy cha đi, cô bé Xuy-dan đòi đi theo. Ông cười bảo bà :
- Thôi mình cùng lên xe với con. Chúng ta đi chơi Bombay một hôm cũng chẳng sao !
Xe ra khỏi cổng, quẹo vào con đường lớn. Ông Ích-miên nói với tài xế :
- Chúng tôi cần đến Bombay gấp, anh cho xe chạy nhanh được chừng nào hay chừng ấy, nhưng nhớ cẩn thận nghe !
Người tài xế “dạ” một tiếng, rồi nhấn ga. Đường tốt, xe chạy như bay. Tuấn có vẻ sốt ruột. Ông Ích-miên cũng nhận thấy thế, nên ôn tồn bảo cậu :
- Cháu hãy bình tĩnh, đừng quá hốt hoảng. Nếu đến kịp trước khi tàu nhổ neo thì tốt. Bằng không, ông bà sẽ mua vé máy bay cho cháu về thẳng Sàigòn, cháu đừng lo !
Tuấn nghe ông hứa chắc thế, cảm thấy yên tâm hơn. Trên quãng đường gần ngàn cây số, Tuấn tỉ tê kể cho ông bà nghe hoàn cảnh gia đình cậu và nguyên do thúc đẩy cậu tới đây.
Ông Ích-miên cảm động, vỗ vai Tuấn :
- Cháu thật là đứa con có chí lớn, trời đất sẽ không phụ tấm lòng hiếu thảo của cháu đâu. Ông bà hy vọng cháu sẽ được như ý nguyện.
Xe đến hải cảng Bombay thì không còn thấy tàu Nam Hải đâu nữa. Hỏi thăm những người làm việc ở đây, họ cho biết tàu Nam Hải đã nhổ neo rời bến lúc 15 giờ 30. Ông Ích-miên quay lại an ủi Tuấn ;
- Thôi, lỡ dịp rồi, cháu đừng buồn. Bây giờ chúng ta đi ăn cơm, rồi cháu trở lại Marát chơi vài hôm đã. Sau đó, ông bà sẽ mua vé máy bay cho cháu về sàigòn cũng không muộn!
Tuấn đành phải nghe lời.

Chương 7
Về Marát, ông Ích-miên cho người nhà đưa Tuấn đi xem các danh lam thắng cảnh và các nhà máy dệt vải. Tuấn cũng đến thăm Trung tâm bào chế thuốc rắn.
Vì nhân viên trong Trung tâm đã chứng kiến tính can đảm nhanh nhẹn của Tuấn nên mọi người đều tỏ lòng quý mến Tuấn. Ông Giám đốc Trung tâm dẫn cậu đi xem và giải thích tường tận công việc trong Trung tâm. Bây giờ Tuấn mới biết thêm : Những con rắn sau khi bị rút hết chất độc đều bị lột da. Da nó, người ta đem phơi rồi thuộc kỹ, để phân phối cho các nhà sản xuất giày, dép, ví, cho phụ nữ. Loại da rắn nhỏ, làm dây đeo đồng hồ. Thịt rắn thì đóng hộp bán ra thị trường cho các người khoái thịt rắn.
Tuấn hỏi ông Giám đốc các thứ thuốc trị nọc rắn. Ông cho biết :
- Ở đây, chúng tôi bào chế 2 loại thuốc bán ra thị trường : Một loại thuốc uống sau khi bị rắn độc cắn. Thuốc này công hiệu một trăm phần trăm. Trừ trường hợp nọc rắn quá độc mà chúng tôi chưa hề thấy. Loại thuốc thứ hai là thuốc xoa, để rắn ngửi thấy mùi thì không dám lại gần. Loại thuốc xoa là thuốc phòng ngừa. Khi ai đi đâu mà sợ chỗ đó có rắn độc, xoa thuốc này vào là chắc ăn !
Chúng tôi cũng còn chế tạo một thứ thuốc xoa, dành riêng cho nhân viên làm việc trong Trung Tâm , nhất là những nhân viên đi bắt rắn. Xoa thuốc này vào, rắn sẽ không cắn, lại ngoan ngoãn nằm yên cho người ta bắt bỏ vào giỏ.
Tuấn thắc mắc :
- Thưa ông, sao Trung tâm không chế tạo thuốc phòng ngừa ?
- Chúng tôi đã nghiên cứu kỹ lưỡng loại thuốc này. Nhưng xét ra : hoạ hoằn lắm, ta mới bị rắn cắn một lần, mà uống thuốc phòng ngừa, thì lâu lâu phải uống lại. Thuốc có lợi giúp phòng ngừa nếu lỡ bị rắn cắn, nhưng lại có hại cho cơ thể, nếu uống nhiều lần. Vì thế, chúng tôi chỉ bào chế loại thuốc uống sau khi bị rắn độc cắn, ít có hại hơn !
Tuấn vui vẻ :
- Thưa ông, cháu hiểu rõ : Vì thuốc trị nọc rắn cũng là một thứ thuốc độc, nếu uống nhiều sẽ có hại cho dạ dày !
Ông Giám đốc gật đầu, mỉm cười :
- Đúng thế !
Tự nhiên, Tuấn nảy ra ý định xin ở lại làm nghề đi bắt rắn và học cách bào chế thuốc trị rắn. Cậu hỏi dò ông Giám đốc :
- Thưa ông, hôm kia cháu từ Bombay đến đây, định mua thuốc trị rắn đem về Sàigòn. Không ngờ vì chuyện con rắn sổ lồng mà cháu trở về trễ, tàu nhổ neo đi rồi.
Bây giờ, cháu phải ở lại đây 6 tháng, đợi tàu qua chuyến khác. Trong lúc chờ đợi, cháu muốn xin ông cho cháu làm nghề bắt rắn và học cách bào chế thuốc trị rắn, có được không ?
Ông Giám đốc tỏ vẻ hoan hỉ :
- Được lắm ! Được lắm chứ ! Nói thiệt với cậu, hôm kia chúng tôi được mục kích tính can đảm của cậu, chúng tôi cảm phục lắm ! Nếu cậu muốn, chúng tôi sẵn lòng chỉ vẽ cho cậu cách thức bào chế thuốc. Sau này cậu về Sàigòn, mà không tìm mua được nguyên liệu bào chế, thì cứ biên thư cho chúng tôi, chúng tôi sẽ gởi biếu cậu.
Còn việc đi bắt rắn, thì cứ như lệ thường ở đây : Trung tâm sẽ cung cấp cho cậu đầy đủ dụng cụ. Cậu bắt được bao nhiêu rắn, thì Trung tâm sẽ trả tiền cho cậu tuỳ theo loại rắn. Rắn càng độc thì tiền thưởng càng nhiều.
Ở đây có nhiều sông, lạch, cây cối âm u rậm rạp, rắn độc vô số. Nhưng ít người dám làm nghề bắt rắn, mặc dầu được nhiều tiền hơn các nghề khác, vì họ nhát gan lắm. Mới trông thấy con rắn màu loang lổ, họ đã chết khiếp rồi, nói chi đến chuyện giơ tay bắt nó ! Chúng tôi thấy cậu can đảm lắm, chắc chắn cậu sẽ thành công !
Tuấn nghe nói thế, trong lòng càng thêm thích thú, háo hức :
- Thưa ông, để cháu về hỏi lại ý ông Ích-miên, rồi cháu sẽ trả lời dứt khoát !

***
Tối hôm ấy, nhân lúc Tuấn thuật chuyện đi thăm Trung tâm bào chế thuốc cho ông bà Ích-miên nghe, Tuấn ngỏ ý xin ở lại làm nghề bắt rắn và học bào chế thuốc, trong thời gian chờ đợi tàu Nam Hải sang chuyến khác.
Ông Ích-miên gật đầu tán thành :
- Cháu tính như vậy cũng là một điều hay. Ở vùng cháu có nhiều rắn độc, nếu cháu biết cách bào chế thuốc trị, chắc sẽ cứu mạng sống được cho nhiều người !
Cô bé Xuy-dan reo lên :
- Anh ở lại đây dạy tiếng Việt Nam cho em, để sau em lớn lên, em sẽ sang thăm anh và nói tiếng Việt Nam với anh !
Bà Ích-miên cũng tỏ vẻ vui mừng, bà bảo Tuấn :
- Ban ngày cháu đi làm, nhưng chiều thì cháu về đây ăn, ngủ. Ông bà sẽ dọn cho cháu một căn phòng riêng, cháu đi vắng thì nhớ khoá cửa lại.
***
Tuấn viết thư về nhờ Minh đưa tin cho má và em yên tâm. Và cậu cũng viết một lá thư riêng cho bác Thái Phong, tuy biết rằng còn vài ba tuần nữa ông mới về đến Sàigòn.
Ít hôm sau, Tuấn chính thức làm việc cho Trung Tâm. Mấy tuần đầu, cậu làm chung với một người khác để cho quen việc và biết các nơi có nhiều rắn độc. Lần thứ nhất giơ tay nắm một con rắn độc màu loang lổ, Tuấn rùng mình khiếp sợ, nhưng thấy con rắn trở nên hiền lành vì hơi thuốc, cậu yên tâm. Và mỗi ngày cậu càng bạo dạn thêm.
Nhờ sự khuyến khích của ông Giám đốc và anh em trong sở, Tuấn hăng hái say mê vào công việc. Sau vài tuần, cậu xin đi làm riêng.
Buổi sáng điểm tâm xong, Tuấn thay áo xống, mang găng tay, xịt thuốc lên khắp người và mang theo thuốc phòng ngừa, đoạn vác giỏ ra bờ sông. Mỗi nhân viên có sẵn một thuyền độc mộc, muốn đi đâu tuỳ ý.
Tuấn ngồi vào thuyền rồi nhắm hướng đi. Chỗ sông sâu thì dùng chèo để chống. Có chỗ cạn quá, phải lội xuống đẩy thuyền đi.
Lúc đầu chưa biết nhiều chỗ, Tuấn chỉ loanh quanh những nơi đã đi. Thường không phải gặp rắn nào cũng bắt, Tuấn phải lựa con nào có vẻ lạ, độc, mới bắt.
Về sau quen dần, Tuấn chèo thuyền đến những nơi xa hơn, rồi vác giỏ lên bộ, đi sâu vào trong rừng. Nhiều chỗ có vô số rắn quấn vào cành cây, thả đầu xuống tòng teng, lưỡi nó le vào le ra, miệng há đỏ lòm !
Từ đó, mỗi ngày Tuấn xách về một giỏ đầy rắn rất độc và rất lạ ! Mọi người đều thán phục. Tuy vậy, Tuấn không ích kỷ, cậu chỉ chỗ cho các bạn cùng sở biết, để họ đến bắt.
Tính ra Tuấn ở lại Ấn Độ được gần hai tháng. Một hôm cậu nhận được một lúc hai lá thư, một của em Hiền và một của bác Thái Phong. Em Hiền đưa tin má và em ở nhà bằng an và trông anh chóng trở về. Trong thư, Hiền còn nhõng nhẽo viết :
- Chừng nào anh hai về, anh nhớ bắt về cho em một con rắn thật đẹp để em nuôi chơi, nghe anh !
Thư ông Thái Phong khá dài. Ông cho Tuấn biết : Lúc tàu sắp nhổ neo mà không thấy Tuấn đâu, ông lo lắng hết sức. Mãi đến khi Dũng tìm được lá thư Tuấn để lại trên bàn, ông mới yên tâm. Ông bảo ông không phiền trách gì Tuấn, nhưng ông cho là Tuấn quá liều lĩnh.
Ông dặn dò Tuấn, cố gắng ăn ở lịch sự, lễ phép, để làm vừa lòng mọi người. Nhờ đó mà học hỏi được nhiều điều hữu ích, hầu sau này có thể giúp cho đồng bào bớt được tai họa.
Ông cũng hứa, chừng nào tàu Nam Hải soạn sửa đi Bombay , ông sẽ đưa tin cho biết trước. Cuối cùng thư, ông thêm :
- Bác gái và em Minh gởi lời thăm con và mong con chóng về.
Hai lá thư ấy chẳng khác gì hai thang thuốc bổ tâm hồn và thể xác Tuấn. Cậu thấy yêu đời hơn lúc nào hết.

Chương 8. Hết
Ban ngày, Tuấn đi làm, tối về ăn cơm chung với ông bà Ích-miên và bé Xuy-dan. Cơm nước xong, có lúc Tuấn ngồi nói chuyện về Việt Nam cho ông bà nghe, có lúc Tuấn dạy bé Xuy-dan học tiếng Việt. Cái tên “Tuấn” khó đọc, nên Tuấn chỉ dạy cho bé gọi Tuấn là “Anh Hai”. Vậy mà có lần Xuy-dan không nhớ phải đọc chữ nào trước, chữ nào sau, nên chiều đến, khi thấy Tuấn đi làm về, nó chạy ra reo lên :
- Hai anh ơi ! Hai anh ơi !
Tuấn hiểu ra, ôm bụng cười ngặt nghẽo.
Tuấn được ông bà Ích-miên thương yêu như con, thì bọn gia nhân phân bì, ghen ghét. Chúng nó xầm xì với nhau :
- Cái thằng ngoại quốc đó, nhờ có công cứu cô Xuy-dan mà được ông bà cưng dữ !
Trong số các gia nhân, có hai đứa cay cú với Tuấn ra mặt. Tuấn hiểu người ta ghen ghét mình, mà không biết xử trí cách nào. Đã có lần, Tuấn định xin ông bà Ích-miên cho sang ăn ở bên Trung Tâm , nhưng cậu lại sợ phật ý ông bà. Vả lại, cậu thấy chỉ còn vài tháng nữa là cậu đã rời khỏi Ấn Độ rồi.

***
Phân bì với Tuấn, hai gia nhân kia đâm ra thù hận ông bà Ích-miên. Nhân một đêm mưa to, gió lớn, sấm sét ầm ầm, hai tên này đục một mảng tường dày, chui vào kho cất đồ châu bảo của ông bà, lấy trộm chiếc hộp đựng đầy hột xoàn và hai vòng ngọc lưu ly, rồi đem nhau trốn biệt tích.
Rạng ngày, ông bà nghe báo động, vội mở cửa sắt vào xem. Thấy mất chiếc hộp quý giá nhất, ông bà đau xót vô cùng. Nhất là bà Ích-miên, bà khóc nức nở, vì mất chiếc hộp là mất gần hết cả cơ nghiệp của gia đình ! Hôm ấy, Tuấn không đi làm, ở nhà giúp sửa chữa lại chỗ bị đục phá.
Từ đó, trong nhà ông Ích-miên buồn bã không khác gì nhà có tang chế. Tuấn cũng buồn, cậu hiểu rõ nguyên do việc ông bà Ích-miên mất của, một phần tại ông bà đã quá ưu đãi cậu.
Ông bà Ích-miên đã sai nhiều người đi dò xét khắp nơi, đồng thời cũng thông tư cho các hiệu kim hoàn trong đất Ấn, đừng dại mua những thứ ông vừa mất trộm, kẻo bị liên lụy. Nhưng vụ trộm xảy ra đã hơn 10 ngày rồi, mà việc tìm kiếm hai tên gian hùng vẫn chưa có kết quả gì.
Một sáng chủ nhật, Tuấn chán nản, không biết làm gì cho hết ngày nghỉ. Tự nhiên, cậu nảy ra ý định chèo xuồng đi chơi thật xa, xem con sông tới đâu. Cậu thay áo, đem theo thuốc trị rắn. Đi qua hàng cơm, cậu mua một ít thức ăn trưa, đoạn xuống bờ sông.
Nước sông trong vắt, hai bên bờ lau sậy mọc xanh rì. Tuấn thấy vui vui, bơi xuồng ngược lên mãi. Mặt trời đã đứng bóng, mà cậu vẫn chưa ngừng tay chèo, vì cậu thấy hai bên bờ không có gì để vào xem. Chèo gắng thêm một quãng xa, Tuấn thấy con sông chẻ ra làm hai lạch. Cậu cho xuồng rẽ vào lạch phía trái. Được một khúc, lạch bắt đầu cạn dần, Tuấn định quày trở lui, nhưng bỗng cậu để ý : giữa lạch nước trong veo, có một đường lõm dài, như dấu một chiếc xuồng bị đẩy vì mắc cạn. Cậu lội xuống lạch đi vào bờ, nhìn về phía trên xa. Quả thật, có một chiếc xuồng người nào đã kéo lên để nằm nghiêng cạnh bờ lạch. Tuấn buột miệng kêu lên :
- Lạ quá ! Chiếc xuồng của ai bỏ đây nhỉ ?
Cậu lấy thuốc rắn xoa khắp mặt mũi, chân tay, vì cậu ngửi thấy mùi tanh tanh rắn rết. Đoạn cậu bước lần tới. Xem xét chiếc xuồng và cây chèo, cậu lẩm bẩm :
- Đúng là chiếc xuồng của Trung Tâm bị mất !
Bỗng cậu giật mình vì tiếng chí choé bầy rắn cắn nhau. Cậu nhìn về phía trái, kinh ngạc :
- Trời ! Hai đống rắn ! Hình như chúng đang tranh nhau ăn cái gì.
Tuấn cúi xuống bốc một nắm đất, ném mạnh vào đống rắn. Nghe động, bầy rắn cất cao đầu, chạy tán loạn. Tuấn lần tới, thì ra bầy rắn đang tranh nhau rỉa thịt hai cái xác người. Chúng nó đã ăn gần hết thịt, còn trơ lại bộ xương và cái đầu lâu trắng hếu !
Hai cái xác nằm cách nhau vài bước. Bên cạnh hai xác chết, có hai con dao găm. Và cách đó một quãng ngắn, Tuấn thấy một cái hộp đóng kín. Tuấn cúi xuống lượm cái hộp. Cậu nhấc lên thấy cái hộp nhỏ mà khá nặng. Cậu ngồi xuống, mở nắp hộp ra, cậu reo lên :
- Trời ơi ! Cái hộp châu ngọc của ông bà Ích-miên !
Tuấn sung sướng vì bất ưng cậu tìm lại được chiếc hộp quý, cậu hò hét, nhảy múa tưng bừng ! Cậu đoán hai xác chết này chính là hai tên gia nhân lưu manh đã phá tường lấy trộm chiếc hộp ngọc. Nhưng cậu không hiểu vì sao cả hai đều chết ? Bị rắn độc cắn chăng ? Không có lẽ, vì bọn này làm việc cho ông bà Ích-miên, chắc đứa nào cũng có sẵn thuốc trị chứ ? Sao cạnh đứa nào cũng có một con dao găm ? Chúng nó thanh toán nhau chăng? Nghĩ mãi không tìm được nguyên do, Tuấn bực mình :
- Thây kệ ! Việc của mình là không biết có nên đem cái hộp về ngay cho ông bà, hay là để lại đây, chạy về mời ông bà lên ?
Tuấn phân vân hết sức, vì nếu đem về, sợ ông bà nghi là chính Tuấn đã lấy cắp, nhưng không đem thoát đi đâu được, buộc lòng phải đem trả lui. Nếu để lại, lỡ ra có ai tình cờ đến đây thì mất toi còn gì ? Cuối cùng, Tuấn nghĩ ra một giải pháp hay nhất là đem đào lỗ chôn giấu chiếc hộp đi, rồi chạy về kêu ông bà lên xem tự sự.
Nghĩ thế, Tuấn thi hành liền, đoạn vội vàng chèo xuồng trở về. Vui mừng vì tìm được của lại cho ông bà Ích-miên, Tuấn chèo xuồng đi như bay. Ba giờ sau, cậu đã phóng về tới nhà. Cậu hớt hãi nói nhỏ cho ông bà hay tự sự.
Ông bà Ích-miên sung sướng đến chảy nước mắt, ôm choàng lấy Tuấn, cám ơn rối rít. Đoạn ông thay áo, xỏ giày, ra đi với Tuấn. Bà cũng đòi đi theo. Ông ôn tồn can bà :
- Mình đang ốm, đi làm gì ? Vả lại thuyền độc mộc, đâu có thể chở được nhiều người ! Mình ở nhà, nhớ tuyệt đối giữ kín tin này, kẻo sinh lôi thôi về sau !
***
Xem xét địa thế và hai xác chết một lúc, ông Ích-miên bảo Tuấn :
- Đây là giáp giới địa hạt Marát với vùng lân cận. Tụi nó định đi ngã này, trốn sang vùng khác, vì đây là rừng cấm không ai lai vãng. Nhưng vì hai đứa cùng tham lam : thằng nọ muốn giết thằng kia, để độc hưởng cái hộp ngọc. Ai dè, một thằng chết, một thằng bị thương nặng, không lết đi được, rồi cũng bị rắn cắn chết. Cứ xem hai thế nằm của hai xác chết, cũng đoán được phần nào !
Nhìn hai bộ xương trắng hếu, ông Ích-miên thở dài :
- Thế là hai đứa cùng chết ! Quả thật là “Thiên bất dung gian” !
Tuấn đào chiếc hộp lên đưa lại cho ông. Ông cầm lấy mở ra xem xét một lúc rồi bảo Tuấn :
- Còn y nguyên, cháu ạ ! Thật ông bà mang ơn cháu rất nhiều. Nếu không có cháu mạo hiểm kiếm tìm, chắc không bao giờ ông bà lại được nhìn thấy cái hộp quý báu này !
Hai người về đến nhà thì trời đã khuya. Bà Ích-miên thấy của cải vẫn nguyên, bà mừng hết sức. Bà bàn với chồng :
- Của mình kể như mất rồi, đây chính là của cháu Tuấn cho mình lại. Tôi nghĩ chúng ta phải chia cho cháu một nửa cái hộp này !
Tuấn nghe vậy, kêu lên :
- Ông bà đừng làm thế, cháu không nhận đâu ! Cháu nghĩ rằng : Đây là Trời thử thách ông bà một thời gian, rồi Trời lại dun dủi cho cháu tìm được lại để an ủi ông bà, chứ không phải hoàn toàn do công cháu cả đâu !
Ông Ích-miên ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo Tuấn :
- Thôi, cháu đã nói vậy, thì ông bà không ép. Nhưng ông bà sẽ liệu cách để đền ơn cháu. Dầu sao, cháu cũng đã đem niềm an ủi lại cho gia đình ông bà !
Điều Tuấn mong ước là tìm được chiếc hộp lại cho ông bà Ích-miên khỏi đau khổ. Nay “Châu đã về Hợp phố”, Tuấn lấy làm mãn nguyện hết lòng, không mong ước gì hơn nữa !
Nhân tìm được chiếc hộp quý mà Tuấn lại khám phá thêm được một vùng mà các bạn cậu chưa ai đặt chân tới. Cậu bắt được nhiều loại rắn lạ mà Trung Tâm chưa hề thấy.
Một buổi chiều đi làm về, Tuấn nhận được thư ông Thái Phong. Tuấn vội bóc ra đọc ngấu nghiến :
Thăm con mến,
Khi con được thư này thì bác đang lênh đênh trên đường sang Bombay . Bác đi trước ngày dự định, vì có sẵn hàng, với lại má con và bác gái nhớ con dữ lắm, nhất là con bé Hiền, hễ nó lên thăm bác, là nó níu áo bác, bắt đền “anh Hai” cho nó, khiến bác cầm lòng không đậu, phải liệu đi sớm đem con về !
Ngày nào tàu Nam Hải sẽ cập bến Bombay, bác không dự liệu trước được. Bởi thế, con cứ ở lại Marát đợi bác. Đến Bombay , thu xếp xong công việc, bác sẽ xuống Marát thăm ông bà Ích-miên, để cám ơn ông bà đã cho con tá túc mấy tháng nay. Bác sẽ đánh dây thép cho con ra đón bác ở nhà ga.
Bác mong sẽ chóng gặp con vui mạnh.
Bác.


Thư vỏn vẹn có mấy hàng, mà Tuấn đọc đi đọc lại không chán. Thấy mọi người tỏ lòng thương, Tuấn sung sướng vô cùng. Tuấn báo tin cho ông bà Ích-miên biết. Ông Ích-miên suy nghĩ một lúc rồi bảo Tuấn :
- Đối với cha nuôi cháu, thật ra cháu không nên giấu chuyện gì mới phải. Nhưng ông xét kỹ thấy rằng, việc cháu tìm lại được hộp châu ngọc cho ông bà, cháu không nên nói ra cho một người nào khác biết nữa, sợ sinh lôi thôi cho ông bà về sau. Mong cháu hiểu !
Tuấn vội vàng thưa :
- Vâng, cháu hiểu ! Xin ông bà cứ yên tâm về chuyện đó, cháu hứa sẽ giữ thật kín !

***
Từ hôm được thư bác Thái Phong, Tuấn còn đi làm thêm vài tuần nữa, mới xin nghỉ việc. Trung Tâm tính sổ và trả cho Tuấn một số tiền khá lớn và biếu Tuấn một lô thuốc trị rắn, kể cả thuốc xoa dành riêng cho nhân viên. Thấy ông Giám đốc Trung Tâm xử đãi với mình quá tử tế, Tuấn cảm kích hết sức. Tuấn cũng chỉ cho các bạn, những nơi cậu đã thám hiểm được, để họ kiếm được nhiều tiền thưởng.
Tuấn được dây thép vào buổi sáng, thì buổi chiều ông Thái Phong tới. Ông Ích-miên thân hành lái xe đưa Tuấn lên đón ông Thái Phong ở sân ga. Hai ông vui vẻ siết chặt tay nhau, như đôi bạn chí thân. Ông Ích-miên nói với ông Thái Phong :
- Ông có một đứa con nuôi can đảm và thật thà hiếm có. Cháu đã làm vinh dự cho ông và cho nước Việt Nam !
Nghe lời khen tặng đó, ông Thái Phong hiểu là trong thời gian vừa qua, Tuấn đã biết cách ăn ở đẹp lòng mọi người, nên ông rất mừng.
Hai hôm ở lại Marát, ông Ích-miên quý trọng ông Thái Phong như một thượng khách. Ông thân hành dẫn ông Thái Phong đi thăm các cơ sở trong vùng. Ông cũng tặng ông Thái Phong mấy món đồ kỷ niệm quý giá. Ông cũng cho Tuấn một tượng đồng đen để về biếu cho ông Tư Bá. Tượng này rất quý vì hai con mắt tượng có gắn hai hột dạ châu. Ban đêm, hai con mắt tượng sáng như hai ngọn đèn điện nhỏ.
Sáng hôm ông Thái Phong và Tuấn trở về Bombay, ông bà Ích-miên và cô bé Xuy-dan cùng đi tiễn. Đến Bombay, ông Ích-miên đem số tiền Trung Tâm trả cho Tuấn, gởi Ngân hàng xin chuyển về Việt Nam . Ông cũng bỏ thêm vào đó một số tiền tương đương, nhưng giấu không cho Tuấn hay biết.
Sau khi khoản đãi hai cha con ông Thái Phong một bữa cơm trưa thật sang trọng, ông bà Ích-miên tiễn hai cha con ông xuống bến tàu. Trước khi chia tay, bà Ích-miên nước mắt ràn rụa, bà hôn Tuấn và trao cho Tuấn một giỏ trái cây và dặn nhỏ :
- Bà không biết lấy gì để trả ơn cháu cho cân xứng. Bà biếu cháu một mớ trái cây để cháu ăn dọc đường. Nhưng cháu để ý : dưới đáy giỏ có một cái bánh, trong ruột bánh bà đã bỏ một ít đồ cho cháu. Cháu nhớ cất kỹ, về đến Việt Nam rồi hãy xem. Bà cầu chúc cháu chóng đạt được những điều cháu mơ ước !
Bấy giờ Tuấn mới hiểu ra, vì sao bà cứ kè kè xách theo giỏ trái cây. Cậu biết không thể từ chối được, đành cầm lấy, miệng mếu máo :
- Cháu cám ơn ông bà vô cùng. Ông bà đã thương cháu không khác gì con ruột, đời đời cháu sẽ không bao giờ quên ông bà !
Xuy-dan cũng ôm lấy Tuấn khóc nức nở. Cô bé tháo hai vòng ngọc huyền đeo nơi tay, bỏ vào túi áo Tuấn và dặn :
- Anh Hai ơi ! Em gởi biếu chị Hiền 2 chiếc vòng này. Khi nào anh Hai theo tàu sang chuyến khác, anh nhớ xuống thăm em, nghe anh !
Tuấn ứa nước mắt, hôn Xuy-dan và an ủi :
- Em yên trí, khi anh sang chuyến khác, thế nào anh cũng xuống Marát thăm ông bà và em. Em nhớ lo học cho giỏi, mai sau em lớn lên, anh sẽ mời ông bà và em sang thăm anh.
Tuấn đứng lên, bắt tay từ giã ông Ích-miên. Trong cái siết tay thật chặt và cái nhìn âu yếm, bỗng nhiên hai người cùng cảm thấy rào rạt mối tình cha con bịn rịn lúc chia tay ! Hai người cùng ôm choàng lấy nhau, nghẹn ngào không nói nên lời…
Ông Thái Phong và Tuấn đứng nhìn theo xe ông bà Ích-miên cho tới khi xe khuất vào đám bụi mù.
Tối hôm ấy, Tuấn thuật chuyện bắt rắn cho các bạn thủy thủ nghe. Ai nấy theo dõi say mê. Có người yếu vía sợ quá rú lên, khi nghe Tuấn tả hình dạng con rắn độc ! Cuối cùng, Tuấn hẹn trước khi rời Ấn Độ, sẽ lấy tiền bắt rắn, đãi anh em một bữa càry gà no nê ! Mọi người vỗ tay hoan hô ầm ĩ !

Đoạn Kết
Về đến Sàigòn, Tuấn kín đáo mở chiếc bánh ra xem : bà Ích-miên đã nhét vào ruột bánh một gói hột xoàn. Tuấn đếm được 20 cặp lớn nhỏ. Bấy giờ Tuấn mới hiểu lời nói úp mở của bà trước khi từ giã :
- Bà cầu chúc cháu chóng đạt được những điều cháu mơ ước !
Tuấn cảm động hết sức vì cử chỉ ưu ái rất chu đáo của ông bà. Tuấn chọn riêng ra một cặp để biếu bác gái Thái Phong. Cậu định bụng sẽ nói với bác :
- Gặp dịp may, cháu mua được giá rẻ ở Marát để biếu bác !
Thu xếp xong công việc, Tuấn xin phép hai bác cho về thăm má. Ông Thái Phong cho xe nhà đưa Tuấn về, nhưng Tuấn tỏ vẻ ngần ngại nên ông bảo :
- Nếu con sợ bà con lối xóm dị nghị, thì con cứ đi xe về đến chợ, rồi cho xe trở lui, con đi bộ vô nhà. Như vậy cũng tiện.
Tuấn vui vẻ làm theo ý cha nuôi. Trên đường về, Tuấn thấy hồi hộp, vui vui. Kể từ khi bỏ nhà ra đi lần thứ nhất đến nay, trên quãng đường này, cậu đã đi về nhiều lần. Nhưng lần này, sau năm tháng xa cách, Tuấn thấy cảnh vật như lạ hẳn !
Đến chợ, cậu cám ơn bác tài, rồi xuống xe đi bộ về nhà. Hôm nay, Tuấn vẫn như độ nào, ăn mặc bình thường, tay xách cặp nhỏ. Cậu vừa bước chân vào nhà, thì em Hiền đã reo lên :
- Anh Hai về ! Anh Hai về !
Rồi cô bé a lại ôm chặt lấy anh, Tuấn bỏ cặp xuống ghế, vuốt tóc em :
- Má đâu em ?
- Má đi chợ, chắc sắp về rồi ! Má nhớ anh, khóc hoài à !
Tuấn cười :
- Chớ em Hiền không nhớ anh à ?
Hiền xịu mặt nhõng nhẽo :
- Em cũng nhớ anh như má vậy, chớ bộ !
Nói rồi, Hiền chạy vào trong kéo ra một cô gái cùng trạc tuổi với Hiền. Cô này ngồi ở phía trong mà hồi nãy Tuấn không để ý. Hiền chỉ cô gái, nói với anh :
- Đây là cô bạn cùng lớp với em, đố anh biết ai ?
Tuấn thấy cô bé quen quen, cố nhớ mà không nhớ ra :
- Ai đó em ?
Hiền đập vào cánh tay anh, cười :
- Anh không nhớ ra ai à ? Chị Thu Dung đó !
- A, em Thu Dung ! Chao ôi ! Bây giờ em lớn quá, anh nhận không ra !
Thu Dung trách nhẹ :
- Mới mấy năm mà anh đã quên em rồi ! Anh ít khi về nên em không gặp, chớ tuần nào em cũng xuống đây hết á !
Tuấn tươi cười giải thích :
- Tên Thu Dung thì anh không bao giờ quên đâu ! Có điều là anh không còn nhớ nét mặt. Hồi đó, em là bé Thu Dung 10 tuổi, nay thì 15, 16 tuổi, thành cô nữ sinh Thu Dung xinh đẹp, làm sao anh nhận ra được ?
Thu Dung mắc cỡ, hai má ửng hồng :
- Anh cứ ngạo em hoài à !
Tuấn nheo mắt :
- Anh nói thiệt mà, Thu Dung ! À quên, hai bác có khoẻ không em ?
Rồi Tuấn cười :
- Mà bác trai còn giận anh nữa không, Thu Dung ?
Thu Dung thấy Tuấn nhắc đến chuyện cũ, cô xịu mặt xấu hổ :
- Lúc đầu, ba em lầm, nhưng sau nghe má em cho biết đầu đuôi câu chuyện, ba em hối hận và cảm phục anh hết lòng. Ba em tức tốc lên Sàigòn để xin lỗi anh, mà anh đi vắng không gặp. Hình như ba em có viết thư gởi lại cho anh mà ?
Tuấn định nói đùa chơi mà thấy Thu Dung tưởng thật, vội vàng ngắt lời :
- Anh nói đùa cho vui vậy thôi, Thu Dung à ! Thật ra, anh đã nhận được thư bác và anh cũng viết thư lại cho bác từ lâu rồi ! Chuyến này, thế nào anh cũng sẽ lên nhà thăm hai bác. Anh có một món quà Ấn Độ tặng bác, chắc bác sẽ thích lắm !
Tuấn hỏi thêm :
- Thế em Vinh nay học lớp mấy, em học ở trường Quận hay ở Sàigòn ?
Thu Dung tươi nét mặt :
- Em Vinh nay học Đệ Lục ở trường Quận. Khi tụi em học hết lớp nhất, thì có xe đò chạy thường xuyên lên trường Quận, nên khỏi phải đi học xa.
Bỗng Tuấn sực nhớ ra, cậu vội lôi trong túi áo ra hai chiếc vòng đeo tay :
- Nói chuyện mãi, anh quên món quà tặng hai em. Đây là hai chiếc vòng bằng ngọc huyền rất quý của Ấn Độ, anh sẽ kể lai lịch của nó cho hai em nghe sau. Nào em Hiền đưa tay đây anh mang thử có vừa không !
Hiền nhanh nhẹn giơ bàn tay mặt ra, Tuấn xỏ chiếc vòng vào cổ tay em. Tay Hiền gầy mang vào hơi lỏng lẻo. Đến lượt Thu Dung rụt rè đưa bàn tay cho Tuấn. Tay Thu Dung mập hơn, mang chiếc vòng vừa khéo.
Anh em đang hàn huyên, bỗng nghe tiếng gọi ngoài sân :
- Con về rồi đó a Tuấn ?
Tuấn nghe tiếng má, vội chạy ra :
- Má ! Má !
Bà Hai bỏ rổ đồ ăn xuống đất, ôm choàng lấy con, nghẹn ngào nức nở :
- Con ! Con trai của má ! Từ ngày con ở lại bên đó đến nay, má đêm ngày không ăn ngủ được, chỉ nhớ con !
Tuấn dìu má vào nhà. Hiền và Thu Dung chạy ra bưng rổ đồ ăn xuống bếp. Bà Hai vuốt tóc con :
- Mới có 5, 6 tháng mà má thấy con thay đổi quá hà ! Con đen và lớn hơn nhiều !
Tuấn cười :
- Ở Ấn Độ gần đường xích đạo mà không đen sao được, má ? Má à, chuyến này con không đi đâu xa nữa, con ở nhà với má luôn !
Bà hai mở tròn đôi mắt nhìn con, ngạc nhiên :
- Con định về ở với má luôn thiệt à ?
Tuấn nghiêm trang :
- Vâng, má cũng biết ước vọng của con là được ở cạnh má suốt đời, trong miếng vườn trồng cây ăn quả và vài mẫu ruộng cấy lúa. Hơn một năm nay, nhờ Trời thương, con dành dụm được số tiền có lẽ đủ mua vườn, ruộng như má con mình ao ước !
Bà Hai cảm động, sung sướng ôm choàng lấy con, nước mắt bà trào ra ướt cả áo Tuấn.
Tuấn khoe với má :
- Má à, thời gian con ở Ấn Độ, con đã học được cách bào chế thuốc trị rắn độc cắn. Con sẽ cho bà con lối xóm biết, nếu có ai bị rắn độc cắn, con sẽ biếu thuốc để cứu họ.
Nghe nói đến thuốc trị rắn độc cắn, bà Hai nhìn lên ảnh chồng rồi òa khóc :
- Con ôi ! Phải chi con kiếm được thuốc nầy sớm, thì ba con đâu có chết !
Tuấn vuốt ve bàn tay khô khẳng của má an ủi :
- Má đừng buồn nữa ! Trời bắt ba con số kiếp vắn vỏi, nhưng Trời thương cho ba con phù hộ cho má, cho các con, mới được như ngày nay ! Con nghĩ phần riêng con được gặp nhiều may mắn, chính là nhờ ba con phù hộ. Má không nghĩ như vậy sao ?
Bà Hai lặng thinh một lúc, rồi lau nước mắt, bảo con :
- Con nói đúng, má cũng nghĩ như vậy, con à !



SAIGON, Hè 1971
NHẬT LỆ GIANG
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Giấc điệp triền miên
Tác giả: Hải Vân
Tủ sách Hoa Đỏ
Sưu tầm và Đánh máy: Đèn Biển
dbMeulsZd7Ygv6fQOHJlgTddNmeB1CTLJ_7tW-t598wG1rNzXtQcZMZ552tlVENzHfiJgs-baVIEhnOdpMOy9EIIGXyQwElCVdX7dFjx9Cd6ccNWn5_DsAo5iMuFZk9-nb3MJ2LIsD_f6tvBeH-xSAc5GkCQ35UfKZadpZtBQODtNQQKwRb_a3NV3rrpGB3gIaWiOD-Sr0IB5BzMlogRb1eBuLDwhBwaZmfqgfwaRHBv11tZoOnM-LeDQ0y5CoQYwkznVU2USY_yaVFK7ZaynTfbcRRPBPCtB3YU5kuYtT6_xihtOqjBkEDuB5NqRn522W1pRurPxIONhwTYt6ujQrMJA6mm5m7r9F5KZCbGqr2HEsrbWLMXjuHpaUDPNWF_ABd3sKDTQzge2k6BV_hi49lrHL2VY5vnnc0ZvlBs_EgjAZJkUjv92Q-nocvSnwgWscx5NfSygWb1Vwz4MHIdwaDbZoHrV9lelSAjbscSy39w3qMbBkXQ7eKg0G4TWKKT2EVMCZ3W-Efyb-M_8p6X7mDsucvMACJ0ZDcK5ypDJ8_Ud7MBy9rwa0dznsjfDDcfKD-r=w430-h585-no


Chương 1
-
Lan à, từ nãy giờ chỉ thấy em miệt mài bên đám dụng cụ đó thôi. Bao giờ em mới làm bài ? Mai đã phải góp rồi, không sợ cô la hay sao ?
Hai chị em Huệ và Lan là nội trú trong một trường nữ trung học tại Đàlạt. Hôm nay trong phòng chỉ có hai chị em cô ngồi học. Đã một lúc lâu, Lan chỉ quanh quẩn bên một chiếc máy kỳ lạ, lúc thì vặn lại một con ốc, lúc thì lấy búa gõ chỗ này chỗ kia.
Nghe chị hỏi, Lan bật cười :
- Bài của em còn đợi được chứ không như sáng kiến của em đâu vì nó rất quan hệ, em không thể bỏ rơi nó lúc này được. Em mới có một sáng kiến hay ho tuyệt vời cơ.
- Sáng kiến của cô ! Huệ vừa nói vừa đưa mắt nghi ngờ nhìn chiếc máy gồm toàn lò xo, đòn bẩy, dây điện và phím đàn dương cầm. Thì ra thế ! Chị lại cứ tưởng em đang chế một cây đàn harmonium chứ !
- Chị nói đúng, đây cũng là một thứ đàn harmonium, nhưng lại đặc sắc hơn nhiều cơ.
- Như chị thấy thì các vấn đề điên đầu ấy không làm cho em nản chí thì phải !
- Chị biết không, tự nhiên em nẩy ra sáng kiến đó : nếu mình có được một cái máy viết ra nốt nhạc thì tuyệt lắm, phải không ?
- Đã đành, và một cái máy có thể làm bài cho mình, rồi một cái nữa để học các động từ Anh Ngữ cho mình… hay lắm…
- Chị cứ việc cười cho khoẻ đi tuỳ ý ! Nhưng đến khi điều phát minh của em đã thành sự thật thì có lẽ em sẽ dành cho chị một sự ngạc nhiên vô cùng thích thú đấy.
Huệ ranh mãnh đáp :
- Có thể lắm, nếu em hoàn thành được phát minh đó. Nhưng mà cái máy của em sẽ chạy như thế nào ?
- Ồ rất là giản dị ! Chị chỉ việc đặt một tờ giấy chép nhạc lên cái trục quay như một chiếc máy đánh chữ thường. Rồi chị dạo một đoạn nhạc lên các phím đàn, các nốt nhạc sẽ tự động in lên giấy. Chị xem có phải là một sáng kiến đáng giá không ?
Bỗng một tiếng nói vọng lên từ cầu thang :
- Một sáng kiến rất xứng đáng với chị em HUỆ LAN. Này cô bé Lan ơi, sự suy luận của cô chẳng đứng vững chút nào cả !
Huệ là Lan giựt mình quay lại và chạm trán với Ly, một cô bạn cùng ở nội trú, trên môi cô ta đang nở một nụ cười chế nhạo. Trong trường, không một ai mến Ly cả, vì cô luôn luôn tỏ ra là một con người khó chịu.
- Cho tôi xem được chứ Lan ? Ly vừa nói vừa bước vào căn phòng và làm như không thấy Lan đang cố tình che giấu chiếc máy.
- Ồ, chả có gì đáng xem cả Ly ạ…
- Tôi nghĩ đúng mà ! Đời thuở nhà ai mà lại có người muốn viết nhạc bằng máy !
Huệ can thiệp :
- Tại sao không ? Lần đầu tiên con người sáng chế ra chiếc đàn dương cầm, chắc hẳn thiên hạ cũng cho là khó có thể hoàn thành được đấy.
Ly vênh mặt lên thách thức :
- Thì Lan hãy cứ cho tôi xem chiếc máy cưng của cô có chạy được hay không đã nào !
Lan phản đối :
- Chưa xem được, Lan chưa làm xong. À mà Ly này, đừng nói lại chuyện này cho tụi nó nghe nhé ! Tụi nó sẽ cười Lan chết !
- Ủa, đã phát minh ra thì sao lại có thể mắc cỡ với cái sáng kiến của mình ? Nhưng các bồ này, bà Đốc bảo tôi lên kêu các bồ xuống có người gọi điện thoại đến.
- Vậy mà từ nãy không nói ngay, để tụi này mất bao nhiêu thì giờ ! Huệ thốt lên, giọng tức tối.
Sau khi đẩy Ly ra khỏi phòng, hai chị em chạy xuống nhà, chỗ có gắn máy điện thoại. Sau một lúc điện đàm với cô Hạnh, người đã nuôi hai chị em từ nhỏ với sự giúp đỡ của chú Định, em cô, Huệ và Lan rất vui mừng khi hay tin cô Hạnh và ông Định muốn thăm hai cháu nhân dịp cho đi ăn tiệm.
- Vâng thưa cô, tụi cháu sẽ đến nhà hàng vào khoảng 12 giờ trưa ạ. Tụi cháu đi xin phép bà Đốc ngay bây giờ ạ.
Huệ và Lan cảm thấy rất sung sướng vì hai cô rất ít có cơ hội gặp chú Định, chú hiện là thuyền trưởng chiếc Hải Âu và luôn luôn phải lênh đênh trên mặt biển. Lan vội dặn dò chị :
- Chị nhớ đừng đả động gì đến vụ “phát minh” của em cho chú Định và cô Hạnh nghe nhé. Từ sáng đến giờ em đã bị thiên hạ ngạo khá nhiều rồi đó !
Hai chị em cô Hạnh đến sớm hơn vài phút nên họ đã chọn một chiếc bàn gần cửa sổ.
Vừa gặp mặt chú, Huệ đã vội thốt lên :
- Thưa chú, chúng cháu thấy kỳ này hình như chú không được khoẻ như kỳ trước. Có lẽ chú làm việc quá sức phải không ạ ?
Cô Hạnh dịu dàng đỡ lời :
- Chú Định đã trải qua một cuộc hành trình khá vất vả. Vì vậy cô nghĩ rằng chú sẽ cảm thấy thoải mái khi gặp lại hai cháu.
Lan vội hỏi :
- Thưa chú, có chuyện gì xảy ra đó ạ ?
- Các cháu không đọc báo sao ? Ông Định đáp.
Huệ và Lan cho biết hai cô chưa được đọc báo mới. Nhưng qua thái độ của chú, hai cô cũng đoán được rằng chú Định đang lo nghĩ về một chuyện hệ trọng.
Cô Hạnh bèn giải thích :
- Khi chiếc tàu Hải Âu từ Tân Gia Ba về, vừa cập bến Sàigòn thì người ta nhận thấy một nữ hành khách đã bị mất tích.
- Thưa cô, người đó đã bị rơi xuống biển ạ ? Huệ ngạc nhiên hỏi.
- Đó là điều mà nhiều ký giả muốn xác nhận, chú Định trả lời. Nhưng chú tin rằng chuyện đó không thể nào xảy ra được. Suốt cuộc hành trình, chiếc tàu không hề gặp một cơn bão tố nào cả, hơn nữa trên boong tàu luôn luôn có người gác sáng đêm.
- Vậy theo ý chú thì chuyện gì đã xảy ra ạ ? Huệ hỏi thêm.
- Điều đó rất khó trả lời. Cô Yến Nhi là một người hơi kỳ dị. Thật ra thì từ trước chú đã nghĩ sẽ có nhiều chuyện rắc rối xảy ra với sự hiện diện của cô ta trên tàu.
- Thưa, cô ta tên là Yến Nhi ạ ? Huệ lặp lại, nét mặt đăm chiêu.
- Đúng. Cô ta họ tên là Khứu Đắc Yến Nhi. Không ai là không chú ý đến cô ta được. Cô có một suối tóc dài đen mượt và một làn da trắng như tuyết. Cô ta ăn mặc rất sang trọng và theo đúng mốt thời trang.
- Thưa, cô ta mất tích vào lúc nào ạ ?
- Vào ngày thuyền cập bến Sàigòn.
- Thưa, còn hành lý của cô ta thì sao ? Lan hỏi tiếp.
- Người ta đã tìm thấy hành lý của cô ta trong phòng. Cô ta có ba chiếc vali và một chiếc rương lớn, nhưng bên trong gần như trống rỗng. Ngoài điều đó ra, hầu như tất cả đều chứng tỏ rằng cô ta đã bị chết đuối. Riêng chú thì chắc chắn là sự đó không thể nào xảy ra được. Tuy nhiên, nếu chú không tìm ra được những bằng cớ xác định cô Yến Nhi chưa chết thì chú có thể gặp rắc rối to đấy.
Huệ kêu lên bất mãn :
- Thưa, cháu không hiểu tại sao người ta có thể bắt chú chịu trách nhiệm về vụ mất tích này ! Có phải do lỗi tại chú đâu ạ.
- Đành thế. Nhưng một vụ chết đuối hay mất tích cũng đủ gây nhiều rắc rối cho công ty hàng hải. Riêng chú thì không chắc rằng cô Yến Nhi còn sống.
- Thưa, cháu nghĩ có lẽ cô ta đã có một lý do riêng để biến mất như thế. Lan thong thả nói.
Vị thuyền trưởng gật gù :
- Cháu Lan nói đúng. Cô ta tỏ ra rất bí mật về hành tung của mình. Nhưng theo chú thoáng nghe được thì hình như cô ta có gia đình ở khu Lam Sơn gần đây thì phải. Nếu không biết rõ hơn thì cũng khó mà dò theo được dấu vết của cô ta.
- Lan này ! Huệ bỗng kêu lên : Em còn nhớ một ngôi biệt thự lạ kỳ, mái nhà có đến bốn cái tháp nhọn trổ lên mà trước đây chị em mình đã để ý trên con đường Hoàng Diệu ở khu Lam Sơn đó chứ ? Nếu chị không lầm thì trước nhà có gắn tấm bảng nhỏ đề tên Khứu Đắc Dzu thì phải.
- A ! Phải rồi. Chị nhớ rất đúng đấy, chị Huệ.
- Khứu Đắc Dzu à ? Đúng là cái tên mà cô gái đã đề cập đến một hôm. Ông Định kêu lên, mắt sáng long lanh. Nếu các cháu có thể vẽ đường đi cho chú thì cơm xong chú sẽ tới đó ngay.
- Thưa chú, để tụi cháu đưa chú đi ạ. Lan đề nghị.
Cô Hạnh cười hài lòng. Cô nhận thấy rằng khía cạnh bí mật của vấn đề đã bắt đầu làm cho chị em Huệ Lan chú ý.
Mặc dầu đã bị xúc động mạnh vì câu chuyện không may xảy ra, suốt bữa ăn thuyền trưởng Định vẫn vui vẻ kể những mẩu chuyện vui vui trong cuộc hành trình vừa qua cho các cháu nghe.
Cuối cùng, bốn người rời khỏi nhà hàng và kéo nhau đi tìm ngôi biệt thự của ông Dzu ngay. Huệ Lan không nhớ rõ số nhà nhưng họ còn nhớ vị trí nên chẳng mấy lúc tìm thấy căn nhà có kiến trúc kỳ lạ mà họ đã để ý khi đi ngang.
- Ủa, sao không còn tấm bảng treo trên cửa nữa kìa ? Huệ vừa nói vừa bước xuống xe. Hay là chú để cháu và Lan tới hỏi xem có phải đúng nhà này không đã.
Để ông Định và cô Hạnh ngồi trên xe, hai chị em tiến vào con đường trải đá cuội trắng và đến gõ cửa. Một lúc sau, họ thấy xuất hiện một người hầu Trung Hoa, đầu chải bóng.
- Chúng tôi muốn hỏi ông Khứu Đắc Dzu có nhà không ạ ? Huệ lễ phép hỏi.
- Ông Dzu “li” khỏi “lồi”. Ngày mai mấy cô trở lại.
Huệ bèn nói :
- Chúng tôi muốn gặp ông Dzu có chuyện cần. Tôi sợ đến mai thì chú tôi không còn ở đây nữa.
Rồi Huệ năn nỉ :
- Đây là một chuyện rất quan trọng. Thuyền trưởng Định muốn gặp ông Khứu Đắc Dzu để hỏi về một thiếu phụ có mặt trong chuyến du hành vừa qua trên thuyền của ông : cô Khứu Đắc Yến Nhi.
Gương mặt thản nhiên của tên hầu bỗng sáng lên. Hắn vui vẻ đáp :
- Hà, cô Yến Nhi thì có nhà. Hai cô vào “lói chiện” với cô Yến Nhi ?
Huệ và Lan nhìn nhau với đầy ý nghĩa. Nếu hai cô tìm ra được cô Yến Nhi bây giờ thì thật may mắn cho chú Định, vì nếu chứng minh được là người thiếu phụ đó còn sống thì thuyền trưởng Định và công ty của ông sẽ không còn phải lo ngại điều gì nữa.
- Vâng, chúng tôi rất muốn gặp cô Yến Nhi. Huệ vội vã trả lời.
Tên hầu đưa hai cô qua một dãy hành lang rồi vào một căn phòng khách được bày biện rất sang trọng. Trong khi hắn vào thưa với nữ chủ nhân thì Lan đảo mắt xem xét căn phòng, ngắm nghía bàn ghế và các món đồ chơi thật hấp dẫn trong tủ kính. Một lát sau, tên hầu trở ra nói :
- Cô Yến Nhi không chịu tiếp ai bữa nay hết.
Huệ khẩn khoản :
- Chuyện này rất quan trọng. Nhờ chú vào nói với cô Yến Nhi rằng thuyền trưởng Định đến đây chỉ cốt để gặp cô trong vài phút thôi.
- Ờ, ờ, để Phoóng này vô nói lại, nhưng chắc cũng hổng “lược lâu”.
Khi tên hầu đi khuất, Huệ quay qua nói với Lan, lúc đó đang ngắm một bức hình bày trên chiếc dương cầm.
- Chị lo cô Yến Nhi này không phải là người thiếu phụ trên thuyền chú Định em ạ. Nếu cô ta không muốn tiếp chuyện mình thì làm thế nào để biết rõ hư thực đây ?
Lan chỉ tấm hình một thiếu phụ trẻ tuổi rất đẹp :
- Chị này ! Không hiểu có phải đây là hình cô Khứu Đắc Yến Nhi không ? Chắc chú Định sẽ nhận ra cô ấy.
Huệ vội kêu lên :
- Phải đó ! Mình đem ra cho chú xem đi. Nhưng mà lẹ lên, tên Phoóng có thể trở ra trong chốc lát đó.
Hai cô lắng tai nghe ngóng để biết chắc rằng tên hầu còn đang ở trên lầu.
- Tụi mình chạy ra thật lẹ đi ! Lan đề nghị.
- Không nên chạy, họ sẽ nghi. Huệ trả lời.
Hai chị em bèn lẳng lặng đi ra, nhưng trống ngực hai người đập mạnh như muốn bể lồng ngực. Ông Định chỉ cần liếc qua cũng nhận thấy rằng đây chính thực là thiếu phụ mất tích trên thuyền Hải Âu

Chương 2
- Đúng là cô Yến Nhi đây rồi ! Chú Định hân hoan nói.
- Vậy bây giờ chú hết phải lo nghĩ rồi phải không ạ ? Tên Phoóng đã nói là cô Yến Nhi có nhà.
- Dù sao đi nữa thì chúng ta cũng nên vui mừng vì cô ta hãy còn sống ! Nhưng không biết cô ta làm cách nào để rời khỏi tàu mà không phải xuất trình giấy thông hành ? Chú có vài điều muốn hỏi cô ta.
- Dạ, nhưng cô ta không muốn tiếp ai hết. Hơn nữa, ông Dzu lại không có nhà, Huệ nói.
- Cô Yến Nhi có biết đâu rằng cô ta đã tự đưa mình vào một thế kẹt.Cô ta nên giải thích cho chú nghe hơn là cho Ty Cảnh Sát Thương Cảng.
- Thưa, có lẽ chú có thể thuyết phục được cô ta, chớ tụi cháu xin chịu thôi, Huệ đề nghị.
- Vậy để chú vô với các cháu.
Ba người bèn tiến vào biệt thự. Lan vừa kịp để lại bức hình trên chiếc dương cầm thì chú Phoóng trở ra :
- Cô chủ hổng muốn tiếp ai hôm nay hết ! Cô biểu ngộ ra nói với mấy cô là cổ “lau” cái “lầu” lắm, hổng nói “chiện lược”.
- Thế chú có nói với cô Yến Nhi là có thuyền trưởng Định tới đây không ? Huệ hỏi lại.
- Có chứ ! Cô chủ còn “lau cái lầu” hơn khi ngộ nói cho cổ nghe như vậy.
Vị thuyền trưởng thốt lên :
- Tôi hiểu rồi. Tôi có thể ngồi đây đợi cô ta thay đổi ý kiến, nhưng nghĩ cho cùng thì tôi muốn gặp ông Dzu trước. Bao giờ thì ông ta về ?
Tên hầu quay vào nhìn đồng hồ rồi đếm mấy đầu ngón tay :
- Ông chủ “li lược” một giờ, hai giờ… “pa” giờ “lồi”. Ngộ chắc một giờ “lữa” ông chủ sẽ “dề”.
- Muốn chắc hơn thì ta để cho ông ấy một tiếng rưỡi nữa, ông Định nói. Chú về nói với ông Dzu là tôi sẽ trở lại vào lúc bốn giờ.
- Để ngộ nói lại cho. Tên hầu đáp và tiễn khách ra cửa.
- Thưa, chú có định trình cảnh sát vụ này không ạ ? Huệ tò mò hỏi khi ra tới xe.
- Việc đó còn tùy thái độ và lời giải thích của cô ta. Dầu sao công ty cũng sẽ tránh được nhiều phức tạp.
Huệ và Lan không trả lời, nhưng hai chị em đều nghĩ rằng chú Định có lẽ quá lạc quan. Theo những chi tiết chú đã kể lại cho hai cô thì chắc chắn cô Yến Nhi là người hay gây rắc rối trên bước đường của cô ta. Sự từ chối không tiếp ba chú cháu chứng tỏ rằng cô ta không hề có ý giúp cho nhiệm vụ của chú Định được dễ dàng hơn.
Hai chị em Huệ và Lan rất thích những vụ bí mật, nhưng hai cô không muốn có gì khó khăn liên quan đến chú Định. Mồ côi từ tấm bé, hai cô sống một cuộc đời rất sung túc bên cô Hạnh và chú Định. Vì vậy, họ luôn luôn cầu mong không có sự gì phiền toái xảy đến cho người chú đáng quí ấy.
- Thế là đã mất toi gần một tiếng đồng hồ, chú Định vừa nói vừa nhìn đồng hồ. Bây giờ chúng ta đi xem xi nê nhé. Các cháu nghĩ sao ?
- Thưa, hình như ở rạp Nam Việt có chiếu một phim hay lắm ạ, Lan vội nói.
Khi xe gần tới rạp hát bóng, vị thuyền trưởng chỉ hai đám mây đen đang kéo lại phủ kín bầu trời.
- May thật ! Rạp xi nê này đúng là một nơi trú mưa lý tưởng. Chắc cơn giông sắp kéo đến bây giờ.
Khi đã ngồi yên vị trí trong rạp hát, mọi người đều quên biến thời tiết bên ngoài, nhưng một sự ngạc nhiên đang chờ đợi họ. Trước khi vào phim chính, người ta chiếu một phim thời sự, và Huệ Lan đã phải đứng bật dậy khi thấy trên màn ảnh hiện ra một chiếc thuyền lớn đang tiến vào bờ.
- Thưa chú, hình như chiếc thuyền Hải Âu của chú ! Huệ thầm thì.
- Đúng nó ! Vị thuyền trưởng từ tốn trả lời. Khi thuyền vừa cập bến, các nhiếp ảnh gia và phóng viên đứng đợi đông như kiến. Nhưng chú không dè họ đã đưa lên màn ảnh sớm thế.
Một lúc sau, mọi người thấy thuyền trưởng Định xuất hiện trên màn ảnh. Ông đang nói chuyện với các phóng viên và những người đại diện cho công ty, và giải thích cho họ các chi tiết về vụ cô Yến Nhi mất tích.
Huệ và Lan muốn ở lại xem quãng phim thời sự một lần nữa, nhưng vì phim đã quá dài nên họ đành phải ra về. Họ bước ra khỏi rạp đúng một tiếng rưỡi sau khi vào.
Trong khi chiếc xe thẳng tiến đến ngôi biệt thự của ông Dzu, Lan nhìn đồng hồ và cho chú Định biết là đã quá bốn giờ.
- Chúng ta trễ hẹn rồi, ông Định chau mày nói. Phiền thật.
- Đừng ngại em ạ, trời mưa nên có lẽ ông Dzu cũng về trễ, cô Hạnh dịu dàng nói. Dù sao thì cũng không nên chạy nhanh quá, em Định ạ. Đường rất trơn đấy.
Lúc đó trời tối đến nỗi ông Định phải bật đèn pha lên. Tuy vậy xe chạy một cách rất khó khăn, vì mưa vẫn đổ như trút nước, lại thêm sấm chớp rung chuyển cả trời đất. Vì vậy, ông Định phải cho xe dừng lại bên đường để tránh những nguy hiểm có thể xảy ra. Đến nửa giờ sau, mưa mới tạnh hẳn. Khi tới nhà ông Dzu thì trời đã nhá nhem tối.
Huệ và Lan bước theo ông Định đến cửa. Hai cô cứ đinh ninh rằng chú Phoóng sẽ ra mở cửa. Nhưng không, họ thấy xuất hiện một người đàn ông trẻ tuổi, cao lớn, đôi mắt sắc có vẻ ác. Hắn tỏ vẻ khinh bỉ khi thấy quần áo nhầu nát của ông Định.
- Xin lỗi, có phải ông là ông Dzu không ạ ? Vị thuyền trưởng hỏi.
- Vâng, chính tôi. Nếu tôi không lầm thì ông là thuyền trưởng Định ? Ông hẹn tôi sớm hơn kia mà ?
- Xin lỗi ông, vì mưa quá lớn nên tôi rất tiếc không thể đúng hẹn được. Chúng tôi có thể vào được chứ ?
- Vâng mời ông và mấy cô vào.
Ông Dzu nhường lối cho khách vào hành lang rồi hỏi :
- Ông cần gặp tôi có chuyện gì vậy ?
- Về chuyện người thân của ông, đó là cô Yến Nhi. Cô ta là một trong những hành khách của chiếc tàu Hải Âu do tôi làm thuyền trưởng và cô ta đã bị mất tích trong một trường hợp rất là đặc biệt. Tôi rất tiếc đã phải nói thẳng với ông điều này, và như chú Phoóng cho biết thì cô Yến Nhi ngụ tại đây.
- Tôi chưa bao giờ nghe nói đến ông và chiếc tàu của ông cả, ông Dzu lạ lùng đáp. Yến Nhi, con gái tôi, hiện có ở tại đây.
- Tôi có thể nói chuyện với cô ta được không ạ ?
- Nó đang ăn với vú nó và tôi không muốn ai làm rộn nó cả.
- Ông có thể cho tôi biết cô ta năm nay bao nhiêu tuổi không ạ ? Vị thuyền trưởng ngạc nhiên hỏi.
- Nó sẽ được bảy tuổi vào tháng sáu tới.
- Bẩy tuổi ? Nhưng cô Yến Nhi mà tôi đang tìm kiếm là một thiếu phụ cơ mà !
- Nếu vậy thì tôi rất tiếc không được biết cô ta, ông lầm rồi, ông Định à. Xin lỗi ông nhé, bây giờ tôi phải đi công việc.
Nói xong hắn ta đẩy nhẹ thuyền trưởng ra cửa.
- Khoan đã… ông Định vừa mở miệng nói thì Dzu đã mỉm cười gật đầu chào và đóng sập cửa lại.
- Thật là bất lịch sự ! Thuyền trưởng Định bực tức nói. Hắn tiếp đãi bọn ta như vậy ! Rồi hắn sẽ biết tay ta.
Lan cười khôi hài :
- Thưa chú, chúng ta không phải ở trên chiếc Hải Âu của chú ! Vậy nếu ta không đi, tên Dzu dám kêu lính bắt ta vì hắn là chủ nhà ạ.
- Cháu nói có lý. Chú sẽ giao vụ này cho viên thám tử của công ty vậy.
- Vậy chú không tin rằng con hắn là Yến Nhi mới được bẩy tuổi ạ ? Huệ hỏi.
- Không đời nào ! Chú có cảm tưởng hắn là một tên bất lương.
- Thưa, trong khi chú nói chuyện với hắn, cháu liếc nhìn vào phòng khách thì thấy bức hình đã biến mất. Lan chậm rãi nói.
- Vậy thì rõ ràng là hắn sợ chúng ta để ý đến bức hình đó. Tối nay chú sẽ gọi điện thoại cho viên thám tử của công ty mới được.
Ông Định toan bước ra xe thì bỗng Lan giựt cánh tay ông :
- Thưa chú, họ đang đấu khẩu trong nhà.
Có tiếng Dzu gắt gỏng :
- Được rồi, tôi sẽ trả lương cho chú ngay ! Tôi đã hứa với chú rồi mà ?
Có tiếng chú Phoóng đáp lại :
- Ngộ thấy ông chủ nói nhiều quá. Ông chủ thiếu ngộ ba tháng lương rồi. Nếu ông chủ hổng có tiền, ngộ sẽ đi làm chỗ khác.
Lúc đó chắc hai người đã đi vào phòng trong nên ông Định và Huệ Lan không nghe được câu trả lời của Dzu. Một lát sau ba người ra tới xe. Cô Hạnh nói :
- Trời tối rồi, bây giờ phải đưa hai cháu về trường và chúng ta cũng phải về nhà nữa.
- Vâng được, chú Định đáp.
- Cuộc gặp gỡ có giúp ích được gì cho em không ? Cô Hạnh vội hỏi khi thấy gương mặt cau có của em.
- Vụ bí mật chưa khám phá được ra, nhưng em chắc nó sẽ được giải đáp trong một ngày rất gần.
Về tới trường, Huệ và Lan vội lên phòng.
- Chị Huệ, có người vào phòng chúng ta trong lúc vắng mặt ! Lan kêu lên.
- Sao em biết ?
- Chắc có kẻ lạ mặt đã đụng vào cái máy của em ! Em nhớ trước khi đi, em đã đậy nó cẩn thận bằng một cái khăn mà bây giờ cái khăn đã bị gạt ra một bên đây nè.
- Ờ, chị có nhớ em đã đậy mà.
- Trời ơi ! Người ta đã làm hỏng hết rồi !
- Nhưng vì nó chưa chạy nên chắc em không được bồi thường đâu.
- Em cam đoan với chị là nó sẽ chạy ! Người ta đã chẳng chế nhạo nhà bác học Edison khi ông ta sáng chế ra cái máy quay dĩa hay sao ?
- Chị rất bất mãn khi thấy người ta đã tự do vào phòng mình như một nơi công cộng. Không biết kẻ đó là ai ?
- Em đoán là con Ly, chị ạ.
- Ừ, chị cũng nghĩ vậy.
Đến tối, khi gặp Ly trong hành lang, Lan hỏi thẳng nhưng Ly nhất quyết chối cãi là cô không hề bước chân vào phòng hai chị em.
Có lẽ Lan đã tin nếu không có một sự việc xảy ra sau đó. Thư viện của trường thường đóng cửa vào lúc 9 giờ 30 tối. Lan muốn ghé qua đó lấy cuốn sách trước giờ đóng cửa, nhưng vừa đến nơi thì cô thấy Ly đang cắm cúi viết một bức thư. Thấy động, Ly vội đậy bức thư nhưng Lan cũng kịp đọc thấy lá thư gửi cho cơ quan cấp “bằng sáng chế” ở Sàigòn.
Lan căm tức trở về phòng và nói với chị :
- Đến bây giờ thì em chắc chắn là con Ly đã vào phòng tụi mình. Nó đã xem xét chiếc máy của em và muốn xin bằng sáng chế cho nó.
- Đó là một hành động bất lương ! Huệ bất mãn kêu lên.
Mỹ, một cô bạn vẫn học cùng nhóm với Huệ và Lan, lúc ấy cũng có mặt, vội thêm :
- Nếu vậy tụi mình phải phá tan âm mưu của nó mới được.
- Sao em không xin một bằng sáng chế cho em ?
Huệ nói sau một lát suy nghĩ.
- Ừ phải, tại sao Lan không xin ? Mỹ lập lại.
- Nhưng chiếc máy của mỗ chưa hoàn thành. Nhỡ nó sẽ không bao giờ chạy được thì sao ?
- Dầu sao, tụi mình cũng phải ngăn cản không cho con Ly gởi lá đơn ấy đi mới được, Mỹ quả quyết nói. Được rồi, mình đã có cách.
- Cách gì thế ? Lan hỏi.
- Lan cứ để mình lo liệu vụ này cho.
Kế hoạch của Mỹ rất giản dị. Sau khi từ giã hai chị em, cô đến trình bày tự sự với bà Đốc. Bà bèn cho gọi Ly lên văn phòng và bắt cô đưa lá đơn vừa viết. Đọc xong bà nói :
- Tôi không hiểu gì hết. Trong đơn này, em nói đã chế ra một cái máy viết nốt nhạc mà không trưng ra một tài liệu nào cả, đến một hình vẽ cũng không có thì làm sao ổn được. Tốt hơn là nên vứt lá đơn này vào sọt rác.
- Nhưng thưa bà đốc…
- Không nhưng gì nữa. Theo ý tôi em nên dành thì giờ mà lo việc học thì hơn, vì các giáo sư cho tôi biết rằng em rất ít hy vọng đậu kỳ thi sắp tới đó.
- Thưa bà, vâng… Ly miễn cưỡng trả lời.
Ly tỏ vẻ giận dỗi suốt buổi sáng hôm sau. Cô không nói một tiếng nào với Lan vì cô cho rằng vì Lan mà bà Đốc đã can thiệp.
Chiều hôm ấy, Huệ và Lan xin phép bà Đốc ra phố mua mấy món cần dùng. Lúc về, khi taxi ngừng lại ở một ngã tư, Huệ thấy một người đàn ông đang vội vã băng qua đường, tay xách va li. Nàng vội nhổm dậy gọi Lan :
- Trông kìa, Lan !
- Chú Phoóng ! Chú ta đi đâu mà xách va li như vậy ?
- Ừ, chị đoán là chú ấy có thể giúp tụi mình làm sáng tỏ vụ bí mật về cô Yến Nhi không biết chừng !
- Chị nói đúng, chú Phoóng là người độc nhất có thể cho chúng ta biết cô Yến Nhi là một thiếu nữ hay một con nhỏ bảy tuổi.
- Chúng mình xuống xe đuổi theo chú ấy đi, chị Huệ !

Chương 3
Và Lan vẫn tiếp tục chạy theo chú Phoóng. Được một quãng Huệ vội kêu :
- Chú Phoóng ! Chờ chút đã !
Tên hầu quay ngoắt lại, vẻ mặt sợ hãi. Nhưng khi nhận ra hai chị em Huệ và Lan, chú bớt lo sợ và dừng lại.
- Mấy cô kêu ngộ hả ? Chú vừa hỏi vừa đặt va li xuống.
Huệ muốn chắc chắn hơn nên hỏi :
- Có phải chú làm ở nhà ông Dzu không ?
- Ngộ hổng có làm ở nhà ông Dzu nữa mà. Ông Dzu không trả tiền ngộ nên ngộ thôi làm rồi.
- Chú hành động như vậy là phải lắm, Huệ nói. Chú làm ở nhà ông Dzu được lâu chưa ?
- Ngộ làm được sáu tháng. Hồi ngộ mới vô, ổng nói chứ : “Chú ráng làm đi, tôi sẽ tăng lương cho”. Ông chỉ hứa hẹn xuông hà. Ngộ hổng “lượt” lên lương mà cũng hổng có lương nữa chớ.
- À, chú Phoóng này, cô Yến Nhi còn trẻ lắm phải không ? Gần bằng tuổi tụi này hay lớn hơn ?
Chú Phoóng lắc đầu :
- “Lâu” có ! Cô Yến Nhi hơn “pa” chục tuổi rồi.
Nghe vậy, hai chị em Huệ Lan rất hài lòng, nhưng không để lộ ra ngoài mặt. Chú Phoóng bắt đầu nghi ngờ :
- Mấy cô kêu ngộ làm chi ?
- Tại vì tụi tui hy vọng chú sẽ chỉ cho cách gặp cô Yến Nhi, Lan đáp. Chúng tôi rất cần nói chuyện với cô ta.
Sau khi hỏi thăm chú Phoóng, hai chị em được biết cô Yến Nhi là em ruột ông Dzu và đã về đến nhà anh nàng từ mấy hôm trước. Nhưng có một điều chắc chắn là cô ta đã có mặt trên chiếc Hải Âu vì chú Phoóng có nghe cô ta than là thời tiết ngoài khơi rất xấu.
- Cô ta có mang hành lý về không ? Huệ hỏi.
Chú Phoóng không trả lời, tỏ dáng sợ hãi nhìn một gã đàn ông đang đi bách bộ bên kia đường. Huệ và Lan nhìn theo hướng mắt chú Phoóng và thấy gã đàn ông cao lớn, đầu đội một chiếc mũ nỉ sụp xuống tận mặt. Gã đang ngậm một điếu thuốc, đi và tiến lại phía ba người.
Chú Phoóng sợ hãi kêu lên, vớ lấy chiếc va li rồi co giò chạy mất. Gã lạ mặt vội rượt theo…
Với chiếc va li cồng kềnh, chú Phoóng không có hy vọng gì chạy thoát được.
Đúng lúc chú vừa định quẹo vào một ngõ hẻm thì tên lạ mặt đã nhảy tới. Cuộc ẩu đả xảy ra. Hai chị em Huệ Lan chưa kịp chạy lại tiếp tay cho chú Phoóng thì hắn đã bị gã kia khoá chặt tay, đẩy lên một chiếc xe hơi đậu gần đó rồi phóng xe đi mất.
- Nhìn số xe đi em ! Huệ bảo Lan.
- EK – 4093.
Trong khi Huệ lục lọi trong sắc tay để kiếm giấy bút, Lan lẩm nhẩm đọc lại số xe cho khỏi quên. Huệ lôi ra một cây viết chì nhưng vì không có giấy nên cô ghi lại số xe lên tay áo trắng của em và nói :
- Chị lo ngại cho chú Phoóng quá !
- Mình có phải đi trình Cảnh Sát không ?
- Có chứ, ta đi ngay bây giờ.
Sau khi nghe rõ câu chuyện, viên Thanh Tra Cảnh Sát nói :
- Có lẽ là một vụ thanh toán giữa “ba tầu” với nhau.
- Thưa ông, nhưng mà tên lạ mặt không phải là một người Tầu ! Huệ cải chính.
Về tới trường, hai chị em bèn gọi ngay điện thoại cho chú Định để báo tin sự việc.
- Như thế thì cô Yến Nhi đó đúng là thiếu phụ đã có mặt trên tầu của chú rồi ! Chú Định đắc chí reo lên. Chú rất tiếc đã không ở lại thêm một ngày nữa để tìm cách gặp cô ta.
- Thưa chú, hay để chúng cháu trở lại nhà ông Dzu một lần nữa, Huệ đề nghị.
Viên thuyền trưởng suy nghĩ một lát rồi cuối cùng ông chấp thuận :
- Được rồi, chú đồng ý để các cháu trở lại đó. Chú sẽ viết vài hàng cho bà Đốc để xin phép cho các cháu nghỉ học nửa ngày.
Chiều hôm sau, hai chị em kín đáo rời khỏi trường. Mười lăm phút sau, họ dừng xe cách biệt thự ông Dzu độ 200 thước rồi thả bộ tới. Hai chị em thấy căn nhà có vẻ hoang vắng, các cửa sổ đều đóng kín mít.
- Hình như không có ai ở nhà thì phải, Lan lo lắng nói.
Họ nhận chuông đến 3,4 lần mà chẳng thấy ai ra mở cửa. Họ đi vòng ra phía sau và tới gõ một cánh cửa nhỏ.
- Thật vô ích. Huệ thở dài thất vọng. Chúng ta chỉ còn cách rút lui mà thôi. Uổng thật ! Đáng lẽ chúng ta phải trở lại đây sớm hơn mới phải.
Cô vừa dứt lời thì cả hai đều nghe thấy tiếng rên nho nhỏ từ trong nhà phát ra.
- Cái gì vậy chị ? Lan hỏi.
Họ đứng yên lặng nghe ngóng.
- Cứu tôi với ! Cứu tôi với ! Mấy tiếng kêu nghẹn ngào vọng ra.
- Có lẽ chú Phoóng bị nhốt ở trong nhà ! Huệ hốt hoảng kêu lên. Chúng mình phải vào xem cái gì mới được, lẹ lên.
Cô định mở cửa, nhưng cánh cửa đã bị khoá chặt. Cả hai lại vòng ra phía trước, nhưng cửa này cũng khoá.
- Chúng ta phải hành động gấp rút, Lan vừa nói vừa nhặt một cục đá lớn. Để em đập cửa kính ra.
Cô giáng mạnh cục đá vào khung cửa, kính vỡ tan tành. Lan thò tay vặn quả nắm, mở cửa ra. Hai chị em vội chạy vào hành lang và tiến về phía phòng khách. Tới đây, hai cô đứng sững lại. Huệ thì thầm :
- Chị không thể nào ngờ như thế này được, Lan thấy không ?
Căn phòng cách đây mấy hôm vẫn còn đầy đủ đồ đạc, bây giờ thì đã trống rỗng. Bàn, ghế, tủ, tranh ảnh, tất cả đã biến mất ngoại trừ mấy tấm màn cửa sổ.
Trong phòng ăn cũng chẳng có gì. Hai chị em chưa kịp tìm kiếm xa hơn thì họ lại nghe tiếng kêu ú ớ lúc nãy.
- Đúng là chú Phoóng rồi ! Lan nói. Hình như chú ấy bị ngạt hơi thì phải.
Hai người chạy về phía hành lang thang lầu. Theo hướng tiếng kêu, hai chị em lần đến một căn phòng trống trên lầu. Hai cô còn đang đứng do dự trước cửa phòng thì nghe thấy tiếng cào cào trong chiếc tủ lớn kê ở cuối phòng.
Lan vội chạy lại mở tủ, nhưng cô ngừng lại :
- Chiếc tủ bị khoá rồi, chị Huệ ơi !
Hai chị em cố sức kéo, nhưng cánh cửa tủ vẫn khép chặt.
- Làm thế nào bây giờ ? Lan than vãn. Nếu chúng ta kêu cảnh sát thì mất quá nhiều thời giờ…
Cô chưa nói hết lời thì bỗng tiếng chuông reo vang.
- Cái gì nữa đây ? Huệ hốt hoảng hỏi.
Hai cô đang chạy ra cửa sổ xem ai thì nghe thấy một giọng nói quen quen :
- Có ai trong nhà không thế ?
- Hình như tiếng nói của chú Định thì phải ! Lan thốt lên.
Hai chị em vội chạy xuống mở cửa.
- Chú Định ! Huệ kêu lên.
- Ủa sao chú lại tới đây ạ ? Lan hỏi.
Thuyền trưởng đáp :
- Sau khi hai cháu điện thoại cho chú, cô Hạnh tỏ ra lo lắng. Cô trách chú tại sao để hai cháu đến đây một mình. Chú phải vội vàng phóng xe tới đây.
- May quá, chú đến thật đúng lúc ! Huệ nói. Họ đã dọn nhà đi rồi và còn nhốt một người trong tủ khóa.
Lên tới lầu, chú Định kéo thử cánh cửa tủ nhưng cũng không được.
- Phải có một khúc cây lớn mới xong. Để chú đi kiếm.
Một lúc sau, chú trở vào với một khúc cây lớn tìm thấy dưới hầm.
Ba người cùng nắm khúc cây rồi nhắm phía trên cánh cửa thúc vào để khỏi trúng phải người bên trong.
Sau cú thứ hai, cánh cửa bật tung ra.
- Không phải chú Phoóng ! Lan kêu lên khi nhìn thấy người đàn ông nằm bất động trong hộc tủ.
Đây là một ông già, đầu tóc bạc trắng, đôi bàn tay gầy guộc, sắc mặt nhợt nhạt.
Được chú Định nâng dậy, ông cử động và thì thào :
- Thật may phước cho tôi quá !
Lan chạy đi tìm một ly nước trong khi Huệ lục soát mấy căn phòng kế cận để tìm một cái ghế. Chú Định đặt ông già ngồi lên ghế vừa đưa ly nước cho ông uống.
- Hãy đưa tôi về… tôi muốn được về nhà… Ông cụ thều thào nói.
- Chúng tôi cũng muốn thế, chú Định đáp. Tuy nhiên, cụ hãy cho chúng tôi biết cụ là ai và cụ ở đâu tới đây.
- Tôi là Đôn, cư ngụ ở khách sạn Song Nga.
- Cháu biết khách sạn đó, Huệ nói.
- Chúng tôi sẽ đưa cụ về đó, chú Định hứa. Nhưng tôi nghĩ bây giờ nên mời bác sĩ đến coi cho cụ đã.
- Không, không ! Ông cụ kêu lên. Tôi thấy không cần mời làm gì, tôi đủ sức về mà.
- Xin tùy ý cụ đấy. Nhưng tại sao cụ bị nhốt trong này ?
- Chính tên Dzu khốn kiếp ấy đã nhốt tôi. Một người hàng xóm có báo tin cho tôi hay là hai anh em nó đang dọn nhà đi. Tôi vội đến đây, vì tôi là chủ biệt thự này và chúng còn thiếu tôi bốn tháng tiền nhà.
- Vâng, cụ kể tiếp đi, có lẽ chúng tôi sẽ giúp ích cụ được gì chăng ?
- Khi tôi đến đây, chúng đã chất gần xong đồ đạc lên xe rồi. Tôi bảo phải thanh toán tiền nhà ngay, bằng không thì phải để đồ đạc lại. Tên Dzu bèn bảo tôi vào nhà để hắn viết chi phiếu.
- Hắn gài bẫy, phải không ạ ? Chú Định hỏi.
- Vâng đúng thế. Tôi vừa bước vào nhà thì hắn đã giáng cho tôi một cú và đẩy tôi vào tủ khoá lại. Tôi đã ngất xỉu và khi tỉnh dậy tôi mới kêu cứu. May quá, có các vị tới đây !
- Chúng tôi sẽ đưa cụ về khách sạn bây giờ.
Rồi ba chú cháu dìu ông cụ ra xe. Trên đường về, Đôn thuật lại cho ông Định và hai cô cháu gái nghe tất cả những gì ông cụ biết về anh em lão Dzu. Nhưng ngoài những điều nghi ngờ ra, cũng chưa có một sự kiện gì cụ thể để có thể buộc tội cho họ những hành động phi pháp, như trốn thuế quan, buôn lậu, v.v… Cụ Đôn còn cho biết anh em Dzu hình như còn có nông trại ở vùng Di Linh.
Sau khi đưa cụ Đôn về phòng, ba chú cháu từ giã để ra xe và hứa nếu có dịp sẽ trở lại thăm cụ.
Về tới trường, Lan mời chú Định ở lại vài phút :
- Thưa chú, cháu có cái này hay lắm ạ. Một phát minh mới của cháu đấy !
- Ơ kìa Lan ! Em đã bắt chị hứa không được nói với ai kia mà ? Huệ ngạc nhiên thốt lên.
- Em biết, Lan cười đáp, nhưng em cần đến lời khuyên của một vị chuyên viên.
- Cháu đã phát minh ra cái gì đó ?
- Thưa chú, một cái máy viết nhạc. Hiện giờ, nó chưa có hình thù gì cả.
Hai chị em rất ngạc nhiên thấy chú Định không hề buồn cười khi thấy cái máy. Trái lại, chú xem xét kỹ càng và hỏi tỉ mỉ về nó. Cuối cùng, chú kết luận ;
- Nguyên tắc căn bản của cháu đứng vững lắm, Lan à. Chiếc máy này hay lắm.
- Thưa chú nói thật ạ ?
Đôi mắt Lan sáng ngời lên vì vui mừng :
- Vậy mà mọi người đã chế riễu cháu, kể cả chị Huệ nữa.
- Người ta thường nói “con đường dẫn đến sự thành công đều đầy rẫy chông gai” cháu không nhớ sao ? Chú Định nheo mắt nói.
- Thưa chú, cháu đã tốn nhiều thời giờ và công phu vào đó, đến nỗi nhiều lúc cháu chỉ muốn mang quẳng cái máy này xuống vực sâu. Lan thở dài thú nhận. Cháu có cảm tưởng rằng nó sẽ chạy nhưng mà sao nó chẳng chạy gì cả.
- Sao cháu không thử mắc một cái lò xo khoẻ hơn ? Để chú gởi cho cháu vài cái khác. Bây giờ thì chú phải đi, chúc cháu thành công nhé.

Chương 4
Cuối tuần này, Huệ và Lan về nhà thăm chú Định và cô Hạnh. Hôm đó, cô Hạnh mời cả bà Minh, một người bạn cũ, đến chơi nữa.
Huệ và Lan thấy bà Minh rất dễ thương và nói chuyện rất có duyên.
- Hồi này tôi đang kiếm mãi chưa được một căn nhà đủ rộng để chứa lũ con của tôi, bà Minh tâm sự, cô biết không, có lẽ phải một trang trại để gia đình tôi ở mới đủ.
Hai chị em Huệ Lan chợt nghĩ đến ngôi biệt thự của cụ Đôn còn bỏ trống vì anh em lão Dzu đã dọn đi đột ngột. Có lẽ căn nhà ấy thích hợp với gia đình bà Minh. Sau khi hai chị em mô tả sơ qua căn biệt thự, bà Minh cho hai chị em biết có lẽ đây là căn nhà bà đang tìm kiếm.
- Tôi mong rằng tiền thuê không quá đắt, bà nói tiếp. Vì phải nuôi sáu đứa con nên vợ chồng tôi không thể hoang phí quá mức.
- Thưa bác, chúng cháu hiện chưa rõ cụ Đôn định giá bao nhiêu, Huệ đáp. Vậy lát nữa trở về trường, chúng cháu sẽ tới hỏi cụ.
- Ồ thế thì hay quá ! Bà Minh vui mừng nói. Chúng tôi càng thuê sớm được chừng nào càng tốt chừng nấy.
Trên đường về trường, hai cô bèn rẽ tới khách sạn Song Nga thăm cụ Đôn và rất vui mừng khi thấy cụ đã khoẻ hẳn. Tuy nhiên, bác sĩ chưa cho phép cụ ra ngoài. Cụ bèn nhờ Huệ và Lan dẫn bà Minh đi thăm ngôi biệt thự hộ.
- Xin cụ cứ an tâm, chúng cháu sẽ đưa bà Minh đi.
Cụ Đôn trao chìa khoá cho hai cô và chiều hôm sau là chủ nhật, họ vội đưa bà Minh đi thăm ngôi biệt thự.
- Trông bề ngoài thì tôi đã thấy ưng ý, bà ta nói. Khu vườn rộng rãi rất thích hợp với lũ con trai của tôi. Cụ Đôn đã nói giá bao nhiêu, hả hai cô ?
- Thưa bác, cụ lấy hai chục ngàn một tháng ạ, Lan trả lời. Nhưng theo cháu biết thì trước kia cụ cho mướn cao hơn ạ.
Sau khi đã đi một vòng, bà Minh nhận thấy các căn phòng được sắp đặt một cách rất tiện lợi và thoải mái.
- Tôi thuận thuê căn nhà này, bà ta nói. Có lẽ tôi đã xem xét tất cả rồi thì phải.
- Thưa bác, không biết chị Huệ cháu chạy đâu rồi nhỉ ? Lan lẩm bẩm.
- Tôi vừa thấy cô ấy trong phòng sách đó mà.
Lan vội gọi to, nhưng không có tiếng trả lời. Cô gọi thêm lần nữa, nhưng cô chỉ nghe thấy tiếng của mình dội lại qua những dãy hành lang vắng lặng.
- Quái lạ ! Hay là cô ấy ra vườn, bà Minh thốt lên.
Hai người trở vào lục soát khắp căn nhà cũng không thấy Huệ đâu cả.
Màn đêm đã bắt đầu buông xuống. Vì nhà đèn chưa cho điện trở lại nên cuộc tìm kiếm không thể tiếp tục.
- Cháu không biết làm sao bây giờ, Lan lo lắng nói. Đến giờ phải về trường rồi, nhưng cháu không thể về một mình trước khi tìm thấy chị Huệ. Cháu lo ngại chị ấy gặp phải chuyện gì chẳng lành quá !
Bà Minh tìm cách an ủi Lan và quả quyết rằng thế nào rồi cũng tìm thấy Huệ. Có thể là cô ấy đã trở về trường trước rồi.
- Thưa bác, chị ấy không bao giờ đi mà không cho cháu hay trước, Lan nói.
Lúc này trong căn nhà tối đến nỗi bà Minh và Lan phải dò dẫm từng bước một. Có một điều họ chắc chắn là Huệ không có mặt trong nhà này. Bà Minh bàn với Lan :
- Hay chúng ta cứ về trường xem sao. Nếu không thấy, ta sẽ báo cảnh sát sau.
- Vâng ạ. Lan miễn cưỡng trả lời.
Cô khoá trái cửa lại rồi hai người bước ra xe hơi của bà Minh đậu giữa lối vào. Khi vừa mở cửa xe, Lan thấy Huệ đang nằm cuộn tròn trên nệm xe và ngủ li bì.
- Chị Huệ đây rồi ! Lan reo mừng. May quá !
- May thật ! Bà Minh thở phào nhẹ nhõm khi nhìn thấy cô gái đang ngủ trên xe.
- Chị Huệ ! Lan vừa gọi vừa lay nhẹ. Chị Huệ tỉnh dậy đi !
Nhưng Huệ không hề nhúc nhích.
- Cô ấy ngủ say quá, bà Minh nhận xét. Chắc cô ấy đợi lâu quá nên bị mệt.
Lan lay chị mạnh hơn, nhưng Huệ vẫn nằm yên không nhúc nhích.
- Quái lạ ! Chị ấy làm sao vậy ?
Cô bỗng rùng mình sợ hãi. Chưa bao giờ cô thấy Huệ ngủ như thế cả. Cúi xuống nghe hơi thở vẫn thấy điều hoà nên Lan thấy hơi yên dạ. Nhưng từ quần áo Huệ, toả ra một mùi hương là lạ.
- Để tôi thử gọi cô ấy xem sao, bà Minh đề nghị.
Bà ta lắc mạnh Huệ và lấy tay vỗ vào hai má của cô. Huệ cựa quậy và rên khe khẽ nhưng vẫn không mở mắt.
Lan vừa định nói là có lẽ Huệ như người bị đánh thuốc mê, nhưng cô ngừng lại kịp vì cô nghĩ không nên nói ra điều nhận xét đó trong lúc này.
- Thôi ta chẳng nên kêu cô ấy dậy trước khi về tới trường, bà Minh nói.
Khi xe về tới trường, Huệ đã tỉnh đôi chút, cô đứng dậy được và để hai người dìu vào phòng. Bà Minh nhận thấy Huệ không hề gì nên từ giã Lan.
Huệ nằm vật xuống giường và lại ngủ tiếp. Lan lo sợ nên thức suốt đêm để trông coi chị. Cô tự nghĩ chắc chị Huệ đã bị đánh thuốc mê. Nếu sáng mai chị ấy chưa khoẻ, cô sẽ mời cô y tá lên coi giùm.
Sáng hôm sau Huệ đã tỉnh hẳn. Khi ánh nắng chan hoà trong căn phòng, nàng ngồi dậy và ngáp mấy cái thật dài.
Lan vội chạy tới :
- Thế nào, chị Huệ !
- Lan đấy à ? Sao dậy sớm thế ? Huệ hỏi em bằng một giọng ngái ngủ, mấy giờ rồi ?
- Sáu giờ rưỡi. Đêm qua em không ngủ. Chị thấy trong người ra sao ?
Huệ chống khuỷu tay ngồi dậy và đưa mắt lờ đờ nhìn chung quanh phòng.
- Chị đã trải qua một giấc mơ khủng khiếp, cô nói. Chị ở trong nhà cụ Đôn, những con vật quái đản đuổi theo chị, chị có cảm tưởng như mình đang ngồi trên lưng ngựa gỗ và chị còn nói chuyện với một con ngựa vằn nữa !
- Thôi, chị dẹp giấc mơ ấy qua một bên đi. Chị thấy khoẻ chưa ?
- Khoẻ rồi, nhưng còn hơi nhức đầu. Có chuyện gì vậy Lan ? Sao em nhìn chị với đôi mắt kỳ dị vậy ?
- Thế chị không nhớ gì hay sao ?
- Về vấn đề gì kia chứ ? Huệ ngơ ngác hỏi.
- Về ngôi biệt thự của cụ Đôn đó.
- À phải, tụi mình đã đưa bà Minh tới đó… chị không nhớ là bà ta có chịu thuê hay không.
- Bà ta định dọn đến ở vào ngày kia, nhưng không phải là điều em muốn đề cập tới. Em lo cho chị quá.
- Em lo cho chị à ? Lo cái gì ?
- Thế chị không biết là chị đã ngủ cả 12 tiếng đồng hồ rồi sao ? Bà Minh và em đã tìm thấy chị trong lúc chị đang nằm ngủ ngon lành trong xe. Làm sao mà chị lại ra được đến đó ?
- Điều ấy thì chị không nhớ.
- Thế chị có nhớ gì về đoạn chót trước khi vào xe nằm ngủ không ?
- Để chị nghĩ xem đã. Ừ phải rồi, chị đợi em và bà Minh lâu quá nên chị đã lần bước đến một đầu nhà.
- Chỗ nào hả chị ?
- Chị không rõ nữa. Chị cảm thấy như đầu óc trống rỗng, không còn nhớ gì cả.
- Bây giờ thì em tin chắc rằng chị đã bị đánh thuốc mê rồi đó.
- Đánh thuốc mê à ? Huệ hỏi lại, mặt đượm vẻ nghi ngờ, vô lý quá. Chị chẳng gặp ai lúc đó cả. Tuy nhiên, chị thú thật rằng chị cảm thấy trong người là lạ.
- Chị có nếm phải thức ăn gì ở đấy không ? Như những viên thuốc chẳng hạn.
- Trời ơi, em tưởng chị ngu si đến thế sao ?
- Như vậy thì tại sao đã chứ ?
- Thật chị không hiểu gì hết, Huệ uể oải đáp. Mà chị cũng không muốn phải thắc mắc về điều đó, cô nói tiếp.
Hai ngày sau, trúng vào ngày nghỉ lễ, hai chị em trở lại ngôi biệt thự của cụ Đôn để giúp bà Minh dọn nhà đến.
Tới mười một giờ tất cả đồ đạc đã được sắp đặt đâu vào đó. Huệ và Lan giúp bà Minh sửa soạn buổi cơm trưa.
Cơm nước xong, bà Minh mở những thùng sách ra để xếp vào phòng sách. Bà nói :
- Từ lâu lắm chúng tôi mới có một căn phòng rộng rãi như thế này để xếp sách.
- Hai bác có nhiều sách quá, Huệ nhận xét sau khi đếm đủ 10 thùng lớn.
- Đến vài trăm cuốn chứ chẳng ít đâu ! Lan tiếp lời chị.
- Vâng, các cháu ở đây rất thích đọc sách. Ông nhà tôi thì rất ham công việc trồng tỉa nên ông luôn luôn mua những cuốn sách mới xuất bản về thảo mộc.
- Thưa bác, có cuốn nào nói về các thứ cỏ lạ không ạ ? Huệ hỏi.
- Hình như có. Cô thử tìm trong cái thùng số 8 xem. Chúng tôi xếp hầu hết những sách nói về thảo mộc trong đó.
Huệ bắt đầu lấy sách từ trong thùng ra, xem xét từng cuốn một. Lan lại giúp chị : Cô chợt hiểu tại sao chị cô bỗng chú ý đến những loại cỏ.
Sau khi đã lấy ra nửa thùng sách rồi, cô thấy một cuốn làm cô chú ý, mang đầu đề : “Những loại thảo mộc có thể dùng làm độc dược”.
- Hai cô tìm được cuốn nào vừa ý thì cứ mang về trường mà đọc, bà Minh đề nghị.
- Vâng ạ, cháu muốn mượn bác cuốn này vài hôm, Huệ đáp.
- Cô cứ lấy, bao giờ trả lại cũng được.
Hai chị em cám ơn bà ta và mang cuốn sách ra hành lang đọc. Cuốn sách có rất nhiều hình ảnh tô màu rất đẹp nên bốn đứa con đầu lòng của bà Minh cũng chạy lại xem.
- Em biết cây này nè ! Bình vừa nói vừa chỉ một trong những tấm hình. Đó là một cây rất độc, nếu ta ăn phải trái của nó thì ta sẽ đau nặng.
- Em có thấy cây đó trong vườn không ? Lan vội hỏi.
- Không ạ, nhưng còn có nhiều cây khác trong này mà em không biết tên.
- Bình à, bây giờ em có muốn dự một trò chơi này không ? Huệ hỏi.
- Trò chơi gì hả chị ?
- Chúng ta sẽ nhận diện các lá cây trong vườn này. Các em ra hái tất cả mọi thứ và mang vào đây cho chị.
- Vâng, thế thì vui lắm, Bình vội nói với đôi mắt sáng ngời.
Bọn trẻ vội tản mác ra bốn phía vườn để tìm kiếm.
- Các em nhớ đừng có nhai những cọng cỏ đấy nhé, Lan dặn dò lũ trẻ.
Trong chốc lát, bọn trẻ đã trở lại với đủ các loại cây cỏ trên tay. Có rất nhiều cây loại thông thường mà hai chị em nhận ra ngay. Nhưng vài loại Bình đem về mà hai cô không biết là gì. Vì trời đã xế chiều nên hai chị em phải trở về trường.
- Chị mang cuốn sách và những lá này đi, Huệ nói với bọn trẻ. Lần sau đến chị sẽ nói tất cả các tên cho các em nghe.
- Tụi em sẽ đi tìm thêm cỏ nữa, Bình vui vẻ đề nghị.
Về tới trường Huệ ngồi nghiên cứu cuốn sách đến hàng giờ. Cô dán những mẫu cây cỏ vào một cuốn sổ và ghi vài chữ chú thích bên dưới.
- Chị có tìm thấy thứ cây cỏ nào có thể làm cho người ta ngủ được không ? Lan hỏi.
- Chưa thấy, nhưng chắc phải lâu lắm chị mới xem hết quyển sách này được.
Lan rất mừng khi thấy chị cô phụ trách việc nhận diện các thứ cây cỏ độc vì cô phải dành những lúc rảnh rỗi để hoàn thành chiếc máy viết nhạc. Giữ đúng lời hứa, chú Định đã gửi cho cô nhiều lò xo rất mạnh. Lan bắt đầu ghép lại và nhận thấy những tiến bộ rõ rệt, nhưng chiếc máy vẫn chưa chạy.
- Chắc là có một chi tiết nhỏ mà mình chưa tìm ra, cô nói với vẻ lạc quan. Thế nào cũng có ngày ta thành công mà !

Chương 5
Một hôm, Lan và Huệ đang ngồi với Hằng, một cô bạn cùng lớp quê ở Di Linh. Chợt nhớ tới lời nói của cụ Đôn, Huệ hỏi Hằng :
- Bồ có nghe đến ai tên là Khứu Đắc Dzu ở vùng Di Linh không ?
- Có chứ, hắn ta có một trang trại ở cách nhà mình độ năm cây số. Công việc ở đó không được điều hoà cho lắm vì hắn ta luôn vắng nhà.
- Thế ai trông nom trại đó ? Lan hỏi.
- Bà mẹ hắn ta và vài người nữa. Thỉnh thoảng mình cũng có đạp xe đến thăm bà ta vì bà sống rất đơn độc.
- Thế bà ấy có một đầu bếp người tầu nào tên là Phoóng không ?
- Hình như không. Lần cuối cùng mình tới thì thấy một người Thượng phụ trách việc nấu ăn cho bọn công nhân trong trại.
- Có thể chú Phoóng mới được đem về đấy tuần trước thôi, Lan nói, và như vậy bồ không biết được.
- Có thể, Hằng gật gù. Mấy bồ cần tìm hiểu về người tầu ấy lắm sao ?
- Ừ, Huệ đáp ngay.
- Nếu vậy, mình sẽ đánh điện cho ba má hỏi xem sao.
- Nếu thế thì tốt quá ! Mình không biết làm sao để cám ơn bồ đấy, Lan xuýt xoa đáp. Bồ hỏi hộ hai bác xem anh em ông Dzu và chú Phoóng đã về đấy chưa nhé.
Sáng hôm sau Huệ và Lan mang điện tín ra Bưu điện gởi. Trong khi đón xe lam trở về trường, họ bỗng thấy bà Minh hớt hãi tiến về phía họ.
- Thưa bác có chuyện gì đấy ạ ? Lan vội hỏi.
- Tôi đi kiếm một tiệm thuốc Tây ! Bà đáp. Hai cô có biết tiệm nào gần đây không ?
- Thưa bác, ngay ở phía tay trái kia ạ. Nhưng bác mua thuốc cho ai ?
Bà Minh nghẹn ngào đáp :
- Thằng Vinh nhà tôi không biết nó làm sao mà cứ ngủ li bì không tài nào đánh thức nó dậy sáng nay được. Tôi lo quá.
Vừa nghe xong, hai cô đoán ngay là chứng bịnh của bé Vinh cũng y như của Huệ bữa trước. Họ bèn giải thích rằng giấc ngủ đó có thể do một loại thảo mộc gây ra và sau 12 tiếng nó sẽ qua.
- Thưa bác nhớ lại xem, Lan tiếp, chị Huệ cháu cũng đã bị ngủ như thế bữa trước và đã tỉnh sau một đêm đó ạ.
- Thế các cô nghĩ là thằng Vinh sẽ không sao cả chứ ?
- Vâng, cháu tin chắc như thế ! Lan cả quyết. Bác cứ để em nó ngủ yên, không sao đâu.
- Thật may quá ! Bà Minh thở ra nhẹ nhõm. Nhưng mà cái cây ấy thuộc loại nào, tên gì ?
- Thưa bác, tụi cháu cũng chưa rõ, Huệ thú nhận.
- Tụi cháu đang nghiên cứu về các thảo mộc có chất độc, Lan tiếp lời chị. Vì thế tụi cháu mới mượn cuốn sách của bác đó ạ.
- Thôi chào hai cô nhé, cám ơn nhiều.
- Vâng kính bác về ạ.
Về đến trường, hai chị em thấy Hằng đến tìm để cho xem lá thư mới nhận được.
- Thư của hai bác phải không ? Huệ hỏi.
- Phải, ba má đã viết thư thay vì đánh điện tín vì có rất nhiều điều phải nói. Mình muốn mời các bồ về nhà vào kỳ nghỉ tới nhân dịp sinh nhật của mình, các bồ nghĩ sao ?
- Về nhà Hằng à ? Coi bộ hơi khó đấy, vì tụi mình chỉ được nghỉ có một ngày thôi mà.
- Hai bồ chớ lo, mình đã xin phép bà Đốc rồi và bà đã chấp thuận cho tụi mình nghỉ một lèo từ thứ sáu đến thứ hai, tuyệt không ? Bây giờ chỉ còn xin phép cô Hạnh là được rồi.
- Điều ấy thì chắc chắn được, Huệ đáp. Hằng ơi ! Bồ tử tế quá !
- Bạn bè với nhau thì chuyện đó là thường. Hơn nữa hai bồ có thể tìm biết về anh em ông Dzu nữa chứ, tiện lắm.
- Ừ, thế hai bác có đề cập gì đến họ trong thư không ?
- Có, ba nói là hiện giờ họ đang có mặt ở nhà.
- Nếu thế thì có hy vọng tụi mình sẽ đưa vụ cô Yến Nhi bị mất tích ra ánh sáng đó, Lan reo lên. Đây cũng là lý do để cô Hạnh cho phép tụi mình đi với Hằng.
Quả nhiên, khi hai cô điện thoại xin phép cô Hạnh thì cô chấp thuận ngay. Tuy nhiên, còn một trở ngại duy nhất: bà Đốc đã loan tin là kỳ thi lục cá nguyệt sẽ bắt đầu vào tuần tới và bà không muốn cho nữ sinh nào bị điểm dưới trung bình được nghỉ thêm phép. Huệ và Lan không lo sợ cho chính mình mà lo cho Hằng vì cô này hơi yếu về một vài môn.
- Mình ngại sẽ thiếu điểm về môn Sử Ký, Hằng tâm sự với hai bạn. Nếu vì lỗi của mình mà ba đứa không đi được thì mình sẽ ân hận suốt đời !
- Hằng khỏi lo, tụi này sẽ giúp Hằng ôn lại bài, khó gì.
- Thế thì tuyệt quá ! Hai bồ biết không, cứ đến chỗ nào quan trọng nhất là mình quên mới khỉ chứ ! Nhưng mà mình không muốn làm phiền hai bồ đâu.
- Trái lại, tụi này rất vui khi giúp được Hằng, Huệ vội nói. Chúng mình bắt đầu ngay nhé ?
- Ở đây à ? Hằng ngập ngừng hỏi. Rồi mọi người sẽ thấy cái kém cỏi của Hằng thì sao ?
- Ta đến khu rừng nhỏ đằng sau trường, Lan đề nghị. Ở đó sẽ chẳng có ai làm rộn mình đâu.
Ba bạn gom góp những sách vở cần thiết và lẳng lặng đi ra khu rừng nhỏ. Từ cửa sổ phòng mình, Ly đã chứng kiến tất cả sự việc.
- Không hiểu chúng định làm trò gì mà bí mật thế kia ? Cô tự hỏi. Mình phải theo xem mới được.
Vô tình không biết là có người đang theo dõi, Huệ, Lan và Hằng chọn một chỗ tốt cạnh con lạch nhỏ để ngồi. Họ lần lượt đọc và bình luận các bài học. Ly núp mình sau một bụi cây gần đấy và không bỏ sót một câu nào. Cho đến lúc Huệ gấp cuốn sách Sử Ký lại, Ly mới biết là mình đã lầm to.
- Chúng chả có gì bí mật để nói với nhau cả ! Cô bất mãn tự nhủ. Làm mình mất bao nhiêu thời giờ vô ích !
Tức giận, cô vừa định bỏ đi thì một con rắn nước bò qua con đường trước mặt cô. Ly hốt hoảng la lên, làm ba người kia phát giác ra sự có mặt của cô ở đấy.
- Ủa, Ly ! Bồ cũng ra đây à ? Lan vờ ngạc nhiên hỏi.
- Tôi… tôi đang đi dạo. Cô gái lắp bắp. Tôi bị một con rắn lớn cuộn vào chân, ghê quá.
- Ly muốn nói đến con rắn nước nhỏ kia à ? Hằng vừa nói vừa chỉ con rắn nước đang nằm dưới một bụi cỏ.
- Tôi… tôi tưởng là nó lớn chứ…
- Thế thì mắt bồ quáng gà rồi đấy ! Huệ lạnh lùng nói. Nhưng bù lại thì bồ lại có đôi tai rất thính phải không ?
Nhờ sự giúp đỡ của chị em Huệ Lan, Hằng đạt được kết quả như ý muốn trong kỳ thi. Ly cũng gián tiếp được lợi, vì trong lúc cô nghe lén, Huệ và Lan đã ôn cho cô tất cả những vấn đề quan trọng trong bài.
- Bây giờ thì chẳng còn gì trở ngại nữa, Lan vui mừng nói khi điểm được tuyên bố.
- Thôi, tụi mình bắt đầu sửa soạn va li là vừa. Huệ đề nghị.
Trong khi họ lựa chọn quần áo phải mang theo, Lan tiếc rẻ nhìn chiếc máy của mình đang nằm trên bàn.
- Không biết mình có nên… Cô bắt đầu nói.
- Em không định mang theo cái đó chứ ? Huệ vội hỏi.
- Không đâu, chị đừng lo ! Lan vừa cười vừa nói. Nhưng mà thú thật khi xa nó, em thấy… thiếu thốn.

***
Khởi hành từ Đà Lạt bằng xe đò lúc tám giờ sáng, ba bạn đã tới Di Linh khoảng hơn một giờ sau. Họ thuê một chiếc xe Lam để về nông trại của ông bà Chất, song thân của Hằng. Bà Chất rất mến bọn trẻ nên tiếp đãi Huệ và Lan rất nồng hậu. Bà để cho ba chị em được tự do dùng thời giờ trong mấy ngày nghỉ.
- Mình đề nghị mai đi thăm trại của ông Dzu, các bồ nghĩ sao ? Hằng hỏi đôi bạn.
- Đồng ý, Lan háo hức đáp.
- Tụi mình có thể cắm trại luôn thể, Huệ tiếp.
Sáng hôm sau, ba cô sửa soạn lương thực và dùng xe đạp để đi đến trại ông Dzu.
- Tụi mình đi con đường mòn nhé ? Xa 10 cây số thôi, Hằng đề nghị.
- Đường nào cũng được, tụi mình có gấp đâu, Huệ đáp.
Họ vừa đi vừa ngắm cảnh, thỉnh thoảng đậu lại để chụp vài tấm hình và hái hoa rừng, thật là thần tiên.
Đến 11 giờ, họ dừng lại để dùng bữa trưa dưới một gốc thông già.
Đến một nơi hoang vắng, trên một ngọn đồi, Hằng đưa tay chỉ một lùm cây ở phía Đông :
- Hai bồ thấy cái lùm cây đó chứ ? Trại của ông Dzu đấy.
- Chỗ này hoang vu quá nhỉ, Lan nhận xét.
- Mấy gian nhà đã cũ, Hằng nói. Bà cụ Thân đã già nên không thể chăm nom tu sửa và hai anh em ông Dzu thì không hề để ý đến việc ấy.
- Bà Thân có bao nhiêu người con vậy ? Huệ hỏi.
- Bà ta chả có đứa con ruột nào hết. Ba mình nói là ông Dzu và cô Yến Nhi chỉ là con nuôi thôi.
- Vậy hả ? Lan ngạc nhiên thốt lên.
- Nếu anh em lão ta có mặt ở đây, chắc chắn là tụi mình sẽ được tiếp đãi “rất nồng hậu” rồi, Huệ nói. Tốt hơn là chúng ta hãy cẩn thận khi lại gần đấy, Hằng đề nghị. Như thế, họ sẽ chỉ trông thấy mình khi mình tiến lại sát căn nhà mà thôi.
Họ dựng xe đạp dưới mấy gốc cây, và đi bộ về phía trại. Cách độ vài chục thước, Huệ bỗng dừng lại, Lan và Hằng kkhông hiểu gì cũng dừng theo.
Ngay lúc đó, họ trông thấy một bà cụ già, với khuôn mặt nhăn nheo và đôi mắt đẫm lệ, từ trong nhà bước ra và chậm rãi tiến về phía khu rừng.
- Bà Thân đó phải không ? Huệ hỏi bạn.
- Đúng, Hằng đáp. Thấy bà cụ đang xách cái xô đựng nước, cô tiếp :
- Có lẽ bà ta đi múc nước ở suối đấy.
- Bà ta có thấy được tụi mình không ? Lan hỏi.
- Ta cứ đứng khuất ở đây thì chắc không sao.
- Kìa ! Có một người đàn ông đi ra theo bà cụ. Hình như là ông Dzu thì phải ! Huệ nói.
- Chính hắn rồi ! Lan đáp. Vậy thì hai anh em lão đều có mặt tại đây rồi ! Nếu chúng ta đừng để lộ hình tích, chắc chúng ta sẽ biết được nhiều chuyện hay đó.
Núp sau một bụi cây, ba cô gái thấy tên Dzu tiến gần đến bà cụ. Hắn ta nói huyên thuyên, nhưng họ không nghe được rõ. Bà cụ buồn rầu lắc đầu, hai dòng lệ chảy dài trên má nhăn nheo.
- Bà cụ có vẻ thất vọng ! Lan nhận xét. Không biết có chuyện gì xảy ra thế nhỉ ?
Bà Thân và tên Dzu tiến đến con suối chảy rất gần chỗ ba cô núp. Bà ta múc đầy xô nước rồi ngồi bệt xuống đất, úp mặt vào hai tay.
- Đừng nói gì thêm nữa Dzu à ! Bà buồn bã nói. Ở cương vị một người mẹ, thì mẹ thấy cuộc đời của mẹ đã là một thất bại chua cay. Mẹ đã cố gắng dạy dỗ hai con, ba mẹ đã thương yêu hai con như con ruột, nhưng hai con đã làm cho mẹ thất vọng đau đớn.
- Tại sao mẹ lại có thể nói vậy được ? Mẹ chả hiểu gì cả.
- Mẹ hiểu chứ, hiểu rõ hơn là con tưởng… Ba mẹ đã cố gắng làm việc để nuôi dưỡng và dạy dỗ hai con cho nên người lương thiện, nào ngờ…
- Mẹ nói như là con và em Yến Nhi là bọn sát nhân không bằng.
- Mẹ kkhông biết… mẹ không biết nữa, bà cụ chán nản lập lại. Hai con làm những điều gì mà mẹ không thể tưởng tượng được, và nã tiền luôn canh…
- Mẹ à, mẹ đã sống suốt đời ở ruộng rẫy. Mẹ chẳng biết vật giá thời buổi này ra sao cả.
- Nhưng mà hai con đã ăn tiêu quá đỗi.
- Em Yến Nhi là gái thì nó cũng phải trưng diện một tí chứ. Còn con cũng phải giữ gìn thể diện trước mặt bạn bè chứ lùi xùi làm sao được.
- Giữ thể diện ! Mẹ bảo cho con biết : con sẽ sung sướng hơn nhiều nếu con chịu sống một cuộc đời bình dị ở nông trại này.
- Chúng con không nhìn cuộc đời theo góc cạnh của mẹ, Dzu chán ngán nói.
Bà cụ thở dài uể oải đứng dậy. Tên Dzu xách lấy xô nước rồi hai người quay về nhà.
- Tụi mình đến không đúng lúc rồi, Lan nói khi bóng hai người đã khuất trong nhà. Họ sắp ăn cơm trưa thì phải.
- Ta nên đợi sau bữa ăn, Huệ đề nghị. Bồ không có gì gấp chứ Hằng ?
- Không sao đâu, mình đã dành trọn ngày hôm nay để đưa mấy bồ đi cơ mà.
Ba cô ra ngồi bên dòng suối để chờ đợi. Họ phỏng ước cho bữa ăn cơm trưa của gia đình Dzu là 45 phút. Nhưng mới được nửa giờ, cánh cửa ngôi nhà bỗng xịch mở. Dzu và Yến nhi xuất hiện. Họ đang khiêng một chiếc rương nhỏ.
Huệ và Lan đứng bật dậy. Họ nhận thấy hai người kia có vẻ vội vàng như sợ có người khác bắt gặp.
- Chị đoán thử xem trong cái rương có gì ? Lan hỏi Huệ.
- Đó chính là điều mà chị đang muốn biết.
Họ thấy hai anh em cô Yến Nhi tiến về phía một căn nhà nhỏ nằm sau trại.
- Để Hằng và em đứng đây trông xe, Lan đề nghị, chị Huệ lại gần xem thử đi. Em có cảm tưởng như sắp có chuyện gì xảy ra đó.
Huệ bèn rẽ lùm cây và lẳng lặng tiến về phía sau căn nhà gỗ. Cô lẻn đến gần cửa sổ và ghé mắt nhìn vào.
Hai anh em lão Dzu đã mở nắp rương ra. Trước con mắt kinh ngạc của Huệ, họ lần lượt lôi ra một số châu báu và chia ra làm nhiều túi nhỏ. Tất cả gồm có kim cương, hồng ngọc và bích ngọc.
- Thật là cả một gia tài vĩ đại, Huệ thầm nghĩ. Những thứ này không thể là của họ được.
Cô cho rằng anh em lão Dzu là bọn buôn lậu nữ trang. Sự việc này giải thích được tại sao cô Yến Nhi muốn trốn qua hàng rào quan thuế bằng cách sắp đặt một vụ chết đuối giả tạo. Rồi họ đã đem món hàng về giấu tại đây để đợi cơ hội đem bán số nữ trang một cách an toàn.
Bỗng Huệ nghe thấy tiếng động cơ xe hơi từ đàng xa tiến lại.
- Mình phải lỉnh đi nơi khác mới được, cô gái tự nhủ. Còn đứng đây, chắc sẽ bị bắt quả tang.
Khi nghe thấy tiếng xe hơi, anh em lão Dzu vội thu xếp món hàng lại.
- Chắc chắn là họ đang chờ đợi ai, Huệ vừa nghĩ vừa quay trở lại chỗ Hằng và Lan đang đợi.
Cô thuật lại cho hai bạn nghe rồi kết luận :
- Nếu chú Định có mặt ở đây ngay lúc này, chắc chú biết phải xử trí ra sao.
Chiếc xe hơi dừng lại gần căn nhà gỗ. Người lái xe cao lớn, tuổi độ tứ tuần. Khi hắn xuống xe, Lan thốt lên :
- Kìa, tên bắt cóc chú Phoóng ! Thật là quá bất ngờ !
- Vấn đề lại càng thêm bí mật ! Huệ nói tiếp.
Hai anh em lão Dzu xuất hiện trước căn nhà gỗ và niềm nở mời người kia vào.
- Bây giờ, tất cả đều được sáng tỏ như ban ngày ! Huệ nói. Họ đã sửa soạn món hàng sẵn để Tư Xuân đến chở đi.
- Thế tụi mình rút lui chứ ? Lan đề nghị.
- Còn số nữ trang kia thì sao ? Huệ hỏi.
- Chúng ta đâu có thể nán lại lâu hơn nữa, Lan quả quyết, vì sẽ bị lộ tung tích. Chúng ta nên trở về nhà và đi báo nhà chức trách là hơn hết.
- Em nói phải, Huệ tán đồng sau một lát suy nghĩ. Ba đứa tụi mình chẳng có thể làm gì được chúng đâu.
Ba người bèn nhảy lên xe đạp và phóng về trại ông bà Chất. Nghe xong câu chuyện, ông Chất vội gọi điện thoại đến Ty Cảnh Sát và xin cho người đến khám xét ngay nông trại của anh em lão Dzu.
- Tôi sẽ đích thân đến đó, viên Cảnh Sát Trưởng nói. Câu chuyện này có vẻ khá quan trọng đấy.
Nhưng trước khi khởi hành, ông lại nhận được một tin cấp báo là một bọn ăn trộm ngựa đã lộ vết tích trong khu rừng cách đấy mười mấy cây số. Do đó, ông nghĩ rằng cần phải đến bắt quả tang bọn trộm ngựa hơn là thực hiện một cuộc khám xét mà chưa chắc đã mang lại kết quả gì. Ông bèn kéo nhân viên đi truy nã bọn trộm ngựa đã.
Trong khi đó, tại nông trại ông bà Chất, Huệ và Lan cứ đinh ninh rằng Cảnh Sát đang lục soát nông trại của anh em lão Dzu, nên họ yên trí giúp Hằng sửa soạn bữa tiệc sinh nhật chiều hôm ấy.

Chương 6
Gia đình ông bà Chất giao thiệp rộng trong vùng này và được rất nhiều ngưòi mến chuộng. Buổi sinh nhật của Hằng hôm đó rất đông khách đến dự, cả già lẫn trẻ. Từ sáu giờ chiều, mọi người đã đến đông đủ. Ban nhạc trỗi lên và trong nhà cũng như ngoài sân vang lên những tiếng cười nói vui vẻ.
Đến tám giờ tối, trong khi bữa tiệc còn đang nhộn nhịp, khách nghe thấy tiếng xe hơi đậu lại ttrước cửa.
- Chắc là ông Cảnh Sát Trưởng tới, Hằng nói.
- Sao tay ông ta lại bị băng bó thế kia ? Ông Chất hỏi tiếp. Hình như ông bị thương.
Huệ và Lan vội chạy ra đón, các quan khách đều túa ra ngoài xem chuyện chi.
- Ông ta chắc đã đụng độ với gia đình lão Dzu, Lan nói với chị.
Viên cảnh sát trưởng nghe thế vội lắc đầu :
- Tôi chưa đến nông trại ông Dzu, vì tôi đã phải rượt theo bọn trộm ngựa nhưng chúng đã trốn thoát và bắn tôi bị thương. Tôi cần thêm lính để truy kích bọn chúng.
Nói xong, ông vào nhà gọi nhờ điện thoại về Ty để kêu thêm lính. Sau đó, ông trở ra xe và mất hút trong đêm tối. Huệ và Lan lẳng lặng đứng nhìn. Họ đang lo lắng cho những sự việc xảy ra tại nông trại lão Dzu. Họ đã trông cậy vào viên cảnh sát trưởng đến để lục soát, nhưng tới bây giờ ông ta vẫn chưa làm gì cả vì người ta còn phải chú trọng vào vụ trộm ngựa.
- Bây giờ chỉ còn cách là đợi đến mai, Huệ thất vọng nói. Thật là xui xẻo !
Sáng hôm sau Huệ và Lan dậy sớm để sửa soạn đi đến nông trại của anh em lão Dzu. Khi nhìn thấy khu đất trước căn nhà gỗ trống trơn, Lan kêu lên thất vọng :
- Chiếc xe đi rồi chị Huệ ơi !
- Thế ta làm gì bây giờ ?
- Thì mình cứ đến bấm chuông và hỏi bà cụ xem lão Tư Xuân đi đâu.
Huệ gật đầu đồng ý và hai người dắt xe đạp vào sân trại, dựng vào một cây cột bằng gỗ. Bỗng bà cụ Thân xuất hiện trước cửa và rất ngạc nhiên thấy hai thiếu nữ lạ đang đứng trong sân nhà mình. Nhưng sau khi hai cô tự giới thiệu là người quen của gia đình ông bà Chất thì bà cụ tỏ vẻ yên lòng.
- Thưa cụ, chúng cháu đang đi dạo trong vùng. Lan nói tiếp.
- Hôm nay cụ ở nhà có một mình thôi ạ ? Huệ lơ đãng hỏi.
- Vâng, bà cụ buồn rầu đáp. Hai đứa con tôi đã đi với gã đàn ông tới đây bằng xe hơi hôm qua rồi. Tôi đã bảo chúng nên đề phòng tên ấy nhưng nào chúng có chịu nghe tôi.
- Thưa cụ, thế họ có nói với cụ là họ đi đâu không ạ ? Lan vội hỏi.
- Ồ, con Nhi và thằng Dzu chẳng nói gì với tôi cả. Tôi lo cho chúng đến mất ăn mất ngủ và đang phát ốm vì chúng.
- Thưa cụ, bây giờ cụ vào nhà nằm nghỉ, Lan đề nghị. Cụ nên yên tâm, chứ cụ lo như vậy cũng chẳng ích gì.
Hai chị em đỡ bà cụ nằm xuống và cùng trở ra ngoài.
- Đây là cơ hội duy nhất để tụi mình vào lục soát căn nhà gỗ, Huệ bảo Lan.
- Em chắc số nữ trang đã bị tẩu tán rồi.
- Mặc kệ, dù chúng có mang cái kho tàng ấy đi thì tụi mình cứ thử tìm, may ra có những dấu vết để báo cảnh sát truy tầm chúng.
Hai cô vội tiến về phía căn nhà gỗ, nhưng vừa đi được vài bước, Huệ bỗng đẩy em vào một bụi cây :
- Lan, trông kìa !
Ngay lúc đó, có hai người đàn ông lạ mặt vừa bước ra khỏi khu rừng nhỏ. Mặt mũi họ lem luốc, quần áo rách mướp, chứng tỏ họ đã trốn trong rừng suốt đêm qua. Hai gã lo lắng đảo mắt nhìn quanh, rồi lặng lẽ tiến về phía căn nhà gỗ và chui vào bên trong.
- Chị Huệ, chắc họ muốn vào ẩn trong đó, Lan thì thầm. Em đoán hai tên này là ở trong bọn trộm ngựa đã thoát khỏi tay cảnh sát đêm qua.
Sau một lúc thảo luận, Huệ và Lan rón rén bước về phía căn nhà gỗ và ghé mắt nhìn qua cửa sổ. Hai tên lạ mặt đang nói chuyện với nhau :
- Ở đây không chắc đâu Tư à, một tên nói. Nếu lính đến thì khó lòng chạy thoát.
- Chúng ta phải tìm phương tiện để chuồn đến Hang bây giờ, tên kia nói. Mày hãy theo tao.
Trước khi hai chị em có thời giờ can thiệp, hai tên kia đã chạy ra sân và nhảy lên hai chiếc xe đạp đang dựng ở đó.
- Đứng lại ! Xe của tụi tui mà ! Lan hét to.
Hai tên kia chẳng chút gì nao núng, vừa gò lưng đạp vừa quay lưng lại cười ngạo nghễ.
- Chết rồi ! Làm sao về nhà Hằng được bây giờ ? Huệ lo lắng hỏi.
Trong khi hai cô đang bàn tính chuyện trở về thì họ nghe thấy tiếng xe hơi chạy tới. Viên cảnh sát trưởng và nhân viên công lực xuất hiện. Ông tiến lại gần hai cô và hỏi :
- Chúng tôi đang đuổi theo bọn trộm ngựa tới đây. Hai cô có trông thấy chúng lẩn quất quanh vùng này không ?
- Thưa có ạ ! Lan vội đáp. Chúng vừa ăn cướp xe đạp của chúng cháu để chạy trốn.
- Chúng đi về phía nào ?
- Về phía tay phải ạ, chúng bàn nhau đến Hang và mới đi được lối năm phút.
- Lên đường ! Viên cảnh sát trưởng ra lệnh, rồi quay sang hai cô ông nói : Cám ơn hai cô nhé, lát nữa khi đi ngang trại ông bà Chất tôi sẽ kêu người đến đón hai cô về.
Độ nửa giờ sau, ông Chất đích thân lái xe lại đón hai chị em về nhà. Huệ và lan bèn thuật cho ông biết anh em lão Dzu đã biến mất từ chiều hôm qua.
- Vậy phải báo tin cho ông Định ngay, ông Chất khuyên.
- Thưa bác, chúng cháu cũng nghĩ thế.
Chiều hôm ấy, hai chị em đánh điện cho ông Định, để báo tin cho ông biết rằng cô Yến Nhi hiện còn sống, nhưng lại vừa mất tích một lần nữa.
Sau đó, Hằng lái xe chở Huệ và Lan đến nhà bà mẹ lão Dzu và mang cho cụ một ít súp và thức ăn mà bà Chất gửi cho cụ.
- Trong khi bồ vào thăm cụ ấy, Huệ đề nghị, Lan và mình sẽ đi lục soát quanh nhà. Tụi này hy vọng sẽ tìm được vài dấu vết quan trọng.
- Được rồi, hai bồ cứ tự nhiên, Hằng đáp, mình sẽ ngồi nghỉ mệt trong khi chờ đợi hai bồ làm công tác.
Huệ và Lan vội vào căn nhà gỗ trước. Căn phòng trống trải và bụi bặm, mạng nhện phủ đầy trần nhà.
Như hai chị em đã đoán trước, những túi nữ trang đã biến mất.
- Sao mà dơ dáy thế ! Lan vừa nói vừa phủi mạng nhện dính vào tay áo. Thật là thiên đàng của loài nhện !
Cô lơ đãng nhìn đám mạng nhện ở góc căn phòng, chỗ anh em lão Dzu đã ngồi đếm nữ trang bữa trước. Một mảnh giấy con dính vào đám mạng nhện ấy.
- Cái gì thế này ? Cô kêu lên. Một vết tích. Không chừng !
Cô với lấy mảnh giấy và tiến ra gần cửa sổ để đọc.
- Chị Huệ ơi ! Lại mà xem ! Kỳ lạ thật !
Huệ chạy lại và nhìn qua vai em. Mảnh giấy có mang dấu hiệu của tàu Hải Âu ! Bên dưới là danh sách nữ trang:
65 viên hột xoàn.
5 viên hồng ngọc.
6 viên bích ngọc.
40 viên bạch ngọc.
Hai cô đoán là chữ viết của cô Yến Nhi. Nhưng vì mảnh giấy đã bị xé nên có thể là danh sách đó không đầy đủ.
- Đây là một chứng tích rất quan hệ, Lan nói. Điều này chứng tỏ là Yến Nhi ở trên thuyền Hải Âu của chú Định, cô ấy nắm giữ số nữ trang đó.
- Chắc vậy, Huệ tán đồng. Không còn nghi ngờ gì nữa, hai anh em cô ta đúng là một bọn buôn lậu rồi còn gì nữa.
- Những châu báu mà họ đã mang về đây chắc đáng giá cả một gia tài vĩ đại, chứ không phải chơi đâu ! Huệ lẩm bẩm. Tụi mình thực là những thám tử tài ba, để cho bọn chúng trốn thoát.
- Đâu phải lỗi tại mình. Chỉ vì mình không gặp may mắn đó thôi. Dù sao đi nữa thì lão Dzu và cô Yến Nhi cũng sẽ trở về thăm mẹ chứ. Lúc đó hai người sẽ bị bắt.
- Chưa chắc là họ về, Lan ạ. Xem chừng họ chẳng thiết gì đến bà cụ cả.
- Dù sao, mảnh giấy này cũng là một tài liệu quí giá cho cơ quan cảnh sát. Để em giữ cho.
Nói đoạn, Lan cẩn thận gập mảnh giấy bỏ vào túi. Sau khi xem xét thêm một vòng nữa không thấy gì khác, hai chị em trở lên nhà trên. Hằng đứng đợi họ ngoài cửa :
- Mình thấy lo cho bà cụ quá, cô thì thầm.
- Bà cụ đau nặng lắm sao ? Huệ hỏi.
- Ừ, bà cụ lên cơn sốt và không ngớt gọi tên Dzu và Yến Nhi. Mình sợ bà ấy lên cơn mê sảng quá.
Hai chị em Huệ Lan bước theo Hằng vào phòng bà cụ. Họ thấy bà cụ có vẻ mệt hơn ngày hôm qua.
- Sao thằng Dzu và con Yến Nhi lại có thể đối xử với tôi tệ bạc như vậy ? Bà lảm nhảm. Tôi đã săn sóc cho chúng từ tấm bé và bây giờ đến lượt tôi già cả, cần sự trông nom của chúng thì chúng lại nỡ bỏ tôi mà đi.
- Cụ nghĩ là họ sẽ không bao giờ trở về đây nữa ạ ? Lan vừa đặt lại cái gối cho ngay ngắn vừa hỏi.
- Nào tôi có biết, bà cụ rên rỉ đáp. Chúng nó đi mà không nói với tôi một lời nào !
- Có lẽ hai người chỉ đi một vài ngày thôi cụ ạ, Huệ nói để trấn an bà Thân.
Hai chị em cô thấy rất tội nghiệp cho bà cụ nhưng họ nghĩ thầm rằng bà ta không nên gặp lại hai đứa con thì hơn. Vừa lúc đó, họ nghe có tiếng kêu cửa.
- Để em mở cho, Lan nhanh nhẩu đề nghị.
- Chắc có người đến thăm tôi đấy ! Bà cụ tươi nét mặt nói.
Người khách lạ tự giới thiệu là Các, chuyên viên về hột xoàn và nữ trang. Ông khách liền được dẫn vào, khi thấy bà cụ Thân đang nằm, ông vội nói :
- Bà cụ bị đau à ?
- Vâng ạ, cụ bị mệt, Huệ đáp.
- Hay để lúc khác tôi đến xem nữ trang thì tiện hơn.
- Nữ trang nào ? Bà cụ tròn mắt ngạc nhiên hỏi.
- Thưa cụ, mấy bữa trước có người cho tôi biết rằng ở đây muốn kiếm một chuyên viên về hột xoàn, nữ trang các loại, để đánh giá một số châu báu mà cụ muốn bán.
- Chắc ông lầm rồi, tôi không có châu báu nữ trang gì hết.
- Lạ quá, thế ở đây có phải là nông trại ông Dzu không ạ ? Khách ngạc nhiên hỏi.
- Vâng, đúng là ở đây, nhưng tôi không được biết số châu báu đó.
- Tuy nhiên, rõ ràng người ta…
Tới đây, ông Các vội im bặt, vì ông nhác thấy Lan ra hiệu cho ông đừng nói nữa.
- Thưa ông, chắc ông đi xa tới khát nước lắm phải không ạ ? Cô vội hỏi. Ông muốn dùng nước gì để tôi vào lấy.
- Tôi…
- Ông nên uống nước suối đi, mát và ngọt lắm, Huệ nói tiếp. Để chúng tôi dẫn ông đi.
- Vâng… vâng… Ông Các lắp bắp sau khi đã hiểu rằng hai cô muốn kéo ông ra ngoài.
Để Hằng ngồi lại coi bà cụ, Huệ Lan dẫn ông Các ra khỏi nhà một quãng.
- Các cô có điều gì muốn nói với tôi đó ?
- Thưa, về vụ nữ trang đó, Lan đáp. Chúng tôi không muốn cho bà cụ nghe vì bà không hề biết sự thật. Chúng tôi chắc chắn là ông Dzu và cô Yến Nhi, hai người con nuôi của bà cụ, làm nghề buôn lậu.
Rồi cô thuật lại cho ông Các nghe tất cả những gì Huệ đã tai nghe mắt thấy trong căn nhà gỗ. Đoạn cô cho ông ta xem mảnh giấy nhặt được ban nãy.
- Thật là kinh khủng ! Ông Các thốt lên sau khi đọc xong mảnh giấy. Ông Dzu đã liên lạc với hãng tôi làm, và danh sách này giống y cái danh sách mà ông ấy đã gởi cho chúng tôi.
Ông Các hứa với hai cô rằng ông sẽ cố gắng tìm ra bọn buôn lậu và sẽ thông tin cho hai cô biết ngay nếu ông lượm được tài liệu gì mới lạ.
Sau đó, cả ba người quay trở vào nhà. Qua câu chuyện, Hằng được biết ông ta sẽ ra nghỉ ở ngoài quán, chiều mới về Đàlạt. Cô bèn ngỏ ý mời ông ta đến dùng cơm trưa tại nông trại của ba má cô.
- Cám ơn nhã ý của cô lắm, ông đáp. Thật ra thì dùng cơm một mình cũng hơi buồn.
Một lúc sau, cả bốn người ra xe để về nông trại của ông bà Chất.

Chương 7
Chiều hôm đó, Dũng và Tiến, hai người anh của Hằng, cùng với ba cô dùng xe hơi đi du ngoạn các thắng cảnh vùng Di Linh.
Trên đường về, Lan đề nghị :
- Anh Dũng, tụi mình về qua ngả nông trại ông Dzu đi.
- Được, chúng ta chỉ phải đi xa thêm một cây số nữa thôi. Có lẽ cô sợ bà cụ Thân đau nặng hơn ?
- Lan thấy lo cho cụ, vì cụ có một mình. Nhất là lại có bọn trộm ngựa lẩn quẩn ở vùng ấy.
Một lát sau, chiếc xe hơi tiến gần đến nông trại lão Dzu. Họ thấy có ánh đèn toả ra từ một cửa sổ.
- Mình có cảm tưởng là không có gì xảy ra. Hằng nhận xét.
- Lan ơi, cánh cửa căn nhà gỗ mở kìa ! Huệ kêu lên.
- Ừ nhỉ, lạ thật ! Hồi sáng tụi mình đã đóng lại rồi cơ mà ? Lan đáp.
- Đúng vậy, và chị không tin rằng bà cụ đủ sức ra tận đấy để đóng cửa.
- Tụi mình vào xem chuyện gì đi, Dũng đề nghị.
Cậu chạy xe vào sân đỗ lại để mọi người xuống. Lan và Huệ dẫn đầu, cả bọn rảo bước đến căn nhà gỗ. Tiến rọi đèn bấm quanh phòng.
- Lan à, Huệ nhận xét, hình như đã có người vào đây lục soát vì các miếng gỗ thùng xếp ở chân tường bị tung toé ra kìa. Rồi các mạng nhện cũng rơi xuống bừa bãi.
- Điều đó thì có gì lạ ? Dũng hỏi.
- Tụi này đã kiếm được trong đó một mảnh giấy vô cùng quan trọng, Huệ đáp.
- Vậy thì chắc có người đã vào đây lục lọi.
- Dù sao, chúng cũng chẳng tìm thấy được gì đâu, điều đó chắc chắn, Huệ tiếp. Anh em lão Dzu thì đã tẩu tán nữ trang đi nơi khác rồi, còn tụi này thì lượm được mảnh giấy.
Sau đó họ khép cửa lại và quay ra xe.
- Bây giờ có nên vào thăm bà cụ không nhỉ, Hằng thắc mắc.
- Trời tối quá rồi, tụi mình gõ cửa có thể làm cho bà cụ hoảng sợ. Lan đáp.
- Im, hình như có tiếng ai kêu. Tiến đứng dừng lại nói.
- Có chắc không ? Hằng đáp, hay là một con chim hoặc một con thú rừng nó kêu.
Cô chưa dứt lời thì tiếng động nọ lại vang lên. Lần này thì tất cả mọi người đều nghe thấy.
- Hay là bà cụ Thân, Lan nói.
Cả bọn đều tiến về phía căn nhà. Đèn bên trong bật sáng nhưng không thấy tiếng ai qua lại trong phòng. Dũng bèn gõ cửa, tiếng rên rỉ vang lên to hơn.
- Chắc có chuyện gì bất thường ! Huệ lo lắng nói. Có lẽ bà cụ ốm nặng.
Dũng vặn quả nắm nhưng cửa bị khoá. Cậu bèn bảo Hằng :
- Em mở thử cửa sổ xem nào !
- Cửa sổ cũng đóng.
- Vậy mình đành phải đập bể cửa kính, Lan đề nghị. Trước sau gì chúng ta cũng phải vào xem chuyện gì chứ.
Tiến bèn đi kiếm một hòn đá, đập vỡ cửa kính rồi cậu chui vào nhà trước để mở cửa. Vừa vào tới trong nhà, Huệ và Lan đứng sững lại, kinh ngạc. Đồ đạc vất bừa bãi, bàn ghế tủ đổ lỏng chỏng, các ngăn kéo bị dốc ra. Vài tấm ván lót sàn cũng bị nạy lên.
- Chuyện gì thế này ? Hằng sợ hãi hỏi. Cụ Thân đâu rồi ?
Một tiếng rên đau đớn đáp lại câu hỏi của cô. Bà cụ đang nằm sóng soài dưới đất, hai tay bị sây sát và đầu bị một vết thương.
Họ đỡ bà cụ nằm lên giường. Bà cụ nhăn nhó kêu lên một tiếng nữa.
- Ai đã hành hạ cụ như vậy ? Huệ hỏi. Cụ hãy kể cho chúng cháu nghe đầu đuôi đi.
- Hai tên lạ mặt… bà cụ thều thào nói, chúng đã tra khảo tôi vì… tôi không có nữ trang !
Rồi tấm thân ốm yếu của bà cụ run lên, đầu nghẹo về một bên, và bà cụ nằm lịm đi bất động.
- Bà cụ chết rồi hay sao ? Hằng sợ hãi hỏi. Trời ơi !
Huệ cúi xuống bà cụ đáp :
- Không, bà cụ ngủ. Chắc cụ đã trải qua những giây phút kinh hoàng và bây giờ cụ lả người đi đó thôi.
Hằng tức giận nói :
- Thật không ngờ lại có những kẻ tàn ác đến thế ! Hành hạ một bà cụ già yếu không có gì để tự vệ !
- Chắc bọn này đã biết rõ là anh em lão Dzu hiện đang giữ số nữ trang kia. Huệ nói.
- Có lẽ bây giờ nên mời bác sĩ tới coi cho bà cụ, Tiến đề nghị. Anh Dũng ơi, chúng ta đi mời đi.
- Phải đấy ! Huệ tán thành. Và các anh cũng nên mời một cô y tá nữa, vì tôi sợ bà cụ không thể đi lại được ngay.
Sau khi Dũng và Tiến đi rồi, Huệ bắc nước lên đun và dấp nhẹ lên mặt và hai bàn tay bà cụ. Bỗng nhiên bà cụ mở mắt nói :
- Khát nước quá, làm ơn cho tôi ly nước.
Hằng vội chạy xuống bếp rót đầy một ly. Sau khi bà cụ đã uống vài ngụm nước, Huệ khẽ hỏi :
- Cụ có thể kể cho các cháu nghe câu chuyện ra sao không ạ ? Hai tên đã đánh đập cụ là ai vậy ?
- Tôi chưa bao giờ gặp chúng cả.
- Thưa cụ có phải hai tên vận quần áo rách rưới, lấm bê lấm bết và đi xe đạp phải không ạ ? Lan hỏi.
- Đúng thế !
- Vậy là bọn trộm ngựa rồi. Họ đã nói năng gì với cụ ạ ? Lan hỏi.
- Khi tôi vừa mở cửa thì chúng xông ngay vào nhà và bắt đưa số nữ trang. Tôi bảo chẳng làm gì có, thì chúng không chịu và tra khảo bắt tôi phải cung khai nơi cất giấu !
- Cháu tin chắc rằng thế nào chúng cũng sẽ bị bắt và làm tội xứng đáng. Hằng quả quyết.
- Tôi nói thế nào chúng cũng không tin. Chúng mở hết các tủ và nậy cả sàn nhà lên để tìm kiếm. Rồi chúng đẩy tôi ngã xuống đất, làm tôi đau sụn xương không thể nào đứng dậy nổi.
- Thôi, cụ nên quên vụ này đi và nằm nghỉ cho lại sức, Huệ khuyên.
- Hai vụ xảy ra trong một ngày, thật là quá sức chịu đựng của tôi.
Nói xong, bà cụ thút thít khóc, làm mọi người rất bồi hồi xúc động.
- Thôi, cụ hãy bình tĩnh lại, Lan an ủi.
Khi vào bếp lấy ly nước, cô dọn dẹp lại nhà cửa cho đỡ bừa bãi vì đã có Hằng và Huệ trông nom bà cụ. Dọn xong phòng khách, cô sang phòng bên cạnh. Tại đây, giấy má và sách vở vứt bừa bãi dưới đất. Khi cúi xuống nhặt một tập thư lên, cô trông thấy một hộp đen nhỏ, nắp bật ra và chất bột trăng trắng vung vãi ra đất. Lan nhặt chiếc hộp lên và tự hỏi không biết là bột gì. Cô mơ hồ nhận ra một mùi hương quen quen.
- Ta phải quét đi mới được.
Nói rồi, cô đi vào bếp lấy chổi. Nhưng chưa được mười bước, cô thấy choáng váng đầu óc. Cô vội bám lấy thành ghế và cảm thấy buồn ngủ, đôi mí mắt nặng trĩu xuống.
- Chị Huệ ơi ! Cô gọi bằng một giọng yếu ớt. Chị Huệ !
Nhưng cô không đứng vững được nữa, cô ngã gục vào một chiếc ghế bành gần đấy và chìm đắm vào một giấc ngủ triền miên.
Nghe tiếng gọi, Huệ vội chạy vào, thấy Lan đang nằm bất động trên ghế.
- Lan gọi chị hả ? Có chuyện gì vậy ? Huệ vừa hỏi vừa lay nhẹ em mình.
Nhưng Lan vẫn không nhúc nhích. Huệ thấy rằng giấc ngủ của Lan không phải là một giấc ngủ tự nhiên.
- Lúc này Lan nó ở tình trạng giống hệt như mình bị trúng độc hôm nọ ở nhà cụ Đôn. Huệ lo lắng nghĩ thầm.
Đảo mắt nhìn quanh, cô nhận ngay thấy chiếc hộp đen và chất bột trắng bị đổ ra đất. Một mùi hương là lạ phảng phất trong phòng. Lập tức, cô hiểu ngay là chính mùi hương này đã làm cho Lan ngủ say như thế và chính chất bột này là đầu mối cái vụ bí mật mà hai chị em đang để công khám phá.
Huệ vội chạy vào bếp, lấy một chiếc khăn nhúng nước bịt lên mũi và miệng mình rồi trở lên phòng hốt chất bột vào trong hộp.
- Mình phải giữ cái này để mang đi phân tích mới được ! Cô vừa nghĩ vừa lấy một chiếc bao nilon gói cẩn thận chiếc hộp bỏ vào túi áo.
Cô mở rộng cửa sổ cho gió lùa vào rồi lại lay em một lần nữa nhưng vô hiệu. Cô đành để Lan tiếp tục ngủ.
Một giờ sau, Dũng và Tiến trở về với một vị y sĩ và một cô y tá. Tiếng xe hơi làm cho Lan tỉnh dậy. Cô ngáp dài và vươn mình ngồi dậy.
- Ơ kìa ! Ta ở đâu thế này ? Cô vừa ngơ ngác nhìn chung quanh vừa hỏi.
- Em không nhớ gì sao ? Huệ đáp.
- Hình như tụi mình ở nông trại lão Dzu thì phải.
- Hiện giờ chúng ta còn đang ở đó. Ban nãy em vào đây làm gì vậy ?
- Em thu xếp lại căn phòng cho gọn ghẽ.
- Em có thấy một chiếc hộp nhỏ đựng bột trắng dưới đất không ?
- À có, chị nói em mới nhớ ra. Em vừa định quét nó đi thì thấy buồn ngủ quá, em bèn nằm xuống ghế ngủ luôn.
- Em ngủ được gần hai tiếng đồng hồ rồi đó. Bây giờ em thấy trong người thế nào ?
- Đầu óc em còn hơi quay cuồng.
- Đúng là chị cũng có cảm tưởng đó khi chị đã ngủ trong nhà cụ Đôn bữa trước. Lan này, chị chắc thứ bột đó đã làm em ngủ.
- Thật vậy sao ?
- Chứ còn gì nữa.
- Nhưng tại sao nó lại ở đây ?
- Chị đoán rằng anh em lão Dzu vẫn giữ nó trong người và khi đi vội vã họ đã quên không mang theo.
- Chị nói có lý. Vì chất bột ngủ này rất cần thiết cho bọn họ nếu chẳng may họ bị cảnh sát bắt.
- Lẽ dĩ nhiên. Chỉ cần tung ra một nắm bột là các nhân viên công lực bị đưa vào cõi mộng, trong khi chúng có thể cao chạy xa bay một cách dễ dàng.
Sau khi khám bệnh và chích thuốc cho bà cụ, vị y sĩ kêu chị em Huệ Lan sang phòng bên và nói :
- Những vết thương của bà cụ sẽ chóng lành. Tuy nhiên, bà cụ đã bị xúc động quá mạnh, bà cần phải tĩnh dưỡng và tránh sự ưu phiền thì mới mau bình phục. Y khoa không thể làm khác hơn nữa được.
- Vâng ạ, Lan đáp. Khổ một nỗi là bà cụ cứ thắc mắc hoài về hai người con nuôi của bà.
- Nếu có thể thì các cô nên báo cho họ biết là tốt nhất, vị y sĩ đề nghị.
Huệ lắc đầu ;
- Thưa bác sĩ, không được đâu ạ. Dù có kiếm ra họ, chưa chắc gì họ đã chịu về.
- Thế thì cũng khó giải quyết thật.
Vì đã có cô y tá ở lại chăm sóc cho bà cụ nên hai chị em Huệ Lan và Hằng có thể trở về. Hằng hứa với bà cụ là má cô sẽ kiếm hộ bà một người giúp việc cẩn thận ngoan ngoãn để trông nom nhà cửa cho bà.
Khi cả bọn về đến nhà thì đã gần chín giờ đêm. Trong nhà đèn thắp sáng choang.
Vừa xuống xe, họ nhận thấy một đám nhân viên công lực đang tụ tập trước sân.
- Hình như người ta đã bắt được hai tên trộm ngựa thì phải, Dũng vừa nói vừa chạy tới xem.
Quả nhiên hai tên trộm đang bị trói tay sau lưng và mấy cảnh sát viên sắp đẩy chúng lên xe để giải về Ty. Ông Chất cho biết là hai tên này đã bị bao vây tại một khe núi và bị bắt sống sau khi nổ vài phát súng. Hai chiếc xe đạp cũng đã lấy lại được rồi.
- Thưa bác, cháu muốn hỏi họ vài câu trước khi họ bị giải đi, Huệ đề nghị.
- Ừ được, cháu muốn hỏi gì thì hỏi đi.
Lan và Huệ bèn thuật lại những sự việc đã xảy ra tại nông trại bà cụ Thân cho ông Chất và mọi người nghe. Theo ý các cô thì hai tên trộm này chính là hai tên lạ mặt đã vào khảo của và hành hạ cụ Thân.
- Không, không ! Tụi tôi chưa bao giờ tới đó hết, chúng chối dài.
- Nhưng ít nhất mấy anh cũng đã đến đấy một lần vì chính mấy anh đã cướp xe đạp của chúng tôi chứ ai ? Lan đáp. Các anh khó chối lắm vì bà cụ Thân sẽ nhận diện ra các anh một cách dễ dàng.
- Tụi tôi còn thấy các anh vào trong căn nhà gỗ nữa, Huệ nghiêm giọng nói. Chắc các anh đã khám phá ra số nữ trang đó phải không ?
- Tụi tôi chưa bao giờ được nghe nói đến số nữ trang nữ chiếc gì hết.
- Phải, tôi biết là các anh đã không tìm thấy, Huệ chậm rãi tiếp. Vì nó đang ở trong tay những người còn quỷ quyệt hơn các anh nhiều.
- Cô muốn nói đến tên Tư Xuân đầu đảng của bọn Dzu hả ?
- Anh biết hắn sao ? Huệ hỏi.
- Tôi có nghe hắn nói chuyện với anh em lão Dzu, tên trộm đành thú nhận một cách miễn cưỡng.
- Như vậy là anh đã biết những gì liên quan đến số nữ trang kia phải không ? Lan hỏi.
- Chúng tôi cầu cho thằng đó phải vào tù, tên trộm càu nhàu.
- Điều đó thì chắc chắn rồi, Huệ đáp. Nếu tìm ra tên Tư Xuân, cảnh sát sẽ tóm liền, anh đừng lo.
- Tôi muốn phát giác cho cô biết một điều này, tên trộm bí hiểm nói, nhưng với điều kiện là phải thả tôi ra.
- Tôi sẵn sàng nghe anh nói, Huệ gật gù, nhưng còn điều kiện kia không phải thuộc quyền tôi.
- Tôi không biết chắc hắn đi đâu, mà chỉ nghe hình như hắn đi về… đi về…
Hai cô hồi hộp lắng tai nghe, hy vọng tên trộm sẽ nói hết câu.
- Tụi tôi nghe hắn nói, sẽ về Đàlạt, khu Lam Sơn gì đó…

Chương 8
Khi nghe tên trộm nói là Tư Xuân về khu Lam Sơn Đàlạt, Huệ và Lan mừng thầm trong bụng, nhưng không hề để lộ ra ngoài. Hai chị em sẽ còn cơ hội theo dõi hắn và bọn đồng loã là Dzu và Yến Nhi.
Tới đây, cảnh sát giải hai tên trộm về sở.
Sáng hôm sau, hai chị em Huệ Lan và Hằng rời nông trại với bao luyến tiếc ! Mấy ngày nghỉ đã trôi qua quá mau, bây giờ phải nghĩ đến việc trở về trường.
- Mình không còn lo ngại gì nữa từ lúc biết là Tư Xuân về khu Lam Sơn, Lan tươi cười nói. Tuy nhiên, mình vẫn tiếc ngẩn ngơ khi phải rời nông trại của hai bác.
- Thật chưa bao giờ tụi này lại trải qua những ngày nghỉ ly kỳ đến thế ! Huệ tiếp. Chỉ trong vài ngày mà tụi mình đã làm được bao nhiêu công chuyện !
- Thưa má, con hy vọng là bà cụ Thân sẽ chóng bình phục, Hằng quay sang nói với bà Chất. Tội nghiệp cho bà ta quá !
- Để mẹ kiếm gấp cho bà ấy một người giúp việc, bà Chất hứa. Mẹ sẽ sang thăm bà ấy luôn.
Ông Chất lái xe tiễn ba cô ra bến xe đò để trở về Đàlạt.
Sau khi chào ông một lần cuối, Lan nói :
- Thưa bác, chúng cháu sẽ không bao giờ quên được những ngày ở nông trại và sự tiếp đãi quá nồng hậu của hai bác.

***
Trong mấy ngày nghỉ ở nông trại, Lan vẫn nghĩ đến chiếc máy của mình và cô tự hỏi nó có được an toàn hay không ? Vì vậy, cô rất vui khi biết được rằng trong lúc cô vắng mặt, Phượng đã cất giữ hộ và trao trả y nguyên lại cho cô.
- May mà con Ly không biết mình giấu ở đâu ! Phượng cười tâm sự.
Lan dùng tất cả thời giờ rảnh rỗi để hoàn thành chiếc máy. Cô có mua thêm bánh xe để cơ phận được hoàn bị hơn.
Rồi, vào một buổi chiều đẹp trời, cô dạo bản nhạc “Hè về” trên phím đàn và rất đỗi vui mừng nhận thấy những nốt nhạc đã in lên cuộn giấy một cách rõ ràng, ngoại trừ một vài chỗ nhầm lẫn.
- A ! Được rồi, chị Huệ ơi ! Cô reo mừng. Cái máy của em chạy rồi này !
Chẳng mấy chốc, tất cả trường đều biết tin này. Mọi người đều thán phục tài sáng chế của Lan.
Riêng chỉ có Ly và Mai là không hài lòng chút nào về sự thành công đó.
- Ồ, cái máy của Lan chẳng ra quái gì cả ! Ly đanh đá nói. Nó phạm cả trăm lỗi !
- Bồ cứ yên chí ! Tôi biết lý do tại sao rồi. Tôi sẽ điều chỉnh lại và chỉ trong vài ngày nữa là nó sẽ đi đến chỗ tuyệt diệu cho coi.
- Có lẽ tôi cũng sẽ sửa vài chỗ, Ly lẩm bẩm, nhưng cô nói quá nhỏ không ai nghe thấy.
Sáng hôm sau, khi xuống lấy thư, Ly suy tính kế hoạch để hại Lan, khi cô vừa định trở về phòng thì bà giám thị bảo cô :
- Ly à, chị bảo dùm Huệ và Lan xuống ký nhận một phong thư bảo đảm nhé.
Cô vội lên phòng báo tin cho hai chị em. Vì không nghi ngờ ác ý của Ly nên hai cô vội xuống ngay và quên không khoá cửa phòng.
- Hay quá, cơ hội tốt đã đến với ta ! Ly tự nhủ.
Ly bước tới gần cái bàn để chiếc máy, do dự một lát và cuối cùng đẩy chiếc máy rơi xuống đất. Vài sợi dây đứt tung và một bộ phận bị sút ra, lăn trên mặt sàn.
Ly kêu lên một tiếng nhỏ, và tái mặt lại. Cô không có ý định phá chiếc máy nặng nề đến thế. Nhưng cô lại tự an ủi ngay :
- Chả sao cả, cóc cần ! Cô vừa bước ra khỏi phòng vừa nghĩ. Mặc xác con Lan ! Nó cứ tưởng như mình “siêu” lắm !
Hai chị em Huệ và Lan lấy thư xong trở về phòng. Khi mở cửa ra, Lan sửng sốt kêu lên. Cái máy yêu quí của cô đang nằm lăn lóc dưới đất.
- Trời ơi ! Coi cái máy của em này chị Huệ !
- Khổ quá, Lan ơi ! Sao em lại lơ đãng thế ? Em đã để nó quá gần mép bàn phải không ?
- Đâu có ! Lan cải chính. Em đã cẩn thận đặt nó ở giữa bàn cơ mà.
- Nhưng có lẽ không đến nỗi nào đâu Lan ạ ! Huệ an ủi.
Sau khi xem xét kỹ, hai cô nhận thấy không những chiếc máy hết chạy mà nó còn bị hư nặng.
- Nhiều dây bị đứt, các bánh xe bị lệch lạc và một bộ phận bị mất ! Lan than thở. Ai mà lại có thể làm điều thất nhân thất đức như thế này ?
- Thế em cho rằng người ta đã cố ý phá hoại hay sao ? Huệ hỏi.
- Em tin chắc như thế. Tự nó không thể nào rơi xuống đất được.
- Hồi nãy Ly nó đến báo tin mình có thư. Không hiểu có phải nó… nó…
- Nó đã ghen ghét với em từ khi em bắt đầu chế chiếc máy này ! Lan tức giận nói. Em phải tố cáo nó với bà Đốc mới được !
- Nhưng tụi mình có bằng cớ đâu ? Huệ cãi.
- Mặc dầu thế, em vẫn tin chắc chính nó là thủ phạm, chứ không còn ai vào đây nữa.
- Ở địa vị em, chị sẽ không nói gì hết. Em có thể sửa chữa chiếc máy lại được không ?
- Có thể được, nhưng chắc cũng lâu ngày mới xong, Lan buồn bã đáp. Thế mà em cứ định biểu diễn nó vào ngày 14 tới, là ngày đại hoà tấu của trường kia đấy.
- Thôi để chị sẽ cố gắng giúp em, Huệ đề nghị.
- Nhưng trước khi bắt tay vào việc, em cần phải ra khu chợ Hoà Bình mua vài món phụ tùng đã.
- Ừ, thì em kê vào giấy đi, rồi tụi mình đi ngay bây giờ. Lúc về, nhân tiện tụi mình sẽ ra tiệm giặt của chú Lầu hỏi xem có tin tức gì của chú Phoóng chưa. Chắc em còn nhớ trước đây mình đã ngẫu nhiên hỏi chú Lầu và biết rằng hai người là bạn với nhau.
Hai chị em lẳng lặng xin phép bà Đốc và nhảy lên xe lam để ra chợ Hoà Bình. Mua xong, họ ghé qua tiệm giặt của chú Lầu và biết rằng đã tìm ra vết tích của chú Phoóng. Chú Lầu hẹn ngày mai nếu hai cô trở lại, chú sẽ cho kêu chú Phoóng tới gặp hai cô.
- Tụi mình cũng phải đến thăm bà Minh nữa, Huệ bảo em. Mong rằng bà ta đừng có gặp điều gì rắc rối nữa.
- À, có lẽ mình nên mang theo cái hộp đen nhỏ đến cho bà ta xem chị ạ, Lan đề nghị. Em muốn đưa đi phân tích chất bột ấy xem có phải chính nó làm cho ta buồn ngủ không.
- Thì em cũng có thể tự thí nghiệm lấy được mà ! Huệ ranh mãnh đáp.
- Thôi, cho em xin đi ! Nếu em muốn sửa chiếc máy cho kịp ngày, thì làm sao mà ngủ như vậy được ?
Về đến trường, hai chị em vội mang chiếc máy ra sửa. May thay ! Sự thiệt hại cũng không đến nỗi quá nghiêm trọng. Tuy vậy, cũng phải mất nhiều tiếng đồng hồ để thay những bộ phận bị sai lệch hay bị mất. Huệ và Lan làm việc suốt tối hôm ấy. Hai cô khoá chặt cửa phòng lại, ai kêu cũng chẳng thèm lên tiếng.
Khi đèn nhà trường đã tắt được vài phút, họ vặn nốt mấy con vít và Lan vui mừng nhận thấy chiếc máy bây giờ chạy còn tốt hơn cả lúc trước nữa.
- Lạ quá chị Huệ ơi ! Lan kêu lên sung sướng. Con Ly không chủ tâm mà nó đã giúp em một việc hữu ích thật bất ngờ !
- Lần này em phải đi xin bằng sáng chế gấp, trước khi có những điều bất trắc có thể xảy ra, Huệ khuyên.
- Vâng, ngày mai em sẽ mang máy xuống trình ông bà Đốc và nhờ ông xin hộ em một bằng sáng chế.
- Ý kiến của em hay đó.
Sáng hôm sau, khi Lan ở phòng ông bà Đốc ra, Huệ vội hỏi :
- Thế nào, ông bà bảo sao ?
- Ông bà thấy sáng kiến của em rất hay. Ông đã ngợi khen và hứa sẽ xin cho em một bằng sáng chế. Khi nào có nó trong tay, em mới đem máy ra biểu diễn cho mọi người coi.
- Lan à, chị rất hãnh diện về em đó !
- Trời ơi, nếu không có chị khuyến khích và giúp đỡ em thì chắc đến Tết Congo cũng chưa xong được.
Ngày hôm nay chắc bận rộn lắm vì nhà trường tổ chức buổi đại hoà tấu ca nhạc. Lan và Huệ đều ở trong ban hợp ca. Sau khi tập dượt suốt buổi, họ chạy ngay tới tiệm giặt ủi của chú Lầu như đã hẹn.
- Tụi mình còn nhiều việc phải làm quá đi mất, không còn nghỉ ngơi được một chút nào nữa ! Lan thở dài nói. Trong đầu em lúc này chỉ toàn là nhạc, bài học và máy móc…
- Lại còn chuyện buôn lậu của bọn Dzu, thuốc ngủ và ba Lầu nữa chứ, Huệ tiếp.
Hai cô tới tiệm giặt trễ mất vài phút. Chú Phoóng đã đứng đó từ bao giờ và đang đi bách bộ với vẻ bồn chồn.
- Ngộ tưởng mấy cô hổng có tới chớ ! Chú lên tiếng khi thấy hai cô.
Trông diện mạo chú thật thiểu não, chú gầy đi nhiều, mặt mũi bơ phờ và quần áo rách tả tơi.
- Chuyện gì đã xảy ra vậy chú Phoóng ? Lan hỏi. Chú cứ kể hết sự thật đi. Có phải Tư Xuân đã bắt cóc chú bữa nọ đó không ?
- Phải. Chú Phoóng đáp. Tư Xuân “ló lem” tôi đi thật xa, “lồi” cột cái “pàn tay” tôi lại, “lồi” bỏ tui bị “lói” cái bụng. May phước sau một ngày tôi trốn “lược” về “lây”.
- Chú có biết tại sao bọn chúng làm vậy không ? Huệ hỏi.
- Chắc cô Yến Nhi và ông Dzu mướn “ló” nhốt tôi ló. Tôi “piết nhiều” quá mà !
- Chú muốn nói đến cái vụ buôn lậu của họ hả ?
Chú Phoóng lo ngại nhìn Lan :
- Tôi hổng biết cái chi về “puôn” lậu hết ! Tôi hổng “piết” chi hết.
- Thế chú có bao giờ thấy cô Yến Nhi có một thùng đựng nữ trang châu báu không ?
- Cô Yến Nhi có cái xâu hạt “póng” nhưng hổng có quí báu cái gì.
- Không phải, tôi muốn nói đến những đồ châu ngọc chưa làm thành nữ trang cơ, Lan cắt nghĩa. Những viên hồng ngọc này, bích ngọc này, hột xoàn này, hãy còn để nguyên hạt chứ chưa có xâu thành chuỗi hoặc chưa nhận vào vòng, nhẫn, bông tai.
Chú Phoóng ngần ngừ và có vẻ sợ sệt khi sắp muốn tiết lộ những gì chú biết.
- Tụi tui là bạn mà, chú đừng ngại, Huệ chậm rãi nói.
- Ờ, tui có thấy nữ trang ở nhà, lúc cô Yến Nhi mới “li” chơi tầu thủy về. Ông Dzu ổng “lộc” ác lắm, ổng tưởng tôi “li lói” với ông cò nên cho Tư Xuân “pắt” tôi để hai người chạy “li” xa đó.
- Chú gặp Tư Xuân lần đầu hồi nào vậy ? Lan hỏi.
Chú Phoóng im bặt liếc nhìn chú Lầu như hỏi ý kiến.
- Nị kể hết đi, chú Lầu khuyên bạn sau vài giây im lặng. Mấy cô là “pạn” mà, sẽ giúp nị với ngộ mà.
Lan lại gặng hỏi thêm. Cuối cùng, chú Phoóng mới thú nhận cái điều mà hai cô đã nghi ngờ từ lâu. Tư Xuân đã lo giúp hai người khách trú này vào Việt Nam không giấy tờ. Mặc dù họ đã nạp cho hắn một số tiền khá lớn, hắn vẫn không vừa lòng và thỉnh thoảng hắn lại đến làm tiền thêm.
- Tư Xuân làm như vậy với nhiều người đồng hương của tôi lắm. Mấy cô hổng nói với ai chớ ?
Thấy Huệ và Lan chưa trả lời, mối lo âu thoáng hiện trên nét mặt chú Phoóng.
- Mấy cô hứa “li” chớ ! Chú năn nỉ. Đừng làm cho ngộ vô cái nhà tù nhá.
- Không, không, hai chú sẽ không bị bỏ tù đâu, Huệ trấn an, nhưng có thể bị trục xuất khỏi Việt Nam vì không có giấy tờ đàng hoàng.
- Trời ơi ! Ngộ hổng muốn về Tầu lâu ! Ngộ muốn ở “lây” hà ! Chú Phoóng buồn bã nói.
- Tụi tôi sẽ cố giúp hai chú. Nhưng tụi tôi thấy hai chú không thể nào tiếp tục sống như vậy được : vừa bị tên Tư Xuân làm tiền, vừa lo sợ bị bắt.
- Mà “piết” làm sao hả mấy cô ?
Trên con đường trở về trường, hai chị em bàn tán rất lâu về vụ này. Họ thấy tội nghiệp cho hai người khách trú. Tuy nhiên hai người này đã vi phạm luật lệ, đó là một điều rất khó nghĩ cho hai cô.
- Nếu tụi mình không nói gì hết thì Tư Xuân sẽ tiếp tục khai thác họ, Lan lưỡng lự nói. Nhưng nếu mình nói ra thì rất có thể họ bị đuổi về nước. Thật khó mà tìm được một biện pháp ổn thoả.
- Ta phải hỏi ý kiến một vị nào lớn tuổi mới được.
- Hay tụi mình hỏi ông bà Đốc ?
- Hay lắm ! Tụi mình sẽ đi gặp ngay ông bà khi về tới trường.
- Em hy vọng rằng mọi việc sẽ ổn, Lan thở dài nói. Em bắt đầu thấy lo rồi đấy, tất cả những vấn đề này quả thật là rắc rối.
- Đúng vậy, Huệ đáp. Không những thế, hồi nãy mình lại khám phá ra nhiều điều lạ nên chị có cảm tưởng rằng chúng ta sắp đạt tới mục tiêu rồi đó.

Chương 9
Về tới trường, hai chị em lập tức đến văn phòng bà Đốc. Nhưng cô thư ký cho biết ông bà Đốc đang bận rộn với việc sửa soạn buổi dạ hội nên không thể tiếp ai lúc này được.
- Sáng mai hai em trở lại tiện hơn, cô thư ký hẹn.
- Vâng, nhờ cô trình với ông bà Đốc sáng mai 9 giờ tụi em sẽ lại.
Hai chị em Huệ Lan phải lo nhiều vấn đề nên không nghĩ gì đến buổi hoà tấu cả. May thay họ đã thuộc lòng vai trò nên không lo sợ gì cả.
- Em hy vọng là mọi việc sẽ tiến hành đẹp đẽ tối nay, Lan vừa mặc áo vừa nói. Nhưng em vẫn không thể tin con Ly được.
- Em không tin như vậy là phải, sau khi nó đã phá cái máy của em như thế, Huệ đáp. Em biết không, hình như bà Đốc có ý nghi ngờ cho nó.
- Bà có phương pháp riêng để khám phá ra sự thật. Nhưng dù sao con Ly cũng không được hát tối nay.
- Hình như trước đó nó muốn xin trình diễn đơn ca một bài thì phải, Huệ nói.
- Và đến phút chót người ta đã cử một người khác.
- Lạ nhỉ ! Nhưng chị biết rằng bà Đốc không bao giờ quyết định điều gì mà không có lý do chính đáng.
- Con Ly nó nói là nếu tối nay nó không được hát là lỗi tại chị em mình.
- Chị biết. Vì vậy mà chị sợ nó còn cho tụi mình một vố gì nữa đây.
- Em không thấy còn cơ hội nào để nó làm hại mình được cả. Cái máy của em thì đã được để nơi an toàn rồi, vì bà Đốc cất dùm em nơi văn phòng.
- Vậy thì tụi mình chẳng còn điều gì phải lo ngại hết.
Hai cô vừa ăn vận xong thì Phượng tới báo tin bà Đốc kêu.
- Trời ơi, hai bồ đẹp quá ! Cứ như tiên giáng thế ấy, Phượng tấm tắc khen. Bà Đốc muốn gặp hai bồ ngay tức khắc.
- Vậy là bà vui lòng tiếp tụi mình ngay bây giờ hay sao ? Huệ ngạc nhiên hỏi. Nhưng sắp đến giờ khai mạc rồi cơ mà !
- Hình như có khách tới thăm hai bồ thì phải, Phượng giải thích. Mình có thấy một ông cao lớn có vẻ quí phái với bộ ria đen, đang đứng nói chuyện với bà Đốc.
- Tụi mình đâu có quen ai giống ông ấy, chị Huệ nhỉ ? Lan ngạc nhiên hỏi.
- Không, không rõ là ai cả.
- Thì mấy bồ cứ xuống là khắc biết chứ gì ! Phượng giục.
Khi vào tới văn phòng, hai chị em rất ngạc nhiên khi thấy ông Các đang đứng cùng một ông khách lạ. Sau đó hai cô được ông Các giới thiệu đó là ông Phan Nhật, một nhà thám tử trứ danh. Ông Các nói tiếp :
- Ông Phan Nhật hiện đang điều tra về vụ một chiếc vương miện bị mất trộm ở Tân Gia Ba. Tôi dẫn ông tới đây để bàn về chuyện anh em lão Dzu và tên Tư Xuân. Tôi nghĩ là hai cô có thể cho ông biết những điều mà hai cô khám phá ra được.
- Thưa ông, thật là một vinh dự cho chúng tôi nếu được cộng tác với nhà thám tử, Lan vừa trả lời vừa lo lắng nhìn chiếc đồng hồ trên tường.
- Mong rằng chúng tôi không làm rộn hai cô, ông Các nói khi nhận ra hai cô đang mặc áo dạ hội.
- Thưa ông, tối nay nhà trường tổ chức buổi đại hội hoà tấu, Huệ đáp. Chị em chúng tôi ở trong thành phần diễn viên, và hội sẽ khai mạc trong mười phút nữa.
- Vậy là chúng tôi đến không đúng lúc rồi. Nếu bà Đốc cho phép, chúng tôi sẽ ngồi đợi đến khi mãn cuộc vậy.
- Nhưng chương trình sẽ kéo dài tới hai tiếng đồng hồ cơ ạ, Huệ đáp.
Lan bèn đề nghị mời cả hai ông vào dự khán để giết thời giờ. Bà Đốc rất vui lòng chấp thuận và hai chị em đưa khách vào. Sau khi tìm được chỗ ngồi cho hai ông khách Huệ và Lan xin lỗi để vào hậu trường.
Hai cô chỉ kịp đứng vào chỗ mình trong ban hợp ca trước khi màn được kéo lên. Những màn trình diễn đều được hoàn hảo. Một bản đơn ca do Hằng trình bày đã được khán giả hoan hô nhiệt liệt. Vì được yêu cầu bis, bis, Hằng đã hát thêm một bài ngoại quốc lời Việt mà hai chị em Huệ Lan cũng thuộc lòng. Theo một dấu hiệu của Hằng, hai cô đã phụ hoạ rất nghệ thuật và màn này đã thành công rực rỡ.
Đáng lẽ buổi đại hoà tấu chấm dứt vào lúc mười giờ, nhưng vì khán giả kêu bis nhiều quá nên đã phải kéo dài thêm. Lúc màn hạ xuống lần chót thì đã gần 11 giờ khuya. Hai chị em Huệ Lan vội chạy đi kiếm ông Các và nhà thám tử.
- Xin lỗi hai ông đã phải đợi quá lâu ! Huệ nói.
- Không có ! Buổi trình diễn hay quá. Chúng tôi đã say sưa theo dõi và quên hết cả giờ giấc.
Trước khi họ rời khỏi phòng, bà Đốc cũng lại nói chuyện với hai ông khách.
- Tôi không dè lại lâu thế ! Bà Đốc nói. Tôi rất tiếc phải làm quí vị thất vọng nhưng giờ này muộn quá rồi, các ông có thể trở lại vào sáng mai không ạ ?
- Vâng, chúng tôi sẽ cố thu xếp để lưu lại một ngày.
- Nếu vậy, sáng mai các ông nên trở lại sớm. nếu cần tôi sẽ cho hai em này nghỉ học giờ đầu.
Sau đó, mọi người đều thoả thuận sáng mai sẽ gặp nhau lúc 8 giờ tại phòng khách nhà trường.
- May quá chị Huệ ơi ! Lan nói sau khi khách ra về.
- Em muốn nói là tụi mình sẽ được nghỉ giờ đầu ?
- Chính vậy, Lan thú nhận. Từ sáng tới giờ tụi mình quá bận rộn nên em quên làm bài cho sáng mai rồi. nếu cuộc thảo luận với nhà thám tử kéo dài hết buổi thì càng may cho em lắm.

***
Sáng hôm sau, đúng 8 giờ ông Các và ông Phan Nhật đều có mặt tại phòng khách nhà trường. Huệ và Lan đã kéo dài cuộc đàm thoại đến quá 9 giờ một cách dễ dàng vì họ có biết bao nhiêu điều quan trọng để nói.
Sau khi kể lại tất cả những gì họ biết về anh em tên Dzu và chỗ cất giấu số nữ trang, họ đề cập đến chú Phoóng và chú Lầu một cách thận trọng. Khi ông Phan Nhật đã hứa với hai cô rằng các đương sự sẽ không bị bắt bớ nếu họ không làm điều gì quấy, hai cô bèn nói thêm rằng hai cô rất nghi ngờ tên Tư Xuân đã làm tiền hai người khách trú nhiều lần.
- Nếu vậy, tôi sẽ đến gặp chú Lầu lập tức, nhà thám tử nói. Hai cô vui lòng dẫn tôi đến tiệm giặt ủi chứ ?
- Vâng, nếu bà Đốc cho phép chúng tôi ra khỏi trường vào giờ này ạ.
Khi bà Đốc đã biết rõ tự sự, bà liền cho phép hai cô nghỉ học cả buổi sáng hôm đó. Họ thuê taxi đến cửa tiệm chú Lầu. Vừa bước xuống xe, Huệ và Lan đã nhận thấy cửa tiệm có vẻ vắng lặng. Các cửa đều đóng im ỉm và một tấm bảng mới sơn đong đưa theo gió trước cửa tiệm :
“ Xin mời khách hàng đến lấy quần áo tại tiệm chú Sồi ở số 15 đường Duy Tân “
- Điều này chứng tỏ là chú Lầu đã trốn mất và không để lại địa chỉ, ông Phan Nhật lạnh lùng nói.
- Vâng, có lẽ, Lan tiu nghỉu công nhận.
- Hay là chú ấy sợ chúng tôi đi báo nhà chức trách về vụ không có giấy tờ, Huệ thêm.
- Hoặc giả tên Tư Xuân đã trở về đây, Lan nói. Chú Phoóng và chú Lầu rất sợ hắn ta.
Ông Phan Nhật ghi địa chỉ của tiệm giặt mới nhưng ông tuyên bố là có đi tới đó cũng bằng vô ích.
- Tôi nghĩ nên lại thăm cụ Đôn hơn, ông nói tiếp. Nếu hai cô vui lòng bớt thêm chút thời giờ thì xin đưa chúng tôi đến khách sạn Song Nga.
Hai cô nhận lời và đưa hai ông khách đến giới thiệu với cụ Đôn. Nhưng nhà thám tử cũng bị thất vọng vì ông cụ không biết gì thêm về anh em tên Dzu.
- Tôi muốn đến thăm bà Minh và xem xét ngôi biệt thự, nhà thám tử đề nghị. Tất cả những gì hai cô thuật lại về giấc điệp triền miên kỳ quái đó làm tôi thắc mắc rất nhiều.
- Thưa, để chúng tôi đưa ông đi ạ, Huệ đáp.
Vì ông Các phải đi gặp khách hàng tại khu chợ Hoà Bình, nên chỉ có nhà thám tử và hai chị em Huệ Lan đi đến nhà bà Minh mà thôi. Hai cô kể thêm cho ông Phan Nhật nghe những chi tiết liên quan đến giấc ngủ lạ kỳ. Tuy nhiên, hai cô không hề đả động gì tới chiếc hộp nhỏ đựng bột trắng mà họ đã tìm thấy.
Bà Minh tiếp đón ba người khách rất niềm nở. Bà đề cập ngay đến bệnh tình của bé Vinh và bà cho biết rằng một đứa con khác của bà cũng bị như thế cách đây hai ngày. Huệ và Lan ngồi nghe một lúc rồi ra vườn chơi với bọn trẻ.
Họ tìm thấy chúng cạnh con suối, đang đùa giỡn và lội bì bõm dưới nước. Hai đứa lớn đã làm được một chiếc cối xay chạy trên dòng suối và chúng rất hãnh diện.
- Hai chị ơi ! Xem bộ cánh cối xay của tụi em nè ! Bé Vinh khoe. Nó đẹp ghê há ? Tụi em làm lấy đó.
- Ừ đẹp quá nhỉ, Huệ vừa khen vừa cúi gần xuống xem. Bộ hai em tự cưa ván và đóng đinh được à ?
- Vâng ạ, bé Vinh hãnh diện đáp. Tụi em đang lo làm một chiếc cối xay nữa. Trong nhà còn vô số ván cũ chị ạ.
Trên chiếc cánh cối xay đang từ từ quay, Huệ nhận thấy một dòng chữ. Thắc mắc, cô hãm chiếc cánh lại để đọc. Có nhiều chữ đã bị nước xoá nhoà, nhưng cô cũng đọc được :
- Khu Tây Hồ ! Vinh này, em kiếm tấm ván này ở đâu vậy ?
- Em lấy từ một chiếc thùng gỗ phá ra. Nó ở trong nhà xe đàng kia, chị ạ.
Huệ đứng lên nhìn Lan. Hai người đều nghĩ là những chữ này có thể có một ý nghĩa đặc biệt.
- Cái thùng ấy có lẽ của anh em tên Dzu không biết chừng. Lan thì thầm. Chắc họ nhận hàng gởi từ Tây Hồ tới.
- Im ! Huệ khẽ véo tay Lan và đưa mắt nhìn bọn trẻ. Vinh à, em nói là đã tìm thấy chiếc thùng trong nhà xe hả ?
- Vâng ạ.
- Có phải thùng của ba em không ?
- Thưa cô, không phải đâu ạ, vì chắc hẳn nó có từ trước khi nhà em dọn đến.
Bé Vinh có vẻ thắc mắc vì nó không hiểu tại sao hai cô lại chú trọng đến một mảnh ván nhỏ này.
- Hay là tụi mình vào nhà xe tìm nốt những mảnh ván còn lại đi. Em nào tìm ra trước sẽ được chị thưởng hai chục mua cà rem.
Cả bọn đều chạy túa về nhà xe. Khi hai cô đến nơi thì bọn trẻ đang bới đống ván cũ.
- Đây rồi chị ơi ! Hình như là một mảnh ván của chiếc thùng đó hay sao ấy ! Bé Vinh kêu lên và giơ một mảnh ván cũ lên.
- Không phải, gỗ này không giống thứ gỗ đó. Lan đáp sau khi quan sát tấm ván. Vả lại tụi mình phải kiếm những mảnh có chữ in ở trên cơ mà !
Hai cô vào giúp chúng tìm nhưng không thấy những tấm ván cần thiết.
- Chắc tụi mình phải bỏ cuộc quá ! Huệ nói. Tìm kiếm khắp lượt rồi phải không ?
- Đâu có ! Thu Ba đáp. Ở góc kia còn có một tấm ván nhưng em không muốn mó tay vì nó đầy mạng nhện dơ quá.
Huệ bèn lại nhặt tấm ván lên, chùi sạch mạng nhện bằng một miếng giẻ vứt gần đó. Cô bật kêu lên mừng rỡ :
- Lan này ! Có chữ viết đầy đủ ! Hình như đúng là nửa kia của tấm ván, em ạ !
Hai cô vội mang ra ngoài ánh sáng để xem và trở ra bờ suối. Khi ghép hai miếng ván vào với nhau, họ nhận thấy cả hai thuộc cùng một thứ gỗ và chữ in cùng một lối, Lan đọc lớn tiếng :
- Khu Tây Hồ, số 120 Quốc lộ 11.
- Cái địa chỉ này có lẽ rất quan hệ, Huệ nói. Mình phải đưa cho ông Phan Nhật coi ngay mới được.
Vào tới nhà, hai cô thấy bà Minh đang ngồi một mình trong phòng khách.
- Thưa bác, ông Phan Nhật đâu rồi ạ ? Huệ hỏi.
- Ông ta xin phép đi xem căn nhà cô ạ. Có lẽ lúc này ông đang ở trên lầu.
Hai cô vội lên lầu. Nhưng đi hết phòng này đến phòng khác mà cũng chẳng thấy tăm hơi ông đâu hết. Lan gọi tên ông mấy lần cũng vô hiệu.
- Lạ thật ! Không biết ông ấy đi đâu nhỉ ? Cô ngạc nhiên hỏi.
- Chị bắt đầu thấy lo lo em ạ, Huệ chau mày đáp. Trong ngôi nhà này đã xảy ra biết bao điều kỳ lạ, hình như là có ma !
Lan bật cười nhìn chị :
- Chị nói tức cười quá ! Sự gì cũng phải có một giải đáp hữu lý chứ !
- Đành vậy, nhưng làm thế nào tìm ra giải đáp ? Chị rất lo ngại cho ông Phan Nhật.
Càng tìm kiếm hai cô càng thấy chột dạ. Cuối cùng họ đi tới văn phòng làm việc, mở cửa ra nhìn vào trong.
Huệ giật mình thốt lên :
- Đúng là cái điều chị nghi ngờ từ nãy mà !
Trên chiếc đi văng, nhà thám tử tài ba đang nằm ngủ ngon lành.

Chương 10. Hết
Sau khi cố lay ông ta dậy không được, hai cô hiểu rằng ông ta là nạn nhân của giấc ngủ kỳ quái mà nhiều người đã trải qua từ trước đến giờ. Huệ vội đi gọi bà Minh, rồi ba người khiêng ông Phan Nhật vào một căn phòng kế bên, đặt ông nằm trên giường.
- Ông ta sẽ tỉnh dậy trong vài tiếng, Lan nói.
- Dù sao đi nữa, có lẽ tôi sẽ kiếm nhà khác để dọn đi ! Bà Minh nói. Ở trong ngôi nhà này, đã có đến bốn người bị ngủ như thế kia rồi : Cô Huệ, ông Phan Nhật và hai đứa nhỏ.
- Vâng cháu hiểu, Huệ đáp. Nhưng chúng ta phải khám phá ra sự bí mật này mới được.
- Khám phá thế nào ?
- Thưa bác, Lan và cháu vừa tìm ra một vài dấu vết sẽ đưa tụi cháu tới khu Tây Hồ.
- Khu Tây Hồ à ? Bà Minh ngạc nhiên hỏi. Ở đâu thế nhỉ ?
- Thưa bác, cách đây độ mười lăm cây số, bên quốc lộ 11 ạ. Lan ơi, tụi mình ra đáp chiếc taxi hồi nãy đi.
- Chị có mang tiền theo không ?
- Có lẽ đủ để trả một cuốc tới đó.
- Nếu cần tiền tôi có thể đưa hai cô mượn, bà Minh vội đề nghị. Hai cô mà tìm ra được điều gì thì cứ việc hành động cho mau.
- Thế còn bà Đốc ? Tụi mình chưa xin phép nghỉ thêm. Lan nhắc.
- Được, tụi mình sẽ trình bày hết cho bà nghe. Nếu mình thành công, chắc bà sẽ tha thứ cho mình.
- Nhưng nếu thất bại thì chắc chắn bà sẽ cấm không cho tụi mình ra ngoài từ đây đến cuối năm ! Kệ ! Ta cứ thử vận may rủi xem sao !
Đến khu Tây Hồ, hai cô tìm đến số nhà 120 quốc lộ 11. Hai cô bảo tài xế dừng lại ở đằng xa rồi thả bộ tới. Căn nhà có vẻ như bỏ hoang, họ gõ cửa nhưng không ai trả lời.
- Hình như không có người ở, Huệ thất vọng nói.
Lan đang phân vân chợt nhìn thấy một chiếc xe hơi từ đàng xa đang tiến tới.
- Chị Huệ, cô vừa nói vừa đẩy chị núp vào bụi cây. Em trông giống như chiếc xe của tên Tư Xuân hồi trước thì phải.
- Đúng rồi ! Có cả hai người nữa trên xe. Hai anh em tên Dzu hẳn. Nếu vậy thì may quá.
Một lúc sau, chiếc xe ngừng lại bên lề đường, ba tên bất lương bước xuống.
- Hai người vào trước đi, Tư Xuân nói. Tôi sẽ xách vali vào sau.
Hai anh em tên Dzu mở cửa bước vào nhà. Tuy nhiên, vì nghĩ là Tư Xuân không thể một mình xách nổi vali vào nhà nên họ lại trở ra để tiếp tay.
- Đây là cơ hội độc nhất ! Huệ thì thầm. Tụi mình lẻn vào trong đó trong khi họ quay ra.
- Thôi chị ơi, nguy hiểm lắm.
- Nhưng chẳng còn cách nào khác cả.
Hai cô rình đến lúc thuận tiện lẻn bước vào nhà. Họ đang đứng trong một căn phòng khách trang trí khá lịch sự.
- Em đoán là Tư Xuân đã bóc lột tất cả những đồ này của những người khách trú giầu có ! Lan thì thầm. Hoặc giả đó là những đồ buôn lậu ?
Chỗ trốn độc nhất là một tấm bình phong khảm xà cừ dựng trong một góc phòng. Hai cô vừa kịp núp vào phía sau thì Tư Xuân và đồng đảng cũng vào tới nơi.
- Mày lấy vé đi Lào được rồi chứ Dzu ? Tư Xuân hỏi.
- Vâng, người ta chẳng hỏi em gì hết.
- Tốt lắm, ta có thể lên máy bay tối nay. Chừng nào tụi mình đã cao chạy xa bay thì cảnh sát sẽ quên chuyện này.
- Nhưng giờ này mình hãy còn lẩn quẩn ở đây ! Cô Yến Nhi lo ngại nói. Cảnh sát đang theo dõi ráo riết.
- Cô đừng lo sợ vớ vẩn nữa ! Tư Xuân gắt. Cô vào thu xếp đồ đạc đi, nửa giờ nữa là phải rời khỏi nơi này đó.
Rồi ba người lên lầu với chiếc vali, trước sự thất vọng của hai chị em Huệ Lan.
- Ta phải theo dõi thêm mới được, không thì uổng ! Huệ thì thầm.
Họ lặng lẽ bước lên cầu thang thật nhẹ. Nhưng khi Lan lên gần hết thì một bậc gỗ kêu răng rắc.
- Tiếng động gì vậy ? Cô Yến Nhi giật mình hỏi.
- Tiếng mấy con mọt nghiến gỗ chứ còn tiếng gì nữa, Dzu bực mình đáp.
Hai cô lên thoát vội lẻn vào một căn phòng trống rồi áp tai vào tường để nghe ngóng.
- Ta vừa mới được biết là ngôi biệt thự của lão già Đôn đã cho người khác mướn rồi, Tư Xuân báo tin.
- Vậy hả ? Dzu hỏi. Ồ, nhưng không sao cả. Cái “bảo vật” tụi mình giấu ở đó rất là kín đáo, an toàn cho tới khi tụi mình về lấy.
- Đáng lẽ mày phải thủ tiêu chiếc vương miện ấy đi sau khi đã gỡ hết kim cương, ngọc thạch ra mới phải, Tư Xuân đáp. Nếu người ta mà khám phá ra thì tụi mình sẽ toi mạng hết.
- Làm sao khám phá ra được ? Tên Dzu đáp với một giọng đầy tin tưởng. Cái vương miện ấy bằng vàng, tụi mình sẽ nấu chảy ra để tiêu thụ một ngày gần đây, thủ tiêu thì uổng lắm.
- Ngộ tụi thuê nhà nó kiếm ra trước thì sao ?
- Dù chúng có khám phá ra thì chúng sẽ không bao giờ nhớ ra nó ở đâu cả. Yến Nhi đáp.
- Cô nói gì tôi không hiểu ?
- Anh Dzu đã cất nó trong một ngăn tủ bí mật. Nó được bảo vệ bằng một thứ “bột ngủ” rất mạnh. Khi có người mở ngăn tủ, mùi hương sẽ bay toả ra và người đó sẽ ngủ gục như chết. Lúc tỉnh dậy, hắn sẽ chẳng còn nhớ gì hết.
- Anh thấy chưa ? Dzu hãnh diện tiếp lời. Em đã kiếm ra công thức và nhờ một nhà hoá học chế ra chất bột ngủ đó.
- Hay lắm ! Nếu vậy, cho tao một ít để phòng khi bị thộp thì cứ việc tung ra.
- Nhưng đâu còn nữa ! Yến Nhi đáp. Tụi tôi rời nông trại Di Linh quá vội vã nên quên mang theo.
Huệ và Lan không bỏ sót một câu nào. Những điều Yến Nhi vừa nói đã giải đáp được sự bí mật bao trùm giấc ngủ kỳ dị trong biệt thự cụ Đôn : Huệ, hai đứa trẻ và ông Phan Nhật đã lần lượt khám phá ra cái ngăn tủ bí mật, đã ngửi phải chất bột đó và sau một giấc ngủ triền miên, mọi người không còn nhớ gì hết.
Khi Yến Nhi nói đến việc hai anh em cô đã rời khỏi nông trại quá hấp tấp, Huệ và Lan chợt nhớ đến cái hộp đen mà họ đã tìm thấy. Huệ hiện còn giữ nó trong sắc tay. Cô ra hiệu cho Lan hiểu nhưng không được nên đành phải rút chiếc hộp ra, Lan mỉm cười đắc thắng… nhưng cô bỗng im bặt : cánh cửa phòng đã bật mở. Tư Xuân bước vào và đứng khựng lại khi trông thấy hai cô.
- Dzu ! Hắn gọi. Lại tao bảo đây !
Huệ và Lan vội chạy về phía cầu thang nhưng đã bị anh em Dzu chận lối.
- Sức mấy mà thoát được ! Tư Xuân gằn giọng. Ai ngu xuẩn gì mà để mấy cô đi báo cảnh sát !
- Bắt chúng lại ! Tên Dzu vừa hét vừa sấn lại phía Huệ.
Nhờ vài miếng võ nhu đạo, cô tránh né được đôi bàn tay lông lá của tên Dzu và lùi dần về phía góc tường. Một đòn tuyệt vọng để lật ngược thế cờ bỗng loé ra trong trí óc cô.
- Đứng lại ngay ! Nếu không…
Tên Dzu cười khẩy và tiến dần về phía cô. Huệ vừa mở nắp hộp ra vừa quay mặt đi để khỏi ngửi phải chất bột. Đúng lúc Dzu xông lại, cô hắt chất bột vào mặt hắn. Vì không tránh kịp hắn đã lãnh đủ, phần bột còn lại thì rơi xuống đất chỗ Yến Nhi và Tư Xuân đang khoá tay Lan.
Ba tên bất lương không hề chú trọng đến chất bột tung toé dưới đất. Nhưng Huệ chột dạ thấy bột chưa linh nghiệm vì trong phòng không một ai làm sao cả.
- Tôi sẽ dậy cho cô biết cách đi rình mò kẻ khác ! Tên Dzu cười độc ác.
Hắn nắm lấy cánh tay Huệ bẻ quặt lại, khiến cô phải nhăn nhó vì đau đớn.
Mặc dầu vùng vẫy một cách vô vọng, cô biết là thế nào cũng bị chúng bắt. Nhưng bỗng hai bàn tay tên Dzu từ từ lỏng ra. Hắn đưa bàn tay lên cổ như người bị sặc và nằm lăn ra sàn.
Nhưng Huệ cũng cảm thấy mệt mỏi vì chất bột cũng đã ảnh hưởng đến cô. Cô loạng choạng cố gượng lùi dần về phía cầu thang.
Từ góc phòng bên kia, Yến Nhi và Tư Xuân quay lại ngạc nhiên. Chưa kịp hiểu ra sự gì thì họ cũng đã bị chất bột ngấm dần vào.
Thấy tay họ bỗng rời ra Lan vội thoát khỏi hai người, cô nhịn thở chạy về phía cầu thang và ngã vào tay chị Huệ.
Hai chị em dìu nhau xuống được dưới nhà và mở cửa phòng ra. Không khí mát mẻ bên ngoài làm cho hai cô tỉnh lại.
- Thoát chết ! Lan thốt lên. Lúc đó nếu hít thêm một hơi nữa, chắc tụi mình cũng lăn quay ra rồi.
- Bọn chúng không thể tỉnh dậy trước vài giờ đâu ! Huệ đáp. Mình phải đi báo cảnh sát ngay mới được !
Chiếc taxi đợi quá lâu nên đã bỏ đi. Hai cô phải lết đến bót cảnh sát gần nhất.
Lúc đầu, viên trưởng bót không chịu tin lời khai của hai cô, nhưng sau ông cũng cho vài nhân viên đi theo hai người. Vào tới trong nhà, khi họ thấy ba người nằm ngủ lăn lóc dưới đất, họ hiểu là hai cô nói thật và kêu xe đến chở chúng về bót.
- Các cô giỏi lắm ! Viên cảnh sát trưởng nói. Tên Tư Xuân này ai mà không biết nó ! Đã bao lâu nay, nó lẩn trốn dưới nhiều tên khác nhau và cảnh sát truy nã chưa ra.
- Thưa ông, còn anh em lão Dzu thì sao ạ ? Huệ hỏi.
- Hai tên này thì chúng tôi ít biết hơn. Có lẽ là đồng đảng của Tư Xuân, đã thôi không làm việc cho hắn từ lâu.
- Chúng tôi có thể cho ông biết một vài điều nữa. Huệ từ tốn nói. Ban nãy chúng tôi được nghe họ bàn tán kế hoạch với nhau.
Cô bèn thuật lại vai trò của anh em Dzu trong vụ đánh cắp chiếc vương miện.
- Họ không nói đã dấu số nữ trang ở đâu à ? Viên cảnh sát trưởng hỏi.
Huệ lắc đầu :
- Thưa, điều này thì chúng tôi không rõ.
- Có lẽ ở số 120 quốc lộ 11. Tôi sẽ cho nhân viên lục soát căn nhà đó. Nhưng mà tôi muốn biết hai cô đã làm cách nào để hạ ba tên ấy dễ dàng như thế ? Hai cô chụp thuốc mê à ?
- Ồ ! Thưa ông không phải ạ, Lan thản nhiên đáp.
Huệ và Lan rời khỏi bót cảnh sát, không tiết lộ điều bí mật của họ. Họ cũng không tiết lộ rằng chiếc vương miện, hiện còn nằm trong một ngăn tủ bí mật tại nhà bà Minh, vì họ muốn tự mình khám phá ra nó.
- Chúng ta đi ngay bây giờ nhá ! Lan đề nghị.
Họ nhảy lên một chiếc taxi để về khu Lam Sơn. Rất may cho hai cô, lúc này ông Phan Nhật vẫn còn đang ngủ say sưa. Sau khi xin phép bà Minh đi quan sát các căn phòng, hai cô đi lấy khăn ướt bịt lên mặt rồi đi khắp phòng này đến phòng kia để tìm ngăn tủ bí mật.
- Hãy để ý nếu thấy vết hằn trên tường nhé, Huệ dặn dò em.
Nửa giờ sau, hai cô đã bắt đầu thấy nản.
- Chị phỏng đoán là ngăn tủ đó ở trong phòng làm việc, Huệ nói. Tụi mình đi lại đó xem sao đi.
Họ xuống đưới nhà để tiếp tục quan sát. Cạnh căn phòng làm việc, có một phòng chứa đồ, nơi mà bà Minh xếp những chiếc rương và vali rỗng. Có lẽ chưa ai quét dọn phòng này từ khi bà Minh dọn đến nên các vách tường đều phủ đầy bụi bậm. Lan lấy chiếc khăn phủi đi một phần. Bỗng cô reo lên vui mừng :
- Chị Huệ, em thấy có vết gì trên tường này ! Hình như ngăn tủ nằm đây thì phải.
Huệ chưa kịp lưu ý đề phòng thì cô em đã rờ tay lên vách và đụng phải một lò xo ngầm : bức ván bỗng chạy sang một bên, để lộ ra một ngăn tủ tối om.
- Chắc nó đây rồi ! Cô reo lên.
Trong nỗi vui mừng, cô không nhớ đến chiếc khăn ướt đang từ trên mặt cô rơi xuống.
- Kìa Lan, khăn rơi ! Huệ vội kêu.
Lan đưa tay bịt khăn trở lại. Cảm thấy đầu óc hơi quay cuồng, cô vội ngồi xuống ghế để nghỉ một lát, trong khi Huệ thò tay vào hộc tủ lấy chiếc vương miện bằng vàng ra. Rồi cô đóng sập cửa tủ lại để hơi bột khỏi xông ra ngoài.
Hai chị em chạy ra mở tung mấy cánh cửa sổ rồi bỏ khăn ướt xuống.
- Với chiếc vương miện này, tụi mình đã nắm giữ được một bằng chứng khó thể chối cãi được về tội trạng của anh em tên Dzu, phải không em ? Huệ tuyên bố. Thế này là tụi mình đã gần giải xong bài toán rồi đây. Khi nhà thám tử ngủ dậy, chắc ông ta phải ngạc nhiên lắm.
Khi hai cô đi vào, ông Phan Nhật đã bắt đầu mở mắt. Huệ và Lan bèn thuật lại những gì hai cô đã mắt thấy tai nghe. Ông Phan Nhật và bà Minh lắng nghe trong sự kinh ngạc tột độ.
- Tôi không thể nào tin hai cô, nếu không trông thấy chiếc vương miện kia ! Nhà thám tử nói. Và trong khi đó thì tôi lại nằm ngủ khoèo ! Sao mà tôi muốn từ chức ngay tức thì và xin cấp trên cử hai cô giữ chức vụ của tôi quá.
Nói đoạn, ông đi cùng với hai cô đến chi cảnh sát để trao lại chiếc vương miện cho nhà chức trách. Khi biết rằng chưa tìm được ra lô kim cương và ngọc thạch, hai cô đưa cho viên cảnh sát trưởng một bản sao danh sách nữ trang mà hai chị em đã tìm thấy tại nông trại của Dzu.
Sau đó, người ta đưa hai cô đến chi cảnh sát Tây Hồ để dự cuộc thẩm vấn Tư Xuân. Biết chắc là không thể thoát được cảnh tù tội và hy vọng sẽ được giảm khinh, hắn khai đã giấu số nữ trang dưới sàn nhà số 120 quốc lộ 11.
Cảnh sát đã tìm ra ngay. Với sự giúp đỡ của ông Phan Nhật và của ông Các, Huệ và Lan mang so sánh với bản chính danh sách và nhận thấy lô kim cương và ngọc thạch vẫn đầy đủ, chưa bị mất mát hoặc tráo đổi viên nào.
Yến Nhi khai trong vụ này người chủ mưu là Tư Xuân. Cô thú nhận đã đánh cắp chiếc vương miện trong viện bảo tàng ở Tân Gia Ba và khi tàu cập bến Sàigòn thì cô đã dàn cảnh để mọi người tưởng cô đã chết đuối.
Thật ra thì cô đã cải trang làm bồi tầu và trốn trong hầm tầu. Thừa lúc không ai để ý, cô đã lẻn lên đất liền mà không một ai trông thấy. Ít lâu sau, cuộc tìm kiếm của thuyền trưởng Định đã bắt buộc cô và anh cô phải lẩn tránh trong nông trại của mẹ cô.
Khi đọc những lời thú tội trên, Lan nói :
- Nếu mà Hằng không mời tụi mình về Di Linh để dự lễ sinh nhật thì chưa biết đến bao giờ mình mới khám phá ra vụ này !
Sau đó, hai cô trở về khu Lam Sơn để đánh điện tín báo tin mừng cho chú Định.
- Chắc chú Định vui lắm nhỉ ? Lan sung sướng nói. Mọi sự rắc rối đã chấm dứt ở đây !
- Nhưng lúc này thì đến phiên tụi mình sắp gặp rắc rối đây ! Huệ đáp. Em có biết bây giờ là mấy giờ rồi không ?
- Em đoán độ hai giờ chứ mấy.
- Bốn giờ chiều rồi đó, sợ chưa ?
- Mà tụi mình cũng chưa được ăn cơm trưa nữa chứ !
- Ăn cơm trưa ! Chị chẳng thèm nghĩ đến việc ấy. Điều đáng lo là bà Đốc có lẽ đang giận chị em mình lắm.
- Nếu chẳng may bà có cấm tụi mình không được ra khỏi trường từ giờ đến cuối năm thì cũng chả bõ, so với những gì mình đã làm, Lan cười đáp.
- Phải đấy. Trong đời chị, chưa bao giờ chị được trải qua những giờ phút hồi hộp như thế.
Khi về tới trường, người đầu tiên họ gặp là Ly. Cô này có ý đợi họ ở cửa.
- Lần này thì các bồ đừng hòng thoát khỏi đâu ! Cô cười nham hiểm. Bà Đốc cho gọi hai người đến mấy lần rồi đó.
- Thì tụi này cũng định đến trình diện ngay bây giờ mà ! Lan bình tĩnh trả lời.
Hai chị em ở trong phòng bà Đốc đến hơn nửa tiếng đồng hồ. Lúc họ bước ra thì thấy Ly đang lảng vảng quanh đấy. Cô thất vọng khi thấy hai chị em Huệ Lan chẳng có vẻ gì là khổ não, mà trái lại còn tươi cười hí hửng nữa chứ !
Hai chị em đi thẳng xuống bếp và theo lệnh của bà Đốc, người ta dọn cho hai cô một bữa ăn đặc biệt.
- Lúc nào chúng cũng được sự ưu đãi ! Ly bảo Mai. Mình mà có chống lại cũng chả ăn thua gì, tức quá !
Vài ngày sau, cả trường đều biết rõ chi tiết cuộc phiêu lưu kỳ thú của chị em Huệ Lan. Trong suốt một tuần lễ, người ta chỉ bàn bạc về chuyện đó.
Tuy nhiên, không ai vui mừng bằng Hằng. Cô viết thư cho song thân để báo tin sự thành công của hai bạn. Trong thư hồi âm, bà Chất đã nồng nhiệt khen ngợi Huệ Lan và cho biết thêm là bà cụ Thân đã qua đời sau khi ba chị em rời khỏi trại vài ngày.
Ông Phan Nhật và nhà chức trách cố tìm kiếm chú Phoóng và chú Lầu nhưng vô hiệu. Hai chị em Huệ Lan thầm cầu mong cho hai người khách trú được yên ổn vì họ đã giúp hai cô chứng minh tội trạng của Tư Xuân.
Sau ngày kết án của ba tên bất lương, Lan đuợc tin nhà cầm quyền đã cấp cho cô một tấm bằng sáng chế về chiếc máy của cô, Sự ghen tức của Ly lên đến cực độ và cô giận dỗi mấy ngày không thèm nói chuyện với ai cả.
Huệ và Lan không hề chú ý đến thái độ kỳ khôi ấy, vì hai cô muốn tận hưởng sự thành công vẻ vang này.
Vài ngày sau, hai cô nhận được thư của chú Định khen ngợi công trình của hai cháu, có kèm theo cả một hộp đầy bánh kẹo của cô Hạnh nữa. Huệ và Lan đem mời tất cả các bạn cùng thưởng thức.
- Tối nay, tụi này được ăn mừng những hai chiến thắng lận ! Phượng hân hoan nói.
- Bồ nói gì mà ghê rợn thế ? Lan hỏi.
- Này nhé, tụi mình phải ăn mừng không những về vụ chiếc vương miện, mà còn về những bước đầu của Lan trên con đường sáng chế chứ ! Phượng giải thích.
Một tràng pháo tay nổ ran để hoan hô hai chị em Huệ Lan.



HẢI VÂN
 
Sửa lần cuối:

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Hai Rương Vàng
Tác giả: Nguyễn Hòa Giang
Tủ sách Hoa Đỏ
Sưu tầm và Đánh máy: Đèn Biển
IqZmar8pzo8meC781EyBaE7spso4AzKd8uDlrNO-G_rKglwXS2ULag4fZI8VIWbPJoI-je51pYm6tHNK_SMoywdfXZU7_v9UkiGF97ysxX4KiN6p-oJaqDkowMU_FpRRB0aACQKJ9kNGej8cTP7IKpiM29_hmsuHVg1_Zm0nHwQteENLghCFlt_LLYELkmfvcav6D67-1st8F_3RRP87U73LeX08HvasGjSc5vN3n0semUcLJcf8OLr1yy5BmvYyvNftLDjs2NvxL1A27UD1zZ5YPGasVPpu0cx-1iaStmOOOd4S6Hzmxgra-w2BxrQORyamXyp87fhabeLwIfopj4Y3Xks53Nw_CXmfI8_mN0LsFodwVFt86U4KnGPUqRDCGMxtkO0v1UxaMr74ipG0lFhFxMUg8qxQDhznOMtHQ6ftYNgiDCozIfjqhQYKsdhd8I0aKLfTRFHdXkkgjepk9CSJQm1KrN_J9EfEeTO1cxjnoqV1aQW1GvKEuPa7SXHg7R2nHL9fFQ352mJaBc-7rZIU2SoJQ1oBjPkaw7tclqvFB7I5bbx3jaPLXREA-jEktbFN=w465-h632-no


Phần 1
Hoàng hôn đã xuống từ lâu trên đất Hải Sinh!


Người ta khó lòng nhận ra đâu là chỗ bầu trời và biển cả gặp nhau. Trời – biển cùng chung một màu, cùng chung một thế giới : thế giới hoàng hôn! Tuy nhiên, trong khung cảnh tranh tối tranh sáng đó, người ta vẫn nhận ra một mảnh đất nhỏ, chạy dài như một doi cát biển ở trên mặt đại dương bao la.


Đúng vậy, đó là một hải đảo! Một hải đảo cằn cỗi…


Sự hiện diện của đời sống sinh vật trên hải đảo này quả thật là hiếm có. Họa hoằn lắm, người ta mới thấy có một vài loại chim hậu điểu, ghé tạm chốc lát trên đường thiên di của chúng, hay một vài con đồi mồi lên phơi nắng mà thôi. Ở một địa điểm hẻo lánh chết chóc như vậy, thấy được một sinh vật đã là khó khăn lắm rồi, huống hồ thấy một con người! Thế mà ở đây, người ta lại bắt gặp một đứa bé! Thật là một điều quá sức tưởng tượng – một điều đáng ngạc nhiên.


Quả thật vậy! Người ta đã gặp một đứa trẻ – đúng hơn là một cậu trai – tuổi độ mười ba thôi! Nó đang cuộn mình nằm cạnh một tảng đá. Tóc nó đánh bím lại thành một cái đuôi ngắn, mình mang một chiếc áo sơmi bằng len, chân đi một đôi giày đã bạc màu và rách nhiều chỗ. Trông dáng nó nằm thật thiểu não.


Trong khi hoàng hôn đang buông xuống từ từ thì nó vẫn còn thiu thiu ngủ. Nhưng bỗng nhiên, nhiều tiếng động đã lôi nó dậy. Nó nhớn nhác nhìn quanh, tự hỏi:


- Tiếng động gì thế nhỉ? Tiếng sóng vỗ chăng? Không, tiếng động mạnh và dứt hẳn mà, đâu có kéo dài như tiếng sóng vỗ vào bờ?


Và nó nhận ra một cách thật tài tình:


- A! Phải rồi! Tiếng cót két của một thuyền buồm đang thả neo! Có lẽ nào? Trời sai đến giúp mình chăng?


Nghĩ thế rồi, nó co giò chạy một mạch đến bên một bờ đá cách xa đó một quãng. Chợt nó thấy một hình ảnh gì lờ mờ ngoài kia. Nó lẩm bẩm:


- Một chiếc thuyền? Một chiếc thuyền buồm!


Nỗi lo sợ xen lẫn nỗi vui mừng đến xâm chiếm tâm hồn nó. Nó dựa mình vào tảng đá, hồi hộp theo dõi mọi hình ảnh đang diễn ra trước mắt. Bỗng nó nín thở:


- Cái gì vậy nhỉ?


Một chiếc xuồng con đang được hai người đàn ông khỏe mạnh hì hục đẩy lên bờ. Sau đó, họ khiêng ra hai cái rương. Mỗi người một cái, bỏ lên vai, tay cầm thêm chiếc xẻng, lẳng lặng bước lên bờ. Không biết rương đựng những gì nhưng xem ra nặng thật vì nó thấy lưng hai người còng xuống, bước những bước chậm chạp, uể oải. Theo sau họ, có một tên khác dáng đi bệ vệ, tay xách một chiếc đèn bão. Ánh sáng cây đèn lung linh, yếu ớt, chiếu sáng một khoảng cát nhỏ hẹp. Trông thấy cảnh tượng đó, thằng bé nghĩ thầm:


- Người đi sau có lẽ là một tên cướp đang dẫn bọn em út đi chôn của châu báu vừa cướp được chứ gì?


Nó hồi hộp theo dõi một cảnh tượng hiếm có…


***


Ba người vẫn lặng lẽ tiến lên dốc một cồn cát. Họ vượt qua đỉnh đồi thấp rồi lại tụt xuống phía bên kia và dừng lại ở một khoảng đất khá bằng phẳng. Nó nghe tên chỉ huy ra lệnh:


- Chỗ này!


Vừa nói, hắn vừa lấy tay chỉ xuống một chỗ trên mặt cát:


- Đào một hố sâu cỡ 1 mét rưỡi thôi. Nhanh lên mấy chú!


Vừa nghe vậy, hai tên kia vội bỏ hai chiếc rương xuống và không hề đáp lại một tiếng, họ lúi húi làm việc như những người câm, có lẽ vì họ quá sợ uy quyền viên tướng cướp chăng?


Tên chỉ huy cũng bỏ đèn xuống đất chạy lăng xăng chỉ trỏ. Nhờ ánh đèn, thằng bé có dịp quan sát tên tướng cướp : hắn cỡ người trung trung, nhưng vẻ mặt dữ tợn, nghiêm khắc và khó hiểu… Hắn mặc một áo thủy thủ ngắn, đầu đội một chiếc nón lông chim làm cho mặt hắn tối sầm lại. Dáng điệu đứng của nó mới hách làm sao! Hai chân dang rộng ra, tay vòng ra trước ngực, nhưng tay phải vẫn không rời khẩu súng lục đen ngòm đeo lủng lẳng ở dây lưng bên hông trái. Thằng bé chăm chú nhìn một cách say mê dường như không chớp mắt… Bỗng nhiên, tên tướng cướp vỗ tay mấy cái nghe chan chát:


- Được rồi! Dừng lại ngay!


Hai người kia vội rút cuốc xẻng lên và quay lưng lại khiêng hai cái rương bí mật bỏ xuống hố. Xong xuôi đâu đấy rồi họ dùng cuốc xẻng lấp hố lại. Thằng bé thấy họ đã thấm mệt vì trên trán, trên lưng họ, mồ hôi đổ ướt dầm dề thấm lan ra cả một mảng áo!


Trong khi đó, tên cướp đang đứng lặng lẽ nhìn họ làm việc, tay phải vẫn nắm chặt báng súng. Cái nhìn có vẻ đầy bí mật làm thằng bé thoáng có một ý nghĩ đen tối, khiến nó phát run lên trong lúc mắt nó vẫn không rời bàn tay phải của tên cướp.


- Dĩ nhiên, tên cướp không muốn cho một người thứ hai nào biết kho tàng của nó chôn giấu ở đây. Đằng nầy, ít lắm là đã có hai người biết sự bí mật này…


Thằng bé không dám nghĩ gì thêm nữa, chờ xem tên cướp sẽ xử trí ra sao. Dù sao, nó cũng cảm thấy lo âu vì ý nghĩ vẩn vơ đó.


Hố đã lấp đầy. Trong khi hai người kia còn tiếp tục lấy xẻng là là trên mặt hố cho phẳng lì giống mặt cát xung quanh thì bỗng tên cướp tiến lại gần phía sau lưng họ và… đoàng… đoàng… hai mũi tên lửa từ nòng súng bay ra và hai cây thịt nặng nề rơi xuống không kịp nhìn lại một lần cuối bộ mặt tàn ác, phản bội của một kẻ mình đã làm công cho.


Tên tướng cướp lạnh lùng đút súng vào bao và cầm chiếc đèn bão lầm lũi bước đi. Tuy hãi hùng và căng thẳng vì cảnh tượng vừa xảy ra, thằng bé vẫn dán mắt theo bước đi của tên cướp, lúc đó đang tiến lên đồi cát. Thằng bé định bụng khi hắn ta xuống đến bờ thì nó sẽ chạy theo xin xỏ, lạy lục cho nó lên thuyền rời khỏi hải đảo đầy chết chóc này. Nhưng khi tên cướp lên đến đỉnh đồi thì đột nhiên, thằng bé thấy hắn dừng lại, miệng thốt ra những lời nguyền rủa, trong khi tay cầm chiếc đèn chao qua chao lại như ra một dấu hiệu gì. Thằng bé lẩm bẩm:


- Ông ta ra dấu hiệu gì vậy nhỉ?


Tò mò, thằng bé phải giương cổ lên quan sát. Nó chợt hiểu : tên cướp nổi giận vì bọn thuộc hạ đang cố sức đẩy thuyền ra khơi căng buồm dông chạy, khi vừa thấy bóng lão lóe lên ở đỉnh đồi…


Tên cướp vội để cây đèn bão xuống đất chạy thật nhanh về phía bờ, nhưng hắn phải dừng lại thở hổn hển vì chiếc thuyền buồm đã mất hút ngoài kia rồi!


Không một chút do dự, thằng bé vội bỏ tay lên miệng:


- Hú… hú… hú…


Nó không sợ hãi như hồi nãy vì nó chợt hiểu rằng giữa nó và tên tướng cướp kia đang có một mối liên hệ nào đó : cả hai đang ở trong cùng một hoàn cảnh, hoàn cảnh của những kẻ bị bỏ lại trên hải đảo! Vừa nghe tiếng hú, nhanh như cắt, tên tướng cướp xoay mình một vòng, tay rút súng ra quát lớn:


- Ai? Ai?


Có tiếng đáp lại rụt rè, sợ sệt:


- Dạ thưa ông, xin đừng bắn cháu ạ! Cháu cũng là một kẻ bị bỏ lại như ông. Cháu hiện có một chiếc thuyền nhỏ. Nếu ông muốn đuổi theo bọn họ thì cháu xin giúp một tay!


Tên cướp vẫn sừng sộ như muốn trút xuống trên đầu thằng bé lạ lùng tất cả những nỗi bất bình của hắn:


- Mày có thuyền?


Thằng bé vẫn nhỏ nhẹ:


- Dạ, một chiếc thuyền buồm nhỏ thôi ạ!


Tên cướp gật gù lẩm bẩm một mình:


- Phải đuổi theo bọn vô lại đã dám lường gạt tao!


Rồi chợt nhớ ra điều gì, hắn cười lớn:


- Ha… ha… bọn nhãi con lầm… lầm to… tưởng phỗng tay trên, tưởng ngồi mát ăn bát vàng… Ha… ha…


Bỗng nó quay phắt lại:


- Nhưng mà mày là ai?


Chẳng nói chẳng rằng, thằng bé cắm đầu chạy lại đằng kia lượm cây đèn rồi tiến về chỗ cũ. Lúc đầu, tên cướp tỏ vẻ chưng hửng vì không thấy thằng bé trả lời câu hỏi của nó, nhưng rồi nó cũng hài lòng. Thằng bé vừa chạy lại, chưa kịp bỏ đèn xuống đã vội lên tiếng:


- Thưa ông, cháu tên là Oai, từ hải đảo Hoàng gia bên xứ Giamaica trôi dạt đến đây!


- Vì sao mầy lại trôi dạt đến hải đảo nầy?


- Thưa ông, cháu đang đi trên một thương thuyền thì bị bão đánh đắm, cháu may mắn sống sót với chiếc thuyền nhỏ kia và lênh đênh trên biển cả tám ngày rồi sau cùng dạt vào đây!


- Một mình?


- Thưa ông, vâng! Khi tàu ngộ nạn thì cháu đang đứng hóng mát trên boong tàu nên đã may mắn thoát nạn. Thật ra là nhờ một cái phao cấp cứu mà cháu vớ được. Nhưng sau đó, cháu thấy một chiếc thuyền con cũng thuộc loại cấp cứu, cháu cố lội tới và trèo ngay vào. Vả lại cái phao cháu đã bị lủng nhiều chỗ rồi nên không thể dùng lâu được! Cho đến lúc nầy, cháu vẫn để mắt tìm xem có ai sống sót không, nhưng chẳng thấy. Có lẽ vì lúc đó, các hành khách thì mải lo say sưa ở phòng ăn, còn các thủy thủ, chỉ có độ năm, mười người lo máy móc, lúc đó còn kẹt ở hầm máy ra không kịp.


Tên cướp lại hỏi:


- Thuyền mày có dự trữ nhiều đồ ăn không?


- Dạ, ít ít thôi, nhưng còn nước ngọt!


Rồi chợt nhớ ra điều gì, nó reo lên:


- À, thưa ông, thuyền vẫn còn mái chèo ạ! Cháu không quen sử dụng nhưng với ông thì chắc là quá rành!


Tên cướp – như vừa được gãi đúng chỗ ngứa – ngửa mặt lên trời cười tự đắc:


- Ồ! Mầy không biết tao là thuyền trưởng à? Thuyền đâu rồi?


Thằng bé chỉ về phía đằng kia:


- Dạ cháu cột ở phía bên kia hải đảo, cạnh một bờ đá!


Tên cướp ra lệnh:


- Dẫn đường cho tao ngay đi mày!


- Dạ!


***


Sau khi xem xét chiếc thuyền con một lúc, tên cướp lẩm bẩm:


Cũng dùng được nếu khéo tay. Đồ dùng vẫn còn tốt! Dư sức đi vòng quanh thế giới!


Nghe vậy, thằng Oai reo lên thích thú:


- Cám ơn Trời! Chúng ta có thể thoát khỏi nơi này được! Thật là may cho cả hai!


Tên cướp đá vào một thùng gỗ, càu nhàu:


- Chỉ có chừng này nước thôi à?


- Dạ, chừng ấy cũng quí lắm rồi ạ! Hải đảo nầy làm gì có giọt nước ngọt nào đâu?


Nó vò đầu, tiếp tục nói một cách bâng quơ:


- Chả biết chỗ nào có nước ngọt ở gần đây không nhỉ?


- Không!


Tên cướp trả lời cộc lốc, vì nó biết rằng ít lắm phải vượt hàng trăm hai lý nữa may ra mới tìm được một vài ốc đảo!


Thằng Oai khẩn khoản:


- Thưa ông, vậy thì chúng ta nên khởi hành ngay, kẻo hết nước ngọt thì nguy lắm đấy! Hải đảo nầy quả là tử địa!


Tên cướp không đồng ý:


- Bây giờ đi chưa được đâu! Mầy không biết chứ cần phải coi thời tiết đã chứ! Vì thế, mầy đem thuyền giấu đi đã kẻo bọn hải tặc thấy được thì khốn cả lũ!


Thằng Oai ngây thơ hỏi:


Bọn hải tặc nào thưa ông? Có phải bọn thuộc hạ của ông hồi nãy đó không? Họ nổi loạn chống ông à?


Tên cướp xem ra không chú ý gì đến câu hỏi cay cú của thằng Oai, lão vừa khịt mũi vừa đáp:


- Bọn sứa biển đó làm được trò trống gì! Tao sẽ giết chúng như giết sâu bọ!


Sau đó, hắn ngồi bệt xuống đất, tựa lưng vào thùng nước, giở chiếc nón lông chim ra quạt lấy quạt để.


Thằng Oai lại có dịp quan sát tường tận hơn : hắn ta có chiếc đầu tròn, hơi dài như quả trứng vịt, bóng nhẵn gần hết. Yên lặng một lát, tên cướp lại lẩm bẩm:


- Tao đoán chắc đêm nay thế nào cũng có chuyện!


Thằng Oai chẳng hiểu ý tên cướp muốn nói gì cũng ngớ ngẩn xen vào:


- Dạ, chuyện gì, thưa ông? Có thể cho cháu biết được không? Hay là ông tính ngồi đây chờ bọn họ tới thì thanh toán?


Tên cướp nổi giận:


- Ăn nói đàng hoàng mầy! Con nít mà chơi leo hả?


Thằng Oai sợ hãi, im thin thít! Tuy nạt nộ thế nhưng trong thâm tâm, hắn cũng thấy thương hại thằng bé vì nó đang cùng chung một hoàn cảnh, một tâm trạng mà! Lão quay lại xoa đầu thằng Oai ra chiều thân mật, như hối hận về cử chỉ nóng giận hồi nãy.


Tự nhiên thằng Oai đâm ra có thiện cảm nhiều với tên cướp. Nó trở nên hăng hái, tin tưởng vào người ngồi bên cạnh, hy vọng ông ta sẽ dẫn dắt nó ra khỏi hải đảo cằn cỗi này. Tâm hồn nó tràn ngập nỗi vui mừng như thể cây khô bị hạn hán gặp một trận mưa rào vậy! Nó líu lo kể:


- Ba tôi là Thuyền trưởng chiếc HOA HỒNG – tàu chuyên môn chở hàng hóa, thư từ, chạy đường hải cảng Hoàng gia xứ Giamaica đến Luân Đôn.


Tên cướp xem chừng có vẻ chú ý đến câu chuyện của thằng bé. Hắn đang nằm dài tựa đầu lên thùng nước, lấy nón đậy mặt lại. Vừa nghe thằng Oai kể đến đó, hắn giật mình ngồi dậy cắt đứt câu chuyện:


- Mầy vừa nói gì… gì… HOA HỒNG đó?


Thằng Oai vô tư:


- Dạ, cháu nói ba cháu trước đây là thuyền trưởng chiếc HOA HỒNG!


Tên cướp định nói tiếp cái gì đó, nhưng nghĩ sao hắn lại nằm dài xuống, lấy nón đậy mặt rồi nói vọng lại:


- À… à… Tao nghe lờ mờ mầy nói… HOA HỒNG gì đó, tao cứ ngỡ là mầy nói đến cô em gái của tao vì nó cũng tên là HOA HỒNG! Rồi sao nữa? Mầy đang đáp tàu đó mà bị đắm à?


- Dạ, cháu đáp thương thuyền khác chứ! Vì tàu ba cháu đâu còn nữa, nó đã bị mất tích cách đây hơn một năm rồi!


Tên cướp lại bật mình ngồi dậy hỏi dồn:


- Mất tích?


- Dạ, mất tích một cách kỳ lạ. Cho rằng tàu bị bão – không đúng – Vì thời tiết vào mùa hè năm đó rất tốt. Cho rằng tàu bị đắm vì trận hải chiến nào đó, điều này cũng không đúng vì theo chỗ cháu biết thì xứ Giamaica không hề gây chiến với một lân bang nào cả!


Tên cướp nói vọng lại:


- Biết đâu, tàu ba mầy đã gặp chuyện không may trên biển cả, như bị một trái thủy lôi nào đó nổ tung chẳng hạn!


Thằng Oai sụt sùi kể lể:


- Cháu không tin là ba cháu đã gặp chuyện bất trắc! Người ta cũng đã đưa ra nhiều giả thuyết mà má cháu vẫn không tin. Má cháu nói là trong nhiều đêm bà đã nằm mơ thấy tàu ba cháu đã bị một bọn cướp đánh đắm! Và dĩ nhiên là cháu cũng tin như vậy!


Tên cướp giật mình:


- Bị cướp đánh đắm hả?


Thằng Oai vẫn chậm rãi:


- Thưa ông, vâng! Như ông biết thì trong chuyến đi đó, ngoài hàng trăm kiện thực phẩm xuất cảng, tàu ba cháu còn mang theo một mật thư của nhà cầm quyền xứ Giamaica đến cho chính phủ Anh quốc trong đó có một tấm ngân phiếu 500.000 Anh kim để trả nợ cho một ngân hàng bên đó mà chính phủ Giamaica vay mượn trước đây.


- Sao mầy biết rõ vậy?


- Thật ra, khi tàu ba cháu nhổ neo thì cháu đang ở nội trú tại một trường Trung học, nhưng về sau má cháu đã kể lại cho cháu nghe như vậy.


- Mầy kể tiếp đi!


- Thế rồi tàu đi biền biệt, không đến nơi cũng như không thấy trở về. Không riêng gì gia đình cháu mà hầu như tất cả mọi người đều xôn xao và ngong ngóng trông tin! Vì sự mất tích chiếc tàu này gây ra nhiều thắc mắc, nó bùng ra như thể một trái bom nổ trong giới hàng hải. Gia đình cháu có đăng báo hỏi thăm tin tức trong cả gần một tháng trời, trong nước cũng như ngoài nước, nhưng tuyệt nhiên không có một kết quả nào. Về phần chính phủ Giamaica, họ còn cho in hình ba cháu trong một bố cáo gởi đi khắp xứ và cả bên Anh quốc nữa để truy tầm, nhưng cũng không mang lại một tin tức gì dù là mong manh, khả dĩ có thể men theo đó mà tìm ra gốc ngọn… Tất cả những cố gắng đó đều tỏ ra vô hiệu quả, không một ai tìm thấy tung tích gì về chiếc tàu cả! Và sau đó, dư luận lại gán cho ba cháu những trọng tội, khiến cho gia đình cháu, nhất là má cháu hết sức đau khổ. Họ cho rằng ba cháu đã âm mưu bán mật thư cho một tổ chức chống chính phủ để lấy vàng và bị thủy thủ đoàn nổi lên chống lại, nhưng tất cả đều bị giết. Dĩ nhiên, theo họ thì ba cháu cũng thủ luôn tấm ngân phiếu… và đánh đắm tàu… Họ không trưng ra được một bằng cớ nào dù chỉ một cái cỏn con. Họ chỉ dựa vào những luận cứ vừa vu vơ, vừa giản dị, là chuyến tàu đó quan trọng vì có mang mật thư và một số hàng trị giá bạc triệu… Thế thôi! Quả thật, đó là những lời đồn đãi có ác ý, vì họ nghĩ rằng ba cháu đã hành động do lòng tham! Nhưng họ không biết cho rằng ba cháu đã có hơn 10 năm giữ chức vụ thuyền trưởng. Và trong chức vụ đó, ba cháu đã chỉ huy biết bao nhiêu chuyến tàu xuất ngoại quan trọng và trị giá hàng triệu… triệu Anh kim không kém chuyến tàu cuối cùng đó? Người ta đã nghi oan cho ba cháu và chắc ông cũng biết đó là một điều rất nhục nhã cho một vị thuyền trưởng! Tên tuổi ba cháu đã bị vết nhơ ngàn đời không thể rửa sạch, nếu…


Tên cướp ngắt lời:


- Người ta nghi thì mặc kệ người ta chứ, lo gì. Mà tao hỏi, chính phủ có kết tội ba mầy như vậy không đã?


Dạ, thưa ông, về phía chính phủ thì mãi đến nay họ vẫn chưa có thái độ gì, vì họ chưa tìm ra được manh mối nào cả, nhưng biết đâu sau này…


- Sau này thì sao?


- Dạ, biết đâu sau này, họ chẳng kết tội ba cháu, trong trường hợp họ tìm ra xác chiếc tàu chẳng hạn!


- Thì như vậy không đúng hay sao?


- Dạ không, cháu quả quyết là không! Vì ba cháu là một người rất thanh liêm và trọng danh giá gia đình, như má cháu đã thường nói với cháu!


Tên cướp cật vấn:


- Thế hồi nãy mày nói gì mà… “rửa sạch vết nhơ” đó?


Thằng bé tiếp, giọng nghẹn ngào:


- Dạ, chính vì cháu không muốn người ta kết tội ba cháu một cách bất công, nên cháu nghĩ rằng vết nhơ của ba cháu không thể rửa sạch được nếu không tìm ra được mật thư, hay một bằng chứng nào khác. Và cháu nguyện sẽ đem cả cuộc đời của cháu để rửa hận cho ba cháu và gia đình. Dĩ nhiên rửa hận không có nghĩa là lấy mạng đổi mạng như người ta thường làm. Đối với cháu, rửa hận là tìm cho ra bằng chứng để cho mọi người biết rằng ba cháu không phải vì tham vàng bạc mà bán rẻ danh dự của một vị thuyền trưởng!


Dưới ánh sao đêm, tên cướp nhe hai hàm răng trắng bệch, cười mỉa mai:


- Bán mật thư để lấy vàng, ba mày thật bất tín. Còn mày, mày sẽ làm gì để rửa vết nhơ cho ba mày?


Thằng Oai tức giận và buồn tủi vì câu nói khiêu khích đó, nhưng châu chấu làm sao đá nổi voi, nó đành nén bụng:


- Làm sao cháu nói trước được? Nhưng cháu đã quyết chí như vậy và hằng cầu khẩn Trời giúp đỡ cho!


- Mày cũng tin vào Trời Đất nữa à?


- Dạ tin chứ! Trên đời này ai lại không tin vào Trời? Má cháu thường nói Trời tuy ở trên cao, nhưng vẫn có con mắt theo dõi hành động của mọi người : ai ở hiền sẽ gặp lành, ai ở ác sẽ gặp dữ!


- Thôi đi mầy! Ngồi nghe mầy nói chuyện luân lý mãi, tao thấy nhức cả óc! Nhưng tao khen cho mầy đó! Miệng lưỡi mầy can đảm thật. À mà tao quên hỏi mầy : làm sao mà mầy bỏ nhà ra đi được? Mầy còn nhỏ thế này, sao má mầy lại cho mầy đi?


Thằng Oai nghe nhắc đến má nó, tự nhiên nó ứa nước mắt, sụt sùi kể:


- Cháu có một người bà con làm nghề buôn bán, thường đi đây đi đó để mua hàng… Kỳ nghỉ hè vừa rồi, cháu nảy ra một ý tưởng táo bạo : lợi dụng kỳ hè nghỉ được ba tháng, cháu sẽ theo chân người bà con đó trong vài chuyến tàu, để dò la tin tức ba cháu, may ra có nghe thấy gì không. Thế rồi, cháu đem ý kiến đó ra trình bày với má cháu để xin phép đi. Ban đầu, má cháu nhất định không chịu, vì cháu còn nhỏ dại, hơn nữa cháu là đứa con độc nhất của ba má cháu. Nếu cháu có thế nào, thì má cháu làm sao mà sống được… Nhưng lòng mong muốn rửa vết nhơ cho ba cháu thúc giục, nên cháu cứ lẽo đẽo theo xin hoài. Cháu trình bày với má cháu là cháu đi một công đôi việc : vừa đi dò la tin tức ba cháu, vừa làm một chuyến du lịch để học hỏi thêm. Cháu cũng kể cho má cháu nghe câu chuyện anh Mã-Khắc trong cuốn “Vạn dặm tìm mẹ”… Tuy còn nhỏ tuổi hơn cháu, nhưng vì lòng thương yêu mẹ, Mã-Khắc đã vượt qua bao nhiêu dặm đường từ nước Ý qua tận Phi Châu tìm mẹ và anh ta đã thành công. Dĩ nhiên, Trời đã giúp anh, nhưng tự anh cũng phải nuôi một ý muốn mãnh liệt đã chứ… Cháu nài nẵng mãi và cũng nhờ người bà con cam kết bảo lãnh lo cho cháu được an toàn. Cuối cùng, má cháu chấp thuận cho cháu lên đường.


Không may, cuộc hải trình của cháu vừa mới khởi hành được hơn một tuần, chưa cập bến một hải cảng nào, thì chiếc tàu cháu đi bị bão giữa biển khơi, người bà con của cháu bị chìm mất xác, còn cháu… thì ra nông nỗi này! Cháu bị sóng đánh trôi dạt vào hải đảo khốn khổ này! Cháu nhớ má cháu hết sức, không biết má cháu lúc này ra sao?


Tên cướp ngồi nghe thằng Oai kể lể, hắn tỏ vẻ cảm động:


- Mầy còn nhỏ mà can đảm thật! Tao khen mầy! Mầy quả là con gà tơ có trái tim sắt. Nhưng mà mầy thấy không? Mầy tin vào Trời mà Trời có phù hộ gì cho mầy đâu? Mầy ra đi chưa tìm được manh mối gì thì đã bị trôi vào tử đảo này rồi! Thôi, thế là hết, con ạ! Mầy dọn mình chết đi là vừa!


Thằng Oai nhìn lên trời, nét mặt đanh lại:


- Không! Cháu tin là Trời vẫn thương giúp cháu thành công trong việc này, tuy rằng cháu phải trải qua nhiều gian khổ. Ngày mai sẽ ra sao, cháu không biết, nhưng cháu tin rằng Trời biết. Trời sẽ cảm thương mà giúp cháu…


Tên cướp la lên:


- Thôi đi mầy! Mầy cứ nhắc đến Trời hoài làm tao điên lên được! Tao thì tao chẳng tin gì ở trời đất hết, nhưng tao sẽ tự lực trả thù những đứa nào đã làm hại tao! Mầy thấy bọn nhóc con, bọn ăn cháo đá bát, đã đánh lừa tao, vất tao lại như vất một con chó đói vậy! Tao cảm thấy thật hổ thẹn và nhục nhã!


Ngừng một lát, tên cướp tỉ tê kể:


- Cách đây mấy tuần, bọn chúng tìm cách gây sự với tao. Vì dù sao, chúng cũng chỉ là em út! Nguyên do cũng chỉ vì chúng muốn chia phần cái rương vàng của tao. Thật ra, thì đó là gia tài riêng mà tao đã tốn bao nhiêu mồ hôi và cả máu nữa để gầy dựng!


Thằng Oai hình như vẫn không hiểu gì, nó ngây thơ hỏi lại:


- Chắc ông không chia phần cho họ chứ gì?


Tên cướp không để ý gì, tiếp tục cắt nghĩa:


- Vàng bạc đó là của ăn cướp được, tao đã chia phần đồng đều rồi. Dĩ nhiên, phần tao phải nhiều hơn chút đỉnh chứ! Tao là chủ mà! Nhưng chỉ trong có mấy ngày, chúng đã tiêu xài hết, thật đúng là “của thiên trả địa!” Xong lại quay ra muốn chia phần lần nữa, chúng dòm ngó của tao, tao không chịu. Tao phải cất giấu ở dưới sàn tàu, ngay cạnh cửa ra vào phòng riêng của tao. Tao cất của hay lắm! Vì trước kia tao nguyên là thợ đóng sàn tàu nên tao biết nhiều chỗ cất giấu của cải kín đáo lắm. Tao nhớ lại và tao phải tự tay gỡ một miếng gỗ trên sàn tàu rồi gắn chặt hai rương vàng vào đó và đóng ván lại như cũ. Sau đó, để đánh lừa bọn chúng, tao đóng hai cái rương giống hệt hai cái kia rồi nện cát vào thật đầy, khóa lại, giả vờ sai hai tên nô lệ khiêng lên chôn trên hải đảo nầy! Để cho có vẻ đúng sự thật, tao buộc phải thanh toán hai tên nô lệ kia. Phải làm vậy, chứ sao! Vì tao muốn địa điểm chôn vàng chỉ có mình tao biết thôi!


Tên cướp lại cười ra chiều đắc ý lắm:


- Mấy không tin cứ lại đào lên xem, trong rương chỉ toàn là cát không thôi!


Thằng Oai cũng cười xòa:


- Nhưng bây giờ, ông không còn làm chủ được các rương vàng thật kia nữa!


- Sao lại không? Bằng mọi cách, tao sẽ tìm lại được. Không sớm thì muộn thế nào tao cũng về lại tàu của tao. Và lúc đó, bọn nhãi con sẽ biết tay tao!


Nghe tên cướp nói đến đó, thằng Oai mừng rỡ ra mặt:


- Như vậy, chắc chúng ta sẽ thoát khỏi hải đảo hoang vu này nhỉ?


Tên cướp cười lớn tiếng:


- Thế hồi nãy, mầy không nghe tao nói gì à?


- Dạ, thưa cháu quên mất rồi ạ!


Tên cướp chỉ tay về phía chiếc thuyền con:


- Tao nói là có thể dùng chiếc thuyền nhỏ nầy chạy vòng quanh thế giới cũng còn được nữa, huống hồ đàng nầy…


- Vậy chúng ta nên bắt tay vào việc đi chứ? Gió đang thuận chiều mà! Phải khởi hành sớm để còn mong đuổi kịp bọn kia chứ?


- Mầy khỏi lo chuyện đó!


Nói xong, tên cướp ngửa mặt lên trời quan sát. Thằng Oai cũng bắt chước nhìn lên và thấy vô số vì sao đang lấp lánh trên nền trời xanh thẳm như những hạt kim cương gắn trên một tấm thảm nhung vậy.


Sau khi hết nhìn trời, nhìn sao rồi nhìn biển cả, tên cướp mới quay lại nói:


- Được, tốt lắm! Đừng phí thì giờ nữa! Mọi sự đều sẵn sàng rồi chứ?


Oai hăng hái đáp:


- Dạ, xong cả rồi ạ! Có gì đâu!


Một lần nữa, tên cướp cầm chiếc đèn bão đi lại phía chiếc thuyền con xem xét mấy quai chèo, buồm… Xong xuôi, hắn ra lệnh:


- Tháo dây, kéo nó ra! Tao cầm chèo lên trước!


Thằng Oai lội xuống nước nghe bì bõm, cố sức đẩy thuyền ra. Mãi đến khi nước ngập tới bụng, nó mới dừng lại và sửa soạn nhảy lên thì bỗng nhiên nó khựng mình lại khi nghe tiếng quát của tên cướp:


- Đứng lại đó mầy!


Giọng tên cướp nghe sắc bén như dao, không niềm nở, thân mật như lúc nãy. Nó ngạc nhiên hết sức! Qua ánh đèn, nó nhìn thấy khẩu súng ác nghiệt, đen ngòm đang ló ra nhắm vào đầu nó! Nó chợt hiểu, nhưng vẫn cố làm ra vẻ ngây thơ, lắp bắp hỏi:


- Ông… ông… làm gì vậy?


Tên cướp, vẻ mặt thật đanh ác, dõng dạc:


- Hoặc tao, hoặc mầy một đứa ở lại, một đứa đi. Nhưng chắc không phải là tao ở lại rồi đó!


Thằng Oai cảm thấy trời đất như quay tít mù, mồ hôi đổ ra như tắm, hai hàng nước mắt tuôn chảy. Nó nức nở van lơn:


- Nỡ nào ông bỏ cháu ở lại sao? Tội nghiệp cháu mà!


Tay vẫn giữ nguyên tầm súng, tên cướp lạnh lùng nói:


- Nước ngọt chỉ vừa đủ dùng cho một người thôi! Mầy biết chứ? Tao sẽ bỏ mầy ở lại đây, hoặc giết mầy bằng khẩu súng này. Tùy mầy chọn! Hoặc chết nhanh với một viên đạn hoặc chết chậm vì khát nước!


Mắt thằng bé đỏ ngầu vì quá giận dữ : nó không còn giữ lễ độ như trước nữa. Nó mắng tạt vào mặt tên cướp:


- Không! Không! Tôi không bao giờ muốn chết vì bàn tay phản trắc của ông!


Tên cướp vẫn lạnh lùng, không hề tỏ vẻ nóng giận vì câu mắng chửi của thằng bé. Nó làm như không nghe thấy gì cả. Nó hạ giọng:


- Này bé con! Tao đã nghĩ đến mầy từ buổi đầu cơ! Tao nghĩ có thể đem mầy cùng đi, nhưng vì số nước ngọt có hạn! Không lẽ cứu mầy để cùng chết cả hai à?


Thấy còn nước còn tát, thằng Oai vội quả quyết:


- Tôi xin biếu ông số nước ngọt đó. Tôi thề sẽ không đụng đến dù chỉ một giọt!


Tên cướp cười lắc đầu:


- Tao cũng muốn tin lời hứa của mầy lắm. Nhưng mầy là người với đầu đen máu đỏ, mầy cũng muốn sống chứ? Tao cũng vậy! Lỡ mầy quật ngược thế cờ, ẵm hết nước thì sao?


- Nhưng thà chết trên thuyền còn hơn ngồi đây đợi chết khát à? Vì ông dư biết rằng đảo nầy làm gì có nước, hay có thuyền bè nào ghé vào đây bao giờ đâu?


- Thì biết vậy, nhưng gọi là có chút an ủi may ra có thần thánh nào tới cứu mầy chăng? Vả lại, tao cũng không muốn mầy ngồi chung thuyền với tao, không phải vì sợ hết nước ngọt mà vì…


Nói đến đây tên cướp bèn hạ giọng xuống chỉ vừa thằng Oai nghe thôi:


- Vì… tao là kẻ thù không đội trời chung với mầy!


Thằng Oai đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác, nó không hiểu ất giáp gì về câu nói đó. Nhưng tên cướp, sau khi ngừng một giây nuốt nước miếng, lại chậm rãi tiếp:


- Chính tao đã đánh đắm chiếc HOA HỒNG năm xưa của cha mầy!


Thằng Oai nghiến răng lại, nghe ken két:


- Ông… ông… đã giết cha tôi ư?


- Không! Ba mầy đã chiến đấu và chết như một chiến sĩ dũng cảm. Đến nay, tao vẫn còn thầm phục ông ta. Quả đúng là một viên thuyền trưởng hiếm có!


Thằng Oai thét lên:


- Im đi! Đừng mỉa mai người quá cố nữa! Cám ơn ông đã cho tôi biết điều đó nếu quả đúng sự thật! Bây giờ, xin ông hãy cút đi cho rảnh mắt tôi!


Tên cướp vẫn bình tĩnh, chậm rãi:


- Hãy khoan! Tao tưởng là mầy cần phải biết chứ, dù mầy sắp chết, mầy cũng cần phải biết, biết để được an ủi phần nào công lao mầy bấy lâu đã vào sinh ra tử để tìm tung tích ba mầy!


Nghỉ một lát, hắn lại tiếp:


- Sự thật đúng như thế! Hôm ấy, chúng tao đang cần thực phẩm vì lênh đênh trên biển cả đã mấy ngày mà chưa ghé bờ mua được vì tàu đang bị trục trặc máy móc. Tụi tao cảm thấy lo ngại thì chợt thấy một tàu lạ ở đằng xa, bèn ra dấu hiệu báo nguy. Tàu lạ nhận được những tín hiệu cấp cứu liền tiến lại gần và tụi tao thay vì nhận một số thực phẩm cứu trợ vừa đủ, đã ào ào tràn lên tàu cướp sạch, chẳng những thực phẩm mà còn luôn cả vàng bạc, hàng hóa nữa.


Vừa nghe đến đó, thằng Oai quên cả sợ, chỉ thẳng vào mặt tên cướp:


- Các người thật là giống tàn bạo! – Và nay lại đến lượt ông đền ơn cho tôi đó ư?


Tên cướp vẫn không tỏ vẻ giận dữ gì:


- Mầy đừng nóng, tao còn kể tiếp nữa chứ! Thực phẩm thì tụi tao vơ sạch. Sau đó, có một tên em út phóng hỏa đốt chiếc tàu để phi tang. Lâu lắm, tao cũng không còn nhớ xác tàu hiện nằm ở chỗ nào nữa! Tuy vậy, tao vẫn cảm thấy hơi lo âu sợ chuyện đổ vỡ thì sẽ nguy đến tính mạng. Chi bằng, để chắc ăn, phải thủ tiêu luôn bọn em út, nhất cử lưỡng tiện, vừa giữ bí mật vừa lấy được vô số thực phẩm khỏi sợ ai chia phần cả. Đành phải hy sinh vậy chứ sao! Tụi em út, mầy thấy hôm qua đó, là bọn mới được tao thu dụng mấy tháng nay thôi! Tao mà về lại thì thế nào bọn đó cũng chết với tao! Toàn là bọn du thủ du thực cả!


Thằng Oai lại nghiến răng, lẩm bẩm:


- Trời có mắt! Ác lai ác báo! Thế nào cũng có ngày tên cướp này bị bắt mà chớ!


Tên cướp hình như không nghe thấy gì, hắn lại khàn khàn tiếp:


- Nghe đây bé con : Tao có cướp được một phong bì nơi tay viên thuyền trưởng. Bấy lâu nay, tao cố giữ kín, tuy đã mở ra xem rồi, nhưng không hiểu vì nhiều hình vẽ chằng chịt. Bây giờ, tao đã hiểu và đối với tao, nó không có giá trị gì, kể cả tấm ngân phiếu. Vì tao đâu có lãnh được số tiền đó? Mà thật ra, tao cũng không dại gì mà vác mặt tới lãnh, tuy cũng muốn hết sức! Dù sao, tao vẫn cất giữ nó, vì biết đâu chẳng nhờ nó mà một tên đầu trộm đuôi cướp như tao có thể dùng để tự cứu đầu mình khỏi lìa cổ! Chắc mầy cũng hiểu ý tao muốn nói gì chứ? Nhưng tao sẽ không làm như vậy nữa! Mật thư hiện còn ở trong phòng tao, và khi về lại tàu cũ, tao sẽ lấy ra đem gởi tất cả cho nhà cầm quyền xứ Giamaica! Đó là phần việc của tao phải làm, gọi là để trả lại tiền chiếc thuyền nhỏ nầy cho mầy!!!


Mầy bằng lòng chứ? Tao dàn xếp như vậy là ổn thỏa rồi đó nghe!


Nói xong, hắn híp mắt cười ra vẻ thích thú về sáng kiến vừa rồi. Một lát sau, hắn lại lên tiếng hối thúc thằng Oai:


- Nào! Giờ mầy chọn đường nào? Ăn kẹo đồng hay lên bờ?


Đứng trước họng súng tàn ác, thằng Oai tuy giận sôi gan, ước chừng có thể ăn tươi nuốt sống kẻ đã giết ba mình, nhưng đành bất lực lủi thủi lên bờ, nước mắt ràn rụa! Tuy thế, nó vẫn còn bám lấy một hy vọng mong manh là may ra sẽ có ai tới cứu chăng? Và nó sẽ phục thù cho người cha thân yêu của nó.


Lên đến bờ, Oai ngoái cổ lại nhìn chiếc thuyền con đang từ từ rời bến, trong lòng quặn đau như đứt từng khúc ruột! Chỉ một thoáng sau, chiếc thuyền xa d6a2n rồi khuất hẳn trong bóng tối dày đặc. Oai thầm nghĩ:


- Không lẽ đời mình chấm dứt từ đây sao?


Chua bao giờ nó cảm thấy chán chường và thất vọng như lúc này! Biết làm gì đây, ngoại trừ ngồi nhìn trời, nhìn đất chờ Thần Chết đến? Còn gì khủng khiếp cho bằng tình cảnh một người đang chờ chết. Oai sợ hãi, ngủ thiếp đi…


Sáng hôm sau, khi trời đã sáng hẳn, Oai tìm cách chôn hai xác chết hôm qua. Nó thầm nghĩ:


- Họ là những kẻ xấu số! Nhưng dù sao cũng còn sung sướng hơn tình cảnh nó hiện tại. Nhờ hai phát đạn thi ân, họ đã ra đi một cách yên lành, nhanh chóng, không hận thù – chứ đâu có đau đớn và hãi hùng như tâm trạng nó bây giờ?


Đến xế chiều, để giết thì giờ, nó moi cát lấy hai rương vàng lên xem, nhưng chỉ thấy rương đựng toàn là cát, đúng như lời tên cướp đã nói với nó đêm qua. Nó không thấy thất vọng vì còn lòng dạ nào! Giả sử hai rương kia có chứa đầy vàng bạc thật sự thì cũng đem lại cho nó ích lợi gì trong hoàn cảnh này. Vì biết dùng những thứ đó đổi chác cho ai? Dù chỉ đổi lấy một ít giọt nước ngọt cũng không có!


Buổi sáng ngày thứ hai, cơn khát lại càng hành hạ thằng bé một cách dữ dội. Nó không biết làm gì hơn là ngồi đếm những đợt sóng biển đang đập vào bờ để tìm cách quên đi cơn hấp hối càng lúc càng gần kề! Miệng nó ngậm mãi một hòn sỏi đến nỗi lưỡi bị bỏng lên thật là đau đớn! Nó thầm lạy Trời sao cho có một trận bão tới. Tới gần hay xa cũng được, miễn có bão là tốt rồi. Bảo tới xa thì hy vọng sẽ có thuyền bè ghé đảo để tránh bão, và nó sẽ được cứu sống ; bão gần thì nó sẽ hứng được ít nước ngọt!


Nó khát quá đến nỗi quên cả đói!


Ngày lại ngày… Thấm thoắt, cơn hấp hối của nó đã kéo dài qua ngày thứ tư rồi. Ôi! Bốn ngày mòn mỏi trông chờ… trông chờ một phép lạ! Cơn khát vẫn đeo đuổi nó, vẫn hành hạ nó… Nhiều lúc, nó tưởng chừng có thể phát điên lên được! Những khi đó, nó chạy ào xuống biển, lấy tay chụm lại uống vài ngụm nước mặn, mặc dầu nó cũng biết càng uống thì càng khát thêm! Quả thật là nguy kịch!


Bây giờ, cơn khát lại đến hành hạ nó. Nó bò bằng hai tay hai chân. Bò được một quãng rồi nằm ngất xỉu, tỉnh lại rồi nó lại tiếp tục bò, cứ thế không mấy chốc, nó đã lết tới tảng đá hôm trước…


Trời đã về chiều. Thằng Oai chắp tay nhìn lần cuối cùng về phía chân trời tím – màu tím đầy tang thương và chết chóc… Nó cảm thấy tấn thảm kịch đời nó sắp hạ màn… Chính trong giờ phút cuối cùng này, nó cảm thấy nhớ má nó hết sức. Nó nghĩ đến những ngày còn sống bên người mẹ thân yêu! Nó hối hận vì có lúc đã làm cho má nó sầu khổ vì nó! Nó ước ao được gặp má nó một lần cuối cùng để xin má nó tha lỗi cho, nhưng muộn quá rồi! Nó bật khóc tức tưởi, những giọt nước mắt nóng hổi lăn tròn trên hai gò má hốc hác, đen đủi vì gió biển! Nhưng nước mắt nó cũng đang cạn dần… Và nó thiếp hẳn đi…


Bỗng nhiên, nó giật mình thức dậy! Thật ra, đó chỉ là một phản ứng tự nhiên vì đâu óc nó không còn phân biệt được gì nữa đâu? Nhưng cây đèn trước khi tắt thường sáng hẳn lên. Tình trạng thằng Oai hiện tại không khác gì cây đèn sắp cạn dầu!


Mắt nó vừa chạm phải một vật gì là lạ… Hình thù như một chiếc buồm, một con chim biển hay một đám mây mưa đen kịt cũng không chừng? Vì trước mắt nó tất cả những hình thù ấy thật sự không khác nhau gì nữa! Trong thâm tâm, thằng Oai muốn đứng dậy, nhưng sức đã kiệt, nó ngã xuống nằm dài cạnh một tảng đá, ngực chỉ còn thoi thóp, trong khi mắt nó mờ hẳn đi. Nó đang lâm vào tình trạng hôn mê…


Trong khi đó, nó có biết đâu, ngoài bờ kia trong bóng tối dày đặc, có một chiếc thuyền lạ đang thả neo cập bến! Thật vậy, đó là thuyền của bọn em út tên cướp hôm trước. Chúng quay lại hải đảo nầy để lượm xác của tên cướp nhưng quan trọng hơn là để lấy hai rương vàng!


Một đứa trong bọn lên tiếng:


- Giả sử “Bạn Già” – ám chỉ tên cướp – còn sống thì chắc cũng đã quá yếu không đủ sức chống lại bọn mình đâu nhỉ?


Một vài đứa phụ họa vào:


- Dĩ nhiên!


Thật ra, từ mấy ngày nay bọn chúng chỉ lẩn quẩn quanh vùng để chờ đợi… Và từ rạng đông ngày thứ tư, bọn họ đã quan sát thấy một hình hài nằm dài cạnh một tảng đá. Họ chỉ chờ có thế và quyết định cho thuyền vào bờ để tìm kiếm và chia nhau cái gia tài kếch sù của chủ cũ.


Một tên lên bờ trước, chạy lại ngay tảng đá và la lên:


- Trời ơi! Một thằng bé!


Tên đi sau hốt hoảng:


- Đồ quỉ! Anh em ơi! Ông Bạn Già đã đổi lốt rồi!


Tên đứng cạnh trả lời:


- Đồ ngu mầy! Ông ta là thần thánh chắc?


- Thế hắn ta đâu?


- Cứ tìm kiếm đi thế nào cũng gặp mà! Không lẽ ông ta tàng hình?


Tên kia sừng sộ:


- Thì đó, cứ tìm đi! Mầy nhìn quanh đây thì rõ, hắn đâu?


Được thể, tên kia lên mặt:


- Tao nói thật chứ hắn ta dám đã biến thành chim bay đi rồi!


- Thôi đi ông mãnh ơi! Đừng tin hão tin huyền nữa! Ông ta bay đi đâu? Vào lòng đất hả?


Nghe vậy, mấy tên đứng quanh cười ồ lên, nhưng bỗng giật mình vì có tiếng la bai bải ở phía đàng kia:


- Hai rương vàng đây rồi!


Cả bọn nhớn nhác chạy lại vây quanh hai chiếc rương, hỏi nhau rối rít:


- Vàng bạc đâu cả rồi? Sao chỉ toàn là cát không?


- Chắc có đứa nào phổng tay trên rồi! Nó coi tụi mình không ra gì cả! dám cuỗm vàng đi rồi đổ cát vào!


Tên bị mắng là tin dị đoan hồi nãy lại lên tiếng:


- Hay ông Bạn Già trước khi đi đã dùng quyền phép biến vàng bạc thành cát? Biết đâu, ông ta chẳng thấu rõ âm mưu của bọn mình nên hóa phép trả thù bọn mình?


Tên đứng cạnh gạt đi:


- Mầy biết gì! Hễ mở miệng ra là toàn nói chuyện ma với quỉ. Chính tao đây thấy hắn ta dẫn hai tên nô lệ khiêng hai rương vàng nặng chĩu lên đây chôn mà!


Cả bọn nhao nhao lên hỏi:


- Thế bây giờ vàng bạc đâu? Tên Bạn Già đâu?


- Chia nhau đi tìm xem, chứ chính mắt tôi thấy họ đi lên phía nầy!


Một tên lớn tuổi nhất trong bọn khoát tay:


- Đừng bàn những chuyện ma quỉ nữa! Điều cần là tìm xem ông Bạn Già bây giờ ở đâu, còn sống hay là chết rồi? Ai đã lấy hết vàng bạc trong hai rương kia? Nãy giờ quanh đi quẩn lại chỉ có bọn mình hỏi nhau mà không thể mở ra một mối dây nào cả! Bọn mình phải nhờ đến thằng bé kia kìa, chính nó là nhân chứng độc nhất mà nãy giờ bọn mình quên bẵng đi!


Cả bọn thấy có lý nên rủ nhau lại vây quanh chỗ thằng Oai đang nằm. Một tên lấy chân đạp:


- Chết chưa mầy?


Một tên khác xen vào:


- Hình như nó đã chết rồi! Đem biếu cho cá mập quách cho rồi!


Tên lớn tuổi cúi xuống lấy tay sờ ngực thấy tim còn đập thoi thóp vội đứng lên đề nghị:


- May quá! Thằng bé chưa chết. Có lẽ vì đói khát mà bị ngất xỉu đi thôi! Phải cứu sống nó! Như vậy chúng ta mới có thể tìm ra nhiều manh mối! Bằng mọi cách, chúng ta phải cứu sống thằng bé nầy!


Thế là bọn cướp vội bồng thằng Oai xuống thuyền cấp cứu. Số thằng bé quả còn lớn. Vì tính mạng nó hiện thời hết sức mong manh, chẳng khác gì sợi chỉ mành treo chuông vậy!


Vừa xuống thuyền, thằng Oai được đặt cẩn thận trên một chiếc giường có nệm êm ái. Nó vẫn thiêm thiếp, hai mắt nhắm nghiền… Một tên trong bọn được đề cử săn sóc nó. Trước hết, nó lấy mền đắp cho thằng Oai rồi đưa nước lại cho nó uống. Thằng Oai như con lạc đà vừa vượt qua một sa mạc nóng cháy, uống lấy uống để một lúc hết ba, bốn lon nước. Sau đó, nó được dùng một bữa ăn khô khá thịnh soạn. Bây giờ nó mới sáng mắt ra và rất đỗi ngạc nhiên khi thấy mình đang ở trên một chiếc thuyền buôn lớn. Nó lân la bắt chuyện với người bạn lạ nhìn nó một cách khó hiểu và dần dần biết rõ đầu đuôi câu chuyện, cũng như lai lịch những người lạ mặt ở trên thuyền và ngay cả chính chiếc thuyền buồm. Như có một ý định gì trước, thằng Oai bèn đưa mắt quan sát chiếc thuyền một cách cẩn thận. Bỗng nhiên nó thở dài, lẩm bẩm:


- Tất cả cũng chỉ vì vàng bạc! Nó làm cho tôi cảm thấy nhức đầu quá sức!


Vừa nghe hai tiếng “vàng bạc”, tên lâu la vội chạy vào kêu đồng bọn rối rít:


- Anh em ơi! Có vàng bạc rồi!


Đồng bọn chạy ùa ra vây quanh thằng bé. Tên lâu la hồi nãy bèn vỗ vai thằng Oai, thân mật hỏi:


- Hồi nãy, em có nói đến “vàng bạc”. có phải em định nói đến mấy rương vàng chôn trên hải đảo không? Em có biết hiện chúng nằm ở đâu không?


Thằng Oai trả lời với một giọng điệu hết sức bình tĩnh:


- Tôi biết chứ!


Bọn cướp, mặt nào mặt nấy sáng hẳn lên, đưa mắt nhìn nhau. Tuy nhiên, một tên vẫn tỏ ra chưa tin lời thằng Oai. Nó sợ thằng bé hiểu lầm câu hỏi của bạn mình chăng, nên nó tìm cách hỏi lại:


- Phải em nói hai cái rương “cát” trên hải đảo không? Ý bọn nầy là muốn hỏi hai cái rương vàng thật cơ!


Thằng Oai nói toạc ra:


- Hai cái rương chôn trên hải đảo chỉ là những rương cát, tôi biết chứ. Nhưng tôi cũng còn biết chỗ giấu hai rương vàng thật nữa cơ!


Cả bọn nhìn nhau ngạc nhiên. Tên lớn tuổi làm ra vẻ trịnh trọng, tiến lên ngồi đối diện với thằng Oai, cười xã giao và nói với Oai:


- Em biết hai rương vàng chôn giấu ở đâu chỉ cho bọn này rồi chúng ta cùng chia nhau!


Trái với mọi dự đoán của bọn cướp, thằng Oai lắc đầu, giọng chán ngán:


- Không! Nhất định không! Tôi đã có kinh nghiệm về lời hứa của ông Bạn Già của các ông rồi. Bây giờ tôi không tin ai cả! Tôi cũng không thèm chia phần vàng bạc đó vì đã dính máu biết bao nhiêu người vô tội rồi!


Nhưng một giọng dọa nạt cắt ngang:


- Tốt hơn mầy nên chỉ chỗ cho tụi tao đi, đừng cứng đầu vô ích!


Thằng Oai vẫn điềm tĩnh trả lời:


- Tôi xin nhắc lại là tôi chả cần chia phần phò gì với các ông cả, chỉ đòi các ông một điều kiện thôi!


Cả bọn nhao nhao lên:


- Điều kiện gì? Cho mầy về quê hả? dễ quá!


Thằng Oai chậm rãi trả lời:


- Không phải điều kiện đó đâu! Điều kiện là có một sự đổi chác giữa các ông và tôi!


Một tên trong bọn có vẻ nóng ruột, giục thằng bé:


- Đổi chác gì mầy nói nhanh lên! Tao sốt cả ruột! Mầy cứ nói vòng vo hoài!


Nhưng tên lớn tuổi nghiêm nét mặt:


- Việc đâu có đó, mầy đừng hấp tấp! Nó có biến hình đi đâu mà mầy lo?


Thằng Oai hình như không chú ý đến cuộc cãi vã tay đôi đó, trong trí nó đang xếp đặt các chi tiết để trình bày cho rõ ràng. Một lát sau, nó mới chậm rãi tiếp:


- Vâng! Tôi nói phải có sự đổi chác! Hiện giờ trong phòng ngủ của ông Bạn Già có cất một phong bì đựng nhiều giấy tờ quan trọng mà ông ta đã ăn cướp từ chiếc HOA HỒNG cách đây hơn một năm rồi! Chỉ khi nào các ông cho tôi lên bờ với phong bì đó trong tay, thì tôi hứa sẽ chỉ chỗ ông Bạn Già cất giấu hai rương vàng và tôi xin thề rằng, tôi sẽ không dính dự vào việc chia phần với các ông, dù chỉ là một đồng xu nhỏ! Nếu các ông không chịu điều kiện đó thì tôi sẽ không tiết lộ chỗ để bí mật hai rương vàng. Tôi nghĩ rằng các ông sẽ không giết tôi, vì nếu vậy hai rương vàng quí giá kia sẽ bị mất tích vĩnh viễn luôn!


Bọn cướp tuy chẳng hiểu ất giáp gì về chiếc phong bì kia, nhưng cũng quay lại bàn tán với nhau. Một tên nói:


- Sao thằng bé đó lại dại dột thế nhỉ? Vàng bạc không lấy, chỉ đòi cái phong bì thôi! Chắc có điều gì bí ẩn đây?


Một tên khác nối lời:


- Tao cũng đồng ý với mầy chắc có điều gì bí ẩn trong chiếc phong bì đó. Nếu không tại sao thằng bé lại khăng khăng đòi đổi bằng hai rương vàng? Biết đâu trong đó có tấm họa đồ của một kho tàng bí mật kếch sù nào nữa?


Một vài tên gật gù tán thành lời phát biểu vừa rồi. Sau một hồi suy nghĩ, tên cầm đầu muốn thủ trọn phần cả hai. Nó lên giọng dọa nạt thằng Oai:


- Mầy cũng biết tình trạng mầy hiện đang ở trong tay bọn tao! Một lần nữa, tao hứa với mầy là bọn tao sẽ chia vàng bạc đồng đều cho mầy nếu mầy chịu dẫn đường…


Nhưng thằng Oai vẫn tỏ ra bình tĩnh và khăng khăng giữ vững lập trường đổi chác. Sau một lúc im lặng, nó lại mở lối, nhưng giấu chuyện tấm ngân phiếu:


- Các ông nghi ngờ trong bì thư có họa đồ bí mật hả? Tôi nói thật, sở dĩ tôi cần nó hơn cả vàng bạc vì nó là đầu dây mối dợ đã làm cho ba tôi là thuyền trưởng chiếc HOA HỒNG, chịu bao nỗi sỉ nhục từ hơn một năm nay với chính phủ Giamaica. Tôi đã thề rằng bao lâu tôi còn sống thì tôi phải tìm mọi cách để rửa vết nhơ đó cho ba tôi, nay đã ra người thiên cổ rồi! Tôi trình bày một cách vụng về như vậy, chắc các ông đã hiểu rõ rồi. Tôi… tôi…


Nó định nói gì thêm, nhưng vì quá xúc động, nó nói không ra lời, trong khi nước mắt tuôn ra ràn rụa. Nó lấy khăn lau nước mắt rồi sụt sùi thuật lại đầu đuôi câu chuyện từ khi ba nó bị mất tích… đến khi nó lên đường tìm kiếm… bị đắm tàu… trôi dạt vào một hải đảo… gặp tên tướng cướp mà bọn chúng gọi đùa là ông Bạn Già…


Kể xong, thằng Oai ngước mắt lên nhìn cả bọn với một vẻ thiểu não:


- Chắc các ông đã rõ tình cảnh đáng thương của tôi rồi, tôi chỉ xin các ông giải quyết nhanh cho, tôi nóng lòng về gặp lại má tôi, bà đang mòn mỏi trông chờ, vì tôi là đứa con độc nhất!


Tên đầu đảng cũng nhận thấy sự thật lòng của thằng bé, nó ôn tồn đáp:


- Bọn tao đã thông cảm hoàn cảnh của mầy rồi. Bọn tao sẽ làm theo ý muốn của mấy!


Thằng Oai mỉm cười sung sướng…


Ngay đêm đó, thằng Oai được đem xuống một chiếc xuồng nhỏ, chở vào bờ và thả ngay dưới chân một ngọn đồi xinh đẹp của xứ Giamaica. Dĩ nhiên, nó đã cầm chắc trong tay chiếc phong bì bí mật kia. Đó là kết quả của một sự đổi chác. Giờ đây, ước nguyện của nó đã thành sự thật. Với chiếc phong bì nầy, nó sẽ trình lên cho chính quyền Giamaica để rửa nhục và phục hồi danh dự cho người cha thân yêu của nó – danh dự của một vị thuyền trưởng – trong khi đang thi hành một sứ mạng quan trọng, đã bị thảm sát vì lòng tham của một tên cướp tàn ác, nhưng dư luận lại ngộ nhận, gán cho ông nhiều tai tiếng bỉ ổi… Nó cũng sẽ không quên tường thuật lại những chi tiết về chiếc thuyền buồm mà nó đã ghi nhớ, để nhà chức trách tìm cách bủa lưới bắt cho hết bọn đó. Nếu thộp cổ được bọn cướp, nhất là tên Bạn Già, thì biết đâu lại không tìm ra được tung tích chiếc HOA HỒNG. Và nếu tìm được chiếc HOA HỒNG, chắc chắn nó sẽ tìm được nắm xương tàn của người cha anh dũng nó đang an nghỉ trong đó!


Nó vẫn tiến bước…


Trong bóng đêm u tịch, có ai biết một thằng bé đang sung sướng tươi cười mãn nguyện…


*


Thằng Oai miên man với những ý nghĩ về công việc nó sắp làm, đến nỗi nó về đến nhà lúc nào mà không hay biết. đứng trước ngôi nhà thân yêu, nó cảm thấy hồi hộp khi đưa tay gõ cửa:


- Cốc… cốc… cốc…


Người ra mở cửa không phải là má nó mà là người giúp việc:


- Trời ơi! Cậu Oai! Cậu về bao giờ thế?


Rồi chị ta chạy vụt vào trong, reo to:


- Bà ơi! Cậu Oai về rồi! Bà ơi!


Từ trong phòng, một thiếu phụ, nét mặt xinh đẹp nhưng đầy vẻ buồn sầu, vội vã chạy ra. Vừa thấy thằng Oai, bà đã giơ hai tay ôm chầm lấy nó vào lòng, nghẹn ngào:


- Con má về rồi đó à! Từ ngày con đi, má đêm ngày không ăn ngủ được, má nhớ thương con hết sức! Nếu con có thế nào, chắc má chết mất!


Rồi bà nâng cằm con lên, nhìn sâu vào mắt con, hôn lên trán, lên má con, nước mắt bà trào ra nhỏ giọt trên mặt con:


- Sao? Con có biết được tin tức gì về ba con không?


Thằng Oai cũng khóc nức nở:


- Dạ, thưa má, ba con đã chết thật rồi!


- Thì má cũng biết vậy từ lâu rồi! Má muốn hỏi con có dò la thêm được tin tức gì nữa không kìa?


- Dạ có! Nhiều chuyện lắm má à!


- Vậy hả?


Thằng Oai ngồi dựa đầu vào lòng má nó, kể cho bà ngh chuyện nó bị đắm tàu suýt chết theo người bà con lái buôn…


Má nó kêu thất thanh:


- Trời ơi! Anh Châu con bị chết rồi sao?


- Dạ, anh con và mọi người trong tàu chắc không ai sống sót, trừ một mình con!


Thằng Oai lần lượt kể cho má nó nghe tất cả những gì nó đã gặp, đã thấy và đã nghe trong những ngày lưu lạc trên đường tìm tung tích ba nó. Nó không bỏ sót một chi tiết cỏn con nào…


Má nó nghe xong, ôm chặt nó vào lòng, vuốt ve mái tóc con, rồi bà ngước mắt lên nói giọng thiết tha:


- Cám ơn Trời Đất đã thương giúp con! Má chắc rằng oan hồn ba đã theo dõi phù hộ cho con thành công để rửa nhục cho ba con và cho má con ta!


Thằng Oai rút trong áo ra một phong bì lớn màu vàng đã cũ đưa cho má. Má nó giơ hai tay đón lấy một cách âu yếm. Mở phong bì ra, thấy bức mật thư và tấm ngân phiếu, bà lại òa lên khóc nức nở : chính vì những vật này, mà chồng bà đã phải chết một cách tức tưởi và bị hàm oan cho đến hôm nay! Thằng Oai cũng sụt sùi theo má.


Một lát sau, má nó lau nước mắt:


- Thôi con ạ! Trời bắt số ba con ngắn ngủi, má con ta đành phải chịu vậy, chứ biết làm sao? Nhưng má tin rằng, lòng hiếu thảo của con đã làm cho ba con được ngậm cười nơi chín suối! Danh dự ba con sẽ được phục hồi : đó là điều làm cho má con ta mãn nguyện nhất!


Nói rồi, bà giơ chiếc phong bì lên ngắm nghía, đoạn ôm vào lòng như một kỷ vật quí giá.


Hai mẹ con lại nhìn nhau… như đang muốn tìm lại một hình ảnh thân yêu quen thuộc : Hình ảnh ba thằng Oai!
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Phần 2. Một cuộc săn cá sấu
Thằng Nô và em gái nó là Na đang ngồi chơi trên chiếc du thuyền xinh đẹp của thằng Biên – chiếc “Sư tử” – Bọn chúng đang tổ chức một cuộc đi chơi bằng thuyền trên sông… Sau khi vượt được một chặng đường khá dài, Biên dùng một chiếc thuyền lá, tách riêng để lên bờ mua ít thức ăn. Chiếc “Sư tử” phải đậu ở ngoài vì sợ mắc cạn.
Đây là một vùng có nhiều cá sấu, thằng Nô tuy không biết gì về loài động vật bò sát nầy, nhưng cũng cố chận bắt một con nhỏ và suýt nữa thì nguy đến tính mạng…

Khi Biên định chèo thuyền lá vào bờ, thằng Nô xin đi theo, Biên đồng ý. Chèo được một khúc, Nô ngây thơ hỏi:
- Tao có thể chèo thuyền nầy vào trong mấy lùm cây kia được không? Cho tao thử một chuyến xem chơi nha!
Biên nghiêm nét mặt:
- Coi chừng! Nguy lắm đấy! Trong đó cá sấu dữ lắm!
Nghe nói đến cá sấu, thằng Nô lấy làm lạ lắm vì từ bé đến giờ nó đã thấy con vật ấy tận mắt đâu!
Nó nghĩ thầm:
- Chắc thằng Biên dọa mình đây, Cứ thử vào coi ra sao!
Sau khi đã thả Biên lên bờ rồi, Nô chèo thuyền lá trở lại thuyền mẹ tức là chiếc “SƯ TỬ”, rồi chèo quanh quẩn một lúc. Thế rồi, nó quyết định chèo thẳng về phía mõm đá, lùm cây.
Trong khoang thuyền đã có sẵn mấy lưỡi câu, còn sợi dây thì hiện nằm trong túi nó và đã thắt mối thòng lọng rồi. Trông dáng điệu của nó có vẻ chăm chú lắm. Gió từ phía giòng sông thổi lồng lộng về phía mấy lùm cây nghe xào xạc. Chèo được một quãng, thấy nước đã cạn, Nô nhảy xuống cắm cột buộc thuyền. Sau đó, nó lặng lẽ tiến từng bước chầm chậm để rình mò các chú cá sấu. Chẳng mấy chốc, nó thấy một chú sấu bự đang nằm dưới lớp bùn mỏng cạnh bờ đá. Nô không một chút sợ hãi, bình tĩnh đứng nhìn con vật. Tò mò hơn, nó quay lưng lại và đi vòng ra phía sau để quan sát cho lỹ. Cá sấu dài cỡ 3m5, thân mình đầy những lớp vảy dày cộm, tạo nên một làn da sần sùi gấp trăm lần da cóc! Sau khi ngắm đã đời, thằng Nô lại vòng ra phía đầu cá sấu : bây giờ sấu ngẩng đầu lên và trân trối nhìn Nô với đôi mắt trong xanh. Miệng nó cũng mở rộng ra như muốn nuốt tươi thằng bé. Nô tuy có hơi sợ, nhưng vì quá tò mò, nó cũng tiến lại gần và thấy rõ hai hàm răng trắng hếu, dài và hình như không cứng lắm thì phải. Trông xa hơn, nó lại thấy một con sấu khác hình thù to lớn không kém con nầy. Khi Nô tiến lại gần, thấy nó đang núng na núng nính trườn qua bùn và bò vào một vũng nước gần đó. Một lúc sau, Nô không nhìn thấy rõ con vật nữa, nhưng cũng biết nó đi về hướng nào nhờ vết bùn đục.
Thằng Nô còn nhìn thấy nhiều cá sấu nữa, nhưng hễ nó tìm cách lại gần thì y như mấy chú sấu lại chuồn xuống nước cả. Nô không hiểu tại sao cá sấu lại nhát người đến thế. Cuối cùng, Nô chống thuyền tiến xa hơn, vào các mõm đá chật hẹp mà lạch nước nhiều khi chỉ vừa lọt chiếc thuyền lá thôi. Đi được một quãng, thuyền bị mắc bùn, thằng Nô phải lội xuống đẩy. Nó cảm thấy chán nản muốn quay thuyền ra vì nhìn quanh quất chẳng thấy con sấu nào nữa cả. Nó lẩm bẩm:
- Có lẽ trong nầy không có cá sấu?
*
Thật ra, thằng Nô cũng cảm thấy sợ cá sấu lắm. Chỉ nhìn hình thù sần sùi của nó cũng đủ sợ rồi, huống hồ thấy miệng sấu thỉnh thoảng há to ra như chực nuốt chửng nó! Đối với thằng Nô, đây chỉ là một cuộc đi coi cá sấu thì đúng hơn là một cuộc đi săn. Vì nếu là một cuộc đi săn thì phải sửa soạn cẩn thận chứ, nhất là đối với giống cá nguy hiểm nầy. Đàng nầy, nó có sửa soạn gì đâu, chẳng qua vì tò mò thôi! Tuy nhiên, Nô cũng cảm thấy tiếc tiếc, biết vậy hồi nãy rủ con Na cùng đi với thì thú quá. Nhưng chắc em nó không đi đâu vì con bé nhát lắm. Trời vừa nhá nhem tối là nó chỉ quanh quẩn trong nhà không dám bước chân ra sân nữa!
Đưa mắt nhìn một vòng tìm xem có chú sấu nào không, thấy không có, Nô bèn đẩy thuyền ra khỏi bùn rồi quay mũi thuyền trở ra. Trong thâm tâm, nó định trở về kẻo thằng Biên trông chờ. Tuy hai tay bám vào mạn thuyền, lom khom đẩy, nhưng mắt nó vẫn không quên nhìn quanh tìm kiếm cá sấu. Chợt Nô nhận thấy trên lớp bùn đằng trước mặt có một vài dấu vết lún sâu xuống. Điều làm cho thằng Nô chú ý là các dấu đó không giống những dấu vết mà nó đã thấy đằng kia. Những dấu chân nầy không lớn lắm, còn ướt và dấu đuôi sau bóng láng nhỏ nhắn. Nó thầm nghĩ:
- Một con sấu vừa bò qua đây, vì vết bùn còn mới lắm. Con sấu nầy không lớn như những con ở ngoài kia. Chắc là sấu con. Mình phải theo chân nó, may ra bắt được chú sấu con thì còn gì thích thú cho bằng.
Nô lo lắng quay lại nhìn các dấu vết một lần nữa để xem sự phỏng đoán của mình có đúng không. Các dấu chân còn rõ, nhỏ nhắn và lún sâu xuống bùn, nhất là dấu đuôi lết qua để lại một đường dài bóng láng. Nhưng khi thằng Nô tiến vào một khúc gần hốc đá thì các dấu vết tự nhiên bị mất hút. Nhưng không, nó lại nhìn thấy chúng cách đó không xa, có lẽ vì sóng tạt vào đã san bằng đi. Nô hồi hộp men theo dấu chân, nhưng thỉnh thoảng phải nhìn quanh một vòng đề phòng xem có chú sấu lớn nào đang rình nó không. Nó cũng không yên tâm về chiếc thuyền của nó nữa, vì hồi nãy mải theo dõi dấu chân sấu con nên quên không buộc thuyền lại. Để yên chí, nó vội vã quay lại đẩy thuyền con vào sâu trong bờ, rồi lội bộ theo dấu con sấu nhỏ. Bùn thật lầy lội, ngập tới đầu gối. Nhưng càng vào sâu trong mấy hốc đá bùn càng mỏng dần, bây giờ chỉ còn ngang mắt cá là cùng. Bỗng thằng Nô lại không thấy dấu vết sấu con đâu nữa cả. Nhưng vừa qua khỏi một đám cây thấp, nó lại tìm thấy… và dấu vết cứ lẩn quẩn quanh đó. Nó vẫn hồi hộp và kiên nhẫn theo dõi cho đến khi chúng mất hẳn trong một vũng nước nhỏ. Vừa đi tới, Nô đã trông thấy ngay một chú sấu con đang nằm yên dưới mặt nước. Sấu hãy còn nhỏ lắm, chỉ dài cỡ 20 phân tây là cùng. Lớp vảy trên thân mình còn trong và có màu vàng ngà, lốm đốm đen. Thằng Nô mừng quá reo lên:
- A! Một chú sấu con!
Nó thấy hồi hộp quá, chưa muốn bắt vội. Nó đi quanh vũng nước một vòng nhìn xem thử có sấu mẹ lẩn quẩn đâu đó không. Dù đã yên tâm rồi, thằng Nô cũng vẫn chưa muốn bắt sấu. Nó tiến lại gần hơn và dùng tay khoát mạnh mặt nước, cúi xuống nhìn thấy sấu con vẫn còn nằm yên. Nó mỉm cười thích thú.
Cảnh vật xung quanh thật yên lặng, chỉ thỉnh thoảng từ xa vọng lại một vài tiếng chim kêu hay tiếng sóc đang đuổi mồi trên các cành cây. Ngay chỗ thằng Nô đứng thì tuyệt nhiên không có một tiếng động nào dù chỉ một tiếng lá rơi!
Chậm rãi, Nô tiến từng bước một, cố hết sức để khỏi vấy bùn làm đục nước đi. Nô bước đi một cách khó khăn. Khi đến gần chỗ lõm, nơi sấu con đang nằm, Nô phải đợi nước trong trở lại. Một lát sau, qua làn nước trong, hắn ta mới thấy rõ ràng chú sấu con đang nằm yên trong một dáng điệu thật hiền lành. Nó thấy tường tận cái đầu sấu con xinh đẹp với đôi mắt bé tí, cái đuôi mảnh khảnh…
Nô cẩn thận tiến lại thật gần, xòe mấy ngón tay và nắm chặt ngang lưng con vật nhỏ bé. Qua lớp bùn sũng nước, Nô cảm thấy con vật cứ trườn lui trườn tới, nhưng Nô vẫn nắm chặt. Chú sấu con, đôi mắt vàng lim dim như còn ngái ngủ, bốn chân nhỏ bé đang cào xé một cách vô hiệu quả, trong khi miệng nó thỉnh thoảng mở rộng ra, táp thình lình miếng mồi vô hình trước mặt.
Nô cũng rất ngạc nhiên khi nghe những tiếng ủn ỉn như tiếng con heo, thoát ra từ miệng sấu. Nhưng mặc sấu làm gì thì làm, thằng Nô vẫn nắm chặt, sợ con vật tuột khỏi chạy mất thì rất uổng công nó. Bây giờ, Nô cầm sấu rửa thật sạch bùn rồi đưa lên ngắm nghía có vẻ thích thú lắm. Cuối cùng nó trở lại chỗ thuyền con đậu, vừa đi vừa huýt gió, điệu bộ thật hí hửng như vừa được một món quà quí giá. Trong khi đó, sấu con vẫn tiếp tục kêu ủn ỉn.
*
Trên quãng đường trở về thuyền con, Nô đang quờ quạng lần từng bước một trong đám sình lầy ngập tới bắp chân thì chợt nghe những tiếng kêu đằng sau. Tiếng kêu nghe thật lớn, cộc cằn xen lẫn những tiếng huýt gió. Nô bèn ngoái cổ lại, thì từ đằng kia, một con sấu to lớn lạ thường với hai lỗ mũi bé tí, với cái mõm xương xẩu đen sì đang ào ào bò đuổi theo.
Chẳng hiểu sao, tự nhiên thằng Nô ngồi bệt xuống ngay giữa đống bùn dày đặc, có lẽ vì quá sợ hãi. Cứ nhìn mặt nó thì biết : mặt mày tái ngắt, tưởng chừng như cắt không còn một giọt máu! Nhưng sau đó, với chút sức lực còn lại, Nô cố “cày” tới chỗ thuyền con đang đậu, hai chân quệt lấy quệt để, cố sao rút nhanh ra khỏi đám bùn độc ác đang quyện lấy đôi chân yếu ớt của nó, trong khi hai tay quờ quạng để giữ thân người khỏi bị nhào xuống. Chạy được một chốc, Nô nhớn nhác nhìn lại thấy sấu mẹ vẫn đuổi theo và hãi hùng thay, sấu cũng đang cố sức vượt nhanh hơn thằng Nô! Khi Nô đã nhoài được một nửa người lên thuyền con rồi thì sấu mẹ chỉ còn cách nó độ vài phân thôi! Thật là hú vía! Nhưng sấu ta đã chịu thua đâu!
Vừa quẳng sấu con xuống sàn thuyền, Nô chụp ngay cây sào chống thuyền nhanh khỏi vũng bùn. Và ngay khi sấu mẹ nhoài mình xuống nước đuổi theo thuyền, thì thằng Nô cũng vừa nắm được mái chèo cố sức bát cạy. Một lát sau, Nô không còn thấy bóng sấu mẹ đâu cả, nó thầm nghĩ:
- Lẽ nào sấu lại bỏ cuộc?
Hắn lại rán sức chụm chân cố chèo nhanh ra ngoài kia cho vững tâm hơn. Thuyền con lướt nhanh trên mặt nước. Nhưng sấu mẹ vẫn chưa buông tha kẻ thù. Có điều bây giờ, nó không nổi lên mặt nước mà chỉ lặn ở dưới sâu thôi. Cứ nhìn mặt nước thì biết, nó đi đến đâu mặt nước lại cuộn lên ở đó. Lúc đầu, những cuộn tròn mềm mại, sau đó lại trải rộng ra càng lúc càng nhỏ dần. Một ý nghĩ đến nhanh với Nô : có lẽ sấu tinh khôn hơn, chờ đuổi gần kịp mồi mới trồi lên mặt nước! Như vậy vừa đỡ nguy hiểm cho chính nó vừa gây bất ngờ cho mình, khiến mình không thể trở tráo kịp!
Quả thật! Khi đuổi gần tới thuyền con, bỗng nhiên, sấu mẹ nổi lên trườn mạnh tới. Nô thấy rõ cái đầu dài đen thui, sống lưng đầy vảy sần sùi, miệng phì phì không ngừng , trong khi đuôi quật mạnh tỏ vẻ giận dữ tưởng chừng ăn tươi nuốt sống thằng bé đã dám bắt con mình! Nô càng cố sức chèo, cổ họng nó càng cháy khô, tai phát ra những tiếng lùng bùng rất khó chịu, chân tay rã rời, tim đập mạnh như muốn văng ra khỏi chiếc lồng ngực dẹp lép của nó!
Sấu mẹ cũng dồn hết sức lực đổi theo, đôi mắt nhìn chầm chập vào kẻ thù như sợ bị lạc hướng. Chợt một ý nghĩ táo bạo đến với Nô… Nó ngừng chèo và chụp ngay cây sào. Đó là một cây sồi trắng dài độ 2 thước. Phía đầu kia có gắn một lao sắt nhọn hoắt. Nô đứng trên sàn thuyền, trong tư thế sẵn sàng một sống một chết với con vật. Nó chờ sấu mẹ tới là hành động ngay. Trong khi đó, sấu ta không kể nguy hiểm, quật mình thẳng tới kẻ thù, đôi mắt trông thật dữ tợn, đuôi quật mạnh làm nước văng tung tóe. Ước lượng thấy vừa tầm tay, Nô dùng hết sức lực đâm mạnh vào mõm con vật.
Rầm! Con vật bị đánh trúng mạnh ngay nơi sống mũi xương xẩu của nó. Nhưng xem ra không thấm tháp gì với sấu, trong khi tay Nô bị rung mạnh khiến nó mất thăng bằng, nhoài người xuống làm thuyền bị chòng chành rồi nghiêng hẳn về một phía, nước ào ào tràn vào, tưởng chừng thuyền sắp bị chìm. Tuy vậy, sấu mẹ cũng vội vã biến mất dưới lớp nước bùn dày đặc. Nhưng chỉ độ vài giây sau, từ dưới lớp bùn đen, sấu mẹ lại xuất đầu lộ diện. Ngay khi vừa xé đôi mặt nước, sấu mẹ há to mồm nhào tới kẻ thù.
Trước mắt thằng Nô, mọi vật hình như bị xóa mờ hẳn trừ hai hàm răng sấu đang nhe ra một cách khủng khiếp : Mỏm đá, khu rừng, bầu trời… tất cả đều đang lặng chết! Các tia sáng mặt trời hình như đang chiếu xuyên qua mọi vật kể cả đáy thuyền con của nó, vì nó thấy rõ dưới chân nó cả bùn là bùn!
Liếc mắt nhìn sấu mẹ, Nô thấy rõ những chiếc răng trắng hếu. Nhìn vào sâu hơn thì chỉ thấy đen ngòm, ẩm ướt, đầy vẻ chết chóc. Miệng sấu đang há hốc ra và dường như càng lúc càng rộng thêm… Sấu hùng hổ tiến tới phía thằng Nô mỗi lúc mỗi nhanh. Để đối phó với cái chết gần kề gang tấc, thằng Nô ngồi xổm xuống trên sán thuyền, bất động, hơi thở dồn dập…
Đã đến lúc phải liều mạng : thằng Nô nhào tới với cây sào trong tay. Nó mím môi lao mạnh vào con sấu… Phịch… Sào đánh trúng hàm trên và xé mất một mảng thịt nơi miệng sấu và hai mắt Nô tự nhiên mở to ra vì nó vừa thấy lao sắt sáng chói dưới ánh mặt trời đang từ từ lún sâu vừa vặn vào cổ họng sấu mẹ. Thật là một điều quá sức tưởng tượng của nó. Nô vui sướng reo lên tưởng như vừa lập một kỳ công! Mà quả thực, đây cũng là một kỳ công. Một kỳ công đã có thể lật ngược thế cờ, cứu mạng sống của nó khỏi hàm răng dữ tợn của một con cá sấu đang điên dại vì mất con!
Con vật quay cuồng, lồng lộn như một người mất trí, đập rầm rầm xuống mặt nước. Một lần… rồi một lần… rồi lại một lần nữa, sấu mẹ há hốc miệng phun nước ra ào ào… Nhưng càng há to miệng, càng lồng lộn, cây sào độc ác càng vô tình đâm sâu vào trong cuống họng hơn. Sấu có vẻ kiệt lực dần, nhưng vẫn còn hung hăng, đuôi vẫn quật mạnh gây nên những đợt sóng bạc đầu khiến thuyền thằng Nô chòng chành theo, tưởng như sắp bị lật úp.
Trong khi con vật đang quờ quạng trên mặt nước thì Nô vội trở lại phía sau khoang thuyền kéo chèo ra đẩy mạnh. Thân mình nó nhễ nhại những mồ hôi và bùn lầy. Nó cảm thấy mệt hết sức, nhiều khi không còn nhìn thấy gì cả, dường như hai mắt đều bị lòa, nhưng tai nó vẫn còn nghe rõ tiếng vỗ ầm ầm phía sau. Sấu mẹ vẫn còn lượn qua lượn lại, hai chân trước đang vói tới cào xé kẻ thù trước mặt một cách vô vọng. Nó vẫn liều mình đuổi theo. Nô còn nghe rõ tiếng phì phì từ cửa miệng sấu, nhưng xem ra mỗi lúc nó mỗi kiệt lực, chỉ một chốc sau, thuyền thằng Nô đã bỏ xa sấu một quãng khá dài.
Lúc chỉ còn cách chiếc “Sư tử” độ chục thước, Nô đã kêu con Na inh ỏi. Nó kêu ré lên nhiều lần, dù nó đã nghe em nó trả lời. Vừa khi chiếc thuyền con đụng thuyền mẹ, Nô đánh đu vào mạn thuyền một cách vụng về trong khi hai chân đạp mái chèo vào sàn thuyền. Nó đạp mạnh đến nỗi một mái chèo bị gãy đôi, trôi lềnh bềnh trên mặt nước. Thằng Nô muốn trèo lên thật nhanh, nhưng hình như có một sức mạnh vô hình nào đó đang kéo nó xuống… Đứng trên thuyền mẹ, con Na chẳng hiểu vì sao mà anh nó cuống cuồng lên như thế. Nó rối rít hỏi với một giọng hoảng hốt:
- Anh Nô! Có chuyện gì thế? Làm gì mà cuống lên như gà mắc phải tóc vậy?
Nô lắp bắp:
- Cá sấu… không phải anh… hàm… to… đuổi… thuyền… ăn… anh… trúng sào…
Bé Na tuy chẳng hiểu gì cũng quýnh lên:
- Cái gì vậy hả? Cá sấu ở đâu?
Ực! Thằng Nô nuốt nước miếng rồi nhìn vào vẻ mặt sợ hãi của em gái, nói chậm rãi:
- Anh nói là cá sấu đuổi theo ăn thịt anh!
Na hoảng hốt:
- Ở đâu? Có sao không anh?
Nô lại cố gắng đứng lên, trong khi hai tay nắm chặt vào mạn thuyền. Nhưng lạ thay! Hai đầu gối nó cứ quị xuống. Nó cố gắng hai, ba lần nhưng tất cả đều vô hiệu vì hình ảnh hãi hùng kia như vẫn còn hiện ra sờ sờ trước mắt. Nó sợ quá, cho đến bây giờ khi đã biết chắc mình thoát nạn rồi mà vẫn còn khiếp đảm. Hình ảnh chết chóc đã ám ảnh mạnh trong đầu óc nó! Cuối cùng, nó đành ngồi bệt xuống, vừa thở hổn hển, vừa trả lời tiếng được tiếng mất:
- Nhờ… cây… cây… sào…
Rồi bỗng nhiên, nó nói thật nhanh như có một sức mạnh nào thôi thúc nó:
- Sấu mẹ nuốt chửng cây sào rồi!
Na sốt ruột đưa tay ra:
- Thì trèo lên đây đã nào! Làm gì mà ngồi xếp bằng ở dưới đó vậy?
- Không đứng dậy được! Hình như đầu gối anh bị gãy rồi thì phải!
Bé Na nước mắt lưng tròng, miệng mếu máo chực khóc:
- Anh bị thương rồi à? Có sao không?
Lâu lắm, thằng Nô mới thốt được mấy tiếng:
- Không đâu! Có lẽ tại anh mệt quá nên đứng lên chưa được đó thôi!
Sau đó, Nô mỉm cười nói tiếp:
- Một con sấu to lớn đuổi theo, vì anh bắt con của nó.
Bé Na hình như không chú ý câu chuyện của anh, nó mải nhìn nơi miệng anh nó:
- Bọt xà phòng đâu nơi miệng mà lắm vậy? Anh rửa miệng đi!
Nô buồn cười vì sự lầm lẫn của em, nhưng không muốn cắt nghĩa làm gì. Nó vội lấy tay khoát chút nước rửa miệng rồi tiếp tục kể:
- Em biết không? Anh bắt con của nó, nó đuổi theo anh mãi. Tưởng chừng lên thuyền rồi thôi chứ ai dè nó vẫn theo anh hoài. Có một lúc, con sấu mẹ tiến sát thuyền anh, anh sợ nó lật úp thuyền thì nguy, túng quá anh lấy cây sào có móc sắt lao mạnh vào trong họng nó. Đau quá, nó mới chịu bỏ đi, nhưng chắc chưa đi xa đâu, dám còn lẩn quẩn quanh đây lắm!
Na lo sợ:
- Thật hả anh?
Được thể, thằng Nô dọa em:
- Ôi chao! Con sấu mẹ to lớn dị thường, nó dài… dài bằng cả một chiếc thuyền nhỏ chứ không phải vừa đâu!
Nô vừa nói vừa dang tay ra làm dấu cho bé Na hình dung được sự to lớn của con sấu
Na ngây thơ hỏi, dường như nó quên câu chuyện anh nó vừa kể sơ sài ở trên:
- Anh tìm cách bắt nó hay sao mà nó cắn anh?
Nô nhìn em, lắc đầu:
- Em sao chóng quên vậy? Anh bắt con của nó chứ! Làm sao anh dám bắt nó! Đụng tay vào cái vảy của nó cũng chưa dám huống hồ bắt nó!
Ngừng một lát, nó lại tiếp tục:
- Anh bắt con của nó. Nó đuổi theo anh, anh lao nguyên cả cây sào vào họng nó!
Nghe đến đó, con Na le lưỡi sợ hãi! Nãy giờ đứng lâu thấy mỏi chân, Na lại giục anh nó:
- Thì lên trên này hẵng kể tiếp!
- Ừ nhỉ! Mải nói chuyện nên quên đi mất! Nhưng dù sao anh vẫn còn mỏi chân quá, nhất là hai đầu gối!
Nó đưa tay bóp mạnh hai đầu gối. Một chốc sau, nó mới đứng dậy một cách khó khăn. Nó trở lại lượm cây chèo định trèo lên thuyền mẹ, nhưng chợt nhớ ra còn quên chú sấu con. Nó bèn quay lại tìm, chợt nó giật mình vì không thấy con sấu đâu cả. Nó sửng sốt hết sức, nhưng cuối cùng tìm thấy ở góc đáy thuyền.
Na ngạc nhiên:
- Anh còn tìm gì nữa đấy?
À! Anh quên mất chú sấu con!
Na nhoài đầu ra hỏi:
- Ừ nhỉ! Mà sấu con đâu rồi anh?
Nô vừa tìm ra sấu con, liền chụp ngay đuôi, sấu quay đầu lại nhe răng định cắn vào tay Nô. Nô vội thả ra rồi nắm ngang lưng con vật và giơ lên khoe với em gái:
- Sấu con đây này!
Na nhìn sấu con với một vẻ mặt ngạc nhiên thích thú. Nó với tay ra định bắt:
- Đẹp nhỉ! Đưa em nắm cho!
Nhưng Nô lắc đầu lia lịa:
- Không được! Em không biết cách nắm, nó cắn thì nguy hiểm lắm đấy!
Na nài nỉ:
- Nhưng mà anh nhớ cho em nha!
Thằng Nô cười không nói.
*
Sau khi đã lên thuyền mẹ rồi, Nô cùng với con Na lại tụt xuống lo chùi rửa chiếc thuyền con. Chúng cũng không quên lấy một chậu nhỏ cho vào ít nước, thả sấu con vào rồi cả hai anh em cùng đứng ngắm nghía với vẻ mặt thích thú!
Riêng Nô, gặp bất cứ ai nó cũng say sưa kể lại chiến công của mình. Dĩ nhiên, nó cũng không quên thêm mắm thêm muối vào chút đỉnh cho ra vẻ ta đây… tài giỏi. Thật ra thì tài giỏi đâu không biết, nhưng ai cũng phải công nhận rằng nó quả thật là một đứa trẻ bình tĩnh và can đảm có thừa.
Nô cũng rất hãnh diện về mình. Nó kể đi kể lại có đến năm, sáu lần mà lần nào cũng giống lần nào, hình như nó đã thuộc lòng câu chuyện vậy. Vào xế trưa hôm đó, khi Biên trở về, thằng Nô lại được dịp bô bô về thành tích bắt sấu của mình. Dĩ nhiên, đối với nó chỉ là “bổn cũ soạn lại!”. Nhưng với thằng Biên thì khác hẳn, nó tỏ vẻ ngạc nhiên vì không ngờ thằng Nô lại gan dạ đến thế. Hắn bèn rủ thêm hai đứa nữa rồi cả bọn kéo nhau đi về phía mỏm đá để nhìn tận mắt những gì thằng Nô vừa kể.
Tuy ngoài mặt thì Nô có vẻ hãnh diện, được dẫn đầu đoàn người đi coi kỳ công của mình, nhưng trong lòng nó cũng cảm thấy hồi hộp, sợ rằng những dấu vết nó và sấu mẹ đã quần thảo nhau không còn nữa. Nhưng rất may, tất cả đều được chứng minh : cả bọn đã tìm thấy một khúc sào gãy, vết còn mới và một vài chỗ thấy có dấu máu nổi lên, hình như sấu mẹ đã quật mạnh đến gãy sào…
Thằng Nô cố công tìm xem có xác sấu nổi lên đâu đó không, nhưng nó thất vọng vì không thấy gì cả.
 

xanhduong111

Rìu Vàng
[SPOILER = Nội Dung ẩn ] Nội dung cần ẩn [/SPOILER]

Bạn xóa mấy cái chỗ cách trong thẻ SPOILER đi nhé {boss}{boss}
Cảm ơn bạn rất nhiều
 

menu1a

Búa Gỗ Đôi
lâu nay toàn đọc truyện tàu phải tranh thủ cày hết mớ này mới đc
 

rs_lyly2009

Moderator
Thành viên BQT
Hai Rương Vàng
Phần 3. Lạc vào hoang đại

(Thằng Đôn – một cậu bé, trạc độ 12 tuổi, đang nghỉ hè ở một trại nuôi gia súc ở Tần gia do ông Mặc Ly làm chủ. Lúc mới đặt chân tới, cậu ta có vẻ ngỡ ngàng, nhưng về sau nó trở nên bạn thân của cô bé con ông chủ, tên Bình. Tuy nhiên thằng Bân, anh cô bé, thì trái lại, bao giờ cũng tỏ ra lạnh lùng với nó. Vào một sáng nọ, ông Mặc Ly có việc cần phải đi xa vài ngày, đem cả cô Bình nữa. Thằng Đôn ở nhà, buồn vì không có bạn nên nảy ý nghĩ dùng ngựa mang theo một túi đá đi ra khỏi trại một mình, mục đích cố ý tìm săn một vài con kangourou vì nó vốn có biệt tài về môn ném đá. Đã nhiều lần nó biểu diễn tài nghệ đó cho anh em thằng Bân xem, bằng cách nhắm ném đá vào đầu một con gà giữa sân. Con gà bị vỡ sọ chết ngay! Nhưng không may, cả người lẫn ngựa mải mê say tìm mồi nên quên lối trở về nhà. Thằng Đôn bị lạc vào trong một vùng hoang địa có nhiều thú dữ và rắn rết… Lang thang suốt ngày, mãi đến chiều, nó vẫn chưa tìm được lối về, thì may mắn thay, nó tìm được một con suối và đành phải ngủ qua đêm trong một hốc cây…)
Tuy mệt nhoài người, nhưng thằng Đôn không ngủ thẳng giấc được, có lẽ vì quá “lạ nhà”. Nó cảm thấy gân cốt rã rời. Giường ngủ lại là một nền đất cứng nhắc. Côn trùng chui rúc, bò khắp cả mình mẩy nó. Đêm tối đen như mực, nên nó không thấy đó là những con vật gì nữa, nhưng đoán chắc thế nào cũng có vài chú nhện vì loại sinh vật này có rất nhiều ở trong vùng. Có một lúc, nó giật mình tưởng có con vật gì rơi xuống lưng nó, nhưng không phải, đó chỉ là những lá vàng hay cành củi khô bị gió quẳng xuống thôi.
Bỗng nhiên, nó cảm thấy rùng mình vì một ý nghĩ vẩn vơ đến với nó : nó vừa chợt nghĩ đến một con rắn nào đó đang bò vào ổ nằm của nó… Nghĩ đến đó, thằng Đôn sợ quá không dám cựa quậy, chỉ việc nằm chờ nọc độc rắn cắn vào một chỗ đâu đó trên thân xác nó. Nhưng không, không có gì xảy ra như nó tưởng cả. Nằm mãi không ngủ được, nó lắng tai nghe tiếng động ngoài kia đang dội lại : thôi thì đủ mọi thứ tiếng động, thay đổi nhau hoài và kết hợp lại thành một thứ âm thanh hỗn độn, khó phân biệt rõ ràng được. Nhưng tâm trạng thằng Đôn hiện tại là thao thức, khó ngủ. Để giết thì giờ chờ sáng, nó cố lắng tai nghe những tiếng động thật kỳ dị thốt ra từ đủ thứ động vật : nào là những đàn vạc đi ăn đêm về, nào là những chú dế mèn, những anh chàng dơi rừng đang bay vụt trong đêm tối để bắt muỗi mòng. Các chú ễnh ương cũng kêu lên inh ỏi ; thỉnh thoảng một vài con chim bị động, vỗ cánh bay lên nghe xào xạc. Các côn trùng lẫn dã thú hình như đã thức dậy và đang bận rộn với những công việc riêng đầy vẻ bí mật của chúng.
Vừa nhắm mắt được một chốc, thằng Đôn giật mình thức dậy vì hình như có ai đang chiếu đèn vào mắt nó. Ở đây có một bóng người nào đâu? Hay bé Bình đến cứu ta? Thằng Đôn dụi mắt, không thấy gì trừ một vài ánh sao chiếu xiên xuống hốc cây. Nhưng khi đã định thần, nó thấy ngoài kia, trên mảng đất cằn cỗi, đang có hai vật sáng nhấp nhánh như hai mắt của con chó sói mà nó đã thấy vẽ trong sách. Hai vệt sáng đang đăm đăm nhìn nó như muốn hỏi thăm điều gì. Đôn bình tĩnh móc túi cầm 1 viên đá sẵn sàng tự vệ. Nhưng bỗng nhiên người khách lạ đã biến đi tự bao giờ rồi. Sau đó, Đôn ngồi tựa lưng vào thân cây cho đỡ mỏi thì lại thấy con ma hồi nãy hình như đang bay lơ lửng trong lớp sương mù dày đặc, mặt mũi xanh nhạt, trong khi cặp mắt đỏ rực như hai cục than hồng. Lập tức Đôn nhắm nghiền hai mắt lại. Nhưng khi nó vừa hé mở ra thì vẫn thấy bóng con ma còn đứng sững trước mặt với hai con mắt đỏ như hồi nãy. Đôn sợ quá phát run lên, hai hàm răng đánh vào nhau nghe cành cạch. Nó liền vặn mình một cái rồi lùi xa vào trong hốc cây. Một lát sau, nó mới hoàn hồn, vì nhớ lại có lần bé Bình nói với nó là trong rừng có một vài loại nấm phồng, mọc bám ở thân cây khác, có thể chiếu sáng lúc ban đêm một cách kỳ quái như thể nấm được bao bọc bởi một lớp dạ quang vậy. Nhờ nhớ lại sự cắt nghĩa đơn sơ này mà Đôn bớt sợ hãi phần nào. Vì thế nó lại tiếp tục ngủ với hy vọng may ra khi tỉnh dậy thì trời đã sáng rồi.
Nhưng không, khi nó tỉnh dậy, bóng tối vẫn còn bao trùm cả bầu trời lẫn trong bộng cây – tổ ngủ của nó. Ngoài kia, côn trùng vẫn còn thi nhau kêu ầm ĩ. Thỉnh thoảng chen vào một vài tiếng rống nổi lên nghe thật rùng rợn. Một vài con ngỗng trời bay qua đầu nó, tiếng vỗ cánh sạt sạt xen lẫn với những tiếng kêu nghe thật buồn thảm. Trên trời, tuy ít sao, nhưng nó cũng thấy rõ dải Ngân hà.
Đôn lại ngủ, tỉnh dậy rồi lại ngủ. Ánh sáng bình minh vẫn chưa thấy ló dạng. Hình như đêm dài vô tận thì phải. Một cơn gió nhẹ thổi qua lay động các cành cây, kéo theo hàng ngàn lá vàng rơi bay lả tả, nó nghe rõ mồn một tiếng xào xạc ngoài khu rừng kia như những tiếng thở dài tiếc nuối của lá trước khi lìa cành.
Không một tia sáng nào lọt tới, cũng không có một dấu hiệu nào của bình minh sắp hiện ra cả. Mắt nó tìm ánh sáng, nhưng trong bóng tối dày đặc, chỉ có ánh sao huyền ảo thôi. Thằng Đôn cố nhắm mắt lại để dỗ một giấc ngủ với những hình ảnh kỳ dị. Và khi nó tỉnh dậy thì đêm đã đi từ lâu rồi và ngày – nguồn vui vô tận – đã đến với nó thực sự rồi.
Hình như nó cảm thấy thẹn thuồng vì đã vô tình bỏ quên những tia sáng bình minh mà nó đã tốn công chờ đợi suốt cả đêm hôm qua. Thằng Đôn cảm thấy đói, bao tử nó đang cuộn lên đòi hỏi. Tuy không thấy, nhưng nó hình dung bao tử nó bây giờ chắc không khác gì cây roi da của thằng Bân khi cuộn lại. Đúng là “kiến bò bụng trạng sư” rồi đây!
Nó uốn mình định đứng lên, bất giác tay nó chạm vào một vật gì trơn trơn, ươn ướt. Thằng Đôn sợ quá đến nỗi mồ hôi đổ ra lấm tấm trên tay chân nổi da gà : một con rắn đang cuộn tròn lại ngay khít chỗ nằm của nó! Vừa thấy bóng dáng con vật, nó vội nhích lùi vào. Con rắn có chiếc đầu hình tam giác và theo sách vở nó đã học thì đây là một loại rắn độc! Rắn tuy đang nằm ngủ yên, nhưng Đôn cảm thấy toàn thân như bị tê liệt. Nó muốn đứng dây, chạy thoát ra ngoài mà hai chân như bị chôn chặt xuống đất, không sao cất lên được. Hai mắt nó mở ra thật lớn để theo dõi hành động của con vật. Nhưng nó tự hỏi:
- Theo dõi để làm gì trong khi tay chân nó đang bị tê cóng?
Cuối cùng nó đành nằm dài ra đó phó mặc cho “người bạn đồng giường” muốn làm gì thì làm…
Thằng Đôn đã tự nhủ mình : Thôi ta cứ nằm yên đừng nhúc nhích sợ con rắn có thể phóng theo thì nguy, nhưng bắp thịt của nó tự nhiên cứ co rút lại như không muốn nghe lệnh của trí óc nó. Về phần con rắn, nằm yên từ nãy đến giờ, hình như cũng cảm thấy có một vật gì đang nằm gần mình. Vật đó chắc không phải là một khúc cây vì nó phát ra hơi ấm! Nó ngóc đầu dậy chồm lên cao hơn và nhìn chầm chập vào mặt cậu bé. Nó đưa đầu sát vào mặt thằng Đôn đến nỗi thằng bé thấy rõ hai mắt nó chỉ nhỏ bằng hai hạt cườm là cùng, nhưng xem ra có vẻ sắc bén và giận dữ. Thằng Đôn thất kinh muốn thét lên rồi nhảy ngay ra ngoài, nhưng thốt không ra hơi được. Nó không thể làm gì hơn là nằm yên, không dám cử động gì, sợ con vật tưởng lầm là nó có ác ý gì thì quả là một điều nguy hiểm cho tính mạng nó. Một ý nghĩ ghê gớm chợt đến với nó : giả sử bây giờ con rắn mổ vào mặt nó thì ôi thôi! Nó sẽ chết, chết trong sợ hãi, chết trong cảnh cô đơn. Thật không còn gì thảm thương cho bằng!!!
Nhưng không, số thằng Đôn còn lớn lắm! Chẳng những rắn ta không cắn mà sau một lúc mặt đối mặt, rắn lại lẳng lặng bò ra ngoài. Hoàn hồn, thằng Đôn thở ra nhẹ nhõm. Mạch máu nó hồi nãy tưởng chừng như bị đông đặc trong gân cốt, nay tiếp tục chạy trở lại. Nó không thể tưởng tượng rằng con rắn lại tỏ ra biết ơn nó đến thế! Biết đâu con rắn này lại chẳng có những tính tốt? Dù sao, nó cũng đã chịu ơn thằng Đôn, vì suốt đêm qua nó đã được nương nhờ hơi ấm của thân thể thằng bé. Thằng Đôn chợt có một ý nghĩ ngộ nghĩnh:
- Ít ra mầy cũng phải lễ phép với tao phần nào chứ? Không lẽ lấy oán trả ơn? Lấy nọc độc trả lễ chủ nhà trọ sao?
Thế là tai nạn nguy hiểm đã qua rồi. Giờ đây, thằng Đôn còn phải làm gì nữa nhỉ? À! Phải ra khỏi hốc cây chứ, không lẽ ở đây hoài hay sao? Và nó vội đẩy mấy cành khô về một phía rồi bò ra, trong lòng đang nuôi nhiều hy vọng là sớm thoát khỏi nơi nầy để về nhà.
*
Sương mai vẫn còn đổ xuống trên những ngọn cỏ non, trên những cành cây kẽ lá đọng lại thành từng giọt lóng lánh như hạt kim cương. Những sợi tơ trời còn vương vất đầu cành cây, tạo nên những chiếc võng mong manh xinh xắn. Chim chóc chào đón nắng mai bằng những giọng hót líu lo. Ngoại cảnh chan hòa sức sống sau một đêm ngủ ngon lành, khiến tinh thần của thằng Đôn cũng được phấn khởi. Nó đưa mắt nhìn quanh một vòng như ngóng trông một vị anh hùng nào đó đang rẽ cỏ tranh đi tới đem nó về nhà. Nhưng có anh hùng nào đâu, chỉ thấy núi rừng trùng trùng điệp điệp, xanh ngắt một màu.
Thằng Đôn búng tay một cái rồi kiễng chân lên nhìn. Và kìa! Đằng xa có một lớp bụi mờ đang bay lên thì phải… và một chấm đen hiện ra. Bóng đen hình như có ý tiến về phía nó và nó đã nhận ra đó là bóng một con ngựa nhỏ đang chầm chậm trở lại mà trên lưng không có một bóng người! Lạ nhỉ? Con vật hình như đang cố tìm kiếm người chủ thân yêu của nó. Đúng rồi, con bạch mã của nó! Nhưng làm sao đuổi kịp nó được? Làm sao kêu nó được? Tuy nhìn thì thấy gần nhưng ít lắm cũng phải vượt mất mấy giờ đường chứ không phải chuyện chơi! Thôi! Đành chịu chứ biết làm sao? Một tia hy vọng đến với nó : mọi sự có lẽ sẽ được như ý, nhờ con ngựa thân yêu này…
Bây giờ, phải giải quyết gấp cơn đói đã : “dĩ thực vi tiên mà”. Nó đi một quãng khá xa, mục đích là kiếm ít trái cây, chợt nghe tiếng suối róc rách. Nó liền tiến tới và vì khát quá, nó quên cả rửa mặt, cúi xuống lấy tay chụm lại uống lấy uống để. Nước thật ngọt và mát lịm. Nó uống ực ực như đứa trẻ con múc nước đổ vào một cái hang chuột vậy. Nó khát hơn đói. Xong xuôi, nó cầm một cục đá rúc vào một bụi rậm rình mồi… Nó không chờ lâu : Kìa! Một đàn thỏ rừng đang đuổi nhau trước mặt không xa lắm. Quan sát một lúc nó nhận thấy có hai con đang cúi xuống gặm cỏ. Nó vội giơ cục đá lên nhắm. “độp!” Một con thỏ trắng trúng viên đá ngã lăn ra trên đám cỏ xanh. Nó thầm nghĩ:
- Tiếc quá! Chỉ trúng có một con thôi. Mình đã nhắm hai con cùng một lúc mà chỉ trúng có một chú thôi? Ồ! Thế thì cũng là may lắm rồi! Đừng “được voi, đòi tiên” nữa. Nó vội xách chú thỏ lại treo nơi một cành cây để lát nữa sẽ tính chuyện.
Thằng Đôn vui vẻ bụm tay lại bắt chước tiếng người gọi nhau trong rừng:
- Hú… Hú… Hú… và những âm thanh đơn độc dội lại. Nó cảm thấy lòng lâng lâng vì trong đầu óc nó đã có một chương trình vạch sẵn rồi. Trước hết, cậu bé chạy quanh nhặt nhạnh một ít củi khô chất thành đống rồi lấy diêm đốt. Sau đó, nó mang chú thỏ lại. Tuy nó chưa hề biết lột da thỏ, nhưng cũng đã có chút kinh nghiệm quí báu về việc nướng thỏ do thằng Bân dạy cho nó trước đây.
Loay hoay mãi, nó mới dùng dao nhỏ lóc được thịt hai chân sau và dọc theo bao tử. Tuy không thạo nghề như thằng Bân, nhưng cuối cùng nó cũng đã lột được bộ da thỏ. Nó đem tất cả xuống suối rửa sơ sài rồi dùng dao mổ bụng lấy ruột gan bỏ ra ngoài. Vừa hì hục làm nó vừa hát nghêu ngao, ai nghe tưởng chừng như nó vô tư lắm, nhưng thật sự trong ruột đang rối như tơ vò.
Sau khi củi đã lên lửa ngọn rồi, thằng Đôn bèn dùng que khều ra một ít than hồng để nướng thỏ. Mùi thơm phưng phức bay lên mũi khiến nó thèm rỏ dãi. Nó cúi xuống ngửi qua ngửi lại giống như con mèo thử đồ ăn vậy. Mặc dầu thỏ đã vàng hươm rồi nhưng nó còn cẩn thận trở qua trở lại cho chín đều. Bộ lòng thỏ cũng được cột nướng cùng một lần. Các miếng ăn béo tốt nầy phải được xơi trước. Nó dùng con dao nhỏ cắt thành từng miếng bỏ vào miệng nhai ngồm ngoàm. Nó chưa bao giờ cảm thấy ăn ngon như lúc nầy, phần vì đói, phần vì món ăn lại quá ngon. Khi thấy bụng bớt cồn cào, nó vội tắt lửa và dùng que khều tro dập lại để lát nữa nếu cần sẽ dễ nhen hơn.
Tính ra, nó chỉ mới điểm tâm có một đùi sau thôi. Nhưng chừng đó cũng là quá ngon, chẳng những trong lúc nầy mà kỳ thực, nó cũng chưa bao giờ được diễm phúc điểm tâm một cách thịnh soạn như vậy. Vả lại, nó cũng cần phải để dành, đề phòng bất trắc nữa chứ, xơi một lúc hết cả sao được?
Cảm thấy trong lòng sảng khoái, nó chợt reo lên một cách vui vẻ. Đâu đây, vẳng lại tiếng hót líu lo của một vài con chim chích chòe. Tiếng hót nghe thật véo von như cùng chia vui với nó. Ăn rồi, thằng Đôn cảm thấy thấm mệt, mồ hôi đổ ra nhễ nhại, phải ngồi nghỉ một chốc. Sau đó, nó đem phần ăn còn lại treo lên cành cây và không quên dùng áo sơmi che đậy cẩn thận sợ kiến xơi hết. Dĩ nhiên, áo sơmi của nó cũng chả lấy gì làm sạch, nhưng cần gì, miễn sao có thể chống lại sự xâm lăng của đàn kiến tham ăn là được rồi. Xong xuôi đâu đấy, nó thủng thỉnh xuống suối rửa tay. Vì không có xà phòng, nó phải dùng bùn và đá để rửa. Đợi một lúc nước suối trong trở lại, nó bụm tay uống vài ngụm cho đỡ khát.
Bây giờ nó đi quanh quẩn định tìm một cành cây thẳng để làm gậy đi đường. Trong thâm tâm, nó muốn thực hiện chương trình đã vạch sẵn : sau bữa điểm tâm sẽ phải tìm lối trở về nhà. Nhưng chợt nó ngồi bệt xuống, hai tay ôm lấy trán như để tập trung tư tưởng… Bài học hôm qua đã dạy nó biết rằng, con đường vừa mới được vẽ ra trong trí óc nó, chắc gì đã dẫn nó về đến nơi đến chốn mà có khi còn bị lạc lối vào sâu hơn nữa. Nhiều khi, leo trèo mệt nhọc suốt cả ngày mà vẫn không tìm ra lối về nhà, lại còn bị lạc vào một vùng hoang vu hơn thì quả không còn gì nguy hiểm cho bằng! Nó thầm nghĩ không biết đến bao giờ mới tìm lại được cánh đồng xanh um mà thường ngày nó với con Bình thả diều, chơi đùa vui vẻ quên cả đói khát đến nỗi nhiều bữa, người giúp việc phải ra kêu về. Càng suy nghĩ, nó càng thấy tủi thân! Quay về hiện tại, nó cảm thấy buồn vì tình cảnh cô đơn, lạc lõng của nó! Nó thầm nghĩ:
- Nếu không tự mình tìm đường về thì rồi sẽ ra sao đây…? Nhưng nếu bỏ suối này để lên đường tìm lối về, liệu còn may mắn gặp một con suối khác khi cần nước không? Khi đã xơi hết chú thỏ nướng này rồi đồ ăn kiếm đâu ra? Có thể nào dùng đá ném chết chim chóc được không? Chắc sẽ không dễ gì đâu! Điều quan trọng là vấn đề nước uống vì nó vẫn thường nghe thằng Bân nhắc đến mỗi lần đi rừng : nước uống cần hơn cả thức ăn nữa!
Hôm qua nó đã cố gắng một cách buồn cười và nó đã có kinh nghiệm quí báu về sự thất bại đó. Vậy thì phải làm sao bây giờ đây? Nó cảm thấy chưa có lúc nào bối rối như lúc này… Thật là một vấn đề quan trọng mà từ tấm bé đến rày chưa lần nào nó phải đương đầu cả. Nó biết và hiểu vấn đề vì nó đang hiện ra rõ ràng trước mắt – vấn đề sống chết – nhưng biết giải quyết làm sao? Nó cảm thấy mình yếu ớt, bé bỏng và bất lực.
Vậy mà, cuối cùng, bỗng nhiên vấn đề lại được một bàn tay vô hình nào đó sắp xếp đúng như ý muốn của nó mới kỳ diệu chứ!
Trong khi lang thang, ruột rối như tơ vò, thằng Đôn tìm cách giải quyết vấn đề nhưng xem ra còn cực nhọc vất vả hơn cả việc tìm kiếm một cây kim trong đống cỏ khô! Nó lẩm bẩm:
- Không lẽ bây giờ mình cứ ngồi ì ra đây rồi liệu có ai tới cõng mình về không? Chi bằng ta cứ lượm cây khô chất lại đốt, khói bốc lên may ra có người nào thấy dấu hiệu chăng?
Và nó bắt đầu hành động…
Chỉ một chốc sau, thằng Đôn kéo được nhiều cành cây chất lại. Củi khô, chụm thật tốt, nhưng không có nhiều khói. Cậu bé cũng biết vậy, nên nó lấy nước tưới vào. Bây giờ, gió đã dịu và người ta thấy một cột khói đen đang từ từ bốc lên, thằng Đôn xoa tay bằng lòng…
Bỗng có tiếng động dội lại. Không, đúng ra thì đó là những tiếng kêu khàn khàn, cộc lốc, thô lỗ, khiến nó phải ngẩng đầu lên. Kìa, nhiều chú vẹt đang vắt vẻo trên cành đa, trông thật đẹp mắt : mồng đỏ, bộ lông đen mượt, mỏ cong và dài. Xem chúng có vẻ hãnh diện lắm. Chúng tỏ vẻ thích thú khi nhìn thằng Đôn hì hục ôm từng nắm củi quăng vào đống lửa. Cứ xem chúng đang làm những điệu bộ kỳ quái thì rõ : mắt thì nhìn ngang, nhìn dọc, đầu cúi xuống, thỉnh thoảng lại ngước lên trao đổi với nhau vài tiếng khàn khàn. Giả sử, hôm qua mà đàn vẹt nầy tới chào đón nó thì chắc sẽ làm nó buồn lắm. Vì nó thường nghe người ta nói là vẹt hay đem lại điềm xui xẻo. Nhưng hôm nay thì khác hẳn. Mọi sự đã gần như tốt đẹp theo chương trình của nó. Giờ đây, chẳng còn điều gì làm cho nó áy náy cả. Bởi thế, nó đâm ra có thiện cảm với với những chú vẹt ngây ngô kia.
Thằng Đôn thấy khói đã lên nhiều rồi bèn lại ngồi lên một phiến đá gần đó chờ đợi. Nhìn cột khói càng lúc càng bốc lên cao, thằng Đôn nhớ lại cách đây không lâu, cô bé Bình đã kể cho nó nghe về kinh nghiệm của dân bản xứ, thường làm dấu hiệu để nhận nhau khi bị lạc đường, bằng cách đốt lửa có khói đen nhiều, nhưng phải làm sao cột khói bị đứt quãng, chứ không phải liên tục. Tại sao họ phải làm như vậy? Bé Bình giải thích rằng, họ muốn cho người khác nhìn thấy cột khói mà không nghĩ lầm đó là một đám cháy rừng. Điều đó xem ra hay hay… Vậy thì nó cũng phải làm sao tạo thành những đám khói đứt quãng để dễ đập vào mắt người khác. Nghĩ thế rồi, nó lấy một cành cây có lá xanh tươi, đem nhúng nước và nắm một đầu thật chắc hất qua hất lại trên đống lửa : kết quả đã tạo thành những khoảng trống giữa cột khói. Nhìn những đám khói tròn, to đang lơ lửng bay lên tận trời xanh, nó mỉm cười đắc thắng và tin tưởng.
Mặt trời hình như càng lúc càng lên cao và thời gian vẫn lặng lẽ trôi qua. Thằng Đôn cảm thấy cần phải nghỉ ngơi đôi chút để lấy sức kẻo chân tay đang bị ê ẩm. Ngày càng lên dần, nắng càng gay gắt hơn. Ve rừng, côn trùng đang thi nhau kêu ầm ĩ. Hai mắt nó bỗng nhiên thấy nặng chĩu, có lẽ vì đêm vừa qua mất ngủ nhiều. Nó tựa lưng vào một gốc cây ngủ gà ngủ gật. Được một chốc, nó giật mình tỉnh dậy. Tự nhiên nỗi chán chường lại đến xâm chiếm tâm hồn nó. Nó tự hỏi tại sao lại lạc vào miền hoang vu nầy và nó cảm thấy nó thật cô đơn!
Đàn vẹt đã bay đi tự bao giờ để cành đa trơ lại uốn cong dưới sức nắng như thiêu như đốt của một buổi trưa hè. Thằng đôn ước mong sao nghe được một tiếng người, chỉ một tiếng thôi cũng đủ làm cho nó mát ruột rồi. Lâu nay, sống trong những khu phố chật hẹp, tai nó nhiều khi đau nhức vì tiếng người, nhưng bây giờ nó lại cần được nghe tiếng người để sưởi ấm nỗi cô độc mà không sao có. Nghĩ thật tội nghiệp…
Đồ ăn chỉ còn vỏn vẹn lại một đùi thỏ bữa ăn trưa, vì còn phải để dành nữa chứ? Chú thỏ bây giờ trông thật bé nhỏ, không to lớn như khi vừa mới bị bắn. Cho nên, nó càng phải dè sẻn, ăn từ từ…
Thấm thoát, chiều đã xuống từ lúc nào mà nó không hay biết. Bóng mặt trời đã ngả hẳn về Tây. Nó cầm một viên đá đi quanh quẩn may ra giết được con chim nào chăng. Chợt nó thấy một con chim cu rừng vừa bay tới đậu nơi cành cây trước mặt, cất giọng gáy nghe thật buồn bã! Thằng Đôn mừng hết sức. Nó bước nhè nhẹ lại gần một gốc cây đối diện, lấy đà ném thật mạnh, nhưng chim đã vỗ cánh bay cao trước khi viên đá vụt đến!
*
Cho đến xế chiều hôm đó, thằng Đôn vẫn chưa thấy một bóng người nào đáp lại dấu hiệu cột khói của nó cả! Nó cảm thấy thất vọng hoàn toàn, vì đêm đang xuống dần! Nỗi lo âu, nỗi nhớ nhà đang xâm chiếm tâm hồn nó và ý nghĩ : phải tìm đường về nhà, lại thôi thúc nó hơn bao giờ hết. Nó lẩm bẩm:
- Một liều, ba bảy cũng liều! Đến đâu thì đến!
Nhưng nó lại e rằng vượt qua khỏi khu rừng thưa nầy, biết đâu lại chẳng lạc vào sâu và gặp nhiều nguy hiểm hơn? Lúc nầy, hai ý nghĩ trái ngược hình như đang tranh giành ảnh hưởng trong tâm hồn cậu bé. Nó như chim chuyện chuyện lạc vào rừng hoang, không biết đâu mà tìm ra lối về cả : nhìn đâu cũng chỉ thấy toàn là cây với cỏ! Không còn gì khổ sở cho bằng!
Đêm đã xuống thật sự rồi, thằng Đôn đành lủi thủi nhặt cây làm giường ngủ. Để sửa soạn một giấc ngủ yên tĩnh và an toàn hơn hôm qua, nó lấy cây, cột lại thành một hàng rào đem đặt ngay trước bộng cây hy vọng chận rắn rít đêm đêm mò tới.
Mặt trời đã chìm hẳn xuống sau những rặng núi tận phía Tây xa tít. Cảnh vật thật ảm đạm thê lương. Thằng Đôn tuy cũng lo âu vì phải trải qua một đêm hãi hùng nữa, nhưng nó vẫn nuôi hy vọng sáng ngày mai sẽ trở về nhà và sẽ gặp lại những người thân. Ôi! Còn gì sung sướng cho bằng! Ý nghĩ đó hâm nóng tâm hồn nó. Tự nhiên, nó trở nên hăng say làm việc, dù thân xác nó đang mệt nhoài sau một ngày chờ đợi vô ích!
Nó nhai vội một ít thịt thỏ, phần còn lại vẫn được treo cẩn thận trên cành cây như cũ.
Sau đó, nó lại chất thêm củi vào đống lửa để làm hiệu, vừa để sưởi ấm. Vì mặt trời đã đi ngủ hẳn từ lâu rồi, tuy trời hãy còn sáng, nhưng không khí trở nên lạnh hơn. Chim chóc đang giành nhau sửa soạn chỗ ngủ. Thằng Đôn lại chất củi vào thêm. Lửa và khói lại thi nhau bốc lên vùn vụt. Nó vẫn không nản chí tuy suốt ngày đã tốn bao nhiêu công lao rồi mà vẫn không nhận được kết quả nào.
Hoàng hôn nơi hoang vu thật là buồn bã chen lẫn nỗi ghê rợn. Thằng Đôn dùng một cành củi đỏ rực để lục soát lại chỗ ngủ xem có con rắn rít nào không. Ánh sáng đi đến đâu, bóng tối lùi đến đó và cuối cùng lại xâm chiếm và bao trùm lấy toàn thân của nó.
Nó cảm thấy mình bất hạnh quá…!
Chợt nó nghe có tiếng chó sủa… Nhưng nó không dám tin vào thính giác của mình, có lẽ vì quá lo hay quá mừng, cũng không biết nữa. Và tiếng chó lại sủa. Một con chồn chăng? Hay tiếng bắt chước chó sủa? Nó vội lủi về phía bộng cây lấy mấy cục nhựa thông quẳng vào đống lửa cho lửa ngọn bốc cao hơn, rồi bắt tay lên miệng:
- Hú… hú…
Tuy nó chưa hú thành thạo như các tay nhà nghề, nhưng nghe cũng không đến nỗi kém lắm. Trong thâm tâm, nó hy vọng may ra tiếng hú vang dội đến nơi có tiếng chó sủa nếu quả có thực.
Bỗng từ phía ngọn đồi trọc, có tiếng dội lại:
- Tu-oa… tu-oa… tu… oa…
Đúng là tiếng tù và chứ không phải tiếng dội lại của tiếng hú hồi nãy đâu. Cột khói của nó đã có vị anh hùng nào thấy rồi chăng? Thằng Đôn cảm thấy hồi hộp quá! Sự tin tưởng đó đem lại cho nó một nguồn vui không bút nào tả xiết. Nó mừng đến nỗi, nước mắt chảy ra ràn rụa lăn tròn trên hai gò má từ bao giờ nó cũng không hay biết.
Thấy lửa có phần tàn, thằng Đôn vội khiêng ngay hàng rào cây vừa chế tạo hồi chiều vất ngay vào đống lửa. Ngọn lửa liếm thật nhanh và chẳng mấy chốc cháy sáng rực cả một góc trời. Và qua ánh lửa, Tôtô – con chó cưng của thằng Bân – hiện ra một cách lẫm liệt, đuôi ve vẫy… Tôtô nhảy chồm đến trước mặt cậu bé và giỡn cợt bằng cách lượn qua lượn lại. Thỉnh thoảng, nó lấy hai chân cào xuống đất tỏ dấu mừng rỡ. Thằng Đôn vui sướng quá chạy lấy phần thịt thỏ còn lại chia cho Tôtô một ít vì nó nghĩ chẳng cần để dành nhiều làm gì nữa. Tôtô vội ngoạm lấy miếng thịt tha đến một gốc cây. Trong khi con Tôtô đang cúi đầu nhai xương, thì bỗng từ đâu, Bân ngồi trên mình ngựa oai phong vạch lá tiến tới đứng cạnh đống lửa. Bóng người lẫn ngựa in đậm hình trên nền đất cằn cỗi. Trông dáng thằng Bân thật có vẻ rừng rú. Nó lặng yên một lúc lâu rồi cất giọng khàn khàn hỏi:
- Ê! Mày đi đâu để bị lạc vậy? Có sợ không? Ba tao đang nóng ruột vì mày lắm đó, cả con Bình cũng vậy nữa!
Dù giọng Bân có vẻ càu nhàu, nhưng cũng làm cho thằng Đôn cảm thấy an ủi nhiều lắm. Thế rồi, trước đôi mắt ngạc nhiên của thằng Đôn, thằng Bân để tay lên nón, rút ra một con dao nhọn sáng choang, chẳng biết để làm gì. Cặp mắt Bân long lanh và sáng rực đang mở to như hai mắt ếch như muốn thu vào nhiều hình ảnh trong một màn kịch : hốc cây với đám lá chết trải làm giường, đống lửa đỏ rực những than hồng, những cành cây khẳng khiu trụi lá, đen kịt vì khói… Nó lẳng lặng tiến về phía cành cây có treo miếng thịt thỏ, tay giật xuống dùng dao cắt bỏ vào miệng nhai một cách ngon lành. Xong xuôi, nó quay lại hất hàm hỏi:
- Nước uống đâu mậy?
- Dưới kia có một con suối nhỏ. Chính vì nó mà mấy lần lên đường tìm lối về, tôi vẫn lưỡng lự, nhất là sau khi thịt được một chú thỏ.
- Với tài ném đá à?
Thằng Đôn nhỏ nhẹ đáp:
- Vâng, tôi nhắm con vàng, nhưng lại trúng con trắng cạnh đó!
Bân chậm rãi tiến về phía đống lửa. Trông hắn ta thật to lớn và đẹp trai thật, nhưng dáng dấp đầy vẻ rừng rú.
Bân dõng dạc ra lệnh:
- Thôi, sửa soạn về nhà đi! Nhưng mầy hãy kể qua loa cho tao nghe tại sao mầy đi lạc vậy? Đêm qua mầy ngủ ở đâu?
Thằng Đôn lần lượt kể lại từ đầu không bỏ sót một chi tiết nào. Dù sao nó cũng cảm thấy hãnh diện về những cố gắng của nó để tìm cách thoát khỏi nơi đây.
Nghe xong, Bân gật đầu:
- Khá lắm! Mầy không còn là một thằng bé sặc mùi thành phố nữa đấy! Bắt tay mầy một cái!
Nói rồi, nó đưa tay ra nắm lấy bàn tay nhỏ bé của thằng Đôn lay mạnh. Tuy vậy, Bân cũng dọa dẫm:
- Tao cho mầy hay : Không phải vùng hoang vu nào cũng yên hàn như thế này cả đâu. Rất nhiều vùng, nếu không may mầy lạc vào sẽ bị thú dữ vồ ngay. Số mầy cũng còn hên đó, chứ khi tao thấy dấu hiệu cột khói của mầy, tao cứ ngỡ là có đám cháy rừng gần đâu đây!
Thằng Đôn nóng lòng:
- Thế bao giờ “người anh hùng” về nhà?
Nó cũng đánh trúng tâm lý của thằng Bân đấy chứ! Vì thường Bân cũng thích lối xưng hô kiêu kỳ như vậy.
Bân vẫn không chú ý:
- Đêm qua tao biết, nhưng tao không thể làm gì được vì tao đang bị cảm sốt. Bởi thế từ sáng sớm, tao vội lên đường. Tao cũng hỏi mấy người xung quanh, nhưng không ai biết mầy đi đâu, đi về phía nào và đi từ bao giờ cả. Tao hết sức bực mình nhưng nay thì hết rồi.
Ngẫm nghĩ một chốc, Bân lại tiếp tục, giọng nói có vẻ cảm động:
- Tao cũng lấy làm buồn, vì từ lâu nay, tao không mấy thích mầy. Nay tao đã hiểu rõ mầy rồi. Để bù lại, ngày mai tao sẽ dạy cho mầy cách bắn ná, bẫy chim, chứ tài ném đá thì chả bao giờ trúng được chim!
Thằng Đôn sung sướng:
- Thật không anh Bân?
- Sao lại không thật?
Sau đó, Bân vui vẻ bảo:
- Thôi! Bọn mình về đi kẻo ba má và em Bình trông! Tội nghiệp!
Thằng Đôn ngây thơ hỏi:
- Có thể về kịp ngay trong đêm nay không anh Bân nhỉ?
- Chắc là kịp!
- Nhưng mà còn đống lửa kia, phải dập đi đã chứ?
Thằng Đôn vội xuống suối lấy nước lên tưới. Thấy một vài chỗ lửa chưa tắt hẳn, Bân dùng giày hất đất dập lên rồi quay lại bảo Đôn:
- Mặc áo vào đi mầy, có đồ gì thì lấy mau rồi ngồi lên đây.
Vừa nói, Bân vừa chỉ lên phía sau yên ngựa và xoay mình một vòng thật đẹp nhảy lên phía trước.
- Nhảy lên đây mầy, ôm chặt lấy tao nha!
- Tôtô! Đi trước mầy!
Bân giật mạnh dây cương và cả người lẫn ngựa lên đường. Thằng Đôn ngồi phía sau, hai tay ôm ngang người Bân. Chúng nó tiến vào những bụi rậm, chỗ hôm qua thằng Đôn bị lạc : Xung quanh bóng tối dày đặc bao phủ…
Thằng Đôn không ngờ rằng đêm nay lại có một cuộc hành trình thú vị như thế nầy. Cả người lẫn ngựa tiến bước mãi : lúc trèo lên những mỏm đồi cao, lúc tuột xuống những thung lũng sâu… Con ngựa thật dai sức, mắt tinh như mắt mèo, nó phi nhanh như vậy mà không hề vấp váp một tí gì. Đường sá không gồ ghề lắm nhưng rất nhiều cành cây nhỏ rơi xuống đầy đường.
Thằng Đôn cảm thấy sung sướng và thầm phục thằng Bân sát đất, chẳng những nó thông thuộc đường sá mà còn điều khiển dây cương một cách tài tình trong đêm tối trời như thế nầy.
Cả bọn vẫn tiếp tục đi trong bóng đêm dày đặc…
Xa xa, thằng Đôn đã thấy sao Mai ló dạng, sáng chói bên cạnh muôn vàn tinh tú khác. Thằng Đôn nghĩ thầm chắc là sắp về đến nhà rồi vì cứ nhìn hướng thì thấy rõ. Mọi khi nó vẫn thường dậy sớm và kêu bé Bình ra sân coi vì sao sáng có cái tên đẹp đó mà! Vả lại, hôm qua, nó đi từ trại gia súc đến chỗ bị lạc cũng lâu bằng từ khi lên ngựa với Bân đến giờ chứ gì! Nhưng khi thấy Bân vẫn chưa cho ngựa chậm bước thì nó ngạc nhiên hỏi:
- Sắp về đến nhà chưa anh Bân?
Bân mỉm cười trong đêm tối:
- Nếu chưa thì chắc bọn mình còn đang quanh quẩn trong vùng hoang vu đấy!
Giọng điệu nghe có vẻ mỉa mai, nhưng thật ra thằng Bân không có ác ý gì. Và bây giờ, ngựa chỉ còn phi những bước nhỏ và khi đi ngang qua đồng cỏ nhà thì thằng Đôn sung sướng reo lên như vừa thấy mẹ đi chợ về:
- A!... Đến nhà rồi!
Bân vội nhảy xuống ném mạnh chiếc dây cương qua hàng rào dâm bụt. Thằng Đôn cũng tuột xuống theo.
Cho đến giờ phút nầy, thằng Đôn vẫn không ngờ rằng nó đã về đến nhà – ngôi nhà thân yêu mà nó nóng lòng muốn gặp lại từ hai ngày nay.
Nó thỏ thẻ:
- Anh Bân à! Nhiều lúc em y hệt như điên vậy anh nhỉ?
Giọng thằng Đôn như tắc nghẽn vì quá cảm động.
- Thôi, quên đi mầy!
Bân vừa nói vừa nâng hai vai thằng Đôn lên một cách thân mật:
- Tao rất vui thấy mầy đã về nhà bằng yên. Ai trong nhà nầy cũng đều không muốn thấy mầy bị hoạn nạn. Ba tao thương mầy cũng như con cái trong nhà vậy, vì mầy cũng dư biết ba tao xưa kia đã chịu ơn ba mầy rất nhiều, trong những ngày còn nghèo khổ… Còn con Bình, lại càng không muốn xa mầy vì trong trang trại nầy, nó chỉ thấy có mình mầy là bạn thân với nó thôi. Nó còn thương mến mầy hơn cả tao là anh ruột của nó nữa, vì cái dáng tao bề ngoài có vẻ dữ tợn. Vả lại, tính tao không ưa được những chuyện nhõng nhẽo con gái. Mầy không thấy con Bình thường gọi tao bằng cái hỗn danh “người rừng” đó sao? Còn về phần tao, từ nay, tao rất có thiện cảm với mầy vì mầy là một thằng bé bình tĩnh và can đảm.

Phần 4 (phần cuối): Kho tàng bí mật

Ba đứa trẻ thuộc gia đình họ Tần – đứa chị tên là Bảo Chi và hai em trai là Bảo Vi và Bảo Thi đang ngồi chơi với nhau trên sân cỏ cạnh một hàng rào tre xanh tươi, rậm rạp, ngăn cách nhà ông bà nội chúng và nhà của một người láng giềng – nhà của họ Tô.
Các gia nhân nhà họ Tần thường gọi hàng rào đó là “hàng rào thù nghịch”. Vì từ trước, hai gia đình họ Tần và họ Tô vẫn thân thiện với nhau theo kiểu “bà con xa lấy láng giềng làm gần”, nhưng cách đây vài năm, gia đình hai họ đó có chuyện xích mích với nhau, nên để khỏi có sự qua lại, người ta đã trồng một hàng rào tre. Và kể từ đó, hai gia đình không nói với nhau một lời nào.
Sát cạnh hàng rào, có một ngôi nhà nhỏ, xây cất theo kiểu một nhà kho chứa nông cụ ở thôn quê, mà bà nội vừa cho bọn trẻ làm nơi chơi đùa trong thời gian nghỉ hè.
Trong khi đang ngồi bàn bạc với nhau về những trò chơi sẽ tổ chức vào ngày mai, thì Bảo Vi chỉ tay về phía hàng rào tre nói:
- Chơi gì thì chơi, nhưng tụi mình không được trèo qua hàng rào kia. Bà nội nói vậy!
Ngừng một lát, nó lại thở dài tiếp:
- Xích mích với láng giềng là một điều đáng buồn thật! Phải chi không có hàng rào này thì tụi mình tha hồ tung tăng, chạy nhảy nhỉ?
Bảo Chi lẩm bẩm:
- Kỳ thật! Bà nội còn cấm chị em mình bén mảng lại gần hàng rào nữa cơ!
Bảo Thi nắm tay chị lay mạnh:
- Chị! Chị thấy không? Có một cành ổi đang bổ qua phía nhà mình đó! Có mấy trái thật to nữa kìa!
Bảo Vi xúi chị:
- Chị lại hái cho em đi!
- Không, hái cho em cơ! Em thấy trước mà!
Bảo chi khoát tay:
- Ừ! Thì chị hái cho cả hai đứa!
Bảo Chi vội đưa mắt nhìn quanh xem thử có người lớn nào lảng vảng gần đó không. Khi đã yên chí rồi, cô bé mới tiến về phía hàng rào tre đưa tay vin cành ổi xuống để hái. Trong khi đang lúi húi bứt trái ổi ngoài cùng thì bỗng nó giật mình vì vừa chợt thấy hàng rào đang lay mạnh hình như có ai đang trèo từ phía bên kia qua thì phải. Bảo Chi đang ngạc nhiên, định kêu hai em lại coi thì thấy một cái đầu ló ra và tiếp theo là giọng con trai ồ ồ lên tiếng:
- Tôi nghe tiếng các bạn nói chuyện ngoài nầy, vì thế tôi muốn ra xin nhập bọn để tổ chức trò chơi cho vui. Tôi biết nhiều trò chơi thú vị lắm nhưng khổ một nỗi là không có ai cùng chơi cả!
Sau đó, thằng con trai lạ mặt nhìn vào mấy chỗ trầy xước trên cánh tay suýt soa:
- Hàng rào tre nhiều gai quá! Đã tìm chỗ thưa rồi, thế mà…
Bảo Chi lên tiếng:
- Thế ra anh không có em út nào cả hả?
- Tôi là con út trong gia đình! Các anh chị tôi đều được gởi đi học xa nhà cả! Đến bạn bè cũng chả có, vì nhà tôi coi như nằm ngoài biển, trước mặt nhà là một giòng sông, sau lưng lại bị kẹt cái hàng rào tre nầy rồi! Chỉ phía đầu nhà có lối ra vào thì chẳng thấy nhà nào có trẻ con đồng trang lứa với mình cả!
Sau đó, nó vội lách mình ra thêm một chút nữa rồi nói:
- Tôi là Đề, Tô Đề!
Bảo Chi nhanh nhẩu tiếp lời:
- Còn tôi là Bảo Chi.
Rồi hướng về hai đứa kia, cô bé nói:
- Còn đây là hai em tôi : Bảo Vi và Bảo Thi! Chúng tôi sẽ ở đây suốt kỳ hè. Bà nội chúng tôi đã cho phép dùng ngôi nhà kho kia để chơi đùa. Hôm nào rảnh, mời anh qua chơi cho vui nhé!
- Còn gì quí bằng! Tôi chỉ mong có vậy!
Bảo Vi tươi cười:
- Anh có thể qua giúp chúng tôi dọn dẹp nhà kho được không? Trong đó, có nhiều thứ lắm! Đặc biệt có cái rương của người thủy thủ dùng dưới tàu, cũ rồi, nhưng chùi sạch để nằm thì tốt vì nó lớn lắm! Nó là của cậu Tần Gia đó! Trước đây, cậu là một thuyền trưởng. Trong rương chắc có cất nhiều đồ vật đẹp lắm. Em thích mở nó ra coi chơi mà nắp rương đóng kỹ quá!
Cậu bé đang ba hoa thì bỗng có một vài tiếng ho khàn khàn nổi lên cắt ngang câu chuyện và tiếp theo là những tiếng mắng:
- Đề! Xuống ngay con! Con dám rúc hàng rào qua bên đó hả? Gia đình ta không chơi với gia đình họ Tần đâu con! Cả khách khứa họ cũng vậy nữa!
Nghe vậy, mặt thằng Đề mất hẳn vẻ tươi tắn, trong khi Bảo Chi cũng tức giận đỏ mặt lên. Nhưng thằng Đề cũng gắng gượng chống chế:
- Thưa ông nội, con chỉ…
- Không thưa thốt gì cả! Tao bảo xuống là xuống! Không có tình bạn, không thăm viếng gì giữa hai gia đình nầy cả! Con nghe rõ chưa?
Thằng Đề nhỏ nhẹ:
- Dạ!
Và nó vội tụt xuống, không quên đưa mắt nhìn ba người bạn vừa mới làm quen với một vẻ mặt lưu luyến trông đến tội nghiệp…
Bảo Chi cũng quyến luyến không kém, cô bé đưa tay vẫy vẫy…
Thằng Đề miễn cưỡng nhảy xuống đất, lấy tay vẹt mấy cành tre, lủi thủi đi vào. Bảo Chi thoáng nghe nó càu nhàu như chống lại một quyết định nghịch ý. Nó còn ngoái cổ lại nhìn với một cặp mắt tinh nghịch và cô bé biết hắn vừa nảy ra một ý định gì đó… chắc là định sẽ dùng dao phát quang một lỗ hổng để rúc qua rúc lại cho dễ dàng!
*
Một tuần lễ trôi qua…
Hôm nay, nhân ngày nắng ráo, ba chị em Bảo Chi định lau chùi ngôi nhà “riêng” của chúng. Trước hết, chúng hì hục khiêng cái rương của cậu Gia ra ở giữa nhà rồi lấy giẻ ướt lau xung quanh thật sạch. Sau đó, chúng dùng mấy que sắt cạy nắp rương ra. Vừa mới lôi mấy con sò biển ra để giữa sàn nhà, và hai thằng bé đang tranh nhau đòi làm của riêng thì chợt Bảo Chi thấy một bức địa đồ. Đúng hơn là một bức họa đồ. Lúc đầu thì cô bé cho đó là đồ nghề đi biển của cậu Gia. Nhưng khi xem qua thì cô bé thấy hồi hộp quá sức! Cô lẩm bẩm:
- Lẽ nào? Lẽ nào cậu Gia lại cất giấu ở xó xỉnh nầy sao?
Cả ba chị em châu đầu vào xem bức họa đồ trải ra giữa sàn nhà.
Bức họa đồ trông đã cũ kỹ lắm. Màu giấy đã vàng khè, có lẽ vì bị ngấm nước biển. Lốm đốm đây đó là những vết mực có chỗ hình như đã trở màu, nhòe nhoẹt tạo nên một màu sắc trông rất buồn cười! Điều mà bọn trẻ lấy làm khó hiểu là trong một góc có vẽ một chiếc sọ người, phía dưới có hai chiếc xương bắt chéo nhau kèm theo những hàng chữ viết nguệch ngoạc cạnh mũi tên chỉ phương hướng! Bảo Chi lẩm nhẩm:
“MỘT KHO TÀNG BÍ MẬT NẰM CÁCH CÂY SỒI CỔ THỤ VỀ PHÍA NAM 10 THƯỚC VÀ VỀ PHÍA TÂY 20 THƯỚC, TÍNH TỪ LẠCH NƯỚC NGỌT THÌ KHO TÀNG CÁCH ĐỘ MỘT PHẦN TƯ DẶM”. Đường nét giòng chữ ghi một cách sơ sài. Ngoài ra, còn có những nét mờ mờ kẻ ngang, kẻ dọc, trông chẳng khác gì những đường kinh tuyến, vĩ tuyến. Bên cạnh đó, bức họa đồ còn vẽ một đường màu đỏ hơi đậm có lẽ chỉ vị trí cây sối trên khoảng đất rộng mênh mông. Sau khi mải mê quan sát, Bảo Chi tằng hắng lên giọng:
- Tốt lắm! Đây chắc là một họa đồ của một tên hải tặc nào đó mà cậu Gia đã thủ được trong một chuyến đi biển chứ gì? Bảo Vi, đố em biết ai viết những hàng ghi chú này?
Bảo Vi vội quay bức họa đồ về phía mình cho thuận chiều, chăm chú đọc những ghi chú viết bằng bút chì đã mờ nét, đoạn nhìn chị:
- Em nghĩ là chính cậu Gia viết những hàng chữ này!
- Lấy gì chứng minh nào?
- Chị nhìn đây! Mấy chữ T.G. ký ở phía dưới đó không phải của cậu Gia thì còn ai vào đó nữa chứ!
Bảo Chi gật gù tỏ vẻ đồng ý. Cô bé vội cầm lấy tờ họa đồ và đọc to những chữ cuối cùng, rồi góp ý:
- Chị thấy em có lý đấy!
Ngẫm nghĩ một lát nó lại tiếp:
- Bức họa đồ nầy chỉ một địa điểm gần đường biên giữa bờ sông và đồn điền của ông Tô Đình!
Bảo Vi ngẩng đầu lên nhìn chị, ngạc nhiên:
- Tại sao chị lại cả quyết thế?
- Có gì đâu! Em không thấy trong họa đồ có nói đến “lạch nước ngọt” hay sao? Nó chính là chi lưu của con sông chạy dọc theo đồn điền ông Tô Đình đó.
Bảo Vi gật đầu:
- Ừ nhỉ! Thế còn mấy đường ngang, đường dọc nầy là gì?
Bảo Chi lắc đầu:
- Mấy đường đó thì chị xin chịu, chả hiểu sao mà nói cả!
Cả ba chị em cùng nhìn nhau, sáu con mắt cùng mở to…
Bảo Thi hỏi chị:
- Em phân vân chưa hiểu tại sao cậu Gia không dùng họa đồ nầy để đi tìm kho tàng bí mật?
Bảo Chi có vẻ thành thạo:
- Biết đâu cậu Gia đã chẳng đi tìm nhưng vì gặp trở ngại nào đó nên đành bỏ cuộc! Có thể cậu mình đã chết trước khi có ý định thám hiểm theo sự chỉ dẫn của họa đồ! Cũng có thể trở ngại là vì ông Tô Đình! Chị vừa mới nói cho em biết đó, kho tàng bí mật này hiện nằm trong đất đai của ông ta mà gia đình cậu với gia đình của bên kia vốn có thù hằn với nhau từ mấy năm rồi! Do đó, cậu Gia dù muốn cũng không thể được phép xâm phạm vào đất ông Tô Đình một cách ngang nhiên được!
Bảo Thi có vẻ thành thạo:
- Cậu Gia không thể đi tìm kho tàng này một cách ngang nhiên được, nhưng tại sao lại không mở một cuộc thám hiểm bí mật, như đi vào ban đêm chẳng hạn?
Bảo Chi thấy khó giải thích, nhưng cô bé cũng gắng gượng:
- Thì chị nói vậy, chứ thật ra muốn tổ chức một cuộc tìm kho tàng cũng phải tốn nhiều công phu lắm chứ đâu phải đơn giản gì!
Rồi cô bé thở dài, chán ngán:
- Bọn mình không biết gì trong quá khứ cả. Chỉ biết ngồi đoán mò thôi!
Bảo Vi nắm tay chị:
- Hay là đêm nay, đợi mọi người yên giấc cả rồi, chị em mình mở một cuộc thám hiểm xem sao nhỉ?
Bảo Thi can anh:
- Chị Bảo Chi vừa nói tổ chức một cuộc đi tìm kho tàng như vậy tốn nhiều công phu lắm. Vả lại, tụi mình tính chuyện bí mật, nhưng lỡ ông Tô Đình hay được thì có bề gì không?
Vốn bản tính tò mò, tuy hơi lo ngại, nhưng Bảo Chi cũng cổ võ ý kiến của em:
- Hồi nãy, chị nói cậu Gia không dám đi đào kho tàng vì nó nằm trong phần đất của nhà láng giềng. Tuy nhiên bây giờ, ba chị em mình hãy còn là trẻ con. Do đó, nếu bị bắt gặp thì chị tin là ông ta cũng chẳng làm ra to chuyện đâu! Điều đáng lo sợ là ông bà nội chúng ta cơ!
Bảo Vi khoát tay:
- Chị khỏi lo! Ba chị em mình thường nằm ngủ ở căn phòng cạnh hành lang xuống nhà bếp, trong khi ông bà nội lại ở trên lầu mà! Vả lại, em nghĩ là chúng mình chỉ vắng mặt một thời gian ngắn chứ không lâu lắc gì nên chả ai biết đâu! Đêm nay, bọn mình chỉ đi tìm cho ra địa điểm đã, rồi đánh dấu thật rõ ràng. Đêm mai lại tiếp tục công việc… Chị nghĩ sao?
- Cũng được!
Nghĩ rồi Bảo Chi cười lớn:
- Em thật cẩn thận! Chị thì đến đâu hay đó!
Bảo Vi thầm nghĩ:
- Tốt lắm! Đêm nay chắc sẽ có nhiều chuyện vui thú!
Nó lặng lẽ ngồi xuống trên sàn nhà đầy bụi với bức họa đồ trên đầu gối! Hai đứa kia thấy vậy cũng xúm lại… Chúng đang phác họa chương trình hành động. Sau khi bàn bạc với nhau một lúc, Bảo Vi búng tay tróc tróc, nói:
- Chúng ta cần phải có một cây đèn pin và ít lắm là hai cái xẻng!
Bảo Chi giật mình:
- Ừ nhỉ! Chị quên bẵng chuyện đó!
Đêm ấy, một đêm mùa hạ đẹp trời. Thật là một điều may mắn cho ba chị em Bảo Chi! Chúng náo nức đến nỗi ăn vội bữa cơm chiều cho xong chuyện. Sau đó, chúng phân chia nhau mỗi đứa đi lo một công việc. Và khi bóng đêm vừa buông xuống thì ba chị em đã lặng lẽ đi về phía nhà kho…
Từ phương Đông, mặt trăng to và tròn đã ló dạng! Trăng lên dần… Ánh trăng vằng vặc chảy qua cành cây kẽ lá, chiếu xuống mặt đất những hình thù đen ngòm trông thật kỳ quặc…
Khi đến ngôi nhà nhỏ, ba chị em Bảo Chi tần ngần đứng lại. Chúng cảm thấy hồi hộp xen lẫn đôi chút sợ hãi. Sau đó, Bảo Chi mạnh dạn trèo lên một cây đào cạnh hàng rào tre đưa mắt quan sát. Ngoài xa kia, trời tuy sáng nhờ ánh trăng và dù đã cố giương đôi mắt thật to để nhìn, cô bé vẫn không thấy gì, ngoài những bụi cây đen thui, mọc rải rác đó đây trên một khoảng đất rộng mênh mông! Do dự một lúc, Bảo Chi bèn tuột xuống chui qua phía bên kia hàng rào. Cô bé ngạc nhiên không hiểu người nào – chắc là thằng Đề – đã phát thành một lỗ hổng khá rộng vừa một người chui qua!
Lần lượt từng đứa rúc qua rồi yên lặng xúm nhau lại dưới chân hàng rào. Bảo Vi chỉ tay về phía cây sồi cành lá rườm rà đang đứng sừng sững in bóng đen lên nền trời trong xanh, nói nhỏ:
- Không hiểu một hay hai cây sồi mà trông thật to lớn quá!
Bảo Thi lẩm bẩm:
- 10 thước về phía Nam…
Chợt nó quay lại hỏi Bảo Chi:
- Chị có biết chắc, hướng nào là hướng Nam không?
Bảo Chi mỉm cười tự tin:
- Sao em “cù lần” quá vậy? Học Đệ Thất rồi mà không biết tìm phương hướng sao?
Bảo Thi bào chữa:
- Thì người ta nói đại để là phải dùng địa bàn, dùng mặt trời v.v…
- Em nhớ như vậy là khá rồi đấy! Này nhé! Ban ngày thì ta có thể dùng mặt trời để tìm phương hướng ; còn ban đêm thì thường người ta căn cứ vào sao Bắc đẩu. Nhưng đêm nay, chị đã cố tìm sao đó mà chả thấy đâu cả! Đành phải nhờ tạm mặt trăng vậy! Mặt trăng cũng mọc từ phương Đông. Và từ đó suy ra, mình có thể tìm ra các hướng khác chứ gì? Dĩ nhiên, địa bàn bao giờ cũng là một dụng cụ tìm phương hướng chính xác nhất!
Ngừng một lát, Bảo Chi lại tiếp:
- Thôi bỏ qua chuyện đó đi! Bàn bạc mãi mất cả thì giờ! Bây giờ, việc tìm phương hướng giao phần chị. Còn phần các em, thì khi đến vị trí rồi, các em nhớ đi kiếm một ít cành cây con để lát nữa đóng xuống làm dấu nhé?
- Dạ, vâng ạ!
Sau đó, ba chị em Bảo Chi lặng lẽ tiến bước về phía cây sồi…
Vừa đến nơi, Bảo Vi và Bảo Thi vội bỏ cuốc xẻng xuống đất rồi chia nhau đi kiếm cành cây đem về bỏ trên đám cỏ xanh dưới bóng cây sồi, trong khi Bảo Chi đang lẩm nhẩm đếm bước. Trước hết, cô bé nhắm hướng rồi đếm 10 bước. Sau đó, nó quay về phía bên phải bước thêm 20 bước nữa. Chợt nó dừng lại ngẫm nghĩ một lúc rồi kêu hai em lại thì thầm:
- Các em có nhớ bức họa đồ ghi chú mấy thước về hướng nào không? Đứa nào nhớ rõ nói cho chị nghe đi! Suỵt! Đừng mở họa đồ ra nhé! Ánh đèn sẽ tiết lộ sự có mặt của bọn mình ngay!
Bảo Thi nhanh nhẩu:
- Em nhớ! Em thuộc lòng nó mà! Đây nhé : 10 thước về phía Nam! 20 thước về phía Tây!
Bảo Chi cám ơn em rồi lẩm nhẩm tính lại:
- Như vậy, mình phải đếm bước đôi vì bước chân mình ngắn quá chưa đủ một thước! Tính ra, mỗi bước đôi như vậy cũng xấp xỉ bằng một thước rồi.
Thế là cô bé lại cặm cụi đếm bước. Sau khi đã tính toán cẩn thận, Bảo Chi mới kêu hai em lại, chỉ xuống vùng đất chỗ nó đang đứng, nói:
- Chắc là chỗ nầy rồi đây! Thật là cũng may cho chị em mình, vùng đất nầy tương đối dễ đào vì có nhiều đất cát!
Bảo Chi đang định chạy lại lấy cuốc xẻng để đào thì chợt Bảo Vi đưa tay ngăn chị lại:
- Hồi chiều, em đã nói với chị là bọn mình chỉ nên đánh dấu vị trí kho tàng đã, đêm mai hẵng hay. Bây giờ, chị dùng cây đánh dấu đi!
Nhưng Bảo Chi trái lại, lòng đang náo nức tưởng chừng như đã tìm thấy kho tàng bí mật rồi nên bàn xuôi với em:
- Hồi chiều thì chị cũng nghĩ như em, nhưng bây giờ sẵn dịp nên đào kiếm luôn, sợ đêm mai bọn mình còn có cơ hội tốt như thế nầy nữa không? Đã liều thì liều luôn! Chị em mình cứ tiếp tục, may ra…
Hai đứa nghe chị nói cũng thấy xuôi tai nên vội chạy lại vác xẻng hì hục đào! Và chẳng bao lâu, ba chị em Bảo Chi đã đào được một hố khá sâu. Bảo Chi khôn ngoan hơn, sợ địa điểm có thể sai lệch đôi chút nên bảo hai em cố đào hố rộng ra độ nửa thước.
Khí trời về đêm tuy mát mẻ hơn ban ngày nhiều, nhưng cả ba mau thấm mệt, vì không quen làm việc nặng. Chả thế mà vừa mới đào được hơn chục nhát xẻng, Bảo Chi đã vội bỏ xẻng ngồi bệt xuống, đưa tay quệt mồ hôi trán, nói với các em:
- Nghỉ tay chút đã! Mệt quá! Còn phải đào sâu xuống nữa chứ, ít lắm cũng phải hơn hai thước may ra mới tìm được kho tàng!
Bảo Vi và Bảo Thi, ỷ mình con trai mạnh tay, vẫn tiếp tục đào, nhưng chỉ được một chốc, cũng vội chống xẻng đứng thở! Sau đó, cả ba lại hì hục đào bới. Bỗng, Bảo Vi nghe một tiếng “cạch” – hình như có vật kim khí chạm vào xẻng nó. Lập tức, nó vội nhảy xuống cầm lên một vật là lạ, lóng lánh dưới ánh trăng. Mừng quá, nó quên giữ ý, la lên:
- Trời! Vàng… vàng!
Bảo Chi và Bảo Thi cùng cúi nhìn xuống hố:
- Khẽ khẽ chứ! Vàng đâu? Vàng đâu?
Bảo Vi hốt thêm một nắm nữa đưa lên cho chị. Cô bé lấy tay khều đất vụn ra rồi chắc lưỡi:
- Ồ! Toàn là tiền vàng của bọn cướp!
Nhưng bỗng nó giật mình quay lại vì hình như đàng kia, trong bóng tối có một vật gì đang lay động! Cô bé cảm thấy hồi hộp, lo sợ thì thoảng nghe một giọng nói quen thuộc vang lên:
- Tôi đây! Đề đây! Có gì mà la ồn lên vậy?
Và từ phía một bụi rậm, Bảo Chi thấy một thân hình ốm o, mặc áo choàng đen ló ra, tiến về phía ba chị em cô. Cô tự hỏi:
- Giờ nầy thằng Đề tới đây làm gì nhỉ? Không biết nó sẽ có phản ứng gì khi thấy kho tằng bí mật nầy chăng?
Bảo Chi đang còn suy nghĩ, thì chợt thằng Đề lên tiếng:
- Ê! Tìm gì đó các bạn?
Ba chị em Bảo Chi cùng cảm thấy bối rối nhìn về phía thằng Đề đang đứng. Bảo Chi buộc phải xã giao:
- Đề có muốn chung phần không? Muốn thì cầm xẻng nhảy vào đây! Bọn nầy vừa khám phá ra một kho tàng bí mật! Lát nữa, bọn nầy sẽ kể cho cậu nghe, còn nhiều chuyện ly kỳ lắm!
Thằng Đề nhẹ chân bước tới. Đêm càng về khuya, khí trời càng lạnh, sương đổ xuống mỗi lúc một nhiều! Ánh trăng vằng vặc trông thật lạnh lùng! Trong cảnh thanh vắng nầy, vạn vật hình như đang triền miên trong giấc ngủ, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng gió thổi vi vu qua vùng đất mênh mông!
Bọn trẻ cũng cố sức giữ im lặng. Nhưng bỗng nhiên, Bảo Chi quên mọi đề phòng, cô bé la lên khi xúc lên một xẻng cát thấy lóng lánh nhiều đồng tiền vàng! Thằng Đề tỏ vẻ lo lắng:
- Đừng làm ồn chứ? Người ta biết thì nguy đó!
Nhưng đã quá muộn! Từ đàng xa, bọn trẻ đã nghe văng vẳng nhiều tiếng chó sủa! Bảo Chi vò đầu hối hận:
- Bực mình quá! Quên đi mất! Làm sao cho con chó kia câm miệng đi nhỉ?
Thằng Đề vội huýt gió nhè nhẹ và một con chó xù chạy tới nhảy chồm lên chân thằng bé! Bảo Vi kêu lên:
- Con chó đẹp quá nhỉ? Không biết ông nội anh có nghe nó sủa không?
Thằng Đề lo lắng:
- Có thể! Vì ông tỉnh ngủ lắm! Người già thường ít ngủ mà! Chắc ông sắp ra bây giờ!
Quả thật, thằng Đề vừa dứt lời, bọn trẻ đã thấy ánh đèn lập lòe từ phía những bụi cây đen ngòm đàng xa, đang chậm rãi tiến về phía chúng. Ánh đèn nhẩy lên nhẩy xuống theo bước chân đi trông như ánh ma trơi ngoài đồng vắng! Không ai bảo ai, cả bọn cùng thở dài sợ sệt:
- Nguy to rồi! Ông Đình đã tới kìa!
Bảo Chi muốn chạy trốn nhưng không kịp nữa! Cô vừa thoáng nghe một giọng nói khàn khàn, nghiêm nghị:
- Đêm khuya rồi, những ai còn làm gì đó?
Rồi ông hạ giọng:
- Phải có mầy đó không Đề? Mà hình như có bọn nào đang đứng với mầy đó?
Bảo Chi vội vã lên tiếng:
- Dạ, thưa cụ, tụi cháu thuộc gia đình bên kia ạ!
Cô bé vừa nói xong, lại tiến ra một bước nữa, tiếp lời:
- Dạ, tụi cháu đang đào một kho tàng bí mật ạ!
Ông già giật mình:
- Kho tàng bí mật?
- Dạ, đúng ạ!
Cô bé cố trả lời thật chậm rãi. Thật ra, nó cũng cảm thấy sợ sệt khi đứng đối diện với một ông già nổi tiếng là nghiêm khắc! Bây giờ, ông Tô Đình mới đưa cặp mắt nhìn sững vào mặt Bảo Chi! Bóng đêm lại càng làm tăng vẻ oai nghiêm to lớn của ông, trông chẳng khác gì một người khổng lồ. Lâu lắm, ông ta mới lập lại câu hỏi ban nãy:
- Mầy vừa nói gì? Kho tàng bí mật hả?
Vừa nói, ông vừa nhìn xuống hố rồi gật gù:
- À… à… Tao biết… tao biết…
Tuy vậy, giọng nói của ông nghe không có vẻ giận dữ lắm, nên bọn trẻ cũng cảm thấy yên tâm. Một lát sau, ông già chậm rãi nói tiếp:
- Tao giả như mầy không biết rằng mầy đang đào trên đất của tao. Tại sao?
Bây giờ, Bảo Chi mới cảm thấy sợ sệt, cô thầm nghĩ:
- Mình đang lâm vào thế kẹt! Biết làm sao cho ổn nhỉ?
Túng quá, cô bé đành nhỏ nhẹ thú thật:
- Dạ thưa, chúng cháu vì quá tò mò nên lỡ xâm phạm vào phần đất của cụ! Xin cụ bỏ qua cho ạ!
Ngừng một lát, cô bé lại tiếp tục nỉ non:
- Lại nữa, chị em tụi cháu nghĩ chắc cụ cũng cho phép tụi cháu thám hiểm một chút vì vùng đất nầy trống trơn, chưa có hoa màu gì cả!
Bảo Thi nhanh nhẩu cắt nghĩa thêm:
- Dạ thưa cụ, đầu đuôi là bà nội cho phép bọn cháu dùng ngôi nhà kho cạnh hàng rào tre để chơi đùa trong kỳ hè nầy ạ! Nhưng mãi đến hôm qua, chị em cháu mới bắt tay vào việc sửa soạn lại nhà cửa cho sạch sẽ, thì tình cờ bắt gặp một bức họa đồ trong chiếc rương của cậu Gia, mà tụi cháu phỏng đoán là của một tên hải tặc nào đó. Theo sự chỉ dẫn của họa đồ, tụi cháu đã khám phá ra cái hố chôn giấu kho tàng bí mật nầy!
Trong khi Bảo Thi đang kể lể thì Bảo Vi vội nhảy xuống hố bốc lên một nắm tiền vàng chìa ra và ông Tô Đình bấm đèn soi vào. Vì mắt kém, ông già phải ghé thật sát để nhìn đến nỗi, Bảo Chi nghe rõ từng nhịp thở của ông. Sau một lúc quan sát, ông ngẩng đầu lên lẩm bẩm:
- Một loại tiền Tây-Ban-Nha! Có thật tụi mầy đào từ đây lên không?
Bảo Chi lễ phép thưa:
- Dạ, thưa đúng ạ!
Và cô bé vội nói thêm:
- Em con còn tìm thấy nhiều hơn nữa cơ!
Nói rồi, nó chỉ tay về phía Bảo Vi trong lúc cậu nầy còn mải lom khom lượm tiền vàng còn lẫn trong đống đất cát.
Ông Tô Đình lẳng lặng tiến theo hướng tay cô bé, rồi bấm đèn soi vào. Ông không quên cầm một cành cây khều ra một ít đồng tiền để quan sát kỹ càng hơn. Chợt, Bảo Chi thấy ông lắc đầu:
- Đây không phải là loại tiền Tây-Ban-Nha! Một loại tiền của Anh quốc, còn loại kia là tiền của Nga!
Khi ông già ngẩng đầu lên, cô bé nhận thấy bộ mặt ông trở nên nghiêm khắc lẫn một chút hoài nghi:
- Thật là kỳ lạ! Loại tiền Anh này vừa mới được phát hành mà sao bọn cướp lại có được nhỉ?
Chợt ông đổi giọng xưng hô:
- Các con có thể cho ông coi lại một chút được không?
Thằng Đề vội ra dấu cho ba chị em Bảo Chi lui ra. Bảo Thi cúi xuống lượm một nắm tiền đưa lên nói:
- Anh Đề xem! Tiền vàng thật đấy chứ? Trông đã cũ lắm rồi, chắc có từ lâu, từ hồi bọn mình chưa được sinh ra đời kia nhỉ?
Ông Tô Đề tuy mải xem xét đồng tiền vàng nhưng hình như ông cũng chú ý đến câu nói vừa rồi, vì một lát sau, Bảo Chi thấy ông ta cầm một đồng tiền kêu chị em nó lại nói:
- Các đồng tiền nầy không cũ lắm đâu! Chúng vừa mới được phát hành độ một, hai năm thôi! Các con cứ chùi thật sạch một đồng tiền và đọc niên hiệu khắc trên đó thì rõ!
Óc tò mò của ông Tô Đình không cho phép ông bỏ qua việc này, ông phải tìm cho ra lẽ. Ông vội ghé tai nói nhỏ với Bảo Chi:
- Con có cầm theo bức họa đồ đó không?
- Dạ, thưa cụ có chứ!
- Con làm ơn đem cho ông coi một chút!
Trong khi ông Tô Đình đang cặm cụi xem xét họa đồ, thì Bảo Chi chăm chú theo dõi. Cô bé không hiểu tại sao nét mặt ông già, nhất là làn da trán cứ thay đổi hoài. Một lúc sau, ông kêu bọn trẻ lại giải thích:
- Có hai điều khó hiểu : thứ nhất là loại tiền Anh kia xem ra quá mới đối với bọn cướp; thứ hai, căn cứ vào nét mực thì họa đồ vừa mới được vẽ cách đây cũng không lâu lắm, hình như được sao lại từ một bản chính thì đúng hơn! Ông còn hồ nghi là bức họa đồ nầy được sao từ một cuốn sách trong thư viện của ông nữa cơ! Nhưng điều khó là làm sao biết được ai đã vẽ, vẽ từ lúc nào và tại sao nó lại nằm ở trong chiếc rương của cậu Gia? Không lẽ, người vẽ là ông Tần Gia? Ông nầy đã chết cách đây hơn hai năm rồi mà?
Ông Tô Đình vừa dứt lời, bọn trẻ, nhất là ba chị em Bảo Chi đã nhao nhao lên hỏi nhau, nhưng đứa nào cũng như đứa nào, chả ai biết hơn ai đâu, mà giải thích rành mạch được? Thế là chúng đang lâm vào ngõ bí! Nhiều câu hỏi tới tấp hiện ra trong trí óc non nớt của chúng mà không sao tìm ra được câu trả lời!
Trong bầu không khí yên lặng đó, bỗng thằng Đề lên tiếng:
- Dạ, thưa nội con biết!
Cả ba chị em Bảo Chi đều giật mình – như thể chúng bị kéo cùng một lúc bởi một sợi dây vô hình – nhìn chầm chập vào mặt thằng Đề! Bảo Chi nhăn mặt:
- Làm sao Đề biết được? Vì cậu đã vào trong nhà kho lần nào đâu? Vả lại chính tụi tôi là những người đầu tiên khám phá ra bức họa đồ và cùng nhau bàn định kế hoạch không hề có một người thứ tư nào biết!
Thằng Đề vẫn thủng thỉnh tiếp:
- Tôi biết chứ! Chắc Bảo Chi không quên hôm trước, nhân lúc trèo qua bên đó chơi, tôi đã nghe cô nói về cái rương của cậu Gia và hình như Bảo Thi còn nhờ tôi mở hộ nắp rương nữa cơ! Tôi nhập tâm chuyện ấy và có ý định sẽ tìm dịp để tạo nên một trò chơi trinh thám thú vị. Tôi thầm nghĩ là chỉ có trò chơi nầy mới có thể mời các bạn láng giềng qua nhà tôi một lần cho vui. Vì tôi tin chắc trí óc tò mò của các bạn thế nào cũng xui khiến các bạn, tìm cách đi thám hiểm một kho tàng bí mật chỉ cách xa nhà mình có mỗi một hàng rào tre thôi! Mục đích của tôi còn muốn đi xa hơn nữa nhưng chưa tiện nói thẳng ra. Với trò chơi nhỏ nầy, hy vọng tôi sẽ trở nên một người bạn thân của các bạn, dù tôi vẫn biết rằng, gia đình hai họ TÔ-TẦN đang có chuyện xích mích với nhau đến nỗi đã cắt đứt sợi dây ân tình vốn có từ trước!
Ngừng một lát để nuốt nước miếng, thằng Đề lại tiếp tục với một giọng trầm trầm:
- Những ngày tiếp theo, tôi suy nghĩ nhiều về dự tính đó, nhưng chưa tìm ra một trò chơi nào cả. Thế rồi, vào một chiều nọ, tôi nhớ ra ông nội tôi có một lô sách nói về bọn hải tặc, trong đó có một cuốn rất cũ không hiểu ông tôi thu thập từ đâu về. Tôi lại có một bộ sưu tập tiền vàng mà cha tôi đã làm quà biếu nhân ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 16 của tôi vừa rồi. Và chỉ cần hai món đó, tôi đã phác họa ra một trò chơi trinh thám thú vị. Suốt đêm hôm đó, tôi cặm cụi làm việc theo những điểm đã được vạch ra.
Thằng Đề đang vui vẻ kể thì một cơn ho đột nhiên kéo đến khiến nó phải tạm ngưng câu chuyện. Trong khi đó, mọi người, kể cả ông tô Đình đang nóng lòng theo dõi hồi kết cuộc:
- Trước tiên, tôi phải vẽ một bức họa đồ. Tôi lục lạo trong đống sách cũ của cha tôi lấy một cuốn rồi giở ra chon một tờ giấy trắng còn lành lặn. Tôi thấy hài lòng khi cầm nó trong tay vì trông tờ giấy có vẻ cũ kỹ lâu đời lắm và tôi bèn dùng nó để “can” lại một bức họa đồ trong một cuốn sách nói về bọn hải tặc. Dĩ nhiên, tôi đã vẽ thêm hướng chỉ vị trí kho tàng bí mật. Đồng thời, tôi đem tất cả bộ sưu tập tiền vàng chôn cẩn thận xuống đúng nơi vị trí đã ghi trên họa đồ!
Ngay tối hôm sau, đợi khi mọi người trong nhà đã ngon giấc, tôi liền rúc qua hàng rào và bí mật bỏ bức họa đồ vào trong cái rương của ông Tần Gia. Sở dĩ, tôi phải bỏ vào trong đó vì cốt sao cho các bạn lầm tưởng chắc là của một tên hải tặc nào đó trối lại cho người thân của nó đi tìm kiếm! Vì rương không khóa, nên mọi việc tiến hành trôi chảy như chương trình đã định. Mừng quá, tôi hí hửng ra về! Tuy nhiên, nét mực trong họa đồ hãy còn quá mới so với tờ giấy! Tôi đã sơ ý thật! Nhưng đó là một điều không thể tránh được vì thời gian quá cấp bách! Lại nữa, việc dùng bộ sưu tập tiền vàng của tôi cũng lâm vào tình trạng như trên. Ý tôi muốn là khi các bạn đào kho tàng bí mật nầy lên sẽ tìm thấy một số tiền vàng xưa cũ. Thế mà tôi đã chôn xen lẫn vào đó một loại tiền của Anh quốc vừa mới phát hành gần đây! Thật ra, tôi chỉ nhắm mục đích là tạo một trò chơi thú vị cho các bạn thôi!
Nói xong, thằng Đề quay lại phía ông Tô Đình, mỉm cười tiếp:
- Đối với ông nội, cháu xin chịu thua, phải không nội?
Ông tô Đình vui vẻ trả lời:
- Đối với các bạn cháu thì được, nhưng đối với ông thì cháu không thể qua mặt được đâu. Dù sao, ông cũng thầm phục trí óc trinh thám của cháu qua trò chơi nầy! ông cũng nhận thấy mục đích của sự phỉnh gạt nầy đã thành công lắm rồi!
Bảo Chi cũng cảm thấy phục thằng Đề sát đất:
- Sáng tác ra một trò chơi vừa thú vị vừa bổ ích như thế nầy, quả thật anh Đề là một học sinh có bộ óc sắc bén và tài tình thật!
Sau đó, cô bé vui vẻ:
- Thưa cụ, chị em cháu có ba người, trong khi anh Đề chỉ có một, nên anh ta muốn tìm cách kết thân với bọn cháu đó. Riêng cháu, cháu cũng cảm thấy vui mừng được có một người bạn thông minh như anh Đề! Phải không anh Đề nhỉ?
Thằng Đề như mở cờ trong bụng, vội gật đầu:
- Ở trường học, tôi cũng có nhiều bạn bè lắm! Nhưng trái lại về nhà, tôi không có lấy một người bạn nào gọi là xóm giềng cả! Nhiều lúc, tôi cảm thấy thật cô đơn, buồn chán, nhất là sau khi được thầy giáo cho học bài gì, tôi không nhớ đầu đề nhưng cũng thuộc vài đoạn như : “Chim có đàn cùng hót, tiếng hót mới hay. Ngựa có bạn cùng đua, nước đua mới mạnh…” gì gì nữa mà tôi quên mất rồi. Bây giờ, nếu được kết bạn với ba chị em Bảo Chi thì thật không có gì làm cho tôi sung sướng bằng! Hy vọng trong những ngày hè nầy, tôi sẽ có bạn cùng thả diều vào mỗi buổi chiều cho vui!
Ông Tô Đình nãy giờ vẫn đứng yên lặng, đến nỗi Bảo Chi cảm thấy hình như đang có một cái gì làm cho mạch máu ông căng thẳng! Thế rồi sau một cơn ho ngắn, ông lên tiếng hỏi Bảo Chi với một giọng cảm động:
- Ý con nói vậy có nghĩa là cháu nội ông cô độc?
Cô bé không do dự, đáp:
- Dạ, vâng ạ!
Họ lại nhìn nhau – một già, một trẻ – cái nhìn hàm chứa bao niềm cảm mến! Yên lặng bao trùm!
Một lát sau, ông Tô Đình lại lên tiếng, nhưng xem ra những lời nói của ông không ăn nhập gì với câu chuyện giữa ông và Bảo Chi vừa trao đổi ở trên:
- Thật sự, trước đây khi các cháu có lẽ chưa được sinh ra thì vùng nầy cũng có nhiều tên cướp biển thường lảng vảng đến. Chúng hay ghé thuyền dọc theo bờ biển và đôi khi còn cho các thuyền nhỏ vào tận các lạch sông để lấy nước ngọt. Vì thế, ông nghĩ rằng quanh quẩn đâu đây, thế nào cũng có cất giấu của cải ăn cướp được!
Bảo Vi vui vẻ:
- Chắc cụ biết nhiều về chuyện đó lắm, vì cháu vừa nghe anh Đề nói trong thư viện của cụ có nhiều pho sách nói về bọn hải tặc! Cháu ước mong sao một ngày nào đó, cụ cho cháu mượn một ít cuốn đọc giải trí cho vui!
Ông Tô Đình gật đầu nói:
- Gì chứ chuyện đó thì dễ lắm! Thế nào trong kỳ hè nầy, ông cũng cho các cháu mượn nhiều cuốn truyện trinh thám thật hay và bổ ích, tha hồ mà đọc! Nhưng hãy thư thả, để hôm nào ông bảo chị sen lau chùi thư viện và các kệ sách cho thật sạch đã nhé!
Bảo Chi thắc mắc:
- Cháu xin cám ơn cụ ạ! Nhưng cháu phân vân, sao cụ không thử mở một cuộc tìm tòi quanh đây, may ra khám phá ra được kho tàng nào của bọn cướp biển chăng?
Ông Tô Đình niềm nở trả lời:
- Để thủng thỉnh hẵng hay!
Bảo Thi hết vẻ sợ hãi, vội xen vào:
- Chắc kế hoạch tìm vàng của cụ sẽ ly kỳ lắm nhỉ? Nếu hôm nào cụ có ý định đó thì xin cho ba chị em cháu tham gia với! Cháu rất nóng lòng trông đợi đó!
- Thế nào cũng phải nhờ các cháu một tay chứ! Vì các cháu đã có kinh nghiệm sờ sờ kia kìa!
Sau ý kiến ngộ nghĩnh đó, cả mấy ông cháu cười đùa một cách vui vẻ! Một lúc sau, trong khi bọn trẻ còn vui vẻ trò chuyện thì ông Tô Đình lặng lẽ rút trong túi áo ra một chiếc khăn thêu thùa rất đẹp và còn mới toanh, từ từ xếp lại trao cho Bảo Chi, rồi ôn tồn nói:
- Con hãy mang chiếc khăn này về cho ông nội con và thưa với ông rằng : Đây là chiếc khăn của ông Tô Đình, người bạn láng giềng của ông nội, gởi ông để chỉ dấu từ này về sau, xin hai gia đình đi lại thân thiện với nhau như xưa nhé!
Bảo Chi cảm động, đưa tay run run đón nhận chiếc khăn, nhỏ nhẹ đáp:
- Dạ, cháu xin vâng ạ!
Và dưới ánh trăng huyền diệu, mấy ông cháu vui vẻ tạm chia tay nhau, trong lòng mỗi người tràn ngập một niềm hân hoan khó tả…


NGUYỄN HÒA GIANG

Phóng tác theo cuốn Adventure Lands
Của
Eleanor M. Johnson
 

5Characters

Rìu Sắt
Tuy là 95, nhưng từ lúc đọc truyện của chú Ánh như Mắt Biếc, Còn Chút Gì Để Nhớ... mình lại rất thích tìm đọc sách có gì đó xưa cũ mà rất đẹp, như muốn hoà mình, ngược thời gian để sống vào thời quá khứ vậy. Vậy là có bình thường không {pudency}
 

cyberat


Junior Moderator
Thành viên BQT
Bạn chủ có thể cho mình xin prc hay epub các truyện đó không? Mình thích đọc như vậy hơn
 


Top