Tình yêu xanh thẳm | VN-Zoom | Cộng đồng Chia Sẻ Kiến Thức Công Nghệ và Phần Mềm Máy Tính

Adblocker detected! Please consider reading this notice.

We've detected that you are using AdBlock Plus or some other adblocking software which is preventing the page from fully loading.

We need money to operate the site, and almost all of it comes from our online advertising.

Please add vn-z.vn to your ad blocking whitelist or disable your adblocking software. 

All the knowledge we share is completely free. If you are willing, please support us here.

×

Tình yêu xanh thẳm

malemkhoang

Rìu Chiến
tinh-yeu-xanh-tham-tracey-garvis-graves.jpg

CHƯƠNG 1
Anna​


Tháng Sáu năm 2001

Tôi vừa bước sang tuổi ba mươi khi chiếc thủy phi cơ chở T.J.Callahan và tôi đâm sầm xuống Ấn Độ Dương. T.J lúc đó mười sáu tuổi, mới hồi phục được ba tháng sau quãng thời gian đấu tranh với bệnh máu trắng. Người phi công tên là Mick, nhưng anh ấy đã chết trước khi chúng tôi đâm xuống đại dương.

Bạn trai tôi, John, đã đưa tôi đến sân bay mặc dù anh ấy chỉ đứng thứ ba trong số những người tôi muốn nhờ vả, sau mẹ tôi và chị gái tôi, Sarah. Chúng tôi chen chúc giữa đám đông, tay kéo những chiếc vali to đùng có bánh xe, tôi tự hỏi có phải hôm nay tất cả dân Chicago đều đổ về đây để bay đến một nơi nào đó hay không. Cuối cùng khi chúng tôi tới được quầy bán vé của hãng US Airways, nhân viên bán vé tươi cười, dán nhãn hành lý và trao cho tôi vé lên máy bay.

“Xin cảm ơn, cô Emerson. Tôi đã đăng ký vé cho cô từ đây đến tận Malé. Chúc cô một chuyến bay an toàn”.

Nhét vé máy bay vào túi xách, tôi quay sang tạm biệt John. “Cảm ơn anh đã đưa em đến đây”.

“Anh sẽ đi cùng em thêm một đoạn”.

“Không cần đâu”, tôi lắc đầu.

Anh ấy do dự, “Nhưng anh muốn thế”.

Chúng tôi cùng bước đi trong im lặng, nối đuôi theo đám đông hành khách đang nhích dần từng bước một. Khi đến cửa lên máy bay, John hỏi, “Thằng bé ấy trông thế nào?”

“Gầy gò và trọc lốc”.

Tôi nhìn lướt qua đám đông và mỉm cười khi thấy T.J bởi một bộ tóc nâu ngắn đã che kín đỉnh đầu thằng bé. Tôi vẫy tay, nó ra hiệu nhận ra tôi bằng một cái gật đầu trong khi thằng bé ngồi cạnh đang không ngừng huých cùi chỏ vào sườn nó.

“Thằng bé còn lại là ai vậy?”, John hỏi.

“Em nghĩ đấy là Ben, bạn nó”.

Ngồi ngả ngốn trên những chiếc ghế, chúng ăn vận theo đúng mốt của những cậu bé mười sáu tuổi: quần ngố thể thao vừa dài vừa thụng, áo phông và giầy tennis không buộc dây. Một cái ba lô màu xanh hải quân dựng dưới chân T.J.

“Em có chắc đây là công việc em muốn làm không?”, John hỏi. Anh ấy đút tay vào túi sau quần, nhìn chăm chú vào tấm thảm đã mòn vẹt trên sàn sân bay.

Ờ thì, một trong hai chúng ta sẽ phải làm gì đó thôi. “Có”.

“Em đừng quyết định bất cứ điều gì trước khi quay trở lại, nhé?”

Tôi đã cố nhịn để không mỉa mai câu nói của John. “Em đã nói là sẽ không làm thế mà”.

Thực ra chỉ có một lựa chọn duy nhất. Và tôi đã lựa chọn sẽ không đưa ra bất cứ quyết định nào cho đến cuối mùa hè.

John vòng tay quanh eo và hôn tôi, nụ hôn kéo dài lâu hơn vài giây so với lệ thường ở những nơi công cộng thế này. Tôi cảm thấy bối rối nên giằng ra khỏi vòng tay anh ấy. Từ khóe mắt, tôi thấy T.J và Ben đang chăm chú theo dõi.

“Anh yêu em”, John nói.

Tôi gật đầu. “Em biết”.

Khẽ thở dài, anh ấy nhặt hành lý của tôi lên và quàng dây qua vai tôi. “Chúc em có một chuyến bay an toàn. Gọi cho anh khi đến nơi nhé”.

“Vâng”.

John rời đi còn tôi lặng lẽ nhìn đám đông đang dần nuốt chửng anh ấy, rồi đưa tay vuốt lại vạt áo và bước về phía hai cậu nhóc.

Chúng cụp mắt nhìn xuống khi thấy tôi bước đến. “Chào T.J. Trông em có vẻ rất khỏe. Em đã sẵn sàng đi chưa?”

Đôi mắt nâu của thằng bé nhìn tôi trong chốc lát. “Vâng, chắc rồi”. Nó đã béo lên, mặt mũi trông không còn xanh xao nữa. Nó mang niềng răng, tôi không để ý thấy điều này trong lần gặp mặt trước, và nó có một cái sẹo nhỏ trên cằm.

“Xin chào, chị tên Anna”, tôi nói với thằng bé ngồi kế bên T.J. “Em chắc hẳn là Ben. Buổi tiệc của em thế nào?”

Cậu ấy liếc T.J vẻ bối rối. “Ờ, cũng được ạ”.

Tôi lôi điện thoại di động ra xem giờ. “Chị sẽ quay lại ngay, T.J. Chị muốn kiểm tra thông tin về chuyến bay một chút”.

Lúc dợm bước đi, tôi nghe thấy tiếng thằng Ben nói, “Thằng khỉ, chị bảo mẫu của mày quá nóng bỏng luôn ấy chứ”.

“Chị ấy là gia sư của tao, đồ khốn”.

Mấy từ ngữ ấy dội đến tai tôi. Tôi dạy trường cấp 3, và vì thế, luôn coi những lời nhận xét kiểu như vậy từ những thằng bé với mức hoóc môn đang tăng vọt chỉ như những lời khen vô hại.

Sau khi chắc rằng chúng tôi vẫn bay đúng giờ, tôi quay lại, ngồi vào chiếc ghế trống bên cạnh T.J. “Ben về rồi à?”

“Vâng. Mẹ nó đã phát mệt khi cứ phải lái xe lòng vòng trong sân bay. Nó không chịu cho mẹ nó vào đây”.

“Em có muốn ăn gì không?”

Thằng bé lắc đầu. “Em không đói”.

Chúng tôi ngồi thừ ra trong nỗi im lặng xa cách đến khi được lên máy bay. T.J nối gót tôi bước dọc theo lối đi hẹp dẫn đến dãy ghế hạng thương gia. “Em có muốn ngồi cạnh cửa sổ không?”, tôi hỏi.

T.J nhún vai. “Có. Cảm ơn chị nhé”.

Tôi bước sang bên cạnh, đợi đến khi thằng bé ngồi xuống, rồi lục đục ngồi xuống cạnh nó và cài chặt dây an toàn. Nó lôi từ ba lô ra một cái máy nghe nhạc cầm tay và đeo tai nghe vào, một cách tế nhị để tôi hiểu rằng nó chẳng thiết tha gì một cuộc trò chuyện. Tôi lôi từ trong hành lý xách tay ra một cuốn sách, tổ phi công cất cánh, vậy là chúng tôi rời Chicago.

Mọi chuyện bắt đầu tệ hại khi chúng tôi đến Đức. Nhẽ ra chỉ mất hơn mười tám tiếng một chút để bay từ Chicago đến Malé - thủ đô của quốc đảo Malpes - nhưng sau một loạt vấn đề về kỹ thuật và thời tiết xấu, chúng tôi phải hoãn liên tục và đành phải ở lại sân bay quốc tế Frankfurt đến hết nửa đêm, chờ được lên máy bay để tiếp tục cuộc hành trình. T.J và tôi cùng ngồi trên dãy ghế bằng nhựa cứng như đá vào lúc 3 giờ sáng sau khi đã chắc chắn sẽ có sẵn hai ghế trên chuyến bay tiếp theo. Thằng bé dụi mắt luôn tay.

Tôi chỉ một dãy ghế trống. “Em có thể nằm xuống nghỉ một lúc nếu muốn”.

“Em ổn”, thằng bé đáp, cố giấu một cái ngáp dài. “Chúng ta còn mắc kẹt lại đây thêm vài tiếng đồng hồ nữa cơ. Em nên ngủ một chút”.

“Chị không mệt à?”

Tôi gần như kiệt sức, nhưng có lẽ T.J cần nghỉ ngơi hơn. “Chị ổn. Em cứ tự nhiên”.

“Chị chắc chứ?”

“Chắc trăm phần trăm”.

“Được thôi”. Thằng bé cười uể oải. “Cảm ơn chị nhé”. Nó vươn vai ngả lưng trên mấy chiếc ghế và ngủ ngay lập tức.

Tôi nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ, ngắm những chiếc máy bay hạ cánh rồi lại cất cánh, những đốm đèn đỏ của chúng nhấp nháy liên hồi trên bầu trời đêm đen kịt. Luồng gió lạnh lẽo phả ra từ những cái máy điều hòa không khí khiến tôi nổi da gà, run rẩy trong tà váy mỏng manh và chiếc áo sát nách. Tôi bước vào một toa lét gần đó, thay quần jeans cùng chiếc áo phông dài tay mà tôi đã sắp sẵn trong hành lý xách tay, sau đó mua một ly cà phê. Khi trở lại ngồi cạnh T.J, tôi lôi cuốn sách ra tiếp tục nghiền ngẫm, cho đến khi phải đánh thức thằng bé dậy ba giờ sau đó để kịp lên máy bay.

Chào đón chúng tôi ở sân bay Sri Lanka là một loạt những cuộc hoãn bay khác - lần này thì bởi thiếu nhân viên tổ bay tính đến khi hạ cánh - được ở sân bay quốc tế Malé tại Malpes và còn cách khu nhà nghỉ mùa hè mà nhà Callahan đã thuê tận hai tiếng bay bằng thủy phi cơ, tôi đã thức trắng ba mươi giờ đồng hồ liên tục. Hai thái dương tôi giật giật liên hồi, hai mắt vừa cộm vừa nhức, càng lúc càng trở nên bỏng rát. Khi nhân viên quầy vé nói chúng tôi không đặt trước chuyến thủy phi cơ tiếp theo, nước mắt đã thi nhau chảy ra mỗi lần tôi chớp mắt.

“Nhưng tôi có mã số đặt vé đây”, tôi nói với nhân viên, đồng thời đẩy mẩu giấy qua quầy vé. “Tôi đã đặt chỗ trước khi rời Sri Lanka. Hai ghế. T.J. Callahan và Anna Emerson. Anh xem lại giúp tôi được chứ?”

Nhân viên quầy vé kiểm tra lại máy tính. “Tôi rất tiếc,” anh ấy nói. “Tên chị không có trong danh sách hành khách. Thủy phi cơ thì hết chỗ mất rồi”.

“Thế chuyến bay sắp tới thì sao?”

“Trời sẽ tối sập rất nhanh. Mà thủy phi cơ không được phép bay sau khi mặt trời lặn”. Để ý thấy vẻ mặt thảm hại của tôi, anh ấy gõ gõ trên máy tính một cách đầy thông cảm, đoạn nhấc điện thoại lên. “Để xem tôi có thể giúp gì thêm được cho chị không nhé”.

“Cảm ơn anh”.

T.J và tôi bước đến một quầy lưu niệm nhỏ, và tôi mua hai chai nước. “Em có muốn một chai không?” “Không, cảm ơn”.

“Sao em không cất chai này vào ba lô nhỉ,” tôi nói, đưa một chai cho thằng bé. “Sẽ có lúc em khát nước đấy”.

Tôi lôi từ túi xách ra một hộp Tylenol(*), đổ hai viên ra tay, nuốt trôi chúng với một chút nước. Chúng tôi ngồi xuống dãy ghế, và tôi gọi điện cho mẹ T.J, Jane, để báo với bà ấy rằng chúng tôi sẽ không có mặt trước sáng hôm sau.

“Có thể họ sẽ thu xếp được cho chúng tôi lên một chuyến bay, nhưng tôi không nghĩ sẽ bay được trong đêm nay. Chiếc thủy phi cơ không được phép bay sau khi trời tối, thế nên có lẽ chúng tôi sẽ qua đêm ở sân bay”.

“Tôi rất tiếc, Anna. Chắc cô phải mệt lắm”, bà ấy nói.

“Tôi ổn mà, thật đấy. Chắc chắn chúng tôi sẽ đến nơi vào ngày mai”. Tôi lấy tay che điện thoại và hỏi: “Em có muốn nói chuyện với mẹ không?” T.J nhăn mặt, lắc đầu.

Tôi nhận thấy người bán vé đang vẫy tay về phía chúng tôi. Anh ấy đang mỉm cười. “Jane, nghe này, tôi nghĩ là chúng tôi có thể…”, nhưng cuộc gọi đã bị ngắt. Tôi bỏ điện thoại vào trong túi xách tay, nín thở rảo bước đến quầy vé.

“Một trong số những phi công riêng của chúng tôi có thể chở hai vị đến hòn đảo”, nhân viên quầy vé nói. “Những hành khách của anh ấy đã bị hoãn chuyến bay tại Sri Lanka và họ sẽ không thể tới đây cho đến tận sáng mai”.

Tôi thở phào và mỉm cười. “Thật tuyệt. Cảm ơn anh vì đã thu xếp cho chúng tôi một chuyến bay. Tôi rất cảm kích”. Tôi cố gắng gọi lại cho bố mẹ T.J, nhưng điện thoại của tôi đã ngoài vùng phủ sóng. Hi vọng khi đến đảo tôi sẽ có sóng điện thoại trở lại. “Sẵn sàng chưa, T.J?”

“Vâng,” nó trả lời trong lúc xốc lại chiếc ba lô. Một chiếc xe buýt mini thả chúng tôi ở khu trực thăng. Sau khi được đăng ký ở quầy, chúng tôi bước ra chỗ đỗ trực thăng.

Khí hậu vùng Malpes làm tôi nhớ đến phòng xông hơi ở trung tâm tập gym của mình. Mồ hôi ngay lập tức túa đầy trên trán và sau gáy tôi. Chiếc quần jeans và áo phông dài tay dường như đang nhốt hơi nóng lẫn khí ẩm bên trong người tôi, khiến tôi ước gì đã thay sang đồ mát hơn trước khi ra đây.

Chẳng nhẽ ở đây lúc nào cũng ngột ngạt thế này sao?

Một nhân viên sân bay đứng cạnh cửa một chiếc thủy phi cơ đang đỗ bồng bềnh trên mặt biển. Anh ấy khẽ gật đầu với chúng tôi. Khi T.J và tôi bước đến gần, anh ấy mở cửa, đưa chúng tôi vào phía trong. Phi công vẫn đang ngồi trên ghế lái, cười với chúng tôi một nụ cười đầy bánh kẹp phô mai.

“Xin chào, tôi là Mick”. Anh ấy đã thôi nhồm nhoàm nhai và nuốt được miếng bánh to bự xuống. “Hi vọng quý vị không phiền nếu tôi ăn nốt bữa tối chứ”. Nhìn Mick khoảng ngoài năm mươi tuổi, béo phì đến mức khó lòng ngồi vừa chiếc ghế lái. Anh ấy mặc một chiếc quần ngố của hãng bay cùng một chiếc áo phông nhuộm lòe loẹt to nhất mà tôi từng thấy. Hai chân anh ấy để trần. Mồ hôi đọng thành giọt trên viền môi và trên trán, anh ấy chén nốt miếng cuối chiếc bánh kẹp rồi lau mặt bằng một tờ giấy ăn.

“Tôi là Anna và đây là T.J”, tôi giới thiệu, vừa mỉm cười vừa bắt tay anh phi công. “Tất nhiên chúng tôi không thấy phiền”.

Chiếc DHC-6 hai động cơ có mười chỗ ngồi, bốc mùi xăng và ẩm mốc. T.J thắt dây an toàn, chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi ngồi ghế phía bên kia, nhét túi và hành lý xách tay xuống dưới ghế, hai tay xoa xoa mắt. Mick bắt đầu khởi động động cơ. Tiếng ồn át cả tiếng nói của Mick nhưng nhìn anh ấy quay đầu và mấp máy môi là tôi đoán rằng anh ấy đang liên lạc với ai đó qua tai nghe. Anh ấy bẻ lái rời khỏi bến đỗ, tăng tốc, rồi chúng tôi dần bay lên.

Tôi bắt đầu nguyền rủa việc mình không thể ngủ trên máy bay. Tôi luôn luôn ghen tị với những người có thể ngủ ngay khi máy bay vừa cất cánh và không hề tỉnh giấc cho đến khi bánh máy bay lại chạm đất. Tôi cố gắng chợp mắt, nhưng ánh sáng mặt trời xuyên qua cửa máy bay, cộng với đồng hồ sinh học đang rối loạn khiến việc chợp mắt chút xíu cũng trở nên xa xỉ. Khi tôi chịu thua và đành mở mắt, T.J đang nhìn tôi chằm chằm. Mặt cậu bé đỏ lựng chắc cũng không kém mặt tôi lúc này là mấy. Nó quay đi, lúi húi nhét chiếc ba lô xuống gầm ghế, và vài phút sau đã chìm trong giấc ngủ.

Không thể ngủ được, tôi đành tháo dây an toàn, đoạn đi lại phía Mick hỏi xem còn bao lâu nữa thì chúng tôi hạ cánh.

“Có lẽ khoảng một tiếng nữa”. Anh ấy chỉ tay vào ghế lái phụ. “Cô có thể ngồi đây nếu muốn”.

Tôi ngồi xuống, thắt dây an toàn. Cố mở to mắt dưới ánh mặt trời gắt gao, tôi thu vào tầm mắt phong cảnh tuyệt trần. Bầu trời trong vắt không một gợn mây vẽ lên màu xanh cô ban hoàn hảo phía trên đầu. Còn dưới chân là dòng nước pha lẫn giữa màu xanh bạc hà dịu mát với màu xanh ngọc lam lóng lánh của Ấn Độ Dương.

Mick dùng một nắm tay xoa ngực, đoạn với lấy một viên giảm nồng độ axit. Tống một viên vào miệng, anh ấy giải thích, “Chứng sôi dạ dày. Cứ khi nào ăn bánh kẹp phô mai là tôi lại bị thế. Nhưng cô biết đấy, mấy cái bánh ấy ăn đứt mấy đĩa sa lát nhạt toẹt”. Anh ấy cười phá lên còn tôi thì gật gù đồng ý.

“Thế hai người từ đâu tới?”

“Chicago”.

“Cô làm gì ở Chicago?” Anh ấy lại uống thêm một viên giảm axit.

“Tôi là giáo viên tiếng Anh lớp 10”.

“À, vậy là cô đi nghỉ hè”.

“Thực ra thì không phải kỳ nghỉ của tôi. Tôi vẫn thường làm gia sư vào kỳ nghỉ hè”. Tôi ra dấu về phía T.J. “Bố mẹ cậu bé thuê tôi làm gia sư cho nó để nó theo kịp tiến độ trên lớp. Thằng bé bị máu trắng và phải nghỉ học rất nhiều”.

“Tôi cũng thấy cô quá trẻ nên không thể là mẹ thằng bé đó được”.

Tôi mỉm cười. “Bố mẹ và chị của thằng bé đã bay tới đây vài ngày trước rồi”.

Tôi không thể bay sớm cùng nhà Callahan vì trường công mà tôi đang dạy bắt đầu kỳ nghỉ hè muộn hơn vài ngày so với trường tư của T.J. Khi T.J biết điều đó, nó đã nằn nì bố mẹ cho phép ở lại Chicago đến hết tuần và sẽ bay cùng tôi. Bà Jane Callahans đã gọi để hỏi tôi liệu như vậy có phiền cho tôi không.

“Ben, bạn của T.J tổ chức một bữa tiệc. Thăng bé rất muốn tham dự. Cô có chắc là sẽ không phiền không?”, bà ấy hỏi.

“Không sao đâu”, tôi trả lời. “Chúng tôi sẽ có cơ hội để hiểu nhau hơn mà”.

Trước đó tôi mới chỉ gặp T.J có một lần, khi đến trao đổi với bố mẹ nó. Chắc phải mất thời gian thì thằng bé mới cởi mở được; làm việc với học sinh mới bao giờ cũng thế, nhất là một cậu nhóc tuổi ẩm ương.

Giọng nói của Mick cắt ngang suy nghĩ của tôi. “Cô sẽ ở đây trong bao lâu?”

“Cả mùa hè. Họ đã thuê nhà trên đảo rồi”.

“Thế bây giờ thằng bé khỏe chưa?”

“Vâng. Bố mẹ nó nói thằng bé đã rất ốm yếu trong một khoảng thời gian dài, nhưng đang hồi phục được vài tháng nay”.

“Thật là một địa điểm tuyệt vời cho một công việc mùa hè đấy nhỉ”.

Tôi cười, “Hơn hẳn thư viện là cái chắc”.

Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình trong im lặng thêm một lúc. “Thực sự là có tới 1200 hòn đảo ở dưới kia cơ à?”, tôi hỏi. Tôi mới chỉ đếm được ba hay bốn đảo, nổi lên giữa đại dương như những miếng ghép hình khổng lồ. Tôi đợi câu trả lời của anh ấy. “Mick ơi?”

“Gì cơ? À ừ, khoảng khoảng đó. Chỉ có chừng 200 đảo là có người ở, nhưng tôi nghĩ cứ đà phát triển thế này thì con người sẽ có mặt trên nhiều đảo hơn nữa. Cứ mỗi tháng lại có thêm một khách sạn hoặc khu nghỉ dưỡng khai trương”. Anh ấy cười khúc khích: “Ai cũng muốn có một mảnh của thiên đường”.

Mick lại xoa ngực lần nữa, đưa tay trái lên khỏi cần số, duỗi ra trước mặt. Tôi để ý thấy vẻ mặt đau đớn và những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán anh. “Anh không sao chứ?”

“Tôi ổn, chỉ là chưa bao giờ tôi bị sôi dạ dày đến mức này thôi”. Anh ấy uống thêm hai viên giảm axit và vò nát cái vỏ thuốc rỗng.

Một cảm giác bất ổn chợt vụt qua tâm trí tôi. “Anh có muốn tôi gọi ai giúp đỡ không? Nếu anh hướng dẫn tôi cách dùng radio, tôi sẽ gọi”.

“Không cần đâu, khi nào thuốc có tác dụng là tôi đỡ ngay ấy mà”. Anh ấy hít một hơi thật sâu rồi mỉm cười: “Dù sao cũng cảm ơn cô”.

Mick có vẻ ổn được một lúc, nhưng mười phút sau anh ấy rút tay khỏi cần số, không ngừng xoa xoa bên vai trái. Mồ hôi chảy ròng ròng trên khuôn mặt anh. Từng nhịp thở nông dần, Mick ngồi ngả hẳn ra trên ghế lái vì xoay xở mãi cũng không tìm được tư thế phù hợp. Cảm giác bất an của tôi đã trở thành nỗi sợ hãi.

T.J tỉnh dậy. “Chị Anna”, nó gọi, đúng ra là hét lên để át tiếng động cơ. Tôi quay lại. “Mình sắp đến nơi chưa?”

Tôi tháo dây bảo hiểm, quay về ngồi ghế cạnh T.J. Tôi không muốn phải hét lên nên kéo thằng bé lại gần và nói, “Nghe này, chị nghĩ Mick đang lên cơn đau tim. Anh ấy bị đau ngực, nhìn rất tệ nhưng lại cứ nghĩ là bị sôi dạ dày”.

“Cái gì! Chị không đùa đấy chứ?”

Tôi gật đầu. “Bố chị đã may mắn sống sót sau một cơn đau tim nặng vào năm ngoái, nên chị biết chắc chắn. Chị nghĩ anh ấy sợ nên không dám thú nhận thôi”.

“Thế còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có lái được cái máy bay này không?”

“Chị không biết”.

T.J và tôi cùng bước tới ghế lái. Mick đã dùng cả hai tay ấn vào ngực, hai mắt nhắm nghiền. Tại nghe của anh ấy đã lệch sang một bên còn mặt xám ngoét đi.

Tôi ngồi xuống bên cạnh anh ấy, cảm giác sợ hãi bao trùm. “Mick”. Giọng tôi hốt hoảng. “Chúng ta cần gọi trợ giúp ngay”.

Anh ấy gật đầu. “Tôi sẽ hạ cánh xuống nước trước và một trong hai người hãy dùng radio”, Mick thở hổn hển, cố gắng nói tiếp. “Mặc áo phao vào. Chúng ở trong tủ đồ bên cạnh cánh cửa này. Sau đó về chỗ ngồi và thắt dây an toàn”. Anh ấy nhăn nhó trong đau đớn. “Đi đi!”

Trống ngực tôi đánh thùm thụp, máu nóng dồn lên khắp cơ thể. Chúng tôi chạy ngay lại tủ đồ, lôi đống áo phao ra.

“Tại sao chúng ta phải mặc áo phao hả chị Anna? Chiếc máy bay này tự nổi được cơ mà, đúng không?”

Bởi vì anh ấy sợ là sẽ không kịp hạ cánh.

“Chị không biết, có thể đây là quy trình tiêu chuẩn khi hạ cánh khẩn cấp giữa đại dương”. Tôi tìm thấy áo phao được xếp trong hộp đồ hình trụ có ghi XUỒNG BƠM HƠI và một đống chăn. “Cầm lấy này”, tôi nói, đưa cho T.J một cái áo phao rồi mặc một cái khác vào. Chúng tôi về chỗ ngồi, cài dây an toàn, tay tôi run đến nỗi phải cài hai lần mới được.

“Nếu anh ấy bất tỉnh chị sẽ hô hấp nhân tạo ngay. Em phải tìm radio đấy nhé T.J?”

Thằng bé gật đầu, mắt mở to. “Em làm được”.

Tôi nắm chặt hai thành ghế, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, mặt nước đang ngày một gần hơn. Nhưng thay vì từ từ hạ độ cao, máy bay lại tăng tốc và chúng tôi đâm xuống theo phương gần như thẳng đứng. Tôi liếc mắt về phía đầu máy bay. Mick đã gục trên cần số, không động đậy. Tôi tháo dây an toàn, cố bước ra hành lang.

“Chị Anna”, T.J hét lên. Đường viền áo phông của tôi sượt qua khi nó cố nắm lấy tay tôi.

Trước khi tôi đến được ghế lái, Mick đã đổ ngược ra phía lưng ghế, tay vẫn còn nắm chặt cần số, một cơn co thắt dữ dội đang hành hạ ngực anh ấy. Mũi máy bay ngóc hẳn lên và đuôi máy bay chạm xuống nước trước, đập lên đập xuống trên từng đợt sóng. Đầu cánh máy bay chạm xuống mặt nước, chiếc máy bay đã ngoài tầm kiểm soát.

Cú hạ cánh bất ngờ làm tôi khuỵu xuống, cứ như thể một ai đó dùng dây trói quanh mắt cá chân tôi và siết thật mạnh. Tiếng cửa kính vỡ làm tai tôi ù đi, tôi có cảm giác bồng bềnh như đang bay ngay trước khi một cơn đau đớn kinh hoàng dội tới lúc máy bay vỡ tan.

Tôi bị ném xuống giữa đại dương, nước biển tràn vào đầy họng. Tôi hoàn toàn mất phương hướng, nhưng chiếc áo phao đã giữ tôi nổi lên. Đầu tôi đập mạnh xuống mặt nước, và tôi họ không ngừng, cố gắng hít không khí vào và đẩy nước ra.

T.J! Ôi Chúa ơi, T.J đâu rồi?

Tôi tưởng tượng ra cảnh thằng bé bị kẹt ở ghế ngồi, không thể tháo dây an toàn ra được, vậy là tôi cố nhìn quanh trên mặt nước, nheo mắt dưới ánh nắng gắt và không ngừng gào thét tên nó. Ngay khi tôi nghĩ nó đã chìm rồi thì thằng bé trồi lên trên mặt nước, ho sặc sụa, cố nhổ nước biển ra phì phì.

Tôi bơi về phía nó, cảm thấy có vị máu trong miệng, đầu tôi đau đến mức tôi nghĩ nó sắp nổ tung. Ngay khi bơi đến chỗ T.J, tôi nắm lấy tay nó, cố để cho nó biết tôi vui sướng nhường nào khi thằng bé không chết, nhưng tôi chẳng thể thốt nên lời và chợt cảm thấy chếnh choáng như đang chơi vơi giữa một làn sương mờ.

T.J hét lên đánh thức tôi tỉnh lại. Tôi nhớ từng đợt sóng vỗ không ngừng vào mặt khiến tôi uống không biết bạo nhiêu là nước, rồi tôi chẳng còn nhớ gì hết.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

CHƯƠNG 2​


Nước biển vây quanh tôi, xộc vào mũi, ùa vào họng, và tràn đầy hai mắt, tôi không thể thở nỗi giữa những cơn sặc nước liên hồi. Anna bơi về phía tôi, nước mắt giàn giụa hòa trộn với máu và những tiếng thét hoảng loạn. Chị ấy cầm lấy tay tôi, cố gắng nói điều gì đó, nhưng mớ âm thanh khi thoát ra khỏi miệng chị ấy bỗng dưng xáo trộn hết vào nhau, khiến tôi không tài nào hiểu được. Đầu chị ấy bắt đầu nghiêng ngả sang hai bên, và đột nhiên đập mặt xuống làn nước biển. Ngay lập tức tôi túm lấy tóc Anna kéo lên. “Tỉnh dậy, chị Anna, tỉnh dậy ngay!” Sóng xô từng đợt ào ào, mạnh đến mức sẵn sàng tách đôi chúng tôi về hai phía khác nhau bất cứ lúc nào, thế nên tôi xỏ tay phải vào dưới dây đeo áo phao của Anna và giữ chặt chị ấy.
Tôi nâng mặt chị ấy lên. “Anna. Anna!” Ôi Chúa ơi. Hai mắt chị ấy vẫn nhắm nghiền, chị ấy không hề có bất cứ phản ứng gì, tôi tiếp tục xỏ tay trái vào dưới dây áo phao và nằm ngửa ra, kéo Anna dựa lên trên ngực mình.
Từng đợt sóng nhấp nhô đẩy chúng tôi ngày một xa dần xác máy bay. Những mảnh vỡ của chiếc máy bay nhanh chóng biến mất dưới mặt biển, chẳng mấy chốc đã không còn chút tàn tích nào của vụ tai nạn nữa. Tôi cố không nghĩ tới Mick vẫn đang mắc kẹt trên ghế lái.
Trôi nổi bập bềnh theo làn sóng, ngất đi tỉnh lại không biết bao lần, nhưng tôi vẫn cảm nhận được trái tim mình đập loạn nhịp trong lồng ngực. Bao quanh bốn bề là sóng nước mênh mông, tôi cố giữ đầu của chúng tôi nổi trên mặt nước, ép bản thân mình không được hoảng sợ.
Liệu họ có biết chúng ta bị nạn không? Liệu họ có dò tìm chúng ta bằng sóng rađa không?
Có thể là không, bởi lẽ chẳng có ai tới cả.
Bầu trời tối dần, mặt trời bắt đầu lặn xuống. Anna lầm bầm điều gì đó khiến tôi tưởng chị ấy đã tỉnh lại, nhưng toàn thân chị run lên và bất chợt nôn lên người tôi. Sóng biển rửa sạch bãi nôn ngay tức khắc, tôi kéo Anna sát lại gần vì chị ấy run như cầy sấy, cố gắng chia sẻ với chị ấy chút hơi ấm từ thân mình. Tôi cũng rét run lên, mặc dù nước biển rất ấm. Không có lấy một ánh trăng nào, tôi khó lòng nhìn thấy làn nước xung quanh, lúc nãy đã chuyển sang màu đen thẫm chứ không còn ánh xanh biếc nữa.
Tôi lo sợ khi nghĩ đến đàn cá mập. Lôi một tay ra khỏi áo phao của Anna, tôi cố gắng nhấc cảm chị ấy khỏi ngực mình. Tôi cảm thấy âm ấm ngay dưới cổ, chỗ Anna vừa dựa vào. Chẳng lẽ chị ấy vẫn chảy máu? Tôi cố gắng đánh thức Anna dậy, nhưng chị ấy chỉ phản ứng rất yếu ớt mỗi khi tôi lắc mạnh khuôn mặt chị. Tôi chẳng muốn làm đau chị ấy, nhưng tôi muốn biết chắc là Anna còn sống. Không một cử động nào. Tôi sợ đến phát điên. Nhưng rồi đột nhiên chị ấy lại nôn và run bần bật trong vòng tay tôi.
Tôi cố hết sức để giữ bình tĩnh, hít thở nhẹ nhàng. Nằm ngửa trên những con sóng là cách dễ nhất để đỡ mất sức, tôi cùng Anna cưỡi trên từng con sóng trôi bập bềnh trên mặt biển. Thủy phi cơ không được phép bay vào ban đêm, nhưng tôi chắc chắn họ sẽ cử một chuyến bay đi tìm chúng tôi ngay khi mặt trời vừa ló dạng. Đến lúc ấy, chí ít một ai đó phải biết rằng chúng tôi đã gặp nạn.
Thậm chí bố mẹ mình còn không biết là mình đã ở trên chuyến bay.
Từng giờ trôi qua, tôi không thể nhìn thấy bất cứ con cá mập nào trong màn đêm đen kịt. Có lẽ chúng ở đó, chỉ là tôi không hề biết mà thôi. Kiệt sức, tôi chợp mắt trong chốc lát, thả lỏng đôi chân đã mỏi rã rời vì liên tục quẫy đạp sát mặt nước. Tôi cố không nghĩ tới bầy cá mập, có lẽ ngay lúc này đang bơi vòng tròn bên dưới.
Khi tôi lay Anna một lần nữa, chị ấy vẫn không có phản ứng gì. Tôi nghĩ rằng tôi cảm nhận được lồng ngực chị phập phồng lên xuống, nhưng thậm chí cũng không dám chắc về điều này. Đột nhiên có một cơn sóng lớn vỗ ầm ầm bên cạnh khiến tôi giật bắn mình, đầu Anna ngoẹo hẳn sang một bên, và tôi phải kéo chị ấy lại gần mình hơn nữa. Đợt sóng lớn vẫn tiếp tục vỗ, tạo nên một giai điệu kỳ lạ. Tưởng tượng ra không chỉ một mà là năm, mười hoặc thậm chí nhiều con cá mập hơn thế khiến tôi lảo đảo. Một thứ gì đó đột nhiên nhô lên khỏi mặt nước, phải một lúc tôi mới định thần được đó là gì. Tiếng ầm ầm chính là do từng cơn sóng vỗ vào lớp đá ngầm bao quanh một hòn đảo.
Chưa bao giờ tôi cảm thấy nhẹ nhõm đến vậy trong suốt cuộc đời mình, kể cả khi bác sĩ nói với chúng tôi rằng các liệu pháp điều trị đã giúp tôi chiến thắng căn bệnh ung thư.
Từng đợt sóng đẩy chúng tôi tới gần đảo hơn, nhưng không thẳng hướng về phía hòn đảo. Nếu tôi không làm gì cả thì chúng tôi sẽ bị đẩy dạt xa khỏi nó. Tôi không thể dùng tay vì cả hai tay đều đang vướng dưới áo phao của Anna, vậy nên tôi ngửa thẳng lưng ra làm trụ, lấy hết sức bình sinh đạp mạnh hai chân. Đôi giày của tôi bị tuột, nhưng tôi không bận tâm, nhẽ ra tôi nên tháo chúng ra từ vài giờ trước.
Đất liền vẫn còn cách chúng tôi chừng bốn mươi lăm mét(*) nữa. Thậm chí chúng tôi còn bị dạt ra xa hơn lúc trước. Không còn cách nào, tôi buộc lòng phải dùng một cánh tay, vừa bơi nghiêng vừa kéo Anna theo. Ngóc đầu lên, tôi thấy chúng tôi đã rất gần bờ. Đạp chân điên loạn, hai phổi bỏng rát, tôi bơi hết sức bình sinh.
Chúng tôi đã vào vùng nước lặng phía trong dải đá ngầm, nhưng tôi vẫn không hề dừng lại cho đến khi bàn chân bắt đầu chạm vào nền cát. Tôi chỉ còn chút sức tàn để lôi được Anna lên bờ trước khi ngã quỵ bên cạnh chị ấy và lả đi.
Ánh mặt trời chói lóa đã đánh thức tôi dậy. Toàn thân cứng ngắc vì đau đớn, tôi chỉ có thể hé một mắt ra quan sát xung quanh. Tôi cố sức ngồi dậy, tháo tung chiếc áo phao khỏi người, rồi quay sang nhìn Anna. Khuôn mặt chị ấy sưng vù với một vết tím bầm hằn chéo trên trán và kéo dài tới tận má. Chị ấy vẫn nằm bất động.
Tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực, nhưng tôi vẫn cố gắng vươn ra chạm vào cổ chị ấy. Làn da Anna vẫn ấm áp, tôi như trút được gánh nặng ngàn cân khi cảm nhận được nhịp mạch yếu ớt đang khe khẽ đập dưới mấy ngón tay mình. Chị ấy vẫn còn sống, nhưng tôi sợ hãi khi nghĩ rằng có thể Anna đã bị một chấn thương rất nặng ở vùng đầu. Nhỡ chị ấy không bao giờ tỉnh lại?
Tôi lay chị ấy một cách thận trọng. “Anna, chị có nghe thấy em không?” Chị ấy không có phản ứng gì, nên tôi lay lại một lần nữa.
Tôi đợi chờ và mong mỏi chị Anna mở mắt ra. Đôi mắt tuyệt đẹp màu xanh lam phảng phất chút ánh ghi. Đó là nét đầu tiên tôi chú ý khi gặp chị ấy. Chị ấy đã đến căn hộ nhà tôi để bố mẹ tôi phỏng vấn, và tôi thực sự bối rối khi mà Anna quá xinh đẹp còn mình thì gầy còm, trọc lốc, trông như một thằng mọi.
Nào, Anna, cho em ngắm đôi mắt chị lần nữa đi nào.
Tôi lay chị ấy mạnh hơn, cho đến khi chị ấy cuối cùng cũng chịu mở mắt ra. Tôi khẽ thở phào.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

CHƯƠNG 3​


Hai hình ảnh mờ mịt của T.J nhảy múa trước H mặt tôi, tôi chớp mắt đến khi chúng nhập vào thành một. Mặt thằng bé có một vết cắt, mắt trái thì sưng vù đến độ không mở ra nổi.
“Chúng ta đang ở đâu thế này?”, tôi hỏi. Giọng tôi lạc hẳn đi và miệng đầy vị muối.
“Em không biết. Một hòn đảo nào đó”.
“Thế còn Mick thì sao?”, tôi hỏi.
T.J lắc đầu. “Phần còn lại của máy bay đã chìm rất nhanh”.
“Chị chẳng nhớ gì cả”.
“Chị đã ngất đi trên biển, khi không thể đánh thức chị dậy em đã nghĩ là chị chết rồi”.
Đầu tôi đau như búa bổ. Tôi sờ tay lên trán, chạm phải một cục u to đùng. Một bên mặt của tôi dinh dính. “Chị bị chảy máu à?”
T.J cúi xuống, chải tóc tôi bằng mấy ngón tay để tìm chỗ chảy máu. Tôi đau phát khóc khi nó tìm thấy.
“Xin lỗi”, nó nói. “Một vết cắt khá sâu đấy. Cũng không còn chảy máu nhiều nữa. Lúc đang lênh đênh trên biển chị chảy máu nhiều lắm”.
Nỗi sợ hãi xâm chiếm cơ thể tôi. “Có cá mập không?”
“Em cũng không biết. Em không nhìn thấy con nào, nhưng em cũng lo là sẽ có”.
Hít một hơi sâu, tôi cố gắng ngồi dậy. Mặt biển trước mắt tôi quay cuồng. Đặt hai tay trên nền cát, tôi cố ngồi im cho đến khi cơn chóng mặt tồi tệ nhất qua đi. “Chúng ta đến đây bằng cách nào thế?”, tôi hỏi.
“Em vòng tay qua áo phao của chị và chúng ta cứ trôi theo cơn thủy triều cho đến khi vào bờ. Sau đó em kéo chị lên bờ cát”.
Nhận thấy những gì cậu bé vừa làm đã thực sự cứu sống tôi khiến tôi lặng đi trong giây lát. Tôi lặng lẽ nhìn mặt nước hồi lâu. Tự dưng tôi nghĩ rằng nếu thằng bé bỏ mặc tôi hoặc nếu lũ cá mập kéo đến hoặc nếu không có hòn đảo này thì chuyện gì sẽ xảy ra cơ chứ. “Cảm ơn em, T.J”.
“Không có gì”, nó nói, chỉ nhìn vào mắt tôi vài giây trước khi quay mặt đi chỗ khác.
“Em có đau lắm không?”, tôi hỏi.
“Em ổn. Em nghĩ là đã đập mặt vào cái ghế phía trước mình”.
Tôi cố gắng đứng lên nhưng lại loạng choạng ngã xuống, một cơn chóng mặt làm tôi xây xẩm. T.J đỡ tôi đứng dậy, lần này thì tôi đứng được trên đôi chân của mình. Tôi mở khóa áo phao, để nó rơi xuống bãi cát.
Quay lưng lại phía biển, tôi hướng tầm mắt nhìn vào hòn đảo. Hòn đảo trông không khác mấy những hình ảnh tôi hay thấy trên Internet, chỉ thiếu mỗi một khách sạn hạng sang và những khu nghỉ dưỡng cao cấp mà thôi. Làn cát trắng tinh khôi như đường xào xạo dưới bàn chân trần của tôi, làm tôi chợt nhận ra không biết đôi giày của mình đã văng đi đường nào. Đường bờ biển cát trắng đã được thay thế bằng những bụi hoa và cây nhiệt đới, rồi những rặng cây cao vút đứng sát bên nhau tạo thành những vòm lá đan xen màu xanh biếc kết thúc tầm mắt của tôi. Mặt trời rực rỡ trên cao chiếu ánh nắng gay gắt xuống hòn đảo. Từng cơn gió biển thoang thoảng không giúp gì cho việc giảm thân nhiệt đang ngày càng lên cao của tôi khi từng giọt mồ hôi thi nhau tuôn đầy trên mặt và quần áo cứ dính chặt vào làn da nhớp nháp.
“Chị phải ngồi xuống một lát đã”. Dạ dày tôi sôi lên, tôi sắp nôn đến nơi. T.J ngồi xuống cạnh tôi và khi cơn buồn nôn qua đi tôi nói, “Đừng lo. Chắc chắn họ sẽ biết chúng ta bị rơi máy bay và sẽ sớm tìm kiếm thôi”.
“Chị có biết mình đang ở đâu không?”, nó hỏi.
“Không hề”.
Tôi dùng ngón tay vẽ trên nền cát. “Những hòn đảo tập trung thành chuỗi gồm hai mươi sáu đảo san hô trải dài từ bắc xuống nam. Đây là nơi chúng ta định đến”. Tôi chỉ tay vào một đám biểu tượng vừa vẽ. “Còn đây là Malé, nơi chúng ta khởi hành. Chắc giờ mình đang ở đâu đó quãng giữa này, trừ khi những đợt thủy triều đẩy chúng ta dạt hẳn sang đông hoặc tây. Chị còn chẳng rõ Mick có đi đúng hướng, hay thậm chí chiếc thủy phi cơ có được lập trình bay theo đường đã định sẵn hoặc được kiểm soát qua sóng rađa hay không”.
“Bố mẹ em chắc sẽ phát hoảng lên mất”.
“Ừ”. Bố mẹ T.J chắc chắn sẽ ra sức gọi vào di động của tôi, nhưng chắc giờ này nó đã nằm dưới đáy đại dương rồi.
Mình có nên nhóm một ngọn lửa cầu cứu không? Khi bị lạc mọi người đều làm thế đúng không? Nhóm lửa lớn lên để mọi người có thể phát hiện ra nơi mình đang bị lạc?
Tôi không hề biết cách làm sao để nhóm lửa. Kỹ năng sinh tồn của tôi chỉ dừng ở những kiến thức học được trên tivi và trong sách. Cả tôi và T.J đều không đeo kính, không thì chúng tôi đã có thể dùng kính hội tụ ánh nắng mặt trời để tạo lửa rồi. Chúng tôi cũng chẳng hề có lấy một viên đá lửa hay miếng thép nào. Chỉ còn hi vọng vào lực ma sát mà thôi, liệu cứ cọ hai que củi vào nhau thì có lên lửa không? Có lẽ chúng tôi cũng chưa cần phải lo nhóm lửa. Họ chắc chắn sẽ nhìn thấy chúng tôi nếu như bay thấp và nếu chúng tôi ở ngay sát bãi biển.
Chúng tôi cố viết chữ SOS. Đầu tiên là dùng chân di trên cát, nhưng nông như thế thì tôi sợ rằng từ trên máy bay sẽ không thấy nổi. Đoạn chúng tôi đi ngắt lá để xếp, nhưng gió biển thổi tung chúng đi trước khi chữ SOS kịp hiện ra. Cũng chẳng có hòn đá nào đủ to để giữ lá khỏi bay cả, chỉ toàn những hòn sỏi và những mảnh san hô nhỏ. Đi đi lại lại khiến chúng tôi càng nóng hơn, vết thương trên đầu tôi càng đau đớn dữ dội. Chúng tôi đành bỏ cuộc và ngồi bệt xuống cát.
Mặt tôi cháy nắng bỏng rát, còn tay và chân của T.J cũng trở nên đỏ ửng. Chỉ một lát sau chúng tôi đành phải rời khỏi bờ biển để nghỉ ngơi dưới bóng râm của cây dừa. Những quả dừa rơi đầy trên mặt đất, chúng tôi biết chắc bên trong chứa ăm ắp nước. Chúng tôi thi nhau đập dừa vào thân cây nhưng không tài nào làm nứt được quả dừa.
Mồ hôi túa đầy trên mặt khiến tôi phải túm hết tóc lại búi ngược. Lưỡi sưng phồng và miệng khô khốc khiến tôi không tài nào nuốt được.
“Em sẽ đi xung quanh xem sao”, T.J bảo. “Chắc sẽ có nước ở quanh đây”. Thằng bé đi một lát là quay lại ngay chỗ gốc dừa, tay cầm theo một thứ gì đó.
“Em không tìm thấy nước nhưng tìm thấy thứ này”. Nó to bằng quả bưởi, vỏ có rất nhiều gai lởm chởm màu xanh.
“Cái gì thế?”, tôi hỏi.
“Em chịu, nhưng chắc là sẽ có nước ở bên trong, giống như quả dừa ý”.
T.J dùng móng tay bóc vỏ. Bất kể là loại quả gì thì lũ sâu bọ cũng đã mở tiệc trước chúng tôi.
Thằng bé vứt ngay xuống đất và đá nó ra thật xa. “Em tìm thấy quả này dưới một cái cây”, T.J nói. “Có rất nhiều quả ở trên cây nhưng cao quá em không hái được. Nếu đứng lên vai em, chắc chị sẽ chọc được một quả. Chị có đi được không?”
Tôi gật đầu, “Nếu đi chậm thì được”.
Khi đến nơi, T.J nắm tay tôi và giúp tôi trèo lên vai nó. Tôi cao một mét bảy, nặng hơn năm mươi tư cân. T.J cao hơn tôi ít nhất mười xen ti mét và nặng hơn tôi gần mười bốn cân, nhưng thằng bé cũng chao đảo khi phải cố gắng giữ cho tôi đứng thẳng. Tôi cố với lên càng cao càng tốt, vươn tay về phía chùm quả. Tôi không tài nào nắm được chúng nên đành dùng tay đấm thật mạnh. Hai lần đầu chẳng ăn thua, nhưng tôi cố đấm mạnh hơn khiến một quả rơi xuống. T.J hạ tôi xuống, tôi nhặt ngay thứ quả đó lên.
“Em vẫn không biết đây là quả gì”, thằng bé nói, sau khi tôi đưa cho nó.
“Có khi là quả bánh mì cũng nên”.
“Quả gì cơ?”
“Đấy là một loại quả có vị như bánh mì”.
T.J bóc vỏ, và mùi thơm tỏa ra khiến tôi nghĩ đến quả ổi. Chúng tôi chia đôi, thi nhau hút hết nước bên trong quả để làm dịu cơn khát. Chúng tôi nhai và nuốt phần thịt quả. Cảm giác dai dai của nhựa quả làm tôi nghĩ nó chưa chín hết, nhưng cả hai vẫn ăn ngon lành.
“Em chẳng thấy vị bánh mì gì cả”, T.J nói.
“Nếu như chúng ta nướng lên thì có thể sẽ giống hơn”.
Sau khi ăn xong, tôi lại leo lên vai T.J, hái thêm hai quả nữa để ăn luôn. Sau đó chúng tôi lững thững đi về phía cây dừa, ngồi xuống dưới gốc cây và tiếp tục chờ đợi.
Đến chiều muộn, bầu trời bất chợt đổ mưa tầm tã mà không có một dấu hiệu báo trước. Chúng tôi chui ra khỏi bóng cây dừa, ngửa mặt lên trời, há to miệng, nhưng cơn mưa chỉ kéo dài tầm mười phút.
“Bây giờ đang là mùa mưa”, tôi nói. “Có lẽ trời sẽ mưa hàng ngày, vài lần một ngày cũng nên”. Chúng tôi chẳng có vật dụng gì để trữ nước mưa cả, nên những giọt mưa rơi được vào miệng tôi chỉ càng làm tôi khát thêm.
“Những người tìm kiếm đâu rồi?”, T.J hỏi khi mặt trời bắt đầu lặn. Giọng thằng bé chứa đầy thất vọng, cũng chẳng khác gì tâm trạng của tôi.
“Chị không biết”. Tôi không thể hiểu nổi tại sao máy bay tìm kiếm vẫn chưa đến. “Chắc ngày mai họ sẽ tìm thấy chúng ta thôi”.
Chúng tôi lại hết ra bãi biển, nằm sõng xoài trên bờ cát, đầu gối lên hai chiếc áo phao. Không khí dịu mát cùng làn gió biển khiến tôi run rẩy. Vòng hai tay ôm lấy người và cuộn tròn như trái bóng, tôi lắng nghe tiếng sóng du dương vỗ vào rặng san hô.
Chúng tôi nghe thấy tiếng động mà chưa kịp định thần xem đó là tiếng gì. Tiếng vỗ cánh tràn ngập không gian, ngay sau đó là bóng của hàng trăm, thậm chí hàng ngàn con dơi. Chúng che khuất cả ánh trăng khiến tôi rùng mình nghĩ đến việc chúng treo lơ lửng đâu đó ngay trên đầu chúng tôi khi chúng tôi đi hái quả bánh mì.
T.J ngồi bật dậy, “Em chưa bao giờ nhìn thấy nhiều dơi đến thế”.
Chúng tôi sững người nhìn lũ dơi một lúc trước khi chúng bay đi săn mồi. Vài phút sau, T.J lại ngủ. Tôi nhìn đăm đăm lên bầu trời, biết rằng sẽ chẳng ai đi tìm chúng tôi giữa đêm như thế này đâu. Chắc phải đến sáng mai mọi người mới tiếp tục tìm kiếm. Tôi hình dung ra bố mẹ của T.J đang quẫn trí đợi trời sáng. Cứ nghĩ đến việc gia đình tôi phải nhận tin dữ là tôi lại chảy nước mắt.
Tôi nghĩ đến chị gái Sarah và câu chuyện mà chúng tôi mới nói với nhau vài tháng trước. Chúng tôi đã cùng ăn tối ở nhà hàng Mexico, và khi người bồi bàn mang đồ uống ra, tôi đã uống một ngụm magarita(*) rồi nói, “Em đã nhận công việc gia sư mùa hè mà hôm trước em kể với chị. Em sẽ dạy thằng bé bị ung thư đó”. Tôi đặt ly đồ uống xuống, xúc một ít sốt salsa(*) vào miếng bánh giòn tortilla(*) rồi bỏ tọt vào mồm.
“Cái vụ dạy học mà em sẽ được đi du lịch với gia đình người ta ấy hả?”, chị ấy hỏi.
“Vâng”.
“Em đi cũng lâu đấy nhỉ. Thế John bảo sao?”
“John và em lại nói về chuyện kết hôn. Nhưng lần này em nói với anh ấy là em muốn có con”. Tôi nhún vai. “Rồi tự nhiên em nghĩ, sao không chia tay quách cho rồi”.
“Ôi, Anna à”, Sarah kêu lên.
Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn không nghĩ nhiều về việc có con. Tôi rất thích thú với việc làm dì của hai đứa trẻ nhà Sarah - Chloe hai tuổi và Joe năm tuổi. Rồi tất cả mọi người tôi biết bắt đầu khích tướng tôi, khiến tôi đột nhiên nhận ra tôi muốn có đứa con của riêng mình. Cơn sốt thèm con cộng với việc đồng hồ sinh học đang tích tắc không ngừng khiến tôi thấy kinh ngạc với bản thân. Tôi cứ nghĩ việc muốn sinh con sẽ đến thật từ từ chậm rãi, nhưng không, đột nhiên một ngày cảm giác này xâm chiếm toàn bộ tâm trí tôi.
“Em không thể cứ sống thế này được, Sarah ạ”, tôi nói tiếp, “Làm sao John có thể chăm con được nếu như anh ấy còn không muốn kết hôn?” Tôi lắc đầu. “Sao với những người phụ nữ khác thì dễ dàng đến thế. Họ gặp một ai đó, yêu người đó, rồi kết hôn. Trong khoảng một đến hai năm sau là họ bắt đầu một gia đình rồi. Đơn giản đúng không? Khi em và John cùng bàn bạc về tương lai, câu chuyện của bọn em lãng mạn cứ như thể giao dịch bất động sản, với những màn cãi vã nhiều không kém”. Tôi với lấy giấy ăn chấm mắt.
“Chị rất tiếc, Anna. Thẳng thắn mà nói chị cũng không hiểu tại sao các em lại dùng dằng lâu như vậy. Bảy năm là thừa để John biết chính xác nó muốn gì chứ”.
“Tám rồi, Sarah a. Đã tám năm”. Tôi lại nhấc ly cốc tai lên, uống cạn trong hai ngụm.
“Ồ, vậy là chị đã nhớ thiếu một năm”. Người bồi bàn đến hỏi liệu chúng tôi có muốn uống thêm một ly nữa không.
“Cứ thấy cạn thì anh rót thêm vào cho tôi”. Sarah đáp. “Thế cuộc nói chuyện kết thúc thế nào?”
“Em nói với John rằng em cần đi đâu đó trong mùa hè này, và em sẽ dùng thời gian ở một mình để suy nghĩ kỹ xem thực sự thì em muốn gì”.
“Thế nó bảo sao?”
“Vẫn như mọi khi thôi. John nói anh ấy yêu em, nhưng anh ấy vẫn chưa sẵn sàng. Anh ấy lúc nào cũng thẳng thắn với em nhưng em nghĩ đó là lần đầu tiên John nhận ra quyền quyết định không chỉ ở phía anh ấy”.
“Em đã nói với mẹ về việc này chưa?”, Sarah hỏi.
“Em nói rồi. Mẹ bảo em hãy tự hỏi bản thân xem cuộc sống của em sẽ tốt đẹp hơn nếu có anh ấy hay là không có anh ấy”.
Sarah và tôi thật may mắn vì mẹ chúng tôi luôn biết cách đưa ra những lời khuyên vừa đơn giản lại vừa thiết thực. Bà lúc nào cũng ở phía trung lập - không bao giờ phán xét. Thật là một điều bất thường so với đa phần các bậc cha mẹ của bạn bè tôi.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

CHƯƠNG 4​


Ngày thứ hai
Tôi thức dậy ngay khi ánh nắng đầu tiên chiếu lên bãi biển. Anna đã tỉnh giấc, đang ngồi bên tôi nhìn ngắm bầu trời. Dạ dày của tôi sôi lên òng ọc mà tôi không dám khạc nhổ.
Tôi ngồi dậy. “Chào. Đầu chị sao rồi?”
“Vẫn còn khá đau”, chị ấy đáp.
Mặt Anna nhìn tệ không kém gì tôi. Vết bầm tím chạy dài trên hai má còn sưng phồng và có một vệt máu đã khô dính bết nơi chân tóc.
Chúng tôi đi lại phía cây bánh mì, Anna lại trèo lên lưng tôi hái xuống hai quả. Tôi cảm thấy yếu hơn hẳn, người cứ chao đảo nên rất khó giữ chị ấy đứng yên. Chị ấy nhảy xuống ngay khi quả bánh mì bất ngờ tự rơi xuống dưới chân tôi. Chúng tôi nhìn nhau.
“Thế có phải dễ hơn không nào”, chị Anna nói. Chúng tôi dọn sạch những quả hỏng rơi dưới gốc cây để khi quay lại có thể ăn những quả mới rụng. Tôi nhặt ngay lấy quả vừa rụng và bóc. Nước quả ngọt hơn, thịt quả cũng không còn dai như quả hôm qua nữa.
Cần nhất là tìm thứ gì đó hứng nước mưa nên chúng tôi đi dọc bờ biển cố tìm ống lon, chai lọ hay thùng chứa rỗng - bất cứ thứ gì có thể đựng. Chúng tôi tìm thấy những mảnh vụn mà tôi đoán là từ vụ rơi máy bay hôm qua, ngoài ra chẳng còn gì. Chẳng tìm thấy chút rác thải của loài người nào làm tôi hoang mang không hiểu mình đang ở chỗ quái nào.
Chúng tôi đi sâu vào đất liền. Những tán cây lớn che khuất ánh mặt trời và đàn muỗi lao vào chúng tôi. Tôi đập chúng liên tục và phải quẹt mồ hôi trán bằng cánh tay. Chúng tôi tìm thấy một cái ao nhỏ. Thực ra thì giống một vũng nước lớn hơn với đầy nước đục ngầu, đột nhiên cơn khát lại dâng lên cồn cào trong tôi.
“Mình uống nước này được không?”, tôi hỏi.
Anna quỳ xuống, thò tay lùa nước. Chị ấy múc một ít nước đưa lên mũi ngửi và ngay lập tức nhăn mũi. “Không được, đây là vũng nước đọng. Có lẽ là không uống được đâu”.
Chúng tôi tiếp tục đi nhưng không tìm thấy thứ gì đựng nước nên đành quay lại gốc dừa. Tôi nhặt lấy một quả dưới gốc, đập thật lực vào thân cây, nhưng cũng chẳng ăn thua nên tôi tức giận ném thẳng nó ra xa. Tôi giang chân đá mạnh vào thân cây làm chân đau điếng. “Chết tiệt”.
Nếu tôi mà bửa được một quả dừa thì có phải chúng tôi đã có thể uống nước dừa, ăn cùi dừa và dùng gáo dừa đựng nước mưa rồi không.
Anna có vẻ chẳng để ý gì đến cơn tức giận của tôi. Chị ấy lúc lắc đầu rồi nói, “Không thể hiểu nổi tại sao chúng ta vẫn chưa nhìn thấy cái máy bay nào nhỉ. Họ đang ở đâu chứ?”
Tôi ngồi phịch xuống cạnh chị ấy, hơi thở nặng nề và mồ hôi túa đầy người. “Em chịu”. Chúng tôi im lặng một lúc, mải mê suy nghĩ. Cuối cùng, tôi lên tiếng, “Chị có nghĩ là nên nhóm lửa không?”
“Em có biết cách nhóm lửa không?”, chị ấy hỏi.
“Chịu”. Từ bé tôi đã sống trong thành phố, và số lần tôi đi cắm trại chưa đếm nổi trên một bàn tay. Mà chúng tôi nhóm lửa trại bằng bật lửa. “Còn chị?”
“Không”.
“Nhưng cứ thử xem sao”, tôi nói. “Chúng ta có thừa thời gian mà”.
Chị ấy cố cười trước câu đùa nhạt nhẽo của tôi. “Được thôi”.
Chúng tôi cọ sát hai cái que vào nhau suốt một tiếng đồng hồ sau đó. Anna cố gắng cọ sát cho đến khi người nóng rực lên mới thôi. Tôi khá hơn một chút - có lúc tôi đã thấy khói bay lên - nhưng vẫn chẳng có lửa. Hai tay tôi đau buốt.
“Em chịu thua”, tôi nói, quẳng ngay hai cái que xuống cát, kéo cả vạt dưới áo phông lên để lau mồ hội trước khi nó chảy vào mắt.
Trời lại bắt đầu mưa. Tôi cố hết sức há to mồm để uống được nhiều giọt mưa hơn, cảm thấy sung sướng khi uống được một ngụm nhỏ. Cơn mưa tạnh hẳn chỉ sau vài phút.
Mồ hôi vẫn chảy ròng ròng, tôi bước xuống bãi biển, cởi phăng áo phông, và nhảy xuống biển khi chỉ mặc độc chiếc quần ngố. Nhiệt độ của vùng biển lặng này khiến tôi nhớ đến nước tắm, nhưng tôi cố chúi đầu xuống sâu hơn để đón nhận làn nước mát rượi. Anna đi theo tôi nhưng chị ấy dừng lại sát mép nước. Chị ấy ngồi xuống biển, tay nhấc mơ tóc dài lên khỏi cổ. Chắc chị ấy phải nóng phát điên trong chiếc áo dài tay và quần jeans mất. Vài phút sau chị ấy đứng dậy, lưỡng lự, rồi kéo áo phông qua đầu. Chị ấy cũng cởi quần jeans, và chậm rãi đi về phía tôi, trên người chỉ còn mỗi bộ đồ lót màu đen.
“Cứ giả vờ là chị đang mặc đồ bơi nhé”, chị ấy nói khi lao xuống chỗ tôi. Mặt chị ấy đỏ gay, gần như không dám nhìn thẳng vào tôi.
“Tất nhiên rồi”. Tôi cũng xấu hổ đến mức gần á khẩu.
Thân hình chị Anna đẹp tuyệt. Chân dài, eo thon. Thật là quyến rũ. Tăm tia chị ấy không phải là điều tôi nên làm lúc này. Không đời nào tôi nghĩ mình lại có thể “hứng lên” sau một loạt những đói khát, mệt mỏi phải trải qua. Nhưng tôi nhầm to. Tôi đành phải bơi ra xa chị ấy cho đến khi kiểm soát được cảm xúc.
Chúng tôi ở dưới biển một lúc lâu và khi lên bờ, chị ấy quay lưng lại phía tôi để mặc quần áo. Chúng tôi quay lại chỗ cây bánh mì nhưng chẳng có quả nào rụng xuống. Anna đành trèo lên vai tôi, tôi giữ cho chị ấy khỏi ngã bằng cách bám chặt vào chân chị ấy, hình ảnh cặp chân trần dài và thon lại lướt qua tâm trí tôi.
Chị ấy hái xuống thêm hai quả. Tôi chẳng thấy đói mấy trong khi nhẽ ra dạ dày tôi trống rỗng mới phải. Anna có vẻ cũng không đói lắm, vì chị ấy chỉ uống nước chứ không ăn thịt quả.
Khi mặt trời lặn, chúng tôi lại nằm dài bên bờ biển, nhìn ngắm đàn dơi phủ kín trời.
“Tim em đang đập rất nhanh”, tôi nói.
“Đấy là dấu hiệu bị mất nước”, Anna đáp. “Các dấu hiệu khác là gì?”
“Mất cảm giác thèm ăn. Không buồn đi vệ sinh. Mồm khô khốc”.
“Em bị tất cả rồi”.
“Chị cũng thế”.
“Chúng ta có thể sống bao lâu mà không có nước?” “Ba ngày. Có thể ít hơn”.
Tôi cố nhớ lại lần cuối đã uống no nê là lúc nào. Hình như ở sân bay Sri Lanka thì phải? Lúc trời mưa chúng tôi cũng uống được một ít, nhưng chẳng đủ để sống sót. Tự nhiên nhận thấy việc chúng tôi chẳng còn mấy thời gian làm tôi sợ chết khiếp.
“Thế còn nước ở cái ao thì sao?”
“Một ý kiến tồi”, chị ấy nói.
Chúng tôi không dám nói điều mình đang nghĩ. Nếu phải chọn giữa nước ao và không một giọt nước nào, chắc chúng tôi vẫn phải liều mà uống thôi.
“Ngày mai họ sẽ đến”, chị ấy nói, nhưng nghe giọng có vẻ chính chị ấy cũng chẳng dám tin.
“Em hi vọng thế”.
“Chị sợ quá”, chị ấy thì thầm.
“Em cũng sợ”. Tôi quay sang một bên nhưng phải rất lâu sau mới ngủ được.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

CHƯƠNG 5​

Ngày thứ ba
Khi T.J và tôi tỉnh dậy, cả hai đều nhức đầu như búa bổ và cảm thấy buồn nôn. Chúng tôi cố gắng ăn một ít quả bánh mì, phải cố lắm tôi mới không nôn. Mặc dù chẳng còn mấy năng lượng nhưng chúng tôi vẫn đi ra bờ biển để gắng nhóm lửa. Tôi có niềm tin là hôm nay máy bay sẽ qua đây, tôi biết chắc một đống lửa là cách tốt nhất để họ thấy chúng tôi.
“Hôm qua chúng ta làm sai cách rồi”, T.J đáp. “Em đã nghĩ cả đêm qua, trước khi đi ngủ, và em nhớ đã xem trên tivi một chương trình có một gã buộc phải nhóm một đống lửa. Anh ta xoay tròn cái que chứ không sát mạnh hai que với nhau. Em có ý này. Em sẽ thử xem có tìm được những thứ cần không”.
Khi thằng bé đi tìm, tôi nhặt nhạnh những thứ dễ cháy phòng khi chúng tôi nhóm được lửa. Không khí quá ẩm ướt và thứ duy nhất khô trên hòn đảo này là miệng tôi. Bất cứ thứ gì tôi nhặt lên đều ẩm, nhưng cuối cùng tôi cũng tìm được vài chiếc lá khô dưới gốc một cây hoa. Tôi cũng cố lộn trái túi quần jeans để kiếm chút xơ vải, rồi vo vào đống lá vừa nhặt được.
T.J quay lại với một cái que cùng một đống củi nhỏ. “Em có chút xơ vải nào trong túi không?”, tôi hỏi. Thằng bé lộn trái tất cả các túi, tìm thấy một ít và đưa cả cho tôi.
“Cảm ơn em”. Tôi vo đống xơ vải và lá cây thành một cái tổ nhỏ. Tôi cũng thu thập một ít que, một đống lá cây hơi ẩm để tạo khói.
T.J ngồi xuống, cầm cái que lên, đặt vuông góc với miếng củi ở dưới.
“Em đang làm gì vậy?”
“Em đang tìm cách xoay cái que này”. Thằng bé loay hoay một lúc. “Em nhớ cái gã trên tivi dùng một sợi dây. Ước gì em đừng đá đôi giày của em đi nhỉ, thì bây giờ đã có dây mà dùng”.
Thằng bé xoay xoay cái que bằng một tay nhưng không tài nào quay đủ nhanh để tạo lực ma sát. Mồ hôi túa đầy trên mặt nó.
“Chết tiệt, không làm nổi”, nó làu bàu rồi ngồi vật ra nghỉ vài phút.
Với quyết tâm mới lấy lại, thằng bé dùng cả hai tay xoay cái que. Lần này thì cái que xoay nhanh hơn hẳn, và T.J nhanh chóng vào đà. Sau khoảng hai mươi phút, cái que bốc lên một chút khói bụi màu đen ở vết nứt mà nó mới tạo nên trên miếng củi.
“Nhìn này”, T.J nói, khi một làn khói mỏng bay lên.
Ngay sau đó là rất nhiều khói. Mồ hôi chảy cả vào mắt nó nhưng T.J không hề ngừng xoay que. “Em cần đống lá và vải của chị”.
Tôi ngồi sát xuống cạnh thằng bé, nín thở, xem nó thổi nhẹ vào vết nứt trên miếng củi. Nó cẩn thận dùng cái que chuyển một ít tàn hồng sang đống lá khô và sợi vải. Nhấc cả đống lá, T.J khế khàng thổi khiến ngọn lửa bùng lên lập lòe. Ngay lập tức nó vứt đống lá xuống đất.
“Ôi Chúa ơi”, tôi nói. “Em làm được rồi”.
Chúng tôi vứt thêm ít bùi nhùi lên đống lửa. Ngọn lửa bùng lên mạnh hơn, chúng tôi nhanh chóng dùng hết đống que mà tôi đã thu thập được. Ngay lập tức chúng tôi tỏa đi tìm thêm củi và trở lại với một ôm củi to. Đúng lúc ấy thì trời mưa to như trút. Chỉ trong vài giây, ngọn lửa mới nhóm của chúng tôi chỉ còn lại là một đống than củi ướt sũng.
Cả hai chỉ biết đứng nhìn trân trân vào đống tàn tro trước mặt. Tôi muốn òa khóc. T.J khuỵu xuống nền cát. Tôi cũng ngồi thụp xuống cạnh thằng bé, ngửa cổ lên cố gắng uống chút nước mưa. Lần này trời mưa khá lâu nên tôi cũng uống được một ít, nhưng đầu óc tôi chỉ nghĩ về nước biển mênh mông đang bao vây lấy hòn đảo.
Thực tình tôi chẳng biết phải nói gì với thằng bé. Khi trời tạnh mưa, chúng tôi nằm dài dưới bóng dừa, chẳng nói với nhau câu nào. Chúng tôi không thể nhóm lửa lại ngay, bởi vì mọi thứ đều ướt sũng, thế nên đành gà gật ngủ một cách chán chường.
Khi chúng tôi tỉnh dậy vào lúc chiều muộn, cả hai đều không muốn ăn thêm quả bánh mì. T.J chẳng còn đủ sức nhóm lại một ngọn lửa khác, và chúng tôi cũng chẳng có gì để che chắn ngọn lửa khỏi cơn mưa cả. Tim tôi đập liên hồi trong ngực, chân tay râm ran như có kiến bò. Tôi đã thôi không còn toát mồ hôi nữa.
Khi T.J đứng lên và bước đi, tôi liền đi theo. Tôi biết nó đi đâu, nhưng tôi không thể lên tiếng ngăn nó lại. Vì tôi cũng muốn đến đó.
Khi chúng tôi đến cái ao, tôi quỳ xuống sát mép, chụm tay múc một ít nước đưa lên miệng. Vị thật kinh khủng, vừa nóng vừa hơi mặn mặn, nhưng tôi ngay lập tức muốn uống thêm. T.J quỳ bên cạnh tôi, đoạn uống thẳng từ ao. Một khi đã bắt đầu, chẳng ai trong chúng tôi dừng được cả. Ngay khi uống no một bụng nước, chúng tôi gục xuống, tôi chỉ muốn nôn hết ra nhưng rồi lại kìm được. Muỗi vẫn bay vo ve và tôi cố đuổi chúng khỏi mặt mình.
Chúng tôi lại lếch thếch đi bộ ra biển. Trời đã gần tối nên cả hai nằm dài bên nhau trên cát, đầu gối lên áo phao. Tôi nghĩ mọi việc rồi sẽ ổn cả. Chúng tôi phải ở đây lâu thêm một chút thôi. Ngày mai nhất định họ sẽ tới.
“Chị rất tiếc về đống lửa, T.J ạ. Em đã cố hết sức rồi, và em đã làm rất tốt. Chị thì sẽ chẳng bao giờ biết cách nhóm lửa”.
“Cảm ơn chị Anna”.
Chúng tôi ngủ thiếp đi, nhưng chỉ lát sau là tôi tỉnh lại. Bầu trời vẫn đen kịt, tôi nghĩ chắc vẫn đang nửa đêm. Dạ dày tôi đau quặn. Tôi cố lờ đi, quay sang một bên. Một cú quặn thắt nữa tấn công tôi, càng ngày càng dữ dội. Tôi ngồi dậy, rên rỉ. Mồ hôi túa ướt trán.
T.J tỉnh dậy. “Chị sao thế?”
“Chị đau bụng quá”. Tôi cầu cho cơn quặn thắt chóng qua nhưng nó chỉ càng trở nên tồi tệ hơn, tôi biết chuyện gì sắp xảy ra. “Đừng đi theo chị đấy”, tôi nói vội. Tôi lảo đảo đi vào rừng, gần như không kịp cởi quần jeans và quần lót xuống trước khi cơ thể xả ra mọi thứ. Khi chẳng còn gì trong bụng, tôi quằn quại ôm bụng nằm gục xuống đất, từng cơn quặn thắt cứ liên tục dội đến, hết cơn này đến cơn khác. Người tôi cũng mồ hôi. Cơn đau lan từ bụng xuống tới hai chân. Tôi nằm im hồi lâu, sợ rằng mình chỉ cần cử động chút thôi cũng sẽ khiến cơn đau bùng lên. Muỗi thi nhau vo ve quanh mặt tôi.
Rồi đàn chuột kéo đến. Khắp nơi xung quanh tôi là những cặp mắt sáng lóe lên trong bóng tối. Một con chạy qua chân tôi, làm tôi hét lên. Tôi loạng choạng đứng lên kéo quần, nhưng cơn đau dữ dội lại kéo đến khiến tôi ngã sụp. Tôi nghĩ chắc mình chết mất, thứ đã làm nước ao ô nhiễm chắc cũng sẽ giết chết tôi thôi. Tôi đành nằm im. Kiệt sức và yếu ớt, tôi ngất đi mà chẳng biết T.J đang ở đâu.
Tiếng vo ve đánh thức tôi dậy. Chắc là lũ muỗi. Nhưng trời đã sáng rõ, đa phần lũ chuột bọ đã biến đi. Tôi gắng sức nhấc đầu dậy khi thấy mình đang nằm nghiêng, đầu gối co lên tận ngực.
Đó là âm thanh của một chiếc máy bay.
Tôi cố dựng người dậy, bò bằng cả tứ chi ra bãi biển, miệng không ngừng hét tên T.J. Cố gắng đứng thẳng trên hai chân, tôi lao ra phía bãi biển, cố dùng sức mạnh cuối cùng còn sót lại để nhấc tay lên khỏi đầu, vẫy thật lực. Tôi không thể nhìn thấy chiếc máy bay, nhưng tôi nghe thấy tiếng động cơ, âm thanh cứ xa dần, xa dần.
Họ đang tìm kiếm chúng tôi. Họ sẽ quay lại ngay thôi.
Âm thanh của nó ngày càng nhỏ, cho đến khi tôi chẳng thể nghe thấy nữa. Chân tôi khuỵu xuống, và tôi ngã xuống bãi cát, thổn thức không ngừng tới lúc bị tăng hô hấp. Tôi nằm nghiêng sang một bên, tiếng nức nở nhỏ dần, mắt đờ đẫn nhìn làn nước biển.
Tôi không biết đã bao lâu trôi qua, nhưng khi nhìn sang thì thấy T.J đã nằm cạnh mình.
“Có một chiếc máy bay”, tôi nói.
“Em cũng nghe thấy. Nhưng em không thể cử động nổi”.
“Họ sẽ quay lại”.
Nhưng họ chẳng hề quay lại.
Ngày hôm đó tôi đã khóc rất nhiều. T.J thì im lặng. Nó nhắm chặt mắt, tôi cũng không chắc là nó đang ngủ hay quá yếu nên không thể nói chuyện. Chúng tôi không hề nhóm lửa, cũng không ăn thêm một quả bánh mì nào. Cả hai đều chẳng thiết ra khỏi bóng cây dừa, trừ khi trời mưa.
Tôi không muốn lại gần khu rừng khi trời tối, nên chúng tôi lại ra biển nằm. Ngay khi nằm xuống cạnh T.J trên bãi cát, chỉ có duy nhất một điều hiện lên trong đầu tôi. Nếu một chiếc máy bay khác không đến cứu hoặc chúng tôi không tìm cách trữ được nước, T.J và tôi sẽ chết.
Tôi ngủ lơ mơ cả đêm, cuối cùng đến khi chìm vào giấc ngủ sâu, tôi bừng tỉnh, hét ầm lên vì mơ thấy một con chuột đang cắn chân mình.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

CHƯƠNG 6​


Ngày thứ tư
Khi mặt trời lên cao, tôi gần như không thể nhấc đầu lên khỏi bãi cát. Hai cái đệm ghế trên máy bay đã bị sóng đánh dạt vào bờ, một thứ gì đó màu xanh khiến tôi chú ý. Tôi lăn về phía Anna, lay hết sức để đánh thức chị ấy dậy. Chị ấy nhìn tôi với đôi mắt trũng sâu, đôi môi chị ấy nứt nẻ và chảy máu.
“Cái gì kìa?”, tôi chỉ tay về phía thứ màu xanh đang trôi nổi nhưng ngay cả việc cố giơ tay lên cũng là quá sức đối với tôi, nên cánh tay lại rơi xuống bãi cát.
“Đâu cơ?”
“Kia kìa. Ngay cạnh mấy cái đệm ghế”.
“Chị không biết”, chị ấy đáp.
Tôi nhấc cao đầu dậy, nheo mắt dưới ánh nắng chói chang. Nhìn quen quen và đột nhiên tôi nhận ra nó là thứ gì. “Đấy là ba lô của em. Chị Anna, đấy là cái ba lô của em”.
Tôi loạng choạng đứng dậy, cố sức đi ra mép biển, kéo cái ba lô vào. Khi quay lại, tôi quỳ cạnh chị Anna, mở khóa ba lô, và lôi ra chai nước mà chị ấy đã đưa cho tôi ở sân bay Malé.
Chị ấy ngồi dậy. “Ôi Chúa ơi”.
Tôi mở nắp, chúng tôi chia nhau uống chai nước, cố gắng không uống quá nhanh. Có khoảng gần một lít, cả hai đã uống cạn mà tôi không đã khát chút nào.
Chị Anna cầm chai nước rỗng: “Nếu mình lấy một cái lá làm phễu thì sẽ hứng được nước mưa vào trong chai”.
Chúng tôi bước những bước run rẩy, yếu ớt về phía cây bánh mì và hái một cái lá to từ những cành thấp. Chị Anna xé cho vừa, cuộn tròn lại nhét trong miệng chai. Có bốn quả bánh mì mới rụng trên nền đất nên chúng tôi đem cả ra bờ biển rồi chén sạch.
Tôi lôi hết đồ ra khỏi ba lô. Cái mũ lưỡi trai Chicago Cubs đã ướt sũng nhưng tôi mặc kệ, vẫn đội lên đầu. Có một cái áo nỉ có mũ màu ghi, hai cái áo phông, hai cái quần soóc, quần bò, quần lót và tất, một chiếc bàn chải và một tuýp kem đánh răng, và máy nghe nhạc của tôi. Tôi vớngay lấy bàn chải và kem đánh răng. Miệng tôi đang có vị gớm không thể nào tả nổi. Tôi mở nắp tuýp kem đánh răng, bóp một ít ra bàn chải của tôi và đưa cho chị Anna. “Chị có thể dùng chung bàn chải với em nếu không ngại”.
Chị ấy cười: “Chị không ngại đâu, T.J ạ. Nhưng em đánh trước đi, nó là của em mà”.
Tôi đánh răng ngay lập tức, rồi xả sạch bàn chải dưới biển và đưa lại cho chị Anna. Khi đã xong xuôi, chị ấy rửa lại, đem trả tôi. “Cảm ơn em nhé”.
Chúng tôi cùng ngồi đợi trời mưa, và khi mưa xuống vào lúc chiều sớm, chúng tôi đã hứng được đầy bình nước. Tôi đưa cho chị Anna trước, chị ấy uống hết nửa chai, đoạn đưa lại cho tôi. Sau khi tu một hơi hết sạch chai nước, chúng tôi đặt cái phễu lá lên, và chai nước lại đầy lần nữa. Chị Anna và tôi uống cạn chai lần thứ hai. Chúng tôi vẫn còn cần rất nhiều nước, hơn thế này nhiều, nhưng tôi bắt đầu nghĩ có lẽ mình sẽ không chết.
Chúng tôi biết cách hứng nước, chúng tôi có quả bánh mì, và chúng tôi biết cách nhóm lửa. Giờ thì chỉ cần tìm chỗ trú mưa để giữ cho lửa khỏi tàn thôi.
Chị Anna muốn dựng lều trên bãi biển vì lũ chuột làm chị ấy khiếp vía. Chúng tôi bẻ hai cành cây chữ Y rồi chôn gốc xuống cát, đặt cành cây dài nhất tìm được lên giữa hai cành chữ Y. Sau đó chúng tôi cắm rất nhiều cành để làm điểm tựa hai bên cho hai cành lớn. Lá cây bánh mì được trải làm nền, chỉ chừa một vòng tròn nhỏ để chúng tôi đốt lửa. Chị Anna nhặt những viên sỏi nhỏ xếp vòng xung quanh chỗ đốt lửa. Như thế sẽ làm trong lều đầy khói, nhưng ít nhất chúng tôi cũng không sợ bị lũ muỗi làm thịt.
Chúng tôi quyết định đợi đến sáng mới nhóm lửa. Bây giờ chúng tôi đã có lều nên có thể nhặt củi đặt trong lều, chờ đến khi khô.
Trời lại mưa, lần thứ ba chai nước được đầy; chưa bao giờ tôi uống thứ gì ngon tuyệt cú mèo đến thế.
Khi mặt trời lặn, chúng tôi lôi hai tấm đệm ghế, áo pháo và ba lô của tôi vào trong lều.
“Chúc em ngủ ngon, T.J”. Chị Anna nói, nằm gối đầu lên một tấm đệm ghế, ngọn lửa bập bùng ở giữa chúng tôi.
“Ngủ ngon, chị Anna”.​
 


Top