Tìm hiểu về 7 loài người tiền sử từng sống với chúng ta | VN-Zoom | Cộng đồng Chia Sẻ Kiến Thức Công Nghệ và Phần Mềm Máy Tính

Adblocker detected! Please consider reading this notice.

We've detected that you are using AdBlock Plus or some other adblocking software which is preventing the page from fully loading.

We need money to operate the site, and almost all of it comes from our online advertising.

If possible, please support us by clicking on the advertisements.

Please add vn-z.vn to your ad blocking whitelist or disable your adblocking software.

×

Tìm hiểu về 7 loài người tiền sử từng sống với chúng ta

VNZ-Relax

Suppervisor Mod
Ngày người tinh khôn Homo sapiens ra đời, địa cầu có rất nhiều loài người cổ xưa hơn, có loài tiến hóa tới mức ngang ngửa chúng ta. Nhưng ngày nay, chỉ có một: Homo sapiens . Điều gì đã xảy ra với những người khác? Trong cuốn sách "Sapiens - Lược sử loài người" bằng tranh nêu ra hai lý thuyết trái ngược nhau:
Người tinh khôn (danh pháp hai phần: Homo sapiens) là loài người hiện nay trên Trái Đất. Tên có nguồn gốc từ tiếng Latin là "homo" (nghĩa là người) và sapien (nghĩa là tinh khôn, thông minh).

Đây là loài duy nhất còn tồn tại trong chi Homo (chi người) thuộc họ Người, còn những loài người khác cùng chi này như: người khéo léo (Homo habilis), người đứng thẳng (Homo erectus), người lùn (Homo floresiensis), người Heidelberg (Homo heidelbergensis), người Neanderthal (Homo neanderthalensis) và có thể còn nhiều loài khác chưa phát hiện đã tuyệt chủng. Trong loài này còn có người Homo sapiens idaltu cũng đã tuyệt chủng, còn loài người hiện đại có tên đầy đủ là "Người hiện đại về giải phẫu" hay Homo sapiens sapiens.

Người tinh khôn có đặc trưng là trí tuệ phát triển với thể tích bộ não có tỉ lệ so với thể tích cơ thể là lớn nhất giới động vật, dáng đứng thẳng hoàn toàn, hai chi sau (chân) đảm nhiệm vận chuyển, hai chi trước trở thành tay là cơ quan lao động và chế tạo công cụ lao động. Sự thông minh, khả năng thích ứng của người tinh khôn đã khiến loài này có ảnh hưởng lớn nhất trên Trái Đất; họ đang được coi là loài ít được quan tâm nhất trên Sách đỏ về các loài bị đe dọa của sự Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế.
1. Lý thuyết lai giống (Một câu chuyện tuyệt vời về sự hấp dẫn, tình dục và sự hòa quyện)

Homo Sapiens là những người di cư từ châu Phi ra khắp thế giới, giao lưu với các loài người khá. Con người ngày nay là kết quả của sự trộn lẫn này. Khi Sapiens đến châu u và Trung Đông, họ đã gặp người Neanderthal (chống lạnh tốt hơn, bộ não lớn hơn và nhiều cơ bắp hơn). Theo thuyết lai giống, Sapiens đi tới vùng đất của người Neanderthal, họ đã lai giống cho đến khi hai quần thể này hợp nhất.
Nếu đúng như vậy, người u- Á ngày nay không phải là người Sapiens thuần túy mà là sự pha trộn giữa Sapiens và Neanderthal. Tương tự khi Sapiens đi tới đông Á, họ lai với Erectus địa phương, vì vậy một số người hiện đại chính là sự pha trộn giữa Sapiens và Erectus.

2. Lý thuyết thay thế (Một câu chuyện khủng khiếp về sự không tương thích, sự bỏ rơi và tội ác diệt chủng)

Thuyết này nhấn mạnh rằng Sapiens khác biệt về mặt giải phẫu so với những loài người khác. Và rất có thể có những thói quen giao phối khác nhau. Ngay cả mùi cơ thể của họ cũng khác nhau. Họ không bị hấp dẫn tình dục với nhau.
Ngay cả khi Romeo Neanderthal và Juliet Sapiens yêu nhau, họ cũng không thể sinh ra những đứa con hữu thụ, vì khoảng cách di truyền giữa hai quần thể của họ là không thể vượt qua. Hai quần thể này hoàn toàn khác biệt, khi người Neanderthal chết đi hay bị giết, nguồn gen của họ cũng mất theo.
Theo thuyết này, Sapiens đã thay thế tất cả các quần thể người trước đó mà không có sự lai giống với nhau. Nếu đúng vậy, con người ngày nay đều bắt nguồn từ Đông Phi, 70000 năm trước đều là “Sapiens thuần chủng”.

Từ trước đến nay chúng ta đều ủng hộ cho thuyết thay thế đơn giản vì liên quan đến chính trị, phân biệt chủng tộc,..
Harari khảo sát lịch sử của loài người từ sự tiến hóa của loài người cổ xưa trong Thời kỳ đồ đá cho đến thế kỷ XXI, tập trung vào Homo sapiens (Người Tinh Khôn). Ông chia lịch sử của Sapiens thành bốn phần chính:[4]


  1. Cách mạng nhận thức (khoảng 70.000 TCN, khi Sapiens phát triển trí tưởng tượng).
  2. Cách mạng nông nghiệp (khoảng 10.000 TCN, sự phát triển của nông nghiệp).
  3. Sự thống nhất của loài người (sự hợp nhất dần dần của các tổ chức chính trị của con người đối với một đế chế toàn cầu).
  4. Cách mạng khoa học (khoảng 1500 CN, sự xuất hiện của khoa học).

Lập luận chính của Harari là Sapiens đã thống trị thế giới vì đây là loài động vật duy nhất có thể cộng tác linh hoạt với số lượng lớn. Ông lập luận rằng Sapiens chính là nguyên nhân dẫn đến sự tuyệt chủng của các loài người khác như người Neanderthal, cùng với nhiều loài động vật lớn khác. Và khả năng Sapiens cộng tác với số lượng lớn phát sinh từ một loại năng lực độc nhất của nó để tin vào những thứ tồn tại hoàn toàn trong trí tưởng tượng, các vị thần, quốc gia, tiền bạc và nhân quyền. Và ông còn lập luận rằng những niềm tin này làm phát sinh sự phân biệt đối xử về chủng tộc, giới tính hay chính trị. Harari tuyên bố rằng tất cả các hệ thống hợp tác của con người quy mô lớn bao gồm tôn giáo, tổ chức chính trị, thương mại và thể chế đều có sự xuất hiện của họ đối với năng lực nhận thức đặc biệt của Sapiens.[5] Theo đó, Harari coi tiền là một hệ thống tin cậy lẫn nhau và xem các hệ thống chính trị và kinh tế ít nhiều đồng nhất với các tôn giáo.

Tuy nhiên khi đọc cuốn sách này, tác giả đưa ra rất nhiều dẫn chứng có thể chứng minh sự tồn tại của lý thuyết 1. Điển hình là về hình dáng của 1 số Sapiens hiện đại có nét khá tương đồng với những loài trước đây. Trong bài này, mình sẽ chia sẻ 7 loài người cổ đại, các bạn cùng tham khảo nhé.



186484367_311561577154078_7634733577052359517_n.jpg_nc_cat103ccb1-3_nc_sidb9115d_nc_ohcbSTtC6J3WCYAX_8hxIb_nc_htscontent.fhan14-2.jpg


1. Người Denisovans
Khoảng 600.000-744.000 năm về trước, một dòng giống mang tên Homo heidelbergensis thuộc chi Người (Homo) bắt đầu phân tách. Một nhóm nhanh chóng tiến hóa thành người Denisovans và người Neanderthals, trong khi nhóm khác tiến hóa dần dần để vài trăm ngàn năm sau sinh ra dòng giống Homo sapiens mới. Trong vòng 300 thế hệ, nhánh còn lại tiến hóa thành Denisovans và Neanderthals
Denisovans là loài người khá hoang dã và sống phụ thuộc nhiều nhất vào săn bắn. Có nghiên cứu cho thấy trong khoảng thời gian đói kém, họ săn cả những con linh trưởng và ăn thịt lẫn nhau để tồn tại.

Ngày rời Châu Phi, Denisovans chia làm 2 nhánh, 1 nhánh tìm rẽ lên Siberia (Nga) và Tây Tạng (Trung Quốc) bây giờ, 1 nhánh rẽ xuống khu vực Đông Nam Á, chinh phục cả những miền đất tận cùng như vùng Indonesia, Philippines, miền bắc Châu Đại Dương ngày nay. Lúc đó, đất đai hãy còn liền một dải nhờ mực nước thấp và quá trình kiến tạo chưa đẩy những đảo quốc ấy đi quá xa khỏi châu Á lục địa. Họ tuyệt chủng từ khoảng 30.000-40.000 năm về trước.

Theo nghiên cứu công bố tháng 7-2019 của Đại học New York (Mỹ), người Denisovans từng giao phối dị chủng với tổ tiên Homo sapiens chúng ta, để lại trên cơ thể 40% người châu Á hiện đại chiếc răng hàm Denisovans kỳ dị, có thêm 1 chân phụ.


184844297_311561517154084_2130294687609933985_n.jpg_nc_cat107ccb1-3_nc_sidb9115d_nc_ohceuDsLxDYPRsAX-jDeWI_nc_htscontent.fhan14-2.jpg


2. Người Neanderthals
Loài người này cũng tuyệt chủng khoảng 30.000-50.000 năm về trước, chọn châu u là "đất hứa" sau khi rời châu Phi. Các nghiên cứu cho thấy về mặt giải phẫu, cơ thể họ có khi còn thẳng và đẹp đẽ hơn người hiện đại chúng ta. Họ là những thợ săn tài tình, khắc tinh của những sinh vật to lớn như ma mút. Họ cũng có tình yêu dị chủng với Homo sapiens. Nhiều người châu âu, đặc biệt là Bắc âu ngày nay vẫn mang 2% yếu tố Neanderthals trong DNA.

Người Neanderthal hay Neandertal (từ tiếng Đức: Neandertaler) (/niˈændərˌθɔːlz/, /niˈændərˌtɔːlz/, /niˈændərˌtɑːlz/, /neɪˈɑːndərˌtɑːlz/ hoặc /niˈændərθəlz/) là một loài trong chi Người đã tuyệt chủng, các mẫu vật được tìm thấy vào thế Pleistocene ở châu Âu và một vài nơi thuộc phía Tây và trung Á. Neanderthal hoặc được xếp là phụ loài (hay chủng tộc) của người hiện đại (Homo sapiens neanderthalensis) hoặc được tách thành một loài người riêng (Homo neanderthalensis)

Người Neanderthal nguyên thủy sống ở châu Âu sớm nhất cách đây là khoảng 350–600 Ka BP (Ka BP: Kilo annum before present: ngàn năm trước). Người Neanderthal nguyên thủy thỉnh thoảng được xếp vào một loài theo ngoại hình khác Homo heidelbergensis, hoặc một dạng di cư của Homo rhodesiensis.

Vào hồi 130 Ka BP các đặc trưng đầy đủ của người Neanderthal đã xuất hiện. Các đặc trưng này sau đó biến mất ở châu Á cách đây 50 Ka BP và ở châu Âu vào khoảng 30 Ka BP, và không còn cá thể nào có diện mạo đầy đủ để được xem là một phần của Homo neanderthalensis. Tháng 8 năm 2014, một nhóm nghiên cứu báo cáo về một phân tích mới của 40 di chỉ ở Tây Âu, kết luận rằng người Neanderthal đã tuyệt chủng cách đây khoảng 40 Ka BP (Kilo annum before present: ngàn năm trước đây) . Số liệu này, sớm hơn nhiều so với ước tính trước đây, thu được nhờ sự cải thiện độ chính xác của phương pháp định tuổi carbon phóng xạ C14.

Dù người Neanderthal được coi là đã tuyệt chủng, nhưng theo nghiên cứu dấu vết gen đề xuất rằng đã có việc người Neanderthal giao phối với người hiện đại Homo sapiens vào khoảng giữa 80 và 50 Ka BP trước ở Trung Đông, khiến 1–4% gene của những người ngoài châu Phi (non-African, tức là người châu Á, châu Âu và châu Mỹ) có nguồn gốc từ người Neanderthal .Như vậy, người Neanderthal không hẳn là đã tuyệt chủng, mà hậu duệ của họ (lai với người hiện đại Homo sapiens) vẫn sống phổ biến ngày nay, nhưng vì đã lai qua hàng nghìn thế hệ nên các hậu duệ này đã rất giống Homo sapiens chứ không thể hiện rõ các đặc điểm của chủng tộc Neanderthal nữa


186441263_311561507154085_2750014674240038907_n.jpg_nc_cat104ccb1-3_nc_sidb9115d_nc_ohctkiDk6GoqfQAX9m2JD-_nc_htscontent.fhan14-2.jpg


3. Homo erectus
Nghiên cứu công bố tháng 12-2019 đã cho thấy họ không tuyệt chủng trước khi Homo sapiens ra đời như suy nghĩ trước đây, mà có phần lịch sử song song chúng ta suốt 200.000 năm. Sau 2 triệu năm trên địa cầu, nhóm Homo erectus cuối cùng đã chọn đảo Java (Indonesia) là nơi sinh sống cuối cùng, hoàn toàn biệt lập, để rồi tuyệt chủng trong một thảm họa thiên nhiên. Họ còn có tên "người đứng thẳng", vì là loài người đầu tiên đứng hoàn toàn thẳng trên trái đất.

Homo erectus (nghĩa là "người đứng thẳng", từ tiếng Latinh ērigere, "đứng thẳng"), còn được dịch sang tiếng Việt là trực nhân, là một loài người tuyệt chủng từng sinh sống trong phần lớn khoảng thời gian thuộc thế Pleistocen, với chứng cứ hóa thạch sớm nhất đã biết có niên đại khoảng 1,8 triệu năm trước và hóa thạch gần đây nhất đã biết khoảng 143.000 năm trước. Loài này đã bắt nguồn từ châu Phi hoặc châu Á và lan tỏa xa tới Anh, Gruzia, Ấn Độ, Sri Lanka, Trung Quốc và Java.

Hiện tại vẫn còn bất đồng về các vấn đề như phân loại, tổ tiên và hậu duệ của H. erectus, với hai phân loại chính loại trừ lẫn nhau: erectus có thể là tên gọi khác cho Homo ergaster, và vì thế là tổ tiên trực tiếp của các dạng người xuất hiện muộn hơn như Homo heidelbergensis, Homo neanderthalensisHomo sapiens; hoặc đây có thể là một loài khác biệt, nguồn gốc châu Á, khác với Homo ergaster có nguồn gốc châu Phi.

Một số nhà cổ nhân loại học coi H. ergaster chỉ đơn giản là chủng châu Phi của H. erectus. Điều này dẫn đến việc sử dụng thuật ngữ "Homo erectus sensu stricto" để chỉ chủng châu Á của H. erectus, và "Homo erectus sensu lato" để chỉ loài theo nghĩa rộng, bao gồm các quần thể châu Phi (H. ergaster) và các quần thể châu Á.


185552736_311561530487416_3514109071791462142_n.jpg_nc_cat101ccb1-3_nc_sidb9115d_nc_ohcLuiZ5iIC2PUAX-WjrcM_nc_htscontent.fhan14-2.jpg


4. Người Hobbit
Người lùn Hobbit hoàn toàn có thật, cơ thể họ chỉ cao khoảng 1m, đã sống và tuyệt chủng tên đảo Flores (Indonesia) khoảng 12.000 năm về trước do thảm họa núi lửa. Họ có tên đầy đủ là Homo floresiensis.

Homo floresiensis ("Người Flores", biệt danh là "hobbit") có thể là một loài, nay đã tuyệt chủng, trong chi Homo. Di chỉ đã được phát hiện vào năm 2004 trên đảo Flores ở Indonesia. Các bộ xương một phần của 9 cá thể đã được phát hiện, bao gồm một cranium (sọ) hoàn chỉnh). Các di chỉ này là đối tượng nghiên cứu sâu rộng để xác định chúng có đại diện cho một loài phân biệt với loài người hiện đại và quá trình tranh cãi khoa học đã được các phương tiện truyền thông theo dõi sát sao. Những bộ xương này được gọi không chính thức là hobbit (người lùn tưởng tượng) và dường như khi đứng thẳng chỉ cao khoảng 1 m và não nhỏ và chúng sống sót cho đến thời gian 12.000 năm trước. Bộ xương còn nguyên vẹn nhất (LB1) có niên đại khoảng 18.000 năm. Miêu tả về một loài mới đã được công bố, nhưng hiện vẫn bị các nhà nghiên cứu khác tranh cãi khi họ cho rằng những người cổ đại này có thể chỉ đơn thuần là chịu những rối loạn trong phát triển.

Được phát hiện cùng với các bộ xương là các công cụ bằng đá từ lớp khảo cổ niên đại từ 94.000 đến 13.000 năm.


5. Homo rhodesiensis

186532443_311561560487413_1445857052512065481_n.jpg_nc_cat107ccb1-3_nc_sidb9115d_nc_ohcvlfYdu3iVJYAX-VUoAM_nc_htscontent.fhan14-2.jpg


Người Homo rhodesiensis có Nguồn gốc của họ chưa rõ ràng, nhưng các bằng chứng cho thấy họ cũng liên quan đến Homo heidelbergensis như chúng ta. Hóa thạch mới nhất của họ khoảng 125.000 tuổi, xuất hiện ở Zambia (Châu Phi). Phân tích cho thấy đó là một người đàn ông lưng thẳng, khỏe mạnh, xương hông vững chắc, khuôn mặt rộng và đặc biệt là cặp lông mày cực kỳ dày.


6. Homo naledi


186371014_311561570487412_7275251478862960155_n.jpg_nc_cat102ccb1-3_nc_sidb9115d_nc_ohcJ79p_kzeDgoAX_oLr1PtnA8kZHZWXCYVdLLIL_nc_htscontent.fhan14-2.jpg


Loài người này lựa chọn ở lại vĩnh viễn miền đất Nam Phi, cái nôi của nhân loại. Những hóa thạch ít ỏi của họ có niên đại khoảng 250.000 năm.

Loài người này là những người hang động khá nhỏ con so với các loài người khác, chiều cao dưới 1,5 m và nặng chỉ khoảng 45 kg. Họ được mô tả chính thức vào năm 2015 bởi nhóm tác giả quốc tế đứng đầu bởi nhà cổ sinh vật học Lee Berger (Đại học Witwatersrand – Nam Phi).

Homo naledi là một loài đã tuyệt chủng thuộc tông Người, được phát hiện trong động Dinaledi của hệ thống hang động Rising Star. Các nhà khoa học cho biết xương hóa thạch được tìm thấy trong một hang động tại Cái nôi của loài người, Cộng hòa Nam Phi năm 2013, và thuộc về loài mới chưa xác định của chi Người (Homo).

Hóa thạch được tìm thấy gồm xương cốt của trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ, người trưởng thành và người già, trong một khu vực tách biệt bên trong hang Rising Star. Các nhà nghiên cứu tin rằng vòm hang nằm sâu 30 mét dưới di sản thế giới Cái nôi của loài người, cách Johannesburg khoảng 50 km về phía tây bắc, là một nghĩa địa, và người Homo naledi có thể đã dùng lửa để soi sáng đường vào hang.

H.naledi khi đứng thẳng hai chân có thể đạt chiều cao 1,5m, cao lớn hơn so với phần lớn chủng người nguyên thủy. Đôi chân H.naledi dài nhưng nhỏ hơn đáng kể so với các chủng tộc khác, điều này cho thấy chủng người mới có cân nặng không lớn, chỉ khoảng 45 kg. H. naledi có phần đầu rất nhỏ, khiến não của họ cũng nhỏ theo. Bộ não của loài này chỉ lớn hơn não tinh tinh một chút, đồng thời hầu như không có sự khác biệt về cơ thể nam và nữ.


7. Homo luzonensis


186459678_311562497153986_2438672116068895251_n.jpg_nc_cat102ccb1-3_nc_sidb9115d_nc_ohcMkwhI6sgUuAAX-bRmvg_nc_htscontent.fhan14-2.jpg


Nhiều hóa thạch, mẫu vật mới nhất có niên đại khoảng 67.000 năm của họ đã được phát hiện tại hang Callao, thuộc đảo Luzon (Philippines). Do số lượng rất ít nên mô tả về họ vẫn chưa rõ ràng, nhưng phân tích ban đầu cho thấy họ cũng là một giống người lùn giống người Hobbit. Tháng 4-2019, nghiên cứu đứng đầu bởi tiến sĩ Florent Détroit (Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Quốc gia Paris – Pháp) khẳng định họ là một loài người mới chưa được biết đến, chính thức được đặt tên Homo luzonensis.

Homo luzonensis hay người Callao (Callao Man) là di cốt được Armand Mijares Salvador phát hiện ở hang Callao, Peñablanca, Cagayan, Philippines vào năm 2007. Cụ thể, các di cốt tìm thấy bao gồm một bàn chân 61 mm. Năm 2010 mẫu vật đã được định tuổi bằng dãy urani cho ra vào khoảng 67.000 năm tuổi.
Tính đến tháng 7 năm 2010, việc phân loại sinh học cho Callao Man không được chắc chắn. Các xương bàn chân phát hiện được (MT3 - xương nhỏ từ cuối ngón giữa của bàn chân phải) đã được xác định là của một loài thuộc chi Homo, nhưng việc phân loại loài chính xác là khó khăn. Nó đã được suy đoán rằng Callao Man có thể là Homo sapiens hoặc Homo floresiensis, mặc dù loài sau đôi khi được coi là một mẫu bệnh lý của H. sapiens. Phân biệt giữa hai loài đòi hỏi mẫu vật từ hộp sọ hoặc hàm dưới.

Năm 2012, nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra xương đã xin phép để tìm kiếm thêm mẫu vật trong khu vực.

Tham khảo nguồn Wikiperdia,VN CS:GO
 


Top