MỘT TUẦN LỄ TRONG NGÔI NHÀ YÊN TĨNH
I. GIẤC NGỦ
Căn phòng ấy đóng kín mít. Trong phòng là bóng tối dày đặc, không có một kẽ hở nào để cho dù chỉ một chút ánh sáng lờ mờ bên ngoài có thể lọt được vào. Cái bóng tối ấy dày đặc đến mức giá ta có cảm giác là nhìn thấy một cái gì sang sáng, thì cái sang sáng đó chỉ ở trong tưởng tượng của ta mà thôi.
Tuy vậy, trong màn đêm ấy, vẫn có thể nhận ra được mọi biểu hiện nhỏ nhất của cuộc sống. Ta có cảm giác là trong phòng tràn ngập một bầu không khí đầy mùi dầu mỡ, mùi hỗn hợp thô tạp của các loại chất bốc hơi. Có thể ngửi thấy mùi gỗ thông, mùi mỡ bò, mỡ lợn, rồi lại còn có mùi gì như mùi mận khô, mùi hạt thìa là Ai Cập, thậm chí cả mùi rượu nặng, mùi tỏi, và nhiều thứ mùi khác nữa. Có thể nghe thấy cả tiếng đồng hồ chạy tích tắc. Cái đồng hồ này chắc hẳn phải là đồng hồ treo tường đã cũ, có tay lắc dài, ở phía cuối có một vòng tròn bằng tôn mỏng hơi bị vênh. Cái vòng tôn ấy hơi rung lên mỗi khi tay lắc ngừng chuyển động, và những khoảng khắc đều đặn ấy cứ lặp đi lặp lại đến đơn điệu.
Cùng với tất cả những cái đó, còn có thể nghe thấy tiếng thở của những người đang ngủ. Dứt khoát ở đây phải có mấy người đang ngủ. Những tiếng thở của họ trộn lẫn vào nhau, không tiếng nào giống tiếng nào. Có tiếng thở nhỏ nhẹ, có tiếng thở mạnh hơn, có tiếng thở ngắt quãng như tiếng tay lắc của đồng hồ, rồi phì phì gấp gáp.
Tự nhiên, cả cái đồng hồ cũng thở dài và cất tiếng điểm giờ, rồi sau đó, tiếng chuyển động của tay lắc như trở nên thầm thì hơn. Một trong những người đang ngủ trở mình và kéo chăn sột soạt; rồi có tiếng cọt kẹt của chiếc giường gỗ.
Đồng hồ lại điểm giờ, đánh hai tiếng vang cao, rồi ngay sau đó là hai tiếng vọng trầm hơn. Người ấy lại trở mình. Rồi có tiếng người ấy ngồi dậy, tiếng hất cái chăn, tiếng chân người ấy chạm vào thành giường - bây giờ chắc đã quờ được chiếc dép đi trong nhà - rồi đã xỏ được chân vào cả đôi dép. Người ấy đứng lên, thận trọng bước mấy bước rồi dừng lại, sau đó đưa tay lần lần trên sàn gỗ, bàn tay người ấy chạm phải cái gì sột soạt, chắc hẳn là bao diêm.
Người ấy quẹt diêm mấy lần, nhưng lần nào cũng chỉ thấy lóe lên một tia lửa, rồi que diêm bị gãy. Người ấy làu bàu, lại quẹt que diêm mới, lần này thì được. Ngọn lửa nhỏ chiếu vào một thân hình mặc quần áo ngủ. Que diêm cháy gần hết, nhưng bàn tay già nua gân guốc đã đưa nó đến gần chiếc cốc thủy tinh có chứa nước và dầu hỏa, rồi châm vào cái bấc gắn ở nút phao đang nổi trên đó. Ngọn lửa trên đầu bấc sáng lên như ngôi sao nhỏ, que diêm đã tàn được vất xuống sàn nhà. Ngôi sao nhỏ ấy từ từ lớn hơn, nó chiếu lên thân hình của người đang mặc áo ngủ. Đó là một người đàn bà đã có tuổi, bà ấy đang dụi mắt và ngáp ngắn ngáp dài.
Người đàn bà đứng bên cái bàn nhỏ kê sát bức vách bằng gỗ sơn màu tối. Bức vách gỗ đó ngăn căn phòng ra thành hai phần. Ánh sáng của ngọn đèn dầu chỉ đủ chiếu một góc phòng, đằng sau bức vách gỗ vẫn là bóng tối. Tuy vậy, không thể nhầm lẫn được, chỉ ngửi thôi cũng đủ thấy căn phòng này là kho hàng tạp hóa, chắc hẳn nó vừa là cửa hàng, vừa là phòng ở. Cửa hàng tạp hóa ấy có nhiều hàng dự trữ với những cái bao tải căng đầy xếp liền nhau, bên trên có đặt rổ rá cũng đầy hàng, trên tường treo đủ những bó hàng lớn nhỏ.
Người đàn bà rùng mình vì cái lạnh ban đêm. Bà lấy chiếc đèn từ trên bàn và mang đặt nó lên quầy hàng. Trên mặt quầy có xếp nhiều miếng bơ mới, phía bên trên quầy có cái cân treo, rồi vài chuỗi hành tỏi. Bà ngồi vào sau quầy, hai chân co lên, đầu gối chạm đến cằm. Sau đó, bà mở ngăn kéo, rút ra một cái hộp đầy các cuộn chỉ, một cái kéo và đủ các thứ linh tinh khác. Bà xếp mọi thứ sang một bên, dưới đáy hộp còn lại giấy tờ và mấy quyển sách. Bà không để ý gì đến các tờ giấy có ghi chép mà chỉ lấy ra một quyển sách. Đó là sách viết về các giấc mơ, gọi là “sách lớn”, hay là “sách giải mã giấc mơ lô đề”. Bà chăm chú lật các trang sách, rồi đọc, rồi ngáp, rồi lại đọc.
Bây giờ ở phía đằng sau tấm vách chỉ nghe thấy thở đều đều của một người vẫn đang ngủ; còn một người khác thì đã tỉnh giấc, có thể là do người ấy nghe thấy tiếng động, hoặc để ý thấy có ánh sáng. Người ấy cọ quậy trên giường.
“Cái gì thế hả?” Có tiếng làu bàu khàn khàn của một người đàn ông đã có tuổi.
Người đàn bà không trả lời.
“Bà làm sao thế?”
“Ông cứ ngủ đi, tôi không sao cả, chỉ rét thôi.” Người đàn bà nói, rồi ngáp.
“Thế bà làm cái gì ngoài ấy?”
“Tôi mơ thấy cha tôi, để đến sáng thì sợ quên mất. Chưa bao giờ lại có giấc mơ đẹp như thế. Ôi chao ơi là rét, tháng sáu rồi mà vẫn còn rét thế này!” Bà tiếp tục đọc và lắc đầu. Im lặng.
“Mấy giờ rồi?” Lại có tiếng hỏi khàn khàn từ phía sau tấm vách.
“2 giờ.”
Tiếng thở của người ngủ thứ ba bắt đầu trở nên không đều đặn. Tiếng nói chuyện to chắc đã đánh thức người ấy dậy.
“Thế nhanh lên rồi đi nằm, để cả nhà còn ngủ. Bà thì lúc nào cũng chỉ nghĩ đến lô đề thôi!”
“Ở nhà này chả có lúc nào được yên. Ông cứ ngủ đi, mặc tôi!”
Phía sau vách có tiếng thở dài; người thứ ba cũng đã tỉnh giấc. Tiếng người đàn ông có tuổi tiếp tục càu nhàu:
“Thằng con trai đi bia rượu đến gần nửa đêm mới về, gần về sáng thì mẹ nó lại lỉnh kỉnh làm tôi không ngủ được, sống thế này thì có khổ thân tôi không chứ!”
“Ông không để yên có phải không? Phải rồi, thân gái già này cứ vất vả mà chả ai biết cho! Được ông chồng thì lúc nào cũng cảu nhảu càu nhàu - giá mà ông dạy bảo thằng con ông thì có phải là được việc không! Còn tôi, tôi có làm gì thì cũng chẳng bận đến ai!”
“Thì bà dạy nó đi, nó cũng là con bà chứ, dạy bảo cái thằng rượu chè ấy đi!”
“Bố lại muốn cái gì đấy?” Có tiếng nói của một người đàn ông còn trẻ.
“Câm đi, mày chả có quyền gì mà nói!”
“Nhưng mà con không thể hiểu được là...”
“Ấy, anh ấy không thể hiểu được!” Ông già cười nhạo báng, “đồ vô lại!”
“Nhưng mà...”
“Này, có im đi không?”
“Nó lại còn cãi giả nữa chứ! Ông với tôi có con trai đâu mà ngoan thế, sung sướng quá nhỉ!” Bà già nói, rồi lại ngáp.
“Con với cái gì nó! Nó làm khổ, nó cướp sức khỏe của bà với tôi thì có!”
“Nhưng mà đang ngủ thì con làm sao mà cướp được!”
“Này, cái thằng mất dạy kia, im đi!”
“Thật là quý tử!”
“Đồ vô lại thì có!”
“Đúng thế, đồ vô lại!”
Người con trai huýt sáo một điệu nhạc.
“Bà thấy chưa, nó còn nhạo báng mình nữa kìa!”
“Nhưng trời không tha nó đâu,” bà già vừa nói vừa lấy cục phấn viết lên bức vách gỗ các con số 16, 23 và số 8. “Tôi với ông thể nào cũng phải chứng kiến ngày ấy, nhưng rồi thì cũng cầu trời đừng để cho tôi sống thêm nữa làm gì.” Bà ấy xếp cái hộp lại, thổi tắt ngọn đèn và quay trở lại giường của mình. “Nó sẽ phải ăn năn hối lỗi, nhưng mà lúc ấy thì đã muộn rồi. Này, có im đi không hả thằng kia?”
Người con trai ngừng huýt sáo.
“Chả nhờ vả gì được mày đâu, chúng tao mà có chết thì mày cũng chẳng lo ma chay gì đâu!”
“Thôi, thôi, xin bà đừng nói nữa, ngủ đi, tôi buồn ngủ lắm rồi!”
“Tội ấy đổ lên đầu tôi là cái chắc. Ối trời ơi là trời, sao trời làm tôi khổ đến thế này!”
“Này, bà có im đi không, tôi phát điên lên vì các người đây!”
“Vâng, vì chúng tôi, vì chúng tôi!”
“Vào ban đêm ai cũng dữ tợn,” người con trai nói.
“Nó bảo cái gì thế?”
“Tôi không biết! Nó thì chuyện gì cũng xen vào, cái thằng quỷ tha ma bắt ấy!”
“Đẩy cái tủ kia vào nó, hay là đuổi nó đi, tống cổ nó đi ngay bây giờ đi!”
“Thôi, thôi, tôi xin ông, cả ông cũng để cho tôi yên đi! Thật là địa ngục trần gian!”
Ông già hầm hừ, bà già gầm gừ như đáp lời, người con trai im lặng.
Tiếng hầm hừ gầm gừ còn kéo dài thêm một lúc nữa, rồi tiếng khạc nhổ, rồi tất cả mọi tiếng cứ nhỏ dần, nhỏ dần; bà già ngủ thiếp đi, ông già còn trở mình một lần nữa và cũng ngủ tiếp. Người con trai lại huýt sáo, nhưng chưa hết được câu đầu thì cũng lại chìm vào trong giấc ngủ.
Trong bầu không khí đầy dầu mỡ lại vang tiếng lạch cạch của tay lắc đồng hồ như trước. Thêm vào đó là tiếng thở của ba người đang ngủ. Tiếng thở của họ trộn lẫn vào nhau, nhưng không một lúc nào trùng nhịp với nhau.
II. BUỔI SÁNG
Mặt trời buổi sáng của một ngày tháng sáu đã chiếu xuống sân từ khá lâu rồi, mọi người trong nhà mới bắt đầu thức giấc. Tiếng chân bước mạnh vang lên ở hành lang, át cả tiếng động của các loại xe đang lăn bánh từ ngoài đường vọng vào. Đó là tiếng chân bước của những người đàn bà lần lượt đi ra từ các căn hộ, như thể người này chờ người kia đi qua rồi mới mở cửa để ra khỏi phòng. Họ chỉ có mấy người, và ai ngủ dậy cũng mang cái vẻ luộm thuộm giống như những người giúp việc. Có người để xõa mái tóc còn chưa chải, có người kéo khăn quàng trùm xuống đến dưới trán, che đôi mắt ngái ngủ trước ánh sáng mặt trời. Váy áo của họ không được cài thắt cẩn thận, giày dép thì kéo lê lệt sệt. Họ cầm trong tay những cái bình hoặc còn trống không, hoặc đã đầy sữa.
Các căn hộ trong nhà cũng từ từ tỉnh giấc. Những tấm rèm trắng ở các cửa sổ được kéo sang bên, nhiều cửa sổ được mở ra. Có người đứng bên cửa sổ, nhìn ra ngoài trời, nhìn sang đồi Petřín[1], rồi quay vào nói với ai đó trong phòng về ban mai đẹp. Mọi người gặp nhau ở cầu thang và ngoài hành lang, họ chúc nhau một buổi sáng tốt đẹp.
Bên cửa sổ ngoài cùng trên tầng hai, ở phía nhìn ra đường, có một người đàn ông cao lớn với mái tóc bạc rối bù và khuôn mặt đỏ đầy mụn nhọt. Ông nặng nề tì tay vào bậu cửa và nghiêng hẳn người ra ngoài. Cái áo ông phanh ra, làm lộ cả bộ ngực vạm vỡ. Trời tháng sáu rồi mà ông vẫn còn mặc áo vải flanen. Ông nhìn sang cửa sổ còn đóng bên cạnh, rồi đứng thẳng người và nói về phía trong phòng: “Vẫn còn chưa đến 7 giờ.”
Vừa lúc ấy, có tiếng động lớn ở cửa sổ phòng bên, rồi cửa sổ ấy được mở toang ra. Một người đàn ông khác đứng ở đó, cũng vóc dáng cao lớn, nhưng trẻ hơn. Tóc ông màu đen, được chải thành nếp cẩn thận, chỉ nhìn cũng thấy ngay là ngày nào cũng được chải như thế. Khuôn mặt ông tròn trặn, râu cạo nhẵn nhụi, xem ra không có vẻ gì là đặc biệt. Ông mặc một cái áo khoác trong nhà màu xám trang nhã, và đang lau kính bằng một chiếc khăn lụa màu vàng. Ông hà hơi vào mắt kính một lần nữa và lại lấy cái khăn đó lau, rồi đeo kính lên mắt, sau đó nhìn xuống đường. Với chiếc kính trên mặt, khuôn mặt không lấy gì làm đặc biệt của ông trở nên rõ ràng hơn, đó là cái thường thấy ở những người cận thị. Khuôn mặt ấy trông phúc hậu, đôi mắt hiền từ và vui vẻ, nhưng không còn trẻ nữa; đó là khuôn mặt của một người đã ngoài tuổi bốn mươi. Và nếu nhìn kĩ hơn đó bằng con mắt có kinh nghiệm thì chắc chắn thấy đó là khuôn mặt của người đàn ông chưa vợ. Linh mục và người đàn ông chưa vợ bao giờ cũng có khuôn mặt rất dễ nhận ra.
Người đàn ông chưa vợ ấy đứng tì tay vào cái gối trắng thêu đẹp đẽ đặt trên bậu cửa sổ. Ông nhìn lên bầu trời xanh, nhìn sang đồi Petřín tươi sáng đầy cây xanh, và mỉm cười. “Trời đẹp quá - từ mai mình sẽ phải dậy sớm hơn,” ông tự nhủ. Ngay sau đó, ông đưa mắt nhìn sang cửa sổ trên tầng ba ở phía sau của ngôi nhà. Sau tấm kính cửa trong suốt còn đóng, thoáng qua một bóng người mặc váy. “Phải rồi, tất nhiên đó là Josefinka, cô ấy đang ở trong bếp,” ông lại tự nói thầm với mình. Vừa nói, ông vừa nhấc bàn tay phải, trên ngón tay mập mạp có đeo một chiếc nhẫn kim cương. Tia sáng lấp lánh từ chiếc nhẫn làm ông lại nghĩ đến mình. Ông quay quay chiếc nhẫn một chút, để cho mặt kim cương nằm đúng mặt trên của ngón tay, hơi kéo tay áo lên rồi thích thú ngắm bàn tay mập mạp trắng trẻo của mình. “Có sạm nắng một chút cũng chẳng sao, càng khỏe,” ông lại tự nhủ, rồi giơ bàn tay phải lên cao, như là để kiểm tra cái khỏe khoắn ngày càng khỏe ra của mình.
Phía bên kia của tầng ba, có tiếng kẹt cửa ở căn phòng bên hành lang, rồi một cô gái bước ra khỏi phòng. Đó là cô gái khoảng 18 tuổi, xinh đẹp như ánh sáng ban mai! Cô có vóc dáng thon thả và duyên dáng. Mái tóc đen xoăn xoăn rất dày rủ xuống đến vai, được buộc túm lại bằng một dải nhung giản dị. Khuôn mặt cô tròn trĩnh, cặp mắt xanh sáng và trung thực, đôi má hồng hào, làn da trắng mịn màng, cặp môi nhỏ đỏ thẫm. Có thể có người cho rằng gương mặt ấy không đều đặn như khuôn mặt người mẫu, nhưng mà nó rất dễ chịu. Cô có đôi tai nhỏ nhắn đáng yêu, cho dù chỉ đeo đôi khuyên nhỏ bằng bạc đơn giản. Ngoài đôi hoa tai bằng bạc, cô không mang một đồ trang sức nào khác. Trên cái cổ trắng ngần của cô có một sợi dây mảnh màu đen, có thể còn có mặt dây chuyền, nhưng nếu có, thì chắc nó được giấu kín giữa hai bầu vú đang lớn của người con gái. Cô mặc bộ váy áo sáng màu, có sọc dài và mảnh, cúc cài đến cổ, màu vải và kiểu váy áo may đơn giản, trông rất duyên dáng.
Cô gái bưng một cái bình màu nâu có nắp đậy.
“Chào cô Josefinka!”
“Dạ, xin chào luật sư ạ.” Josefinka trả lời, đưa mắt nhìn sang cửa sổ phía đối diện và mỉm cười thân thiện.
“Cô mang gì đi đâu vậy?”
“Dạ, cháu mang một tí xúp thịt bò xuống cho bà Žanýnka, cháu để dành cho bà ấy từ hôm qua. Bà ấy đang bị ốm ạ.”
“Bà Žanýnka bị ốm à? Mà không ốm thì mới lạ, phòng bà ấy cứ kín bưng như nhà tù ấy! Cả năm chẳng bao giờ mở cửa sổ, trong phòng lại còn có cả con chó xấu xí ấy nữa; hôm qua nó sủa cả đêm. Có lẽ chúng ta phải qui định chỉ được nuôi giống chó thuần chủng!”
“Lại còn thế nữa cơ,” cô Josefinka hơi bực mình, “nếu mà thế thì có lẽ bà Žanýnka phát điên lên mất!”
“Bà ấy ốm bệnh gì vậy?”
“Bệnh già ạ,” Josefinka buồn rầu trả lời và đi về phía cầu thang xoáy.
“Josefinka là cô bé tốt bụng!” Ông luật sư lẩm bẩm và đưa mắt nhìn theo cô.
Josefinka đi qua sân, đến trước căn phòng ở tầng một. Cô đặt tay vào tay nắm cửa, nhưng cửa khóa. Cô lay lay tay nắm cửa, rồi gõ cửa, nhưng không thấy trong nhà có động tĩnh gì. “Cô thử gõ vào cửa sổ xem sao!” Ông luật sư nói từ cửa sổ phòng mình.
“Không ăn thua gì đâu, phải đập cơ, chứ gõ không đủ đâu! Nhưng Josefinka không biết đập cửa. Để tôi đập cho!”, có tiếng nói từ bậc thang ở lối ra cổng. Chỉ nhảy hai bước từ cầu thang xuống sân, một nam thanh niên khoảng hai mươi tuổi đã đến bên cô Josefinka. Người thanh niên ấy mặc bộ quần áo mỏng mùa hè màu xám, đầu để trần không đội mũ. Tóc anh đen và quăn quăn, khuôn mặt vuông vắn, đôi mắt lanh lợi.
“Vâng, anh Václav ạ, xin anh giúp tôi với!” Josefinka nhờ.
“Nhưng trước hết phải xem có cái gì ở bên dưới nắp bình đã!” Václav đùa và đưa tay về phía Josefinka.
“Này... này,” ông luật sư lên tiếng dọa, nhưng thôi ngay, vì thấy cô Josefinka khéo léo tránh được bàn tay của chàng thanh niên.
“Thôi, tôi gõ lấy cũng được!”
Nhưng Václav đã đứng bên cửa sổ và gõ tay vào cửa kính. Bên trong nhà vang lên tiếng chó sủa chói tai, rồi lại im bặt. Cả hai đứng chờ một lúc. Khi vẫn không thấy ai lên tiếng, chàng thanh niên đi sang cửa sổ bên cạnh và hết sức đập vào nó. Trong nhà, con chó lại sủa dữ dội, một hồi lâu sau nó rít lên rồi ngừng sủa.
“Bà Žanýnka sẽ mắng cho đấy!”
“Ừ thì mắng, có sao!” Václav nói và lại đấm vào cửa, rồi áp tai vào cánh cửa lắng nghe. Bên trong phòng, chỉ có tiếng rít rền rĩ của con chó.
Tiếng động ồn ào đã đánh thức cả ngôi nhà. Ở cửa sổ cạnh phòng ông luật sư lại thấy người đàn ông cao lớn với khuôn mặt đầy mụn nhọt, cạnh ông ta là hai người phụ nữ, một người đã có tuổi và một người trẻ hơn. Trên tầng ba phía đối diện, mẹ của Josefinka bước ra hành lang. Bà có dáng người cao cao. Đi sau bà là cô con gái ốm yếu, người nhỏ bé, lưng khom khom, chị gái của Josefinka. Ở hành lang dưới tầng hai có ba người ra khỏi phòng. Người thứ nhất là một người đàn ông có tuổi, đầu hói. Người thứ hai là người đàn bà cũng ngang tuổi người đàn ông ấy. Cả hai đều còn mặc quần áo trong nhà. Người thứ ba là cô gái khoảng 20 tuổi, chỉ mặc váy áo lót, một cái khăn quàng vội trên vai, tóc còn đang quấn nhiều cặp quấn tóc bằng giấy. Từ cầu thang ở lối ra vào có hai người phụ nữ đi xuống, họ mặc váy áo rất đơn giản. Người thấp nhỏ hơn trong họ là một người đàn bà nhanh nhẹn, sống động, là bà chủ quán ăn. Bà ngoảnh lại bảo con gái mình ở trong phòng: “Márinka, con ra trông quầy, nhỡ có người vào!” Người đàn bà thứ hai có vóc dáng cao lớn hơn, đó là người đàn bà xem sách giải mã giấc mơ mà chúng ta đã biết từ đêm qua. Bà đội trên đầu chiếc mũ vải màu trắng sạch sẽ, rất hợp với bà. Ánh sáng mặt trời làm khuôn mặt bà dễ chịu và dịu hiền hơn. “Cái gì thế hở Václav?” Bà hỏi người thanh niên, con trai bà ấy.
“Bà Žanýnka chết rồi hay sao ấy mẹ ạ! Để con gõ cửa một lần nữa xem sao!” Rồi lại hết sức đập vào cửa.
“Thôi, không còn cách nào khác là phải đi tìm thợ khóa, cậu Václav ạ, cậu đi nhanh lên!” Ông luật sư nói từ tầng trên. “Tôi xuống đấy ngay bây giờ!”
Václav đi khỏi sân. Tiếng hỏi, tiếng trả lời của mọi người vọng lên từ mọi phía, đan vào nhau.
Ông luật sư ăn mặc chỉnh tề đi từ cầu thang xuống. Khi đi qua Josefinka đang căng thẳng lo lắng, ông bảo cô không phải giữ mãi cái bình trong tay. Vừa lúc đó, Václav dẫn thợ khóa đến. Khóa cửa được tháo, cánh cửa được mở ra. Lúc đầu, không ai muốn vào phòng. Václav lấy can đảm bước vào, ông luật sư đi theo, còn những người đàn bà thì chen nhau đứng ở trước cửa.
Căn phòng lớn tối tăm đến khủng khiếp. Cửa sổ trông ra sân và cả cửa sổ nhìn sang đồi Petřín đều kéo rèm kín mít, không một tia sáng nào lọt được vào phòng. Không khí trong phòng ngột ngạt, nặng mùi hôi hám mốc meo. Mạng nhện phủ đầy bụi đen đúa rủ xuống từ trần nhà. Trên các bức tường xám trống trơ có treo mấy bức tranh tối màu, xung quanh viền hoa giả đã rất cũ và phủ một lớp bụi dày cộp. Đồ đạc trong phòng tuy nhiều, nhưng đều đã quá cũ, hết thời, nhìn qua cũng thấy bao năm tháng qua chúng không được dùng vào việc gì. Trên chiếc giường thấp có tấm chăn màu vàng bẩn thỉu, thò ra ngoài tấm chắn là hai cánh tay khẳng khiu đến thảm hại và cái đầu gầy gò khô quắt không còn một sợi tóc nào. Thấy có người vào, con chó già đen xù, xấu xí và bất hạnh chạy đi chạy lại từ đầu giường đến cuối giường và sủa liên hồi một cách tuyệt vọng.
“Azor, im đi, im đi nào!” Václav đe con chó, giọng nghẹn lại như sợ hít phải không khí trong phòng.
“Tôi nghĩ bà ấy mất rồi, không thì con chó đã chẳng rền rĩ như vậy.” Ông luật sư nói thầm.
“Vâng, bà ấy đi rồi! Xin Chúa tha tội cho bà ấy, cho tất cả chúng ta nữa. Xin Đức mẹ linh thiêng phù hộ cho chúng con!” Mẹ của Václav, bà Bavorová, lắp bắp cầu nguyện, giọt nước mắt lớn từ từ lăn trên má bà.
“Trong một nhà, khi có đám tang rồi sau đó không lâu có đám cưới thì cô dâu thường hạnh phúc.” Bà chủ quán ăn nói như vậy với Josefinka. Tội nghiệp cô bé, đang sợ tái mặt nhưng bất chợt mặt cô nóng rực lên, rồi lại trở lại nhợt nhạt. Cô quay mặt, không nói một lời nào và bỏ đi.
“Trước hết phải xua con chó đi, kẻo nó cắn, biết đâu răng nó đã dính cái độc hại từ người chết rồi.” Ông luật sư nói và lùi lại vài bước.
“Vâng, nó sẽ phải ra khỏi đây.” Václav nói và tiến gần đến con vật hung dữ đang canh bà chủ đã chết. Mặc dù tất cả mọi người trong phòng đều là người quen, con chó vẫn lồng lộn sủa, mỗi lúc một dữ dội hơn. Vừa sủa đinh tai, nó vừa lùi về phía đầu giường, trong khi Václav tiến gần đến nó. Cậu đi đến tận giường, đưa tay trái kéo cái chăn, và khi con chó nhảy đến giữ thì Václav tóm lấy gáy nó bằng tay phải, rồi nhấc nó lên cao. Con chó điên cuồng giãy giụa nhưng Václav giữ nó rất chặt.
“Mang nó đi đâu bây giờ?”
“Mẹ đưa cho con chìa khóa phòng để củi, con nhốt tạm nó vào đấy đã.” Václav mang con chó còn đang rền rĩ đi.
“Vậy là bà già đã chết rồi ư?” Có tiếng khàn khàn ở ngoài cửa. Đó là tiếng của người đàn ông hói đầu chúng ta đã trông thấy ở hành lang trên tầng hai. Đầu ông hói đúng đến chỗ chạm vào vòng mũ. Ông thường xuyên đội cái mũ chóp hình trụ cũ kĩ hết thời đã lâu. Những sợi tóc mềm đã bạc ở hai bên thái dương rủ đến tận mắt. Mặt ông đầy vết nhăn, khuôn mặt của người trước đây rất béo, sau bị gầy quắt đi. Hai bên má ông hóp lại, lõm sâu. Ông có dáng người xương xẩu, ngực lép, hai tay luôn luôn vung vẩy như không chủ động được.
“Vâng, bà ấy đi rồi!”
“Thế thì phải nhanh chóng đưa bà ấy ra nhà xác, để khỏi có người chết ở trong nhà, chứ để nằm đây lại phải có nhiều thanh toán lôi thôi!”
“Cái ấy thì khỏi phải lo, thưa ông chủ nhà,” ông luật sư nói. Lúc này, ông đang đọc các giấy tờ xếp đầy trong cái hộp để trên bàn bên cạnh giường. “Bà ấy đã thu xếp để thanh toán tất cả. Bà ấy đã chuẩn bị mọi hậu sự, có thể là ngày hôm qua bà ấy vẫn còn xem lại giấy tờ. Trong cái phong bì có niêm phong này tôi thấy một tờ giấy mang tên bà ấy, thành viên của hội thánh Haštal. Còn đây là sổ của hội tình thương Strahov. Bà ấy sẽ được thanh toán tiền tang lễ, còn buổi lễ cầu nguyện linh hồn thì cũng đã được trả tiền trước rồi.”
“Tội nghiệp bà ấy. Lương hưu cả năm của bà ấy chỉ có 80 zlatý.[2] Cứ ba tháng một lần, Václav nhà tôi lại điền phiếu nộp tiền hộ bà ấy!” Bà Bavorová cảm động nói. Bà Žanýnka đã đóng tiền hậu sự vào hai hội kể trên từ lâu rồi, ấy là từ lúc các hội đó còn xứng đáng với cái tên lịch sử của chúng, chứ không phải là cái đáng bị sỉ nhục như bây giờ.
“Họ sẽ trả hậu sự cho bà ấy khoảng 50 zlatý, một tấm quan tài và tấm bia thiếp vàng được vẩy nước thánh,” bà chủ quán ăn nói.
“Thế những tờ khác là giấy tờ gì?” Václav đã quay trở lại, tò mò hỏi.
“Chả có gì quan trọng. Một số thư từ riêng, từ hàng mấy chục năm rồi,” ông luật sư đọc rồi trả lời.
“Chú cho cháu mượn, thư từ của bà già không chồng chắc có nhiều cái hay. Cháu sẽ trèo lên mái nhà để đọc. Hôm nay là thứ hai, nhà nào cũng giặt quần áo, ở đâu cũng toàn mùi xà phòng, hơn nữa nhà nào cũng nấu đậu Hà Lan. Tốt hơn hết là trốn lên mái nhà. Cháu muốn trở thành nhà viết tiểu thuyết, và người viết tiểu thuyết thì cái gì cũng phải đọc. Cháu có nhiều thời gian, vì được công sở cho nghỉ phép đến tận thứ năm, có phải không ạ, thưa ông chủ nhà?”
“Nhưng không được làm mất tờ nào đấy, đọc xong thì đem hết về đây!”
“Bây giờ ai là người lo toan tất cả mọi thủ tục được đây?” Ông chủ nhà hỏi. “Có lẽ ông phải làm việc này thôi, ông luật sư ạ! Denn diese Leute kennenn’s nicht (đối với những người này không biết)!” Ông chủ nhà tỏ ra hiểu biết.
“Giá mà con trai tôi không thực tập ở công sở của ông thì tôi sẽ bảo cho ông biết rằng phải nói là kennes-nicht (bởi vì những người này không biết)!” Bà Bavorová lẩm bẩm một mình.
“Vâng, biết làm sao được!” Ông luật sư nhiệt tình đáp. “Tôi sẽ đến chỗ khai nhân khẩu, đến ban quản lý nghĩa trang và sang nhà xứ, còn cậu Václav thì phải đi ngay để mời bác sĩ đến chứng nhận. Khi bác sĩ ký giấy khai tử rồi thì cậu mang sang văn phòng cho tôi nhé!”
Václav nhanh nhẹn đi ra.
“Còn tôi với bà chủ quán sẽ tắm rửa rồi mặc váy áo cho bà Žanýnka. Nghĩa tử là nghĩa tận!”
“Vâng, các bà tốt quá!” Ông luật sư khen họ. “Thôi, tôi phải đi đây!”
“Để tôi đi cùng với ông.” Ông chủ nhà nói.
Rồi cả hai người đàn ông cùng đi.
“Bây giờ bà đang làm gì vậy?” Bà chủ quán hỏi bà Bavorová.
“Tôi đang nghĩ đến cả thế giới.”
“Bà lại mơ thấy cái gì thế?” Bà chủ quán hỏi tiếp. “Bà đã định kể về...”
“À, vâng! Giấc mơ ấy rất đẹp! Tôi mơ thấy cha tôi về, xin trời tha tội cho cha tôi, mồ yên mả đẹp cũng được hơn hai mươi năm nay rồi. Mẹ tôi bỏ đi trước, cha tôi nhớ thương ngày nào cũng ra mộ, rồi mất, nhưng ra đi rất nhẹ nhàng. Cha mẹ tôi thương yêu nhau lắm. Trong mơ, tôi nhìn thấy cha mẹ khóc thương chúng tôi, ngày ấy đang có chiến tranh Napoléon, chẳng có gì cho chúng tôi ăn cả.”
“Cụ ông tên là gì?”
“Cha tôi tên là Nepomucký, vì ngày lễ tên thánh của cha tôi là ngày 16, vậy sẽ là số 16. Tự nhiên tôi thấy cha tôi, cả người trắng bệch, đứng trước mặt tôi ở trong cửa hàng. Tôi định hỏi, ‘Bố đi đâu mà ở đây?’, cha tôi đưa cho tôi cả một ôm đầy bánh nướng - tức là số hai mươi ba, con số may mắn - rồi bảo tôi: ‘Người ta chiêu lính, bố phải đi!’ Mục chiêu lính có con số tám, nghĩa là sự vui vẻ. Sau đó bố tôi quay ngược ra ngoài và đi mất.”
“Thế thì phải là số sáu mươi mốt, chứ không phải mười sáu, khi mà ông cụ quay ngược ra!”
“Ừ nhỉ, thế mà tôi không nghĩ ra! Vậy thì các con số sẽ là 61, 23 và 8.”
“Giấc mơ rõ ràng như thế thì ta mua số đề cả năm mươi krejcar[3] nhỉ?”
“Ừ, cũng được.”
“Chúng ta sẽ trúng giải, sẽ được nhiều tiền, tốt quá. Cậu Václav nhà bà và Márinka của tôi, chúng nó thích nhau - trúng được giải thì tốt quá!”
III. GIA ĐÌNH ÔNG CHỦ NHÀ
Đã đến lúc tôi nên nói qua về địa điểm và các nhân vật của chuyện tôi muốn kể. Về nhân vật mà nói thì điều đó phụ thuộc rất nhiều vào sự ngẫu nhiên, tùy theo việc họ có những hành động gì nổi bật trong ngày nào đó. Còn về địa điểm thì tôi có thể nói ngay được rằng đó là một trong những ngôi nhà yên tĩnh nhất của khu Malá Strana[4] yên tĩnh. Nhà được xây rất khác lạ, là một trong những ngôi nhà khác lạ tương tự ở cái dốc cao nhất của phố Ostruhová[5]. Cái nhà ấy rất sâu, mặt tiền đơn giản của nó hướng ra phố Ostruhová, mặt hậu nhìn ra phố Svatojánská sâu thăm thẳm và ít người qua lại. Vì nằm trên dốc nên tuy nhìn từ phía sau nhà có ba tầng, nhưng lại thấy thấp hơn phía trước, mặc dù ở đó chỉ nhìn thấy hai tầng. Không thể đi từ phía trước nhà đến phía sau nhà qua sân được, vì tường của các nhà bên cạnh đứng chắn ngang. Ở mặt tiền nhìn từ đường vào, phía tay trái là cửa hàng tạp hóa, bên phải là quán ăn. Muốn đi lên tầng hai ở phần phía trước nhà thì không đi theo cầu thang từ lối qua cổng được, mà phải đi lên cầu thang ở ngoài sân, từ đó rẽ sang tay phải, đi qua một hành lang ngắn, tới cầu thang xoáy, rồi từ đó lại đi qua một hành lang ngắn nữa. Cả tầng hai là căn hộ của một công chức trước làm việc ở Sở Kinh tế, nay đã về hưu. Ông ấy sống ở đây cùng với vợ và cô con gái của họ. Ông luật sư tên là Josef Loukota, đúng ra chỉ là luật sư phụ tá, chưa có học vị tiến sĩ, đang ở trọ trong một căn phòng của gia đình này. Muốn đi vào phòng mình, ông luật sư phải đi qua bếp của gia đình.
Theo cầu thang xoáy còn có thể đi lên cao hơn nữa, đến tận tầng nóc nhà.
Phía dưới, ở bên phải và bên trái của cầu thang, là các ngăn chứa củi của các gia đình. Căn hộ của bà Žanýnka ở tầng một nhà phía sau. Bên cạnh căn hộ đó là các bậc thang dẫn xuống tầng hầm, liền các bậc thang đó là cầu thang xoáy dẫn lên hai tầng trên, tầng nào cũng có hành lang rất dài. Căn hộ của gia đình Josefinka nằm ở tầng ba. Nói cho đúng thì nó chiếm cả tầng, nhưng là tầng không rộng. Căn hộ ấy có cửa sổ trông ra sân và cửa sổ trông ra đồi Petřín. Josefinka sống cùng mẹ và chị gái. Mẹ cô là bà quả phụ của một viên chức trước đây làm việc cho một nhà quý tộc, chị gái cô là một cô gái ốm đau luôn.
Ở tầng hai phía sau nhà là căn hộ của gia đình ông chủ nhà. Chúng ta đã thấy gia đình ấy ở hành lang rồi, giờ thì ta có thể vào thăm họ.
Trước khi bước vào phòng thứ nhất, phải đi qua phòng bếp. Lúc này bà Bavorová, người giúp việc cho gia đình ông chủ nhà, đang giặt quần áo. Đồ đạc trong căn phòng thứ nhất rất đơn giản và không hiện đại. Phía tay trái là cái giường có trải chăn đệm, được phủ bằng tấm phủ giường đan bằng len. Phía tay phải là cái hòm và chiếc tủ cao đựng quần áo, rồi một cái bàn tròn có trải khăn bàn hơi bị sờn và bạc màu, xung quanh bàn là mấy chiếc ghế. Ở bên một cửa sổ có kê cái máy khâu, ở cửa sổ bên cạnh có chiếc ghế bành. Trên tường giữa hai cửa sổ có treo một tấm gương lớn, còn các bức tường sơn xanh khác đều để trống, không treo gì. Bụi phủ trên mặt hòm và ở khung gương; nhưng cái đó không quan trọng, vì phòng thứ hai tiếp theo mới là phòng lớn, cũng vì thế mà bà Bavorová chỉ gọi phòng thứ nhất là “tiền sảnh” thôi. Ở phòng thứ hai, tức là ở phòng lớn, có một số tranh minh họa sách cổ in litô, đồ đạc gồm một cái đàn piano, một ghế sofa, một bàn, sáu ghế được phủ vải trắng xếp vòng quanh bàn, và một cái giường. Cô con gái nhỏ của ông bà chủ nhà vẫn còn đang nằm ở đó. Phòng thứ ba là phòng của vợ chồng ông chủ nhà.
Bà chủ nhà đang ngồi bên cửa sổ, cô con gái lớn ngồi bên cửa sổ thứ hai. Bà mẹ mặc váy áo trong nhà, còn cô con gái thì vẫn chỉ mặc váy áo lót, mặc dù lúc đó đã là 11 giờ trưa rồi.
Bà chủ nhà là người đàn bà có đường nét sắc cạnh, khuôn mặt cứng cỏi và cái cằm nhọn. Bà đeo kính và đang chăm chú khâu cái gì đó bằng vải thô. Trên vải có in những vết đen, vậy đó đúng là vải may quân phục. Con gái bà là một cô gái tóc vàng thuộc loại rất bình thường, không hấp dẫn một chút nào. Cô rất giống mẹ, nhưng được cái đường nét có vẻ mềm mại hơn một chút, cái cằm tuy nhọn nhưng cũng có nét duyên dáng nào đó của tuổi trẻ. Mắt cô xanh sáng, mái tóc có vẻ không dày lắm, lúc này còn đang quấn trong cặp quấn bằng giấy. Điều rõ ràng thấy ngay được là cô đã ngoài tuổi hai mươi khá lâu rồi.
Cái làn đựng đồ khâu được đặt trên bậu cửa sổ, một cái áo lót mỏng đặt trên ghế cạnh cô gái, bên trên áo có cuộn chỉ đỏ. Có thể cô gái đã bắt đầu thêu tên mình lên áo, hoặc sẽ thêu. Trên cái bàn nhỏ cập kênh, cứ động vào là lại ngất ngưỡng, có một lọ mực, cạnh nó là quyển sổ lưu niệm đang mở với các trang đã viết, trước mặt cô là tờ giấy trắng đặt trên tờ báo cũ, trên bậu cửa sổ là quyển vở mở với các trang vở chép các vần thơ bằng tiếng Đức. Chắc hẳn cô muốn chép lại một đoạn thơ lên tờ giấy trắng, nhưng chưa chuẩn bị xong bút viết. Cô viết thử ra góc tờ báo, thử đủ kiểu bút, đôi môi cô nhuốm đen vì mực.
Bà mẹ ngẩng lên nhìn con gái rồi lắc đầu:
“Gớm, viết lách thế mà cũng cứ viết!”
“Nhưng con thích viết!”
“Này Matylda ạ, sáng nay lúc anh Loukota lại nhìn sang bên này thì con đang ở trong bếp phải không? Sáng nào anh ấy cũng nhìn sang đây!”
“Thì đã sao, cứ để ông ấy nhìn!” Matylda trả lời với giọng chói tai.
“Con ạ, mẹ luôn có cảm giác là anh ấy dễ chịu hơn ông thượng úy!”
“Con thì không thấy thế!”
“Anh ấy cũng trẻ hơn thượng úy, lại hiền nữa con ạ. Bố mẹ biết anh ấy lâu rồi. Chắc chắn anh ấy phải để dành được rất nhiều tiền đấy!”
“Ôi giời, sao mẹ buồn cười thế!”
“Còn mày thì sao mà ngu thế!”
“Con có phải là trẻ con nữa đâu mà mẹ muốn bảo làm gì cũng được? Để mặc con muốn làm gì thì làm!”
“Thì mặc mày, tao chẳng bận xác làm gì!” Bà mẹ bực dọc đặt đồ khâu xuống rồi đi ra bếp.
Còn cô con gái xem ra cũng chẳng bực làm gì cho bận xác. Cô bình thản đặt trước mặt quyển vở có chép thơ, chấm bút vào lọ mực một lần nữa và bắt đầu viết từng chữ lên tờ giấy trắng. Cô viết một cách chậm chạp khó khăn. Nhưng cuối cùng thì câu thơ đầu tiên đã được viết xong, rồi câu thứ hai, thứ ba. Sau nửa tiếng đồng hồ vật lộn vất vả, cô đã chép lại được khổ thơ này:
Hồng kia hoa đã tàn
Hương đào này đã héo
Tình ta vẫn như xưa
Em đã đi về đâu
Để anh cô đơn vậy?
Cô Matylda hài lòng ngắm nghía công trình sao chép của mình. Cô đọc to hai lần cả khổ thơ và ngắt giọng một cách rất cảm động. Rồi cô bắt đầu ký tên. Cô viết xong chữ “M” và khi viết đến một nửa chữ “a” thì bút hết mực. Cô chấm mực một lần nữa, đặt bút xuống ký tiếp. Đúng lúc ấy, một giọt mực to tướng nhỏ xuống bên cạnh chữ “a” đang viết dở. Cô nâng tờ giấy lên và liếm một nhát sạch giọt mực.
Chắc hẳn giọt mực không làm nhòa chữ nào, và vì thế cô không phải viết lại từ đầu. Cô cầm tờ giấy, đưa nó ra ánh sáng để chờ cho ráo mực. Vừa lúc ấy, mẹ cô vội vàng đi từ bếp vào phòng.
“Mẹ con bà Baurová đang đến nhà mình đấy! Thế mà con vẫn còn chưa mặc quần áo,” bà mẹ gọi từ cửa. “Mặc cái gì vào đi, nhanh lên!”
“Mấy con cú ấy lại muốn gì vậy?” Cô Matylda càu nhàu và cất tờ giấy viết dở vào cặp giấy. Cô đứng dậy, đi về phía giường, nơi có cái áo trắng mặc trong nhà của cô. Trong lúc ấy, bà mẹ vội vàng mang đống quần áo đang may, mở cửa quẳng vào phòng thứ hai. Bà nói với đứa con gái nhỏ đang nằm trên giường: “Valinka cứ nằm, đừng dậy bây giờ con nhé, đang có khách đến.” Đoạn đóng cửa lại.
Ở ngoài bếp, đã có tiếng đàn bà đang nói. Cô Matylda chạy về chỗ ngồi của mình và cầm lấy cuộn chỉ đỏ, bà chủ nhà cũng đi vội đến cửa sổ và làm như đang lục tìm gì đó trong cái làn đựng đồ khâu.
Có tiếng gõ cửa.
“Ai đấy?” Bà chủ nhà hỏi.
Cửa mở ra, đứng trước cửa là hai người đàn bà đang có vẻ lúng túng, không biết có nên bước vào phòng hay không.
“A, bà Baurová... Matylda ơi, xem này con ơi, xem ai đến nhà mình này!”
“Ôi, mừng quá!” Cô Matylda vui vẻ vỗ tay. “Chị Marie, chào chị, lâu lắm rồi không gặp chị!” Rồi ôm hôn người trẻ hơn trong hai người phụ nữ.
“Chúng tôi chỉ rẽ vào đây một lúc thôi, bà Eberová ạ,” người đàn bà có tuổi giải thích. “Tôi với cháu đến gặp ông chú là mục sư ở trên kia, nhưng Marie nói là dứt khoát phải rẽ vào chào chị Matylda. Sao ông bà lâu rồi không đến nhà tôi chơi? Đấy, thế là đủ thấy ai nghĩ đến ai nhé! Chúng tôi đến đây nhiều hơn, nhưng hôm nay quả thực chỉ rẽ vào một tí thôi. Tôi bảo cháu là có lẽ bây giờ vào bà không tiện, vì hôm nay là thứ hai, là ngày giặt giũ...”
“Thì có sao đâu bà,” bà chủ nhà gạt đi, “giặt giũ thì ở trong bếp chứ cản trở gì ở đây! Xin bà và cô ngồi chơi một lát chứ! Bà xem kìa, hai cô ấy cứ quấn lấy nhau, quý hóa quá! Matylda ơi, nhẹ nhàng thôi, kẻo làm cô Marie nghẹn thở đấy!”
Bà chủ nhà đưa ghế ở gần cửa sổ cho hai người khách. Bà mẹ của Marie là người đàn bà trạc năm mươi tuổi, ăn mặc rất lịch sự. Cô Marie khoảng ba mươi tuổi, có khuôn mặt giống mẹ. Mặc dù đang mỉm cười lịch sự tỏ ra vui vẻ nhưng trên khuôn mặt gầy gò của cô ấy đã có biểu hiện của sự mệt mỏi khó tả. Chỉ có đôi mắt của cô là có một vẻ gì soi mói, tìm tòi khi nhìn mọi thứ xung quanh.
Họ ngồi nói chuyện, lúc thì nói bằng tiếng Séc, lúc nói bằng tiếng Đức, tùy theo câu chuyện nói về chủ đề gì.
“Hình như cửa để ngỏ có gió lùa hay sao ấy bà nhỉ, răng tôi đang đau vì phong thấp,” bà Baurová nói. “Hôm nay trời đẹp quá nên chúng tôi đi chơi, Matylda ơi, cháu có thấy hôm nay trời đẹp không?”
“Dạ, có ạ, trời hôm nay quả là đẹp, đẹp tuyệt vời.”
“Vâng, tuyệt vời,” cô Marie tán thành.
“Mới sáng ra mà bà đã may vá rồi ư?” Bà Baurová hỏi và nhặt một mẩu vải từ sàn nhà. “Ơ, vải này là... là vải may quân phục, phải không bà?”
“Vâng, nó là... nó là vải may quân phục ạ,” bà chủ nhà gượng gạo. “Người giúp việc của chúng tôi là người nghèo, bà ấy may quần áo cho quân đội. Khi bà ấy giặt quần áo cho chúng tôi thì tôi khâu giúp bà ấy. Tội nghiệp, kim châm nát tay mà cả tuần mới kiếm được khoảng năm chục krejcar! Dân nghèo phải lam lũ thế đấy!”
“Vâng, họ khổ quá!”
“Còn chị đang làm gì vậy, hả chị Matylda? A, chị thêu tên vào áo à? Cho em xem với nào, xem chị thêu chữ gì nào!” Cô Marie gợi chuyện. “M-K ư? À, em nhớ ra rồi, em nghe nói chị sắp làm cô dâu, vậy em phải chúc mừng chị chứ nhỉ! Nghe bảo chú rể là thượng úy Kořínek, phải không ạ? Có lần em đã gặp thượng úy ở nhà chú em nên cũng biết một chút. Em hỏi thật nhé, chị có yêu ông ấy không?”
Cô Matylda chẳng hề đỏ mặt, mà việc gì phải đỏ mặt với bạn gái.
“Em đã quyết định rồi! Vả lại, còn mong chờ cái gì! Anh ấy hiền lành và yêu em, nên em cũng chẳng chê bai gì.”
“Em không để ý kĩ lắm, nhưng em nghĩ ông... à anh ấy có tóc sáng màu thì phải, hay là tóc đã bạc rồi?” Cô Marie giả bộ ngây thơ nói, tay vẫn lật từng trang quyển sổ lưu niệm.
“Ồ không, anh Kořínek đâu đã già!” Cô Matylda hơi đỏ mặt. “Anh ấy chỉ... anh ấy kể là trước đây anh ấy đã ở trong một căn hộ không tốt, có giường nằm quay đầu về phía tường bị ẩm. Anh ấy quả thực chưa già đâu!”
“Thế ra người ấy chỉ cố tỏ ra là già thôi à, sao tếu thế! Không thể tin được cái gì ở đám đàn ông!”
“Vâng, anh ấy láu lỉnh lắm! Hôm qua anh ấy làm em rất buồn cười! Em đã đùa, chê anh ấy hút nhiều thuốc lá và hỏi vì sao hút nhiều thế. Anh ấy trả lời là phải luyện đôi môi hút cho quen, để chuẩn bị đến lúc hôn thật! Chị bảo thế có buồn cười không? Der ist witzig[6].”
Cô Marie bật cười, tỏ ra đồng ý với nhận xét về cái hóm hỉnh của ông Kořínek, tuy còn hỏi thêm:
“Thế nhưng tại sao lại chuyển từ trung đoàn chính quy sang bên hậu cần may quân phục, nếu mà vẫn còn đủ sức?”
“Người ta muốn điều anh ấy đi đến tận Dalmatia cơ, nhưng anh ấy xin chuyển vì bị giảm trí nhớ...”
“À, ra vậy! Đi xa thế mà bị giảm trí nhớ thì có thể quên mất đường về nhà, tội nghiệp!” Cô Marie tỏ ra thông cảm.
“Người đàn ông nào cũng có cái thiếu sót của mình, nhưng anh Kořínek có tiền!” Cô Matylda nói nhanh. “Bố anh ấy kiếm được nhiều tiền trong cuộc chiến tranh Pháp.”
“Vâng, em cũng nghe nói là hồi ấy ông cụ bị gãy chân hay sao ấy... nhưng mà đàn bà con gái chúng mình không hiểu được chuyện ấy!” Cô Marie nói hoàn toàn thành thực. “Ái chà chà, thượng úy viết lưu niệm cho chị hay quá!” Và cô ấy đọc hơi to các câu thơ viết trong sổ.
Ở trang sổ có bài thơ thế này:
Ôi phẩm hạnh của mĩ nhân
Anh yêu em vì trái tim chung thủy
Em yêu quý hãy đừng quên
Hãy cho anh ở bên em mãi mãi.
Thượng úy W. Korzineck
“Vì sao lại không ký cả tên, chứ ai mà biết được chữ “W” là cái gì?”
“Ờ... anh ấy tên là Václav, nhưng anh ấy không thích cái tên ấy. Anh ấy bảo là bao giờ đi lễ ở nhà thờ anh ấy cũng muốn xin đổi ra cái tên khác!”
“A, chị có cả một quyển vở có chép thơ!”
“Anh Kořínek cho em mượn đấy!”
“À, chắc là để chị chép lại vài bài cho ông ấy! Thơ mộng quá nhỉ! Ơ, mẹ ơi, ta đi chứ?”
Hai bà mẹ lúc này đang nói với nhau về chuyện nội trợ gia đình. “Ừ, phải đấy, ta đi thôi! Đáng tiếc là không gặp được ông nhà, biết làm sao được, khi mà ông nhà phải đến công sở! Nhưng mà Valinka, thiên thần của tôi đâu rồi, cháu không có nhà ư?”
“Có ạ, cháu có ở nhà, nhưng còn đang ngủ. Tôi cho cháu nằm lâu một chút vào buổi sáng, nghe bảo làm thế rất tốt cho giọng hát! Cháu sẽ là ca sĩ, vâng, tuy là mọi người lấy đó làm ngạc nhiên. Nó mê nhạc lắm, cứ ngồi vào chơi piano là không lôi nó ra được!”
“Nhưng tôi phải ôm hôn thiên thần của tôi mới được, chứ đi về mà chưa thơm nó được một cái thì buồn lắm. Cháu đang phòng bên cạnh, phải không bà?” Và bà Baurová tiến đến cửa căn phòng thứ hai.
“Nhưng mà ở trong ấy bừa bãi lắm bà ạ, chăn gối đã xếp lại được đâu!” Bà chủ nhà chống cự.
“Thưa bà, chỗ chị em với nhau mà! Ở nhà tôi cũng vậy thôi!” Chưa nói dứt, bà ấy đã đứng trước cửa phòng.
Không còn cách nào khác, mọi người đành phải đi theo bà Baurová. Khi nhìn thấy đống quân phục ở dưới sàn nhà, trên khuôn mặt gầy gò của bà Baurová thoáng một nụ cười, nhưng bà ấy không nói lời nào mà bước nhanh đến giường.
“Ứ, mặc cháu... cháu không thích đâu!” Valinka cố tránh vòng tay ôm của bà khách.
“Valinka hư nhé, con làm cái gì vậy?” Bà chủ nhà mắng con. “À, tôi nghĩ ra rồi! Tối thứ năm này chúng tôi tổ chức ở nhà một buổi ca nhạc nhỏ, xin mời bà đến đây dự nhé! Matylda, con hẹn với cô Marie đi, để thế nào cô ấy cũng đến nhé!”
“Vâng, chúng tôi sẽ đến, chúng tôi sẽ đến để hâm mộ thiên thần bé nhỏ của chúng ta,” bà Baurová hứa thật tình.
Căn phòng thứ hai rộng bằng cả phòng bếp và phòng thứ nhất gộp lại, và có hai cửa sổ trông ra sân. Hai cô bạn gái nắm tay nhau bước đến bên cửa sổ. Họ nhìn thấy Václav đang đi ra từ căn hộ của bà Žanýnka, trong tay cầm một mớ giấy tờ và vội vàng đi về phía cầu thang xoáy.
“Ai thế hả chị?” Cô Marie hỏi.
“À Sáo xanh! Con trai của bà bán hàng tạp hóa, bà giúp việc của nhà em ấy mà! Nhưng mà cậu ấy kiêu căng lắm!”
“Sao lại gọi là Sáo xanh? Tên là thế à?”
“Không phải thế, tên cậu ấy là Václav, nhưng cả nhà em gọi cậu ấy là Sáo xanh. Có một lần, con chim sáo xanh nhà em sổ lồng, ba em nghĩ là trông thấy nó ở trên mái nhà, nhưng khi ba em leo lên đấy thì thấy đó không phải là con sáo, mà là đuôi cái áo khoác của Václav. Cậu ấy thường ngồi học ở trên mái nhà, bây giờ chắc lại lên đó, chị nhìn kìa!”
“Cậu ấy đang đi học à?”
“Không, thôi rồi! Bây giờ cậu ấy đang thực tập ở công sở, ở chỗ của ba em. Nhưng ba em bảo là cậu ấy sẽ chẳng làm được gì nên hồn, rằng tốt hơn hết cậu ấy nên nhảy cầu xuống sông!”
“Các cô ơi, các cô ơi, hai chị em chia tay nhau đi chứ - ta phải đi thôi con ạ!” Bà Baurová gọi con.
Hai cô gái ôm nhau. Phải mất một thời gian dài, họ mới đủ để trao những cái hôn cho nhau, mới đủ để khen ngợi nhau, để đi qua phòng, đi qua bếp, cho đến tận cầu thang.
Bà chủ nhà và cô Matylda dừng lại ở ngoài hành lang.
“Con có thấy bà ta sợ gió lùa vì bị phong thấp không?” Bà chủ nhà hỏi con gái, khi mà hai mẹ con bà Baurová đã đi từ cầu thang xuống đến sân. “Nhưng mẹ nghĩ là bà ấy chẳng còn một cái răng thật nào!”
“Con cũng nghĩ thế. Ở nhà ấy chắc là cứ sau bữa cơm trưa thì con bé giúp việc lại vừa rửa bát đĩa, vừa rửa cả bộ răng giả cho bà ấy, hi hi!”
Bà Baurová dừng lại trước cổng, quay lại vẫy tay chào thân mật. Cô Marie gửi cho cô Matylda mấy nụ hôn gió nữa. Rồi hai mẹ con đi ra cổng.
“Có trời biết cô nàng Matylda đã bao nhiêu lần thêu tên chú rể tương lai nào đó vào áo để rồi lại tháo ra,” cô Marie vừa nói vừa chỉnh lại cái khăn quàng trên vai. “Chắc là nó cả đời chỉ thêu rồi lại tháo!”
“Thế còn anh Kořínek thì sao? Có lần chú đã nói chuyện với con về anh ấy rồi nhỉ?... Thế con bảo sao?”
“Ờ... chẳng bảo sao cả!” Cô Marie ậm ừ và bước ra đường.
IV. LỜI ĐỘC THOẠI TRỮ TÌNH
Buổi sáng đã qua đi, chiều tối của ngày thứ nhất đã đến. Xung quanh, mọi cảnh vật giống như trong một bài hát Nga cổ điển “trên trời có trăng và trong phòng có trăng”. Mặt trăng tròn sáng đến mức làm lu mờ tất cả các ngôi sao quanh nó, chỉ các vì sao ở rất xa mới nhấp nháy sáng một cách rụt rè. Ánh trăng vàng tỏa xuống như tấm áo choàng kiêu hãnh phủ lên mặt đất, lung linh trên các dòng sông và các bờ xanh, lướt qua làng mạc và thành phố, qua các quảng trường và các con đường, đến từng mái nhà, nhẹ nhàng soi qua những cửa sổ đang mở để vào từng căn phòng.
Ánh trăng vàng cũng tràn vào căn phòng gọn gàng, sạch sẽ và thanh lịch của ông luật sư. Các đóa hoa trên chiếc bàn nhỏ sáng lên như được phủ lớp sương lấp lánh, chăn đệm trắng trên giường như trắng hơn. Ánh trăng ngả thoải mái trong chiếc ghế sofa, chiếu sáng lên bút mực và các vật dụng khác trên bàn viết, trải dài trên tấm thảm dưới sàn nhà.
Mặt trăng ngự trị một mình như thế trong căn phòng. Mãi đến khuya mới có tiếng cạch tay nắm cửa, tiếng cánh cửa phòng mở cọt kẹt như người ngái ngủ, ông luật sư bước vào phòng.
Ông ấy dựa chiếc ba toong vào giá treo áo ở gần cửa, đặt cái mũ nan lên giá, rồi xoa tay và lẩm bẩm một mình: “Ái chà chà, nhà ta có khách! Xin chào chị Hằng Nga ạ! Trên cung trăng có gì mới không chị? Ối, cái đầu gối của tôi!” Ông càu nhàu, rồi cúi xuống xoa xoa đầu gối. Khuôn mặt cúi nghiêng của ông trong ánh trăng có vẻ như đang bực bội, cũng có vẻ như đang cười cười.
Ông đứng thẳng lên và cởi áo khoác ngoài. Khi mở tủ để treo áo, ông lại lẩm bẩm, nhưng lần này thì hát một điệu trong một vở opera: “Bartolo[7]... Bác sĩ Bartolo... lolo - ờ, nốt Mi, hay Fa nhỉ?... À, nốt Fa mới phải... Bartolo...” Ông với chiếc áo mặc trong nhà, khoác lên người, buộc cái dây lưng lụa màu đỏ rồi vừa hát “lolo” vừa bước tới cửa sổ.
“Josefinka chắc đã ngủ rồi - chúc em ngủ ngon và có giấc mơ đẹp nhé! Em Josefinka bé nhỏ dễ thương, lại hiền hậu đến thế!” Bất giác, ông lại cúi xuống xoa đầu gối, nhưng không càu nhàu như trước nữa. Ông ngả người tựa vào bậu cửa sổ và tính toán: “Căn hộ bên nhà Josefinka rất rộng, ở không hết. Chúng ta sẽ ở đó - chỉ cần mua thêm một ít đồ đạc mới! Rồi thì... rồi chúng ta sẽ yêu thương bà mẹ và chị Katuška ốm đau, cả hai đều hiền lành. Nhưng Josefinka không có ai,... à phải rồi, người anh họ của cô ấy sẽ đứng ra đảm nhiệm mọi việc. Tất nhiên rồi, Josefinka mà đi lấy chồng thì phải có người đứng ra lo tổ chức cho chứ, cái đó là tất nhiên rồi! Đám cưới của chúng ta sẽ được tổ chức thật kín đáo... Bartololo... không biết vì sao mà hôm nay mình cứ hát hoài về Bartolo, sao vậy nhỉ? Mình vẫn chưa già, vẫn còn sung sức, khá sung sức mà! Mình vẫn chưa đến tuổi phải lo vì quá muộn, vì sẽ quá muộn để lấy vợ. Mình chưa phải sợ ý nghĩ “cả đời sẽ không còn lúc nào đẹp như bây giờ”. Đời sống vợ chồng sẽ là cuộc sống mới của mình, mình sẽ hài lòng. Và khi hài lòng thì con người ta trẻ ra”. Ông luật sư nhìn lên vầng trăng tròn. “Không biết em yêu của tôi có ngủ mơ thấy gì không! Có lẽ là không, một cô bé con như thế thường ngủ say... Giá mà được nói thầm vào tai em thì mình sẽ nói để em ấy nên mơ về cái gì!”
Ông quay lại, đến chỗ bàn để hoa rồi lấy chiếc đàn ghi-ta đang treo trên tường xuống. Ông mang nó đến bên cửa sổ và thử vài hợp âm. Từ dưới sân vọng lên tiếng chó rên rỉ.
“A, con Azor của bà Žanýnka lại sổng ra rồi!” Ông luật sư nói và nghiêng người ra ngoài cửa sổ. “Suỵt... Azor! Ngoan nào, im đi chứ!” Con chó im bặt. “Mình không được khiêu khích nó, tội nghiệp con chó!” Ông tự nhủ rồi treo đàn lên tường, đóng cửa sổ và kéo rèm. Ông đi đến bàn viết, thắp ngọn nến và ngồi vào ghế. Khi có một mình, bao giờ ông luật sư cũng nói nhỏ với chính mình. Bây giờ ông lại tiếp tục điều còn nói dở.
“Mình đủ già dặn để không còn quá ngu ngốc nữa. Ở tuổi của mình thì việc lấy vợ là việc phải giải quyết cho nhanh, nhưng cũng không được quá nhanh, không được kém thơ mộng. Kế hoạch của mình là... ái chà, cái đầu gối phải gió này, mình đã bị vập mạnh quá!” Ông vén áo khoác mặc trong nhà để nhìn quần tất và thấy nó bị xước ở chỗ đầu gối bên phải.
“Thế là lại phải mua quần tất mới rồi!” Ông rầu rĩ ca thán. “Chỉ tại vì mình nhường nhịn quá! Hai đứa ấy đứng ngay giữa đường - chắc chắn là Václav và Márinka, chứ còn ai khác nữa - mình tránh sang một bên, thế là va phải bánh xe! Cái cậu Václav trời đánh ấy! Mình phải gàn cậu ấy mới được, chứ mới là thực tập sinh mà đã yêu với đương thì còn làm được trò trống gì! Kể ra thì cũng đáng tiếc cho cậu ấy, phải công nhận là cậu ấy có tài năng đấy. Giá cậu ấy được học hành đến nơi đến chốn là tốt nhất, nhưng mà gia đình cậu ấy không có tiền thì biết làm sao được! Mình cũng phải gàn cậu ấy chuyện làm thơ, vì thơ ca cũng chẳng nên tích sự gì, tốt hơn cả là hãy cố làm việc ở công sở, một khi đã vào được đó rồi! Khi nào cậu ấy đến đây để hỏi ý kiến của mình về thơ cậu ấy viết, mình sẽ bảo cậu ấy nên quẳng cả đi, vì chẳng có bài nào ra hồn.”
Ông luật sư lấy từ bàn một quyển vở dày và mở trang có đánh dấu đầu tiên. “Mình đã tính rồi,” ông tiếp tục nói một mình, “mình cần mấy bài thơ, mình không biết làm thơ và những bài này của cậu ấy rất thích hợp cho mình. Nếu mình không lấy những bài này, thì mình cũng lấy những bài khác của người khác, có vấn đề gì đâu. Josefinka không biết được điều đó, cậu ấy cũng sẽ không biết về điều đó, vì cậu ấy sẽ nghe lời mình mà vứt các bài thơ này đi. Vậy thì ngày mai mình gửi cho cô ấy bài đầu tiên, tạm thời gửi nặc danh, nhưng chắc cô ấy đoán ra được ai gửi!... Phải đấy, bài này sẽ là bài đầu tiên!”
Ông đọc từ quyển vở:
Em như núi rừng
Đẹp thay mùa xuân mới!
Tóc em - cánh rừng sâu
Mắt em - dòng suối mát
Lời em - họa mi ca
Môi em - nhành hoa thắm
Em là cả thế gian.
Em là rừng là núi,
là mây là trời xanh.
Anh muốn em hãy là
tiếng vọng của ngàn thu.
Anh muốn em hãy là
khát vọng của nhà thơ.
“Cậu này viết được! Trong bài thơ có không khí trên núi ở quê mình, nhưng mình chắc chắn là cậu ấy chưa bao giờ thấy cảnh vùng núi! ‘Cánh rừng sâu - dòng suối mát’, hay tuyệt! ‘Em là cả thế gian’ - hơi quá nhiều! Mình biết rồi, mình sẽ gạch chân câu ‘khát vọng của nhà thơ’,... có nghĩa là chỉ cho một người thôi, tức là chỉ cho mình thôi. Mình biết là các cô gái thường hay bị thơ ca (và nhà thơ) làm rối đầu óc!... Và tuần sau mình sẽ gửi cho cô ấy một bài nữa, có lẽ sẽ ký tên, nhưng cũng còn để xem sao đã! Đây rồi, bài này sẽ là bài thứ hai!” Và ông luật sư đọc tiếp:
Da bánh mật và mái tóc đen
Em đến với tôi trong mơ
Mắt cháy lửa và tiếng sơn ca
Em biến đêm thành ngày nắng
Ôi mặt trời đen của anh!
Phải chăng đêm dày anh có em
Sáng như nắng trưa nóng bỏng?
Ôi vầng trăng đen của anh!
Phải chăng em cùng anh ngày nắng
Như người yêu chung thủy dịu hiền?
“Cậu này biết viết đây, hi hi! Hẳn cậu làm các cô gái phải mê mẩn tâm thần! Chắc bài này cậu ấy viết cho một cô gái Do Thái nào đó, chứ Josefinka đâu có đen như mặt trời đen, hay mặt trăng đen!... Nhưng mà không sao, Josefinka chắc chắn sẽ không để ý đến điều đó, chủ yếu là cô ấy sẽ nghĩ được coi là mặt trời và mặt trăng, và được ca ngợi. Bài thơ này sẽ mang đến cho cô ấy niềm vui và nhiều nghị lực! Toàn những lửa và nồng nhiệt nóng bỏng!... Nếu gửi bài này mà cô ấy vẫn còn chưa đổ thì gửi thêm bài thứ ba nữa, rồi cuối cùng thì chỉ còn cách là tấn công mãnh liệt mà thôi!”
Ông ấy lật thêm mấy trang nữa và đọc:
Đạn trúng tim anh có sao đâu!
Anh chết ngay rồi có sao đâu!
Chính vì trong con tim đau ấy
Anh thấy cả em cũng chết rồi.
Đau đớn vô bờ có sao đâu!
Đường đi tăm tối có sao đâu!
Mà không xa rời tim anh được,
Suốt đời mình em phải theo anh.
“Bài này có cái gì mê mẩn quyến rũ nhưng cũng có cái gì đe dọa cảnh báo! Cô gái sẽ không cưỡng lại được, khi mà người yêu cô dọa sẽ dùng súng tự tử. Gì thì gì, mình cũng gửi cho Josefinka cả bài này nữa! Nó sẽ làm cô ấy vững vàng hơn, kiên trì hơn trong tình yêu. Nhưng mà thôi, bây giờ mình thấy buồn ngủ rồi hay sao ấy... mình phải lên giường thôi... đến giờ đi ngủ rồi!”
Nói đoạn, ông luật sư ngáp dài và bắt đầu cởi quần áo.
“Cái tuyệt vời nhất là: em không thể rời khỏi trái tim anh, em sẽ phải đi cùng anh”, ông vừa cởi quần áo vừa lẩm bẩm hai câu thơ và cẩn thận xếp quần áo lên chiếc ghế ở gần giường. “Tức là cậu ấy muốn nói là đã giam cô gái trong trái tim mình, và nếu bắn vào tim mình thì cũng nhằm trúng luôn cả cô ấy, hà hà, tất nhiên là bắn trúng rồi, khi mà cô ấy đã ở trong đó!”
“Ra khỏi trái tim - hôm nay trời nóng, không cần đi tất”, ông lại lầm bầm và cởi giày. Rồi lật chăn, tắt đèn và nằm xuống giường.
Ông nằm thở khoan khoái.
“Ôi chao!... Ra khỏi anh... từ tim anh... em không thể... em phải... theo anh...”, rồi ông ngủ thiếp đi.
Dưới sân, con Azor lại rền rĩ. Rồi có tiếng móng chân nó cào cào vào cửa phòng bà Žanýnka. Như thể không chịu nổi cái đau đớn vì mất bà chủ, nhưng lại sợ đánh thức mọi người, nó cứ ư ử rên như vậy suốt cả đêm.
V. NGƯỜI CHƯA VỢ LÀ NGƯỜI QUÝ GIÁ
Luật sư Josef Loukota đang ở trọ trong căn hộ của ông Lakmus, một công chức làm việc ở Sở Kinh tế. Gia đình ông Lakmus mới dọn về Praha sống được ba năm nay. Họ thuê một căn hộ trước đây có người khác ở, cùng với ông luật sư là người ở trọ. Người ấy đã chuyển đi nơi khác nhưng ông luật sư vẫn ở lại trong căn hộ đó. Thế là vợ chồng ông “thừa hưởng” ông luật sư và để cho ông tiếp tục ở trọ. Chỉ một thời gian ngắn sau khi gia đình ông Lakmus đến ở căn hộ ấy trong ngôi nhà yên tĩnh của chúng tôi, tất cả mọi người ở các căn hộ khác đều đã biết vợ chồng ông ấy có tiền của dành dụm được, là cả hai vẫn nhận được nhiều quà cáp và nhiều vật dụng từ công sở; và tất cả đều rất kính trọng họ. Tuy vậy, không ai có quan hệ nhiều với họ. Bà Lakmusová là chủ gia đình và là người khó gần. Tất nhiên, khi ai yêu cầu gì thì bà ấy làm ngay; bà ấy sẵn lòng trả trước tiền nhà khi chủ nhà đòi hỏi; khi có ai chẳng may thiếu thức nấu thì bà sẵn lòng cho vay bột mì, hay bơ; khi ai chào thì bà chào lại, thậm chí tự chào trước, nhưng không bao giờ bà nói chuyện lâu với ai. Mặt khác, bà cũng chẳng phải là người yên lặng nhẹ nhàng gì, vì có lúc, qua cửa sổ mở, tiếng nói sang sảng của bà vang khắp cả nhà.
Bà Lakmusová tuy đã ngoài bốn mươi, nhưng còn đầy sức sống. Mặc dù có vóc dáng đẫy đà nhưng bà nhanh nhẹn, đôi má mịn không một nếp nhăn, cặp mắt sáng vui vẻ; nói tóm lại bà có vẻ của một người đàn bà còn rất nghị lực và hăng hái, cho dù cô Klára, con gái bà cũng đã đến tuổi lấy chồng từ lâu rồi. Cô Klára đã hơn hai mươi tuổi và không giống mẹ chút nào. Cô gầy và cao lênh khênh, chẳng hề có cái gì tròn trĩnh; nhưng cô ấy có đôi mắt xanh sáng, hợp với bộ tóc màu nâu vàng, khuôn mặt chữ nhật của cô hồng hào với vẻ khỏe mạnh của cô thôn nữ. Tính nết Klára còn khó gần hơn cả mẹ cô; vì vậy mà cô Matylda, con gái ông bà chủ nhà, cũng đã thôi không tìm cách làm bạn với cô ấy nữa.
Mọi người hàng xóm thường chỉ trông thấy ông Lakmus bên cửa sổ chứ ít khi gặp ông ấy ở nơi nào khác. Ông bị đau chân nên đã nghỉ việc để chữa chạy ở nhà. Hàng mấy tháng trời mới thấy ông khập khiễng ra khỏi nhà một lần, còn thì ông chỉ ở trong nhà. Ông thường đứng ở cửa sổ để nhìn ra đường, hoặc là ngồi ở sofa để thuốc thang cho cái chân đau. Bao giờ ông cũng mặc cái áo vải flanen, quần áo ông lúc nào cũng như âm ẩm. Người ta kể rằng ông uống nhiều rượu vang; khuôn mặt đầy mụn nhọt của ông chứng tỏ điều đó.
Lúc đó là gần trưa, ngày thứ hai của chuyện chúng ta đang kể. Ông Lakmus nặng nề đứng lên từ cái ghế gần cửa sổ trông ra đường. Ông đã ngồi ở đó cả buổi sáng, bây giờ ông chậm chạp chuyển sang ghế sofa. Ông ngồi xuống đó, duỗi chân trên ghế rồi sốt ruột nhìn lên đồng hồ trên tường và thở dài. Đó là cái đồng hồ to có mặt kính. Giống như tất cả đồ đạc trong nhà, tuy nó không mới, nhưng thuộc loại khá đắt tiền. Cứ theo kim đồng hồ thì lúc ấy đã là 12 giờ kém mấy phút rồi.
Ánh mắt ông Lakmus chuyển từ cái đồng hồ sang cô Klára đang bận ngồi khâu ở bên cửa sổ thứ hai. “Hôm nay hai mẹ con không cho bố ăn xúp hay sao?” Ông cười buồn buồn, như chỉ muốn nhắc, chứ không giận dữ gì.
Cô Klára ngẩng đầu lên, vừa lúc đó cửa phòng mở ra, bà Lakmusová bước vào, hai tay bưng đĩa có đặt bát xúp đang bốc hơi nghi ngút. Mặt ông Lakmus rạng rỡ hẳn lên.
“Klára ơi, con ra bếp chuẩn bị làm bánh nướng đi!” Bà Lakmusová sai con gái. “Làm cho cẩn thận, kẻo luật sư cười cho đấy nhé!”
Klára ra khỏi phòng.
“Hôm nay tôi nấu xúp vang, chứ ăn xúp thịt bò mãi cũng chán, phải không ông?” Bà Lakmusová dịu dàng nói và đặt bát xúp trước mặt chồng. Ông ngước mắt nhìn vợ một cách ngạc nhiên, như thể cái sự tiết kiệm này là đáng ngờ vực đối với ông. Nhưng rõ ràng là bao giờ ông cũng sẵn sàng chịu đựng, vì không thấy ông tỏ ra ngờ vực gì nữa, mà bắt đầu ăn ngay.
Bà Lakmusová kéo một chiếc ghế đến gần nơi ông chồng đang ngồi; bà ngồi xuống, đặt tay lên bàn rồi nhìn ông.
“Bố nó ạ, mình làm sao với con Klára đây?”
“Với Klára ư?... Thì làm cái gì với nó?”
“Nó đang say mê đến điên cuồng, nhưng mà viển vông. Nó quá mê luật sư Loukota đấy!”
“Nào nó có nói gì với tôi đâu!”
“Thì nói gì với ông được, nhưng mà cái gì nó cũng tâm sự với tôi, vì nó thực thà. Đêm hôm qua tôi phải vào bếp kéo nó ra đấy! Nó bảo là nghe thấy luật sư nói cái gì rất hay ở trong phòng, thành ra nó không rời đi được. Tôi đã bảo bố nó là nó đang say mê đến điên cuồng, nhưng say hão mê huyền để mà làm gì? Tốt nhất là cho nó lấy anh ta đi, phải không nào?”
Ông Lakmus lấy tay quệt mồ hôi trên trán do ăn xúp nóng. Một lúc sau, ông buông lời nhận xét:
“Với nó thì anh ta già rồi.”
“Già cái gì mà già! Hồi xưa ông cũng không còn trẻ, thế mà tôi đã lấy ông thì sao?”
Ông chồng im bặt.
“Anh ấy trông còn trai tráng khỏe mạnh, chẳng có vẻ già, mà cũng đâu đến nỗi già. Thà rằng gả nó cho anh ấy, còn hơn là ngồi chờ một người trẻ tuổi nào khác, nhất là khi bây giờ tính nết nó rất khó chịu. Hơn nữa, bố nó biết không, anh ấy có hàng mấy nghìn zlatý, có thể nuôi được vợ, thì tại sao mà ta không gả con cho anh ấy, phải không nào? Ơ hay, bố nó nói cái gì đi chứ!”
“Nhưng mà... ai mà biết được, liệu anh ta có muốn nó không...” Ông Lakmus dè dặt nói.
“Ừ thì tất nhiên rồi, không ép anh ấy lấy nó được, nếu anh ấy không muốn,” bà vợ hơi cáu. “Ép thì không hay! Nhưng tôi sẽ nói chuyện với anh ấy. Klára xinh xắn, anh ấy luôn cười với nó, anh ấy rất thích nhà cửa gọn gàng, còn nó thì dọn dẹp phòng cho anh ấy. Tôi nghĩ anh ấy cũng muốn nó, nhưng chỉ không tự tin thôi, vì anh ấy cũng không còn... ờ, không còn trẻ trung nữa. Tất nhiên là thế! Nhưng không sao ông ạ, tôi sẽ lo việc này!” Bà gật gật đầu hài lòng. Đột nhiên, bà ngừng lại rồi nghiêng đầu về phía cửa.
“Này,” bà ấy lại nói, “anh ấy đã đi làm về rồi, sao hôm nay lại về sớm thế nhỉ! Anh ấy đã nói chuyện ở trong bếp với Klára, nhưng bây giờ về phòng mình rồi. Tôi phải ra bếp đây, để xem thế nào!”
Bà Lakmusová chạy ra bếp. Cô Klára đang đứng trộn bột bánh ở bên bàn. Bà đến gần con gái, ôm đầu cô rồi xoay mặt cô về phía mình.
“Mặt con đỏ rực,” bà nhẹ nhàng nói, “run cả người đây này... con ơi, con ơi! Đừng lo, đừng lo, mọi việc rồi đâu sẽ vào đấy cả con ạ!”
Bà Lakmusová soi vào tấm gương nhỏ treo trên tường, chỉnh lại cái mũ trên đầu, xắn tay áo lên và tiến đến cửa phòng ông luật sư. Bà gõ cửa. Không có tiếng gì từ bên trong. Bà gõ lần nữa, mạnh hơn.
Ngày hôm nay, ông luật sư không ngồi lâu được ở văn phòng. Ông luôn đãng trí, cáu kỉnh, bồn chồn không yên, cái bồn chồn nửa dễ chịu, nửa ngượng ngùng. Ông run rẩy vì một cảm xúc thơ mộng nào đó, và ai đã một lần trong đời có cảm xúc như vậy thì biết rằng không thể làm việc theo lệ thường được. Một ý nghĩ nào đó như con sâu bướm len lỏi từ chỗ này sang chỗ kia trong đầu óc ta, nó cù nhẹ nhàng nhưng cũng gặm nhấm, làm rung động một dây thần kinh, hai dây, ba dây, rồi làm cho cả hệ thống thần kinh của ta bị khuấy động. Không có cách nào khác là phải bỏ công việc, để chỉ tập trung vào ý nghĩ ấy cho đến lúc nó nằm yên một chỗ, và như con sâu bướm, nó sẽ nhả tơ kéo kén. Rồi dưới ánh nắng ấm áp của mặt trời, cái kén ấy bung ra, và con bướm bay ra chào đời... ấy là sự ra đời của bài thơ vậy!
Con bướm đẹp lộng lẫy trong màu sắc “vùng núi” của ông luật sư bay ra ngay vào buổi sáng hôm sau. Ông viết nó lên tờ giấy hồng, cho vào phong bì, dán lại và ra gửi ở bưu điện thành phố. Sau đó, ông cảm thấy hồi hộp; cái náo động ngày một tăng của việc tỏ tình muộn màng ấy khiến ông phải đi khỏi văn phòng.
Ông chậm chạp đi về nhà. Khi đi vào đến sân, ông quên cả thói quen hàng ngày là nhìn lên cửa sổ phòng Josefinka. Bước thấp bước cao, ông vào phòng bếp của gia đình ông Lakmus và có cảm giác lâng lâng như vừa thoát khỏi một mối nguy hiểm nào đó.
Ông thở dài nhẹ nhõm, tim ông đập thong thả hơn. Bằng giọng nhẹ nhàng run run và thân thiện, ông nói vài lời với Klára như chưa từng bao giờ nói với cô như vậy. Ông không dừng lại lâu ở bếp mà vào phòng mình ngay.
Ông đóng cửa lại, cúi đầu xuống. Như cái máy, ông rút tay khỏi ống tay bên phải của áo khoác, rồi dừng lại. Có cái gì đó tự nhiên đẩy ông đi đến bên cửa sổ. Ông không biết Josefinka đã nhận được bức thư ông gửi lúc ban sáng hay chưa. Như thể sợ một sự trừng phạt nào đó, ông lùi lại ba bước và nhìn sang phía đối diện bên kia qua kẽ hở giữa tấm rèm và khung cửa sổ. Bất chợt, ông giật mình, ông trông thấy người đưa thư vừa bước vào hành lang phía bên ấy.
Ông nhảy giật lùi khỏi cửa sổ. Vừa lúc ấy thì có tiếng gõ cửa. “Mời vào,” khó khăn lắm, ông mới nói ra lời, toàn thân ông nóng bừng.
Cửa mở ra, bà Lakmusová đứng ở đó.
Ông luật sư vội xỏ tay vào ống tay áo đã cởi, đồng thời hé một nụ cười gượng gạo lúng túng.
“Tôi không làm phiền luật sư chứ?” Bà Lakmusová bước vào phòng, đóng cửa lại rồi hỏi.
“Ấy, không... không ạ. Xin chào bà, thưa bà chủ yêu quý của tôi,” ông luật sư vừa lắp bắp, vừa xoay xoay người để tóm lấy cái ống tay áo.
“Hôm nay luật sư đi làm về nhà sớm quá, sớm hơn thường lệ... hay là bị ốm chăng?”
“Sao mà ốm ạ, thưa bà chủ yêu quý của tôi?” Trong tâm trạng vẫn còn đang bối rối, ông luật sư ngốc nghếch hỏi.
“Nhưng mà tôi nghĩ là ốm...”, bà chủ yêu quý tiếp tục, bà tiến đến sát ông luật sư, đặt tay lên trán ông, “để tôi xem nào! Tôi nghĩ chắc chắn anh bị sao rồi. Trán anh nóng như lửa đây này, để tôi...”
“Không đâu, tại tôi... tại tôi chạy đấy mà, bao giờ tôi cũng chạy... tôi không... thưa bà chủ quý mến của tôi...”, ông luật sư lắp bắp nói.
“Để tôi lấy cái khăn chườm trán nhé?”
“Ối không! Không, tôi không bị sao cả, thật mà! Xin mời bà ngồi xuống đây kẻo mỏi, thưa bà chủ yêu quý của tôi...” Ông luật sư mời và đưa bà Lakmusová đến ghế bành. Bà ấy ngồi xuống, tự ông cũng ngồi xuống ghế đối diện.
“Anh gọi tôi là, bà chủ yêu quý của tôi, cứ như tôi thật sự là người yêu... quý của anh vậy,” bà chủ hộ cười tán tỉnh, nếu vào lúc khác thì ông luật sư chắc phải rất ngạc nhiên. “Ấy, giá mà không có nhà tôi rồi thì... nhà tôi là người rất tốt bụng… thì biết đâu đấy nhỉ! Nhưng mà tôi phải nhường anh cho người khác, cho người trẻ hơn tôi,” bà ấy lại đùa tiếp.
Ông luật sư hơi mỉm cười, nhưng im lặng vì không biết nói gì.
“Luật sư ạ, anh có nghĩ là khi người nào có ai để gọi ‘người yêu của tôi’ thì đó là điều rất hạnh phúc không?”
“À, vâng... tất nhiên rồi... khi mà hai trái tim đã quyện vào nhau... nhất là vào mùa xuân...” Ông luật sư cố gắng hết sức mình.
“Ái chà... ái chà! Hôm nay anh nói mới hay, mới hóm hỉnh làm sao! Vâng, nếu anh định tìm người yêu thì đó là điều dễ hiểu thôi! Anh đang ở cái tuổi đẹp nhất, sức khỏe cường tráng, lại kiếm ra tiền...”
Ông luật sư lúng túng. Ông cho rằng bà Lakmusová đã biết hết chuyện về tình yêu bí mật của ông với cô Josefinka, về bài thơ ông gửi cho cô ấy. Thế là ông đột ngột mạnh dạn quyết định. “Vâng ạ, về bản thân thì tôi có thể nói rằng tôi khỏe mạnh và kiếm ra tiền,” ông hãnh diện tuyên bố.
“Tất nhiên rồi,” bà Lakmusová khen ngợi. “Anh có thể tìm được người rất trẻ!”
“Vâng, tôi sẽ không lấy người có tuổi, vì người có tuổi đã quá từng trải, không thể uốn nắn khác đi được, vì đã bị người khác uốn nắn rồi,” ông luật sư nói, nhưng bắt đầu thận trọng hơn. “Tôi chỉ nghĩ đến ai còn trẻ, hiền lành, ngoan ngoãn, dịu dàng, vì người ấy còn có thể hoàn toàn thay đổi tính nết để phù hợp với tôi được.”
“Lẽ tất nhiên,” bà Lakmusová tán thành, “anh hãy tìm người như thế! Này, anh hãy nói đi, nói thực lòng, anh có hiểu tôi nói gì không? Hãy nói hoàn toàn thực lòng... thực như khi... thí dụ... như khi anh nói với người mẹ của cô gái mà anh thích...”, rồi bà cầm tay ông luật sư, nhìn thẳng vào mắt ông: “Anh hãy nói đi, anh đã nghĩ đến điều đó bao giờ chưa?”
“Chuyện đã vỡ lở là đã vỡ lở rồi, xấu hổ mà làm gì!” Ông luật sư thành thực tự thú. “Vâng, đã!”
“Đấy mà, tôi biết ngay mà! Thế mà ông nhà tôi lại bảo là...” bà Lakmusová mừng rỡ vỗ tay.
“Sao... sao cơ ạ? Ông Lakmus... bảo sao ạ?”
“Bảo là, Ai biết được, liệu anh ta có muốn nó không, đấy, anh tính, nhà tôi bảo thế đấy!”
“Sao mà tôi lại không muốn cô ấy ạ?”
“Ừ, sao lại không chứ! Tôi đã biết tất cả rồi! Anh ranh mãnh lắm, anh định giấu bà mẹ, để bà mẹ không biết gì chứ gì?”
“Giấu bà mẹ ư? Tôi nghĩ là không một ai biết chuyện ấy, cả cô con gái cũng không biết!”
“Cô con gái không biết, nhưng bà mẹ thì cái gì cũng biết anh ạ! Con bé đang rất khổ sở! Nó mê muội cả người; ban ngày chỉ nói về anh, ban đêm thì nói mê. Tôi cũng đã từng ở thời con gái, nhưng anh ạ, chưa bao giờ tôi thấy ai như nó!”
Ông luật sư há miệng ngạc nhiên. Mắt ông đầy vẻ không hiểu biết và lúng túng, nhưng nở nụ cười tự mãn.
“Nhưng thế là tốt lắm,” bà Lakmusová lại nói. “Lúc đầu tôi đã không muốn cho ai ở trọ, nhưng bây giờ thì tôi mừng lắm, Klára sẽ hạnh phúc.”
“Cô Klára... sao... sao cơ?” Đột nhiên, ông luật sư kinh hoàng, rồi đứng lên.
“Thì tôi đã bảo với anh là nó đang mê anh đến điên cuồng mà! Nhưng anh ạ, phải sớm tổ chức đám cưới vì anh ở cùng với chúng tôi, kẻo mọi người lại điều qua tiếng lại, vả lại cũng còn chờ đợi cái gì nữa! Chúng tôi biết anh, anh biết chúng tôi... anh biết là chúng tôi được trời phù hộ, tất cả chúng ta đều sẽ sung sướng.”
“Khoan! Khoan đã, thưa bà,” ông luật sư lắp bắp và bước từng bước dài trong phòng, “nhưng tôi biết là cô Klára đã có một người công chức ở đâu rồi cơ mà!”
“Đã có, nhưng bây giờ không có nữa. Hắn lấy vợ rồi, lấy bà vợ góa của ông thợ xay bột. Nhưng anh nghĩ là Klára tiếc hắn ta ư? Nhờ trời, bây giờ nó yêu anh rồi, như thể trời cho nó làm người khác rồi! Tuy tôi đã bảo nó là đừng có nghĩ đến chuyện đó, vì luật sư sẽ chẳng muốn cô gái đã từng có người yêu, thế nhưng nó cứ khăng khăng một mực! Nói cho cùng thì đã có một người yêu cũng như không có người yêu nào!”
Ông luật sư hoàn toàn không biết phải xử sự ra sao, nhưng bà Lakmusová tiếp tục nói:
“Chúng ta sẽ không trì hoãn việc đó, phải không anh? Chắc chắn anh có đủ giấy tờ, phải không? Một người cẩn thận chu đáo như anh mà!”
Ông luật sư lắc đầu. Bà Lakmusová hiểu cái lắc đầu ấy theo ý mình: “Vậy thì anh hãy chuẩn bị đầy đủ tất cả các giấy tờ đi, chắc chắn anh biết là phải làm thế nào... Hôm nay, anh ra ăn trưa cùng với chúng tôi nhé!”
“Không! Không!” Ông luật sư nói to. “Thưa... chỉ ăn ở trong này thôi!”
“Ấy, anh vẫn như một cậu thanh niên vậy,” bà mẹ vợ tương lai hài lòng cười. “Klára chắc sẽ không ăn nổi một miếng, nếu tôi bảo chuyện này cho nó biết!”
“Trời ơi, tôi xin bà, bà đừng nói gì cả, đừng nói gì hết!” Ông luật sư vội vàng ngăn.
Bà Lakmusová thấy buồn cười. “Giá mà không có những người hiểu biết như tôi,” bà nói, “thì tôi muốn biết anh chị làm thế nào mà đến được với nhau. Anh hãy sắp xếp giấy tờ đi, luật sư ạ. Anh có còn muốn gì nữa không?”
“Không!”
“Vậy thì xin chào anh nhé!”
“Chào bà!”
Ông luật sư đứng như trời trồng ở giữa phòng rất lâu.
Cuối cùng, ông thở một hơi dài, lắc đầu. “Sự thể ra thế này thì có khổ tôi không!” Ông làu bàu bực tức. “Vâng, tôi sẽ chuẩn bị giấy tờ, bà mẹ vợ mà tôi không mong đợi ạ, nhưng tôi sẽ không chuẩn bị cho con gái bà đâu! Mình phải làm gấp, chứ không còn cách nào khác! Ngày mai mình sẽ gửi bài thơ thứ hai, ngày kia gửi bài thứ ba và ngày kìa - không, ngày kìa là thứ sáu, ai biết được sẽ có gì xảy ra! Vậy thì buổi chiều ngày kia, mình sẽ đi hỏi cô ấy! Rồi nhanh chóng đi tìm chỗ ở khác, nếu không thì, trời ơi, nếu không thì sẽ phải ở đây mãi mãi,... rồi thì...”
Ông chưa dứt lời thì cửa lại mở ra, bà Lakmusová bước vào phòng, trên tay bưng một cái khay, đi cùng bà là cô giúp việc.
“Tôi lấy bộ thìa dĩa bạc ra cho anh dùng đây,” bà Lakmusová nói rồi đặt nó lên bàn, “cất giữ mãi để làm gì!” Bà đến gần luật sư, đặt tay lên vai ông và nói nhỏ: “Tôi đã bảo cho Klára biết rồi đấy!”
VI. KHI CÔNG SỞ KHÔNG HÀI LÒNG
Ông Eber, ông chủ của ngôi nhà chúng tôi đang ở, vừa đi công sở về. Bà chủ nhà, lúc đó đang cho củi vào lò ở trong bếp, giật mình khi trông thấy chồng. Mọi khi, ông về nhà quãng ba giờ chiều, nhưng hôm nay mới hơn mười hai giờ ông đã ở đây rồi, mà vẻ mặt ông trông rất lạ, đã lâu rồi bà không thấy ông như vậy.
Trước tiên là cái mũ trên đầu ông. Nó được kéo xuống đến tận cặp lông mày rậm và cứng, che cả khuôn mặt đã một thời béo tốt, nay chỉ còn lại những nếp nhăn hằn sâu. Mái tóc chải ngang bị mũ làm dẹp thẳng xuống, đôi mắt lờ đờ của ông như cố tỏ ra một điều gì, cái miệng rộng mím chặt lại, làm cho cái cằm như được nâng lên cao hơn, bộ ngực lép được ưỡn thẳng một chút. Tay phải ông cầm ngang một tờ giấy cuộn tròn, tay trái vung vẩy lung tung như tay con rối bị điều khiển sai.
Bà chủ nhà nhìn chồng, bất chợt bà liên tưởng đến điều gì bất hạnh, khuôn mặt sắc cạnh của bà kéo dài ra.
“Ông bị đuổi việc hay sao?” Bà hỏi và tự nhiên khàn cả giọng.
Ông chồng hơi lắc đầu, như thể câu hỏi đáng ghét ấy xúc phạm đến ông. “Đi gọi bà Bavorová đến đây cho tôi!” Ông nói bằng giọng trầm trầm.
Vào khi khác thì chắc bà chủ nhà không chịu được câu trả lời quanh co như thế của chồng, nhưng hôm nay, bộ mặt nghiêm nghị đặc biệt của ông tác động cả đến bà, và bà không có đủ thời gian để tỏ ra giận dữ. Bà nhìn qua cửa sổ, trông thấy bà Bavorová đang đi xuống sân “Bà ấy đang đi đến đây,” bà bảo chồng.
Ông Eber vào phòng. Ông đi đến tận cái bàn ở giữa phòng và đứng lại đó. Ông nhìn xuống bàn, nhưng chắc là chỉ vì bắt buộc phải nhìn vào chỗ nào mà thôi. Ông vẫn để cái mũ trên đầu, trong tay vẫn nắm cuộn giấy, chắc muốn tỏ ra rằng ông đã không thể và không muốn để xảy ra cái điều ông sắp phải nói.
Cô Matylda ngạc nhiên nhìn bố, rồi phá ra cười. “Bố ơi, làm gì mà căng thẳng ghê gớm thế ạ?”
Ông bố hơi cựa quậy và tỏ ra vô cùng bực bội.
Vừa lúc đó, cửa mở ra, bà chủ nhà bước vào phòng, theo sau là bà Bavorová.
“Đây, bà ấy đây... ông muốn bảo gì thì bảo đi!” Bà giục chồng.
Ông chủ nhà nghiêng người quay về phía bà Bavorová. Ông nhìn xuống sàn nhà rồi mở miệng nói bằng một giọng nghiêm trang đều đều: “Tôi rất lấy làm tiếc, bà Bavorová ạ, nhưng tôi không thể giúp được gì cả, vì cái này bây giờ không còn phụ thuộc vào tôi nữa! Con trai bà sẽ gặp nguy! Vâng, sẽ gặp nguy! Cậu ấy liều lĩnh, bất cẩn, cậu ấy... cậu ấy là đủ thứ! Cậu ấy dám cả gan viết những điều nhục nhã đáng hổ thẹn về công sở, về tất cả chúng tôi, cả về ông giám đốc nữa! Vâng, cậu ấy đã viết những điều đó ở văn phòng, rồi cho vào ngăn kéo. Đi nghỉ phép mà cứ để giấy tờ ở đó, cũng không rút chìa khóa, thế là người ta phát hiện ra, vậy thì bà bảo có sơ ý, có vô tâm không? Rồi người ta đem ra đọc, cậu ấy lại viết bằng tiếng Séc và viết những điều rất tệ. Ông giám đốc biết tôi giỏi tiếng Séc nhất nên giao cho tôi xem xét cái chuyện tày trời này. Nghe bảo trong đó, cậu ấy viết những điều rất khủng khiếp. Tôi không biết, tôi không biết... Tình huống xấu nhất có thể xảy ra! Bà là mẹ cậu ấy, nghĩa vụ của tôi là báo cho bà biết, bà phải chuẩn bị tinh thần cho mọi tình huống! Mẹ nó mang cái chậu vào phòng cho tôi, mang cả nước uống nữa, đừng cho ai vào phòng, trừ trường hợp có người của công sở, đừng gọi tôi ra ăn trưa, bao giờ muốn ăn thì tôi ra. Còn bà, xin chào bà!”
Mặt bà Bavorová trắng bệch như tờ giấy, môi bà run run, đôi mắt đỏ ngầu ngầu. “Trời đất ơi, thưa ông, xin ông giúp cho, nhà chúng tôi nghèo khó...” Bà kêu lên thảm thiết.
Ông chủ nhà phẩy tay chối từ. “Tôi không thể, cũng không được phép! Muộn rồi, thế là hết cả rồi! Nghĩa vụ là nghĩa vụ, phải cho công bằng! Còn ra cái thể thống gì, nếu mà các cậu thanh niên... Nhưng thôi, bà về đi, bây giờ tôi không có thời gian!”
Ông ấy bước mấy bước ngắn rồi biến vào căn phòng thứ hai, đóng cửa lại, nghiêng ngó kiểm tra bên phải bên trái, rồi sau đó mới bỏ mũ. Ông đi đến bàn viết, cẩn thận đặt cái mũ lên đó như là sợ mũ bị bẹp.
Mọi khi, về đến nhà là ông thay quần áo, nhưng hôm nay ông đứng trước gương để sửa lại quần áo cho chỉnh tề hơn. Sau đó, ông kiểm tra bút viết, phẩy bụi ở tấm lót, kéo ghế mấy lần cho đúng tư thế, rồi ngồi xuống bàn. Cuối cùng, ông với cuộn giấy và mở ra, ông nhướn mày lên thật cao, đưa mắt quan sát cẩn thận từng nếp giấy gấp.
VII. NHỮNG DÒNG GHI CHÉP CỦA THỰC TẬP SINH
Tôi làm xong việc rồi, bây giờ thì không biết làm gì nữa! Nộp bài thì tôi chưa được phép, phải để đến ngày mai. Vẫn còn nhớ lần đầu tiên tôi được giao việc, khi tôi làm xong, mọi người đã mắng tôi là làm xong sớm thế thì việc ấy không thể tốt được và dứt khoát nó nông cạn hời hợt.
Vậy thì tôi sẽ viết tiểu phẩm về công sở, về bức tranh của cuộc sống thường nhật, về hình ảnh và tiểu sử của các đồng nghiệp và những người cấp trên, về những tia chớp lóe sáng của cuộc đời công chức và chuyện thơ ca của thực tập sinh. Một nhà trào phúng người Anh đã viết du ký về chuyến đi vòng quanh cái bàn viết của mình; tôi sẽ đi xa hơn, sẽ đi đến tất cả các bàn ở xung quanh, sẽ đi khắp nơi trên vương quốc của ông giám đốc của chúng ta, sẽ miêu tả đất nước và người dân sống ở đó. Chỉ không biết người dân của vương quốc ấy có tạo điều kiện cho sự trào phúng nảy sinh hay không. Mà tại sao lại không nhỉ! Trào phúng chỉ không thích hợp với người hoàn toàn hiểu biết và người hoàn toàn ngu ngốc. Đối với loại người thứ nhất, trào phúng sẽ phải bật khóc; đối với loại người thứ hai, trào phúng sẽ phải từ bỏ quan điểm của mình và sẽ bực bội do phải chứng minh rằng, so với sự vĩnh cửu và cả vũ trụ thì tất cả những gì chúng ta làm đều khôi hài và lố bịch.
Đối với anh chàng viên chức yểu điệu kia thì tôi sẽ không phải lôi triết học ra để làm gì, mà chỉ cần một chiếc gương nhỏ. Anh ta sẽ luôn luôn ngắm mình trong gương. Anh ta có thiện cảm với tôi, bởi lẽ hôm đầu tiên đến công sở, tôi đã hỏi mọi người về anh ta, “người đẹp trai kia là ai” và anh ta đã nghe thấy. Còn những người khác - họ viết và làm việc mới chăm chỉ làm sao! Những cái đầu, những gương mặt, những cặp mắt của họ không thể gán cho ai khác được, chúng chỉ hợp với viên chức công sở, cái gì cũng phải rập khuôn theo qui định! Trên những khuôn mặt ấy, không hề thấy biểu hiện sự mệt mỏi về “lao động trí óc”, chưa một lần nào có biểu hiện tư duy vượt trên tầm công việc thường ngày của công sở. Xem ra, họ thờ ơ. Nếu các công việc được giải quyết tốt hay không tốt, thì cũng chẳng hề gì. Họ cứ làm việc theo trình tự thủ tục, và bao giờ cũng giữ đúng mức độ! Nhưng mà biết đâu, có thể trong số họ cũng có người suy nghĩ khác.
Chỉ có ông trưởng phòng của chúng tôi là đang cho phép mình nghỉ ngơi, ông ấy ngồi đọc báo. Bây giờ ông ấy đặt tờ báo xuống.
Ông trưởng phòng ngạc nhiên nhìn tôi, khi tôi đến xin ông cho tôi mượn báo để đọc! Ông ấy không nói một lời nào, còn tôi thì ngượng chín người, đỏ cả mắt, và quay về ngồi vào bàn của mình. Tuy không nhìn thấy, nhưng tôi cảm thấy là tất cả mọi người trong phòng đều há miệng kinh ngạc trước cái mạo muội táo bạo của kẻ thực tập sinh như tôi!
Giá mà tôi được trở lại trường, để tôi lại được hi vọng mơ tưởng đến tất cả mọi thứ trên đời, hoặc chẳng mơ tưởng đến một cái gì! Ở cái công sở này, tôi có ít cơ hội, tôi không biết mình sẽ vươn lên được đến đâu!
Ngay hôm đầu tiên đến công sở, tôi được giao nhiệm vụ viết về cảm xúc khi nhìn thấy đầu tàu hỏa. Ấy là người ta muốn kiểm tra phong cách viết văn của tôi. Tưởng tượng đang đứng trước tàu hỏa mang tên Pegas, tôi mạnh dạn mô tả những tiến bộ của loài người. Nghe nói ông giám đốc của chúng tôi đã đọc bài ấy và đã lắc đầu quầy quậy, rồi tuyên bố rằng tôi là kẻ kì cục dở hơi.
Tôi vẫn còn chưa kịp trò chuyện với ai, vậy mà tôi đã nghe thấy họ gán cho tôi cái tên “Hội viên hội hòa thuận cách mạng”. Công việc của tôi xem ra không trôi chảy chút nào! Ôi, giá mà tôi lại được trở về trường học! Nhưng mà tôi biết rằng đó là điều không thể!
Ôi, cái không khí ở đây! Theo thần thoại Hy Lạp thì thần Prometheus lấy đất nặn ra con người, và nghe nói đất ấy thơm mùi da thịt con người. Nhưng mọi người ở công sở này thì lại phảng phất mùi đất, và chẳng có mỡ màng gì.
Họ là những con người kinh khủng! Có lẽ họ chỉ ngang tầm trí tuệ của tôi ở thời tôi còn là đứa trẻ nhỏ chuyên hành hạ chim sáo và kéo chân những con chuột Đức. Hồi đó, tôi đọc truyện Robinson phiêu lưu ký viết bằng tiếng Đức; tôi đã nghĩ rằng từ “hòn đảo” trong tiếng Đức có nghĩa giống như từ “mỡ bò”, ấy thế mà tôi cũng thích truyện đó. Những người ở đây cũng có quan niệm rõ ràng tương tự như vậy về thế giới, và họ thích thế giới ấy. Ở công sở này, tư duy là độc quyền của nhà nước, giống như muối và thuốc lá vậy. Và muốn làm gì thì làm, kẻ ngốc vẫn hoàn là kẻ ngốc.
Hôm kia, tôi bảo họ là cái xe ngựa dùng trong buổi lễ của ngài Tổng giám mục được thiết kế theo mẫu xe của Đức Thánh Elias. Ngày hôm qua, tôi lại bảo họ rằng các bà đầm ở Pari thường lấy lông khỉ Brazil làm đồ trang sức. Ngày mai, tôi sẽ cắt một nhúm lông ở đuôi con Azor, và sẽ mang đến để bảo họ rằng đó là tóc của nữ thần Isis trong thần thoại Ai Cập, rằng nữ thần đã rứt nhúm tóc ấy của mình khi nghe tin chồng bà, thần Osiris, bị giết hại.
Họ cho tôi là người rất có học thức và rất thích nói chuyện với tôi. Nhưng họ không dám chuyện trò cười đùa gì trước mặt ông trưởng phòng, trừ lúc ông ấy nói một câu đùa. Khi đó, lập tức cả phòng làm việc vang lên tiếng cười nịnh phụ họa. Nhưng khi ông ấy ra khỏi phòng, thì mọi người liền trở nên khác hẳn. Họ nhốn nháo đi từ chỗ này sang chỗ nọ, mặt họ rạng rỡ, lưng họ không khom khom nịnh bợ thấp hèn nữa, mà thẳng lên. Điều đó trở thành thói quen hàng ngày, họ sốt ruột kín đáo xem đồng hồ, nếu hôm nào ông ấy không ra khỏi phòng theo giờ thường lệ.
Lời đồn đại về sự hiểu biết của tôi cứ tiếp tục lan truyền. Khi thấy tôi đọc được tài liệu tiếng Serbia viết bằng chữ Kirin thì họ hoàn toàn kinh ngạc khâm phục. Chỉ có ông trưởng phòng của phòng thứ năm lại vỗ vai tôi khi đi qua bàn tôi ngồi: “Cái gì cũng có thể có ngày ta cần đến, nhưng anh hãy thực tế nhé!” Ông trưởng phòng này nổi tiếng vì tài biết viết. Nghe nói ông ấy đã viết được một cuốn sách, tôi nghĩ đó là cuốn sách nói về băng quấn chân, tức là sách hướng dẫn cách quấn chân bằng băng vải.
Trong đời mình, chưa bao giờ tôi chứng kiến một việc nào như vậy!
Ông giám đốc đến chỗ của chúng tôi để lấy một tài liệu. Ông ấy trèo lên bậc thang để lấy tập tài liệu từ giá sách. Khi xuống thang, ông giẫm phải chân ông Hlavačka. Và cái ông này, vì quá kính trọng nên không dám nói để giám đốc biết là giám đốc đang giẫm lên chân ông ta. Thật là đồ con bò! Tôi có cảm giác ông ta giống như tu sĩ Laocoon trong thần thoại Hy Lạp; trên gương mặt ông ta có biểu hiện của đau đớn cùng cực, nhưng đồng thời có cả nụ cười xã giao bắt buộc của kẻ viên chức tầm thường. Ông giám đốc thấy có người đứng sát sau lưng mình, vừa định quay lại mắng con người vô lễ thì ông nhận ra rằng ông đang giẫm lên bàn chân của con người thấp hèn kia. “Ấy, xin lỗi nhé!”, ông giám đốc nói và nở nụ cười thân thiện. Ông Hlavačka tập tễnh trở về bàn của mình, vừa nhăn nhó vì đau, vừa cố mỉm cười. Quả là biểu hiện của cái xã giao đến cao thượng và cảm động! Tất cả những người khác chắc hẳn phải ghen với ông ta; biết đâu có ngày sự kiện này mang lại cái gì ích lợi cho ông ấy!
Ông giám đốc hỏi tôi có chị hay em gái không. Bây giờ tôi mới hiểu người tập sự chưa vợ. Thưa ông giám đốc, ông hỏi vậy mà không sợ ư? Vì tôi biết là ông đi thỏa mãn tình cảm ở đâu, người tập sự điển trai nhất đã nói cho tôi biết về chuyện ấy! Nghe bảo cô tình nhân của ông rất xinh đẹp; nhưng có thể là đối với tôi, cô ấy còn xinh đẹp hơn nữa, bởi tôi trẻ hơn ông nhiều. Chúng tôi sẽ phải gặp cô ấy! Nếu không ưng tôi, thì có thể cô ấy ưng người tập sự điển trai. Dứt khoát có cái gì đó sẽ xảy ra!
Ông giám đốc cho triệu tập tất cả chúng tôi đến văn phòng của ông. Phụ trách các phòng đứng thành nửa vòng tròn, sau các ông là đám đông các viên chức chúng tôi. Các ông phụ trách thầm thì nói chuyện với nhau, còn chúng tôi ở phía sau thì đứng yên không nhúc nhích, sau khi đã kính cẩn cúi chào cái lưng của ông giám đốc.
Ông giám đốc vẫn ngồi viết và một hồi lâu chẳng hề để ý đến chúng tôi. Đứng cạnh tôi là một thực tập sinh như tôi, trông cậu ta có vẻ hiền từ và ngoan ngoãn. Tôi ghé vào tai hắn và nói một câu hài hước, tôi không nhớ là câu gì, nhưng chắc chắn là không đủ hài hước, vì không thấy hắn cười. Tôi bực mình nhắc lại, đồng thời đưa tay cù hắn. Thế là hắn cười ré lên; mọi người giật thót mình, rồi có tiếng suỵt từ mọi phía.
Ông giám đốc đứng dậy. Ông ấy đứng thẳng lên và nói:
“Tôi cho gọi các anh đến đây để nói cho các anh biết rằng phong cách viết tài liệu của các anh làm nhục cho công sở của chúng ta ở tất cả các cơ quan cấp trên. Trong các anh, có người viết chậm chạp khó khăn, có kẻ viết cẩu thả né tránh, nhưng một bài viết đúng đắn và có chất lượng, với độ dài vừa phải, thì đã bao nhiêu năm nay rồi tôi không được đọc, nói đúng ra là chưa bao giờ được đọc. Cái đó bắt nguồn từ chỗ là các anh vẫn viết, nhưng chẳng hề suy nghĩ, hoặc là chỉ suy nghĩ một lúc rồi chán ngay, chẳng nghiêm trang, chẳng thành thật gì cả. Hơn nữa, cái đó còn làm hé lộ ra một điều là các anh cũng không biết tiếng Đức. Và tôi nói để các anh rõ vì sao các anh không biết. Các anh không biết, bởi vì các anh chỉ tào lao ba hoa suốt ngày với nhau bằng tiếng Séc! Vì vậy, trên cương vị giám đốc, tôi sẽ đảm bảo để không một ai trong các anh dám nói, dù chỉ một lời tiếng Séc, ở công sở. Từ cương vị bạn bè và người cấp trên, tôi khuyên các anh hãy làm như thế cả khi không ở công sở, hãy chăm chỉ đọc để đạt được tiến bộ trong cách viết. Bây giờ thì các anh về chỗ làm việc của mình đi! Và hãy nhớ rằng không một ai được thăng tiến nếu không biết cách viết!”
Cả công sở bắt đầu săn lùng tìm kiếm, mọi người hỏi nhau mượn sách báo, mượn món ăn tinh thần từ nhà bếp Đức. Ai tìm thấy ở nhà một số cũ nào của tạp chí Bohemia viết bằng tiếng Đức thì coi đó là cái gì đáng giá lắm.
Các cuộc chuyện trò bằng tiếng Séc ngừng hẳn. Hãn hữu, khi hai người bạn thân nào đó biết chắc chắn bạn mình không đi tố giác, thì mới nói với nhau một vài lời tiếng Séc ở ngoài hành lang, hay ở nơi trữ tài liệu vắng vẻ. Tôi có cảm giác tất cả mọi người đều là những kẻ mật thám.
Nhưng tôi vẫn cứ tiếp tục nói tiếng Séc, và nói to. Tất cả mọi người đều thấy sợ và lảng tránh tôi.
Màn thứ nhất của vở kịch công sở ngày hôm nay đã hết. Ông trưởng phòng ra khỏi phòng, giống như Người bệnh tưởng trong hài kịch Molier “Le malade imaginaire” đi khỏi sân khấu khi màn một kết thúc.
Cuộc chuyện trò giải trí giữa giờ bắt đầu.
Câu chuyện ở bàn phía tay phải tôi:
“Hôm nay là thứ sáu, tôi đang nóng lòng chờ món bánh hấp. Vợ tôi làm khéo lắm, bánh rất mềm.”
“Nhà anh không ăn thịt vào ngày thứ sáu à?”
“Có. Bao giờ cũng mua nửa cân cho cả nhà. Không nấu thịt thì nấu gì! Chúng tôi chỉ kiêng thịt vào những ngày ăn chay lớn thôi, nhưng mà ăn cá. Thỉnh thoảng ăn cá cũng tốt!”
“Tôi thích bánh mì hấp với thịt hun khói, cả thịt rán cũng ngon lắm! Cho bọn trẻ... à, nhà ông không có trẻ con nên không biết, cho bọn trẻ thì phải có tí bột mì. Năm ngoái, bà chị dâu gửi cho một mớ ốc sên, nhà tôi đã băm và nướng chả.”
“Ăn thịt vịt trời vào ngày ăn chay thì tôi hiểu, vì chúng sống ở dưới nước; nhưng mà ốc sên thì chúng bò ở ngoài vườn chứ!”
“Ấy, tôi cũng nghe nói là trước đây, ốc sên chỉ sống dưới nước. Nó bò nhìn cũng như bơi vậy, mà nó cũng câm lặng như cá, thế đấy! Nhưng mà kể cũng lạ, con cá không ăn thịt, chắc nó biết nó là thức ăn chay!”
Câu chuyện ở bàn phía tay trái tôi:
“Ngài giám đốc nói đúng đấy! Bọn chúng quả là một lũ hâm hâm! Toàn nói chuyện ngu ngốc! Chúng ta cần tiếng Đức, chấm hết! Nếu không thì chúng ta sẽ viết như thế nào được! Và ai muốn cho con cái học một chút tiếng Pháp nữa thì càng tốt!”
“Vâng, tiếng Pháp cũng tốt!”
“Con gái tôi bất kỳ giá nào cũng không nói tiếng Séc ở ngoài đường. Có lúc tôi quên, lỡ miệng nói bằng tiếng Séc với nó, nhưng mới chỉ nói một lời thôi là nó đã đỏ mặt lên, rồi bảo tôi, “Bố chẳng giữ ý tứ gì cả!” ”
“Vâng, vâng, thế đấy!”
“Có lần tôi đọc ở báo một tin là người ta muốn nghĩ ra một thứ tiếng nói chung cho tất cả mọi người. Rõ là chuyện ngốc nghếch!”
“Ông trời chắc không thể cho phép họ làm như vậy!”
“Mọi người hãy học tiếng Đức đi là êm chuyện!”
“Quả thế!”
Ở gần cửa có tiếng “suỵt!” Mọi bàn lại trở lại trật tự như trước.
Ông trưởng phòng bước vào, áo gi-lê mở phanh không cài cúc.
“Tôi nghĩ là tôi đang béo đến phát phì,” ông trưởng phòng nói, “tôi sẽ phải đi bác sĩ, hay là đi thăm bà nội!”
Tất cả đồng thanh cười nịnh bợ.
Nơi nào nghèo nàn về tinh thần như thế, chỗ ấy ắt phải nghèo nàn cả về vật chất. Mà đúng như vậy! Tôi đã rất ngạc nhiên thấy họ sống một cuộc sống bề ngoài hời hợt giả tạo, còn bề trong thì điêu đứng bất hạnh.
Có lẽ đến hai phần ba trong số họ có sổ ghi trừ nợ dần ở chỗ người Do Thái. Đến ngày đầu tháng, ông ta trừ nợ, chi phát lại cho họ một chút tiền lương như tiền bố thí. Bà hàng bánh mì thường đến cửa hàng nhà tôi, bà ấy nói là ngày đầu tháng họ còn trả được tiền bánh, nhưng đến ngày mùng hai thì đã lại phải mua nợ rồi. Tôi chưa bao giờ nghe thấy chuyện người nào mời ai đến nhà chơi; chắc hẳn họ xấu hổ vì nhà cửa của mình.
Nhưng nói cho cùng thì chẳng có việc gì mà ta lại không hiểu được!
Hôm nay, tôi nhận được thư của ông giám đốc, ông ấy yêu cầu tôi cắt ngắn mái tóc dài đi. Thế ư ông? Họa có là điên thì tôi mới cắt!
Tôi có đồng minh. Người tập sự điển trai nhất đã nghe lời khuyên của tôi và bắt đầu ký tên là Hoa Thủy Tiên. Một tài liệu ký tên như vậy tới tay ông giám đốc, ông ấy lập tức đến gặp anh ta. Ông bảo anh ta hãy thôi ngay tất cả những thứ ngu xuẩn như vậy, tốt hơn hết hãy chăm chỉ làm việc, bởi lẽ anh ta lười đến thối thây. Ối trời, Hoa Thủy Tiên mà thối ư?
Nhưng tôi biết tại sao ông giám đốc không ưa Hoa Thủy Tiên. Vì cái đoạn vỉa hè dưới một cửa sổ của nhà ai đó!
Tin tưởng rằng ông Eber không tiết lộ, tôi nghĩ ra cớ để được nghỉ phép. Tôi nói là bà tôi, người sẽ cho tôi hưởng di sản thừa kế, đang ốm sắp chết. Tuy cho phép tôi nghỉ, nhưng ông trưởng phòng còn nghiêm khắc nói rằng nhân viên tập sự đúng ra thì không được phép có bà.
VIII. ĐÁM TANG
Buổi trưa ngày thứ tư, cả nhà chuẩn bị cho đám tang bà Žanýnka. Quan tài bà được kê trên chiếc giá phủ vải đen, đặt dưới bóng râm ở ngoài sân. Đó là cỗ quan tài sơn màu đen bóng, tuy đơn giản nhưng khá đẹp, bốn góc bên dưới là bốn bàn chân gấu thiếp vàng. Trên nắp quan tài có cây chữ thập sơn cũng thiếp vàng đặt giữa vòng hương đào. Một dải lụa rộng màu trắng rủ xuống từ vòng hương đào. Dọc hai bên giá đặt quan tài có hai tấm bảng đen cao khoảng hơn nửa mét, chỉ để trang trí. Trên các tấm bảng ấy có gắn nhiều hình nổi màu bạc, biểu tượng của tổ chức những người làm dịch vụ tang lễ.
Trừ ông Lakmus đang đứng nhìn từ cửa sổ tầng trên và người chị gái ốm yếu của Josefinka đứng nhìn xuống qua tay vịn từ hành lang ở tầng hai, còn mọi người khác trong nhà này đều mặc quần áo ngày lễ và đã xuống tụ tập ở dưới sân. Trong số những người đứng ở đó, có cả một số người chúng ta chưa biết. Không cần phải suy đoán nhiều, chỉ nhìn gương mặt lạnh lùng căng thẳng của những người ấy, ta có thể nhận thấy đó là bà con họ hàng của bà Žanýnka. Rồi các bà láng giềng và đám trẻ con của họ, tất cả đứng trong sân và ở các bậc thang.
Linh mục đã đến, cùng đi với cha là những người giúp lễ và người coi nhà thờ. Lễ tụng kinh bắt đầu. Bà Bavorová và bà chủ quán đứng sát ngay cửa phòng của bà Žanýnka. Lời mở đầu tang lễ làm bà Bavorová xúc động, mắt bà đẫm lệ, cằm bà chợt đỏ lên rồi run run vì thực sự cảm động. Bà chủ quán lạnh lùng theo dõi, rồi quay sang nói với bà Bavorová, bất chấp bà ấy đang rơi nước mắt.
“Họ vội kéo nhau đến đây, giống như người Do Thái chạy đến đám bán đấu giá vậy! Ngày bà Žanýnka còn sống chả thấy ai đến chăm nom, bây giờ thì vội vàng đến để hưởng thừa kế! Thôi, trời phù hộ cho họ, chứ chúng ta nào ăn cắp cái gì mà họ phải đóng kín cửa, rồi đặt quan tài ở ngoài sân thế này! Họ có cho bà chút gì để đền ơn bà đã giúp đỡ không? Chắc là không, hả?”
“Không.” Bà Bavorová run rẩy nói thầm.
“Và họ sẽ chẳng cho bà cái gì đâu!”
“Tôi cũng chẳng yêu cầu gì. Cầu trời phù hộ cho bà ấy. Tôi đã giúp bà ấy bằng tình nghĩa của người công giáo thôi.”
Lễ cầu nguyện kết thúc, quan tài được vẩy nước thánh. Một người phục vụ mang hai tấm bảng đen đi. Những người phục vụ khác nhấc quan tài lên, rồi khênh qua ngõ để ra đường.
Đằng sau xe tang có một số xe ngựa. Họ hàng của bà Žanýnka lên những chiếc xe đầu; vợ chồng ông bà chủ nhà cùng cô Matylda, rồi cô Josefinka cùng với mẹ cô lên những chiếc xe tiếp theo. Bà Lakmusová và cô Klára lên chiếc xe cuối cùng. Bà Lakmusová gọi ông luật sư lên xe ngồi với họ và nói rằng trong xe vẫn còn một chỗ. Nói đoạn, bà nhìn quanh xem ai còn đang tìm chỗ ngồi. Còn ba người đứng cạnh nhau dưới đường, đó là bà chủ quán, bà Bavorová cùng Václav.
“Bà chủ quán ơi, bà Bavorová ơi,” bà Lakmusová gọi, “mời một bà lên xe ngồi với chúng tôi!”
Cả hai bà đều đi đến xe. Bà chủ quán liếc mắt nhìn bà Bavorová như thể muốn đâm chém bà ấy. Cả hai đồng thời tiến sát xe, cùng nhấc chân lên bậc xe.
Bà chủ quán cho đó là điều thái quá. Bà đặt tay vào cái nắm cửa xe, rồi tỏ ra ngạc nhiên bực tức: “Này, tôi là thị dân, tôi phải được ngồi xe chứ!” Bà xẵng giọng và bước lên xe.
Bà Bavorová sững người lại, bối rối. Václav để ý điều đó và nghe thấy hết, cậu tới bên mẹ.
“Mẹ ơi,” cậu cố nói bằng giọng chững chạc, “ta sẽ đi bộ sau linh cữu, chắc là cũng chẳng có ai nữa đi sau linh cữu đâu! Đến cổng thành nếu muốn đi ra tận nghĩa trang thì ta thuê xe kéo, mẹ ạ!”
Từ ngày hôm qua, sau khi nghe ông chủ nhà báo tin dữ, bà Bavorová không nói với con trai một lời nào. Bây giờ bà cũng không muốn nói, nhưng chỉ giằng co với mình trong giây lát, bà trả lời:
“Ừ, ta đi bộ chứ! Mẹ ngồi xe thấy khó chịu, còn xe kéo thì cũng không thuê. Nếu con muốn ra đến nghĩa trang thì ta sẽ tìm lối đi bộ ra đó. Mẹ đi bộ để tiễn bà Žanýnka. Khi bà ấy còn sống, mẹ đã giúp bà ấy nhiều, sau khi bà ấy chết mẹ cũng chăm lo. Vậy thì sao mà không đi bộ được mấy bước bằng tình nghĩa công giáo để đưa tiễn bà ấy!”
“Thế thì mẹ khoác vào tay con đi!” Václav nhẹ nhàng nói và đưa vòng tay cho mẹ.
“Thôi, mẹ không muốn dẫn dắt kiểu cách nhà giàu như thế - mẹ cũng không biết làm thế!”
“Nhưng đây có phải là kiểu cách nhà giàu gì đâu! Con chỉ đỡ mẹ thôi mà, đường đi thì xa, mà mẹ thì mệt mỏi vì xúc động... mẹ khoác vào tay con đi!” Václav nâng cánh tay mẹ khoác vào tay mình.
Chiếc xe tang chuyển bánh. Đằng sau xe, chỉ có Václav đi bộ cùng với mẹ mình. Cậu bước hãnh diện như đi bên bà quận chúa cao quý. Bà Bavorová thấy thoải mái đến mức không tả được bằng lời. Bà có cảm giác như tự bà lo liệu tất cả việc ma chay cho bà Žanýnka tội nghiệp.
IX. THÊM MỘT BẰNG CHỨNG NỮA
Giờ chuyện trò buổi tối sắp đến. Ánh sáng ban ngày tuy vẫn còn, nhưng cũng đã nhanh chóng mờ dần, mặt trời đang chuẩn bị đi ngủ. Mọi người hầu như không làm gì nữa. Lúc đó chính là khoảng khắc khi mà công việc thì đã ngừng, nhưng hứng thú chuyện trò và vui chơi buổi tối thì vẫn chưa đến.
Ông luật sư đang ngồi bên bàn viết của mình. Trên gương mặt ông hiện rõ vẻ đăm chiêu suy nghĩ. Ông đang nghĩ về một việc hệ trọng nào đó, chắc hẳn ông cũng muốn làm một việc gì hệ trọng. Ông di chuyển lọ mực từ chỗ này sang chỗ khác, sắp xếp và xem đi xem lại những cái bút lông. Bây giờ ông mở ngăn kéo bàn, lôi ra một nửa thếp giấy mỏng. Ông lấy một tờ, đưa ra trước mặt một lúc, rồi quả quyết nói một tiếng “phải” thật to. Sau đó, ông gấp đôi tờ giấy theo chiều dọc, đúng theo kiểu hành chính.
Rõ ràng, đó là một việc quan trọng và đòi hỏi nhiều công sức, vì ngay sau đó ông luật sư đứng lên, rồi đi đi lại lại trong phòng như thể đi dạo. Nhưng ông ấy đi rất lạ, cứ như đang lảo đảo chập chững, có lúc bước hai bước lên phía trước rồi lùi lại sau một bước, đồng thời lúc thì cúi gập đầu xuống ngực, lúc thì cố gắng bạo dạn ngẩng lên.
“Phải,” ông ấy thở dài rồi nói. “Khi mà phải thế và đã phải thế, thì hãy giải quyết mọi việc làm sao cho nhanh nhất! Mình đang ở trong gọng kìm, cần phải quyết định thật nhanh. Mụ Lakmusová chắc không thả ra cho mình đi, Klára cũng không. Cô ấy là người hiền lành... nhưng mà mình đã quyết định rồi! Mình không thể ở đây được nữa, mọi thứ phải được giải quyết trong vòng vài ngày tới. Ngày mai, chính mình sẽ mang bài thơ thứ ba đến cho Josefinka. Mình sẽ bắt đầu nói chuyện, rồi đưa bài thơ cho cô ấy đọc, mình sẽ theo dõi từng cử chỉ rung động của cô ấy, rồi sau đó thì giải quyết ngay cho xong việc. Giấy tờ hành chính thì mình sẽ viết ngày hôm nay, ngay bây giờ, khi mình còn đang có hứng...”
Ông luật sư khép cái áo khoác mặc trong nhà, quấn dây lưng, như là muốn chống lạnh. Ông cả quyết ngồi vào bàn, chấm mực, viết thử, rồi bắt đầu viết. Ông viết dòng chữ sau:
“Kính thưa tòa thị chính thủ đô Praha!
Tôi, người ký tên dưới đây, xin kính báo là quyết định đính hôn với cô...”
Ông ấy xem rồi lắc đầu. “Nhìn không rõ nhưng không phải là tại kính mờ... trời bắt đầu tối, mình sẽ đóng cửa sổ lại rồi thắp đèn!”
Vừa lúc đó, ông nghe thấy tiếng gõ nhẹ ngoài cửa. Ông vội lấy một tờ giấy che dòng chữ đã viết. Sau đó, ông nói nhỏ: “Mời vào!”
Giữa cánh cửa hé mở là Václav.
“Cháu chào chú, cháu có làm phiền chú không ạ?” Václav vào phòng rồi đóng cửa lại.
“Không,... cậu vào đây”, ông luật sư lúng túng lẩm bẩm, giọng tự nhiên khàn đi, “tôi đang định làm một việc... nhưng không sao, cậu ngồi đây! Có gì thế?” Ông luật sư hỏi vậy do thói quen, chứ không để ý gì đến cuộn giấy Václav đang cầm trong tay. Vì lúng túng nên ông cũng chẳng nhìn kĩ cậu ta.
Václav ngồi xuống ghế. “Cháu mang một chút món ăn tinh thần cho những lúc rung động bối rối, nếu chú muốn đọc để được yên tĩnh. Đây là một sáng tác văn xuôi đơn giản, nhưng nó không nghèo về tinh thần và có thể an ủi như một sáng tác không cầu kỳ. Nó hết sức đơn giản nhưng là sáng tác đầu tay thực thụ của riêng cháu. Cháu ghét việc dùng các hình thức, kể cả các phương pháp sáng tác tiểu thuyết bình thường. Cháu muốn biết chú sẽ nói gì về thử nghiệm đầu tiên này của cháu...” Václav nói, rồi đặt cuộn giấy lên bàn. Mọi cử động của cậu đều mang cái tươi tắn của tuổi trẻ.
“Cậu luôn luôn chỉ vui chơi thôi… ừ, vì cậu còn trẻ mà!” Ông luật sư cười. “Thế nào, có khỏe không?”
“Cháu đang có vấn đề chú ạ, và cháu nghĩ là sẽ còn gay hơn nữa!... Người ta chắc sẽ đuổi cháu khỏi công sở... Họ tìm ra được một số tài liệu cháu viết, trong đó cháu châm biếm ông giám đốc. Ông chủ nhà đang giải quyết việc đuổi cháu.”
“Trời đất, sao cậu không thận trọng gì cả!” Ông luật sư chập tay vào nhau. “Thế bây giờ cậu định làm sao?”
“Thì cháu định làm sao! Chả định làm sao cả!... Cháu sẽ trở thành nhà văn!”
“Ấy... ấy... ấy!”
“Cháu nghĩ sớm muộn thế nào thì cháu cũng phải làm như thế, không làm khác được, cháu nghĩ là cháu đã trưởng thành!... Hay là chú cho rằng cháu không có đủ tài năng?”
“Làm nhà văn lớn thì phải có tài năng lớn, còn làm nhà văn nhỏ thì không giúp ích được gì cho dân tộc. Nhà văn nhỏ chỉ là bằng chứng về cái không hoàn thiện về tinh thần của chúng ta thôi, họ làm dân chúng mềm yếu đi về tư tưởng, và khi cảm thấy cần làm một cái gì mạnh hơn thì họ lại nghĩ đến việc bỏ đi nước ngoài. Chỉ người nào hoàn toàn có khả năng tư duy thực thụ và mới mẻ thì mới có quyền được đến với văn học. Chúng ta có quá nhiều những kẻ sáng tác hời hợt, vô hồn rồi!”
“Vâng, chú nói đúng. Chính vì chú có con mắt nhìn già dặn như vậy nên cháu vô cùng tin tưởng ở chú. Cháu đồng ý... và cháu theo đó mà nói về mình. Chúng ta hãy đừng nói những từ “lớn” và “nhỏ”; cháu sẽ nói một cách bạo dạn, có thể là hơi táo bạo rằng cháu biết tầm cỡ của mục đích, rằng ai là người mặc dù hiểu rõ nơi này mà vẫn mạnh dạn, thì người đó có cái quyền chính đáng của mình và ít nhất cũng làm được một điều gì đó. Cháu sẽ không trở thành người lấp các khoảng trống trong văn học, cháu sẽ không sáng tác theo khuôn mẫu. Quan điểm văn học của châu Âu sẽ là quan điểm của cháu. Cháu sẽ viết một cách hiện đại, tức là viết trung thực, sẽ lấy nhân vật từ cuộc sống, sẽ miêu tả cuộc sống một cách chân thực, sẽ thẳng thắn nói lên điều cháu nghĩ và cảm thấy. Chẳng lẽ làm như vậy mà cháu lại không trở thành nổi tiếng được hay sao?”
“Hừm... cậu có tiền không?”
“Chú hỏi cháu có tiền trong người bây giờ ư?... Cháu chỉ có hai đồng tiền vàng thôi, cháu không thể cho chú vay…”
“Không! Không! Tôi muốn hỏi cậu có vốn không kia!”
“Nhưng mà chú biết là...”
“Vậy tức là cậu không có, và thế thì cậu không thể nổi tiếng được! Vâng, nếu cậu có cái vốn lớn đủ nuôi cậu sống, ngoài ra cậu vẫn còn tiền để chi cho việc xuất bản những tác phẩm thật tốt của cậu, thì mười năm sau, cậu sẽ giành được sự công nhận, các sáng tác của cậu có thể sẽ được xuất bản cả bằng những chi phí khác, chứ không phải chỉ bằng chi phí riêng của cậu. Nhưng ngay cả như thế cậu cũng vẫn chưa đi được đến đâu. Tác phẩm độc lập đầu tiên cậu sẽ in bằng tiền đi vay, cậu sẽ không bán được, rồi cậu sẽ chẳng đi được tới việc in tác phẩm thứ hai. Người ta sẽ tấn công cậu, thứ nhất là bởi sự độc lập của cậu, cái đó là điều những gia đình nhỏ và các dân tộc nhỏ không thể chấp nhận được; thứ hai là vì sự trung thực của cậu, bởi khi viết về sự thật, cậu đã động chạm đến một thế giới nhỏ mọn và những con người nhỏ mọn. Những miệng lưỡi cay độc sẽ bảo là cậu không có tài năng, hoặc nói thẳng ra rằng cậu là thằng ngu; những người tốt bụng hơn sẽ bảo cậu là người điên. Quảng cáo sẽ không nói về cậu...”
“Nhưng quảng cáo thì để làm gì cơ chứ?”
“Quảng cáo là cái ta cần ngay từ đầu, nhân dân của chúng ta tin vào cái được in ra, họ không quan tâm đến việc nó đúng hay sai. Nếu cậu không cần quảng cáo thì quảng cáo sẽ cố tình bỏ qua cậu để làm việc cho người khác. Những người này sẽ tiến tới, sẽ lớn lên, chỉ có cậu là dừng lại. Cậu sẽ cay cú bực tức, có thể cậu sẽ nổi khùng rồi làm những điều ngu xuẩn của nhà văn, có thể cậu sẽ chán ghét chuyện viết lách. Bên cạnh đó, vấn đề sinh tồn vẫn là vấn đề cấp bách đối với cậu. Thế là không còn cách nào khác, cậu sẽ phải tìm đến thứ văn học không có hồn, thứ văn học không có tư duy và sẽ phải viết như một cái máy. Điều đó lại dẫn đến cái chán nản trong viết lách. Cậu sẽ hạn chế và chỉ viết những cái cần thiết nhất, cậu sẽ chán ngán và trở nên lười biếng, thế là xong đời cậu, không thể làm lại từ đầu được nữa!”
“Ồ, chắc chắn là sẽ không hoàn toàn như vậy! Cháu tự hứa là sẽ đạt được kết quả ngay từ bước đầu tiên. Thưa chú, chú đã đọc hết tập thơ mà cháu đã đưa cho chú chưa ạ?”
“Đọc rồi.”
“Sao ạ? Thế chú bảo sao ạ?”
“Ờ, đọc được... có một số bài hay... nhưng mà cậu bảo thơ ca để làm gì đối với chúng ta! Giá cậu đốt nó đi thì lẽ tốt hơn!”
Václav đứng bật dậy; ông luật sư cũng vô tình đứng dậy và chống tay lên bàn. Một thoáng im lặng. Václav đi đến cửa sổ và gục trán vào cửa kính, rồi cậu buồn bã cất giọng:
“Thế chủ nhật này, chú đi dự đám cưới chứ?”
“Dự đám cưới ư? Đám cưới nào?”
“Thì Josefinka đã bảo cháu rằng chú sẽ là người làm chứng kia mà! Còn cháu sẽ làm phù rể.”
“Vậy ai đi lấy vợ đấy?”
“Thế chú không biết là chủ nhật này Josefinka sẽ lấy anh Bavorák lái xe lửa à?”
Ông luật sư chợt thấy tối sầm trước mắt, thấy chóng mặt, ông nặng nề đổ người xuống chiếc ghế bành.
Václav vội cúi xuống ông luật sư đang nằm.
“Chú làm sao vậy? Chú bị sao vậy?”
Không có tiếng trả lời, chỉ có tiếng rên to khò khè trong cổ họng, khiến Václav thấy cần phải làm gì cứu giúp. Cậu bước nhanh đến cửa và gọi ra ngoài: “Bác Lakmusová ơi! Chị Klára ơi! Mang nước với đèn vào đây, nhanh lên! Chú ấy bị cảm hay sao ấy!” Rồi quay trở lại chỗ ông luật sư nằm, nới khăn quàng cổ, mở áo choàng cho ông ấy.
Bà Lakmusová chạy đến, trong tay cầm cây nến, sau bà là cô Klára. “Nước... mang nước vào đây, nhanh lên!” Václav giục.
Lúc này, ông luật sư đã mở mắt và nghe thấy tiếng Václav. “Không… không... đừng mang nước!” Ông khó nhọc nói. “Tôi khỏe rồi! Tại hôm nay trời nóng đấy mà... vào mùa hè thỉnh thoảng tôi lại bị thế này!”
“Con đi đi!” Bà Lakmusová sai Klára, “mang ngay nước sủi bọt với một ít siro vào đây... nhanh lên con!”
Cô Klára chạy đi.
“Thôi, chắc ổn rồi,” Václav nói, “gớm lúc nãy cháu giật thót cả người! Mà ngày hôm nay đâu có nóng nhiều! Bây giờ thì tốt rồi, đã có người lo cho chú, cháu xin phép về đây ạ! Cháu chào chú! Cháu chào bác ạ!”
“Tạm biệt cậu,” ông luật sư gượng cười, “còn những gì tôi đã nói với cậu đều là những cái tốt!”
“Vâng, cháu tin là thế, và xin cám ơn chú! Cháu chào chú ạ!” Václav bỏ đi.
Cô Klára mang cái khay có viên thuốc và nước pha siro. Ông luật sư chống cự, nhưng rồi bắt buộc phải uống cốc nước.
“Cứ uống đi, chàng rể quý mến ạ,” bà Lakmusová ép. “Chúng tôi sẽ ở đây với anh một lúc. Ấy, tôi cũng đã định cùng với Klára bất ngờ đến thăm anh đấy! Anh với Klára cứ như trẻ con ấy, còn sợ sệt ngượng ngùng cái gì! Giá mà không có tôi thì anh chị chả đến với nhau được... Ấy chết, vì hoảng quá mà tôi đã không biết đặt cây nến vào đâu, thành ra đặt lên đám giấy!”
Bà Lakmusová nâng cây nến và đặt các tờ giấy sang một bên. Tờ trên cùng rơi xuống, bà ấy nhìn thấy dòng chữ viết ở dưới. Ông luật sư không thốt ra được lời nào, ông ấy lại bị choáng lần nữa.
Gương mặt bà Lakmusová rạng rỡ như mặt trời. “Ôi, thật là hay, thật là hay!”, bà nói. “Klára ơi, con xem này! Luật sư đã viết giấy xin phép lấy vợ! Con xem này! Anh ấy đã viết đến chỗ sẽ viết tên con! Nhưng anh hãy làm cho Klára vui đi, hãy viết tên Klára vào đây trước mặt nó đi!... Xin anh hãy cầm bút đi!” Ông luật sư ngồi như đóng đinh.
“Nào, đừng ngượng nghịu xấu hổ nữa mà!” Bà Lakmusová chấm mực và đặt bút vào tay ông luật sư. “Klára ơi, con lại đây mà xem này!”
Quyết định đột ngột như tia chớp đến với luật sư. Ông cầm lấy cái bút, kéo rầm chiếc ghế, ngồi xuống và viết thêm hai chữ “Lakmusová Klára”.
Bà Lakmusová sung sướng vỗ tay. “Thế bây giờ thì anh chị hôn nhau đi! Nào, có thể được hôn nhau rồi mà! Klára, đừng ngượng ngùng gì nữa, đồ ngu ạ!”
X. KHOẢNG KHẮC RUNG ĐỘNG
Vầng trăng sáng lung linh chiếu xuống đồi Petřín. Sườn đồi phủ kín rừng đẫm trong ánh trăng mờ ảo, mang lại cảm giác thơ mộng, như thể ta đang nhìn thấy rừng dưới nước biển trong vắt. Nhiều ánh mắt đang hướng về phía ấy, nhiều người đang trầm ngâm suy nghĩ, hay đang rung động cả tâm hồn.
Từ cửa sổ phòng trên tầng hai ở nhà phía sau, Josefinka đứng ngắm đồi Petřín đang rạng rỡ dưới ánh trăng; bên cạnh cô là người chồng sắp cưới. Ánh trăng sáng cho ta thấy vóc dáng tuấn tú của chàng trai trẻ; khuôn mặt tròn trịa có bộ râu màu nâu sáng, đôi mắt đầy sức sống. Josefinka im lặng mơ màng ngắm nhìn biển trăng mênh mông. Quàng tay phải lên vai cô, người chồng chưa cưới luôn đưa mắt nhìn cô, và mỗi lần như vậy, anh nhẹ nhàng kéo cô về phía mình, nhẹ nhàng đến mức như sợ làm bay mất phấn hoa của khoảng khắc đẹp đẽ.
Anh nghiêng người hôn nhẹ lên mái tóc cô. Josefinka quay mặt lại nhìn anh, nâng bàn tay anh lên áp vào môi mình. Rồi cô đưa tay kia chạm vào cây hương đào[8] um tùm lá trong chậu cây cảnh ở dưới bậu cửa sổ.
“Nếu còn sống thì bây giờ em gái anh bao nhiêu tuổi?” Cô hỏi bằng giọng trầm đi.
“Vừa bằng tuổi trăng tròn như em.”
“Mẹ anh chắc không biết đã làm em vui đến mức nào, khi mẹ gửi cho em cây hương đào vào dịp cưới của chúng mình, mà gửi từ nơi xa xôi vậy!”
“Mẹ biết chứ! Ở quê anh, ai cũng tin rằng cành hương đào lấy từ tay người chết, nếu được đem trồng và giữ được đến ngày cưới của ai trong gia đình, thì nó sẽ đảm bảo chắc chắn cho hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ. Từ khi anh lấy cành hương đào khỏi bàn tay em gái đã nằm trong quan tài, rồi cắm nó xuống đất, ngày nào mẹ anh cũng cầu nguyện, nước mắt bà đã tưới cho nó sống. Mẹ anh là người tốt bụng vô cùng.”
“Như anh vậy...”, cô thở nhẹ và áp sát người vào anh hơn.
Cả hai lại im lặng, họ nhìn ra không gian sáng sủa, như thể đang nhìn vào giấc mơ về tương lai của mình.
“Hôm nay anh ít nói hơn thường ngày,” cô thầm thì.
“Tình cảm thực sự thì không có lời, anh sung sướng, anh sung sướng đến mức có lẽ sẽ chẳng bao giờ tìm ra được lời diễn tả cái sung sướng hiện giờ của mình. Còn em, em không cảm thấy như vậy sao?”
“Em không biết em cảm thấy gì. Em có cảm giác là em khác những lúc khác, em cao siêu hơn. Nếu mà cái cảm giác ấy không thể tồn tại vĩnh viễn, thì em muốn chết đi ngay bây giờ để giữ lấy nó.”
“Và ông luật sư sẽ khóc bên mộ của thơ ca,” chú rể tương lai đùa. “Em thấy đấy,” anh nói thêm bằng giọng nghiêm trang “muốn gì thì gì, anh cũng nghĩ là ai yêu thật sự thì không thể viết ra được những bài thơ như thế. Tất nhiên, anh cũng không thể viết được như thế cả vào lúc khác... nhưng anh nghĩ là ông luật sư đã chơi trò đùa với em.”
“Không đâu, ông ấy là người tốt bụng.”
“Á, ông ấy có người bênh! Em nói gì thì nói, nhưng dẫu sao thì em cũng thích những bài thơ ấy!”
“Ờ…”
“À ra thế, tôi biết mà! Đàn bà các cô giống nhau hết. Các cô phải có và dứt khoát phải có chuyện riêng của mình, có cái món ngon riêng của mình. Tôi muốn biết vì sao mà cả tôi cũng gặp phải chuyện đó.”
“Ôi, anh Karel!” Josefinka kinh hoàng thốt lên và ngây người nhìn vào mắt người yêu, như thể không nhận ra anh.
“Thì đúng thế chứ còn gì nữa!” Chàng trai trẻ giận dữ nói tiếp. “Giá mà cô không cư xử hai mặt như vậy với ông ấy và cả với tôi, thì ông ta đã chẳng dám mạo muội như vậy.” Anh đẩy nhẹ Josefinka ra khỏi mình, rút cánh tay phải khỏi vai cô, để xuôi nó xuống theo người. Chỉ bàn tay trái anh còn nằm trong tay cô. Hai bàn tay nằm trong nhau, chết lặng.
Cả hai lặng lẽ nhìn ra khoảng không. Họ đứng im và nhìn vào chỗ vô hình như vậy rất lâu, cả hai gần như nín thở. Rồi tự nhiên, Karel cảm thấy giọt nước mắt nóng hổi của Josefinka ở tay mình. Anh bừng tỉnh, vòng tay ôm chặt cô gái đang thổn thức vào mình.
“Thứ lỗi cho anh... Josefinka... thứ lỗi cho anh!”
Cô gái nấc lên.
“Anh xin em, xin em đừng khóc! Em cứ giận anh đi, nhưng đừng khóc! Em nín đi... anh có lỗi, anh biết rằng em không biết lừa dối, rằng em yêu anh chân thành, cũng như anh yêu em!”
“Nhưng khi anh đẩy em ra khỏi anh thì chắc chắn lúc ấy anh không yêu em!”
“Lúc ấy... đúng là... anh không tốt! Chính anh cũng không tưởng tượng được là anh có thể ghen tuông ngu xuẩn như thế! Anh đã thật sự đột ngột chà đạp lên tình yêu! Anh đã quên rằng em là cô gái trẻ đẹp, anh thật điên rồ, vì anh biết là bất kỳ cô gái nào, nếu có được một thân hình khỏe mạnh, không bị xiêu vẹo, không bị quá xấu xí...”
Vừa lúc ấy, có tiếng sột soạt đằng sau cặp tình nhân, cả hai quay ngoắt lại phía sau.
Người chị gái ốm yếu của Josefinka trong suốt thời gian ấy vẫn ngồi đằng sau họ ở trong phòng. Cô ấy không hề động đậy khi cặp tình nhân nói chuyện với nhau, và họ đã hoàn toàn quên cô ấy. Khi nghe những lời sau cùng của Karel, cô ấy vụt đứng lên, nhưng chỉ bước được mấy bước, cô ấy ngồi sụp xuống chiếc ghế cạnh đó, tức tưởi khóc.
“Chị Katuška ơi... trời ơi, chị ơi!” Josefinka đau đớn kêu lên.
Đôi nhân tình run rẩy trong lòng, cả hai đứng bên người chị ốm đau đang khóc. Mắt họ đầm đìa, môi họ run run, nhưng không dám nói gì, dù chỉ một lời an ủi.
XI. SÁNG TÁC ĐẦU TAY
Sáng hôm sau, tỉnh giấc trong ánh bình minh tuyệt đẹp, ông luật sư thấy khó chịu trong người. Ông thấy chóng mặt, đầu đau như búa bổ, thần kinh căng thẳng làm ông run rẩy. Trong tưởng tượng của ông, có các bóng hình kỳ lạ đan lẫn vào với nhau; Josefinka, Bavorák, Klára, bà Lakmusová, Václav, tất cả đều lúc ẩn lúc hiện, chạy từ chỗ này sang chỗ khác, cùng với họ là các bóng người lạ mà ông hoàn toàn không biết, rồi cả bóng hình các con vật nữa.
Ý nghĩ rõ ràng đầu tiên đến với ông khi ông chợt nhớ ra rằng mình đã là chú rể. Ông thấy lạnh cả người và ngồi thẳng dậy, ánh mắt ông dừng lại ở chiếc bàn con bên cạnh giường. Trên bàn có mấy tờ giấy có viết gì đó, bây giờ thì ông hoàn toàn tỉnh táo, ông biết là tối hôm qua ông xúc động không ngủ được, rồi đã đọc những truyện giải trí mà Václav mang đến cho ông. Tôi sẽ không kể chi tiết về trạng thái bồn chồn xúc động của ông luật sư. Cứ theo tính tình của ông và những sự kiện đã xảy ra, chắc hẳn độc giả tinh ý đoán ra được trạng thái ấy. Mặc dù vậy, để giúp độc giả một chút, tôi phải kể ra đây cái gì ông luật sư đã đọc. Sau đó thì độc giả sẽ có đủ lý do để tưởng tượng ra được cả giấc mơ của ông.
Sau đây là những truyện ấy!
Về một số động vật nuôi trong nhà
Truyện kể bán chính thức theo thể điền viên của Václav Bavor
Trang thứ mười bảy trong nhật ký của ông Ondřej Dílec
“...mình sẽ trừ tiền công của lão thợ cả, trừ bằng mọi cách. Đúng thế, lớp vữa tường ấy có thể đáng giá bao nhiêu mà không trả cho thợ nề được năm zlatý. Giá mà biết trước thế thì mình đã chẳng thuê hắn ta làm gì, và mình cũng sẽ không thuê nữa. Mình biết là có thể rồi sẽ xong, nhưng mà tính ra thì cô ấy chả có gì ngoài cái quán ăn và đứa con, mà ở quán ấy cũng chẳng kiếm được mấy. Mình có thể làm cho quán khang trang hơn, nhưng gộp con trai cô ấy với con trai mình thì đã là hai đứa con, và ai mà biết được sẽ còn có thể có thêm mấy đứa nữa. Một khi lấy bà góa làm vợ thì ta phải nghĩ đến tương lai. Quả là nhà của mình khá rộng rãi, và không biết sau này mình sẽ còn làm gì nữa, nhưng bây giờ thì mình sẽ không làm gì cả, và cả đêm không ngủ được, mặc dù mình thấy chán cô ấy, đúng thế. Cô ấy muốn ép buộc mình bằng cách đưa cái anh chàng miệng còn hơi sữa ra, nhưng mà cũng chẳng ép được đâu. Đàn bà ở tuổi ấy đáng lẽ phải khôn ngoan hơn, chứ quan trọng gì cái việc hắn ta đã học xong, hắn sẽ làm gì. Bác sĩ ư? Giáo sư ư? Hay là phóng viên ư? Ta còn lạ gì những nghề ấy! Đáng tiếc là cô ấy có hợp đồng thuê nhà với thời hạn nửa năm hủy hợp đồng, không thì cô ấy đã phải chuyển nhà ngay lập tức rồi. Chắc chắn hắn sẽ không lấy cô ấy làm vợ, và cô ấy cũng biết thế, có điều còn muốn lằng nhằng một tí. Hãy chờ đấy, ta sẽ cho nhà ngươi biết tay, khi mà chủ nhà đã muốn thì nhất định phải được, và ta biết ta sẽ làm gì ngay ngày hôm nay. Rồi thì nhà ngươi tha hồ mà cục ta cục tác, để làm như không nhìn thấy ta và khỏi phải chào khi ta đi qua sân. Hôm nay...”
Thư của Jan Střepeníček, thực tập sinh ở tòa thị chính, gửi ông Josef Písčík, nhân viên xếp loại tài liệu của tòa thị chính.
“Kính thưa anh,
Xin anh thứ lỗi và cho phép tôi được hỏi một việc. Anh đã từng nói rằng bằng ảnh hưởng và kinh nghiệm của mình, anh sẽ giúp đỡ tôi trong công việc. Tôi xin anh thứ lỗi là không đến trực tiếp gặp anh để hỏi; anh cũng biết là các ông trưởng phòng không ưa việc thực tập sinh không ngồi ở bàn mình mà lại đi đến phòng khác!
Nhưng để khỏi dài dòng, bây giờ tôi xin phép được viết điều tôi muốn hỏi. Ông thư ký đã yêu cầu tôi chia tất cả các công văn giấy tờ nhận được ngày hôm nay theo từng loại cho các đơn vị có trách nhiệm giải quyết. Ông ấy coi việc đó như là việc thử khả năng tôi, nhưng vì không có kinh nghiệm nên tôi thật sự lúng túng với một tài liệu. Xin phép anh cho tôi thông báo về nội dung của tài liệu khó hiểu ấy.
Ông Ondřej Dílec, chủ ngôi nhà số 1213-I ở Praha, kiện bà Helenka Velebová, chủ quán ăn, rằng bà này vì sở thích riêng mà nuôi rất nhiều gà mái, gà trống và gà trống thiến. Rằng những con gà trống ấy sáng sớm nào cũng gáy đánh thức dân cư ở ngôi nhà này, phá rối các giấc mơ của họ. Vì vậy, nguyên đơn yêu cầu cấm bị đơn nuôi gia cầm.
Đó là nội dung của tài liệu mà tôi không biết xếp vào cho đơn vị nào. Tôi muốn gửi nó để anh xem, nhưng anh cũng biết là tôi không được cho ai mượn tài liệu của công sở. Xin anh suy nghĩ và cho tôi một lời khuyên. Và cũng mong anh đừng giận, xin anh gửi cho tôi câu trả lời của mình bằng thư dán kín.
Kính thư,
Jan Střepeníček”
Thông báo số N.C. 13211, gửi bác sĩ Y khoa Edvard Jungman.
“Theo lệnh của Giám đốc, yêu cầu ông đến phòng số 35 tòa thị chính. Là thành viên hội đồng, ông sẽ đi cùng với một viên chức được cử, đến nhà số 1213-I để giải quyết một vấn đề có liên quan đến phòng y tế.
Praha, ngày 2 tháng 8 năm 1858.
Veřej (đã ký).”
Thư riêng của bà Helenka Velebová, chủ quán ăn, gửi em gái là Alojsie Trousilová, giáo viên ở Chrudim.
“Em yêu quý,
Chị chào em và gửi đến em nghìn cái hôn, cháu Toníček cũng gửi dì nhiều cái hôn và xin dì cũng gửi cho cháu nhiều cái hôn. Em hỏi chồng em, xem chú ấy có còn nhớ cậu Jeník, con trai ông bà Kalhotka không, cậu út ấy mà, nhưng bây giờ thì cậu ấy lớn rồi, học xong rồi và cũng đang muốn trở thành giáo viên. Chắc là chú ấy sẽ nhớ ra cậu ấy, vì cậu ấy thường về nhà nghỉ hè. Chị đã không nhớ ra cậu ấy, chắc em cũng không nhận ra đâu, vì cậu ấy cao lớn hơn trước. Cậu ấy đến ăn ở quán chị được hơn hai tháng rồi, nhưng lúc cậu ấy hết tiền thì chị và cậu ấy mới thỏa thuận với nhau là cậu cứ ăn tiếp rồi trả sau cũng được. Em biết đấy, đời sinh viên thường thế, nhất là với những ai có khả năng, nhưng cậu ấy không phải là kẻ lừa bịp bất lương, cậu ấy đã học xong rồi, và cậu ấy gửi lời thăm vợ chồng em. Cậu Kalhotka là người rất vui tính, chị cười cậu ấy suốt, vì cậu ấy thẳng thắn, cởi mở. Cậu ấy làm thơ rồi in tặng chị, cứ như điên điên ấy em ạ, nhưng là cô giáo thì em chắc cũng hiểu được điều ấy. Cậu ấy viết rằng chị như đêm sao sáng và những cái dở hơi khác, chị nghĩ chị đến phát ốm mất vì cười chuyện bông đùa ấy, những bài thơ ấy in rất đẹp ở tạp chí, bên trên có in đậm chữ TẶNG CÔ ẤY, và “cô ấy” ở đây chính là chị đấy!
Em bảo chồng em rằng nếu chị lại đi lấy chồng thì việc ấy chẳng có liên quan gì đến chú ấy cả, để chú ấy khỏi nói năng trêu chọc mà làm gì. Việc ấy là điều dễ hiểu thôi, chị còn trẻ, không ở một mình mãi được, con chị cũng cần phải có bố và những người muốn lấy vợ thì cũng rất nhiều. Ông Dílec, chủ nhà chỗ chị ở, cũng muốn lấy chị, nhưng ông ấy không khéo tay mà lại cũng muốn nhiều tiền, mà tiền thì chị không có, vì chị chỉ đủ ăn thôi. Ông ấy không được thông minh lắm, lại còn ghen với cậu Kalhotka nữa, vì thế mà ông ấy phát đơn lên tòa thị chính để tố cáo chị, rằng chị nuôi nhiều gà mái với gà trống, rằng gà trống quấy rối mọi người sống ở nhà này, nhất là vì nó gáy vào sáng sớm. Các ông ở thị chính đã đến gặp chị, chị được một mẻ cười, vì các ông ấy cứ đòi xem đàn gà trống, nhưng chị có đâu, chị chỉ có mấy con gà để ăn và để nấu bán cho khách hàng thôi. Ông chủ nhà chắc sẽ bực mình, thì hãy cứ việc bực, vì sao mà ông ấy lại cư xử như thế, chị có thiết gì ông ấy đâu, mà ông ấy cũng chẳng còn trẻ trung gì cho cam.
Chị gửi em cái mũ cho cháu Fanynka, chị không gắn hoa hồng vào mũ, mà gắn chùm anh đào, nhưng chắc là em sẽ không cho là nó lòe loẹt quá, và em viết cho chị xem có thể mua bơ cho chị với giá bao nhiêu, chắc là sẽ rẻ hơn ở Praha. Đừng giận chị vì chị kể chuyện lôi thôi dài dòng, không kể cho em thì kể cho ai, khi mà chị chẳng có ai khác, tính chị từ xưa vẫn hay nói năng như thế. Hãy nhớ đến chị gái Helenka thành tâm của em.
T.B. Chị viết vội.”
Trang thứ tư của biên bản cuộc họp Ủy ban ngày 15 tháng 8 năm 1858.
“... quyết định ổn định trật tự theo đề nghị của ông ủy viên Veřej, vì chỉ những việc quan trọng mới được đưa ra xét ở ủy ban.
Liền sau đó, bước sang bàn vấn đề thứ bảy. Ông ủy viên Veřej trình bày về đơn tố cáo của ông Ondřej Dílec, chủ nhân ngôi nhà số 1213-I, bị đơn là bà Helenka Velebová, chủ quán ăn cũng tại địa chỉ đó. Ông Ondřej Dílec tố bà Velebová, rằng bà ấy nuôi nhiều gà, rằng tiếng gà gáy buổi sáng sớm gây phiền nhiễu cho mọi người ở nhà ấy. Ông Veřej đọc bản tường trình của hội đồng, gồm ông Edvard Jungman, bác sĩ y khoa, và ông Josef Písčík, viên chức. Theo bản tường trình, hội đồng đã xem xét kỹ lưỡng vấn đề ngay tại chỗ và phát hiện ra rằng bị đơn chỉ nuôi ở sân có hai con gà mái, một con gà trống và một con gà trống thiến, và chỉ nuôi để làm cơm cho khách ăn.
Ông thị trưởng chủ trì cuộc họp cho là trong trường hợp này không thể làm gì được, nhất là khi bị đơn chỉ nuôi ít gà như vậy, và không thể ra lệnh cho bị đơn giết một lúc tất cả những con gà ấy.
Ông Veřej nói thêm rằng, nguyên đơn, ông Dílec, cũng hơi bị nghễnh ngãng, nên có lẽ việc gà gáy chắc cũng không đến nỗi nào. Ông Veřej đề nghị từ chối nguyên đơn.
Tất cả đều đồng ý với đề nghị đó. Sau đó, bàn đến vấn đề số...”
Thư riêng của bà Helenka Velebová, chủ quán ăn, gửi em gái là Alojsie Trousilová, giáo viên ở Chrudim.
“Em ơi!
Chị chào em và gửi em nghìn cái hôn và cháu Toníček cũng gửi em rất nhiều cái hôn và chị quả thật rất giận em, vì em cứ ra vẻ già dặn hơn, mặc dù em trẻ hơn, và ngay cả khi em có làm giáo viên đến hàng trăm lần đi nữa thì em cũng chẳng hiểu biết hơn chị được, nên đừng có làm như vậy, vì ai chả biết thế, và ai mà biết được em sẽ cư xử thế nào, nếu em là bà góa. Chị không muốn và không thích ông Dílec, và cũng không để cho ai ép buộc chị được. Chắc em cũng không muốn lấy người nào đã làm hại em. Chị béo hay gầy thì việc gì đến ông ấy, và ông ấy cũng không cần phải nói rằng chị to gấp ba người khác. Nếu mà ông ấy không thích chị thì hãy đừng có đếm xỉa đến chị, chị không muốn ông ấy, chị nói để em biết vậy. Nếu mà ông ấy thích chị, thì sao lại phát đơn kiện chị? Chắc chắn là thua kiện rồi, bây giờ thì không dám gặp chị nữa. Nhưng chị sẽ trả thù ông ấy và đã chuẩn bị cả rồi. Có một người, đó là cậu Kalhotka, nhưng em không phải lo sợ gì, chị không phải là kẻ còn trẻ hấp tấp thiếu suy nghĩ mà có quan hệ với sinh viên, mà mặc dù có thể đi nữa thì việc gì đến ai, chị có đầu óc của mình và không để cho ai điều khiển chị, cậu Kalhotka tốt hơn nhiều so với những gì mọi người nghĩ về cậu ấy, và cậu ấy nhớ ra rằng ở Praha có luật cấm nuôi lợn. Ông Dílec nuôi hai con lợn con, chúng chạy rông cả ngày ở ngoài vườn. Cháu Toníček nhà chị thường hay chơi với chúng, nhưng mặc kệ, chị và cậu ấy đã đưa đơn kiện rồi, ông Dílec sẽ nổi giận, ừ thì cứ việc giận đi! Còn em thì cái gì cũng làm em bực mình, chị lấy làm tiếc là em thấy cái mũ lòe loẹt, vậy cứ bảo ngay là không thích nó đi! Nhưng em đừng giận chị, em biết là chị nghĩ thế nào là nói thế, tính chị vẫn vậy, hơn nữa, chúng mình là chị em cơ mà! Hãy nhớ đến chị. Helenka.
T.B. Chị viết vội.”
Tài liệu riêng của Thị trưởng thành phố Praha gửi ông Veřej, hội viên Hội đồng Ủy ban thành phố.
“Thưa ông hội viên,
Vì hôm nay tôi sẽ không gặp được ông nữa và ngày mai tôi sẽ ở nhà cả ngày, tôi viết thư này cho ông về đơn của bà chủ quán Helenka Velebová tố ông Ondřej Dílec, chủ ngôi nhà số 1213-I, vì ông này nuôi lợn trái phép. Đơn này hiện nay được ông luật sư Zajíček gửi lại một lần nữa. Ông cũng biết rằng luật sư Zajíček là một trong những đối thủ của ban quản lý hành chính hiện nay ở tòa thị chính. Tôi được thông báo là vấn đề này đã được đưa ra giải quyết một lần rồi, nhưng giải quyết chưa triệt để. Nghe nói ông trưởng phường và bác sĩ ở quận đã điều tra và khẳng định rằng ông Dílec chỉ nuôi có hai con lợn con để dùng vào mục đích riêng; nhưng lại không đưa ra biện pháp giải quyết nào cả. Thưa ông, việc này là việc quan trọng, vậy mà ông đã giải quyết một cách cẩu thả, không có sự tham gia của hội đồng, như thế là không tốt. Không thể có nghi ngờ gì được về việc lợn con cũng là lợn, và tất nhiên là ở Praha tuyệt đối cấm nuôi lợn. Bây giờ là mùa thu, thường có dịch tả, chúng ta có thể sẽ phải chịu trách nhiệm về việc đó, vì ông luật sư Zajíček chắc chắn sẽ đưa việc này ra. Vì sự khẩn cấp và an toàn của vấn đề này, yêu cầu ông cho kiểm tra lại ngay, rồi lập tức đưa vào giải quyết ở hội đồng với sự có mặt của tôi, ông hãy chuẩn bị kế hoạch của mình để hội đồng đưa ra quyết định giết những con lợn ấy trong vòng tám ngày.
Praha, ngày 17 tháng 9 năm 1858.”
Thư riêng của Jan Kalhotka, sinh viên trường Sư phạm, gửi bạn là Emil Blazíček, giáo viên phụ giảng ở Písek.
“Mang danh Chúa, tôi xin báo cho anh một tin rất vui, là tôi được cử làm giáo viên phụ giảng ở Hradec Králové - thủ phủ và trung tâm của các trường trung học. Ôi! Vậy tôi đi và sẽ dạy dỗ những tài nhân tương lai của Séc, và sẽ làm việc như anh, vì “vai trò kế thừa dân tộc”, theo lời anh đã đọc ở nơi nào đó. Tôi thực lòng mong mỏi nghề nghiệp cao thượng của mình, mong đợi sự nghiệp mới của mình, đặc biệt là vì nghe nói ở Hradec Králové có nhiều con gái đẹp, tôi lại là người rất yêu phụ nữ. Ở bên cạnh họ, tôi có may mắn tuyệt vời, tôi nghĩ tôi sẽ chẳng phải làm gì ngoài việc yêu, những cái khác tự nhiên nó đến và tôi sẽ sống sung sướng. Thời gian vừa qua, tôi chẳng còn một trinh nào, thỉnh thoảng tôi lâm vào cảnh đó, thế mà tôi đã sống đàng hoàng như một nam tước vậy, hay nói đúng hơn, như một ông chủ quán thỏa mãn sung sướng. Anh biết không, cô chủ quán trẻ góa chồng, lại là người đồng hương, và tôi, chàng trai trẻ đẹp,... nói tóm lại là tôi đã sống không tốn kém một xu nào và ăn uống rất sướng. Nhưng cô đồng hương của tôi đang gặp khó khăn, ông chủ nhà của cô ấy muốn lấy cô ấy làm vợ, cô ấy không muốn ông ấy vì cô ấy yêu tôi, bây giờ ông ấy không cho thuê nhà nữa và cô ấy không biết làm sao. Tôi là người có lương tâm, bây giờ tôi đã kiếm được một ít tiền rồi và không muốn cản trở hạnh phúc của cô ấy, nên tôi đã không đến quán cô ấy nữa. Phụ nữ, đặc biệt các bà góa, thường khéo léo, rồi thì cô ấy cũng sẽ tự lo lấy được. Nói cho cùng, tôi không nghĩ là cô ấy không hợp với ông chủ nhà; họ sẽ xứng đôi, tôi đã tưởng tượng được cảnh họ hòa thuận, cùng ngồi ăn uống với nhau vào ngày chủ nhật. Anh thấy là tôi không phải là người giả tạo lừa dối cô ấy, và cũng không phải tôi không có cảm tình với cô ấy, mặc dù tôi không viết nhiều về cô ấy. Nhưng... tôi làm được cái gì cho cô ấy? Vâng, vấn đề là ở chỗ ấy!
Tôi xin dừng bút và thành tâm chúc anh mọi sự tốt đẹp.
Bạn của anh.”
Trích quyết định của Phó Thị trưởng đối với ông Ondřej Dílec, chủ ngôi nhà số 1213-I, về việc kháng cáo quyết định của Tòa thị chính.
“... không thể xét đến những lý do kể trên được, vì theo luật, không được phép nuôi lợn ở Praha. Còn việc ông Thị trưởng nuôi hai con ngựa và phân ngựa gây ra bẩn thỉu thế nào thì cũng hoàn toàn không có liên quan gì đến trường hợp này. Ông Ondřej Dílec sẽ phải nộp phạt năm zlatý tiền Áo, đồng thời trong vòng ba ngày phải giết lợn, hoặc đưa chúng ra khỏi Praha, nếu không thì chính quyền sẽ tiến hành các biện pháp chính thức để giết lợn, hoặc chuyển chúng đi nơi khác.
Praha ngày 14 tháng 9 năm 1858.”
Thư riêng của bà Helenka Velebová, chủ quán,
gửi em gái là Aloisie Trousilová, giáo viên tại Chrudim.
“Em yêu quý!
Em nói đúng, em thấy đấy, chị xin công nhận rằng cái này là do em thông minh và học được ở chồng em, còn chị thì chỉ là mụ đàn bà góa ngu ngốc. Nhưng cũng đừng trách chị vì chuyện với tay Kalhotka nữa, việc cũng đã qua rồi, hắn đã bỏ trốn, em cũng biết là cả gia đình hắn đều là những người như vậy và mẹ không bao giờ thích họ, nhưng chị không phải là người có lỗi, hắn nói nhiều, nói mãi, em biết đấy, chúng mình đều là phụ nữ, đều có lòng tốt. Với ông Dílec thì em cũng đúng, và chỉ cần chị muốn ông ấy, nhưng mà bây giờ chị không biết làm thế nào. Ông ấy gầy đi em ạ! Xem ra ông ấy cũng có dằn vặt, nhưng ông ấy cứng đầu cứng cổ lắm và cứ nghĩ rằng, có trời biết được thế là gì, khi mà ông ấy là chủ nhà thì muốn gì được nấy, dù rằng đúng là ông ấy không nợ nần gì, và về cơ bản, ông ấy là người tốt. Một lần, chị chơi với đứa con trai nhỏ của ông ấy, nó là thằng bé dễ thương em ạ, nó có đôi mắt xanh to, hai cái má dễ thương đến muốn véo, nó chỉ ít tuổi hơn Toníček nhà chị có nửa năm thôi, chúng nó lại chơi với nhau rồi, Toníček cũng đến chơi nhà ông ấy ở tầng trên. Lần ấy ông Dílec về nhà, đi qua sân, nhưng chị làm như không nhìn thấy, chị hôn thằng bé, ông ấy đứng lại, không nói gì, rồi đi tiếp, nhưng cũng không gọi con trai về như mọi khi khác. Chị cám ơn em mua bơ hộ chị, nó không rẻ hơn bơ mua ngoài chợ ở Praha, nhưng ngon hơn. Còn năm tuần nữa mới đến ngày lễ Thánh Kateřina, nhưng ngày mai chị sẽ đến gặp ông Dílec để trả tiền nhà, nhưng em ạ, chị sẽ xấu hổ, dù sao thì ông ấy cũng tốt, không giục chị nộp. Cháu Toníček gửi em nhiều cái hôn và nhắn dì gửi cái gì cho cháu. Hôn vợ chồng em. Chị gái trung thành suốt đời của em. Helenka.
T.B. Chị viết vội.”
Nhật ký của ông Ondřej Dílec, trang thứ ba mươi mốt.
“… Chưa bao giờ mình có dịp nào ăn lễ Noel vui như lần này. Helenka là người nội trợ đảm đang, nấu ăn giỏi và rất yêu mình, cô ấy không khó tính xấc xược như mình đã nghĩ, cô ấy nhất nhất nghe lời và gần như tốt hơn người vợ thứ nhất đã qua đời của mình, xin trời cho bà ấy yên nghỉ bình an. Bây giờ thì mình hoàn toàn tin là cô ấy không yêu cậu sinh viên ấy một chút nào, đàn bà cư xử thật lạ, nhất là khi họ muốn trừng phạt người nào mà họ thực sự yêu. Nếu cứ như thế này mãi, chắc cô ấy sẽ như thế mãi, mình tin như vậy, thì cô ấy sẽ không phải ân hận gì, cô ấy sẽ thấy là mình là người bố tốt của con cô ấy, là mình sẽ không bao giờ quên mẹ con cô ấy, kể cả nếu mà hôm nay hay ngày mai mình phải chết thì sang xuân, mình cũng sẽ cho quét vôi toàn bộ ngôi nhà, ở ngoài vườn thì chúng ta sẽ mở cửa hàng ăn có ca nhạc, bây giờ có thể làm ăn được, chứ khi chỉ có hai bàn tay trắng thì chẳng làm được gì. Chắc là mình cũng sẽ được yên thân với các vụ kiện tụng, hôm nay có hai ông đến gặp, các ông ấy nói là mình đã gửi kháng cáo đến Viên - mình đã quên mất việc này nên cứ nhìn hai ông ấy mà không hiểu họ nói về cái gì - vì thế có lệnh gửi từ Viên đến yêu cầu phải xét xử lại thật kỹ lưỡng vụ việc đó. Nhưng sẽ xét xử thế nào nữa, khi mà bữa sáng hôm nay mình đã ăn nốt cái dồi gan lợn cuối cùng! Helenka cười rũ rượi như người điên, vì cô ấy đang còn nhiều mỡ rán dồi ở trong bếp. Nhưng bây giờ thì mình không biết ai là người đã có thể thắng kiện, và...”
XII. NĂM PHÚT SAU BUỔI CA NHẠC
Giọng hát yếu ớt kiểu giọng nữ cao của đứa trẻ lên đến độ cao kinh khủng, Valinka nắm chặt bản nhạc, nhạc sĩ đệm đàn chơi tiếp mấy hợp âm cuối cùng, nụ cười tươi được tập sẵn và cái cúi đầu chào báo hiệu buổi ca nhạc đã kết thúc.
“Ôi thật là sung sướng... cháu sẽ là nghệ sĩ... ông Eber ạ, ông quả là người may mắn!” Bà Baurová vui mừng, và với niềm vui thật sự, bà ngừng vỗ tay đứng dậy ôm chặt Valinka. Mọi người khác đứng ngay sau lưng bà; tất cả khoảng hai chục người, họ đã ngồi ở hai hàng ghế trong phòng. Những lời khen ngợi, những cái hôn tới tấp như mưa làm Valinka gần nghẹt thở, cô bé gọi mẹ: “Ấy, tóc của con... mẹ ơi!”
Suốt buổi ca nhạc, ông Eber đứng không động đậy ở chỗ giữa cột nhà và cửa sổ. Bây giờ ông cố nén xúc động, chớp chớp mắt và tự kiềm chế để khỏi run rẩy: “Vâng, chúng tôi cũng phải để cháu tập khoảng hai năm nữa, rồi sau đó thì cháu đi đâu cũng được. Cháu mới chỉ chưa đầy 14 tuổi và mọi người sẽ ngạc nhiên, nhưng mà có gì lạ đâu, cháu rõ ràng có năng khiếu như vậy. Thưa bà Baurová, bà có tin là cháu nó mới chỉ học hai mươi bài tiếng Pháp mà đã có tiến bộ đến mức nói chuyện được khá trôi chảy với thầy giáo không?”
Bà Baurová chập tay ngạc nhiên: “Thật ư? Valinka, thật không cháu?”
“O ouj, madame!” Valinka khẳng định.
“Đấy, bà thấy đấy! Tôi cũng ngạc nhiên lắm. Nhưng một phần cũng là do có thầy giỏi. Đặc biệt thầy dạy hát là thầy rất giỏi. Thầy ấy có phương pháp rất hay, để ý đến từng cái nhỏ, thầy lấy ngón tay chọc vào miệng, nếu cháu mở miệng không đúng. Nhưng mà tôi sẽ không để cháu ở Praha đâu!”
“Vâng, nếu để ở Praha thì thật là sai lầm!” Bà Baurová khẳng định và trở về chỗ ngồi bên cạnh con gái mình.
Khi buổi ca nhạc kết thúc, cô Marie tháo cả hai chiếc găng tay để có thể vỗ tay thật to. Ngồi bên tay trái cô là ông thượng úy Kořínek, vị hôn phu của bạn gái cô. Ông Kořínek, người đàn ông vóc dáng nhỏ bé, vẻ mặt ốm yếu, với nụ cười như hóa đá trên cái miệng móm mém không còn răng, cũng đang vỗ tay cùng cô Marie.
“Tôi vỗ tay nóng cả người,” cô Marie ngừng tay, dịu dàng nói với người ngồi cạnh mình vẫn còn đang cố gắng vỗ. “Chị em chúng tôi không có chút sức lực nào cả. Em bé hát rất hay, phải không ạ?”
“Vâng, đúng vậy!” Ông thượng úy khẳng định. “Đặc biệt nốt Đô kết thúc rất hay.”
“Nhưng mà đấy chắc là nốt Fa chứ ạ?” Cô Marie nói.
“Không, đấy là nốt Đô, trước đó cũng có một nốt Đô; khi mà giọng lên cao như thế thì bao giờ cũng là nốt Đô!”
Khuôn mặt cô Marie như bị kéo dài ra và đanh lại. “Ông cũng là người am hiểu âm nhạc ạ?” Cô hỏi, chỉ để nói một cái gì đó.
“Tôi ư? Không, người ta nói là tôi không có năng khiếu âm nhạc. Nhưng anh trai tôi biết chơi cả theo nốt nhạc, và bài nào cũng chơi lần nào cũng như lần nào.”
“Tôi cũng có một người em trai như vậy,” cô thở dài, “tội nghiệp, cậu ấy mất rồi. Cậu ấy có giọng nam cao tuyệt vời! Từ nốt Đô cao, như ông đã nói, xuống đến tận nốt La, vâng ông ạ, xuống đến tận nốt La!”
“Chắc chắn phải hay lắm!”
“Ông là người rất yêu âm nhạc ạ?”
“Tất nhiên rồi!”
“Chắc là ông thường đi xem opera ạ?”
“Tôi ấy ư? Không, không! Cái đó đắt tiền, mà con người ta thì chỉ có hai tai. Có một lần tôi nghe một vở opera, tôi thấy thích nó - tên của vở ấy là gì nhỉ - tôi quên mất rồi - nhưng tôi thích. Còn thì tôi không thích opera, tôi là con nhà lính và tôi thường lấy làm bực mình khi nhìn thấy gã đàn ông khỏe mạnh có thể đánh trống được, mà lại đi chơi violon. Tôi cũng không thấy thích, khi cô ca sĩ thay đổi giọng lúc lên lúc xuống, hay còn gọi cái đó là cái gì...”
Cô Marie đột ngột quay sang mẹ mình.
“Chuyện trò với ông ấy ra sao?” Bà mẹ hỏi thầm.
“Cũng được - con nghĩ là ông ấy không nhận ra các que diêm, nếu đặt chúng lộn ngược đầu xuống dưới!”
“Thì có sao!”
“Tất nhiên là chẳng sao,” cô Marie nói nhỏ, rồi quay lại người ngồi cạnh mình.
“Kể ra thì chỉ việc ông bà ấy cho con gái đi học hát thế cũng tốt rồi. Nhất là khi chính ông bà ấy cũng chẳng có gì. Họ mắc nợ đến kinh khủng, chúng tôi có vốn ở cái nhà này, tôi vẫn bảo mẹ tôi phải cẩn thận, nhưng mẹ tôi quá tốt bụng!”
Điều đó chắc hẳn làm ông Kořínek giật mình, chắc ông muốn nói một cái gì đó, muốn hỏi một cái gì đó, nhưng vừa đúng lúc ấy có tiếng ồn ào nổi lên, báo hiệu là mọi người muốn chia tay ra về. Cô Marie và bà Baurová cũng đứng dậy.
“Đường về nhà thì xa, mà chúng tôi lại chỉ có hai mẹ con,” cô Marie than phiền với ông thượng úy. “Tôi chưa bao giờ có quan hệ với ai, vả lại đàn ông thật sự ga lăng thì quá ít!”
“Giá mà tôi được phép...”, ông thượng úy nở nụ cười lịch sự và sẵn sàng.
“Ôi, thế thì hay quá! Mẹ ơi, thượng úy sẽ đi tiễn mẹ con mình!”
“Đường xa lắm đấy! Nhưng mà sau đó thì ông có thể ở lại dùng cơm chiều với chúng tôi, chắc chắn là sẽ vui lắm!”
Bà chủ nhà lần lượt chia tay với khách. Cô Matylda cũng phải tạm rời ông Kořínek một lúc để có thể nói chuyện lịch sự với khách. Đúng lúc cô đang hôn khách thì bà chủ nhà ghé sang cô nói thầm một cái gì đó. Cô Matylda đến gần ông thượng úy và nói nhỏ với ông:
“Anh ở lại đây nhé, mẹ mời anh ở lại ăn chút thịt hun...”
“Tôi... tôi đã...”
“Ôi, chị Matylda của em,” cô Marie tiến đến gần và nồng nhiệt ôm bạn gái, “Hôm nay vui quá! Đáng tiếc là buổi ca nhạc không dài hơn, bởi vì chúng tôi sẽ không phải tự đi về nhà, nên không phải sợ gì. Ông Kořínek hứa là sẽ đi tiễn chúng tôi, vì chúng tôi ở xa mà! Thôi, xin chào thiên thần của em nhé, thơm em một cái nữa nào! Thế nhé, chào cô chủ nhé!”
Cô Matylda ngây người ra, mặt cô tái đi.
“Con tiễn cô Marie đi chứ,” bà chủ nhà giục con gái, “con làm sao vậy? Ôi trời...”, bà không nén được cái thở dài, khi trông thấy ông thượng úy chuẩn bị đi cùng với mẹ con bà Baurová.
“Tạm biệt thiên thần nhé!” Cô Marie gật đầu chào rồi lướt nhẹ ra cửa.
Cô Matylda đứng im tại chỗ như trời trồng.
XIII. TRÚNG THƯỞNG XỔ SỐ
Bà Bavorová ngồi rất khoan khoái ở sau quầy, bởi vì vào ngày thứ sáu, trước lúc có vài người khách đến mua hàng vào buổi chiều, thường không có việc gì phải làm. Chồng bà đang bận việc buôn bán ở đâu đấy trong thành phố, còn Václav, con trai bà, thì ít khi có mặt ở nhà. Vậy là bà Bavorová ngồi ở đó một mình, tự giải trí bằng sách giải mã giấc mơ, bằng các tờ giấy có ghi đặc những con số... Bà giải trí thoải mái, dù thỉnh thoảng có ngáp, nhưng bà đang rất hài lòng, hai má bà hửng lên, đôi mắt sáng long lanh sau cặp kính.
Bất chợt, bà nhìn ra cửa vì thấy có người xuất hiện ở đấy. Người đó là bà chủ quán ăn. Bà Bavorová làm như không để ý thấy bà ta và tiếp tục xem các con số của mình. Việc xảy ra trong đám tang bà Žanýnka vẫn còn để lại dư âm xấu cho đến hôm nay, chúng ta không thể mảy may nghi ngờ gì được về điều đó.
Bà chủ quán bước tiếp vào cửa hàng. “Lạy Chúa tôi,” bà chào.
“Lạy Chúa tôi,” bà Bavorová trả lời, nhưng không ngẩng đầu lên.
“Thế nào, chúng ta có trúng được gì không?” Bà chủ quán ăn bắt chuyện.
“Chả được mấy, kể từ ngày ta chơi chung,” bà Bavorová lạnh nhạt trả lời, cố ý nhấn mạnh vào hai từ cuối cùng.
“Chơi chung... ừ... phải đấy, nhưng khách hàng của tôi lại kể rằng bà đã gieo cả dãy số ấy nữa, nhưng mà là dãy số bà đã nói với tôi trước khi chúng ta thay đổi nó, rằng bà đã trúng giải ba số.” Lời nào của bà chủ quán cũng sắc như dao, đầy vẻ dò la.
“Vâng, bao giờ tôi cũng làm đúng nếu tôi nghe theo cái đầu óc già nua của mình.”
“Vậy tôi cũng được chia phần ở giải ấy chứ?”
“Tôi muốn biết vì lẽ gì mà đi chia giải ấy cho bà!”
“Nhưng mà thế thì không công bằng!”
Bà Bavorová giận tái mặt. Nhưng vẫn không ngẩng đầu lên, bà chậm rãi trả lời, giọng lạnh tanh:
“Bà có đưa cho tôi đồng nào khi tôi mua bộ số ấy không? Bà bảo chúng ta đổi số, rồi bà góp tiền mua bộ hai số đã đổi, và bà được chia một nửa giải thưởng. Như thế vẫn còn chưa sòng phẳng hay sao?”
Cái lạnh lùng cố ý của bà Bavorová gây ấn tượng mạnh cho bà chủ quán. Bà ta cũng cố ý nói với giọng nhẹ nhàng:
“Gớm thôi, chẳng phải giận dữ nhau làm gì về chuyện ấy nữa, bà chị ạ. Ai được trời ban cho cái gì thì tôi mừng cho người ấy cái đó... tại sao mà tôi lại không mừng cho bà chị. Nhất là khi cậu Václav nhà bà chị với con Márinka nhà tôi... xem ra chúng nó thích nhau.”
“Chẳng đi đâu mà phải vội... chúng nó còn trẻ, bắt buộc chúng nó làm gì! Hơn nữa, tôi cũng không thích lên mặt khoe khoang. Con trai tôi chỉ là con nhà buôn bán, sau này nó làm được gì thì nên thế. Vậy đấy thôi!”
“Ồ, chắc hẳn bà không nghĩ là tôi phải tự đi dâng của! Tôi không cần phải thế, con gái tôi là con nhà thị dân, cái đó không ai lấy của nó đi được!”
“Gớm, thì mài ra mà ăn!” Bà Bavorová mỉa mai rồi bỏ kính xuống.
“Danh dự là danh dự, ai không có thì chẳng lấy ở đâu ra được,” bà chủ quán tuôn ra một tràng, “tôi có thể đến bất kỳ đâu, vào được bất kỳ chỗ nào. Còn hạng dân nhà quê thì có trát vàng vào đi nữa cũng không thành người sang trọng được. Tôi cho là như vậy đấy, chứ chả cần phải nói thêm gì nữa - thôi, chào bà!” Nói đoạn, bà ta quay ngoắt đi.
“Vâng ạ, xin kính chào quý bà thị dân ạ,” bà Bavorová gọi với theo rồi lúc ấy mới ngẩng đầu lên.
Bà Bavorová nhìn ra bên ngoài, khuôn mặt bà lại hồng hào như trước, đôi mắt lại sáng long lanh. “Đừng có tưởng bắt nạt được bà nhé!” Bà nói to một mình. Xem ra, bà có vẻ tự hài lòng là đã không để bị khiêu khích mà nổi nóng một cách không cần thiết.
Bà Bavorová lại đeo kính và lại xem sách giải mã giấc mơ lô đề, xem các con số đề. Làm vậy, bởi lẽ bà ấy là người chơi xổ số bằng cả tâm hồn lẫn thể xác, là người chơi xổ số kiểu cao siêu nhất, một kiểu chơi có khoa học, và về mặt này, bà ấy là người có tiếng tăm nhất trong toàn quận. Nhưng nếu muốn đứng vững được ở vị trí cao ấy, người chơi xổ số thực thụ không bao giờ hoàn tất được công việc của mình, và phải tận dụng từng lúc rảnh rỗi.
Để có thể chỉ một lần duy nhất mua số đề mà chắc chắn trúng được giải, không ai có thể tin được là cần phải chuẩn bị nhiều đến thế nào! Con số tốt không phải là kết quả của sự tính toán khô khan, nó cũng không đến nhanh như tia chớp, trừ trường hợp nó đến một cách tình cờ, nhưng người nào thận trọng cân nhắc thì sẽ không để ý tới sự tình cờ ấy. Con số tốt không phải là con số toán học, không phải là một cái gì vô hình, nó không sinh ra từ trí khôn, cũng chẳng sinh ra từ óc tưởng tượng. Tôi so sánh nó với bông hoa, hay đúng hơn, với thạch anh. Tinh thể thạch anh cần có thời gian để hình thành và phát triển. Thạch anh cũng cần có chỗ đứng vững vàng trong đất. Và chỗ đứng vững vàng của con số lô đề là trái tim con người. Vâng, trái tim là quê hương của con số. Trái tim con người có liên quan với toàn thế giới, ngay cả ngôi sao xa xôi nhất cũng có sức hút tác động lên nó. Tương tự như vậy, con số cũng có liên quan đến cả thế giới. Vì cái gốc gác ấy của mình mà con số trở thành tài sản không thể phủ nhận được của nữ giới. Một khi nam giới can thiệp vào đó thì con số bị đứng ngay ở chỗ ngã ba đường, bị nhợt nhạt đi và lún sâu trong bùn lầy của sự tính toán bằng trí óc.
Bà Bavorová hoàn toàn ý thức được điều đó, mặc dù có thể bà không biết diễn đạt hay như chúng ta. Bà chăm sóc các con số lô đề giống như người làm vườn gieo hạt để trồng hoa, bà không ưa cái trò chơi ngẫu nhiên của những người buôn bán, cũng như không thích sự tính toán rắc rối của những kẻ không hiểu biết. Cơ sở mọi suy tính kỹ lưỡng của bà là cuốn sách giải mã các giấc mơ lô đề, còn gọi là “kumbrlík”.
Dứt khoát đó là cái tên thần thoại, chỉ riêng lời mở đầu truyền thống của cuốn sách quý giá đó đã là một cái gì thần thoại rồi. Nó được viết thế này: “Giải mã nguyên nhân của những hiện tượng thấy trong giấc mơ, chuyển mã chúng thành các con số có thể gieo xổ số được.” Ở phần mở đầu, sách trích dẫn lời của các bậc hiền nhân, viết về Aristotle và người vợ của Hector, về Sever và thân mẫu của Vergilius, về cái thang của Jacob, cả về những con bò của Pharaon, về giấc mơ của Ba Vua ở phương Đông và giấc mơ của Nabuchodonosor ở Babylon. Và tất cả những cái đó được viết bằng phong cách mạch lạc rõ ràng, giống như ở đầu đề, bằng phong cách mà trí óc không thấu được, nhưng tình cảm thì hiểu nó.
Giải mã đúng các giấc mơ là điều cơ bản của việc chơi xổ số, và “kumbrlík” là công cụ phục vụ đắc lực cho việc giải mã đó. Nhưng không phải giấc mơ nào cũng là giấc mơ thích hợp để giải mã. Tất nhiên, có những tháng có ít ngày thật sự may mắn. Người phụ nữ có kinh nghiệm nào cũng biết những ngày ấy, bởi đó là những ngày “được đánh dấu bởi các nhà chiêm tinh, được khẳng định bởi đấng tối cao của tất cả các hành tinh”. Nhưng ngày may mắn cũng chưa hẳn mang đến may mắn, bởi lẽ chỉ người không có kinh nghiệm mới không biết là các giấc mơ được phân chia thành tám “loại” khác nhau, trong đó chỉ loại thứ năm mới là loại tốt. Khi phân tích để chọn con số lô đề thì trước hết cần loại trừ tất cả các giấc mơ về ma quỷ (loại thứ tám), cũng như các giấc mơ về hiển hiện của thần thánh (loại thứ bảy). Các giấc mơ có “nguồn gốc bệnh tật”, như nóng tiết, nóng đầu, hay có nước ở gan hoặc ở phổi, cũng là những giấc mơ không có ý nghĩa gì. Các giấc mơ loại thứ năm thường đến với những người “ăn ít, hoặc không ăn gì vào ban đêm mà vẫn khỏe khoắn và thoải mái về tinh thần”. Chính vì các loại giấc mơ ấy mà người phụ nữ chơi xổ số minh mẫn phải có phong cách sống đặc biệt. Và bà Bavorová đã tạo cho mình một lối sống đặc biệt.
Sách giải mã giấc mơ “kumbrlík” có phần thiết yếu giải thích các con số lô đề (mặc dù còn có nhiều sách giải mã giấc mơ khác, quyển nào cũng có giá trị của nó, nhưng “kumbrlík” trội hơn hẳn, giống như đỉnh Sněžka[9] cao hơn so với những ngọn núi khác). Các con số được lựa chọn như thế này tuy chưa phải là những con số hoàn toàn tin cậy được, nhưng khi đưa chúng vào đợt quay xổ số gần nhất thì có thể có sự thay đổi. Nếu trúng giải ngay thì tốt, nếu không trúng cũng không sao; phải cất giữ tờ vé cẩn thận chứ không được vứt đi. Lý do là phụ nữ chơi xổ số thường chia thời gian có các giấc mơ thành bốn khoảng, mỗi khoảng dài ba tiếng đồng hồ; bảy giờ tối là giờ đầu tiên của họ, điều này xem ra hơi cũ một tí. Nhưng dựa vào thời điểm có giấc mơ thuộc khoảng thời gian nào mà người ta có thể hi vọng vào việc trúng giải, nếu sau đó tám ngày, hay đến đợt quay số lần thứ ba, hoặc ba tháng sau, ba năm sau, vâng, có thể đến tận mười hai năm sau. Vì thế, điều quan trọng là phải giữ cẩn thận các vé số đã quay.
Nhưng làm như vậy vẫn chưa phải là xong việc. Bà Bavorová không quan tâm đến những chuyện ngớ ngẩn - chẳng hạn chuyện có người đã cắt chín mươi con số, bỏ chúng vào cốc thủy tinh rồi thả vào cốc một con nhện lớn, sau đó chờ nhện chăng lưới kéo các con số - bà ấy đủ trí khôn để không làm chuyện lẩn thẩn đó. Nhưng bà ấy có một cái túi vải dài đựng chín mươi hòn bi có đánh số. Hàng ngày, bà lấy ra ba hòn bi bằng tay phải và ba hòn bằng tay trái. Bà cẩn thận ghi lại những con số ấy, kể cả ngày tháng, vào các tờ giấy, bên cạnh đó ghi chú thích “tôi”, bởi vì ngày nào bà cũng còn để chồng và con trai mình, hoặc người nào bà có cảm tình, chọn lấy các hòn bi từ túi đó. Bà ghi lại tất cả những con số họ chọn, kể cả tên của họ. Các con số trúng giải của từng đợt quay xổ số thì bà ghi riêng ra tờ giấy khác, bởi danh sách những con số này có cái quan trọng riêng của nó. Tuy không thể quy thành luật một cách chắc chắn về việc lặp lại của những con số đã trúng giải, nhưng có những lúc xem lại danh sách các con số ấy, ta giật mình vì một dãy số nào đó. Và đó là cái thúc giục gây cảm hứng cho ta.
Và cuối cùng thì thời điểm chín muồi đã đến, khi giấc mơ thuộc loại tốt xảy ra vào ngày may mắn, đồng thời cũng vào lúc đó, tay phải và tay trái đều lấy ra khỏi túi những con số giống nhau, thêm vào đó là cái thôi thúc “đi mua vé đi, vì không còn một điều nghi ngờ nào nữa về việc trúng giải”. Bà Bavorová đã làm theo tất cả những điều đó. Bà mua số đề với dãy số không thay đổi của mình và đã trúng giải.
Tôi đã nói là người chơi xổ số thực thụ không bao giờ hoàn tất được công việc của mình; nếu muốn duy trì mức độ thì phải tận dụng mọi lúc rảnh rỗi. Bà ấy không muốn chỉ vì đã trúng một giải ba số mà làm cái gì khác đi, chơi xổ số là nhu cầu sống của bà, là sự khích lệ của tâm hồn bà, là niềm an ủi của trái tim bà. Vì vậy, ta lại thấy bà cần cù làm việc.
Václav bước vào phòng đúng lúc bà Bavorová đang viết, ghi chép lại, và sắp xếp các con số. Cậu cất tiếng chào mẹ và dừng lại ở trước quầy.
Bà Bavorová gật đầu chào lại, nhưng vẫn tiếp tục làm việc. Một lúc sau, bà lấy cái túi vải đựng các hòn bi, xóc xóc túi rồi đưa nó cho Václav.
“Hôm nay con vẫn chưa bốc,... bằng tay phải trước chứ! Này, con có biết là hôm nay con đã bị đuổi khỏi công sở không?” Bà nói với giọng hoàn toàn bình thản.
“Sao cơ?” Václav kêu lên và giương mắt nhìn mẹ. Giọng nói bình thản của bà làm cậu bối rối.
“Lạ thật, con đã bốc một số giống như mẹ, cứ lôi ra mãi số ba mươi! - Ừ, ông chủ nhà đến đây nhắn con như vậy. Này, hôm qua còn có việc gì với thợ uốn tóc đấy? Lúc trưa, cô con gái điên điên của ông bà chủ nhà gửi lời cám ơn, rằng con đã giúp cô ấy rất nhiều.”
“Có gì đâu ạ! Hôm qua ông bà chủ nhà tổ chức buổi ca nhạc tại nhà, mời ông thợ đến uốn tóc cho cô chủ. Nhưng ông ấy bị ngã ở cổng, con đã nâng ông ấy dậy. Márinka lúc ấy cũng ở đấy.”
“Này mẹ bảo nhé, thôi con bé Márinka đi,... đừng có hỏi vì sao, mẹ không muốn nó, thế thôi. Mẹ nó không hiền lành, mà cũng chẳng là người thẳng thắn,” bà Bavorová vừa ghi các con số Václav lấy ra từ túi, vừa nói bằng giọng nghiêm hơn. “Thế!... Bây giờ thì bốc bằng tay trái đi! Mà cô nàng con gái ông bà chủ nhà cứ quanh quẩn ở đây suốt! Rằng xin con hãy tha lỗi vì hôm qua họ không mời con đến nghe hát... rằng cô ấy ngượng. Gớm, cô ấy mà ngượng! Còn bà chủ nhà thì nghe bảo quên không mời con, bây giờ thì rất lấy làm tiếc. Nhưng mẹ biết họ muốn gì; họ đang nợ lút đầu không biết xoay xở thế nào ấy mà! Ngày hôm nay chắc là đã nghe tay lái buôn ba hoa nói chuyện rồi. À, con vẫn chưa biết là mẹ mới trúng giải ba số nhỉ?”
“Ối, giải ba số!” Václav kêu lên.
“Ừ... giải ba số... cũng được mấy nghìn.”
“Mẹ ơi, có thật không hở mẹ?” Václav vỗ tay vui mừng.
“Mẹ đã nói dối mày bao giờ chưa hả?”
Václav cuống quýt chạy đến sau quầy và ôm hôn mẹ.
“Thôi... thôi, thằng điên ạ, mày chẳng bao giờ khôn lên được,” bà Bavorová gạt con ra. “Mẹ đã biết là có ngày nó phải đến! Còn con, bây giờ thì cố gắng mà học cho xong đi!”
Mắt Václav sáng lên. Cậu nhảy cẫng lên, rồi với lấy chùm chìa khóa treo trên tường.
“Lại đi đâu thế hả?”
“Con lên tầng mái.”
“Lên làm cái gì ở trên ấy?”
“Làm kế hoạch cuộc đời!”
XIV. MỘT CẢNH GIA ĐÌNH ÊM ẤM
Ông chủ nhà đi đi lại lại trong phòng. Trên người, ông mới chỉ mặc bộ đồ đơn giản nhất với cái quần còn chưa có dây treo. Ngực ông phanh ra, mái tóc chưa chải rối bù tung sang mọi phía. Trên khuôn mặt sắc cạnh của ông hiện rõ vẻ bối rối, đôi tay ông lắc lư quanh người một cách không chủ ý theo bước đi.
Cũng mặc bộ đồ rất đơn giản, bà chủ nhà đang đứng gần hòm đựng quần áo, trong tay cầm cái giẻ lau. Bà làm như đang lau bụi, nhưng mỗi một cử động của bà đều chứng tỏ bà cũng đang bối rối.
Nguyên nhân của sự bối rối ấy của hai người là người thứ ba đang ngồi ở bên bàn. Ai có hiểu biết một chút thì có thể đoán ra tình hình ngay tức khắc. Cứ theo khuôn mặt thì người lạ đó chắc chắn là thành viên của một dân tộc mà cho đến bây giờ, chúng ta mới chỉ biết duy nhất một nhân vật của dân tộc ấy. Đầy ních tiền, nhân vật đó lại trở về; đó là Giuđa, nhân vật trong Kinh Thánh. Người lạ mặt chắc chắn không phải là người lạ ở nhà ông bà chủ nhà, bởi lẽ ông ta cư xử như đang ở nhà mình vậy. Ông ta liên tục đặt chiếc mũ cũ kĩ lên cái đầu hói lưa thưa vài sợi tóc bạc, để rồi lại bỏ nó xuống ngay. Ông ta gõ gõ ngón tay đánh nhịp lên mặt bàn và khạc nhổ ra sàn nhà rất tự nhiên. Cái vẻ thống trị có ý thức hiển hiện trong mắt ông ta. Đôi môi trễ nở một nụ cười ngạo mạn mà chính ông ta cũng cảm thấy thích thú.
Bất chợt, ông ta chống tay lên bàn và đứng dậy.
“Tôi nghĩ là tôi đã mất tiền,” ông ta cất giọng vang vang, “nhưng mà bây giờ thì tôi phải nghĩ đến bản thân, tôi sẽ không bỏ ra thêm một xu nào nữa!”
Bà chủ nhà quay sang ông ta và cố gượng cười: “Thưa ông Menke, xin ông cho vay năm mươi zlatý nữa thôi, xin ông giúp cho, chúng tôi sẽ đội ơn ông ạ!”
“Thế nào là ‘đội ơn’, hả?” Người Do Thái nhếch mép cười. “Tôi cũng sẽ đội ơn, nếu có ai đem cho tôi năm chục zlatý.”
“Nhưng thưa ông Menke, chúng tôi đáng được ông giúp đỡ mà, ở đây còn cái nhà của chúng tôi, còn...”
“Nhà với cửa gì! Ở Praha có nhiều nhà và cũng có nhiều chủ nhà, tôi biết; nhưng ông bà có biết ai mới đích thực là chủ cái nhà này của ông bà không? Tôi có giấy hẹn trả nợ của ông bà đây, hừ, nó chẳng có giá trị gì, khi mà tôi không đòi được đồng nào! Nhưng nếu đến thứ ba này mà ông bà không trả lãi cho tôi thì tôi đến gặp ông giám đốc cho mà xem!” Nói đoạn, ông ta đi ra cửa.
“Thưa ông Menke...”
“Không thưa gửi gì hết! Tôi cũng có con và không thể để mất tiền được. Chào ông bà!” Ông ta bỏ đi, để mặc cửa mở toang.
Ông chủ nhà vung vẩy tay và mấp máy môi như muốn nói gì đó. Bà chủ nhà giận dữ ra đóng sầm cửa lại. Cửa thông với phòng bên còn bỏ ngỏ, bây giờ được mở rộng ra, cô Matylda bước ra, trên người chỉ có bộ váy lót. Cô ngáp ngắn ngáp dài và hờ hững nhìn quanh phòng.
“Con chả hiểu tại sao bố mẹ lại nói chuyện với một người như thế,” cô nhẹ nhàng cất tiếng, “phải con thì con đuổi hắn đi rồi.”
Ông Eber đứng chải đầu ở trước gương. Lời nói của cô con gái làm ông nổi cáu. Ông quay ngoắt về phía cô. “Im đi! Mày không hiểu được việc ấy!” Ông gắt con.
“Tất nhiên rồi!” Cô Matylda thản nhiên trả lời. Cô đi đến bên cửa sổ và khoan khoái ngáp để đón chào buổi sáng đẹp trời. Bà chủ nhà im lặng. Bà chăm chú lau bụi ở tủ đựng quần áo, lau mạnh đến mức cái tủ cũng phải xuýt xoa.
Cái im lặng vẫn kéo dài, ông Eber mặc quần áo và bà vợ ông chạy đi chạy lại trong phòng, nhấc lên đặt xuống đủ mọi thứ. Ông Eber biết rằng không thể kéo dài mãi được tình huống này, và tự lên tiếng trước.
“Mẹ nó pha cà phê cho tôi đi chứ, tôi sắp phải đến công sở rồi!” Ông cố gắng nói một cách bình tĩnh.
“Chưa hâm lại được,” bà chủ nhà trả lời bằng giọng tỉnh khô, rồi mở cánh cửa tủ đứng đựng quần áo.
“Hâm lại... chẳng lẽ bà định cho tôi uống cà phê còn thừa từ hôm qua ư? Không thể thế được!”
“Sao mà lại không được! Ông kiếm được nhiều tiền để có cái mà nấu nướng cả ngày chắc! Làm ra tiền đi đã rồi khắc có cà phê mới!”
Cô Matylda rời cửa sổ, ngồi xuống ghế và khoanh tay lại. Cô đưa mắt nhìn bố, rồi lại nhìn sang mẹ, xem ra cô có vẻ bắt đầu cảm thấy thích thú. Ông Eber biết rất rõ vợ mình nên ông lảng sang chuyện khác vì không muốn cãi nhau với bà vào lúc này.
“Trưa nay nhà mình ăn gì?” Ông hỏi và bỏ qua chuyện ăn sáng.
“Bánh hấp với sữa cải ngựa,” bà gắt gỏng.
Bánh hấp với sữa cải ngựa là món ăn ông Eber đã chán ngấy. Ông cảm thấy bà cố tình làm thế, và ông lại nổi cáu.
“Thế tôi xin hỏi bà vì sao mà lại nấu cái thứ chết tiệt ấy đúng vào ngày hôm nay?” Ông nói một cách khó khăn.
“Vì thế đấy! Hôm nay phải dọn dẹp cả ngày, mà bao giờ dọn dẹp thì cũng chỉ nấu thứ ấy!” Bà chủ nhà tìm cái gì đó ở trong tủ quần áo. Vì không tìm thấy được ngay, bà hùng hổ lôi tất cả mọi thứ ra quẳng xuống sàn nhà.
“À ra thế... dọn dẹp cả ngày! Thế thì hôm nay tôi phải đi đâu?”
“Muốn đi đâu thì đi! Ông cũng còn là ông bố mẫu mực nữa, cả năm chẳng được một lần cho con đi chơi. Bây giờ đem con Valinka đi đâu chơi nửa ngày đi!”
“Có còn việc gì nữa không?” Ông chồng cáu đến nghẹn thở.
“Còn! Ra đứng góc nào ở ngoài đường mà xin ăn chẳng hạn!” Vừa nói, bà vợ vừa đứng hẳn vào tủ để có thể với tay lên cao. “Cứ theo cái khôn ngoan của ông thì chẳng mấy chốc mà đến nước ấy. Rồi ông thấy là tôi cũng chết luôn! Bây giờ thì tôi với Matylda còn phải đi chắp vá hàn gắn lại đây, mà cũng còn chưa biết có được không, chưa biết cậu Václav có yêu thích nó không đây! Ai bắt ông đuổi cậu ấy ra khỏi công sở, hả? Ông cứ làm như ông là người chức vụ cao to lắm, thực ra ông chả là cái gì cả...” Bà chưa nói hết câu, chưa tiếp tục lên mặt trấn áp nữa thì ông Eber bất ngờ xông đến, đẩy bà sâu vào trong tủ, đóng sầm cửa lại và vặn chìa khóa.
Cô Matylda vỗ tay khoái chí.
Tiếng gầm thét vang lên trong tủ, rồi tiếng đập thình thình, cái tủ lung lay ngất ngưỡng. Ông Eber với tay lấy cái cốc và ném nó lên chiếc tủ. Cái cốc vỡ tan. Cô Matylda lại vỗ tay thích thú.
Tiếng gầm trong tủ vang to hơn. Ông Eber nhanh chóng mặc áo khoác, cầm cái mũ, nhưng rồi lưỡng lự. Chắc ông không biết có nên mở tủ ra không.
Cô Matylda thấy bố lúng túng liền bảo: “Bố cứ để mẹ ở đấy! Gớm, lớn miệng quá, sao mà không im đi chứ!”
“Con nói phải! Đợi bố ra đến ngoài đường rồi hãy mở. Bố đi đây!”
Và ông đi. Đúng lúc ấy, cô Matylda chợt nghĩ ra một điều. Cô chạy đến mở cửa tủ. Bà mẹ vội bước ra, mặt tím tái vì giận dữ. Cô bảo mẹ: “Bố đang chạy đấy... nhanh lên!” Không cần phải giục giã “nhanh lên”, bà chủ nhà nhảy bổ ra cửa. Cô con gái theo sát gót mẹ để được chứng kiến mọi chuyện.
Bà chủ nhà vơ vội cái chổi ở trong bếp rồi phóng thẳng ra ngoài hành lang. Ông chồng bà đang đi xuống cầu thang, qua chỗ người làm thuê đang rửa bậc thang. Bà chủ nhà thét lên: “Cô đổ cái xô nước ấy vào hắn đi!” Ông chồng vội vàng bước nhanh hơn, hấp tấp đến suýt ngã. Vừa lúc chạy ra tới sân, ông nghe thấy tiếng cái chổi bay vù bên tai. Rất may là nó không rơi trúng vào ông. Trông thấy thế, bà chủ nhà lột cả chiếc mũ vải đang đội trên đầu và ném theo ông chồng đang chạy. Bà gào lên, tiếng gào vang dội cả ngôi nhà. “Đồ giết người, đồ ăn cướp, đồ...! Cứ ra dáng, nhưng không có mấy lớp vải dày cộm ấy thì ra dáng với ai, hả đồ khốn kiếp kia! Chồng ơi là chồng! Kiếm cả năm mới được ba trăm bạc mà cứ làm ông lớn. Rõ tởm chưa! Này, đi đâu thì xéo đi cả tuần cho tôi nhờ, đừng có vác mặt về đây nữa!”
Ông Eber không nghe thấy lời khuyên của vợ, vì lúc ấy ông đã ra đến cổng.
Màn kịch ấy kết thúc nhanh đến mức mà khi tất cả mọi người trong nhà vội vàng chạy được đến cửa sổ để xem, thì chỉ trông thấy cô Matylda đang vui vẻ ôm hôn mẹ ở cửa ra vào.
XV. HẾT TUẦN
Mặc dù đám cưới của Josefinka được tổ chức rất sớm vào sáng ngày chủ nhật, ở dưới sân và ngoài cổng cũng vẫn có rất nhiều người đàn bà hàng xóm tò mò đến xem, cả ở trước nhà cũng có một đám đông. Họ chăm chú theo dõi mọi việc và cho rằng đó là “đám cưới nhợt nhạt”.
Họ không nghĩ rằng cái “nhợt nhạt” đó là ở sự đơn giản, bởi lẽ chú rể đã lo toan chu đáo, may cho cô dâu bộ váy áo cưới bằng lụa rất đẹp, cả xe ngựa cũng có rất nhiều. Nhưng các bà hàng xóm nói đúng ở chỗ là, tất cả những gương mặt quen thuộc trong đám cưới ấy đều nhợt nhạt, cứ như thể trước đó có gì không hay xảy ra vậy. Cô dâu nhợt nhạt thì đã đành, họ không lấy làm ngạc nhiên, vì “cô dâu nhợt nhạt sẽ là người vợ vui vẻ”, nhưng mà chú rể cũng cảm động đến nhợt người, rồi trên khuôn mặt cô Klára, làm phù dâu, cũng chẳng có chút hồng hào, rồi tất cả những người khác cũng thế. Kể cả khuôn mặt tròn trĩnh của ông luật sư, là người làm chứng, cũng vậy. Thường ngày, khuôn mặt ông rạng rỡ, nhưng ngày hôm nay trông cứ lạ lạ. Chỉ có cậu Václav, phù rể, là vui vẻ đùa cợt như mọi ngày. Nhưng mà ai cũng biết là với cậu ấy thì chả có cái gì được coi là nghiêm trang.
Sau buổi trưa, ông luật sư đứng ở trước nhà, tay mang găng tay, liên tục ngó vào cổng, có vẻ ông đang chờ ai đó. Rồi thấy Václav ăn mặc chỉnh tề đi từ cửa hàng ra đến chỗ ông đứng.
“Chú đi dạo ạ?”
“Vâng... vào công viên Stromovka.[10]”
“Chú đi một mình ạ?”
“Vâng... à không, bà Lakmusová cũng cùng đi!”
“À, cả cô Klára! Sáng nay trông cô ấy rất đẹp.”
Ông luật sư nhìn nhanh xuống đường. “Thế còn cậu, cậu đi đâu vậy?”
“Cháu đi Šárka.[11]”
“Chắc chắn là đi cùng với ai,... với Márinka hả?”
“Dạ, không,” Václav cười, “cháu đi với bà chủ nhà và cô Matylda ạ.”
Có tiếng phụ nữ vang lên ở cổng; mẹ con bà Lakmusová và mẹ con bà chủ nhà gặp nhau ở đầu cổng.
“Đi chơi với mẹ con bà chủ nhà ư?” Ông luật sư ngạc nhiên. “Chẳng lẽ cậu muốn vướng mắc vào tròng thật sao? Cậu thật là...”
“Thì có sao hả chú? Cháu biết cháu làm gì mà... cháu chỉ muốn trả thù cho nam giới chúng ta. Còn chú, chắc chú cũng trả thù, có phải không ạ?”
Vẻ lúng túng hiện ra trong đôi mắt ông luật sư. Ông mở miệng như muốn trả lời, nhưng mím môi lại không nói lời nào. Ông khẽ ho rồi bảo: “Nói khe khẽ thôi, họ đang đến kia kìa”.