Người đi bỏ mặc câu thề | VN-Zoom | Cộng đồng Chia Sẻ Kiến Thức Công Nghệ và Phần Mềm Máy Tính

Adblocker detected! Please consider reading this notice.

We've detected that you are using AdBlock Plus or some other adblocking software which is preventing the page from fully loading.

We need money to operate the site, and almost all of it comes from our online advertising.

Please add vn-z.vn to your ad blocking whitelist or disable your adblocking software. 

All the knowledge we share is completely free. If you are willing, please support us here.

×

Người đi bỏ mặc câu thề

malemkhoang

Rìu Chiến
Người Đi Bỏ Mặc Câu Thề.jpg

Con Hươu Sao Ngơ Ngác​


Tôi lên trại Hươu đúng vào mùa tình.

Buổi đi làm đầu tiên với tư cách là công nhân trại Hươu tôi thực sự ngạc nhiên vì Quỳnh Hương cũng đã lên đây làm việc. Gặp tôi ngay đoạn cua vào trại, em reo lên thảng thốt:

- Trời! Anh Tiểu Thiên, anh cũng lên đây à?

- Lên chứ, anh lên... tìm em...

- Anh thì... khi nào cũng đùa được.

Vừa nói Quỳnh Hương vừa nhìn tôi, hai má ửng lên như trái đào chín. Lạ thật sau những biến cố tang tóc của gia đình, sau một mùa đông đầy u ám đói rách, oan ức, tủi hờn vậy mà mùa tình đến, Quỳnh Hương trổ mã phô phang sắc đẹp đầy thách thức của con gái tuổi dậy thì. Mùa Đông trước, Quỳnh Hương có vẻ đẹp lành lạnh, buồn buồn ne nép để hợp với cảnh tang biến của gia đình. Vẻ đẹp đó của em đã bắt tôi bao lần khi không có việc cũng cố tình đi ngang trước ngõ nhà em. Giờ đây, giữa núi đồi trang trại, bạt ngàn rừng rú trong miên man gió mùa tình, em làm tôi chóng mặt. Đứng gần em trong tôi có cảm giác y như cái lần đầu tiên được làm anh thợ bắt đầu, lần đầu tiên chứng tỏ với mọi người sự trưởng thành và sức mạnh đàn ông. Tôi mạnh dạn nhìn lại Quỳnh Hương, em ngoảnh mặt đi, hơi thở lỗi nhịp làm cho hai cái chóc hươu trên cặp ngực thanh tân cứ phập phồng như đang cựa quậy. Lẽ nào nơi tận cùng của chốn đi lại là nơi tôi tìm thấy hạnh phúc. Thấy tôi như người mộng mị, Quỳnh Hương hỏi:

- Thế anh ở tổ nào?

- Anh chưa biết. Sau cái đận ấy, nhà Hương thế nào?

- Người ta chia quả thực hết anh ạ, thôi nhắc lại làm chi mà buồn, em ở tổ chăn nuôi.

- Anh mới lên không biết họ phân công ở tổ nào, chắc là tổ kỹ thuật thôi. Thế ai là trại trưởng? Dễ sống không?

- Anh cu Tỉn.

- Trời... cu Tỉn...

- Làm gì mà anh thảng thốt vậy, người làng thì dễ sống hơn, em thấy anh ấy cũng quan tâm đến em... À không, quan tâm đến người làng lắm...

- Thì cứ nói là quan tâm đến em cũng có sao đâu.

Lạ thật, mới nghe Quỳnh Hương nói lỡ lời có vậy mà máu trong người tôi đã bốc lên tận mặt. Tôi nói mát với Hương một câu rồi đi về dãy nhà của chỉ huy trại. Đúng là anh cu Tỉn làm trại trưởng, khi thấy tôi bước vào phòng, điệu bộ của anh rất lạ, nửa khệnh khạng, nửa khúm núm, chắc thời gian đổi đời mới ngắn ngủi quá nên chưa thể biến được một anh đầy tớ thành một ông chủ. Có sao đâu, khổ khó chịu, sướng mau quen. Khi tôi chào đến tiếng thứ hai anh mới giật mình mời tôi ngồi xuống ghế hắng giọng hỏi:

- Tình hình nhà cửa ổn cả rồi chứ? Thôi, người làng với nhau cả, tôi cũng phải lên đây huống hồ là nhà anh, chúng ta đều đi xây dựng một vùng kinh tế mới. Rồi đây cả nước, cả thế giới sẽ biết đến chúng ta nhờ những con hươu đang ở trong chuồng kia. Gia đình anh có nhiều kinh nghiệm nuôi hươu, anh về tổ kỹ thuật được không?

- Tùy các anh thôi, nhưng tôi sợ cách nuôi cũ của chúng tôi không còn hợp với thời đại mới.

- Mới gì cũng phải đi từ cái cũ, anh cứ yên tâm, rồi đây sẽ có các kỹ sư học hành bài bản về làm quản lý cái tổ kỹ thuật của anh, không phải lo.

- Thế cụ thể tôi phải làm gì?

- Anh thấy đó, mùa tình đến rồi, anh chuẩn bị cho lứa cắt nhung mới, cưa và người cắt thì tôi đã điều bên tổ thợ mộc. À mà này, không bắt bộ đâu nhé, mạng người là vốn quý, đã có người bắt dây, khi con hươu phục xuống rồi anh mới nhảy vào ôm đầu.

- Được thôi, còn ngoài việc đó ra?

- Là canh cho phối giống, trước mắt thì cứ cho hươu với hươu đã, sau này anh và tôi phải nghiên cứu kỹ việc này, tôi thấy con dê cũng giông giống con hươu, lại... máu lắm... hề hề... khoản đó thì con dê là phải biết. Sừng dê lại chả có ích quốc lợi gia gì, cho mấy chú dê cụ làm cái khoản ấy với hươu là hợp nhất... Còn hươu đực nghỉ cho khoẻ, còn lên nhung chứ.

- Anh nói thật hay đùa vậy? Cho dê phối hươu... liệu rồi nó ra cái con gì....

- Thì cứ cho nó ra cái gì đã rồi tính, có nhiều thứ cứ ngồi mà nghĩ thì có thấy nó hình thù gì đâu, cứ làm rồi sửa, rồi sai rồi lại sửa. Sai thì sửa có sao đâu.

- Tùy anh vậy, tôi là lính anh sai thì tôi làm.

Buổi đầu tiên đến trại nhận công tác như thế là tạm ổn. Chiều đó, thấy tôi vừa về đến nhà, cha đã hỏi ngay:

- Thế nào, họ cho con làm việc gì?

- Con vẫn là thợ bắt đầu cha ạ.

Nghe tôi nói vậy, mắt cha sáng rỡ lên, cha hỏi dồn:

- Thế cha vẫn là thợ cắt nhung chứ? Ừ, họ cũng không đến nỗi nào con nhỉ!

Không muốn dập tắt đi mối hy vọng mới nhen lên trong mắt cha, nhưng không thể nào khác được, tôi muốn cha đừng có hy vọng quá để tuổi già mà thất vọng đau thì tủi nên tôi nói.

- Không cha ạ, bây giờ họ trọng người hơn, họ sợ con bắt bộ có sơ sẩy nên sẽ có người đưa thòng lọng vào chân sau của hươu, giật cho ngã sau đó con chỉ vào tóm lấy đầu đè xuống.

Nghe tôi nói, mặt cha ban đầu đỏ tía lên, sau đó chuyển sang tái nhợt. Khi tôi nói xong, cha lẫm nhẩm trong miệng.

- Nhưng hươu là linh vật, đối xử với linh vật bằng cách xỏ lá vậy sao...

- Ở đây không có linh vật cha ạ...

- Ừ... vô thần, vô thần mà... Nhưng còn cưa nhung thì sao... cha vẫn làm việc đó chứ...?

- Không họ nói mấy anh thợ mộc làm việc này tốt hơn cha, thợ mộc chỉ cần lấy cái bút chì, vanh một cái quanh cội đế thế là cứ theo đó mà cưa, chả cần nửa hạt gạo chồng đứng hay trước mỏng sau dầy, lấy tay làm khấc cho nó rách việc.

Nghe đến đó, cha tôi không còn đứng vững được nữa, ông vuốt cột nhà ngồi xuống bên mấy cái đầu đày vừa thiến ra từ mấy cái chân cột nhà còn tươi, lòng hoang hoải ông phóng mắt vô hồn về phía ngọn Ba Mụ, nơi đó chỉ có sớm mấy bước mà đàn hươu của nhà tôi đang thung thăng đùa giỡn với đại ngàn, với suối, với cỏ, với cây. Chúng đã tìm được cuộc sống của chính tổ tiên chúng đã từng sống. Cũng có thể bây giờ đàn hươu đã có hàng trăm con và những con hươu đực trưởng thành đã lại tách đàn, đem theo bên mình mấy con hươu cái làm thê thiếp. Nhưng cũng có thể do lệ thuộc vào con người quá lâu, khó thích nghi với tự nhiên, bản năng hoang dã mất dần nên không phát triển, đàn cứ cùn mòn dần rồi đi đến tuyệt diệt. Nhưng dù gì thì trước khi chết, trước khi tan nhòa vào với cỏ cây, những chú hươu từng là hươu nhà cũng một lần biết đến đại ngàn, biết đến sự tự do.

Ngồi nhìn hút về phía núi Ba Mụ một lúc, cha hỏi tôi mà như tự hỏi mình:

- Hay con xin họ đừng bắt đầu nữa được không con?

- Sợ không được cha ạ, trước đây hươu của mình muốn làm thì làm không làm thì thôi, giờ của tập thể, con đang là công nhân, người của tổ chức.

- Người của tổ chức thì không được làm theo những gì mình thích và mình thấy đúng. Ông bà mình thấy đúng hả con?

- Không cha ạ, ý chí tập thể là trên hết.

- Nhưng cha sợ, chúng ta không công bằng với linh vật, đối xử không đúng với linh vật. Hươu là linh vật của làng con ạ, chưa khi nào hươu là hàng hóa cả. Cắt nhung mà cưa bằng cưa thợ mộc, động óc hươu chịu sao thấu.

- Con cũng biết điều đó, nhưng...

Nghe tôi nói và bỏ lửng giữa câu, cha không hỏi gì thêm nữa, mái tóc cha mới qua mấy biến cố đã không còn một sợi đen giờ đang rũ xuống lòa xòa trước mặt. Nhìn cha, dù ai có giỏi tưởng tượng đến mấy thì cũng không thể nghĩ trước đây cha đã từng là thợ bắt đầu, đã từng là đô vật số một của làng. Nhìn cha, tôi chợt rùng mình, cha có cái nét gì đó rất giống ông nội những ngày cuối đời, chả lẽ cái điều đó đến sớm vậy sao? Không thể, qua biến cố này rồi cha sẽ trở lại phong độ như xưa thôi. Tôi đang tính, có một ngày nào đó rảnh, cha con tôi sẽ đi vào tận núi Ba Mụ để xem đàn hươu giờ sinh sống ra sao.

❖ ❖ ❖

Đoàn cán bộ xuống kiểm tra trại Hươu đúng vào giữa mùa tình, mùa cắt nhung hươu. Khi anh cu Tỉn dẫn đoàn Kiểm tra xuống khu vực thả hươu thì bất ngờ có một sự kiện hi hữu xẩy ra. Khi thấy ông Trưởng đoàn kiểm tra lại gần, như có một mệnh lệnh không lời, cả đàn hươu bỗng đứng phắt dậy, giương những cặp mắt ngày thường vốn ngơ ngác giờ đây đã đỏ đòng đọc nhìn chằm chằm ông Trưởng đoàn. Rồi cũng bất ngờ như hành động đứng dậy, con hươu đực đầu đàn toác lên một tiếng đanh như xé vải rồi bất thần lao thẳng về phía ông Trưởng đoàn. Nhung non sao đọ được với lim già, nó bị gióng chuồng lim hất bật trở lại làm cho bổ chửng. Cặp nhung ba tuần tuổi trên đầu nát choe choét, máu phun phùn phụt ra cả nền chuồng, phun ướt áo, ướt mặt ông Trưởng đoàn. Sau cái hành động bất ngờ của con đầu đàn, cả đàn hươu như có mệnh lệnh ngầm lại lồng lên, con đầu đàn mặc cho máu phun đầy mặt vẫn cứ tiếp tục lùi ra rồi lại lao thẳng vào gióng chuồng phía ông Trưởng đoàn đang đứng. Trong chuồng một vài con hươu đực nữa đang lùi lại lấy đà. Trưởng đoàn thấy thế vội vã rút khỏi chuồng hươu. Tôi nhìn họ rồi lại nhìn đàn hươu và giật mình, sao biểu hiện của đàn hươu này giống với đàn hươu nhà tôi mấy năm về trước vậy, cái ngày vì không nghe lời cha dặn trong lần bắt đầu đầu tiên, tôi đã há mồm uống những sợi huyết nóng phụt ra từ vết cắt nhung của con đực cồ, sau đó con thú bản năng trong tôi nó gào thét, cắn xé vật vã đòi được thỏa mãn chuyện ái ân. Không thể nhốt được con thú bản năng lại trong lòng, buộc tôi phải chiều theo nó. Chỉ một lần thôi mà tôi đã mang bệnh. Nguy hại hơn là tôi không nghe lời cha mà nỡ phạm vào điều cấm kỵ nhất của người thợ bắt đầu trong cái làng nghề nuôi hươu. Kể từ lần đó, mỗi khi thấy bóng tôi, đàn hươu trong chuồng cũng có biểu hiện như thế này. Không còn cách nào khác, cha tôi đã phải thả cả đàn hươu vào rừng, tôi phải trả lại cái thiên chức làm thợ bắt đầu cho người có thiên lương hơn tôi. Chả lẽ? Tôi lại nhìn đàn hươu một lần nữa, nhìn con hươu đầu đàn mắt đang long lên sòng sọc vác hất cái mặt đầy máu lên như đang thách thức và sẵn sàng đâm sầm vào ông Trưởng đoàn nếu ông ta quay lại. Tôi nhìn nó và như không tin vào mắt mình, đứng trước tôi là con đực cồ với cái bờm cước đang dựng ngược lên và cái cần cổ như cái áo tơi mà tôi đã từng một lần được ôm vào lòng trong cái lần bắt đầu đầu tiên. Tôi đang đứng mê mẩn mặc cho ký ức xưa quay về thì Quỳnh Hương đến bên khẽ nói:

- Có cách gì cầm máu cho nó không anh? Trông thảm quá.

- Ừ thảm quá! Phải vào bắt thôi, nhưng giờ không có nhung, bắt rất khó.

- Nhưng thương nó quá, ngày nghe ba tiếng súng bắn cha em ngoài bãi soi, nó cũng đã toác lên ba tiếng và cũng đâm dập cặp nhung đang non như thế này.

- Hóa ra nó là hươu của nhà em à?

- Nó tên Rừng, một nửa đàn hươu trong trại là của nhà em.

- Vậy thì em lên gặp giám đốc trại liền đi, kêu người bắt rồi còn cưa cho gọn để cầm máu cho nó.

- Nhưng em sợ anh ấy đang tiếp khách quan trọng, không để ý gì đến hươu đâu.

- Khách đến đây cũng vì đàn hươu, thế thì khách quan trọng hay hươu quan trọng? Đi nhanh đi kẻo không kịp, chỉ có em nói may ra anh Tỉn mới nghe.

Tôi vừa nói vừa đẩy vào lưng Quỳnh Hương, trước khi chạy đi em còn quay lại nguýt tôi một cái sắc lẻm.

Quỳnh Hương chạy được một lúc thì đoàn người lúc nãy quay lại. Mới thấy họ đầu xa, đàn hươu đồng thanh ngửa cổ lên trời toác những tràng đầy ai oán, tuyệt vọng. Con Rừng toác kép một hồi và lại nghênh cái mặt máu lên. Tức giận làm cho máu con Rừng vọt mạnh hơn, những tia máu mảnh như sương li ti đậu trên mặt, trên áo những người đứng xung quanh chuồng. Tôi chạy lại nói với ông Trưởng đoàn:

- Ông đừng lại gần chuồng nữa, chúng hung hăng, vật vã mà chết mất.

- Tôi muốn đến để xem các anh bắt cầm máu cho nó.

- Máu đang chảy mà tức giận thì không thể cầm được, tôi xin ông.

Trưởng đoàn nhìn tôi một lượt từ đầu tới chân rồi hỏi anh Tỉn:

- Anh này là...

- Dạ, nó tên Tiểu Thiên, thợ bắt đầu có tiếng một thời gian gia đình nhiều kinh nghiệm nuôi hươu ạ.

- Thôi được... thật chả ra làm sao cả, có ai phá không? Kinh nghiệm, kinh nghiệm mà không biết bảo con hươu nó đứng yên được à?

Nói xong Trưởng đoàn ngảy một cái rồi đi vào nhà khách của trại ngồi chờ. Trại trưởng Trần Văn Tỉn hô mọi người tách con Rừng chuồng cắt. Nhưng nhìn nó đang lên cơn điên, không ai dám xông vào. Trại trưởng hô hào khản cả cổ mà mọi người vẫn cứ đứng nhìn nhau, con Rừng vẫn đứng chính giữa chuồng thả, mắt gườm gườm, máu vẫn phun như sương bay nhuộm đỏ hết mặt mũi quần áo của nhưng người đứng xung quanh. Thấy mọi người chần chừ, nóng ruột quá, Quỳnh Hương nói to: - Để tôi! Mọi người chưa kịp phản ứng gì thì Quỳnh Hương đã mở cửa chuồng lách vào. Khi đó, anh cu Tỉn mới kịp định thần lại, khẩn nài:

- Quỳnh Hương ơi, em ra ngay đi, nó đangđiên đấy!

- Kệ tôi, đồ hèn.

Thấy Quỳnh Hương vào, con Rừng cúi nhanh đầu xuống, triển cơ cổ làm cho cái bờm cước dựng đứng lên, miệng nó méo vẹo sang một bên, lưỡi thè ra phun phì phì phì như rắn hổ mang. Đám đàn ông nìn thở. Máu vẫn phun như những vòi sương lên người Quỳnh Hương. Máu nhuộm cái áo phin trắng những chấm ly ti hồng, máu đọng trên làn da mặt trắng mịn của Qùynh Hương. Hương vẫn thận trọng đi từng bước nhón nhỏ tới trước mặt con Rừng. Bỗng con Rừng lùi nhanh một bước rồi cất cao cái đầu và hai chân trước lên. Mọi người đều nín thở thất kinh, tôi dợm bước tính mở cửa xông vào cứu Quỳnh Hương. Nhưng thoảng như một hơi thở nhẹ, Quỳnh Hương nài nỉ:"Rừng... ngoan nào... muốn thoát thì ngoan nào...”. Nghe Quỳnh Hương gọi đến tên, con Rừng bỗng khựng lại, hai chân trước rơi xuống tại chỗ. Biết nó đã nghe lời, Quỳnh Hương tiếp tục nhẹ nhàng đi từng bước nhỏ tới, con Rừng lùi dần, lùi dần... Mọi người vẫn hồi hộp dõi theo từng động tác của Quỳnh Hương và con Rừng. Đến trước cửa chuồng cắt, con Rừng không chịu chui vào, nó đứng lại thủ thế như ban đầu, Quỳnh Hương nhẹ nhàng nhưng vẫn bước nhỏ đều đến trước mặt nó, vừa đi vừa nói:"Rừng ơi, ngoan nào... chị thương... vào chuồng cắt đi..." Mọi người vẫn nín thở đứng nhìn. Con Rừng lại toác lên một tràng ai oán, toác xong miệng méo xẹo, lưỡi thè ra phun phì phì. Giám đốc Trần Văn Tỉn năn nỉ: - Thôi Quỳnh Hương ơi, em ra đi, còn có cách khác mà. Như không nghe tiếng của giám đốc nói, Quỳnh Hương vẫn dấn bước đi tới, con Rừng lại chồm lên, lần này bỗng dưng Quỳnh Hương thét lên một tiếng làm cho cả hươu và người đứng ngoài đều giật mình:"Rừng, quay lại!” Con Rừng đang đứng trên hai chân sau, giật mình vì tiếng thét của Quỳnh Hương vội ngoải người một cái, oặt ra sau và cả người nhảy gọn vào trong chuồng cắt. Nhanh như bản năng vồ mồi của loài thú ăn thịt, một bước nhảy Quỳnh Hương đã áp sát chuồng cắt với tay đóng sập cửa lại. Mọi người trút được hòn đá tảng đang đè trên ngực. Giám đốc Trần Văn Tỉn hô:

- Dây đâu, cưa đâu chuẩn bị, Tiểu Thiên đi lối cửa sau bắt đầu.

- Không! Nếu bắt dây tôi không bắt đâu.

- Buổi này không phải để đôi co, chết con Rừng thì anh cũng khó sống.

- Chết tôi cũng chịu.

- Thôi được, cất dây đi, bắt bộ... nhớ đấy.

Sau quyết định của giám đốc trại, tôi lựa mấy người trước đây đã từng bắt bộ với tôi ráp lại thành một tổ, nhanh chóng tiếp cận con Rừng. Tôi bảo mọi người đồng loạt mở cửa và vào cùng một lúc để phân tán sự chú ý của con Rừng. Đúng như dự định của tôi, con Rừng trừng trộ, trừng trạo như ác vô trộ đó, mắt đảo liên hồi như rang lạc, đầu quay tứ phía đều gặp người đang tiếp cận. Máu trên đầu nó vẫn phun mạnh chứng tỏ nó đang còn trường sức lắm. Tôi nhích lên nhỉnh hơn mọi người một bước, ngay lập tức con Rừng quay người lại, đâm sầm tới. Đợi cho đầu con Rừng cách người tôi một cái với tay, uyển chuyển như loài hổ, chân tôi xuống tấn nhưng người lại né sang một bên, khi đầu con Rừng đã nằm gọn trong nách phải, tôi liền triển chặt tay lại. Theo đà đâm, con Rừng kéo theo cả người tôi rầm một phát vào gióng chuồng. Không ai hô mà đồng loạt bảy người bắt bộ đã tiếp cận, tóm gọn các vị trí trên mình con hươu vào trong những bàn tay chắc như mỏ quặp của mình. Toác lên một tiếng bi ai, như người anh hùng thất thế, con Rừng ngoan ngoãn nằm xuống nền chuồng đầy phân và máu. Anh cu Tỉn nhanh chóng lòn thau rượu vào chuồng. Thấy thế, Quỳnh Hương gào lên:

- Đến nước này mà còn hứng huyết nữa à?

Bị bất ngờ, anh cu Tỉn trở lại bản chất của anh nông dân cục cằn vô học, anh quát lại Quỳnh Hương một câu rất tục.

- Không hứng huyết hươu thì lấy máu l... của cô cho cán bộ uống à?

Quỳnh Hương giận tím người thét lên:"Đồ mọi rợ, dã man” thét xong rồi ôm mặt chạy đi.

❖ ❖ ❖

Sáng hôm đó chúng tôi còn phải cắt thêm bốn cặp nhung nữa. Khách đông, huyết hươu có hạn, nên chỉ có chai rươu huyết để trên bàn ông Trưởng đoàn là có màu đỏ của đá Ru bi, còn lại các chai rượu của các bàn khác chỉ oe hoe lấy màu. Thế cũng còn tốt chán, đã lâu không được nếm mùi huyết hươu nên ai cũng háo hức uống. Quỳnh Hương và tôi chui vào ngồi một góc hờ hững nhìn mọi người hả hê trong bữa tiệc máu. Nhìn những cái miệng đỏ lòm huyết hươu đang ngoác ra cố uống lấy được cái chất tinh tuý, cái lộc trời cho dân làng tôi mà bỗng dưng tôi thấy rùng mình. Tôi không thể tưởng tượng, không thể so sánh được xem cái tiệc nhung hươu hôm nay có liên quan gì, gần gũi gì với cái lễ tinh phộc của làng tôi trước đây. Chắc Quỳnh Hương cũng đang có những suy nghĩ như tôi nên khi tôi đang tính rủ em ra ngoài ngồi cho thoáng thì em đã cầm tay tôi kéo đi. Đến bên gốc mít sau hồi nhà ăn, hai đứa tôi ngồi xuống. Tôi cầm lấy bàn tay ấm nóng của Quỳnh Hương an ủi, em để nguyên tay em trong bàn tay thô ráp của tôi, vừa nhìn về phía đại ngàn xa xanh, Quỳnh Hương vừa nói:

- Em thương con Rừng quá, đáng lẽ chỗ của nó là trong kia, nơi bố nó đang sống.

- Em nói sao, con Rừng là lai hươu rừng?

- Hươu rừng độc hẳn hoi.

- Thế con hươu cái nhà em sổng chuồng xông vô rừng tìm hươu đực à?

- Không phải, ngày đó đàn hươu trong chuồng nhà em bắt đầu thoái hóa, cho nhung nhỏ dần, cận huyết, có con vừa mới đẻ ra đã bị chết, nguy cơ tan đàn đến nơi. Sau nhiều đêm suy nghĩ, cha em đã công phu vào quây một cái ràng lớn dưới chân núi Ba Mụ thả vào đó hai con hươu cái và canh cả tháng. Em được cha cho đi theo cơm nước.

- Nhưng làm sao mà dụ được hươu rừng, phát hiện có hơi người dễ gì chúng đến.

- Điều đó không khó, trước khi đi, quần áo của hai cha con phải chôn xuống đất cùng với lá mục, sau đó khoác lên người, nằm sương hết ba đêm cho bay hết mùi người rồi mới dám vào rừng. Vào đến nơi thì lựa theo hướng gió ngồi phía dưới. Vậy mà năm lần bảy lượt thấy đàn hươu rừng mon men ra uống nước, cha đều khéo léo cho hai con hươu nhà ra lấy giống nhưng không được, cứ thấy con hươu rừng đến gần là hai con hươu nhà trốn tiệt vào trong ràng, không những trốn, chúng còn nằm ệp xuống, mặt khinh khỉnh nhìn lũ hươu rừng hôi mù. Chờ lâu đã nản, cha tính thu ràng gánh hươu về. Nhưng rồi sự kỳ diệu đã đến. Đúng vào đêm tiết nghinh xuân, cha con em đang rầu rầu nhìn trăng giữa tháng nhưng vẫn còn vết đen lại còn trốn chui trốn lủi sau những đám mây mà buồn thì bỗng dưng nghe một tiếng toác rung trời chuyển núi. Mây toạc ra cho vừng trăng vằng vặc chiếu rọi cả đại ngàn vốn dĩ thâm u. Trăng soi tỏ cả những gân lá còn đọng sương đêm. Chưa hết bàng hoàng thì trước mắt cha con em đã thấy lừng lững một con hươu đực lực lưỡng trên đầu đội cặp nhung to trắng hồng như hai cụm thạch nhũ, đế nhung to như cái bát yêu. Con hươu đực đứng nhìn cha con em một lúc rồi thản nhiên như không thấy người, nó nhún phốc một cái gọn hơ vào trong ràng với hai con hươu cái. Sau một lúc đi vòng quanh ngắm nghía kỹ hai con hươu nhà, con hươu rừng đến bên một trong hai con hươu cái rồi nhanh như chớp, nó giơ một chân trước lên cao, cha con em chỉ nghe một tiếng rốp giòn tan, thì trước mắt đã thấy một con hươu cái ngã vật xuống nền rừng, tai, mắt, mũi máu trào ra, chân giật giật mấy cái rồi nằm yên bất động. Đập chết con hươu cái kia xong, con hươu rừng mới lượn cái thân mình uyển chuyển núi non ve vãn con hươu cái còn lại. Như không còn có trời đất, rừng núi với sự hiện diện của con người, chúng xoắn xuýt lấy nhau bên cái xác còn ấm của con hươu cái xấu số. Rồi nhân một giây trăng lui, con hươu đực chồm lên lưng con hươu cái, hai tiếng thét xé rừng cùng một lúc, muông thú túa ra chạy ràn rạt gãy răng rắc cây rừng. Rồi trắng lại sáng, con hươu đực đứng ngẩn ngơ nhìn con hươu cái đang khuỵu hai chân sau xuống đánh dấu lên nền rừng cái mốc cuối cùng của sự thanh tân. Sau đó như có sự thôi miên, con hươu đực cứ thơ thẩn đi lại gần rồi cúi xuống liếm bằng sạch vạt đất nhuộm máu của con hươu cái. Rồi trăng lại tạm lui đi cho con hươu đực chồm lên lưng con hươu cái một lần nữa, khi trăng sáng, cha con em đứng ngơ ngác nhìn, trên nền chuồng chỉ còn lại một con hươu cái đang đứng khuỵu hai chân sau xuống, mặt ngửa lên trời cười hềnh hệch. Đúng là nó cười hềnh hệch anh ạ- bên cạnh xác con hươu cái xấu số đang lạnh dần.

Bảy tháng sau con hươu cái đó đẻ con, em đặt cho con hươu mới đẻ tên là Rừng. Từ ngày có con Rừng, đàn hươu nhà em phát triển tốt, cho nhung to. Nhưng cũng chính vì yêu hươu quá, phát triển nhiều quá cha em mới mang hoạ, mới trở thành địa chủ cường hào ác bá...

Nghe Quỳnh Hương nói, tôi không biết an ủi gì thêm, gia cảnh nhà tôi nào cũng có khác nhà Hương là mấy. Tôi chỉ biết nắm chắc tay em trong tay tôi như thầm hứa cùng nhau sẽ vượt qua tao đoạn này.

❖ ❖ ❖

Khi tôi và Quỳnh Hương quay lại nhà ăn thì thấy mọi người đã tàng tàng say, Ông Trưởng đoàn đang giơ cao ly rượu hỏi:

- Tôi đố mọi người, huyết hươu nó có mùi vị giống với huyết con gì?

Tùy theo vị huyết mỗi người được nếm trước đó mà nhao nhao đưa ra sự so sánh. Một người nói:

- Giống huyết dê.

Người khác nói:

- Giống tiết canh vịt.

Ngươi khác lại nói:

- Tôi thấy giống huyết thỏ.

- Ừ đúng đấy giống tiết canh thỏ.

- Không phải, tôi thấy đỏ, thơm và hơi tanh tanh như huyết chim bồ câu.

- Chim sao mà giống thú được, giống tiết canh lợn.

Đợi cho mọi người cãi nhau chán, cuối cùng ông Trưởng đoàn đứng dậy vừa lấy một tay xoa bụng vừa làm động tác cho mọi người im lặng và đưa ra lời phán quyết cuối cùng.

- Huyết hươu giống... giống máu....người!

Nghe lời phán quyết đó, tất thảy mọi người đều kinh ngạc. Nói vậy thì chịu! Nói xong câu đó, Trưởng đoàn lại đưa ly rượu lên bảo mọi người cùng uống. Nhưng không còn được hào hứng như trước nữa, đã có những cái ly ngập ngừng khi đến gần sát miệng. Không cần để ý đến những điều nhỏ nhặt đó, như để tăng thêm cái đức tính cởi mở, xuề xoà, gần dân của mình. Trưởng đoàn nói tiếp sau khi đã chổng đít ly vào mặt hết thảy quan khách:

- Không những giống từ màu sắc, mùi vị mà còn giống đến cả công dụng của nó nữa. Tối về thì... phải biết. Tôi là tôi có kinh nghiệm lắm, chẳng có huyết gì có thể lấy lừa tôi là huyết hươu được đâu, chỉ có máu người may ra là tôi nhầm... Cũng lạ thật, máu người nó giống máu hươu kỳ lạ, khó mà nhận ra.

Nghe Trưởng đoàn nói thế, mọi người đều thầm đưa mắt cho nhau và im lặng. Tiệc cũng tàn dần, trên bàn đây đó vẫn còn những cốc rượu huyết hươu uống dở.

❖ ❖ ❖

Đang giữa mùa tình vậy mà đàn hươu ăn chơi biếng nhác, hươu cái không còn ngúng nguẩy những cái đuôi ngắn ngủn ướt chèm nhẹp gọi mời, hươu đực đêm đêm không còn hậm hực phá chuồng mong sang với đàn hươu cái để giải tỏa nỗi bức xúc, rậm rực bao giờ cũng thường trực trong mùa tình. Riêng con Rừng, kể từ đận ấy, nó không hề động đến một ngọn cỏ nào, hàng ngày chỉ nấp vài ngụm nước do chính tay Quỳnh Hương đưa đến. Nhịn ăn đã một tuần, người con Rừng bây giờ chỉ còn lại bộ xương. Anh cu Tỉn đã báo cho thú y về khám rồi tiêm rồi xông đủ cả, nhưng con Rừng không ăn vẫn hoàn không ăn. Cuối cùng không còn cách nào khác, anh Tỉn phải trực tiếp đến nhờ cha tôi. Dù đang ốm, nhưng khi nghe con Rừng có thể nguy, ông vội vàng đến trai hươu. Vừa nhìn thấy con Rừng, ông đã buồn bã lắc đầu. Thấy thế, anh Tỉn hỏi:

- Liệu có cách nào cứu được con Rừng không ông?

- Khó đấy, tôi chưa bao giờ chữa bệnh cho hươu của người khác cả.

- Ngày xưa nuôi cá thể thì đã đành vậy, bây giờ của tập thể, của toàn dân, ông phải có trách nhiệm chứ.

- Tôi già rồi, một mình thằng Thiên có trách nhiệm với cái trại nay là được rồi.

- Thế không còn cách gì à?

- Còn đấy.

- Ông nói nhanh đi.

- Anh hãy bán con Rừng này cho tôi.

- Không được, tù chết, đòi cá thể lại à?

- Không được thì thôi, chào anh tôi về.

Vừa nói cha tôi vừa quay người dợm bước buộc anh Tỉn phải xuống nước.

- Thôi được bây giờ tôi bàn thế này, cứ coi như con hươu này là của ông, ông mua nó với giá một tấn thóc, khi ông chữa khỏi cho nó, trả về trại, trại sẽ trả dần dần thóc cho ông.

- Nếu tôi chữa không lành mà nó chết?

- Thì Tiểu Thiên làm việc ba năm không công.

- Tôi đồng ý.

Chúng tôi sắm võng, đòn bắt con Rừng trói lại trên võng, tôi gánh một đầu, đầu kia Quỳnh Hương gánh. Con Rừng chỉ còn lại có bộ xương nên bước đi của chúng tôi nhẹ lắm nhưng trong lòng thì nặng trĩu lo âu. Trăng giữa tháng đã le lói sau đỉnh Ba Mụ, chúng tôi cứ lầm lũi bước mỗi người mãi đuổi theo một suy nghĩ. Đến ngã ba rẽ về nhà, như quên cả đường về, cha cứ lầm lũi đi thẳng vào rừng, không dám gọi, chúng tôi cũng lầm lũi gánh con Rừng đi theo. Đi qua khoảnh rừng thứ, lội qua ba con suối cạn, khi đến bên bờ con suối thứ tư thì cha bảo dừng lại. Chúng tôi đặt con Rừng nằm xuống bên bờ suối. Mắt nhìn hút vào đại ngàn, cha nói:

- Con mau cởi trói cho nó.

- Cởi trói lỡ nó chạy lung tung làm sao mà bắt cha?

- Cha chỉ sợ nhốt lâu quá, ốm yếu quá nó không còn chạy được nữa, còn nếu nó vẫn chạy được thì còn có phúc con ạ.

Tôi và Quỳnh Hương hí húi mở trói cho con Rừng. Khi các dây trói đã được lấy ra khỏi chân, con Rừng run rẩy, lập cập đứng dậy rồi đi xuống phía suối, khi đến mớm nước, nó cúi xuống uống mấy lưỡi nước rồi dò dẫm lội sang bên kia suối, khi gần đến bờ, thấy mấy cành cây chân chim xoã lòa xòa xuống gần mặt nước, nó đưa lưỡi ra cuốn vội lấy cho vào mồm nhai bõm bẽm. Tôi nhìn Quỳnh Hương, Quỳnh Hương nhìn cha, cha nhìn con Rừng... Trăng giữa tháng đã lên ngay đỉnh đầu, rờ rỡ tròn soi tỏ những nếp nhăn trên mặt cha tôi đang giãn dần. Không biết tự khi nào, tôi đã cầm lấy bàn tay ấm nóng của Quỳnh Hương, em để yên tay em trong tay tôi tin cậy. Chúng tôi cùng nhìn theo bóng con Rừng đang lẩn khuất giữa đại ngàn. Tôi và em cùng nhau nhìn về một hướng.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

Chuyến Xe Cuối

Thị không thể chịu nổi nữa rồi, thị muốn đập phá một cái gì đó cho hạ hoả, thị cầm cái đôn sứ đưa lên quá đầu, nhưng khi định giáng mạnh xuống nền nhà thì chợt nhớ ra, nói là cái đôn quý mua những năm trăm nghìn tận Lạng Sơn mới mang về. Thị nhẹ nhàng đặt cái đôn về chỗ cũ rồi như hổ cái mất mồi, thị vơ lấy cái bình hoa cổ rụt ở trên bàn, thị cương quyết lắm rồi, thị phải ném cái bình hoa này vào cái màn hình ti vi 21 in trước mặt mới được, thị phải ném, phải đập không thì thị tức chết đi được. Nhưng khổ nỗi, khi thị đang lấy đà, dùng hết sức bình sinh để ném cái bình hoa thì đầu thị lại lóe lên cái cảnh chưa xa, vợ chồng con cái cứ cơm xong là vác mặt đi xem ké ti vi hàng xóm. Thị lại đặt bình hoa xuống. Thị liếc sang gã, gã vẫn ung dung tự tại mới chết chứ. Thị không còn chịu nổi nữa rồi, thị sực nhớ, ở chạn bát có mấy cái bát mẻ thị đang tính rỗi rãi sẽ vứt đi, thị chạy nhanh lại chạn bát và lưng khòm tay gom, nhanh như mắt kẻ đa tình, thị chộp lấy cái bát mẻ lớn nhất tương ngay vào tường sát nơi gã ngồi. Gã vẫn ngồi yên như không có chuyện gì, thế mới tức chứ, thị chết mất. Thế thì thị phải ném tiếp cho gã biết mặt. Khi thị giơ tay chuẩn bị ném cái bát mẻ thứ hai thì gã lừ lừ đứng dậy. Thị thấy chùng, tay cầm bát hơi run. Hiền thì hiền nhưng gã mà điên lên gã đánh là bỏ mẹ. Hèn trâu còn hơn bạo bò, bàn tay hộ pháp đó mà táng thì coi chừng thị không còn răng mà ăn cháo. Gã lừ lừ tiến về phía thị. Chết thật rồi, gã điên thật rồi, thị đang tính thối lui, nhưng kìa, gã đi qua thị mà không hề nhìn, cứ như thị là cái cột nhà cháy không bằng. Tức quá đi được, chết mất thôi, đời thủa nhà ai, chồng không hề đếm xỉa đến vợ thì còn nói năng gì nữa. Thế thì thị phải đập phá tiếp cho hạ hỏa mới được, thị vơ cả chồng bát mẻ lên, nhưng lại chợt nghĩ: Quái, mình đập phá làm gì nữa cho phí nhỉ, gã đã soóc lửng lử đử đi ra phố rồi, bây giờ mình đập chỉ mình nghe, mình khóc, mình chửi chỉ mình nghe, tội gì. Thị thôi đập phá nhưng cơn tức vẫn cứ ứ tràn lên đến tận cổ. Thị phải về quê, về nhà cha mẹ đẻ cho cha con gã biết mặt. Nghĩ là làm, tính thị quyết đoán lắm, không cần xếp quần áo, thị vừa vấn tóc vừa te tát đi ra bến xe. Khi thị đi qua bà hàng nước đầu hẻm, thấy gã đang ngồi đó, trông cái mặt gã lúc ấy mới đểu làm sao, đểu như lúc thị tra gạn không còn đường chối cãi. Chiều nay khi gã vừa đi công tác về, thị đã thấy nghi nghi, bình thường thì phải biết, chỉ cần lách qua cửa là vồ lấy thị ngay, có lần thị thấy sao mà gã nặng quá, chả nhẽ mới đi công tác có mấy ngày mà gã đã tăng cân? Chỉ đến khi xong rồi mới biết. Gã chưa kịp cởi ba lô! Nghĩ đến đó má thị chợt đỏ sây đỏ sất. Thị lại vừa đi vừa nghĩ tiếp. Nhưng chiều nay mới tức chứ, gã về, cũng như mọi bận thị ra mở cửa đón, gã chẳng vồ vập cũng không mặn mà hỏi han. Thị nghi lắm, chắc lại đổ đi ra sông ra biển trước khi về nhà rồi. Gã không nói thị cũng không thèm gặng hỏi, đợi đến khi gã vào nhà tắm, như mọi lần, thị len lén mở ví của gã ra để kiểm tra. Thị không tin vào mắt mình, ví gã không còn một đồng bạc lẻ nào. Chết thật vét đến tận đồng xu cuối cùng cho gái rồi mới mò mặt về nhà. Chả bù cho mọi khi, đã thành lệ, khi gã và thị đã rã rời sau một lúc vần vũ, thị sẽ móc ví gã kiểm tra, thị đưa từng đồng tiền một trước mắt gã vừa vẫy vẫy vừa hỏi:"Tiền này ở đâu ra?". Nếu là đồng tiền thị đưa cho trước khi đi công tác thì gã sẽ vừa lờ đờ mắt tận hưởng cái sự khoái cảm ngấm lắng vừa trả lời:"Đó là tiền của bà.” Còn nếu không phải thì gã sẽ nói:"Của cơ qua x, y, z... boa.”. Còn lần này... Thị không còn chịu được nữa, thị phải hỏi cho ra nhẽ mới được, thị đến bên nhà tắm đập cửa đùng đùng, vừa đập thị vừa hét: Anh Thương, anh Thương mau ra đây tôi hỏi". Thị thấy tiếng nước chảy nhỏ dần rồi gã nói vọng ra:"Hỏi gì, tắm xong đã". Nhưng thị thì không còn chờ được nữa, thị không thể nhịn được lâu hơn, đập cửa không được thì thị giật, giật cũng không được thì thị đạp, đạp không được thị chạy đi kiếm cái chày... Nhưng khi thị đi kiếm chày thì gã đã tắm táp, thay quần áo xong và đủng đỉnh ra ngồi ngoáy tai trên bộ xa lông. Thị tính nhào tới cào lão mà hỏi, cấu lão mà hỏi, nhưng khi xông đến trước lão, mắt thị bắt gặp cái đôn sứ, thị nhấc lên... rồi gặp cái lọ hoa... rồi đến mấy cái bát mẻ... và bây giờ thị đang ở đây, đang ngồi trên xe để về quê một mình. Đây là lần đầu tiên thị phải về quê một mình. Trước đây ấy à, chỉ cần thị yêu cầu là bất cứ đang có công việc gì gã cũng phải bỏ đó để chiều thị. Còn lần này, thị sẽ ở dưới quê luôn cho biết mặt, ít bữa lại mò xuống năn nỉ thôi mà.
❖ ❖ ❖
Xe chạy chưa đầy hai tiếng đồng hồ đã về đến đầu làng nhà thị. Mới vào đến ngõ, thị đã nghe trong nhà mình có đông tiếng người. Quái, hôm nay nhà có việc gì mà đông người vậy không biết. Thị đứng nép bên bụi chuối vén lại mớ tóc cho gọn gàng. Nhưng thị biết giờ mà vào nhà thì thể nào mọi người cũng nhận là thị mới vừa khóc xong. Nghĩ vậy, thị len lén đi vòng ra cửa sau có ý trốn mọi người. Mới đi đến đầu hồi nhà bếp, thị nghe tiếng ai như tiếng cụ Tình trưởng họ nói:"Tôi sống đã gần trăm tuổi, nghe nói thì nhiều mà nay mới được thấy, được cầm lấy cặp nhung hươu thật trên tay. Nhất nhà ông rồi đó, có thằng con rể như anh Thương nhà này thật là phúc đức, đáng công đẻ, đáng công nuôi dạy con gái mình. Cặp nhung to thế này chắc cũng mất nhiều tiền lắm đây”. Thị không hiểu, sao cụ Tình lại nhắc đến tên chồng mình rồi còn nhung hươu, nhung nai đâu ra đây nữa. Thị đang phân vân thì nghe tiếng cha trả lời cụ Tình:"Tôi cũng thế, cả đời nào có biết nhung sâm gì đâu, cháu nó đi công tác đâu tận huyện Hương Sơn trong Hà Tĩnh ấy, nơi ấy nghe nói người ta nuôi hươu lấy nhung đã lâu đời, cháu nó vào tận chuồng xem họ cắt, mua tận gốc, còn lấy được cả chai rượu huyết hươu về biếu nữa. Mời cụ xơi một chén rượu huyết hươu gọi là lộc của cháu nó. Tội, của một đồng công một nén. Thằng rể thì vậy, nhưng nghĩ đến đứa con gái lắm lúc tôi buồn cụ ạ, nó không biết điều, nhiều khi quá quắt với chồng con...”. Thị đang đứng sau hồi, cha thị đang nói chuyện với cụ Tình mà thị nghe như cha đang đứng trước mặt thị mà trách cứ. Thị không dám vào nhà, thị cứ bần thần đứng sau hồi nhà mình mà nghe người ta trầm trồ khen chồng mình, trầm trồ khen cặp nhung hươu chồng mình vừa mang tận Hương Sơn về biếu bố mẹ mình. Bất chợt thị khóc rồi thị lại mỉm cười, rồi thị giật mình nhìn trời, mặt trời đã gác núi. Thị quày quả đi ra đường quốc lộ. Chết, coi chừng không còn kịp chuyến xe cuối về nhà rồi bố con nhà nó lại đi ăn cơm bụi mất thôi.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

Đêm Sang Mùa

... Gió đi như vuốt mèo hoang cào vào đêm. Trên mái ngói nhà cổ thỉnh thoảng con cú lẻ bạn lại thả xuống mấy tiếng cù rúc, cù rúc như gọi hồn người về với cõi âm. Hành nhau không bằng...
Cửa chính két mở. Sen vào mang theo hơi lạnh thấu tim. Kỳ lạ. Tôi giật mình nhìn Sen trân trối. Bộ cô này không lạnh sao? Váy áo mong manh mùa hè, má còn hây hây, tóc suôn mà cứ ươn ướt như mới gội, nhưng đôi mắt thì lại nhìn tôi rầu rầu:
- Ra xe đi anh, họ đang chờ - Sen nói. Tôi lập cập nhìn ra cổng, có một chiếc xe đang đứng đợi trong bóng tối của cây đại. Tôi hỏi lại:
- Sao em biết anh về mà gọi xe? Đêm hôm em đi đâu ra ngoài này...?
- Anh làm gì mà em chả biết, chuyện dài, nhanh đi anh.
Không thể nhẹ nhàng, tôi ném mấy tiếng khô lạnh như những cục băng vào Sen:
- Cô về theo tôi sao được, đã vậy rồi, không thay đổi được gì đâu. Bác đã quyết. Mà lạ, sao cô biết tôi ở đây mà tìm... Tìm nhau làm chi...?
- Anh cứ cho em theo về, em ở ngoài ngõ cũng được... Vả lại em cũng gặp bác luôn có sao đâu... Thỉnh thoảng em còn thấy bác ngồi uống rượu cùng ông nội em nữa mà.
Không biết nói gì hơn, tôi lủi thủi ra xe. Sen xăng xái đi trước, chiếc váy ngắn bắt gió phập phồng để lộ cả một khoảng đùi non trắng như sứ. Chết thật, ăn mặc thế này mà dám về làng. Bất tiện trăm đường. Ngày xưa tóc dài, áo nâu, quần đen, nết na, nền nã là thế mà bác tôi còn cạch mặt. Giờ thế này... mà hình như chiếc váy và cái áo cổ rộng để lộ cả hai chân vú, tôi đã mua tặng Sen thì phải. Mua là mua vậy chứ nào biết là nó ngắn, nó hở thế đâu.
Ngày xưa... Tôi chỉ còn lưu lại hình ảnh ngày xưa của một cô bé mười bảy dáng dong dỏng cao, chân tay thuôn, chắc như vận động viên điền kinh. Một cô gái người bao giờ cũng ngai ngái mùi bùn, thoang thoảng mùi sữa ngô non. Thay đổi chi mà nhanh vậy không biết. Thay đổi đâu cũng được, về quê thì phải chăm chút sửa soạn sao cho hợp chứ, làm đĩ chín phương...
Cứ miên man nghĩ xe đã trôi về đến đầu huyện. Càng ngược về hướng núi sương mù càng dày đặc, sương mù như sữa chắn hết mọi tầm nhìn. Xe bơi trong màu sữa đó. Mọi người đều gà gật, lái xe cũng ôm vô lăng mà ngủ tự lúc nào. Sen cứ hồn nhiên dựa vào vai tôi mà ngủ. Từ mái tóc ép thẳng của em nghe tanh tao mùi bùn, nghe nồng nồng mùi cỏ mật ruộng quê, nghe khăm khẳm mùi nước đái trâu... Em cứ ngủ không biết xe đã về gần nhà. Tôi vẫn tỉnh như sáo. Tính đánh thức Sen dậy nhưng lại nghĩ, cứ để cô ấy ngủ, mình nhẹ nhàng xuống xe, rồi cứ cho xe chở cả Sen chạy tiếp. Vả lại cô ấy đã nói rồi, cô chỉ về cùng rồi đứng ngoài cũng được. Mà không đứng ngoài cũng chẳng thể vào nhà bác cả tôi. Bộ dạng như vậy. Coi kìa, khi vô tư ngủ trông lại càng khó coi, váy cứ lật lật lên thế gió vào thì đau bụng chết. Xe vẫn cứ êm trôi, êm trôi...
Tôi vào nhà bác cả như không phải bằng đôi chân của mình. Ngoảnh lại đã thấy Sen bám theo, không còn kịp đuổi, tôi chờ một trận lôi đình. Trời đêm quê lạnh như ai đang cầm roi da bò tẩm muối mà quất. Bác cả cởi trần, đóng khố ngồi như pho tượng cổ, lửa từ bốn cái bếp hắt lên soi nhang nháng khuôn mặt vuông màu đồng. Tôi cung kính chào nhưng bác không hề động đậy, đôi mắt đục mờ mở mà không nhìn, hàng lông mày bạc cước cong vòng rũ xuống như tua rua đầu cây đàn nhị, cái trán cao bóng loáng. Tôi không dám chào tiếng thứ hai sợ làm kinh động đến bác, đành kéo chiếc ghế nhỏ ngồi ngay phía sau. Sen ngang nhiên ngồi chồm hỗm phía trước. Lửa gặp cặp đùi non như cũng muốn bùng lên, reo vui. Tôi không dám động cựa, lẳng lặng ngồi ngắm bác từ phía sau. Lưng bác có hai cái sẹo thật to, trời rét nên chúng mốc xì, nổi vảy. Cái bên trái trông như miệng bát úp, nghe nói đó là vết tích của mảnh đạn thù. Còn chiếc sẹo bên phải trông như một dấu chấm hỏi to quá cỡ, cho đến giờ phần dưới còn ưng ửng như đang rỉ máu. Đã nhiều lần tôi hỏi về vết sẹo đó nhưng bác không trả lời, chỉ xoa đầu tôi nói:"Ta sẽ kể cho cháu ngọn ngành!"...
Tôi muốn hỏi bác có lạnh không để cho thêm củi nhưng không dám. Tôi thấy hai cánh tay già vẫn chắc như sợi chão của bác đang chắp lại trước gối. Hai bàn tay bác, nó không còn là tay người, những ngón tay to co quắp, xù xì nổi cộm u cục. Bàn tay dám chọi vào đất đá quê tôi. Bàn tay đã vắt đá thành gạo, ngô, khoai sắn nuôi cả một đàn con cháu ăn học thành tài thì không phải vừa. Cha tôi chết được mấy tháng, mẹ không dễ gì thả trôi tuổi xuân một cách uổng phí liền gửi tôi lại cho bác nuôi, rồi tong tả đi theo tiếng gọi của cái sướng ngàn đời. Hôm đó tôi đang len lén chui rào sang chơi ô ăn quan với Sen thì bị bác gọi giật về. Bác ôm tôi - thằng cháu côi cút vào lòng:"Kể từ nay trở đi cháu phải lao vào mà học như các anh các chị trong nhà. Sấp mặt xuống học cho thiên hạ phải ngửa mặt lên mà nhìn mình... Điều nữa, cháu tuyệt đối không được chui rào sang đất đó và chơi với những người bên đó..."
Hóa ra là một giấc mơ. Tôi bật dậy ngơ ngác, chiếc đèn dầu liu riu sáng. Ảnh bác tôi trên bàn thờ chập chờn khói hương. Đúng là tôi mơ. Tôi đã về quê từ sáng. Ngày mai là ngày giỗ đầu bác tôi. Các anh, các chị cũng về tụ họp đông đủ, hồi chiều mọi người cùng kéo nhau ra thăm mộ bác. Nhìn những nấm đất sè sè nằm cạnh nhau trong cái đìu hiu gió đồng, tôi càng thấy thương những người đang nằm cạnh nhau ở đây, thương những người đang cùng hiến xác thân cho đất đai quê nhà. Không biết linh hồn họ có được siêu thoát? Liệu ở thế giới bên kia bác tôi, Sen và ông nội em nữa có thường gặp nhau? Trò chuyện và hóa giải...??? Chuyện cũ xa rồi mà vẫn như đang diễn ra trước mắt tôi...
❖ ❖ ❖
... Bồ cào, đòn gánh, cánh cửa, nồi niêu, xoong chảo đến cả những cái chổi trện... Có nghĩa là cái gì lấy được là họ nạo cho kỳ hết đưa nhốt vào trong đình làng. Nhưng đến khi người ta vào vườn chặt cây thì bác đứng ở đầu ngõ huơ huơ lưỡi dao mài ba đêm, ba ngày sáng loáng, miệng bác không ngớt chửi. Nhưng bác chưa kịp làm gì thì họ đã hè nhau đè bác xuống trói như trói khỉ rồi tống lên chiếc xe bò đang đợi sẵn. Con bò đực già mót đái vẽ lên nền đường làng những long - ly - quy - phượng, những dấu chấm, dấu hỏi to như nắm tay. Nó cứ đi túc tắc cho bác nghe tiếng súng khô khốc ngoài bãi bồi vọng về...
Khi còn bé tôi chưa thể hiểu tại sao bác lại ghét mõ đến như vậy. Không những ghét mà bác còn khinh cật khinh kề, bác coi thường ông nội Sen- vốn là mõ làng- đến nỗi không bao giờ tắm cùng một bến. Thấy ông nội Sen tắm bến giữa thì bác lên bến trên, ông nội Sen tắm bến trên thì bác lên bến thượng... Sau này tôi mới biết nguyên nhân của mối thâm thù trong một lần bác say rượu. Bác cứ chỉ vào mặt Sen và tôi mà nói: Bọn bay đồ con nít thì biết qué gì. Vết thẹo hình dấu hỏi này khi trời trở tiết lại thon thót nhắc tao. Không nhắc tao cũng không thể quên cái mặt thâm da dái của ông nội nhà mày, hắn cầm cái lưỡi cày nung đỏ huơ huơ trước mặt hỏi tao:"Địa chủ Cả! Mày có chịu nói không? Thóc lúa đầy bồ mày lấy ở đâu ra?" Tao khinh khỉnh bảo:"Thưa ông bà mõ! Thóc lúa ấy vợ chồng, con cái tôi hai sương một nắng với con trâu mộng cày cấy tám sào ruộng đẳng điền mà ra. Giá tôi cũng không một tấc đất cắm dùi, giá tôi lười nhác chỉ quen hóng cỗ ở sân đình thì cũng chẳng có thóc đầy bồ cơm ba bữa đâu ông bà mõ ạ...""Á à... mày cạnh khóe nhiếc móc ông bà nông dân à?". Hắn lùi lại một bước lấy tay quệt mặt rồi ấn cổ tao xuống, tay còn lại đặt cái lưỡi cày nung đỏ lên lưng tao. Khi ấy máu trong người tao đã đông cứng như tiết canh, tim tao không còn đập nữa. Tao nghe lưng lạnh buốt, cái buốt nhói lên đến tận óc. Căn phòng khét lẹt mùi thịt cháy. Tao đau, tao buốt, tao nóng nhưng tao cười, tao ngước cổ lên nhìn mái tranh mà cười. Tao đau nhưng tao không sợ, thằng Tây tao chả sợ huống hồ là thằng mõ mặt thâm. Tao không sợ thì tất hắn phải sợ tao. Cái mặt của ông nội mày đã thâm lại càng thâm hơn, hết thâm rồi lại đổi màu tía như cà trâu kéo. Đến khi hắn không còn chịu được nữa, hắn đạp tao một cái ngã chúi dụi rồi vứt vội cái lưỡi cày đã nguội xuống đất. Hắn chạy, chạy như cuồng, vừa chạy vừa rắc trên nền đất những giọt nước khai khắm. Hắn chạy và tiếng cười của tao đuổi theo hắn. Tiếng cười như con rắn chui vào khắp lục phủ ngũ tạng hắn. Tiếng cười đã găm vào não hắn thì làm sao hắn chạy cho thoát. Thật đó, chưa bao giờ hắn thôi bị tiếng cười của tao ám ảnh. Ngay cả khi tao không còn muốn ám hắn nữa thì tiếng cười trong cơn uất ngẹn đó vẫn như một linh hồn đêm đêm hiện về vật hắn dậy, đuổi hắn chạy trong những giấc mơ...
❖ ❖ ❖
Biết là không thể ngủ tiếp, tôi khoác thêm áo, mở cửa đi ra vườn. Đêm! Trời không còn đen màu nhọ nồi, hình như gió cũng bớt lạnh. Trên chuồng, tiếng sột soạt của bồ câu trở ổ. Cây dâu da mọc lên từ cái rễ sót ngày xưa nay đã thành cổ thụ, trầm mặc đứng như chiếc ô chở che cho những cây nhỏ trong vườn. Đêm quê yên tĩnh quá. Bên kia dậu râm bụt, có tiếng trẻ khóc trở giấc và tiếng ru hời của ngừơi mẹ trẻ. Hình như đó là tiếng ru của Cúc-em gái Sen. Mưa lay phay đã thấm đầy vai áo. Tôi quay trở lại bên thềm nhà, ngồi xuống bậu cửa. Cũng chính chỗ này, lâu lắm rồi, hình như ngày đó tôi mới mười ba...
... Một sáng mùa đông cũng lay phay mưa như đêm nay. Đang ngồi bó gối ngó vu vơ ra đường, tôi thấy ông nội Sen mặt tai tái vì lạnh đang lẫm chẫm chống gậy đi ngược chiều với những người ra đồng sớm. Khi giáp mặt nhau, mấy người kia đều đồng loạt:"Chúng cháu chào ông cán bộ ạ!". Cụ liền quỳ sụp xuống, mặc cho nền đường lầy lội lốt chân trâu, cụ vái lấy vái để theo mọi người:"Tôi xin các thần dân... Tôi gần chết, xin thần dân cho tôi được yên mấy ngày...". Mọi người không nói gì thêm, khinh khỉnh cười rồi ngoay ngoảy quảy gánh ra đồng. Cụ đứng dậy đi tiếp. Đến trước cổng nhà bác tôi, cụ không dám nhìn vào, chỉ cắm cúi bước nhanh. Đúng là cái dáng đi của người mất bạc. Tôi nghe nói mấy vị giáo sư tiến sĩ xuất thân từ làng tôi, bên dưới giấy khai sinh gốc vẫn còn lưu dấu ngón tay điểm chỉ của cụ. Coi vậy nhưng cụ cũng cẩn thận lắm, bao giờ trước khi điểm chỉ vào công văn gửi đi cụ cũng nói:"Tôi điểm chỉ nhưng các anh phải chịu trách nhiệm đấy nhé, anh đọc sao tôi biết vậy. Nhớ nhé!" Mấy tuần làm cán bộ là mấy tuần khổ của cụ. Không ai bảo nhưng tự cụ nghĩ ra. Trước nô lệ đi mặt cứ phải cúi gằm như thằng ăn vụng. Nay mình làm chủ rồi, không những chủ mà còn là chủ của những người làm chủ thì mình lại càng không được sấp mặt xuống đất nữa. Và cụ tập đi ngửa mặt lên trời. Gần một tuần, móng chân của cụ không còn cái nào vì vấp phải đá khi đi ra đường. Khi ấy cũng là lúc cụ được trả về đúng vị trí ban đầu của mình. Vẫn đi trên những con đường xưa, nói những lời người khác nói nhưng bây giờ cụ lại cái tên mới: Đồng chí chạy giấy uỷ ban chứ không còn cái tên Mõ cộc lốc như xưa. Cái tên mới thật oách nhưng cụ không hiểu được nó có ý nghĩa gì và mãi cho đến sau này, cụ vẫn không thể quen với tên gọi mới. Cứ ai nhắc đến hai từ cán bộ hay đồng chí là cụ lại giật mình thon thót. Nhất là càng về già. Người già thường hay nghĩ. Khốn khổ cho cụ, cứ tưởng tính xấu hổ - cái tính chỉ duy nhất có ở người - đã mất vì thời gian làm mõ quá lâu. Vậy mà mấy ngày làm cán bộ nó đã sống lại. Chẳng phải chỉ có tính xấu hổ đã trở lại mà cái tháp nhu cầu trong cụ cũng phục hồi nguyên vẹn. Ban đầu là thỏa mãn các nhu cầu. Ngày trước làm mõ nhà không cần cửa, ngõ không cần rào. Tối tối cứ chén no cơm thừa rượu cặn ngoài đình về là lật người xuống ổ rơm mà ngủ, ngủ không cần biết đến trời đất là gì. Bởi thằng kẻ trộm cũng biết xấu hổ khi nảy ý định tơ hào đến con gà, buồng chuối của thằng mõ. Nhưng giờ đây đã là anh cán bộ, đã đổi đời thì cũng phải cửa trước cửa sau cài then cho chắc chắn. Trước bảo vệ tính mạng, sau là của cải trong nhà, trong vườn. Dạo ấy cụ lại đâm ra nghiện tổ tôm. Tất nhiên chỉ chầu rìa chứ tập mãi cũng không biết đánh, chứ đâu phải là cái phường bài bạc như bọn chánh tổng, lý trưởng xưa. Nếu học được thì chắc cụ đánh cũng có nghề lắm, bởi phàm là dân đen thì mấy ai được tiếp xúc với các ngón nghề bài bạc sớm và nhiều như cụ, đêm nào cụ cũng làm chân điếu đóm bên chiếu bài hầu các chức dịch. Kế đến cái khoản được mọi người kính trọng thì hơi khó, dạo đó không ít người khi gặp cụ cứ gọi lẫn lộn hết cả, khi thì mõ ơi, khi lại chào ông cán bộ. Nhưng hơi tiếc, thời gian làm cán bộ ngắn ngủi quá, chỉ đủ cho mọi người quen với cái tên mới thì cụ được trả về đúng nghề truyền đời của mình. Chính cái tháp nhu cầu đã một lần sống lại và không chịu mất đi, giờ đây nó hành hạ cụ. Không đêm nào cụ ngủ yên giấc. Cứ chợp mắt là tiếng cười quái gở đó ám ảnh cụ. Đêm nào cụ cũng chạy cuồng chân vì tiếng cười đó. Cụ nhớ hết những điều mình làm. Khổ thế! Con người khi không đủ sức để làm chuyện ác mới thấy rùng mình bởi những chuyện mình làm.
❖ ❖ ❖
Chiếc đồng hồ cổ thả vào đêm mấy tiếng binh boong. Đã mười giờ. Trời quang quắn lạ, le lói đâu trên cao lắm, có mấy vì sao nhấp nháy. Những vì sao hiếm hoi ẩn mình suốt cả mùa đông nay lại cùng tôi thức trong đêm. Tôi lâng châng thả bộ ra đường làng. Những bước chân vô định đưa tôi ra đường cái quan. Sông Ngàn Phố uốn một vòng như đang muốn ôm vào lòng bãi ngô đang thì trổ cờ. Tôi cảm thấy mình đang ngậm trong miệng một hạt đào, âm ấm và thơm nức mùi sữa ngô non. Đầu tôi hoàn toàn trống rỗng về chuyện ái tình kể từ ngày mất Sen, từ ngày Sen bỏ làng ra đi không hẹn ngày về. Hiện tại tôi chỉ nghĩ: Trong cái khổ thì đừng có xét ai khổ hơn ai. Đã lỡ làm khổ nhau rồi thì đừng làm khổ nhau thêm nữa. Mọi thứ qua lâu lắm rồi, người chết thì đã yên phận dưới cỏ, trắng đen đã phân minh. Người sai cũng đã đứng ra nhận lỗi. Sao không ai chịu nhìn vào cái được to lớn mà lại cứ săm soi vào những cái mất tất yếu. Liệu sống vào thời đó thì ta có làm được gì hơn không?
Một cơn gió nhẹ lao xao bãi ngô, những cây ngô trổ cờ lay lay trong đêm như những bàn tay vẫy. Và hình như trong tiếng lao xao đó có cả tiếng Sen và tôi của mấy mươi năm về trước...
- Anh! em... sợ...
-...
- Đừng anh... em sợ... em sợ lắm... anh...
- Sợ gì..ôi! Ở chỗ này có nốt ruồi son... đẹp quá... nốt ruồi son là giàu lắm đó...
- Giàu gì... em chỉ mong đủ ăn thôi... nhà em đói truyền kiếp...
- Trời ơi! Anh lóa mắt rồi này... Sen... Sen... Sao đói mà trắng, mà hồng thế...
- Ngốc! Con gái tuổi này ai chả thế... không cần ăn vẫn cứ mập... Thích không...?
- Thích...! Cho nhá...
- Ứ ừ... không đâu... đừng anh... đừng...!
- Anh... em không tiếc nhưng em sợ... sợ anh.. không vượt qua...
- Không... anh vượt qua được hết... chuyện các cụ mặc các cụ...
- Anh hứa nhé... Em... em... thích lắm...
Tôi nghe cả tiếng cây ngô gãy răng rắc, tiếng thở hổn hển, cùng tiếng gió đi lào xào trên bãi ngô đang mùa trổ cờ. Tiếng ở đâu xa xăm lắm của con chim tìm chồng đang gắng gỏi gọi trong tuyệt vọng... Bóp thì bóp... Bóp thì bóp... bóp... thì... bóp... tặc... tụp túp... cắc cụp cúp... bóp... thì... bóp... Bắt... em... trói... cột... Sao bắt... em... trói... cột? Rồi tiếng Sen lại hổn hển qua làn nước mắt tấm tức:
- Anh Tình ơi!... Anh hứa với em nhá... Không ở được làng thì mình đi nhá... Không có anh em không biết phải như thế nào đâu...
- Anh hứa mà. Sen! Không lấy được em anh cũng không lấy ai đâu...
- Thật không? Con trai khi yêu thì hứa ghê lắm... dám hái cả mặt trời cho người yêu nữa cơ... khi được rồi thì... Đừng dối em mà tội nghiệp nha... Ông, cha em đã khổ... em sợ...
Em đã nói đúng, tôi đã làm em khổ, em sợ, tôi sợ và mãi mãi tôi mất em...
Ngày từ nước bạn trở về, đứa bạn thân trao cho tôi một bức thư. Bức thư duy nhất người ta tìm thấy dưới gối giường bệnh của Sen. Hình như em viết trong những ngày cuối cùng của cuộc đời:
... Nhân lúc tôi xa quê mấy ngày anh đã chạy trốn tôi. Anh không thể vượt qua cái rào cản vô hình mà cứng như thép, vững như bàn thạch trong tâm can bác anh. Đó là ý chí, lòng hận thù. Có ai có tội đâu chứ. Tại sao cứ muốn được cả mà không chịu mất lấy một tí tì ti. Đau đó nhưng chuyện đã rồi. Anh trốn đi. Tôi biết anh cũng đau lắm, nhưng anh không dám vượt qua. Tôi ở lại còn đau hơn anh. Tôi đã đau và tôi đã điên, cái điên của loài bọ ngựa. Tôi trách tôi sao trong lúc ân ái không ăn thịt anh để mãi mãi anh nằm trọn trong tim tôi, anh và tôi hòa lẫn trọn vẹn vào nhau. Để mãi mãi tôi là người đàn bà đầu tiên anh biết và anh cũng chính là người đàn ông đầu tiên tôi biết. Và tôi đã thực hiện lời hứa, tôi đi tìm anh. Tôi đã quyết chí. Tôi sẽ xa mãi cái làng quê chất chứa nhiều hận thù. Tôi lần theo từng bước đi của anh. Tôi ăn bụi ngủ đường. Tôi làm đủ nghề, tôi có quyết tâm của con chim tìm chồng. Tôi vẫn nuôi hy vọng trong những lúc tuyệt vọng nhất. Tôi đã cố chui qua đường biên mấy lần. Nhưng đường biên không phải là cái dậu râm bụt ở quê để tôi có thể dễ dàng qua lại. Ba lần tôi bị bắt. Lần thứ tư, tôi chấp nhận một cuộc đánh đổi và coi đây là bước dấn cuối cùng trên con đường đi tìm anh. Mười hai thằng lâm tặc trong một đêm, thằng nào cũng khoẻ, thằng nào cũng hau háu vì lâu không thấy bóng đàn bà. Tôi không thể tìm lại được cảm giác đêm đầu tiên với anh trên bãi ngô đất bồi ven con sông Ngàn Phố. Tôi biết tôi đã hỏng. Không thể tìm được cảm giác đầu đời bên bến sông xưa. Tôi mất hết, không có anh tôi không thể tìm lại được chính mình. Tôi nằm lại đường biên một đêm cho lại sức. Mấy thằng tiếp tục gạ gẫm nhưng tôi không chấp nhận. Tôi không phải là con đĩ, tôi chỉ đánh đổi một đêm để đủ cho một lần chui qua biên giới. Tôi tiếp tục đi tìm anh. Tôi tiếp tục ngủ bất đắc dĩ với vài chục người nữa qua các trạm trên đường, nhưng tôi chưa phải là con đĩ. Có thể anh lại hỏi:" Biết anh ở đâu mà tìm?". Vâng, tôi mụ mẫm những bước chân tìm anh. Nhưng không tìm anh tôi còn biết làm gì. Trót đã đâm lao, tôi đi tìm anh, tôi tìm chính tôi, tìm một lời giải, một lối thoát. Rồi tôi sa ngã, tôi trượt dài...
Ngày đó tôi lẳng lặng xa Sen. Tôi đã không kịp gặp em để nói lên những dự định trong đầu. Bác đã bằng mọi cách đẩy tôi đi bằng được chỉ với mục đích không cho hai đứa ở gần nhau. Tôi không muốn làm bác buồn. Và tôi nghĩ, có khi lại hay. Chỉ có đi xa mới mong được gần nhau. Ở trên đất bạn không đêm nào tôi không nhớ em. Tôi đã mơ đến ngày về, quê mình đã đổi thay. Người già đã có độ lùi cần thiết để hiểu nhau. Tôi là tôi, chính là tôi. Tôi và em sẽ cầm tay nhau đi trên đường làng những đêm trăng trong mà không còn có những cặp mắt dòm ngó, soi mói, suy xét. Tôi đã viết thư kể với em về những dự định, những ước mơ và sau này đã không ít lần tôi đi tìm em... ra?".
❖ ❖ ❖
Trăng muộn e thẹn như khuôn mặt cô gái quê đang ne nép sau những gợn mây. Gió lào thào đưa tới hương ngô non. Một lần nữa tôi lại thấy lưỡi mình như đang lùa đi lùa lại cái hạt đào ấm nóng. Cảm giác này chỉ có mỗi lần tôi về lại quê hương. Về và đứng tần ngần bên bờ sông Ngàn Phố trong mùa ngô trổ cờ...
Lạ giường chú không ngủ được à?
- Anh! Em cũng vừa làm được một giấc, tỉnh dậy không còn muốn ngủ, em đi một vòng...
- Anh cũng thấy khó ngủ nên ra đây. Thế là anh em mình lại tụ họp đông đủ. Chỉ thương... những người đã... mất... Thương ông cụ lắm. Bỏ quê đi rồi mà lòng cũng chẳng yên. Chiều nào cụ cũng ngồi bên bậc thềm ngóng về quê. Nhất là những chiều có chim sâm cầm bay nhiều. Cụ cứ nhìn theo mãi, mắt như kéo màng. Cũng may chuộc lại được mảnh vườn cũ, bọn anh đã dựng lại ngôi nhà. Khi cụ ốm, anh tính đưa vào viện 108 nhưng cụ dứt khoát không chịu, nằng nặc đòi về quê cho bằng được. Anh đã đưa cụ về... Thấy cụ ra đi thanh thản, anh em cũng yên lòng... Thôi về cố mà chợp mắt một tý. Ngày mai, giỗ đầu, đông khách lắm, chú giữ sức khoẻ mà tiếp nhé. À này, cái Đào- em của Sen- vẫn nhắc chú luôn, lớn lắm rồi, nó giống chị đáo để...
- Em cũng mới gặp hồi chiều ngoài bãi, cứ ngỡ như Sen hiện về...
Anh em tôi cùng về nhà. Giấc ngủ vẫn chập chờn toàn mộng mị... Lại những nén tâm hương cháy trên bàn thờ ẩn hiện...
... Tôi thấy một đoàn người cầm dao, rìu tiến vào. Bác đứng dậy đi ra gặp họ, rồi chỉ tay vào cây dâu da cổ thụ đứng ở góc vườn. Lập tức người ta xúm lại, người leo thoăn thoắt lên chặt cành, người hùng hục đẵn gốc. Tôi hốt hoảng nhưng không thể chạy lại cản. Tại sao bác lại cho họ chặt cây dâu da này? Tôi lớn lên thì cây đã cổ thụ. Nghe mọi người nói ngày bà nội sinh bác, ông lấy nhúm nhau bỏ vào cái hũ sành, rồi chôn ở góc vườn. Chôn xong ông trồng lên đó cây dâu da này. Tôi thấy từng dòng nhựa tuôn ra từ vết chặt rồi trào xuống nhuộm trắng thân cây, một lúc sau gặp gió đổi màu thành những cục máu đỏ bầm. Cây quằn quại răng rắc rồi đổ ầm. Gió cát bốc lên mịt mùng. Khi trời quang đãng trở lại thì họ đã đào bật gốc cây lên. Bác ôm khư khư trên tay chiếc hũ sành đầy đất cát, mắt rưng rưng. Rồi bác chỉ tiếp sang cây hồng xiêm, họ lại chặt, lại đào, bác lại cầm một cái hũ sành tương tự trao cho anh con cả, rồi đến cây bưởi đào, cây mận, cây ổi... Bác lần lượt trao tận tay từng chiếc hũ sành cho những người con. Khu vườn trông như vừa trải qua một trận bom chùm, cây cối nằm đè lên nhau, tức tưởi khóc. Trái cam non như hạt bom bi lăn loạn vườn, hoa bưởi hoa chanh rắc trắng đất dậy lên mùi luyến nhớ. Bác đến bên cây mít mật mọc cạnh hàng rào nhà Sen, lưỡng lự. Hình như bác có ngoái cổ về phía tôi. Tôi vẫn ngồi bất động. Tôi nghe, đúng hơn là tôi cảm thấy bác đang muốn hỏi tôi: Cháu có đi luôn không? Miệng tôi cứng ngắc như phải gió... Khi đó Sen vụt đứng dậy chạy ào tới dang hai tay như cánh quạ can ngăn. Tôi không nói, bác không nói, mọi người không nói, chỉ có Sen đang ôm chặt lấy cây mít mật. Bác chỉ tay vào ngôi nhà tranh ba gian, ngôi nhà bốc lửa cháy đùng đùng, thoáng chốc chỉ còn lại một đống than nóng hầm hập, bác đến bên vén quần, lửa than gặp nước nổ bùng bục... Bác cười, tiếng cười như vọng về từ hang động. Thoáng chốc mọi người đã tản đi đâu hết. Sen lại trở về bên tôi. Bếp lửa lại bùng lên. Má Sen bắt lửa hây hây đỏ. Sen cầm bắp ngô sâm sậm màu vỏ khoe:"Ngô tươi lùi cả vỏ... vô địch, anh ăn mà nhớ nhé. Ngô bãi bồi với phù sa sông Ngàn Phố quê mình là nhất, không ở đâu có, anh ăn rồi không thể quên. Em cho anh nhớ ngô lùi trước khi nhớ em...". Tôi cầm bắp ngô Sen đã lột vỏ, bốc khói nghi ngút trên tay chưa vội ăn. Sen vừa hít hà gặm vừa giục tôi:"Ăn đi anh, còn chần chờ gì nữa...". Tôi nhìn vết nhọ trên má Sen, cười:"Anh muốn ngắm trước khi ăn. Em xem này, những hạt ngô non trắng và đều tăm tắp như răng em vậy...". Mặt Sen đã hồng lại càng hồng hơn, em cầm bắp ngô đưa lên tận miệng tôi nói:"Ăn đi anh, của anh cả mà...!". Tôi vừa đưa bắp ngô lên, nhắm mắt tính cắn một miếng rõ to cho bõ cơn thèm thì bỗng đâu bác lầm lì xuất hiện. Bác không hề nói như từ khi tôi về đến giờ. Bác giằng lấy bắp ngô trên tay tôi vứt toẹt xuống vũng bùn. Hơi nóng từ bắp ngô gặp nước bốc lên như khói. Sen tấm tức khóc...
Nhưng kìa, bác cúi xuống nhặt bắp ngô từ dưới bùn lên... Lạ chưa! Bắp ngô non lại trắng như chưa hề bị lấm láp đất bùn. Và tôi không còn tin vào mắt mình nữa: Bác nhẹ nhàng trao cho Sen rồi mỉm cười hiền hậu, ánh mắt ấm áp lạ thường... Tôi muốn nói một lời với bác mà không tài nào nói được. Chả lẽ tôi đang mơ. Cả bác, cả Sen, cả bắp ngô biến mất. Tôi lại thấy các anh tôi đang đưa bác về quê. Không thấy ô tô đâu, bác nằm trên chiếc võng gai phe phẩy quạt, hai đầu võng là hai người con bác khiêng. Khi về đến nghĩa địa đầu làng, một người thợ cấy ngước đầu lên hỏi:"Các bác đưa cụ về chơi à?”."Không! Ông cụ tôi về quê ở hẳn...”. Bỗng dưng gió ở đâu đó cuộn lên như bão. Thợ cấy nháo nhào chạy lên bờ. Cái võng cáng bác tôi biến mất. Nhìn mãi, nhìn mãi chỉ thấy lá sồi già lặng lẽ rơi rụng vàng dưới gốc trong chiều nắng quái...
Cuối cùng rồi bác cũng về, cứ tưởng bác đã toại nguyện, bác đã ép được con cháu học hành thành người. Học để bắt mọi người phải ngước mặt lên nhìn. Nhưng cháu biết bác bắt con cháu học là còn một mục đích khác, mục đích lớn lao hơn nhiều. Bác muốn tất cả con cháu học hành đỗ đạt để đi khỏi cái đất này. Đi không bao giờ trở lại. Bác ơi! Người ta đã đem bồ cào, thúng mủng, dần sàng... trả lại cho bác rồi cơ mà sao bác vẫn đào cả những nhúm nhau của con, cháu, cả của bác để đưa đi chôn ở một miền quê mới. Bác tưởng sẽ quên được miền đất quê hương...
Tôi sực tỉnh...
Tôi vươn vai thong thả đi ra bể nước. Vừa cúi xuống thau rửa mặt, một cái vỏ đài mít rơi xuống, tròng trành tròng trành như chiếc thuyền con... Tôi ngẩng mặt... Trời ơi! Sen... Sen đang ôm cây mít như ngày nào em giữ không cho bác tôi chặt gốc... Nhưng Sen lại nhìn tôi nhoẻn miệng cười, răng trắng như những hạt ngô non đang kỳ đọng sữa. Lại những vỏ đài mít, lá mít vàng chao chiêng, lả tả rơi xuống đầu tôi. Tôi dụi mắt... Ối trời! Hóa ra là Đào. Giống y hệt gương mặt chị. Đào đang đùa trêu tôi rung cây cho rụng lá. Tôi lặng nhìn Đào ôm cây mít. Cây mít của tôi, cây mít có nhúm nhau của tôi mùa này ra đài nhiều quá. Đài mít ra gặp mùa nắng ấm chắc đậu nhiều quả lắm đây.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

Tiếc Muộn​


Tùng Dương, Ngọc Khuê cùng thi đỗ vào một trường. Trai tài, gái sắc gặp nhau, ngay cái nhìn đầu tiên tình yêu của họ đã được định đoạt. Bốn năm quấn quýt yêu đương, không biết đã bao nhiêu lần Tùng Dương mượn xe đạp cà tàng của bạn chở Ngọc Khuê cả chục cây số xuống Bờ Hồ chỉ vì Ngọc Khuê thèm một que kem. Và Ngọc Khuê cũng vậy, không ít lần dạo chợ cả buổi đến cuồng chân chỉ để tìm bằng được món ăn mà Tùng Dương thích. Yêu nhau và chiều nhau hết lòng. Họ và mọi người đều nghĩ cha mẹ, trời đất sinh ra họ là để yêu nhau và chiều nhau vậy.
Tốt nghiệp ra trường, hai người đều có việc làm ngay, đều có món thu nhập nho nhỏ để đảm bảo cuộc sống. Họ cưới nhau như một lẽ đương nhiên của tình yêu. Rồi Ngọc Khuê có nghén đứa con đầu lòng. Tình yêu nhân đôi trong mắt họ. Nhưng từ khi có nghén, Ngọc Khuê luôn thấy bức bối trong lòng sinh ra cáu gắt rồi lại còn thèm đủ thứ. Mỗi lần như thế nếu Tùng Dương chưa đáp ứng kịp là y như rằng giông gió lại nổi lên trong căn nhà của đôi vợ chồng trẻ. Dạo này cơ quan Tùng Dương lại ít việc, nội bộ lục đục, đấu đá lẫn nhau làm cho tính tình của Tùng Dương cũng thêm phần bẳn gắt. Nhiều khi đi làm về cả hai thèm được nghe một lời âu yếm, một cử chỉ thân mật như trước đây nhưng hiếm hoi quá, thay vào đó là bực dọc, nguýt lườm, cáu bẳn. Tùng Dương nghĩ: Sao cô ấy khó tính vậy không biết, lại hờ hững với chồng con. Chửa, đẻ là chức phận của đàn bà, làm gì mà phải hành hạ nhau như thế. Còn Ngọc Khuê thì nghĩ: Chắc mình có bầu xấu xí nên anh ấy đã hết yêu rồi. Chả bù cho ngày xưa, chiều chuộng hết mức, nói năng nhỏ nhẹ. Những suy nghĩ đó ban đầu còn mơ hồ như mây bay gió thoảng trong đầu họ, nhưng dần dần nó đậm đặc hơn, rõ nét hơn và trở thành nỗi ám ảnh thường trực, tạo thành những vết rạn chân chim trong tình cảm vợ chồng. Vết rạn đó ngày càng rộng thêm trở thành hố sâu ngăn cách giữa họ khi Tùng Dương mất việc, Ngọc Khuê sinh con. Và cuối cùng họ đành giải thoát cho nhau bằng lá đơn ly hôm.
Một năm sau Tùng Dương xin được việc làm mới, cưới một cô vợ mới trẻ hơn anh đến mười tuổi. Tùng Dương nghĩ: Cô ấy còn ít tuổi vậy mà chịu yêu mình, lấy mình người đàn ông đã có một đời vợ. Nghe nói đàn bà có nghén lần đầu là hay khó chịu trong người lắm. Mình phải chăm sóc và chiều chuộng cô ấy nhiều hơn nữa mới được.
Hai năm sau, gửi con về bà ngoại nuôi, Ngọc Khuê cũng có chồng mới. Gái một con trông Ngọc Khuê thật mặn mà nên lấy được anh chồng trẻ hơn mình đến hai tuổi, lại hào hoa và giỏi giang. Ngọc Khuê nghĩ: Anh ấy đẹp trai và giỏi giang vậy thiếu gì gái tân theo, vậy mà chịu lấy mình, người đàn bà đã một đời chồng. Để giữ gìn hạnh phúc, mình phải quan tâm chăm sóc anh ấy nhiều hơn mới được.
Một hôm trên đường ra Bờ Hồ mua kem cho vợ, tình cờ Tùng Dương gặp Ngọc Khuê cũng đi chợ chọn món ngon cho chồng. Hai người thảng thốt và cùng nghĩ: Nếu ngày trước mình quan tâm và chiều chuộng anh ấy (ô ấy) như đang chiều chuộng chồng mới (vợ mới) bây giờ thì đâu đến nỗi. Cu Tý đâu phải chịu cảnh lời ru chia đôi.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

Chờ Mẹ​


Tôi thường thức khuya nên dậy muộn. Chẳng phân công mà thành nếp, việc đưa con đến trường học buổi sớm là của vợ và đương nhiên chiều đón về là phần tôi. Cơ quan tôi cách trường cháu học không xa nhưng đi đến đó lại phải qua mấy cái ngã tư. Chiều nào cũng vậy tôi thoát được cảnh kẹt xe đến đón con thì thường trống đã tan trường cách đó cả giờ đồng hồ. Cũng may những buổi chiều chờ tôi như vậy, con tôi còn có bé Trà My chơi chung. Hình như cơ quan mẹ bé Trà My ở khá xa trường nên tôi chưa một lần thấy cô ấy đến đón con. Và lần nào cũng vậy, khi tôi ngỏ ý chở Trà My về cùng thì cháu lễ phép nhưng rất tha thiết:"Cháu cảm ơn bác, mẹ cháu dặn không để người lạ chở đi.”"Nhưng bác là bố của Thục Anh cơ mà, có lạ đâu.”"Cháu sợ khi mẹ đến đón không thấy cháu mẹ lo”. Tôi đành chở Thục Anh về trước.
Tuần trước do công việc đột xuất và vẫn cảnh kẹt xe lưu cữu nên tôi đón con muộn hơn mọi bận, vậy mà vẫn không gặp mẹ cháu Trà My. Khi cha con tôi chuẩn bị về thì thấy một cụ già lưng còng, tóc bạc đi tới. Thấy cụ, Trà My vùng chạy, khóc:"Không phải bà đón đâu, không phải bà đón đâu... cháu chờ mẹ... cháu chờ mẹ..."Tôi nhìn theo Trà My tỏ ý ngạc nhiên, cụ bà lấy tay áo chấm nước mắt giải thích:"Mẹ cháu tai nạn giao thông chết khi cháu còn nhỏ, bố có gia đình mới nên gửi cháu tôi nuôi. Sáng chiều bạn nào cũng có bố mẹ đưa đón, cháu tủi nên thường tha thẩn khi các bạn về hết mới tự về nhà một mình để không ai biết mình mất mẹ. Hôm nay muộn quá thấy cháu chưa về tôi đi đón..."​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

Liu Điu Dòng Họ​


Ông Tận - Em trai ông nội tôi - Vợ chồng chỉ sinh được hai cô con gái. Hai cô lấy chồng tít tận miền Nam. Cả hai đều vớ được chồng giàu, ít khi về quê. Ông bà đã tám mươi, ngày nhìn mặt trời thấy số tuyệt tự chòn hỏn ở đầu hồi nhà. Ông nội tôi được hai trai, cha tôi và chú Khín. Nhà tôi ba anh em, hai trai, một gái. Chú Khín nhỉnh hơn đẻ bốn thằng, thằng nào thằng nấy vai gấu, mặt dơi, tay chân khều khào. Không có một con mương hay hố bom nào sót dấu chân của anh em nó. Lươn, lạch, rô, rạch. Tất cả đều là món khoái khẩu của chúng khi đã qua lửa rơm thui trèm. Chú Khín hay rượu. Khi thím đẻ ba thằng con trai, chú đập bàn:"Tam nam bất phú." Thím đành phải mở cửa liếp cho thằng thứ tư chui ra. Vẫn không thấy cảnh bất bần. Không biết có phải vì thằng út không mà ba thằng anh trứng gà, trứng vịt chỉ thích cua cáy với ao hồ. Chú cũng không cải thiện được mồi nhắm rượu. Vẫn chỉ là cua cáy, lươn lạch với chuối xanh. Dòng liu điu lại liu điu trong nhà chú. Ông bà nội tôi mất. Cha thay ông thờ cúng tổ tiên. Ở quê có câu:"Trâu bò ở lâu thương nhau, người ở lâu ghét nhau." Nhà tôi và chú Khín không ngoại lệ. Khi vì con lợn con gà, khi vì miếng ăn trong những ngày đói, đã không ít lần chú Khín xua cả bè lũ bốn tên sang tính làm cỏ gia đình tôi. Những khi ấy, cha tôi bảo cả nhà lánh đi, ai cũng ngoan ngoãn nghe theo, chỉ có anh Hinh - anh trai đầu của tôi - mỗi lần như vậy, sửng cồ:
- Đánh cho chết cha chúng nó đi chứ, sợ đếch gì.
Cha nhỏ nhẹ:
- Chúng nó là ai! Chú và các em con cả, ai sai để một người sai. To tiếng thiên hạ cười.
Cha nhìn anh với đôi mắt buồn buồn. Cha thương và lo cho anh, cũng vì ngày mẹ sinh anh, cha còn ở xa, nhà túng bấn, anh bỏ học từ năm lớp ba. Và tôi biết, cha đã dìm được cái máu của một người lính đặc công cùng với dòng nước mắt uất nghẹn trước một thằng em cha đã đạp đầu chui ra. Khi mọi việc tạm ổn, cha hỏi mọi người nguyên nhân, nếu thấy chúng tôi sai quấy thì cha bắt phải sang nhà chú Khín xin lỗi. Những lần như vậy, tôi thấy mắt ông Tận như bị kéo màng. Khuyên nhủ con cháu không được, ông buồn nhưng không nỡ bỏ. Còn bà Tận thì bà bỏ thật, bà chèn riệt con đường thông sang nhà chú Khín. Nấu ấm nước chè xanh bà đứng xông xổng mời váng cả làng, riêng nhà chú Khín không hề được nhắc tên. Có miếng gì ngon bà thường ấn vào tay đứa em út tôi. Con chú Khín không bao giờ dám tơ hào.
Chẳng ai cưỡng được mệnh trời, cuối năm vừa rồi bà bỏ ông mà về với đất. Bà tạ thế, o dượng về tới nơi thì đã mồ yên, mả đẹp. Được như thế công đầu phải kể đến chú Khín, từ cha cho đến con xăng xái chung sức, chung tiền cùng gia đình tôi lo cho đám tang của bà chu đáo. O Toan - con gái đầu ông Tận - ngước đôi mắt nâu như mắt chó phốc, hàm ơn chú Khín, o hỏi:
- Anh mua bộ áo quan cho bà hết bao nhiêu, em gửi lại?!
Chú xoa tay:
- Anh không mua, anh lấy của anh cho bà.
Nghe vậy o khóc, dúi vào tay chú một cọc tiền màu xanh. Đẩy trả lại không được, chú nhận. Mọi người có mặt ở đó đều cảm động, riêng ông Tận và cha tôi không thấy có biểu hiện gì. Thấy chú Khín thế tôi thầm mừng và nghĩ:"Ừ! tám mươi cụ đi là hợp lẽ trời. Thương cụ nhưng cảm ơn cụ nhiều lắm. Người chết đành phận nhưng để cho người sống xích lại gần nhau." Sau đám tang không khí giữa hai nhà khác hẳn. Nói đúng hơn là thái độ của cha con chú Khín đối với bên nhà tôi khác hẳn. Đường sang ba nhà thông từ đó.
Anh Hinh đến tuổi lấy vợ, cưới một cô cùng làng. Năm sau anh lên chức cha nhưng trình độ vẫn chỉ lớp ba. Vợ chồng anh ở chung trong nhà, ăn khác bếp. Đã không ít lần anh đánh tiếng muốn sang ở cùng ông Tận để chăm sóc ông lúc tuổi già. Biết vậy, ông chỉ cười hiền, chòm râu bạc rung rung như một triết gia.(Chỉ giống thôi, ông Tận không biết đọc, biết viết!). Trong nhà, tôi là người may mắn hơn cả, học hành tấn tới, trở thành người thành đạt nhất trong cái dòng họ luôn ngấp nghé bên bờ tuyệt tự. Tốt nghiệp đại học loại trung bình, về huyện tôi thành của hiếm. Mấy người trước đây hay gọi xách mé tôi cu đen, cu đỏ giờ chuyển gam, khúm núm gọi là đồng chí. Nhân dịp có chủ trương quy hoạch nắn thẳng lại đường quốc lộ, chỉ một vạch lăn đường chì kẻ, tôi đã cho con đường dịch vào, chạy sát ngõ nhà tôi. Tất nhiên là qua cả nhà ông Tận và chú Khín. Đồng thời đình làng phải dời vô ba bốn mét, đập mất cái cổng đình đã ba trăm mười lăm năm tuổi. Thỉnh thoảng về quê, tôi mang theo một vài chai rượu người ta biếu, tôi cho chú Khín một chai đã uống dở. Để thắm thiết hơn tình họ hàng, tôi cùng ngồi nhón với chú món lươn, lạch, liu điu nướng sem sém lửa rơm. Ông Tận vui, cười giãn các đường răn trên mặt khen tôi:
Thằng Lành làm quan mà không mất gốc, khá!
Tôi hỏi chú Khín:
Trước chú đi bộ đội mấy năm, ở vùng nào?.
Bốn năm, vùng nào tao không biết, toàn rừng với rú. Không có chữ trong đầu, tao làm anh nuôi.
Thế phiên hiệu đơn vị?
Hình như B3.
Để tôi làm cho chú cái chứng nhận thương binh, thêm tháng ít trăm.
Mắt bỗng sáng như mắt sói, chú hỏi lại:
Mày làm cho cha mày chưa? Chín năm lính, sáu vết thương, cha mày chưa thành thương binh. Còn chú mày lấy bao nhiêu? Ở nhà chúng nó đòi ba triệu.
Cụ không chịu làm, cụ không muốn khai khống thương tích, bôn hết sức! Còn chú, nếu muốn, tôi làm cho không. Ai muốn làm nữa chú nói với tôi, triệu rưỡi, nếu được tôi cho chú trăm rưỡi một suất.
Thế thì tao coi mày là ông nội, cố ông nội cũng được. Mày con thứ nhưng là ông tổ của tao.
Mùa đông đến, ông Tận yếu tợn. Chú Khín và anh Hinh hay sang nhà ông hơn. Hai chú cháu nhìn nhau cứ lườm lườm. Chú vào thì cháu ra, cháu vào thì chú ra. Khi có mặt cha tôi, hai người làm bộ thản nhiên và thường lánh đi chỗ khác. Cha và ông Tận hay cùng nhau ngồi bên bếp lửa, ông kể cho cha nghe về nguồn gốc dòng họ. Ông nói:
- Nghe các cụ kể lại thì họ mình đâu tận miệt ngoài. Cụ tổ nhánh này đã từng làm quan nhưng không chịu luồn cúi, bỏ vô rừng sống bằng nghề ăn cướp. Trong một lần đi cướp, lỡ tay đánh chết mệnh quan triều đình, bị Tây với quan quân rượt, bè đảng tan tác, không còn đất dung thân. Lần cuối cùng chay qua làng cụ nhắn lại:"Khi nào hết Tây tao mới về". Nhắn xong cụ nhằm hướng núi lao đi, chạy mãi cụ lạc đến đất này, giấu biệt tung tích, xin làm đứa ở cho địa chủ Kim Hét. Cụ khoẻ, thông minh nên được Kim Hét tin nhận làm con nuôi rồi gả con ở cho, thế là thành một dòng. Đến ngày miền Bắc hết Tây cũng không ai nghe cụ nhắc đến chuyện về quê. Không biết vì lẽ gì, họ truyền cho đến nay vẫn không phát đạt được. Họ này ít đinh, đông nhất cũng chỉ chục đổ lại. Họ chưa có gia phả, khi nào tiện anh chép ra cho con cháu đời sau nó biết.
Cha buồn buông xuôi:
Không biết rồi có đứa nào đọc được không, chưa quen mặt chữ đã bỏ học hết. Được thằng Lành thì chắc phải đi xa, hoặc phải sống trong tù tội. Số nó thế.
Có dạo các o tôi muốn đón ông vào miền Nam, ông nói:"Con thì thương, nhưng nắm xương phải giữ". Ông biết mình sắp về với bà, với tổ tiên nên sợ phải hỏa thiêu nơi đất khách! Các o về được mấy ngày rồi lại vội vã ra đi, trước khi đi lau nước mắt, sụt sùi nói với cha tôi:"Trăm sự nhờ anh, chúng em phận gái không dám tơ hào". Ông càng yếu thì chú Khín càng ân cần, có miếng gì ngon chú mắng con át cả tiếng chó cắn nhau:"Phải đưa sang cho ông trước đã chứ, chúng mày còn trẻ, ăn khi nào chẳng được!". Vợ chồng anh Hinh cũng vậy, thỉnh thoảng bắt con gà nhảy ổ làm thịt đưa cho ông hai cái đùi. Cha mẹ tôi cũng được hai bát cháo đầy sóng sánh, nổi lổn nhổn hai mẩu cánh gà. Chị dâu tôi bụng đã nhon nhỏn. Hai đứa con dâu của chú Khín cũng rủ nhau ra vặt khế chua sau vườn. Đến khi trái thấp đã hết, chúng đưa ghế kê dưới gốc nhón lên vặt những trái cao. Sợ chúng ngã, chú ngồi xuống giữ chặt ghế. Hái xong khế con dâu đỏ mặt kéo chéo váy nem nép vào nhà. Thằng con thứ ba của chú lấy vợ, nhờ ông Tận một vạt đất phía trước mở quán sửa xe máy và vợ chồng chúng nó ở luôn. Anh Hinh trình độ lớp ba, bỏ học lâu quá, kiến thức rớt dài theo ruộng theo nương cho nên giờ không còn biết đếm. Nhờ lấy được cô vợ lớp bốn đang đếm được voọc vẹc nên cũng mượn vốn, mượn đất ông Tận mở sạp bán thịt lợn. Bán được mấy tháng, đường dao đã quen tay lắm, lỡ khi vợ đi vắng, không cần phải cân, khách mua tờ xanh, anh cắt theo tờ xanh, đưa tờ đỏ cắt theo tờ đỏ, ai muốn mua lẻ thì buộc phải đợi chị về. Từ ngày anh mở sạp thịt, không hiểu sao lợn trong làng chết dịch nhiều hơn, anh toàn mua được mối hời. Có khi người ta cho không anh để đỡ công chôn. Tối về bữa nào lời nhiều, anh vừa đếm tiền vừa tủm tỉm:
- Mấy thằng Mường thế mà hay, mấy cái lá vớ vẩn, tham ăn như lợn cũng phải bỏ cám.
Cha nghe vậy rên lên:
- Đừng làm vậy thất đức con ơi, cả gia tài người ta được con lợn...
- Con lấy vài con lợn của dân nhằm nhò gì. Thằng Lành giờ tiền tỉ.
Nghe vậy cha thở ra thườn thượt.
Mở sạp thịt lợn, anh chị thường xuyên nấu cháo tim cật đưa sang cho ông Tận. Ăn nhiều ông phát ngán, nhưng chối thì sợ anh chị buồn nên thường phải len lén cho đứa em út tôi ăn. Nó thèm, đói, mắt la mày liếc, đứng sau hồi nhà húp soàn soạt rồi luồn bát qua ngạch vách, một lúc chị dâu sang lấy bát về rửa, thấy cháo hết, tưởng ông ăn được, hôm sau lại mang sang. Nhờ đó con em tôi dậy thì đúng tuổi.
Tám tư tuổi, ông Tận nằm một chỗ. Chắc chưa đi được nên ông không muốn tin cho con gái về. Đêm cha tôi thường sang ngủ với ông. Chú Khín và anh tôi vẫn như mặt trăng với mặt trời. Mẹ tôi hay mè hè, không dám giặt quần áo ông Tận. Mọi việc cha lo hết. Có nhiều khi cha và chú Khín ngồi canh giấc ông. Thấy ông nhăn nhăn mặt, chú Khín vội kiếm cớ đi ra ngoài. Ngay sau đó, cha làm một xô quần áo sặc mùi xú uế. Chị dâu tôi sinh, mẹ tôi không dám giặt đồ bà đẻ, anh Hinh làm vô vài cốc rượu với dồi, tràng lợn lấy can đảm, rượu ngấm, tất cả được anh giặt sạch sẽ. Riêng quần áo của ông Tận vẫn chỉ mình cha đảm trách. Khi cha vắng mặt, chú Khín và anh Hinh lại len lén sang. Ông nằm đó, tuy người không nhúc nhích được nhưng bộ râu vẫn chăm chút sạch sẽ. Ông nói:"Ta chỉ khác đàn bà ở bộ râu". Trông ông lại càng giống triết gia nằm ngủ. Đôi khi thấy khoe khoẻ trong người, ông đùa:
Sửa soạn cho đẹp lão để xuống dưới ấy gặp bà nó cho đàng hoàng. Thấy xấu bà bỏ đi theo trai thì cô đơn cả kiếp sau, mất đồ cầm tay... Chú Khín nghe vậy nói:
- Ông còn minh mẫn thế, biết khi nào cho chết.
Anh trai tôi nói:
Ông sống lâu hơn cụ tổ tám năm và hơn ông nội con ba năm.
Cha nghe hết chỉ biết buồn. Ông đi, đương nhiên cha là người đứng đầu dòng họ. Tề gia, trị quốc chỉ việc thứ nhất thôi cha chưa làm được. Cha buồn tôi biết. Đã mấy lần thương anh trai cha buột miệng nói:"Giá mà...". Ừ giá mà không có chiến tranh!"
Khi ông Tận không còn đưa tay lên vuốt bộ râu được nữa, chú Khín và anh tôi đều nóng lòng vì không biết ý định của ông thế nào. Không thể hỏi trực tiếp được ông, chú làm bộ thiểu não, than thở với cha:"Chẳng lẽ em như vậy anh chưa thương, con đông, nghèo." Cha nghe chú hỏi vậy buồn buồn trả lời:"Chú vẫn không hiểu anh, anh coi chú Tận như cha, anh không có ý đồ. Nếu sau này có gì là của chú cả. Anh xin chú, mấy năm qua thấy chú thay đổi ông đã vui vui. Chắc ông sắp đi, anh mong chú đừng để ông buồn." Cha rút ruột vậy nhưng chú vẫn chưa yên lòng, chú bắt cha phải viết những lời ấy vào tờ giấy. May anh trai tôi không biết. Mà có biết anh cũng không biết cha viết gì, anh có đọc được đâu! Cha đã viết ra giấy nhưng chú vẫn chưa yên tâm. Khi ông Tận gần đi, chú gào vào tai ông:"Ở đâu! Ông để ở đâu?" Ông cấm khẩu không thể trả lời, cố với tay chỉ lên trần nhà. Chú và anh Hinh hai người vội bắc thang thoăn thoắt leo lên, lục lọi hết mọi ngóc ngách, thò tay vào các đầu tranh làm mùn tranh rơi cả xuống chỗ ông nằm. Ông vẫn chưa tắt nghỉm, nhưng mặt đã hết biểu cảm, hai giọt nước mắt trắng như hạt muối khô chảy răn reo trên má, không biết do mùn tranh rớt vào hay một lẽ gì đó. Cha nghiến răng đến bạnh quai hàm, mắt đỏ hoe. Hai người tìm kiếm chán không thấy, tranh nhau tụt xuống chất vấn cha. Không thể kiềm chế hơn được nữa, hai cánh tay như gọng kìm sắt của người cựu đặc công choàng một lúc cả chú Khín và anh Hinh kéo ra sau nhà. Khi đã khuất, ông nghiến răng: Cốp! Hai cái đầu rỗng như trái bí khô chờm nhau. Hai khối thịt trơn xuội như lợn chết dịch đổ vật xuống chân cha. Ông Tận ra đi lúc nào không ai biết. Cũng như lần bà mất, các o về khóc từ ngoài ngõ nhưng lần này chỉ mình cha ngồi nghe. Chú Khín mãi uống rượu cúng ông với mấy con liu điu. Anh trai tôi đang bận mổ thịt con lợn mua rẻ:" Phải mổ mau, chôn xuống đất ngày mai thịt không thâm, hết mùi kháng sinh, bán mới được giá. Thời buổi này thật thà có mà ăn cám!". Đó là lời nói cửa miệng của anh Hinh.
Chưa đủ ngày để rước ông về thờ. Cha lập bàn thờ ngay trong nhà ông. Tôi ở xa. Anh Hinh bận. Mẹ và em gái lại hay sợ ma. Hàng ngày, đến bữa cơm, cha đơm một bát đầy sang cúng ông. Sinh thời ông không nghiện rượu, nhưng bữa cơm thường nhấm nháp một vài chén, nên giờ cha cũng để sẵn một chai trên bàn thờ. Chú cũng siêng sang thắp hương cho ông. Thường cứ khi cha khuất lưng là chú sang. Có hôm trời mưa rét, tôi mới về đến ngõ, thấy chú lò dò đội mưa đi, tôi hỏi:"Chú đi đâu mà không đội gì vậy?". Chú giật mình như bị bắt quả tang làm việc bất minh. Không thèm nhìn tôi, chú cộc lốc:"Tao sang thắp cho ông cây hương, mày hỏi làm gì!" Ông mất được mươi ngày thì chú Khín lại sang sinh sự, trên ngực chú nhoang nhoáng cái huy hiệu thương binh. Thấy chú hùng hổ, cha bảo:" Chú cứ đợi hết bốn chín ngày, tôi làm đám rước ông về bên này. Khi ấy nếu không có gì thay đổi, tôi giữ lời hứa giao chú quản lý tất". Chú hậm hực bỏ về ngồi uống rượu đếm ngày. Anh Hinh đoán biết cha và chú đang có âm mưu gì đó, cố tình dò la nhưng không ăn thua. Vợ chồng anh muốn dọn sang ở nhà ông Tận nhưng ngặt nỗi chị mới sinh, ông mới mất nên không dám. Rồi một buổi chiều, anh Hinh đang ngồi cố bán cho hết mấy miếng thịt bụng con lợn nái sề, cha tôi vừa từ nhà ông về thì thấy chú Khín vùng vằng, hung hăng chạy từ nhà ông ra, vừa chạy vừa chửi:"Đồ mất dạy, ông thì ông đánh chết mày này". Chửi xong chú xông vào bợp tai anh Hinh. Không kịp tránh, má phải anh lãnh trọn một cái tát của chú. Ở trong nhà nghe lớn tiếng, cha chạy ra đúng lúc con dao pha thịt lợn đang nhằm đầu chú bổ xuống. Cha lao đến hứng trọn, bàn tay trái của cha đứt lợp khợp, từ vết chém, máu phun thẳng, nhuộm đỏ mặt chú Khín và mặt anh Hinh, trông họ như hai con thú đứng xụi lơ trước vòi máu của cha. Rồi không ai bảo ai, hai người bỏ đi về hai hướng. Trước khi quay mặt chú lẩm bẩm:"Mẹ cha nó, đồ mất dạy, dám đái vào chai rượu đặt lên bàn thờ ông Tận."
❖ ❖ ❖
Lời tiên đoán của cha tôi đã đúng. Ngày công an vào tận phòng làm việc đọc lệnh bắt, tôi không ngạc nhiên. Hơn ai hết, tôi biết việc mình làm. Họ tuyên án mười năm, hú hồn, cứ tưởng phải dựa cột! Em gái tôi là người đầu tiên đến thăm kể từ ngày thành án. Nó sụt sùi:
- Người ta nói tại anh dịch đường quốc lộ vào phá đình làng.
- Vớ vẩn! Tao làm tao chịu. Chuyện vườn nhà ông Tận sao rồi?
- Hôm bốn chín ngày ông, em ở cữ không về, chỉ nghe mẹ kể lại. Mà không biết sao, từ ngày cha bị anh Hinh chém đến giờ, mẹ cứ dở dở người, khi nhớ, khi quên.
- Mẹ kể sao?
- Mẹ nói: Hôm đó tuy tay chưa lành nhưng cha xin phép bệnh viện cho về mấy ngày. Có đầy đủ các o, các dượng cùng về. Các o nói với cha:"Ông chết không để lại di chúc, chúng em chưa giàu nhưng đều có hơn người ở nhà. Mọi việc đất đai, nhà cửa tài sản của ông bà, chúng em không dám lấy. Anh là trưởng, thấy như thế nào cho hợp lý thì nhờ anh". Cha gọi chú đến gần, chú nem nép liếc nhanh vào cánh tay sưng như bắp cày của cha rồi lại cụp mắt xuống. Khi chú đến gần, cha nói lớn:"Trước khi mất ông có chỉ lên trên trần nhà, nhưng chú Khín và Hinh tìm không thấy di chúc. Các o đã có lời vậy và tôi đã hứa với chú Khín trước đây, bây giơ tôi xin giao lại toàn bộ cho chú Khín". Cha nói vừa dứt lời thì ông Trình trưởng ban tư pháp xã đạp xe vào ghé sát thềm, ông mở xắc cốt lôi ra một phong bì trước những con mắt tò mò. Nhìn cha, sau đó ông nhìn khắp lượt họ hàng. Vuốt vuốt lại cái cà vạt màu nõn chuối, ông đằng hắng:"Cách đây mấy tháng, cụ Tận có lên xã gặp tôi trao lại cái phong bì này và dặn khi cụ mất, ngày họ hàng làm đám bốn chín ngày, đích thân tôi xuống trao lại phong bì cho đồng chí Lành. Nhưng đồng chí Lành, à quên, tên Lành đang bị công an bắt, nên tôi giao lại cho cha tên Lành, buộc cha tên Lành phải đọc trước tất cả mọi người". Cha nhận lấy, nhờ người bóc hộ rồi đọc rõ:"... Tôi biết, khi tôi chết đi mọi việc sẽ rắc rối, nên nhờ người viết di chúc để lại. Căn nhà tôi và miếng đất giao lại cho cháu Lành, nhưng cháu Lành phải bán đi để làm quỹ khuyến học cho con em trong họ. Nếu cháu có tiền, thì gửi vào ngân hàng làm quỹ khuyến học. Còn đất để lại, vì đất là đất tổ tiên, không nên bán...". Nghe đến đó chú Khín rú lên một tiếng rồi chạy về nhà nằm vật ra phản bất tỉnh, mấy ngày sau dậy ăn được nhưng từ đó cấm khẩu không nói được nữa, mắt mờ dần. Đất và nhà hiện vẫn chưa có ai sử dụng.
Mấy tháng sau mẹ lên thăm tôi, tóc cụ bạc nhiều, tai nghễnh ngãng, tay run run, gọt quả cam cũng không được. Tôi hỏi:
- Sao cha và anh Hinh không lên thăm con?
- Thằng Hinh mải làm thịt lợn. Còn cha giận anh, không đến thăm đâu. Ông ấy nói biết số anh phải ở tù nhưng vẫn kỳ vọng. Không ngờ anh vô tù thật. Anh đã vậy, nói thằng Hinh mãi nó cũng không chịu nghe, ông đâm phiền chỉ quanh quẩn trong nhà, uống rượu trừ bữa, tóc bạc xơ xác như rơm tuốt.
- Thế nhà và đất ông Tận thế nào rồi?
Hôm bốn chín ngày ông, cha anh phần vì vết thương cũ tái phát, vết thương mới chưa lành nên không về. Chú Khín làm đám to lắm, các o về rước bài vị của ông vào trong đó thờ. Chú không mời ai bên nhà mình cả, nhưng mẹ để ý, nửa buổi thấy có người trên xã xuống, sau đó nghe chú Khín rú lên, chạy về nhà nằm ốm liệt giường cả tháng, không nói không rằng. Cha anh giữ lời hứa giao lại toàn bộ cho chú Khín nên không còn qua lại. Vợ chồng thằng Hinh thấy chú Khín bị như vậy nên sợ cũng không dám sang ở, thành ra nhà bỏ hoang. Nghe đâu xã đang tính mượn để xây nhà mẫu giáo.
- Sao hôm trước con Lan đến đây, nó nói mẹ kể với nó khác? Mẹ nói ông Tận bảo để lại cho con bán làm quỹ khuyến học.
- Không, mẹ có kể gì đâu, mẹ có kể với nó thật à, mẹ không nhớ, có khuyến học gì đâu.
Mẹ lẫn thật rồi, chẳng biết thế nào mà lần. Thôi mẹ về đi, hết giờ thăm nom, ngồi lâu nó đuổi thì khổ. Cũng đừng lên thăm con nữa, lẩn thẩn xe đâm không ai hầu.
Mẹ khóc, những giọt nước mắt đùng đục như nước gạo chảy răn reo trên má. Mẹ nấn ná ngồi với tôi thêm một lúc nữa, đến khi nghe tiếng quát hách dịch của cán bộ quản giáo mới lập cập gạt nước mắt mà về. Tôi đứng nhìn theo, phía mẹ đi đang ủ một cơn mưa.
❖ ❖ ❖
Tôi ở tù đã được ba năm, ba năm không thấy mặt người thân. Mọi tin tức đều dừng lại phía ngoài song sắt nhà giam. Hôm được gọi lên gặp người nhà, bán tín, bán nghi."Chắc là mẹ mất!". Tôi hấp tấp chạy lên phòng đón tiếp thấy em gái đang ngồi chờ, thấy nó vui tôi mừng:
- Em về nhà hôm trước, gặp bác tộc trưởng đến tìm họ. Hóa ra cha đã từng là lính của bác ấy thời đánh Mỹ, vậy mà hai người không biết nhau - nó nói một hơi - Nhánh bên ấy phát lắm, toàn người làm to.
- Làm to thì kệ xác họ chứ, mắc gì đến mình.
- Anh lạ, đang gần lắm, mới hai đời.
- Họ vô phúc, giúp được gì nhau. Ra tù taođổi họ.
- Anh cứ như thế thì em không nói nữa. Họ có làm gì ảnh hưởng đến anh đâu. Anh làm xấu họthì có.
Nó nói xong ngoay ngoảy ra về. Hình như nó thương tôi. Trong tôi cũng trào lên một điều gì đó thật mơ hồ, như là nỗi nhớ nhà.
Bẵng đi một thời gian lâu, vợ chồng, con cái anh Hinh và vợ chồng con cái mấy đứa con nhà chú Khín đến thăm tôi. Mấy đứa nhỏ nghịch như quỷ, chạy nhốn nháo khắp phòng, rồi rủ nhau ra sân. Những bông hoa mười giờ nở đỏ sân trại. Thằng con anh Hinh mới bốn tuổi, dẫn đầu một đàn em lít nhít vừa chạy vừa đếm hoa. Chưa đi học mà nó đã đếm được đến số trăm. Tôi vui lây, bảo nó đếm tiếp, nó nem nép:
- Nhiều quá, cháu không đếm hết.
Anh Hinh nói:
Thấy nó sáng dạ mừng nhưng lo, anh không dạy được. Tôi nói:
- Sóng sau đè sóng trước.
Anh cũng sợ mấy đứa cháu lặp lại cha chú. Anh với mấy đứa lên chào chú để sang bên ấy.
- Kéo nhau đi làm gì một lũ, người ta khinh.
- Bọn anh sang ở hẳn bên ấy. Các bác có trang trại lớn thiếu người nhận bọn anh làm công nhân còn xây nhà cho ở, có trường cho mấy đứa học.
- Còn cha, Chú Khín?
- Tới đây cũng sang luôn. Đất đai chuẩn bị giao lại cho huyện, họ xây trường cấp một, hai. Cha nói phải bắt đầu làm lại từ gốc.
Nháo nhào một lúc rồi mọi người kéo nhau về. Trời nắng mà gió hây hẩy. Mấy đứa nhỏ không chịu đội mũ, chúng nói để đầu trần vậy cho mát.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến
Quả Tôi Chưa Thấy Bao Giờ

Thế là mùa xuân đã cạn ngày, những tán lá xanh non mỡ dần chuyển sang màu xanh thẫm, lác đác rụng một vài lá vàng. Đã nghe đâu đó trong gió man man hơi nóng của gió Lào.
Mùa tình qua. Những con hươu cái trong chuồng sau một mùa ân ái giờ mãn nguyện nằm bỏm bẻm nhai lại mặt thường hênh hếch lên đắc thắng khi cái bụng chửa đã lùm lùm. Những vết cắt trên đầu đàn hươu đực đã liền sẹo chuyển sang màu thâm xỉn, bộ lông vàng óng mượt đang dần chuyển sang màu hung. Hết mùa tình, chúng cũng chẳng còn bức xúc phá chuồng để mà đi tìm bạn như mấy tháng về trước.
Vào độ đó nhà tôi lại chuẩn bị một mâm cơm cúng để làm lễ rửa cưa, kết thúc một mùa nhung.
Năm nay cũng vậy, khi mâm lễ đã được mẹ tôi chuẩn bị xong, cha tôi cài xong khuy cuối cùng của chiếc áo lễ, thau rượu trắng hăng mùi gừng tươi được đưa lên bàn thờ bên cạnh cái cưa nhung và tấm vải điều đã được giặt sạch cất cẩn thận suốt cả mùa nhung cũng được đưa ra bày lên bàn thờ. Cha chuẩn bị rút hương ra châm lửa thì nhà tôi có khách. Khách là một người đàn bà đài các dáng thị thành tuy chân bước hơi nhanh và hình như vẫn chưa bỏ được thói mắt la mày lét của người quê đến chốn chưa quen. Buổi lễ cúng rửa cưa tạm thời phải dừng lại. Mẹ và tôi tạm lùi xuống bếp. Cha mặc nguyên cả áo lễ tiếp khách. Tôi và mẹ ngồi chưa dập miếng bã trầu đã nghe cha gọi lên nhà trên có việc. Tôi kính cẩn đứng sau lưng cha như những lúc hành lễ, cha chỉ vào người đàn bà giới thiệu:
- Đây là cô Ngân Hoa vợ của ông Ngân Lượng, giám đốc nhà máy bia tỉnh ta - Quay sang tôi cha nói: Còn đây là Thiên, con trai tôi, cháu sẽ thay tôi đi cùng cô.
- Nhưng... Cô Ngân Hoa ngập ngừng.
- Cô đừng lo, tôi theo dõi cả mùa nhung qua, cháu đã thay tôi cầm cưa được rồi cô ạ.
Nói rồi cha đến bên bàn thờ, lấy cái cưa nhung xuống trao cho tôi và nói:
- Con cầm cưa đi theo cô Ngân Hoa.
- Mùa tình đã hết, hươu cả làng này đâu còn cặp nhung nào nữa mà cắt?
- Làng này không còn nhưng làng khác vẫn còn con ạ. Cô Ngân Hoa đã tin tưởng cha con mình mà lặn lội tìm đến đây thì phải giúp thôi. Vẫn biết đất có thổ công... ở dưới đó cũng có nhà ông trùm Hậu là mát tay trong việc cắt nhung. Nhưng cô đây muốn giữ kín chuyện này, nên con xuống cắt xong thì về ngay, cũng đừng nói gì nếu thấy những chuyện khác thường.
Tôi đón lấy cây cưa nhung từ tay cha rồi theo cô Ngân Hoa ra xe. Lần đầu tiên, tôi và cây cưa nhung được đi xe ô tô. Cũng đúng thôi, từ bé đến giờ đã mấy khi tôi ra khỏi làng? Và cũng là lần đầu tiên tôi được ngồi trong một cái quán cà phê mà có mấy cô bán quán mặc váy ngắn như vậy, ngắn hơn cả con gái làng tôi xắn quần trước khi lội xuống ruộng sâu. Ngắn quá đến nỗi tôi không dám nhìn. Sợ lắm, chị tôi mới chỉ xắn quần quá đầu gối đã bị mẹ chửi là đồ hư thân mất nết rồi. Mẹ mà gặp mấy cô này không biết mẹ sẽ gọi họ là đồ gì đây? Tôi đang miên man suy nghĩ thì cô Ngân Hoa nói:
- Thiên này, trước khi về nhà, cô muốn ngồi lại đây với cháu chúng ta thống nhất một vài điều. Cháu uống gì? Nước chè xanh à? Ở đây không có. Cháu uống bia hay cà phê cũng được.
- Thôi cô cho cháu chai nước lọc. Cô muốn dặn điều gì?
- Như cha cháu đã dặn, những gì cháu thấy ngày hôm nay cháu phải thề với cô là sống để trong dạ, chết ngạ bên mồ nghe chưa?
- Nhưng cháu đến nhà cô là để cắt nhung hươu, từ trước đến nay cháu cũng chỉ quen có cắt nhung hươu, còn mọi việc khác cháu không biết làm, thế cô muốn cháu làm việc gì mà phải bí mất? Cháu sợ lắm, không làm đâu, cô cho cháu về.
- Về là về thế nào, cháu vẫn cắt nhung, nhưng cặp nhung này hơi đặc biệt, cháu biết đâu bỏ đó là được rồi, đừng nói với ai, kể cả cha cháu.
- Nếu là nhung thì cháu chẳng sợ gì, cháu hứa, thôi cô cháu mình đi đi kẻo trời trưa.
Khi chúng tôi sắp ra xe thì có thằng bé bán báo dạo tiến đến, cô Ngân Hoa hững hờ rút một tờ Trẻ Tuổi rồi cũng hững hờ như thế, cô giở từng trang báo ra. Bỗng mắt cô mở to hết cỡ khi bắt gặp dòng tít"Nhà máy bia Tĩnh Hà gây ô nhiễm môi trường trầm trọng”. Cô đọc ngấu nghiến hết trang báo rồi ngay tắp lự rút diện thoại ra gọi:
- Anh à? Anh giết em rồi, sao anh để thằng Trẻ Tuổi nó đánh nhà máy bia như thế?... Rồi, em công nhận là có trường hợp lợn nhà ông Hợi đẻ ra một con voi con thật. Đúng, đúng, em tận mắt chứng kiến... trâu nhà ông Sửu đẻ ra con nghé hai đầu cũng là có thật. Hả, anh nói gì? Chuyện đó thì em có nghe, nhưng không thấy, nó không cho xem... Nhưng... thiếu chim mới sợ chứ nó đẻ được thằng con trai hai chim thì tốt quá còn gì? Chim cò giờ đang thiếu, có người không thiếu nhưng có chim có cò mà chẳng nên chim nên cò cũng chán chết..., đùng một cái nhà nó có thằng con hai chim, biết đâu mai này cả cái tỉnh này sẽ sản sinh ra một thế hệ đàn ông hai chim thì coi mà đắt hàng, tất cả phải cảm ơn nhà máy bia ấy chứ. Sao, ngay bây giờ a? Nói qua điện thoại không tiện à? Bàn bác, bàn bạc như mấy lần trước đến rạc cả người chứ gì? Nỡm ạ, em đang rối lòng lên đây này, không được đâu, em đang có tí việc thật mà... Hôm khác không được à... lại mới nốc huyết hươu vào chứ gì... nhưng... nhưng... không... Hứa nhé, anh đã hứa rồi nhé. Nó phải có bài cải chính ngay số báo tới nhé. Rồi em tới liền, nhưng hôm nay anh phải để em về sớm đấy. Nỡm ạ... sâm nhung cho nó nhiều vào rồi..., vẫn chỗ cũ phải không? Thôi em không dám đến đó đâu, chỗ khác kín đáo hơn tí, con sư tử nhà anh... Rồi, rồi, em đến ngay.
Bỏ điện thoại vào túi xách, lấy hộp phấn ra phên phết lại mặt, kẻ một đường chì mờ lên hai chân mày hình cánh lá, miết lại cái môi son, mim mím dăm lần cho son bám chắc vào môi như sợ sắp gặp phải kẻ bạc tình làm cho mình bạc phấn. Cô Ngân Hoa quay sang tôi nói:
- Bây giờ cô phải đi đây có chút việc, cháu cứ ngồi đây chờ, kể cả chuyện này cháu cũng bí mật giúp cô.
- Nhưng cắt nhung vào buổi chiều không tốt đâu cô ạ.
- Không sao, kể cả ban đêm cũng không sao, cháu cứ ngồi đây chờ cô về đón, đừng đi đâu mà lạc nhé. Này! - Cô hất hàm cho cô tiếp viên- Nếu anh này chờ lâu mệt, các em đưa anh vào trong chăm sóc giúp tôi nhé.
Cô khuất lưng, tôi nghĩ: Lạ, nhà đã nuôi hươu mà không biết một tí gì về hươu, trước khi cắt nhung còn hẹn hò với trai. Không những bản thân đi hẹn hò mà còn bảo thợ cắt nhung đi nghỉ. Mùa tình là mùa của vạn vật sinh sôi, của gái trai tình tự, nhưng mọi điều đều có chung cái quy luật của nó. Hươu là linh vật của làng, nên trước khi đến với linh vật đều phải thanh sạch, sáng trong. Thợ bắt đầu, thợ cắt nhung và gia chủ có hươu sắp cắt nhung đều phải trai giới. Điều đó không ai không biết, đến vợ chồng còn phải xa ra huống hồ là hẹn hò. Lạ thật chẳng lẽ nuôi hươu mà không biết chuyện đó?!
❖ ❖ ❖
Tôi hết đứng lại ngồi, mặt trời lên ngự đỉnh trời rồi tà tà ngả về phía tây vậy mà cô Ngân Hoa vẫn chưa quay lại. Mãi đến khi phía tây mây đỏ đòng đọc như một chậu máu, hoàng hôn đang tham lam nuốt dần mặt trời thì cô mới tã tượi trở lại. Không biết ăn nhiều son môi có ảnh hưởng gì tới bệnh đường ruột không? Nếu có tôi dám chắc đêm nay người tình của cô Ngân Hoa phải đi mua ngay mấy liều béc-bê-rin phòng tiêu chảy. Bởi trước khi đi cô ấy đã tô cho đôi môi chuối mắn đỏ chót lên thế kia, vậy mà bây giờ nó đã bạc thênh thếch như da trùn chết.
Nhà cô Ngân Hoa ngự ngay mặt phố, rộng thênh thang, đẹp như một lâu đài. Tôi chợt nghĩ, nếu cái này cũng gọi là cái nhà thì không biết cái cha con tôi đang ở phải gọi là cái gì? Chắc là gọi lều thôi, mà lều cũng không xứng. Cũng giống như người ta gọi cụ Nguyễn Du là nhà thơ, và ông Trường hói cạnh nhà tôi chuyên đi thiến lợn, tự bỏ tiền ra in được tập thơ cũng vênh vênh xưng mình là nhà thơ. Không biết cô Ngân Hoa hưởng cái lộc gì mà to, mà giàu, mà sung sướng hơn cả dân làng tôi mấy mươi đời được hưởng lộc trời- nhung hươu được gọi là lộc trời mà.
Tôi đang ngơ ngẩn nhìn quanh quất không biết nhà cửa như thế này thì chuồng hươu đặt ở đâu? Gọi tôi đến cắt nhung mà chẳng thấy có chuẩn bị gì, bét ra cũng phải có dăm bảy người giữ thì tôi mới cắt nhung được chứ? Đang thắc mắc thì có một người đàn ông phóng xe máy vào tận nhà. Người lèo khà lèo khèo thế này chẳng lẽ là thợ bắt đầu, lạ thật. Không cả nhìn tôi, anh ta chạy ngay lên lầu, một lúc sau thấy khoác tay cô Ngân Hoa đi xuống. Chết cha, chẳng lẽ con cú này lại là chồng của con thiên nga này sao? Chả trách thiên nga chiều nay tách đàn. Tôi lại thắc mắc cành hông thì cô Ngân Hoa nói:
- Trăm sự nhờ anh, anh cứ dùng loại thuốc tốt nhất gây mê cho nhà em. Và điều quan trọng là anh giữ kín cho việc này. Trăm sự nhờ anh, em sẽ đền đáp xứng đáng.
- Em khỏi lo, đến voi anh gây mê còn ngủ li bì nữa là người, gây mê xong anh sẽ... sẽ... gây.... tê.... cho em luôn nhé.
- Nỡm ạ, cứ xong việc đi đã nào.
Vừa nói hai người vừa dắt nhau vào buồng trong. Khoảng mười lăm phút sau, cô Ngân Hoa ra cửa gọi tôi vào. Khi tôi lại gần, cô đặt bàn tay dịu dàng lên vai tôi nói:
- Cháu thật bình tĩnh mà cưa cho tốt nhé, đừng sợ gì cả, cứ cắt như cắt nhung hươu.
- Thế...?
- Không việc gì cả, cô và chú bác sỹ thú y sẽ giữ chặt đầu cho cháu cưa. Với lại ngủ li bì rồi, còn sợ gì nữa.
Chúng tôi đến bên chiếc gường đôi, trên đó có một người đàn ông đang nằm ngủ. Tôi nhìn lên mặt, lên đầu người đàn ông rồi bỗng rụng rời chân tay, trên đầu ông ấy đang đội một cặp nhung trắng hồng với nhánh chính, nhánh con đẹp như vẽ. Trên đời này kể từ khi nhà máy bia gây ô nhiễm, tôi đã thấy khá nhiều chuyện lạ, chuyện bò hai đầu, gà bốn chân, lợn voi, chuột chó... đều thấy cả, nhưng người mà mọc nhung như hươu thì quả tôi chưa thấy bao giờ. Nhưng quả thật chẳng còn con đường lui, tôi bặm môi cưa. Cưa ăn nhung xoèn xoẹt. Từ vết cắt nhìn xuống thau rượu hứng phía dưới một dòng máu đen, tanh, thối, khẳm... như nước thải nhà máy bia. Tôi vẫn nghiến răng cưa, còn cô Ngân Hoa chắc không chịu được mùi xú uế chảy ra từ chồng. Cô nôn khan rồi ôm mặt lao vào nhà về sinh.
Người mà mọc nhung như hươu, máu người mà đen, hôi như nước cống, quả tôi chưa thấy bao giờ.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

Một Nửa Lưu Lạc

Cơ quan làm ăn thua lỗ, buộc phải thay lãnh đạo. Ngay buổi ra mắt, lãnh đạo mới đã tâm sự:"Xin mọi người đừng nhìn vào mái tóc của tôi mà hãy để tâm xem tôi suy nghĩ những gì trong đầu và làm được những gì trong thời gian tới”. Khó đấy, suy nghĩ trong đầu thì làm sao mà biết được, chỉ mong sao sếp mau tháo gỡ khó khăn, đưa cơ quan đi lên, sếp có cơm ăn thì anh em cũng có chút cháo mà húp. Mong là mong vậy thôi, chứ ai nấy đều cảm thấy vô cùng chán nản, mấy sếp trước kinh nghiệm bản lĩnh đầy mình, vậy mà thua lỗ vẫn hoàn thua lỗ, khó khăn vẫn hoàn khó khăn, đời sống anh em đi xuống như xe tuột dốc không phanh. Không biết cấp trên nghĩ thế nào lại điều về đây một sếp mới.
Giới tính: nữ
Ngoại hình: Cao một mét bảy mươi, tóc dài, da trắng, dáng đi uyển chuyển dễ nhìn.
Tuổi đời: U 40
Tình trạng hôn nhân: Phòng không.
Giới tính, ngoại hình thì ai nhìn cũng biết, còn tuổi đời và tình trạng hôn nhân là do Tiến béo tăm được tin ở phòng nhân sự. Khi nghe Tiến béo bô bô U40, phòng không, anh em đều tự nhiên không ai bảo mà đồng loạt hướng cái nhìn ngỡ ngàng sang tôi rồi sau đó đều lắc đầu ngán ngẩm. U40 mà còn phòng không thì khó tính phải biết, con người ta không cãi được đạo trời đâu, phải có cặp, có đôi, âm dương nó hài hoa mới mong thong dong về suy nghĩ, mới mong đủ sức khỏe mà kéo cái cỗ xe đang nằm chết dí dưới đáy vực của thua lỗ là cái cơ quan này lên. Anh em chán nản, còn tôi thì chán chường đến nỗi không muốn chường mặt đến cơ quan. Tôi chán hơn anh em là có cái lý của tôi. Tôi cũng U40, cũng phòng không và trợ lý cho ba đời sếp trưởng rồi. Ba sếp trước đều là đàn ông, đàn ang cả, đều tướng mạo phi phàm cả, đều râu hùm hàm ém mày ngài, bụng như cái trống thân dài thước tư. Điều quan trong là tuổi đời, tuổi nghề của cả ba đều hơn tôi, vậy nên có bị mệnh danh ngủ quên dưới cờ cũng không sao. Có bị chê là bị tắc hạ phá thượng, đầu óc không minh mẫn nên tứ đời làm trợ lý cũng không sao. Điều quan trọng nữa là, tôi chưa vợ nhưng không có nghĩ không thèm có vợ, không thèm đến một nửa của mình đang lưu lạc trên giường của ai đó, nên làm trợ lý của mấy sếp nam thỉnh thoảng còn có được tí dấm tí mẻ. Giờ đây sếp lại là nữ, cùng U40 nhưng xem ra còn sinh sau tôi đến mấy ngày. Thôi thì cũng đành, bởi họ váy cao, chân dài tài cao làm sếp cũng không sao, nhưng tôi ngồi mà tưởng tượng đến cảnh tháp túng sếp đi công tác, ngoài làm con ngựa thồ công văn tài liệu như trước đây đã đành, giờ lại phải thồ thêm một lô xích xông phụ tùng, quang gánh với xoong nồi, thìa dĩa của cánh đàn bà con gái nữa thì nhục quá. Rồi những chuyến công tác xa rên mình nhức mỏi cần có tí mát mẻ thì sếp mát xa rồi đến mát gần, còn mình chí ít cũng được tí mát xa, cũng có hôm tiền nong nó rủng rỉnh thì kiếm lấy một nửa thân xác lưu lạc của thằng đàn ông nào đó mà mát gần cho đỡ bức xúc.
Giờ sếp là nữ, từ nay đi công tác luôn phải hát bài ca đi đày thôi.
Chán, tôi vào mạng tìm quên với những người tình ảo. Tuy trình độ gõ mổ cò nhưng tôi vẫn đáp ứng được một lúc đến ba, bốn em. Nói chuyện vắng mặt cũng hay ra phết, em nào cũng khen tôi ăn nói có duyên, đẹp trai, đa tình, sâu sắc và tinh tế. Sai, sai bét nhè. Được như mấy em khen thì anh đây bây giờ không còn phải ngồi xào khô bàn phím máy tính, chat suông với mấy em như thế này nữa đâu.
Sau mấy ngày chọn lựa bạn tình, sàng lọc kỹ lưỡng về tính tình, trình độ, sở thích, cuối cũng tôi lưu lại ních codon làm bạn tình trăm năm - tất nhiên là nếu mạng Internet toàn cầu không bị đánh sập vĩnh viễn.
Tôi và em codon thường lên mạng vào những giờ nghỉ trưa, vậy nên tôi cũng bỏ luôn những giấc ngủ trưa đầy mộng mị để đóng cửa lại mở máy hú hí với người tình. Cứ như thế khoảng hai tháng trời thì chuyện không chỉ là ảo nữa rồi. Tôi ngày ngày cứ háo hức đợi đến chính ngọ là mở máy và bên kia, bao giờ cũng vậy, codon gửi tặng tôi một nụ hôn nóng bỏng cả mình mẩy. Phải thú thật rằng hai tháng qua, kể từ ngày có sếp mới về nhờ có codon mà tôi còn sống được, còn quên đi được cái thực trạng vô cùng bi đát của cơ quan, của tôi. Trong những lần chát chít, ngoài nói chuyện tình cảm yêu đương, tôi tâm sự hết với codon nỗi buồn tôi đang phải oằn lưng gánh hai tháng nay. Có lúc cảm xúc lên tràn trề, tôi còn chat một câu in đậm:"Thà làm đầy tớ thằng không còn hơn làm thầy... tóc dài đầu ngắn.” Phải đến một lúc lâu mới thấy codon nhấp nháy trả lời:"Em đồng ý với anh điều đó, nhưng liệu có cực đoan quá không? Phải xem phía dưới bộ tóc dài là cái đầu như thế nào đã chứ anh yêu?”. May nhờ câu trả lời có hai chữ anh yêu nên tôi cũng đỡ đi được phần nào bức xúc. Chuyện cứ thế, cứ thế, cho đến một ngày, tình cảm của chúng tôi không còn có thể ảo tình qua mạng được nữa, tôi hẹn codon ra gốc bằng lăng thứ chín cuối vườn hoa Con chuột để được gặp nhau, tôi sẽ mặc áo trắng thắt cà vạt hoa cà, còn codon sẽ mặc váy ngắn, áo màu cà rốt và tay trái cầm một bông hồng, thời gian là chính ngọ ngày rằm. Được em nhận lời, lòng tôi mừng khấp khởi, đang trên đà thắng lợi, sẽ xốc tới hôn nhân... Nhưng, đúng là cuộc đời luôn có những chữ nhưng chết tiệt. Sáng ngày rằm sếp gọi tôi lên phòng nhỏ nhẹ:"Anh chuẩn bị chúng ta đi công tác miền nam nhé”. Tôi hốt hoảng:"Đi ngay bay giờ?”."Đi ngay. Vé máy bay bên hành chính họ đã đặt, tôi cũng chỉ mới biết kế hoạch sáng nay, anh thông cảm về chuẩn bị ra sân bay kẻo không kịp”. Biết nói gì hơn nữa đây, muốn nói thì hãy làm sếp mà nói, muốn ra lệnh thì hãy làm sếp mà ra lệnh, vả lại tôi cũng chả có lý do gì chính đáng mà xin không đi công tác cả, chẳng lẽ bốn mươi tuổi đầu rồi mà lại nói là trưa nay tôi phải đến gốc bằng lăng thứ chín ở vườn hoa Con chuột hẹn gặp người yêu? Nói thế thì ngượng chết đi được. Tôi rút máy điện thoại di động, chợt ngẩn người, chúng tôi chưa có số của nhau, biết làm sao đây, một nửa lưu lạc bốn mươi năm của anh ơi, anh không thể để em lưu lạc lâu hơn được nữa. Nhưng anh cũng không thể cãi lại sếp của anh, không có em anh vẫn sống được bốn mươi năm nay, còn nếu bị sếp đuổi việc thì ngay ngày mai anh chết mất ngáp. Thôi thì đành, em cứ lưu lạc thêm vài ngày nữa, anh về rồi chúng ta tính tiếp.
Tôi vội vã xuống tài vụ ứng tiền, ngoài tiền lương ra, em còn bảo tôi ký nhận thêm một khoản tiền gấp đôi tiền lương nữa. Tôi trố mắt nhìn, em lại nhoẻn cười- đúng là mặt được bạc- tôi nghĩ. Em nói:"Tiền phúc lợi tháng này đấy, cứ được như thế này là sống rồi anh ạ”. Ra thế, hai tháng tôi chìm đắm với em codon thì cỗ xe cơ quan đang từng bước ì ạch nhưng tiến lên dốc một cách vững chắc.
❖ ❖ ❖
Đúng ngọ ngày rằm, chúng tôi đến sân bay Tân Sơn Nhất. Trong khi chờ xe đến đón, tôi vội mở laptop ra hú họa xem em có lên mạng không, biết đâu ra vườn hoa Con chuột không thấy tôi, về nhà em sẽ lên mạng kiếm tìm và chửi rủa. Nich codon đang sáng, tôi thót tim chờ một câu xỉ vả, nhưng như không tin vào mắt mình, em gửi vội cho tôi một nụ hôn kèm theo lời xin lỗi:"Em phải đi công tác miền nam gấp nên không tới gặp anh được"."Em đi tỉnh nào?”"Thành phố Hồ Chí Minh"."Bây giờ em đang ở đâu?”"Em đang chờ xe đến đón ở sân bay Tân Sơn Nhất". Tôi toát mồ hôi hột vội ngước lên nhìn, hàng ghế bên kia, sếp cũng đang ôm trong mình một cái laptop..​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

Ăn Thật

Thủ trưởng xa quê đã lâu nhưng vẫn luôn nhớ đến món ăn quê nhà, nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương, đặc biệt là nhớ món canh cua đồng nấu với lá mồng tơi. Sở thích không khó chiều, chính vì vậy mỗi lần có tiệc tùng vui hay những lúc thủ trưởng thấy trong người không được khỏe là trưởng phòng một, trưởng phòng hai, trưởng phòng ba... thường sai đệ tử xuống tận miền biển mua cho được cua tươi, cua gạch về nấu canh thiết đãi thủ trưởng.
Sinh nhật thủ trưởng năm nay cũng không ngoại lệ, các phòng ban đã rậm rịch chuẩn bị cả tháng trước, chỉ mong sao lo cho được bát canh mà thủ trưởng ưng ý nhất.
Mới hơn mười giờ trưa, trưởng phòng một đã đích thân bưng lên phòng thủ trưởng một bát canh còn nóng hôi hổi, bốc khói nghi ngút. Đặt bát canh xuống bàn, trưởng phòng một nói:"Biết anh không ưa tổ chức linh đình sinh nhật, nhân chuyến đi công tác vừa rồi, gặp được cua ngon, em mua mấy cân về nấu nồi canh, mong là anh thích”.
Trưởng phòng một vừa khuất lưng thì trưởng phòng hai com lê ca vát bưng lên một bát canh, miệng luôn xuýt xoa vì nóng. Vừa hai tay bắt lấy tai, trưởng phòng hai vừa nói:"Đây là cua gạch chính cống, em bảo nhà em chỉ lấy gạch nấu hầu anh bát canh cua mồng tơi này, đảm bảo anh sẽ thích, đây sẽ là bát cánh có một không hai, nên dùng ngay cho nó nóng anh ạ".
Tiếp sau trưởng phòng hai là trưởng phòng ba dáng điệu nghiêm trang, mặt lạnh như tiền nhưng miệng cố rặn một nụ cười cầu tài cũng bưng lên phòng thủ trưởng một bát canh, hai tay vừa xỉ xỉa theo thói quen đếm tiền vừa nói:"Khiếp giá cả nhảy vọt đến chóng mặt, cân cua thịt này tháng trước chỉ ba trăm là cùng, tháng này lên đến bốn trăm. Mời anh dùng ngay cho nó nóng ạ, em chỉ lấy độc có thịt ở càng to nấu canh thôi đấy. Mời anh".
Trưởng phòng ba khuất lưng được một lúc thì con bé mồ côi, mới được nhận vào làm lao công của cơ quan tháng trước cũng tất tả lên phòng thủ trưởng. Chân còn lấm lem bùn đất, quần ống cao ống thấp, nó rụt rè gõ cửa phòng thủ trưởng. Khi vào phòng, nó thấy ba chiếc bát pha lê đựng canh đang bốc khói nghi ngút trên bàn ăn của thủ trưởng, nó lúng túng mất một lúc rồi vội vã chào thủ trưởng thối lui. Nhưng khi nó mới quay người, thủ trưởng đã gọi giật:
- Cháu Lan, quay lại bác hỏi, lên gặp bác có việc gì mà vội vã quay về thế.
- Da... không... không có gì đâu ạ.
Cháu xách cái gì trong cặp lồng thế, đưa lại đây bác xem.
Không còn cách nào khác, nó đặt chiếc cặp lồng nhôm cũ mèm - gia tài của bố mẹ để lại và là sản phẩm của một thời bao cấp lên trên bàn thủ trưởng. Thủ trưởng mở cặp lồng rồi gọi Lan đến gần nói:
- Cháu về phòng mình lấy nồi cơm của cháu lên đây, hai bác cháu mình cùng ăn nhé.
- Nhưng... nhưng...
- Cháu cho bác ăn thật một lần đi- Thủ trưởng nói thành thật-Lâu lắm rồi bác không được ăn thật. Đúng là mùi canh cua ngày xưa mẹ bác thường nấu, lại có cả cà pháo nữa này, ôi cháu tôi, cháu tìm mua được cua đồng ở đâu mà ngon thế? - giọng nói của thủ trưởng đã bắt đầu ngàn ngạt vì xúc động.
- Dạ.... dạ... cháu... hết tiền... sáng nay cháu đạp xe ra ngoại thành xuống ruộng móc cua và xin được một nắm rau mùng tơi ạ..., cháu giã cua trong chiếc cặp lồng này đấy, không được nhuyễn lắm nhưng cháu lọc kỹ lắm rồi – Lan trở lại vẻ hồn nhiên của trẻ thơ.
- Ôi con gái của tôi, cảm ơn con gái nhiều lắm. Cảm ơn con gái nhiều lắm. Con cho ta nhiều quá, cảm ơn con...!
NTH​
 


Top