Lịch sử hệ điều hành DOS/Windows

VNZ-NEWS
Vn-Z.vn Ngày 31 tháng 05 năm 2023,
Trong bài trước, chúng ta đã tìm hiểu về sự ra đời và phát triển của hệ điều hành Unix và Linux. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về hệ điều hành DOS và dòng sản phẩm Windows của Microsoft.


Như đã đề cập trong bài trước, vào những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ 20, cùng với sự trưởng thành của công nghệ máy tính, hệ điều hành cũng đã bước vào một giai đoạn phát triển nhanh chóng. Khái niệm về hệ điều hành hiện đại cũng được hình thành trong thời kỳ này.


Vào đầu năm 1975, công ty máy tính MITS đã ra mắt chiếc máy tính nhỏ gọn Altair 8800, sử dụng vi xử lý Intel 8080. Đây là chiếc máy tính cá nhân đầu tiên trong lịch sử nhân loại, có ý nghĩa quan trọng.

Altair-8800.webp

Năm 1976, công ty Digital Research (DR), một công ty của Mỹ, đã thành công trong việc phát triển một hệ điều hành tên là CP/M (Control Program / Monitor, Chương Trình Điều Khiển / Giám Sát), được thiết kế đặc biệt để sử dụng trên các máy tính nhỏ dùng vi xử lý 8080 (bao gồm Altair 8800).

Sau đó, đến năm 1980, IBM cũng bắt đầu phát triển dự án PC riêng của họ một cách bí mật. Dự án này được đặt tên là "Project Chess" và được lãnh đạo bởi Don Estridge, với mục tiêu phát triển một sản phẩm máy tính nhỏ với giá cả phải chăng, dành cho thị trường doanh nghiệp nhỏ và người dùng gia đình.

Để phát triển hệ điều hành phù hợp cho chiếc PC mới này, họ đã liên hệ với Bill Gates của Microsoft.

Có hai lý do chính để IBM tìm đến Bill Gates:

  • Thứ nhất: Trước đó, Microsoft đã phát triển sản phẩm Z-80 SoftCard để cho phép CP/M chạy trên máy tính Apple II. Vì vậy, IBM đã lầm tưởng rằng Microsoft đã sở hữu CP/M.
  • Thứ hai, mẹ của Bill Gates, bà Mary Maxwell Gates, đã cùng Giám đốc điều hành IBM John Akers (John Fellows Akers) trong nhiệm kỳ của bà với tư cách là chủ tịch hội đồng quản trị của United Way () làm việc cùng nhau. Mary Maxwell Gates, mẹ của Bill Gates, đã đóng vai trò quan trọng trong việc liên kết Microsoft với IBM. Trong thời gian làm chủ tịch Hội đồng Quản trị Liên hiệp Quyên góp Quốc gia Hoa Kỳ, bà đã làm việc với CEO của IBM, John Fellows Akers, và được cho là đã giới thiệu Microsoft cho IBM.

Sau khi thảo luận với đội ngũ của IBM, Bill Gates đã cho biết rằng Microsoft không sở hữu CP/M và đề xuất họ nên liên hệ với công ty Digital Research.
Do ký kết các thỏa thuận bảo mật chặt chẽ, khi Bill Gates nói chuyện với Gary Kildall, người đứng đầu của Digital Research, ông không đề cập đến việc IBM đang tìm kiếm họ một cách trực tiếp. Thay vào đó, ông chỉ nói đơn giản rằng "Một số người sẽ đến gặp bạn. Hãy đối xử tốt với họ, vì họ rất quan trọng."

tao-ra-bios.webp

Gary Kildare, Lập trình viên huyền thoại, người đã phát minh ra BIOS
Tuy nhiên, vì nhiều lý do, cuộc đàm phán giữa Digital Research và IBM đã không thành công và hai bên không đạt được thỏa thuận. Một lý do được đưa ra là IBM đã yêu cầu Gary Kildall ký một thỏa thuận bảo mật rất nghiêm ngặt ngay từ lần gặp đầu tiên, điều này khiến ông Kildall không hài lòng. Ngoài ra, cũng có thông tin cho rằng Digital Research muốn bán sản phẩm của họ theo gói, trong khi IBM muốn mua theo từng đơn đặt hàng.

Trước tình hình này, Bill Gates nhận thấy đây là một cơ hội kinh doanh khổng lồ và không thể bỏ lỡ.
Sau khi tiến hành một số cuộc điều tra, Bill Gates phát hiện rằng một nhân viên lập trình 24 tuổi tại công ty Seattle Computer Products (SCP) tên là Tim Paterson, đã viết ra một hệ điều hành tên là QDOS (Quick and Dirty Operating System, dịch là Hệ điều hành Nhanh và Bẩn), sau đó được đổi tên thành 86-DOS. Hệ điều hành này là một biến thể của hệ điều hành CP/M và có vẻ như có thể đáp ứng được yêu cầu của IBM.

Ban đầu, Bill Gates chỉ mất 25,000 đô la Mỹ để mua bản quyền của 86-DOS. Tuy nhiên, sau khi nhận ra tiềm năng kinh doanh lớn đối với dự án IBM, Bill Gates đã quyết định mua lại toàn bộ bản quyền với mức giá ấn tượng 5-7 triệu đô la Mỹ.
Để cải tiến 86-DOS, Bill Gates đã đưa Tim Paterson về làm việc tại Microsoft.
Vào ngày 27 tháng 7 năm 1981, Microsoft chính thức phát hành hệ điều hành MS-DOS (MS là viết tắt của MicroSoft, DOS là viết tắt của Disk Operating System, Hệ điều hành đĩa).


MS-DOS.webp

Vài ngày sau đó, vào ngày 12 tháng 8 năm 1981, IBM cũng chính thức ra mắt sản phẩm máy tính cá nhân của mình - IBM PC, sử dụng phiên bản MS-DOS 1.14 (được đặt tên là PC-DOS trên IBM PC).

IBM-PC.webp

Lúc đó, IBM và Microsoft sử dụng phương thức cấp phép cho từng máy tính một. Mỗi khi một người dùng mua một chiếc IBM PC, họ phải trả phí sử dụng MS-DOS là 40 đô la Mỹ.

Sau khi Digital Research biết được thông tin này, họ đã phản đối mạnh mẽ và cho rằng IBM đang vi phạm bản quyền của họ. Để xoa dịu sự phản đối này, IBM đã cho phép người dùng IBM PC lựa chọn giữa hệ điều hành CP/M-86 của Digital Research và hệ điều hành PC-DOS của Microsoft.

Giá của hệ điều hành CP/M-86 của Digital Research là 240 đô la Mỹ, trong khi giá của PC-DOS chỉ là 40 đô la Mỹ. Vì vậy, CP/M-86 đã bị đánh bại trong cuộc cạnh tranh với PC-DOS và chẳng bao lâu sau thì CP/M-86 biến mất hoàn toàn.

igital Research cũng đã cố gắng để cứu vãn tình hình bằng cách phát hành các phiên bản hệ điều hành DOS Plus và DR-DOS, cả hai đều có khả năng tương thích với phần mềm của MS-DOS và CP/M-86. Tuy nhiên, không có phiên bản nào của Digital Research đã thành công trong việc cạnh tranh với MS-DOS của Microsoft.

Sau đó, Digital Research đã được công ty Novell mua lại và DR-DOS phát hành dưới tên gọi Novell DOS 7 vào năm 1993.

Novel-DOS.webp

Novell DOS 7

Quay trở lại câu chuyện MS DOS

Sau khi IBM ra mắt IBM PC, họ tiếp tục nâng cấp sản phẩm. Microsoft cũng liên tục tung ra các phiên bản DOS mới. Vào ngày 8 tháng 3 năm 1983, IBM ra mắt IBM PC/XT cải tiến, chiếc PC đầu tiên được trang bị đĩa cứng và hệ điều hành được sử dụng là MS-DOS phiên bản 2.0. Năm 1984, IBM giới thiệu IBM PC/AT với MS-DOS phiên bản 3.0.

Vào năm 1988, Microsoft đã phát hành phiên bản MS-DOS 4.0. Tuy nhiên, phiên bản này đã gặp phải nhiều vấn đề kỹ thuật và đã bị chê bai do tính ổn định kém và khả năng tương thích với phần cứng kém. Nhiều người dùng đã chuyển sang sử dụng phiên bản MS-DOS 3.3thay vì nâng cấp lên phiên bản mới hơn.

MS-DOS-4.0.jpg

Sau đó, Microsoft đã phát hành phiên bản MS-DOS 5.0 vào năm 1991, với nhiều tính năng mới như hỗ trợ cho ổ đĩa cứng lớn hơn, hỗ trợ cho các tệp FAT32, bảo mật tài khoản người dùng và nhiều tính năng khác. Phiên bản này đã được đánh giá cao hơn so với phiên bản MS-DOS 4.0 và trở thành phiên bản MS-DOS được sử dụng rộng rãi nhất trước khi Windows 95 được phát hành vào năm 1995.

Vào những năm 1990, Microsoft dần bắt đầu từ bỏ MS-DOS vì sự thành công rực rỡ của hệ điều hành Windows. Mọi người cần lưu ý rằng các phiên bản đầu tiên của Windows chỉ là các ứng dụng được thực thi trên DOS. Vào đầu những năm 90, Windows vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào DOS. Mãi cho đến khi xuất hiện Windows for Workgroups 3.11, DOS mới dần lui về dòng thứ hai, chỉ chịu trách nhiệm khởi động và tải nhân Windows.

Tháng 4 năm 1994, MS-DOS phiên bản 6.22 được phát hành. Đây là một phiên bản cổ điển và độc giả sinh năm 1980 hẳn đã rất quen thuộc với phiên bản này. (Thế hệ 8x chúng tôi bắt đầu học và làm quen với máy tính với hệ điều hành MS -DOS này)

MS-DOS-6.2.png


Vào ngày 14 tháng 9 năm 2000, Microsoft phát hành phiên bản cuối cùng của MS-DOS, phiên bản 8.0. Từ thời điểm đó, Microsoft đã chính thức chấm dứt việc phát triển và hỗ trợ cho MS-DOS.

MS-DOS-2000.png

MS-DOS đã chạy trên hàng triệu máy tính và đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển ngành công nghiệp máy tính trong nhiều thập kỷ. Mặc dù nó đã được thay thế bởi hệ điều hành Windows và các hệ điều hành khác, nhưng MS-DOS vẫn là một phần quan trọng của lịch sử của công nghệ thông tin.

Dù Microsoft đã chấm dứt việc phát triển và hỗ trợ cho MS-DOS, nhưng hệ điều hành này vẫn còn được sử dụng trong một số trường hợp đặc biệt. Ví dụ, MS-DOS vẫn được sử dụng để cài đặt và khởi động các ứng dụng phần cứng như BIOS, PC diagnostic tools và các trình điều khiển tùy chỉnh.

Ngoài ra, các ứng dụng phần mềm cũng vẫn còn sử dụng MS-DOS để chạy trên các hệ thống cũ hoặc trong các trường hợp cần độ ổn định và tương thích cao. MS-DOS cũng đã trở thành một phần của ký ức và sự hoài niệm đối với nhiều người sử dụng máy tính đã trải qua những ngày đầu tiên của ngành công nghiệp này.

Vào giữa những năm 1990, phần mềm nguồn mở đã trở nên phổ biến và nhiều lập trình viên đã tận dụng cơ hội để phát triển các phiên bản phái sinh của DOS, chẳng hạn như FreeDOS, PTS-DOS, ROM-DOS, v.v. Chức năng của các DOS này rất mạnh, thậm chí còn vượt qua cả MS-DOS.
Trên cơ sở giao diện dòng lệnh của DOS, một số lập trình viên cũng đã phát triển các chương trình nâng cao giao diện giống Windows, chẳng hạn như Seal, Qube, WinDOS, v.v. Những người khác đã phát triển hệ điều hành DOS với nhân 32 bit, chẳng hạn như FreeDOS 32, v.v. Những hệ điều hành DOS "không tên" này, theo một nghĩa nào đó, có thể coi như tiếp tục sự sống của DOS.

Lịch sử Windows

Năm 1979, người sáng lập Apple Steve Jobs đã đến thăm viện nghiên cứu PARC nổi tiếng của Xerox để xem chiếc PC nguyên mẫu của họ, chiếc Alto.

Alto.webp

Máy tính cá nhân Xerox Alto

Alto là một máy tính cá nhân đầu tiên được phát triển bởi Xerox PARC (Palo Alto Research Center) vào cuối những năm 1970. Alto được phát triển với mục đích sử dụng cho các nghiên cứu về đồ họa máy tính và đồ họa người dùng.
Alto có màn hình đồ họa đầu tiên, bàn phím và chuột, cùng với một loạt các tính năng độc đáo như khả năng tạo ra các tài liệu và phương tiện truyền thông được tạo ra trên máy tính, hỗ trợ cho các ngôn ngữ lập trình mới và khả năng kết nối với các máy tính khác.
Alto cũng được coi là một trong những mẫu máy tính đầu tiên được thiết kế để sử dụng một môi trường đồ họa người dùng đầy đủ, với các tính năng như kéo và thả, cửa sổ và bản đồ động. Alto đã trở thànhnguồn cảm hứng cho nhiều sản phẩm máy tính và hệ thống đồ họa người dùng tiếp theo, bao gồm các sản phẩm của Apple, Microsoft và nhiều công ty khác.
Ngoài ra, Alto cũng đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển Internet, khi một số thành viên của Xerox PARC đã phát triển Ethernet, một giao thức mạng được sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay.
Công nghệ của Alto rất tiên tiến, đặc biệt là giao diện GUI (Graphic User Interface, giao diện người dùng đồ họa) và chuột, đây là những thiết kế chưa từng có.
Jobs rất quan tâm đến Alto, vì vậy ông đã mua những thiết kế này với giá rất thấp (lúc đó các giám đốc điều hành của Xerox không nhận ra giá trị của những thiết kế này) Jobs chuẩn bị áp dụng chúng vào các sản phẩm PC của riêng mình.

Tuy nhiên, tính năng và giá cả đắt đỏ đã khiến Alto không được bán ra thị trường và chỉ được sử dụng trong các tổ chức nghiên cứu và giáo dục. Mặc dù vậy, Alto vẫn là một trong những mẫu máy tính quan trọng trong lịch sử công nghệ thông tin và đóng góp rất lớn vào sự phát triển của ngành công nghiệp này.

Apple-lis.webp

Năm 1983, sản phẩm máy tính thương mại đầu tiên trên thế giới có giao diện GUI được ra mắt, Apple Lisa.
Sự ra đời của Apple Lisa đã gây sốc cho tất cả mọi người, kể cả Bill Gates của Microsoft. Lúc đó Bill Gates mới thành công với MS-DOS. Sau khi nhìn thấy Apple Lisa, Gates thấy rõ rằng giao diện GUI là tương lai của hệ điều hành PC. Do đó, ông lập tức tìm gặp Jobs và nói rằng sẽ hợp tác với Apple để giúp phát triển phần mềm ứng dụng cho một mẫu máy tính mới khác của Apple (Macintosh). Jobs tin tưởng Bill Gates và đồng ý hợp tác với ông. Kết quả là trong quá trình hợp tác, Microsoft đã nghiên cứu và "bắt chước" hệ điều hành đồ họa GUI của Apple. Windows 1.0/2.0/2.1 Năm 1984, Apple cho ra mắt Macintosh (Macintosh, Macintosh) một lần nữa làm chấn động thế giới. Một năm sau, vào tháng 11 năm 1985, Microsoft chính thức phát hành Windows 1.0.


Windows-1.0.png

Giao diện Windows 1.0

Jobs vô cùng tức giận khi biết mình bị lừa nhưng đã quá muộn. Vì sự cố này, Jobs và Bill Gates không bao giờ hòa thuận với nhau và họ thường xuyên "cà khịa" nhau.

Như đã đề cập ở phần lịch sử MS-DOS, các phiên bản Windowws đầu tiên thực sự là một "lớp vỏ" bên ngoài DOS, chỉ đóng vai trò là giao diện hoạt động. Lúc đầu, Microsoft gọi nó là "Trình quản lý giao diện". Bạn cũng có thể coi nó như một chương trình ứng dụng trong hệ điều hành DOS. Sau đó, dưa trên cơ sở Windows 1.0, Microsoft đã phát hành Windows 2.0 và Windows 2.1 vào năm 1987 và 1988. Hai phiên bản này cũng không mấy thành công, thường xuyên bị màn hình xanh và bị người dùng phàn nàn rầm rộ. (Cái lỗi màn hình xanh huyền thoại trên các hệ điều hành Windows chắc có nguồn gốc từ thời này)

Windows-2.0.png

Sau khi rút ra bài học từ nỗi đau thất bại, Bill Gates cảm thấy rằng việc tiếp tục sử dụng DOS chắc chắn không phải là cách, cần có một nhân hoàn toàn mới , cần được phát triển lại.
Vì vậy, Bill Gates đăng tuyển dụng ở khắp mọi nơi và tìm thấy một số người là đầu tiên tạo giao diện đồ họa tại Xerox, cũng như David Neil Cutler, nhà phát triển hệ thống VMS (một hệ điều hành rất tốt vào thời điểm đó) . Master Jim Alchin (Jim Allchin) và những người khác đang cùng nhau phát triển hệ thống mới.

Trong đó , Jim Alchian đã bác bỏ lời mời của Bill Gates. Ông ấy nói với Bill Gates rằng hệ thống Microsoft của anh là thứ tồi tệ nhất trên thế giới. Bill Gates không hề tức giận mà còn vui vẻ trả lời "Đó là bởi vì chúng tồi tệ thật, vì thế nên tôi mới cần anh làm cho nó tốt hơn."

Cuối cùng, với sự chân thành của Gates và quyền chọn mua cổ phiếu của Microsoft đã khiến Jim Alchian cảm động. Anh ấy đã chọn tham gia vào Microsoft.

Windows 3.x


Vào ngày 22 tháng 5 năm 1990, Microsoft đã mở ra sản phẩm mang tính bước ngoặt đầu tiên của mình - Windows 3.0. Sau đó, vào tháng 4 năm 1992, Windows 3.1 trưởng thành hơn ra đời.

Windows-3.0.png

Hệ điều hành Windows 3.0 là phiên bản Windows đầu tiên có được thành công chung, phiên bản hệ điều hành này bán được 10 triệu bản trong vòng hai năm. Nó giới thiệu các biểu tượng 16 màu, quản lý giao diện và quản lý bộ nhớ tiên tiến hơn, đồng thời có khả năng tương thích và ổn định mạnh mẽ hơn.

Thêm vào đó, Windows 3.0 còn có các trò chơi như chơi bài . Windows 3.1 đã thêm các tính năng đa phương tiện, đầu đĩa CD và phông chữ True Type quan trọng đối với xuất bản trên máy tính để bàn, giúp cải thiện đáng kể trải nghiệm người dùng. Điều đáng nói là vào những năm 1980, ngoài Windows, Microsoft còn hợp tác với IBM để phát triển hệ điều hành OS/2.


IBM-OS.2.webp

Sự thành công của Windows 3.0 đã giúp Microsoft tự tin hơn trong việc phát triển Windows và từ bỏ OS/2. Tháng 5 năm 1991, Bill Gates chính thức tuyên bố chấm dứt hợp tác OS/2 với IBM và dành mọi nguồn lực cho Windows.

Trong thời kỳ đó, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ mạng và sự gia tăng nhanh chóng của Internet. Để đón đầu với xu hướng này, vào tháng 11 năm 1993, Microsoft đã chính thức phát hành Windows for Workgroups 3.11, tập trung vào việc tăng cường hỗ trợ cho mạng - bao gồm hỗ trợ cho Ethernet và phần mềm mạng Novell phổ biến, đồng thời sử dụng khái niệm mạng ngang hàng xây dựng nhóm làm việc mạng Windows. Tất cả những nỗ lực này đã giúp Windows dần dần giành được lợi thế trong cuộc cạnh tranh hệ điều hành khốc liệt vào những năm 1990 và dần dần xây dựng một hệ thống "Wintel (Windows + Intel)" mạnh mẽ.

Windows NT


Ngày 27 tháng 7 năm 1993, Windows NT chính thức được phát hành. NT là New Technology, nghĩa là công nghệ mới.


Windows-NT.webp

Windows NT là một hệ điều hành 32-bit hỗ trợ đa nhiệm, thực tế có hai phiên bản: Windows NT Server, được thiết kế để sử dụng làm máy chủ và Windows NT Workstation, để sử dụng trên các máy trạm độc lập hoặc máy khách.

Windows 95/98


Ngày 24 tháng 8 năm 1995, là một ngày trọng đại. Ngày này, Windows 95, hệ điều hành mà nhiều anh em thế hệ người dùng máy tính đã rất quen thuộc, chính thức được phát hành.

Windows-95.webp


Sự thành công của Windows 95 là hiển nhiên. Hệ điều hành Windows 95 đã bán được hơn 7 triệu bản trong vòng năm tuần kể từ khi phát hành. Giao diện của nó đã được cải thiện rất nhiều, tính ổn định và trôi chảy của nó tốt hơn nhiều so với Windows trước đó.

Trong Windows 95, menu Start xuất hiện lần đầu tiên, cùng với trình duyệt Internet Explorer (IE) được tích hợp trong hệ điều hành. Giao diện tổng thể của Windows 95 đã giữ nguyên trong hơn 20 năm sau đó, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều người dùng.
Windows 98, còn được gọi là "Windows 98 Millennium Edition", được phát hành vào ngày 25 tháng 6 năm 1998. Nó được coi là một phiên bản nâng cấp của Windows 95, với nhiều tính năng mới, bao gồm hỗ trợ cho USB, hỗ trợ cho các thiết bị ngoại vi mới, khả năng quản lý năng suất và một số cải tiến đáng kể về hiệu suất.
Mặc dù Windows 98 được đánh giá là một phiên bản tốt hơn Windows 95, nhưng nó cũng gặp phải một số vấn đề về sựổn định, bao gồm các lỗi chương trình, sự cố về bảo mật và sự thiếu ổn định hệ thống. Tuy nhiên, Windows 98 vẫn được nhiều người dùng yêu thích và được coi là một phiên bản kinh điển trong lịch sử của hệ điều hành Windows.

Windows-98.webp

Windows 98 là phiên bản nâng cấp của Windows 95 với những cải tiến về giao diện và công cụ. Mọi người cũng thấy quen rồi nên mình không giới thiệu thêm. Windows 95 và Windows 98 về cơ bản đã thiết lập sự thống trị của Microsoft trong hệ điều hành PC và hình thành độc quyền thị trường.
Windows 95 và Windows 98 đã làm thay đổi cách mà người dùng tương tác với máy tính, đặc biệt là với sự ra đời của menu Start và trình duyệt IE. Những tính năng này đã trở thành các tiêu chuẩn trong hệ thống Windows và đã được phát triển và cải tiến trong các phiên bản Windows tiếp theo.

Windows 2000

Sau khi bước vào thế kỷ 21, Windows đã bước vào một giai đoạn phát triển mới. Vào ngày 17 tháng 2 năm 2000, Microsoft đã ra mắt hệ điều hành máy tính 32 bit - Windows 2000 (số phiên bản nhân Windows NT 5.0).

Windows-200.png

Có bốn phiên bản chính của Windows 2000: Professional, Server, Advanced Server và Datacenter Server.
Nhiều máy chủ của trung tâm dữ liệu IDC, bao gồm máy chủ web, máy chủ email, máy chủ ftp, v.v., đã sử dụng Windows 2000 Server, cũng phục vụ cho nhu cầu phát triển của Internet vào thời điểm đó. Tính năng lớn nhất của Windows 2000 là tính ổn định của nó. Windows 2000 được nâng cấp và cải thiện chức năng thư mục hoạt động, tăng cường dịch vụ lưu trữ, bắt đầu hỗ trợ các thiết bị mới và sử dụng hệ thống tệp NTFS 5, giúp cải thiện đáng kể độ tin cậy và bảo mật.

Windows Me

Ngay sau đó, ngày 14 tháng 9 năm 2000, Microsoft phát hành Windows Me (Windows Millennium Edition). This Me, ngoài nghĩa “tôi” còn có nghĩa là Millennium (thiên niên kỷ), và Multimedia (đa phương tiện).

windows-me-boot-splash.webp

Windows Me là một hệ thống lai 16-bit/32-bit và là hệ điều hành Windows cuối cùng dựa trên nhân Windows 9X của MS-DOS. Độ ổn định của nó không bằng Win2000 và cấu hình tương đối tốn tiền vào thời điểm đó nên hiệu suất thị trường không thành công và không được người dùng công nhận.

Windows XP

Ngay lập tức, Microsoft đã sửa đổi bằng một phiên bản Windows XP hoàn toàn mới (25 tháng 10 năm 2001). "XP" có nghĩa là "Trải nghiệm" trong tiếng Anh.

Windows-XP.webp

Windows XP cũng là một phiên bản cổ điển và thành công của Microsoft , thậm chí đến nay vẫn còn nhiều máy tính cũ vẫn đang sử dụng nó. Microsoft đã ngừng việc bán hàng vào năm 2008 và hỗ trợ kỹ thuật đã ngừng vào năm 2014). Windows XP sử dụng giao diện người dùng đồ họa Luna (Luna) và menu Start hai cột, cải thiện hiệu suất làm việc và bảo mật hệ thống, cung cấp hỗ trợ WiFi, đơn giản hóa việc cài đặt và vận hành phần mềm, đồng thời bổ sung chức năng máy tính từ xa.
Mặc dù Windows XP đã được thay thế bằng các phiên bản hệ điều hành mới hơn, nhưng nó vẫn được sử dụng rộng rãi trong một số doanh nghiệp và tổ chức, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Windows XP đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều người dùng, và được coi là một trong những phiên bản Windows kinh điển và đáng nhớ nhất.

Windows Vista/7


Vào cuối những năm 1990, Jobs tái gia nhập Apple sau một số thăng trầm. Dưới sự lãnh đạo của ông, Apple đã tung ra một loạt sản phẩm tuyệt vời, bao gồm cả hệ điều hành MacOS mượt mà và tuyệt đẹp. Về trải nghiệm giao diện, Windows XP hoàn toàn không phải là đối thủ của MacOS. Vì vậy, Microsoft đã mua lại OS/2 từ IBM và phát hành Windows Vista (30 tháng 11 năm 2006) dựa theo đó.

Windows-Vista.webp

Giao diện của Windows Vista thực sự rất tuyệt, khả năng truyền thông và đa phương tiện cũng được nâng cao đáng kể, tuy nhiên, giao diện đẹp làm chậm hiệu suất hệ thống rất nhiều và người dùng phát bực vì nó.
Trong tuyệt vọng, Microsoft đã phát triển lại trong một thời gian ngắn và tung ra Windows 7 (ngày 22 tháng 10 năm 2009, số phiên bản nhân Windows NT 6.1).

Windows-7.webp

Windows 7 là phiên bản hệ điều hành Windows thành công nhất và được sử dụng rộng rãi nhất. Windows 7 có nhiều cải tiến đáng kể so với Windows Vista, bao gồm hiệu suất tốt hơn, tính năng mới như Aero Peek, Jump Lists và Libraries, cũng như khả năng quản lý tài nguyên tốt hơn. Windows 7 cũng có tính năng an ninh tốt hơn, với Windows Defender được tích hợp sẵn và hệ thống UAC được cải thiện.
Giao diện người dùng của Windows 7 đơn giản và dễ sử dụng, với nhiều tính năng mới để tăng cường trải nghiệm người dùng, trong đó có cả tính năng cảm ứng đa điểm trên màn hình cảm ứng. Windows 7 cũng được coi là phiên bản hệ điều hành ổn định và đáng tin cậy nhất của Windows cho đến nay.

Windows 8/10/11


Sau đó là Windows 8 (không thành công), Windows 10 (rất thành công), Windows 11 (mới bắt đầu). Mọi người đang sử dụng nó và nên làm quen với nó.
Windows 10 đã được cải thiện rất nhiều về tính dễ sử dụng và bảo mật, tính ổn định cũng tốt, hiện là hệ điều hành Windows có thị phần cao nhất thế giới.

Windows-10-vs-Windows-11.webp

Windows 8 là một phiên bản hệ điều hành Windows được phát hành vào năm 2012. Windows 8 đưa ra nhiều tính năng mới, bao gồm giao diện Metro, tính năng cảm ứng đa điểm và tính năng khởi động nhanh. Tuy nhiên, Windows 8 không được đón nhận nồng nhiệt bởi người dùng và nhận được nhiều chỉ trích về giao diện người dùng mới, không thân thiện với người dùng máy tính để bàn truyền thống.

Sau đó Microsoft đã phát hành Windows 10 vào năm 2015, là một bước tiến lớn về mặt công nghệ và đón nhận nhiều hơn so với Windows 8. Windows 10 đưa ra nhiều tính năng mới, bao gồm giao diện người dùng tiếp thu các yếu tố của Windows 7 và Windows 8, khả năng đa nhiệm tốt hơn, tính năng Cortana, Microsoft Edge và nhiều tínhnăng an ninh và quản lý tài nguyên tốt hơn. Windows 10 cũng có tính năng cập nhật liên tục, giúp đảm bảo hệ thống luôn được cập nhật với các bản vá bảo mật mới nhất.

Năm 2021, Microsoft đã phát hành phiên bản mới nhất của hệ điều hành Windows là Windows 11. Windows 11 đưa ra nhiều cải tiến đáng kể về giao diện người dùng, bao gồm tối ưu hóa cho các thiết bị cảm ứng, tính năng Snap Layouts và Snap Groups để quản lý ứng dụng và cửa sổ, cùng với tính năng cập nhật nhanh chóng và tăng cường an ninh.
Windows 11 cũng có yêu cầu phần cứng khá cao, bao gồm bộ xử lý 64-bit, RAM ít nhất 4GB và bộ nhớ lưu trữ ít nhất 64GB. Việc này có thể khiến cho một số người dùng không thể nâng cấp lên Windows 11 mà phải tiếp tục sử dụng Windows 10 hoặc các phiên bản cũ hơn.


Trên đây là toàn bộ lịch sử phát triển của Windows. "Cửa sổ" (Windows) là tên của hệ điều hành do Microsoft phát triển và phát hành. Tên gọi này xuất phát từ giao diện người dùng của hệ điều hành, trong đó các ứng dụng và các tài liệu được hiển thị trong các cửa sổ trên màn hình. Từ khi ra đời vào năm 1985, Windows đã trở thành một trong những hệ điều hành phổ biến nhất trên thế giới và đã có nhiều phiên bản và cập nhật trong suốt hơn 35 năm qua.
Là hệ điều hành quen thuộc nhất, Windows đã lớn lên cùng nhiều người trong chúng ta. Chúng ta phàn nàn về nó, ghét nó, nhưng chúng ta không thể sống thiếu nó. Windows sẽ đồng hành cùng chúng ta bao lâu trong tương lai? Nó vẫn sẽ có những đổi mới đột phá chứ? Hãy để thời gian cho chúng ta biết câu trả lời.
 
Trả lời

thuuong1309

Rìu Sắt
Bài viết rất công phu, xin cảm ơn admin, mình đã ngồi đọc không bỏ sót từ nào.
Vui : Bài học rút ra được của Steve Jobs (Apple) là ĐỪNG TIN BỐ CON THẰNG NÀO.
Rất có thể bước ngoặc để Microsoft thay đổi và phát triển thế giới đến bây giờ cũng nhờ tạo hóa sắp xếp 2 ông lớn(Apple+Microsoft) hợp tác với nhau đấy(dù trong khoảng thời gian ngắn).
 

tranhuulong9x

Rìu Sắt
bài hay quá . Mà trước khi các hãng đại trà windows home và home sing thì người dùng chỉ có 2 lựa chọn là ms dos thì phải với ubuntu .
 

Luudanxi

Rìu Chiến Chấm
Cả một đoạn quá khứ hiển hiện lại. Năm 2000 làm quen với Win '95, năm 2002 tự cài Win '98 lên cái PC chạy con mmx 330 mua cũ. Năm sau đó liên tục cài Win me cho các hệ thống phòng game vì chứa sẵn driver sound onboard AC '97. Rồi choáng ngợp với Win XP...v.v.