HỒ SƠ 139/VII, PHÒNG C BỊ LẤY TRỘM
Vào ba giờ sáng điện thoại của Bộ Tham mưu đơn vị vang lên. “Đại tá Hampl, Bộ Tổng tham mưu đây. Hãy cử ngay lập tức hai cảnh sát quân sự đến nhà tôi; đề nghị nhắn cho trung tá Vrzal, tất nhiên là ở phòng Quân báo; này anh kia việc này không liên quan gì đến anh nhé , phải đến tôi ngay. Vâng, bây giờ là đêm. Vâng, bảo anh ấy dùng ô tô. Nhanh lên nhé, trời ạ!” Và nói thế là thôi.
Sau một giờ trung tá Vrzal đến nơi; chỗ ông ta đến ở đâu đó trong khu biệt thự. Đón ông ta là một người lớn tuổi, mặt đầy lo lắng, mặc thường phục, tức là mặc áo sơ mi và quần téc. “Trung tá ơi, mình bị một vụ trời đánh. Cậu ngồi xuống đây đi. Cái vụ này khốn nạn, quái gở, ngu xuẩn và lộn xộn. Tởm và nguy hiểm. Cậu biết không, tối hôm kia Tổng Tham mưu trưởng đưa cho mình bộ hồ sơ và nói: Hampl này, xử lý cái này ở nhà nhé; càng ít người biết càng tốt, đến văn phòng nhớ đừng có hở ra. Thế nhé, đi đi, cho nghỉ phép và nhớ ngồi ở nhà, nhưng cẩn thận đấy! Ừ, tốt.”
“Hồ sơ ấy thế nào?” trung tá Vrzal hỏi.
Đại tá Hampl lưỡng lự một phút. “Ừ,” ông nói. “Nói để cậu biết, nó từ phòng C.”
“À ra thế,” trung tá Vrzal nói và bắt đầu đăm chiêu. “Tiếp đi.”
“Cậu xem này,” đại tá đau đớn nói. “Hôm qua mình xử lý nó suốt một ngày; nhưng ban đêm thì biết làm gì với nó cơ chứ; nhà không có két sắt; ai mà biết tài liệu ở nhà mình thì amen . Cậu ạ, đêm đầu tiên mình giấu nó dưới đệm giường; suốt đêm mình trằn trọc như lợn rừng ấy.”
“Cái đó thì tôi tin,” trung tá Vrzal nói.
“Biết làm sao cơ chứ,” đại tá than thở, “vợ mình nó còn béo hơn mình. Ừ, đêm thứ hai nó khuyên mình: Anh ạ, mình cho nó vào hộp tôn dùng để đựng mì ống ấy, rồi cất vào kho thực phẩm một đêm. Em sẽ khóa kho, chìa khóa mang theo người, vợ mình nói. Vợ chồng mình có cô giúp việc, cô này béo khủng khiếp, hay ăn vụng. Vợ mình bảo, sẽ không có ai tìm gì ở đấy đâu anh ạ. Tốt thôi, mình nói và thấy ý kiến này cũng hay.”
“Kho thực phẩm nhà anh có cửa sổ kép hay đơn?” trung tá Vrzal ngắt lời.
“Trời ạ,” đại tá gầm lên, “mình không nghĩ ra, cửa sổ đơn. Mình cứ nhớ cái vụ ở Sázava và các vụ ngu xuẩn khác mà quên nhìn cái cửa sổ! Trời ơi, cái vụ chó chết đáng nguyền rủa này!”
“Tiếp đi,” trung tá nhắc.
“Ừ, sau đó thế nào à. Hai giờ đêm vợ mình nghe thấy cô giúp việc thét lên bên dưới nhà. Vợ mình xuống hỏi có gì không thì thấy cô Mářa la hét: Trong kho có trộm. Vợ mình chạy đi lấy chìa khóa và gọi mình. Mình cầm súng ngắn chạy xuống tầng kho thì cái việc khốn kiếp ấy đã xảy ra, cửa sổ vào kho bị bật ra, hộp tôn với hồ sơ đã bị lấy mất. Tên trộm cũng mất tăm. Tất cả là thế.” đại tá thở dài.
Trung tá Vrzal gõ ngón tay xuống bàn. “Đại tá ạ, có ai biết anh mang tài liệu về nhà không?”
Đại tá bất hạnh huơ tay lên. “Mình không biết. Cậu ạ, bọn tình báo thì nó moi móc tất cả mọi chỗ.” Ông bỗng nhớ ra chức vụ của trung tá Vrzal và do dự. “Đúng là bọn họ thông minh lắm,” ông nói chữa yếu ớt. “Nhưng mình không nói với ai, danh dự đấy. Nhưng,” ông nói, “không ai có thể biết rằng mình cho tài liệu vào hộp tôn đựng mì ống.”
“Thế anh cất đồ vào hộp tôn ở chỗ nào?” trung tá hỏi thêm.
“Ở chỗ này này, bên cái bàn này.”
“Thế cái hộp tôn đặt ở chỗ nào?”
“Khoan nào,” đại tá nhớ lại. “Mình ngồi ở chỗ này và cái hộp tôn ở ngay trước mặt mình.”
Trung tá dựa vào bàn và trầm ngâm nhìn cửa sổ. Trong ánh ban mai còn đẫm sương ông nhìn thấy ngôi nhà đỏ thẫm. “Ai ở nhà này?” ông hỏi giọng sầu thảm.
Đại tá đấm vào bàn, “Trời ạ, thế mà mình không nhớ ra! Khoan đã, một tay Do Thái ở nhà ấy, giám đốc nhà băng hay gì đấy. Tởm, giờ thì mình nhìn ra rồi! Vrzal ạ, mình nghĩ rằng chúng ta đang đi đúng hướng.”
“Tôi muốn ngó xem cái kho,” trung tá nói.
“Nào, cậu xuống đây. Lối này,” đại tá năng nổ dẫn đường. “Nó ở đây này. Trên ngăn cao nhất mình để cái hộp tôn. Mary,” đại tá quát, “cô không có nhiệm vụ gì ở đây nhé! Cô lên tầng thượng hay xuống tầng ngầm đi!”
Trung tá xỏ tay vào găng và rướn lên cửa sổ. Cửa sổ hơi cao. “Nó bẩy cửa sổ, bằng cái đục,” ông nói và ngắm nghía cửa sổ. Khung cửa sổ làm bằng gỗ mềm. “Đại tá ạ, trẻ con cũng phá được cửa sổ này.”
“Trời ạ,” đại tá kêu lên. “Cái lũ chết tiệt, ai lại làm cửa sổ tệ thế này cơ chứ!”
Bên ngoài song có hai người lính đứng đợi.
“Cảnh sát quân sự hả?” trung tá Vrzal hỏi. “Thế thì tốt. Tôi sẽ xem từ phía ngoài. Đại tá ạ, tôi phải tư vấn cho anh, cho đến lúc có lệnh anh không được ra khỏi nhà.”
“Mình hiểu,” đại tá đồng ý. “Nhưng tại sao vậy?”
“Để anh luôn luôn có mặt, nếu... Hai anh lính tất nhiên sẽ ở lại đây.”
Đại tá thở hắt ra và nói, giọng như nghẹn lại: “Tôi hiểu. Anh có uống cà phê không? Vợ tôi vừa pha.”
“Bây giờ không được” trung tá nói giọng khô khan. “Đừng nói với ai về tập hồ sơ bị trộm nhé; trừ phi... cấp trên gọi anh. Và tôi nói thêm, anh nói với cô giúp việc là trộm nó chỉ lấy mất ít đồ hộp thôi nhé, thế thôi.”
“Nhưng này,” đại tá hỏi tuyệt vọng, “cậu sẽ tìm thấy hồ sơ chứ?”
“Tôi sẽ cố gắng” trung tá trả lời và đứng nghiêm chụm chân chào.
Buổi sáng hôm ấy đại tá Hampl ngồi đau khổ. Có lúc ông tưởng tượng ra cảnh hai sĩ quan đến bắt ông. Có lúc ông ngồi suy tư xem trung tá Vrzal làm gì và đưa cả bộ máy tình báo quân đội vào cuộc. Ông tưởng tượng ra cảnh Bộ Tổng tham mưu báo động và ông ngất xỉu.
“Karlouš* à,” vợ ông nói lần thứ hai mươi (bà ta đã cẩn thận giấu khẩu súng ngắn của ông vào trong vali), “anh muốn ăn gì không?”
(*) Cách gọi thân mật Karel.
“Để anh yên nào, mẹ kiếp,” ông nhổ nước bọt. “Anh cho rằng lão Do Thái bên kia thấy hết rồi.”
Bà vợ thở hắt ra và đi vào trong bếp khóc.
Bỗng chuông vang lên. Đại tá đứng dậy và vươn vai để tiếp các sĩ quan quân đội, những người đang đến bắt ông. (Không biết các ông nào đây, ông thất thần nghĩ). Nhưng thay vào các sĩ quan chỉ có một người đàn ông nhỏ thó, tóc hung hung, tay cầm gậy và nhe hàm răng vổ như răng sóc chào đại tá. “Thưa, tôi là Pištora từ phòng cảnh sát.”
“Anh cần gì?” đại tá buột miệng và chuyển sang vị trí sẵn sàng.
“Nghe nói có đứa nào ăn trộm kho thực phẩm nhà ông,” ông Pištora nhe răng cười thân mật. “Vì thế tôi có mặt.”
“Thế thì liên quan gì đến anh?” đại tá kêu lên.
“Thưa,” ông Pištora tươi cười, “đây là phường chúng tôi quản lý. Cái cô giúp việc nhà ông sáng nay có kể ở chỗ lò bánh mì rằng chúng nó vào ăn trộm kho thực phẩm nhà ông. Tôi nói với trưởng cảnh sát là tôi sẽ đến xem, thế thôi.”
“Chả đáng quan tâm đâu,” đại tá gầm lên. “Nó chỉ lấy cái... hộp mì ống ấy mà. Anh cứ để yên cho xong.”
“Lạ nhỉ,” ông Pištora nói, “nó không lấy gì thêm à?”
“Lạ lắm,” đại tá chua chát. “Nhưng anh quan tâm làm gì?”
“Hình như ai đó đánh động bọn nó nên...” Ông Pištota cười, mắt ánh lên khi bất chợt nghĩ ra điều gì.
“Cảm ơn anh,” đại tá cắt ngang.
“Thưa,” ông Pištora cười nghi ngờ, “nhưng tôi phải ngó xem cái kho đã.”
Đại tá bực mình muốn hét lên, nhưng sau đó ông đầu hàng cái hoàn cảnh đau khổ của mình. “Nào, anh xuống đây,” ông buồn bã nói và dẫn con người nhỏ thó xuống kho.
Ông Pištora vui vẻ ngắm nghía cái kho con con. “Đây rồi,” ông ta vui vẻ nói, “hắn cạy cửa sổ bằng cái đục; như vậy có thể là thằng Pepek hay thằng Andrlík thôi.”
“Anh nói cái gì cơ?” đại tá gắt gỏng hỏi.
“Cái này nhất định là thằng Pepek hay thằng Andrlík làm rồi; nhưng Pepek hình như đang ngồi tù. Nếu chỉ phá cửa sổ thì có thể là Dundr, Lojza, Novák, Hošička hay Kliment. Nhưng cái này sẽ là Andrlík thôi.”
“Anh có nhầm không đấy,” đại tá gầm gừ.
“Lại có thêm đứa nào mới học nghề ăn trộm kho à?” Ông Pištora đăm chiêu. “Chắc không đâu. Thằng Mertl thì hay phá cửa sổ bằng xà beng nhé, nhưng không ai đem xà beng ra phá kho thực phẩm; còn nếu kho thông với nhà vệ sinh thì nó sẽ chui vào nhà để ăn cắp quần áo.” Ông Pištora lại nhe hai cái răng vổ như sóc ra. “Thôi, tôi đi kiểm tra xem thằng Andrlík đã làm gì đây.”
“Cho tôi hỏi thăm nó nhé,” đại tá gầm gừ. Không thể tin được, ông nghĩ, khi ông lại trở về với tâm tư đau đớn của mình. Cảnh sát bây giờ thật kém. Giá mà họ tìm theo dấu vân tay hay vết chân chứ - ừ, có cả bao nhiêu phương pháp chuyên môn; nhưng mà điều tra ngu thế ư? Đời nào cảnh sát có thể đụng được vào cánh tình báo quốc tế cơ chứ! Mình còn phải xem cậu Vrzal làm được gì đã.
Đại tá không vượt qua được sự cám dỗ và gọi điện thoại cho trung tá Vrzal; sau nửa giờ ông đã được kết nối. “A lô” ông ngọt ngào, “Hampl đây. Đề nghị cậu cho biết thế nào rồi. Mình biết cậu không được nói gì, nhưng chỉ mong cậu... nếu có thể. Trời ạ, vẫn chưa có gì à? Mình biết vụ này khó, nhưng... Khoan nào, Vrzal ơi, này nhé. Mình nhớ ra, mình sẽ thưởng cho ai tóm được tên trộm mười nghìn của mình. Mình không có nhiều hơn, nhưng cậu biết đấy, với công to như thế... Mình biết là không đâu; nhưng đây là việc riêng của mình... Ừ, việc riêng mà; không phải là việc công... Hay là chia cho bọn thám tử dân sự nhé? Nhưng tất nhiên rồi, cậu không biết đâu, chỉ cần cậu nói mánh cho bọn nó hiểu là được rằng đại tá Hampl hứa mười nghìn... Tốt, để thằng trung sĩ nó nói cho. Thế bạn nhé! Xin lỗi nhé. Cảm ơn cậu.”
Đại tá thấy nhẹ người sau quyết định hào phóng của mình; ông có cảm giác bây giờ ông có công trong việc tìm bắt tên gián điệp ăn trộm. Ông nằm lên ghế sofa vì mệt và tức tối, rồi tưởng tượng ra cảnh một trăm, hai trăm, ba trăm đàn ông (tất cả đều tóc hung hung, nhe hàm răng vố giống như Pištora) đang khám xét tàu hỏa, chặn xe ô tô khi đi về phía biên giới, rình rập con mồi của mình ở các góc phố và bỗng nhiên nhảy ra và quát lên: “Nhân danh luật pháp. Đề nghị đi theo tôi và im mồm.” Có lúc ông tưởng tượng ra hình ảnh ông thi bắn trong Học viện Quân sự, ông giật mình hét lớn và tỉnh dậy, mồ hôi nhễ nhại. Có ai đó bấm chuông.
Đại tá Hampl đứng phắt dậy và thử rà soát lại những ý nghĩ của mình. Ông mở cửa và nhìn thấy hai cái răng vổ như sóc của ông Pištora. “Vâng, tôi đến đây,” người đàn ông có răng vổ nói. “Vâng, nó làm vụ này đấy.”
“Đứa nào?” đại tá cố gắng hiểu ra.
“Vâng, cái thằng Andrlík ấy, ông Pištora ngạc nhiên nói và không nhe răng ra nữa. “Còn đứa nào vào đấy? Pepek thì đang ngồi tù ở Pankrác.”
“Anh có cái gì liên quan đến cái thằng Andrlík cơ chứ?” đại tá nóng nảy ngắt lời.
Ông Pištora tròn xoe đôi mắt màu sáng của mình. “Thì nó ăn trộm mì ống trong kho thực phẩm,” ông ta giận dữ nói. “Phòng cảnh sát tóm nó rồi, nhưng tôi đến hỏi ông... Nó, thằng Andrlík khai rằng trong hộp không có mì ống, chỉ có toàn giấy. Không biết có đúng không?”
“Này anh,” đại tá hét lên hết sức, “giấy tờ ấy anh để ở đâu?”
“Trong túi này, ông Pištora lại nhe răng ra. “Ấy chết, mình để đâu rồi...” ông ta kêu lên và móc tay vào cặp. “Ái chà. Của ông đấy à?”
Đại tá giật từ tay ông Pištora cái tệp giấy quý giá đã nhàu số 139/VII, phòng C. Mắt ông nhòe lệ và nhẹ nhõm. “Anh bạn vàng ơi,” ông thở hắt ra, “tôi không biết phải tặng anh cái gì nữa. Mẹ nó ơi,” ông gầm lên, “lại đây. Đây là ông trưởng cảnh sát... ông thanh tra e hèm...”
“Cảnh sát viên Pištora,” người đàn ông nhỏ thó nói và nhe răng cửa ra.
“Thế đấy, ông ấy tìm ra cái hồ sơ bị lấy trộm,” đại tá hồ hởi. “Em đi lấy ly và rượu cognac đi. Anh Pištora ạ, tôi không biết phải... anh không biết tôi... anh biết đấy... Nào, ta uống đi anh Pištora.”
“Có gì đâu mà,” ông Pištora lại nhe răng. “Ông ạ, cái hộp, vâng cái hộp ấy thưa bà, còn ở trên phòng cảnh sát.”
“Quỷ tha cái hộp ấy đi,” đại tá gầm lên. “Nhưng anh Pištora thân mến ơi, anh điều tra bằng cách gì mà nhanh thế? Nào, chúc sức khỏe, anh Pištora ơi!”
“Chúc sức khỏe,” ông Pištora trân trọng.“Trời ơi, có gì đâu cơ chứ. Nếu tủ thực phẩm bị trộm thì bọn tôi đi tóm Andrlík hay Pepek, mà Pepek thì đang ngồi tù hai tháng ở Pankrác rồi. Nếu trộm vào tầng mái thì nhất định phải tóm Pisecký, Tondera què, Kaner, Zima hay Houska.”
“Mà, mà,” đại tá ngạc nhiên, “anh nghe này, các anh sẽ làm thế nào nếu vụ này là vụ gián điệp hả anh Pištora?”
“Xin trân trọng cảm ơn... Bên chúng tôi không xử lý được đâu. Bẻ tay cửa à, nhất định là Čeněk hay Pinkus, ăn cắp dây đồng thì chỉ có một tên, Tousek hay gì đó, ăn trộm ống rót bia thì nhất định là Hanoušek, Buchta hay Šlesinger. Ông ạ, chúng tôi đi tóm những vụ rõ ràng. Bọn trộm tủ sắt thì chúng tôi biết cả lũ trên toàn quốc, cả ổ nhé! Tổng cộng là hai mươi bảy đứa, nhưng sáu đứa đang ngồi tù.”
“Chúng nó xứng đáng,” đại tá tuyên bố giọng đầy hiếu chiến. “Anh Pištora ạ, nào ta uống đi!”
“Tôi trân trọng cảm ơn,” ông Pištora nói, “nhưng tôi uống ít thôi. Nào, chúc sức khỏe. Cái bọn ấy, cái bọn đốn đời ấy chúng nó chẳng có chút tri thức nào đâu, ông ạ. Mỗi thằng chỉ biết một tí và cứ kiếm ăn như thế cho đến lúc bị chúng tôi tóm. Như cái thằng Andrlík ấy. À, nó nói, suýt nữa thì nó làm tôi mềm lòng, nó gọi tôi là ngài Pištora chuyên điều tra các vụ trộm tủ thực phẩm. Nó bảo ngài Pištora ơi, vụ này không đáng gì đâu, tôi chỉ lấy được một tệp giấy trong hộp. Tôi lại hy sinh rồi, ngày trước tôi chăm chỉ làm việc lắm. Đi theo tao, tôi bảo nó, đồ ngu ạ, mày sẽ ngồi ít nhất một năm.”
“Một năm tù ư?” đại tá thương hại nói. “Có lâu quá không?”
“Nhưng đây là vụ trộm,” ông Pištora nhe răng ra. “Xin trân trọng cảm ơn nhé, thưa ông. Tôi còn một vụ trộm tủ kính nữa, chắc là thằng Klečka hay Rudl thôi. Nếu ông cần gì thì cứ hỏi bên phòng cảnh sát nhé. Chỉ cần nói tên tôi, Pištora.”
“Nhưng anh ạ,” đại tá nói, “nhưng anh đã, hừm, giúp tôi... Cái tệp giấy nó... chả quan trọng mấy, nhưng... tôi không muốn mất nó, anh biết chứ? Đây, anh nhận cho chút quà nhé,” ông nói và vội nhét vào tay ông Pištora năm mươi koruna.
Ông Pištora ngạc nhiên và cảm động rồi nghiêm cả nét mặt. “Nhưng không cần thiết đâu mà,” ông ta nói và đút tờ giấy bạc vào túi. “Có gì đâu, tôi xin trân trọng cảm ơn ông, nếu khi nào ông cần thì...”
“Mình ạ, tôi vừa cho anh ta năm mươi koruna đấy,” đại tá âu yếm nói với vợ. “Lẽ ra chỉ cho cái bông hoa tulip ấy hai mươi koruna là đủ, nhưng...” Đại tá phẩy tay một cách đẳng cấp. “Nhưng dù sao bộ hồ sơ cũng đã được tìm thấy.”