Cải lương Hồ Quảng là lai căng?
Đây là câu nhận xét của một người bạn mình, là người gốc Hà Nội. Mặc dù cải lương hình thành, phát triển chủ yếu là tại miền Nam nhưng nhiều người Bắc cũng yêu thích loại hình nghệ thuật này và ca cải lương rất tốt. Mình dùng chữ tốt ở đây với quan điểm cá nhân, tức là ca rất tròn chữ, đúng nhịp, luyến láy rất hay nhưng thiếu cái mượt mà, ngọt ngào của giọng Nam.
Nghe xong lời nhận xét trên mình khá buồn, vì mình vốn yêu thích Hồ Quảng hơn cải lương, thích coi tuồng Tàu hơn coi tuồng Việt, thích đọc truyện Tàu hơn truyện Việt. Chết rồi, chẳng lẽ mình đã trở thành lai căng, mất gốc? Mình cũng biết, phong trào anti Trung Quốc đang diễn ra khá rầm rộ nhưng cũng xin đừng chụp mũ tất cả những gì của Trung Quốc là lai căng, là mất gốc.
Mình viết bài này cho bạn ấy đọc, bạn ấy hiểu Hồ Quảng hơn, và để chứng minh 1 điều: Cải lương Hồ Quảng tuy có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhưng là 1 sản phẩm văn hóa tinh thần của người Việt và vì thế, nó cũng xứng đáng được trân trọng như cải lương nói riêng và các loại hình văn hóa khác.
Bài viết có sử dụng và trích dẫn một số thông tin trên diễn đàn cailuongvietnam.com
Định nghĩa của Cải lương Hồ Quảng
Cải lương là một lối hát tuồng cách tân, được phát triển vào đầu thế kỉ 20 tại miền Nam Việt Nam, kết hợp giữa đối thoại bằng giọng bình thường với những lời ca theo những điệu truyền thống miền Nam, trong đó chủ yếu là vọng cổ.
Cải lương Hồ Quảng, hiện nay, để kỵ húy thì gọi là cải lương tuồng cổ, cũng là cải lương, nhưng tuồng tích dựa vào những tuồng cổ, mà thường là tuồng cổ Trung Hoa. Có 2 cách giải thích cho từ Hồ Quảng:
Theo mình, gọi cải lương Hồ Quảng là cải lương tuồng cổ chỉ là 1 cách tránh né của các đoàn Hồ Quảng. Không phải tuồng cải lương ”cổ trang” nào cũng là cải lương Hồ Quảng. Những tuồng như Áo cưới trước cổng chùa, Mùa thu trên Bạch Mã Sơn… hay thậm chí là Tiếng trống Mê Linh, Thái hậu Dương Vân Nga đều không phải là cải lương Hồ Quảng. Cùng là Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, nhưng nếu xem tuồng của NS Minh Vương, Thanh Kim Huệ thì sẽ hoàn toàn khác với version Hồ Quảng của NS Vũ Linh, Tài Linh.
Vì thế, mình nghĩ, cải lương nên chia thành 3 nhánh, cải lương xã hội, cải lương tuồng cổ (giả sử) và cải lương Hồ Quảng
Quá trình hình thành của Cải lương Hồ Quảng
Cải lương Hồ Quảng là một loại hình nghệ thuật phối hợp giữa ba nghệ thuật: cải lương, tuồng kịch Bắc Kinh và tuồng kịch Quảng Ðông.
Cuối thập niên 1940 sang đầu thập niên 1950, những nghệ sĩ như Phùng Há, Cao Long Ngà (bà ngoại của NS Phượng Mai), Năm Phỉ (chị NS Bảy Nam) có dịp sang Quảng Ðông học hỏi “vũ đạo” của các nghệ sĩ tuồng kịch truyền thống ở đây. Các nghệ sĩ này khi về nước, đem áp dụng “vũ đạo” này trên sân khấu, đạt được nhiều thành công.
Giữa thập niên 1950 sang đầu thập niên 1960, các nghệ sĩ Khánh Hồng, Bảy Huỳnh và Minh Tơ lần mò vào Chợ Lớn, tìm đến những gánh hát người Hoa, mua lại một số trang phục sân khấu của họ. Những trang phục này rất rực rỡ, mặc vào, lên sân khấu là đào, kép nổi bật, làm cho sân khấu cũng rực rỡ theo. Những nghệ sĩ này cũng học hỏi từ các gánh hát người Hoa nhịp điệu trống, bắt nguồn từ cách diễn tuồng của phái Bắc Kinh. Tiếng trống rộn rã giúp cho buổi trình diễn thêm tưng bừng náo nhiệt. Tiếng trống còn có tác dụng thay đổi tâm tình khách xem trình diễn, tùy theo nhịp điệu nhanh, chậm, cách ngắt quãng của nó. Các nghệ sĩ cũng học một số cách hát theo điệu Quảng Ðông.
Trở về sân khấu Việt Nam, các nghệ sĩ Khánh Hồng, Bảy Huỳnh, Minh Tơ (sau thế hệ Phùng Há, Cao Long Ngà, Năm Phỉ) pha điệu hát Hồ Quảng vào các tuồng cải lương. Về sau, khi khán giả có vẻ chấp nhận, cải lương Hồ Quảng trở thành một bộ môn riêng, với nhịp trống, điệu hát và y trang Bắc Kinh, Quảng Ðông, phối hợp với cách hát cải lương và ca vọng cổ.
Những năm 1961, 1962, 1963, phim Đài Loan tràn ngập thị trường phim Việt Nam, khởi đầu là phim Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, một truyện tình sử lấy nước mắt của không biết bao nhiêu là khán giả Việt Nam. Nhạc sĩ Đức Phú, em của nghệ sĩ Minh Tơ, đoàn hát Vĩnh Xuân Bầu Thắng lấy nhạc Đài Loan trong phim Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, viết lời Việt, dùng trong tuồng Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài do anh sáng tác và thủ diễn vai chánh, hát với nữ nghệ sĩ Bo Bo Hoàng trong vai Chúc Anh Đài. Gánh hát Vĩnh Xuân Ban – Bầu Thắng hát tuồng Lương Sơn Bá có ca nhạc Đài Loan như trong phim nên thu hút khán giả với một con số kỷ lục.
Đoàn hát Thanh Bình – Kim Mai 1 (sau là đoàn Huỳnh Long) có hai nhạc sĩ Tàu là Há Thầu và chú Long cũng ghi âm nhạc Đài Loan dùng trong tuồng hát cho đoàn Huỳnh Long. Há Thầu đặt tên các bài nhạc đó là Hoàng Mai 5, Hoàng Mai 15, Ly Hận, Chiêu Quân Hội… vân vân…
Các đoàn hát cải lương Hồ Quảng thu hút khán giả nghẹt rạp, các hãng dĩa cũng thu thanh và phát hành dĩa hát Hồ quảng, đài truyền hình Saigon cũng có những Ban hát Hồ Quảng như Ban Khánh Hồng, Ban Minh Tơ, Ban Huỳnh Long, Ban Vân Kiều, tất cả tạo thành một phong trào hát cải lương Hồ Quảng ngày một phát triển và được khán giả ưa thích.
Cải lương Hồ Quảng có nhiều ưu thế trên sân khấu. Về y trang rực rỡ và cách diễn bằng “biểu tượng” thì không thua gì hát bội, nhưng hát bội lại khó nghe, khó hiểu, trong khi đào kép trong cải lương Hồ Quảng thì nói ít, diễn nhiều, khi hát thì hát theo lối vọng cổ và một số làn điệu của cải lương rất dễ nghe, có hát theo điệu Quảng Ðông thì điệu ấy nghe cũng lọt tai. Ðặc biệt, cải lương Hồ Quảng lại có “vũ đạo,” tức là cách đưa tay, đá chân theo nhịp điệu như múa, mà là múa võ, nên gây hào hứng trên sân khấu.
Cải lương Hồ Quảng vẫn mang bản sắc Việt
Ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đến văn hóa Việt Nam là điều không cần phải bàn cải. Tuy nhiên, cần phải ghi nhận rằng, là khi các truyện, tích của Trung Quốc được các văn sĩ, thi sĩ, nghệ sĩ Việt Nam thuật lại hay diễn lại, nó mang tính chất nghệ thuật rất độc đáo của Việt Nam, mà truyện, tích khi ấy chỉ là cái cơ hội để người nghệ sĩ Việt Nam diễn tả cái hay, cái đẹp, cái tuyệt diệu của ngôn ngữ, ý tưởng, tâm tình Việt Nam. Nguyễn Du kể chuyện đời một cô tên Vương Thúy Kiều ở Trung Quốc, mà người đọc luôn luôn có cảm giác cô là người Việt Nam. Những nhân vật phụ còn nổi tiếng hơn, Hoạn Thư, Sở Khanh, Mã Giám Sinh, Bùi Kiệm… Chuyện này cũng xảy ra (tuy với mức độ thấp hơn) nơi các nghệ sĩ Việt Nam diễn tuồng cải lương Hồ Quảng.
Tóm lại, Cải lương Hồ Quảng là một bộ môn nghệ thuật sân khấu Việt Nam có một nguồn gốc khác phức tạp: cải lương, hát bội, sân khấu Bắc Kinh, sân khấu Quảng Ðông, nhạc Việt Nam truyền thống, nhạc Ðài Loan, võ thuật Bắc Phái… Tuy nhiên, qua cách trình diễn của các nghệ sĩ Việt Nam, tất cả các loại hình nghệ thuật này phối hợp nhuần nhuyễn với nhau, tạo thành một sắc thái riêng. Khán giả thưởng thức một vở tuồng diễn theo lối cải lương Hồ Quảng nhìn thấy ngay là nó rất Việt Nam, không lẫn với ca kịch Trung Hoa được. Ðó là cái tài của người nghệ sĩ, mà đó cũng là cái đặc thù của văn hóa Việt Nam, đón nhận cái của người, nhưng biến hóa nó, thăng tiến nó để nó hay hơn, đẹp hơn mà lại có tính chất Việt Nam.
sưu tầm từ trang
Trích Đoạn Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài | Quách Phú Thành ft Hồng Quyên, Thảo Trâm, Kim Thư
Đây là câu nhận xét của một người bạn mình, là người gốc Hà Nội. Mặc dù cải lương hình thành, phát triển chủ yếu là tại miền Nam nhưng nhiều người Bắc cũng yêu thích loại hình nghệ thuật này và ca cải lương rất tốt. Mình dùng chữ tốt ở đây với quan điểm cá nhân, tức là ca rất tròn chữ, đúng nhịp, luyến láy rất hay nhưng thiếu cái mượt mà, ngọt ngào của giọng Nam.
Nghe xong lời nhận xét trên mình khá buồn, vì mình vốn yêu thích Hồ Quảng hơn cải lương, thích coi tuồng Tàu hơn coi tuồng Việt, thích đọc truyện Tàu hơn truyện Việt. Chết rồi, chẳng lẽ mình đã trở thành lai căng, mất gốc? Mình cũng biết, phong trào anti Trung Quốc đang diễn ra khá rầm rộ nhưng cũng xin đừng chụp mũ tất cả những gì của Trung Quốc là lai căng, là mất gốc.
Mình viết bài này cho bạn ấy đọc, bạn ấy hiểu Hồ Quảng hơn, và để chứng minh 1 điều: Cải lương Hồ Quảng tuy có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhưng là 1 sản phẩm văn hóa tinh thần của người Việt và vì thế, nó cũng xứng đáng được trân trọng như cải lương nói riêng và các loại hình văn hóa khác.
Bài viết có sử dụng và trích dẫn một số thông tin trên diễn đàn cailuongvietnam.com
Định nghĩa của Cải lương Hồ Quảng
Cải lương là một lối hát tuồng cách tân, được phát triển vào đầu thế kỉ 20 tại miền Nam Việt Nam, kết hợp giữa đối thoại bằng giọng bình thường với những lời ca theo những điệu truyền thống miền Nam, trong đó chủ yếu là vọng cổ.
Cải lương Hồ Quảng, hiện nay, để kỵ húy thì gọi là cải lương tuồng cổ, cũng là cải lương, nhưng tuồng tích dựa vào những tuồng cổ, mà thường là tuồng cổ Trung Hoa. Có 2 cách giải thích cho từ Hồ Quảng:
- Quảng tức là Quảng Đông hay Lưỡng Quảng, vì cải lương Hồ Quảng sử dụng nhiều giai điệu, phong cách của kịch tuồng vùng này. Hồ có lẽ là đọc trệch ra của Hò. Vì thế, Hồ Quảng là lối hát hò theo kiểu của vùng Quảng Đông.
- Hồ Quảng là chỉ một khu vực, từ đời nhà Thanh (có thể từ trước nữa vì từ thời nhà Minh sách cũng nhắc đến vùng Hồ Quảng), Hồ Quảng là để chỉ cả 1 khu vực rộng lớn phía Nam Trung Quốc. Hồ có lẽ trong từ Hồ Nam Hồ Bắc ngày ngay, nhưng theo bản đồ phân vùng địa lý xưa, Hồ Quảng rộng hơn và khác nhiều so với lưỡng Quảng + lưỡng Hồ ngày nay gom lại.
Theo mình, gọi cải lương Hồ Quảng là cải lương tuồng cổ chỉ là 1 cách tránh né của các đoàn Hồ Quảng. Không phải tuồng cải lương ”cổ trang” nào cũng là cải lương Hồ Quảng. Những tuồng như Áo cưới trước cổng chùa, Mùa thu trên Bạch Mã Sơn… hay thậm chí là Tiếng trống Mê Linh, Thái hậu Dương Vân Nga đều không phải là cải lương Hồ Quảng. Cùng là Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, nhưng nếu xem tuồng của NS Minh Vương, Thanh Kim Huệ thì sẽ hoàn toàn khác với version Hồ Quảng của NS Vũ Linh, Tài Linh.
Vì thế, mình nghĩ, cải lương nên chia thành 3 nhánh, cải lương xã hội, cải lương tuồng cổ (giả sử) và cải lương Hồ Quảng
Quá trình hình thành của Cải lương Hồ Quảng
Cải lương Hồ Quảng là một loại hình nghệ thuật phối hợp giữa ba nghệ thuật: cải lương, tuồng kịch Bắc Kinh và tuồng kịch Quảng Ðông.
Cuối thập niên 1940 sang đầu thập niên 1950, những nghệ sĩ như Phùng Há, Cao Long Ngà (bà ngoại của NS Phượng Mai), Năm Phỉ (chị NS Bảy Nam) có dịp sang Quảng Ðông học hỏi “vũ đạo” của các nghệ sĩ tuồng kịch truyền thống ở đây. Các nghệ sĩ này khi về nước, đem áp dụng “vũ đạo” này trên sân khấu, đạt được nhiều thành công.
Giữa thập niên 1950 sang đầu thập niên 1960, các nghệ sĩ Khánh Hồng, Bảy Huỳnh và Minh Tơ lần mò vào Chợ Lớn, tìm đến những gánh hát người Hoa, mua lại một số trang phục sân khấu của họ. Những trang phục này rất rực rỡ, mặc vào, lên sân khấu là đào, kép nổi bật, làm cho sân khấu cũng rực rỡ theo. Những nghệ sĩ này cũng học hỏi từ các gánh hát người Hoa nhịp điệu trống, bắt nguồn từ cách diễn tuồng của phái Bắc Kinh. Tiếng trống rộn rã giúp cho buổi trình diễn thêm tưng bừng náo nhiệt. Tiếng trống còn có tác dụng thay đổi tâm tình khách xem trình diễn, tùy theo nhịp điệu nhanh, chậm, cách ngắt quãng của nó. Các nghệ sĩ cũng học một số cách hát theo điệu Quảng Ðông.
Trở về sân khấu Việt Nam, các nghệ sĩ Khánh Hồng, Bảy Huỳnh, Minh Tơ (sau thế hệ Phùng Há, Cao Long Ngà, Năm Phỉ) pha điệu hát Hồ Quảng vào các tuồng cải lương. Về sau, khi khán giả có vẻ chấp nhận, cải lương Hồ Quảng trở thành một bộ môn riêng, với nhịp trống, điệu hát và y trang Bắc Kinh, Quảng Ðông, phối hợp với cách hát cải lương và ca vọng cổ.
Những năm 1961, 1962, 1963, phim Đài Loan tràn ngập thị trường phim Việt Nam, khởi đầu là phim Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, một truyện tình sử lấy nước mắt của không biết bao nhiêu là khán giả Việt Nam. Nhạc sĩ Đức Phú, em của nghệ sĩ Minh Tơ, đoàn hát Vĩnh Xuân Bầu Thắng lấy nhạc Đài Loan trong phim Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, viết lời Việt, dùng trong tuồng Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài do anh sáng tác và thủ diễn vai chánh, hát với nữ nghệ sĩ Bo Bo Hoàng trong vai Chúc Anh Đài. Gánh hát Vĩnh Xuân Ban – Bầu Thắng hát tuồng Lương Sơn Bá có ca nhạc Đài Loan như trong phim nên thu hút khán giả với một con số kỷ lục.
Đoàn hát Thanh Bình – Kim Mai 1 (sau là đoàn Huỳnh Long) có hai nhạc sĩ Tàu là Há Thầu và chú Long cũng ghi âm nhạc Đài Loan dùng trong tuồng hát cho đoàn Huỳnh Long. Há Thầu đặt tên các bài nhạc đó là Hoàng Mai 5, Hoàng Mai 15, Ly Hận, Chiêu Quân Hội… vân vân…
Các đoàn hát cải lương Hồ Quảng thu hút khán giả nghẹt rạp, các hãng dĩa cũng thu thanh và phát hành dĩa hát Hồ quảng, đài truyền hình Saigon cũng có những Ban hát Hồ Quảng như Ban Khánh Hồng, Ban Minh Tơ, Ban Huỳnh Long, Ban Vân Kiều, tất cả tạo thành một phong trào hát cải lương Hồ Quảng ngày một phát triển và được khán giả ưa thích.
Cải lương Hồ Quảng có nhiều ưu thế trên sân khấu. Về y trang rực rỡ và cách diễn bằng “biểu tượng” thì không thua gì hát bội, nhưng hát bội lại khó nghe, khó hiểu, trong khi đào kép trong cải lương Hồ Quảng thì nói ít, diễn nhiều, khi hát thì hát theo lối vọng cổ và một số làn điệu của cải lương rất dễ nghe, có hát theo điệu Quảng Ðông thì điệu ấy nghe cũng lọt tai. Ðặc biệt, cải lương Hồ Quảng lại có “vũ đạo,” tức là cách đưa tay, đá chân theo nhịp điệu như múa, mà là múa võ, nên gây hào hứng trên sân khấu.
Cải lương Hồ Quảng vẫn mang bản sắc Việt
Ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đến văn hóa Việt Nam là điều không cần phải bàn cải. Tuy nhiên, cần phải ghi nhận rằng, là khi các truyện, tích của Trung Quốc được các văn sĩ, thi sĩ, nghệ sĩ Việt Nam thuật lại hay diễn lại, nó mang tính chất nghệ thuật rất độc đáo của Việt Nam, mà truyện, tích khi ấy chỉ là cái cơ hội để người nghệ sĩ Việt Nam diễn tả cái hay, cái đẹp, cái tuyệt diệu của ngôn ngữ, ý tưởng, tâm tình Việt Nam. Nguyễn Du kể chuyện đời một cô tên Vương Thúy Kiều ở Trung Quốc, mà người đọc luôn luôn có cảm giác cô là người Việt Nam. Những nhân vật phụ còn nổi tiếng hơn, Hoạn Thư, Sở Khanh, Mã Giám Sinh, Bùi Kiệm… Chuyện này cũng xảy ra (tuy với mức độ thấp hơn) nơi các nghệ sĩ Việt Nam diễn tuồng cải lương Hồ Quảng.
Tóm lại, Cải lương Hồ Quảng là một bộ môn nghệ thuật sân khấu Việt Nam có một nguồn gốc khác phức tạp: cải lương, hát bội, sân khấu Bắc Kinh, sân khấu Quảng Ðông, nhạc Việt Nam truyền thống, nhạc Ðài Loan, võ thuật Bắc Phái… Tuy nhiên, qua cách trình diễn của các nghệ sĩ Việt Nam, tất cả các loại hình nghệ thuật này phối hợp nhuần nhuyễn với nhau, tạo thành một sắc thái riêng. Khán giả thưởng thức một vở tuồng diễn theo lối cải lương Hồ Quảng nhìn thấy ngay là nó rất Việt Nam, không lẫn với ca kịch Trung Hoa được. Ðó là cái tài của người nghệ sĩ, mà đó cũng là cái đặc thù của văn hóa Việt Nam, đón nhận cái của người, nhưng biến hóa nó, thăng tiến nó để nó hay hơn, đẹp hơn mà lại có tính chất Việt Nam.
sưu tầm từ trang
Trích Đoạn Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài | Quách Phú Thành ft Hồng Quyên, Thảo Trâm, Kim Thư