Hiệu Sách Cuối Cùng Ở London | VN-Zoom | Cộng đồng Chia Sẻ Kiến Thức Công Nghệ và Phần Mềm Máy Tính

Adblocker detected! Please consider reading this notice.

We've detected that you are using AdBlock Plus or some other adblocking software which is preventing the page from fully loading.

We need money to operate the site, and almost all of it comes from our online advertising.

Please add vn-z.vn to your ad blocking whitelist or disable your adblocking software. 

All the knowledge we share is completely free. If you are willing, please support us here.

×

Hiệu Sách Cuối Cùng Ở London

malemkhoang

Rìu Chiến
Hiệu Sách Cuối Cùng Ở London.jpg

CHƯƠNG 1
Tháng tám năm 1939
Thủ đô london, nước anh​


Grace Bennett luôn ấp ủ ước mơ được đến sống ở London nhưng cô chưa bao giờ nghĩ rằng một ngày nào đó, đây lại là chọn lựa duy nhất của mình, nhất là vào đêm trước khi cuộc chiến nổ ra.
Con tàu ngừng lăn bánh khi đến nhà ga Farringdon. Trên tường, người ta có thể thấy rõ dòng chữ “FARRINGDON” nằm trên dải nền màu xanh lam trong một vòng tròn đỏ chót. Trên khuôn mặt của những hành khách đứng đợi trong sân ga hiện lên vẻ bồn chồn chẳng khác gì những người sắp xuống tàu cả. Họ mặc những bộ quần áo được cắt may sang trọng theo phong cách thị thành, thứ cầu kì hơn nhiều so với áo quần ở làng Drayton, thuộc hạt Norfolk.
Grace đang run lên vì hồi hộp và háo hức. Cô nhìn sang người bạn Viv ngồi bên cạnh, khẽ nói, “Chúng ta đến rồi.”
Cô bạn liền đóng nắp thỏi son lại khiến nó phát ra một tiếng “cạch” rồi nở nụ cười tươi tắn trên đôi môi vừa tô son đỏ thắm. Viv nhìn ra ngoài cửa sổ, lướt mắt qua những tấm biển quảng cáo chạy dọc theo bức tường cong cong. Cô thoáng siết nhẹ tay Grace, “Sau bao năm ước ao, cuối cùng chúng ta cũng đến London rồi. Chúng ta đến rồi.”
Từ hồi hai người còn là thiếu nữ, Viv đã bắt đầu nung nấu ý định rời khỏi ngôi làng Drayton buồn tẻ để lên thành phố tìm kiếm một cuộc đời thú vị hơn. Việc rời bỏ những tháng ngày êm đềm, thân thuộc chốn thôn quê rồi lao vào nhịp sống hối hả, náo nhiệt ở London từng là một suy nghĩ hết sức điên rồ đối với họ. Nhưng Grace đâu ngờ rằng một ngày nào đó, cô buộc phải chuyển đi chứ không còn là lựa chọn muốn được đi nữa.
Nhưng rồi Drayton chẳng còn gì để Grace lưu luyến, hoặc ít nhất cũng không còn gì khiến cô vương vấn mong được trở về.
Grace và Viv đứng lên khỏi chiếc ghế tàu hạng sang và với lấy hành lý của mình. Mỗi người chỉ xách theo một cái vali đã bạc màu và cũ rích vì bị xếp xó lâu ngày nhiều hơn là được đem ra dùng thường xuyên. Cả hai cái đều bị nhồi nhét nhiều đến mức như thể sắp vỡ bung ra. Chúng không chỉ nặng hơn cả tưởng tượng, mà còn cồng kềnh nên rất khó mang theo, nhất là khi mỗi người còn phải đeo trên vai những chiếc hộp đựng mặt nạ phòng độc. Theo lệnh của chính phủ, tất cả người dân phải luôn mang theo thứ kinh khủng ấy để tự vệ nếu chẳng may bị tấn công bằng khí ga.
Thật may vì phố Britton chỉ cách nhà ga hai phút đi bộ, hoặc cũng có thể do bác Weatherford nói thế thôi.
Bác Weatherford vốn là bạn từ thuở thiếu thời với mẹ của Grace. Năm ngoái, khi mẹ cô vừa qua đời, bà đã ngỏ lời mời Grace đến ở chung vì nhà bà còn dư một phòng trống. Điều kiện thuê nhà của bà cũng thật hào phóng - chẳng những miễn phí hai tháng để chờ Grace tìm được việc làm, mà thậm chí sau đó tiền nhà còn có thể giảm thêm. Mặc dù từ lâu Grace đã ao ước được đến London, và dù Viv nhiệt tình động viên hết mình nhưng cô vẫn cố nán lại Drayton thêm khoảng một năm nữa để nỗ lực chắp vá cuộc đời vỡ vụn của mình.
Lúc đó, Grace vẫn chưa biết ngôi nhà đã gắn bó với cô từ lúc lọt lòng thực ra thuộc về chú của cô. Lúc đó, ông chú vẫn chưa đưa bà vợ hống hách cùng năm đứa con đến đây sống. Và lúc đó, cô vẫn chưa biết hóa ra cuộc đời mình còn có thể tan nát hơn nữa.
Bà thím luôn sốt sắng đay nghiến rằng trong chính ngôi nhà từng là của Grace bây giờ không còn chỗ nào dành cho cô nữa. Nơi một thời là tổ ấm yêu thương và yên ủi giờ đã quay lưng ghẻ lạnh, hắt hủi cô. Cuối cùng, khi bà thím gom đủ can đảm để đuổi đứa cháu gái ra khỏi nhà thì cũng là lúc Grace nhận ra mình không còn sự lựa chọn nào nữa.
Tháng trước, Grace đã viết thư cho bác Weatherford để hỏi xem liệu cô còn có thể đến nhà bà ở được không. Đó là việc làm khó khăn nhất trong cuộc đời Grace từ khi sinh ra đến giờ. Nó không khác nào sự đầu hàng trước những nghịch cảnh mà cô phải trải qua, một thất bại tồi tệ đầy đau đớn. Grace cảm giác hành động nhượng bộ ấy chính là thất bại lớn nhất mà cô phải đối mặt.
Trước giờ Grace vốn không phải là người can đảm. Thậm chí đến lúc này, cô vẫn băn khoăn không biết mình có thể tự xoay xở đến được London không nếu như Viv không kiên quyết đi theo cùng.
Cảm giác bồn chồn siết chặt trái tim Grace trong lúc họ đợi những cánh cửa kim loại lấp lánh của đoàn tàu mở ra, chào đón họ bước lên hành trình khám phá một thế giới đầy mới mẻ.
Viv thì thào, “Mọi thứ sẽ tuyệt lắm. Sẽ tốt hơn ở quê nhiều, Grace ạ. Tớ đảm bảo đấy.”
Những cánh cửa trượt tự động trên tàu điện rít lên rồi mở ra. Hai cô gái đã đặt chân lên sân ga London. Xung quanh họ, dòng người đang tất tả ngược xuôi. Rồi mấy cánh cửa đóng sập lại sau lưng họ, làn gió lùa theo đoàn tàu tiếp tục chuyển bánh thổi bay mái tóc và tà váy của hai nữ hành khách này.
Trên bức tường xa xa là tấm biển quảng cáo thuốc lá Chesterfield với hình ảnh anh chàng cứu hộ điển trai đang mơ màng hút thuốc, trong khi bên cạnh nó lại là tấm áp phích kêu gọi thanh niên London lên đường nhập ngũ.
Đó không chỉ là dấu hiệu nhắc nhở rằng đất nước của họ sắp sửa phải đối mặt với một cuộc chiến, mà còn đang cảnh báo họ sẽ càng dễ gặp nguy hiểm hơn khi sống ở thành phố này. Vì nếu như Hitler lăm le tấn công nước Anh, London rất có thể sẽ lọt ngay vào tầm ngắm của hắn.
“Ôi Grace, nhìn kìa!” Viv reo lên.
Grace đang mải chăm chú nhìn tấm áp phích cổ động, nghe thấy bạn gọi, cô liền đưa mắt về phía chiếc cầu thang bằng kim loại. Nó từ từ chuyển động lên cao theo một băng chuyền vô hình rồi chợt biến mất đâu đó bên trên mái vòm cong cong. Grace và Viv từ từ tiến vào thành phố trong mơ của mình.
Tấm biển quảng cáo nhanh chóng trôi vào quên lãng khi hai cô gái háo hức nhào lên chiếc thang cuốn, rồi cố kiềm lại sự phấn khích khi nó nhẹ nhàng nâng họ lên cao, cao, cao mãi.
Đôi vai Viv rướn lên trong niềm hạnh phúc sắp sửa vỡ òa, “Chẳng phải tớ đã nói với cậu là nơi đây tuyệt lắm sao?”
Cả người Grace lâng lâng vui sướng. Thế là sau ngần ấy năm ước ao và ấp ủ, cuối cùng họ cũng đã đến London rồi đây.
Vậy là Grace đã thoát khỏi những lời chì chiết đay nghiến của ông chú, còn Viv thì không còn phải chịu sự quản thúc nghiêm khắc của bố mẹ nữa.
Mặc dù trong lòng Grace còn nhiều phiền muộn, nhưng cô và Viv vẫn ào ra khỏi sân ga như những chú chim được tháo cũi sổ lồng, sẵn sàng sải cánh bay vào bầu trời tự do.
Xung quanh họ là biết bao tòa nhà chọc trời, cao chót vót tới nỗi Grace phải đưa tay lên che nắng mới nhìn thấy được đỉnh của chúng. Vài cửa hàng gần đó chào đón hai cô gái lần đầu lên phố bằng những bảng hiệu sơn màu rực rỡ, nào là tiệm bánh mì sandwich, tiệm cắt tóc và cả cửa hàng dược phẩm nữa. Trên đường, mấy chiếc xe tải và xe buýt sầm sập chạy xuôi ngược, bên hông chiếc xe buýt còn sơn màu đỏ bóng lộn hệt như móng tay của Viv.
Tất cả những điều mà Grace có thể làm lúc này là cố túm lấy cánh tay bạn mình và reo lên trước cảnh tượng trước mặt. Viv cũng ngây người ra, mở to cặp mắt long lanh nhìn mọi thứ trong sự sửng sốt. Hóa ra, cô cũng “nhà quê” chẳng khác gì Grace, mặc dù chiếc váy Viv đang mặc trông khá hợp mốt và những lọn tóc nâu vàng của cô được tạo kiểu vô cùng duyên dáng.
Grace thì không sành điệu như thế. Cô đã chọn bộ đầm đẹp nhất cho một dịp đặc biệt thế này nhưng nó cũng chỉ dài qua gối một chút với chiếc thắt lưng đen mảnh mai làm điểm nhấn ngay eo, phối hợp hài hòa với đôi guốc đế thấp. Tuy không thời trang bằng kiểu váy chấm bi đen trắng mà Viv đang mặc, nhưng chiếc đầm vải bông màu xanh nhạt đã tôn lên đôi mắt xám và mái tóc hoe vàng của Grace.
Dĩ nhiên bộ đầm này là Viv may tặng Grace. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, Viv vẫn luôn nuôi dưỡng những khát khao lớn hơn dành cho cả hai người họ. Họ đã cùng nhau dành hàng giờ để may váy áo và uốn tóc, chăm chỉ đọc tạp chí Woman Woman’s Life suốt nhiều năm trời để học hỏi về thời trang lẫn quy tắc xã giao lịch thiệp, sau đó nỗ lực thay đổi bản thân để không còn ai nhận ra đây là những cô gái Drayton quê mùa nữa.
Bây giờ, với đôi gò má cao và cặp mắt nâu long lanh, trông Viv duyên dáng đến độ xứng đáng trở thành gương mặt trang bìa cho những tạp chí này.
Họ hòa mình vào dòng người tất bật ngược xuôi, chuyển mớ hành lý nặng trịch từ tay này sang tay kia trong lúc Grace dẫn đường đi về phố Britton. May là trong lá thư gần nhất, bác Weatherford đã chỉ đường rất tỉ mỉ nên họ cũng dễ dàng đi theo.
Tuy nhiên, trong thư tuyệt nhiên không nhắc đến bất cứ dấu hiệu nào của chiến tranh.
Trên phố ngày càng xuất hiện nhiều quảng cáo. Một số cái kêu gọi lớp thanh niên hãy làm tròn nghĩa vụ với đất nước. Một số khác lại xúi giục mọi người cứ mặc kệ Hitler lẫn lời đe dọa của hắn và thoải mái lên lịch nghỉ hè. Ngay bên kia đường, một bức tường xây bằng nhiều bao cát đang bao quanh cánh cửa, với tấm biển màu đen trắng thông báo rằng nơi này là chỗ Trú ẩn Không kích Công cộng.
Đúng như hướng dẫn của bác Weatherford, họ đến được phố Britton chỉ sau hai phút ngắn ngủi. Bây giờ, trước mặt họ là một ngôi nhà phố bằng gạch có cánh cửa màu xanh lá, chiếc vòng gõ cửa bằng đồng bóng loáng và một cái chậu trồng đầy hoa dạ yến thảo tím pha trắng nằm bên cửa sổ. Theo những gì trong thư đã viết thì đây chắc chắn là nhà bác Weatherford rồi, không thể nào nhầm được.
Và đây cũng chính là nhà mới của họ.
Viv háo hức bước lên những bậc thềm khiến những lọn tóc xoăn nhún nhảy theo từng bước chân, rồi cô gõ nhẹ vào cánh cửa. Grace cũng háo hức theo sau với niềm hi vọng tràn ngập trong lòng. Dẫu sao đi nữa, bác Weatherford cũng là người bạn thân thiết nhất với mẹ cô, và bác từng đến Drayton thăm hai mẹ con cô vài lần hồi Grace còn nhỏ.
Tình bạn giữa mẹ của Grace và bác Weatherford bắt đầu từ khi bác còn sống ở Drayton. Sau này, tuy bác đã chuyển đi nhưng tình bạn đó vẫn tiếp tục duy trì và bền bỉ vượt qua nhiều biến cố - ban đầu là Chiến tranh Thế giới thứ Nhất đã khiến hai người phụ nữ trở thành quả phụ, và sau đó là cơn bạo bệnh đã quật ngã mẹ của Grace.
Cánh cửa mở ra và bác Weatherford xuất hiện. Tuy bác nom có vẻ già hơn hình ảnh trong kí ức của Grace nhưng dáng người bác vẫn đầy đặn với đôi má bầu bĩnh ửng hồng và cặp mắt xanh sáng lấp lánh. Bác đeo cặp kính tròn và mái tóc đen nhánh được buộc lại bằng những sợi dây màu bạc lung linh. Bác đưa mắt nhìn Grace.
Bác có vẻ sửng sốt và đưa tay chạm nhẹ lên môi, “Grace, cháu giống mẹ y như đúc vậy. Đôi mắt xám của cháu đẹp quá, hệt như đôi mắt của Beatrice ngày xưa.” Rồi người phụ nữ mở rộng cửa ra, bà mặc chiếc váy bông màu trắng, điểm xuyết mấy bông hoa thêu màu xanh dương hài hòa với những chiếc cúc áo cùng màu. Đằng sau bà là một lối vào nhỏ hẹp nhưng gọn gàng, với dãy cầu thang dẫn lên tầng trên choán gần hết diện tích. “Nào, vào đi các cháu.”
Grace thì thào cảm ơn bác Weatherford vì lời khen vừa rồi nhưng quả thật nó đã chạm vào nỗi nhớ thương người mẹ quá cố vẫn luôn chực trào trong cô.
Cô xách vali qua ngưỡng cửa, bước vào một ngôi nhà ấm cúng, nơi tỏa ra mùi thơm của rau và thịt. Nghĩ đến thôi cũng đủ khiến Grace chảy nước miếng.
Từ ngày mẹ mất, cô chưa bao giờ có được bữa cơm nhà tử tế. Đến một bữa tàm tạm cũng không. Thím của Grace vốn chẳng nấu nướng gì mấy, còn Grace phải tất bật chuyện quản lý cửa hàng cho chú nên chẳng còn thì giờ mà chuẩn bị thứ gì tươm tất.
Tấm thảm mềm mại dưới chân như nâng đỡ những bước đi của Grace. Chiếc thảm có màu kem và trang trí những bông hoa nhàn nhạt, tuy sạch sẽ nhưng hình như đã sờn vài mảng.
“Cháu là Vivienne?” Bà Weatherford lên tiếng khi Viv bước vào cùng Grace.
“Bạn bè đều gọi cháu là Viv ạ.” Cô đáp, kèm theo nụ cười duyên dáng đậm chất Viv có-một-không-hai.
“Hai đứa lớn lên đều xinh quá. Thằng con nhà bác chắc chắn sẽ đỏ mặt cho xem.” Bà ra hiệu cho hai cô gái để hành lý xuống sàn rồi gọi với lên chiếc cầu thang bằng gỗ bóng loáng. “Colin, xuống phụ hai chị một tay để mẹ đi đun nước.”
“Colin có khỏe không ạ?” Grace lịch sự hỏi thăm.
Giống như Grace, Colin cũng là con một và đã trở thành đứa trẻ mồ côi cha sau Chiến tranh Thế giới thứ Nhất. Tuy cậu nhỏ hơn Grace hai tuổi nhưng họ đã chơi chung với nhau từ khi còn bé. Cô thường đắm mình chìm trong hồi tưởng về những kỉ niệm thời thơ ấu ấy. Colin lúc nào cũng dịu dàng, tử tế cùng với trái tim chân thành ẩn sau đôi mắt thông minh sắc sảo.
Bà Weatherford bực bội vung tay lên. “Nó vẫn thích cứu mấy con vật rồi lại ôm hết về nhà.” Miệng nói thế nhưng nụ cười lặng lẽ hiền hậu của bà như thầm bảo rằng bà không phiền lòng lắm đâu.
Trong lúc chờ Colin, Grace tranh thủ ngắm nhìn hành lang một chút. Cạnh cầu thang có đặt một chiếc bàn, trên bàn để chiếc điện thoại đen bóng. Giấy dán tường là tấm vải xanh trắng bắt mắt, tuy hơi bợt bạt nhưng hài hòa với mấy cánh cửa và các khung cửa sơn trắng. Thiết kế đơn giản nhưng mọi thứ đều hoàn hảo, không thể chê vào đâu được. Thật ra, Grace dám chắc cô sẽ khó lòng tìm được một hạt bụi nào vương trên bất kì vật gì mà bạn của mẹ cô sở hữu.
Một tiếng cọt kẹt vang lên, theo sau là tiếng bước chân đi xuống cầu thang, và rồi một anh thanh niên cao gầy xuất hiện. Trong trang phục áo sơ mi kết hợp với quần tây nâu chững chạc, mái tóc đen của anh được chải chuốt gọn gàng.
Chàng trai nở nụ cười bẽn lẽn, điều đó khiến nét mặt của anh trở nên mềm mại hơn và trông anh trẻ trung hơn so với độ tuổi hai mươi mốt của mình. “A, chị Grace.”
“Colin?” Grace thốt lên, không tin vào mắt mình. Mặc dù ngày trước cô đã từng cao hơn anh, nhưng giờ đây anh đã cao vượt cô rồi.
Chàng trai liền đỏ mặt.
Phản ứng của Colin thật đáng yêu, nó khiến Grace cảm thấy thân thương vì cô biết sau ngần ấy năm xa cách, người bạn thời thơ ấu của mình vẫn không mất đi vẻ dịu dàng.
Grace ngước nhìn Colin, “Em đã lớn hơn nhiều kể từ lần cuối mình gặp nhau rồi đấy.”
Chàng trai trẻ nhún đôi vai gầy trông thật bẽn lẽn rụt rè, rồi sau đó anh quay qua gật nhẹ đầu chào Viv. Viv cũng là người bạn thường chơi đùa với cậu hồi bé bởi vì hai cô gái này lúc nào cũng quấn quýt bên nhau. “Mừng chị đến London, Viv ạ. Mẹ con em mong chị lắm.” Cậu quay sang Grace cười toe toét, rồi cúi xuống nhấc hai chiếc vali mà hai cô gái này đã đặt sang một bên. Colin hơi ngần ngại, “Em mang cái này lên cho hai chị được không?”
“Ừ, giúp chị nhé. Cảm ơn em.” Viv đáp.
Colin gật đầu rồi mỗi tay xách một chiếc, nhẹ nhàng mang chúng lên tầng.
“Cháu còn nhớ Colin không?” Bà Weatherford hỏi.
“Dạ nhớ.” Grace đáp. “Em nó trước giờ vẫn tốt bụng.”
“Chỉ có điều cao ngồng lên rồi.” Viv tiếp lời.
Bà Weatherford nhìn lên cầu thang với ánh mắt trìu mến như thể bà vẫn nhìn thấy bóng dáng con trai mình, “Nó là một chàng trai tử tế. Nào, bây giờ chúng ta đi uống trà, uống trà xong rồi bác dắt tụi con đi vòng vòng coi nhà.”
Bà chủ nhà ra hiệu cho hai cô gái trẻ đi theo và đẩy cánh cửa dẫn vào một gian bếp. Ánh sáng tràn vào từ ô cửa sổ phía trên bồn rửa và từ cánh cửa sau, rồi xuyên qua những tấm rèm trắng mỏng manh đang hé mở. Mọi thứ trong căn bếp khiêm tốn này cũng mới tinh tươm y như ở hành lang. Ánh nắng rọi lên các mặt bàn sạch sẽ trắng tinh, vài chiếc đĩa được xếp gọn gàng trên giá để hong khô. Mấy chiếc khăn màu vàng chanh được mắc lên một cái giá. Nhưng hấp dẫn hơn cả chính là mùi thơm của món gì đó mà bà Weatherford đang nấu trên bếp lúc này.
Bà chỉ tay về phía một chiếc bàn nhỏ có bốn chiếc ghế màu trắng cho Grace và Viv ngồi, sau đó bà nhấc ấm đun nước ra khỏi bếp. “Chú của con đòi lại nhà đúng lúc quá nhỉ, ngay khi cuộc chiến sắp đổ lên đầu chúng ta.” Bà cho chiếc ấm vào bồn rửa và mở vòi nước. “Và như vậy mới đúng là Horace,” giọng bà thể hiện sự khinh ghét rõ ràng, còn nước vẫn cứ tiếp tục chảy ra xối xả. “Beatrice đã lo lắng sớm muộn gì ổng cũng sẽ làm vậy, nhưng không ngờ mẹ con đổ bệnh đột ngột quá…”
Bà Weatherford đang để ý mực nước trong ấm nhưng vẫn liếc sang nhìn Grace. “Lẽ ra bác không nên càm ràm mấy chuyện này. Các cháu vừa từ xa đến đây mà. Bác rất mừng khi có hai đứa ở đây. Bác chỉ ước gì hoàn cảnh sáng sủa hơn một chút.”
Grace cắn môi, lúng túng không biết nói gì.
“Nhà của bác dễ thương quá!” Viv nhanh ý đỡ lời.
Grace quay qua nhìn cô bạn với ánh mắt đầy biết ơn. Viv liền đáp lại bằng cái nháy mắt đầy ẩn ý.
“Cảm ơn cháu.” Người phụ nữ lớn tuổi tắt vòi nước và mỉm cười nhìn quanh gian bếp đầy nắng. “Mấy đời nhà Thomas của bác đều ở đây, tuy không còn tốt như lúc đầu nhưng sống tạm thì vẫn được.”
Grace và Viv cùng thả mình xuống ghế. Chiếc đệm lót in hình trái chanh rất mỏng nên họ có thể cảm nhận được mặt gỗ cưng cứng bên dưới. “Tụi cháu rất biết ơn vì bác đã cho tụi cháu ở lại đây. Bác tốt bụng quá.”
“Cháu đừng khách sáo.” Bà Weatherford đặt chiếc ấm lên bếp và xoay núm để bật lửa. “Bác có thể làm tất cả cho đứa con gái của người bạn thân thiết nhất với bác.”
“Bác nghĩ tìm việc có khó lắm không ạ?” Viv hỏi. Mặc dù cô đã cố giữ giọng mình thật nhẹ nhàng, nhưng Grace biết từ lâu bạn mình đã khao khát được làm nhân viên trong cửa hàng đến nhường nào.
Thực lòng thì ý tưởng đó cũng rất thu hút Grace. Viễn cảnh được làm việc trong một cửa hàng bách hóa, nơi vừa to vừa đẹp như Woolworths với những tầng lầu chứa đầy hàng hóa trải dọc suốt cả dãy nhà thật hấp dẫn biết bao.
Bà Weatherford mỉm cười bí ẩn, “Tình cờ là bác quen biết khá nhiều chủ cửa hàng ở London này. Bác tin bác có thể giúp được các cháu. Colin cũng đang làm việc ở Harrods. Nó có thể nói giúp hai cháu vài lời.”
Mắt Viv sáng lên và cô vô cùng phấn khởi lặp lại tên cửa hàng đó với Grace.
Bà Weatherford lấy chiếc khăn màu vàng, nhấc một chiếc đĩa ra khỏi giá rồi lau sạch vài giọt nước còn đọng trên đó, “Bác phải nói rằng trông hai cháu không hề giống như mới từ Drayton lên chút nào.”
Viv nghiêng cằm cao hơn một chút, “Cháu cảm ơn bác. Tụi cháu chắc chắn sẽ cố gắng làm việc. Cháu hi vọng điều đó sẽ giúp chúng cháu dễ xin vào làm hơn.”
Bà Weatherford mở tủ để cất chiếc đĩa vào trong, “Tốt quá. Chắc là cháu đã chuẩn bị thư giới thiệu rồi chứ hả?”
Trước khi đến London, Viv đã mượn chiếc máy đánh chữ và dành cả ngày để tự soạn cho mình một lá thư giới thiệu chỉn chu. Cô còn đề nghị làm luôn cho Grace một cái nhưng Grace từ chối.
Bà Weatherford quay lại để tiếp tục lau khô mấy cái đĩa. Viv nhướng mày nhìn bạn như thầm nói đáng lẽ lúc đó Grace nên đồng ý để cô giúp.
“Chúng cháu đều có thư giới thiệu ạ.” Viv tự tin trả lời thay cho cả hai, rõ ràng cô đã dự tính được cách làm thêm một lá thư nữa cho Grace.
Grace đính chính, “Viv thì có nhưng cháu thì không ạ. Thật xui xẻo vì ông chú không chịu viết thư giới thiệu cho cháu, dù bao lâu nay cháu đã làm cho cửa hàng của ông ấy.”
Đó là hành động nhẫn tâm cuối cùng của người chú nhằm trả đũa việc Grace đã “rời bỏ cửa hàng” mà cô đã nai lưng làm suốt một thời gian dài. Dường như ông không đếm xỉa đến việc vợ ông khăng khăng đuổi Grace ra khỏi nhà mà chỉ cay cú chuyện đứa cháu gái không còn ở đây để tùy ông sai khiến nữa.
Chiếc ấm rít lên một tiếng chói tai và luồng hơi nước xộc ra từ vòi ấm. Bà Weatherford nhanh chóng dập tắt tiếng kêu ấy bằng cách nhấc ấm xuống khỏi bếp và đặt lên cái kiềng ba chân.
Bà xúc một thìa đầy lá trà cho vào quả lọc trà rồi chế nước sôi vào ấm, miệng trách cứ, “Thật nhẫn tâm, quá nhẫn tâm.” Bà lẩm bẩm điều gì đó về chú Horace và đặt ấm trà lên một cái khay bạc, bên cạnh ba chiếc tách, hộp đường và kem. Bà cau mày nhìn Grace với vẻ bất lực, “Nếu không có thư, họ sẽ không nhận cháu vào làm đâu.”
Grace nghe lòng mình chùng xuống. Đáng lẽ cô nên đồng ý để Viv làm giả một bức thư cho rồi.
“Nhưng bác nghĩ ra một chỗ này. Cháu có thể đến đó làm tạm nửa năm để lấy thư giới thiệu hợp lệ.” Bà Weatherford từ tốn nói tiếp trong lúc bưng chiếc khay lên bàn và rót cho mỗi người một tách trà nóng.
“Cho dù bác định giới thiệu việc gì thì cậu ấy cũng là ứng viên tuyệt nhất.” Viv xúc một cục đường trong bát rồi thả vào tách trà. “Hồi đi học Grace lúc nào cũng đạt điểm cao nhất lớp. Một tay bạn ấy đã quản lý nguyên cửa tiệm của chú mình và nhờ vậy nó làm ăn phát đạt hẳn lên.”
“Cho nên bác nghĩ việc này sẽ xuôi chèo mát mái thôi.” Bà Weatherford nhấp một ngụm trà.
Có thứ gì đó thúc vào chân Grace. Cô nhìn xuống, hóa ra là một chú mèo mướp con đang ngước nhìn cô bằng cặp mắt to tròn màu hổ phách với vẻ nài nỉ.
Grace vuốt ve lớp lông mềm mại phía sau tai chú mèo con và nghe tiếng nó “rừ… rừ” thích thú. “Thì ra bác có nuôi một con mèo.”
“Chỉ mới mấy ngày thôi, mong là cháu không thấy phiền.” Bà Weatherford xua tay định đuổi con mèo đi nhưng nó vẫn bướng bỉnh nằm lì bên chỗ Grace.
“Cái con mèo tinh ranh này nhất quyết không rời khỏi nhà bếp mỗi khi nó ngửi thấy mùi đồ ăn.” Bà Weatherford ném cho con vật nhỏ bé cái nhìn bực bội nhưng nó nhìn lại bà bằng cặp mắt ngây thơ, không hề tỏ chút áy náy. “Colin là người hùng đối với mấy con vật. Bác mà cho phép nó nuôi hết những con thú bị thương nó mang về nhà, thì dám chừng chúng ta sẽ có một sở thú đấy.” Tiếng cười của bà cắt ngang làn hơi nước bốc lên từ tách trà.
Con mèo nằm ngửa lên sàn, để lộ mảng lông hình ngôi sao màu trắng trên ngực. Grace gãi gãi vào chỗ lông đó, rồi cô nghe thấy tiếng “rừ… rừ” của nó nhịp nhàng đều đặn dưới ngón tay mình. “Bác đặt tên cho nó là gì ạ?”
“Tabby.” Bà Weatherford vừa đáp vừa hài hước đảo mắt. “Con trai bác giỏi giải cứu hơn là đặt tên cho tụi nó.”
Như thể được gọi đến, vừa nhắc một cái là Colin đã bước vào bếp. Tabby liền đứng lên, chạy lon ton đến bên vị cứu tinh của nó. Colin nâng chú mèo con lên bằng đôi bàn tay to lớn. Cử chỉ của anh thật dịu dàng và con vật nhỏ bé nũng nịu rúc vào người anh.
Lần này, người bị bà Weatherford đuổi đi chính là Colin, “Mang nó ra khỏi bếp cùng đi.”
“Con xin lỗi mẹ.” Colin vội vàng mỉm cười hối lỗi với Grace và Viv rồi cúi đầu, ôm con mèo trên ngực và đi ra khỏi phòng.
Bà mẹ lắc đầu với vẻ thích thú trìu mến khi nhìn cậu con trai đi khỏi. “Để bác ghé qua chỗ ông Evans rồi gửi gắm cháu ở chỗ ông ấy.” Bà ngồi lại xuống ghế, chăm chú nhìn ra vườn rồi buông một tiếng thở dài.
Grace nhìn ra cửa sổ. Một cái hố sâu nằm chình ình trên mặt đất, bên cạnh nó là đống hoa u sầu bị bật gốc và một chồng những tấm có vẻ như là tấm nhôm. Rất có thể người ta đang chuẩn bị đào hầm trú ẩn ở đó.
Ở làng Drayton, Grace chưa bao giờ thấy những thứ như vậy vì nơi đó ít có nguy cơ bị giội bom, nhưng cô nghe phong thanh rằng người ta đã chuẩn bị sẵn sàng cho một vài thành phố. Những hầm trú ẩn nhỏ sẽ được đào trong vườn, phòng khi Hitler đánh vào nước Anh.
Cảm giác sợ hãi chạy dọc sống lưng Grace. Sau bao lần nỗ lực để đặt chân đến London, cuối cùng họ lại tới đúng lúc cuộc chiến sắp bùng nổ. Bây giờ, nơi này đang nằm trong tầm ngắm chính của các vụ đánh bom.
Nhưng họ cũng không thể quay về Drayton được nữa. Grace thà bất chấp hiểm nguy để trụ lại nơi mà cô hằng ước ao còn hơn là trở về để chịu đựng sự thù ghét của người chú.
Viv tò mò ngó ra cửa sổ và ngay lập tức nhìn đi chỗ khác. Sau một quãng đời bán mặt cho đất bán lưng cho trời, Viv nói mình đã “chán ngán bụi đất đến tận cổ rồi”.
Bà Weatherford lại thở dài và nhấp một ngụm trà, “Nó từng là một khu vườn đẹp.”
“Rồi nó sẽ trở lại như trước, bác ạ.” Grace tự trấn an mình nhưng trong lòng cô không được tự tin như những lời vừa nói. Nếu London bị đánh bom, liệu còn khu vườn nào được phục hồi như cũ không? Và liệu lúc đó còn có ai sống để giải quyết vấn đề này không?
Những suy nghĩ đó cứ bám riết lấy tâm trí Grace và nhấn chìm cô vào bóng tối đầy kì quái. “Bác ơi,” cô đột ngột lên tiếng, muốn xua tan hết ý nghĩ về chiến tranh hay bom đạn. “Cháu có thể hỏi cửa hàng của ông Evans đang bán cái gì không ạ?”
Bà Weatherford đặt tách trà lên chiếc đĩa lót, hai đồ vật chạm nhau kêu lên cái “cách”. Đôi mắt bà sáng rỡ vẻ nhiệt tình, “Được chứ cháu. Đó là một hiệu sách.”
Grace cố che giấu một thoáng thất vọng bởi lẽ cô chẳng biết gì mấy về sách. Hễ lần nào Grace cố gắng đọc vài trang thì đều bị đủ thứ chuyện chen ngang. Trước đây cô luôn đầu tắt mặt tối ở cửa hàng của chú, nỗ lực kiếm đủ tiền để hai mẹ con đắp đổi qua ngày nên chẳng còn thì giờ đâu mà nghĩ đến chuyện đọc sách. Và rồi mẹ cô lâm bệnh…
Việc quản lý cửa hàng của chú Horace chẳng khiến cô gặp khó khăn gì, đặc biệt vì đồ gia dụng là những thứ mà bản thân cô vẫn thường sử dụng. Đối với Grace, việc bán ấm trà, khăn tắm, bình hoa và các mặt hàng khác vốn đã quen thuộc như lòng bàn tay. Nhưng văn chương thì cô nào biết gì đâu.
Chà, nói vậy cũng không đúng lắm.
Grace vẫn còn nhớ cuốn Truyện cổ Grimm của mẹ, trên bìa vẽ một cô công chúa vô cùng xinh đẹp. Grace thường say sưa ngắm nhìn những hình minh họa rực rỡ, sống động trong lúc giọng kể của mẹ dệt nên thế giới mầu nhiệm qua các câu chuyện thần tiên. Nhưng ngoài Truyện cổ Grimm, Grace chưa bao giờ có thời gian để đọc bất kì thứ gì khác.
“Tuyệt quá!” Grace cười tươi rói để giấu đi sự bối rối của mình. Dù sao đi nữa cô vẫn sẽ đồng ý đi làm. Dù làm bất cứ việc gì đi chăng nữa thì cũng tốt hơn là làm việc trong cửa hàng của ông chú mình.
Nhưng Grace làm sao có thể bán một thứ mà bản thân cô gần như chẳng biết gì về nó đây?​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

CHƯƠNG 2

Lần ra mắt của Grace ở hiệu sách Đồi Primrose không diễn ra như mong đợi.
Grace không mơ ước hão huyền rằng mình sẽ gây được ấn tượng tốt đẹp ngay trong lần ra mắt đầu tiên nhưng chí ít, cô tưởng là người chủ tiệm cũng đã biết trước cô sẽ đến.
Một lần nữa, nhờ khả năng chỉ đường xuất sắc của bác Weatherford nên Grace dễ dàng tìm được hiệu sách. Mặt tiền khiêm tốn của tiệm không tọa lạc trên đồi Primrose như tên của nó mà nằm chen giữa nhiều cửa hàng chạy dọc theo con đường nhỏ Hosier. Ánh tà dương ảm đạm phản chiếu trên cửa sổ của mỗi tiệm. Hai tầng đầu tiên của hiệu sách được sơn màu đen, bên trên là lớp vữa màu vàng đã nứt nẻ và bạc thếch theo tháng năm. Dòng chữ “Hiệu sách Đồi Primrose” được viết bằng kiểu chữ lồng vào nhau màu đen bóng, nổi bật trên nền bảng hiệu trắng. Người thiết kế rõ ràng muốn tạo hiệu ứng thanh lịch nhưng Grace cảm giác nó thật tẻ nhạt và buồn chán.
Cảm giác chán nản đó tiếp tục hắt lên cả những khung cửa sổ cáu bẩn trong tiệm. Chúng bị dán chằng chịt hàng lớp băng keo màu trắng thay vì phải được chăm chút thành ô cửa trưng bày thật bắt mắt. Thực ra dán băng keo vốn không phải chuyện lạ lùng, nhiều người cũng làm vậy để bảo vệ cửa sổ của gian hàng hoặc của nhà mình phòng khi bị giội bom. Tuy nhiên, họ thường dán rất cẩn thận và gọn gàng.
Cảm giác bồn chồn lại trỗi dậy trong lòng Grace. Nếu ông Evans hỏi về cuốn sách gần đây nhất mà cô đã đọc thì Grace biết trả lời làm sao đây? Cô hít một hơi thật sâu để trấn tĩnh rồi đẩy cửa bước vào. Trên đầu cô, chiếc chuông nhỏ kêu lên leng keng, âm thanh quá ư vui vẻ so với một nơi ảm đạm thế này.
Mùi mốc xộc lên trong không khí, quyện với một thứ mùi làm người ta liên tưởng đến vải len bị ẩm ướt. Những chiếc kệ đóng bụi tầng tầng lớp lớp cho thấy hầu hết kho sách đã lâu không được ai ngó ngàng đến và trên sàn gỗ là hàng đống sách ngổn ngang. Chưa hết, cảnh tượng ở đây còn lộn xộn hơn bởi khu quầy tính tiền nằm lệch bên phải. Trên quầy chất đầy đống giấy tờ hình như là hóa đơn sổ sách, chen giữa một biển bút chì hỗn loạn và hàng tá loại rác linh tinh.
Vậy nên không có gì lạ khi ông Evans cần một người giúp việc.
“Quý khách cần gì cứ nói.” Đâu đó vang lên một giọng nói khô khan và bất lực y như đống sách này.
“Bác Evans phải không ạ?” Grace tiến sâu hơn vào hiệu sách nhỏ.
Những dãy kệ không tên tuổi cao vượt quá đầu cô, đứng san sát nhau đến mức Grace tự hỏi liệu ai có thể lách vào giữa chúng để đọc sách. Nhìn lên tầng hai, chiếc bao lơn uốn quanh theo chu vi của tầng một, cho thấy những kệ sách cao ngất ngưởng và không kém phần chồng chất, lộn xộn. Tuy nhìn bên ngoài trông hiệu sách có vẻ khá lớn nhưng bên trong lại quá nhỏ hẹp và chật chội.
Có tiếng bước chân chậm chạp đi về phía cô, một người đàn ông phốp pháp với mái tóc bạc và đôi lông mày rậm rạp chau lại xuất hiện từ một lối đi hẹp lép. Hai tay ông ôm cứng cuốn sách đang mở. Ông ngẩng đầu lên rời khỏi những trang sách và nhìn Grace một lúc lâu nhưng vẫn không nói tiếng nào.
“Bác tên là Evans phải không ạ?” Grace thận trọng bước vòng qua một chồng sách cao ngang đầu gối.
Ông nhướng đôi lông mày lên cao hơn cặp kính, “Cô là ai?”
Lúc ấy, Grace chẳng còn muốn gì hơn là tìm được đường lùi lại, thoát khỏi một rừng kệ sách này và chạy ra khỏi cửa tiệm. Nhưng Grace đến đây để xin việc nên cô nhất định phải can đảm lên, mẹ cô ngày trước luôn động viên như thế. “Cháu chào bác Evans. Cháu là Grace Bennett. Bác Weatherford bảo cháu đến đây vì nghe nói bác đang cần một người giúp việc cho tiệm sách.”
Đôi mắt xanh của ông nheo lại sau cặp kính, “Tôi đã nói với cái bà hay lo chuyện bao đồng đó là tôi không cần phụ giúp gì hết mà.”
“Cháu xin lỗi, ý bác là…?” Grace vừa hỏi vừa lùi về phía sau.
Ông Evans cúi xuống nhìn quyển sách rồi quay đi. “Cô Bennett ạ, ở đây không có gì cho cô làm hết.”
Theo bản năng, Grace lùi ra phía cửa, miệng lắp bắp, “Dạ… cháu hiểu. Cảm ơn bác đã dành thời gian.”
Và ông Evans biến mất sau những quầy sách như muốn một lần nữa gửi đến cô dấu hiệu từ chối thẳng thừng.
Grace sững sờ nhìn theo ông. Nếu ông không chịu nhận, liệu cô có thể tìm được chỗ nào khác trong khi không có thư giới thiệu? Ngoài bác Weatherford, Colin và Viv, Grace đâu còn quen biết ai ở London. Cô đang sống trong một thành phố xa lạ, rời xa ngôi nhà đã không còn chào đón mình. Grace có thể làm gì nữa đây?
Một cảm giác hoảng sợ chạy rần rật khắp người, khiến bàn tay cô ngứa ran lên vì nóng. Cô nhất định phải ở lại và xin được công việc này bằng mọi giá. Suy cho cùng, Grace rất cần nó.
Nếu trong hai tháng nữa, Grace không thể trả nổi số tiền thuê phòng dù đã được giảm giá thì sao? Chắc hẳn cô sẽ không còn mặt mũi nào nhờ vả bác Weatherford nữa khi bác đã giúp đỡ cô quá nhiều. Và cô lại càng không thể dựa dẫm vào Viv thêm nữa.
Cửa tiệm vốn đã ngột ngạt dường như càng ngột ngạt hơn và những kệ sách cao chót vót đang ép sát vào nhau. Grace biết mình nên ở lại và nỗ lực hết sức nhưng lòng cô thật sự rối bời. Chúa ơi, cô khao khát sức mạnh, tình yêu thương và những lời khuyên bảo của mẹ biết chừng nào.
Không nói thêm tiếng nào, Grace tìm cách quay ra chỗ cửa chính đang bị những chồng sách và dãy kệ san sát vây quanh rồi rời khỏi cửa tiệm.
Grace hối hả chạy về phố Britton và chỉ muốn được ở yên một mình nhưng không được. Trong phòng khách, Viv đang ngồi với bà Weatherford và thì thầm trò chuyện với Tabby. Còn Colin, sau cả một đêm chăm sóc cho chú voi con mới có mặt trong Vương quốc Thú cưng thuộc chuỗi cửa hàng Harrods, bây giờ đang cúi người đút cho chú mèo con một chút thịt dính ở đầu muỗng. Như vậy nghĩa là mọi cặp mắt đều đổ dồn vào Grace ngay khi cô đóng cửa lại.
Mặc dù biết bạn bè đều có ý quan tâm nhưng Grace rất muốn né tránh cái nhìn chằm chặp của họ để khỏi phải thổ lộ chuyện cô đã dễ dàng bỏ cuộc ngay khi mới vừa vấp phải khó khăn như thế nào.
“Cháu đi gặp ông Evans sao rồi?” Bà Weatherford ngồi xuống chiếc ghế bành màu đỏ tía, hơi nghiêng người về phía trước.
Hai gò má Grace nóng bừng nhưng cô cố gắng nặn ra một nụ cười và bình tĩnh trả lời như không có gì. “Cháu nghĩ bác ấy không cần tìm người giúp việc ạ.”
“Sao cháu lại nghĩ vậy?” Bà Weatherford hỏi.
Grace nhấp nhổm đổi chân từ bên này sang bên kia. Chiếc hộp đựng mặt nạ phòng độc lơ lửng trên sợi dây mỏng manh đang đập vào hông cô, “Bác Evans nói thế ạ.”
Bà Weatherford tằng hắng ra chiều khó chịu, “Colin, đun cho mẹ ấm nước.”
Colin đang ngồi trên sàn, cạnh con Tabby và những ngón tay to của anh đong đưa chiếc thìa. Anh ngước lên nhìn mẹ, “Mẹ muốn mang trà ra đây ạ?”
“Không phải cho mẹ.” Bà bước nhanh lên tầng. “Là cho Grace. Con bé chắc chắn rất cần một tách trà trong lúc mẹ đi nói chuyện với cái ông Evans đó.”
“Khoan hãy đun nước.” Viv đặt tay lên vai Colin trước khi cậu vào bếp.
Viv cũng đang ngồi cạnh họ. Cô gãi nhẹ lên đầu Tabby một cái rồi đứng lên nói, “Thay vì uống trà, chúng ta đi khám phá London đi.” Viv đưa tay về phía bạn mình, “Tiện lúc cậu đang mặc đồ đẹp, còn tớ thì đến chiều mai mới có hẹn. Chúng ta dạo phố một vòng nhé?”
Cuộc hẹn mà Viv nhắc đến là buổi phỏng vấn ở cửa hàng bách hóa Harrods. Viv có được cơ hội này một phần là nhờ tác động của Colin - anh chàng đã có thâm niên làm ở đó vài năm, phần khác vì cô đã chuẩn bị sẵn thư giới thiệu. Tuy công việc của Viv thật sự rất đáng ghen tị nhưng Grace chưa bao giờ sinh lòng đố kị với bạn mình.
Lúc này, Grace thật lòng không muốn rời khỏi căn nhà mát mẻ và yên tĩnh này, nhưng trước nụ cười toe toét đầy háo hức của Viv, cô cảm thấy mình không thể chối từ.
Viv vội vàng chỉnh trang cho tươm tất, hối hả y như lúc rủ mọi người ra ngoài. Cô bước xuống cầu thang cùng lúc với bà Weatherford. Họ túm lấy chiếc mũ chụp lên đầu và đôi giày cao gót của họ kêu lóc cóc khi bước trên sàn gỗ láng bóng.
“Cứ nhớ lấy lời bác.” Bà Weatherford liếc nhìn tấm gương nhỏ treo cạnh cửa ra vào và chỉnh lại vành chiếc mũ đen có góc cạnh. “Ông Evans nhất định sẽ thuê cháu nếu ông ấy biết điều gì tốt cho mình.”
Grace ước sao mình đủ mạnh dạn để phản đối, để phủ nhận thẳng thừng mong muốn tìm việc của bản thân và sự giúp đỡ nhiệt tình của bác Weatherford. Nhưng than ôi, cô làm sao có thể từ chối tấm lòng thơm thảo đó. Chú Horace có lẽ đã biết tỏng đứa cháu gái sẽ xất bất xang bang thế nào nên mới nhất quyết không viết cho cô một lá thư giới thiệu tử tế. Sau ngần ấy năm cô tận tụy khôi phục lại cửa hàng cho ông ta thì ông đối với cô thật bất công. Bất công và tàn nhẫn.
Trước khi Grace kịp ngăn bác Weatherford lại thì bác đã ra khỏi cửa và đi mất, trông bà vừa bực bội lại vừa cương quyết.
Viv nắm lấy tay bạn, nói bằng chất giọng “sang trọng” du dương nhất của mình, “Cô bạn yêu quý ơi, ta đi ngắm nhìn viên ngọc London quý giá này đi nào.”
Grace không thể không bật cười trước kiểu pha trò đó và cứ thế để Viv kéo mình ra ngoài dạo phố, bỏ một mình Colin ở nhà với con mèo Tabby.
Hai cô gái nhanh chóng bị cuốn vào bầu không khí đầy hối hả của thành phố, xung quanh họ là những tòa nhà cao chót vót phủ đầy quảng cáo sặc sỡ, xe cộ qua lại như mắc cửi và tiếng còi inh ỏi khắp các nẻo đường. Grace và Viv gấp gáp rảo bước như cố bắt kịp dòng chảy tất bật của thủ đô này.
Khác với sự mường tượng của hai cô gái, London bây giờ không còn là một viên ngọc quý. Bóng đen của cuộc chiến đang rình rập, những dải băng keo chằng chịt và nỗi khiếp sợ u ám đã làm lu mờ vẻ lấp lánh của nó. Ánh sáng của London bị che khuất sau những bức tường bằng bao cát và toàn bộ linh hồn của nó cũng bị đào xới nham nhở để nhường chỗ cho các chiến hào lẫn hầm trú ẩn.
Những dấu hiệu cảnh báo này tuyệt đối không thể bỏ qua.
Ở làng Drayton nguy cơ bị tấn công tuy ít hơn nhưng các công tác chuẩn bị đã rất rõ ràng. Vậy mà tại thành phố này, việc dán băng keo lên cửa sổ chỉ giống như thú tiêu khiển lúc nhàn rỗi, và điều khiến người ta nơm nớp lo sợ nhất là chính sách hạn chế nguồn cung chứ không phải nguy cơ bị giội bom. Ở London, mọi người miễn cưỡng chuẩn bị chẳng qua cũng chỉ vì bị bắt ép.
Tuy nhiên, mọi dấu hiệu của cuộc chiến đều bị dẹp sang một bên ngay khi Grace và Viv lần đầu bước chân vào Harrods. Trước mắt hai cô gái bày ra những họa tiết xoắn ốc uốn lượn cầu kì chạy dọc trên trần nhà, những cây cột sơn vẽ theo kiểu Ai Cập và những cây đèn quạt tinh xảo. Cửa hàng rộng thênh thang tựa như các cánh đồng ở làng Drayton, gian hàng phía sau khá thú vị và được chăm chút công phu hơn gian hàng phía trước. Có những chiếc khăn lụa tuyệt đẹp, mỏng nhẹ tới mức khiến Grace cảm giác mình đang chạm vào không khí, và cả những lọ nước hoa đặt sau quầy tủ kính lấp la lấp lánh tỏa ra mùi xạ hương đắt tiền.
Nhưng gian hàng lôi cuốn nhất đối với hai cô gái cho đến lúc này chính là Vương quốc Thú cưng - nơi Colin làm việc. Chú voi con đã được cậu dỗ dành cả đêm qua giờ đang nô đùa trên đống cỏ khô sạch sẽ, ngoài ra còn có chú báo đốm đang thè chiếc lưỡi hồng hồng có vân ra để liếm lông rồi nhìn bọn họ bằng đôi mắt xanh lục đầy tò mò.
Khi hai người rời mắt khỏi những con thú và lướt qua mấy gian hàng kế tiếp, Grace mơ màng nói, “Tưởng tượng mà xem Viv ơi, cậu sắp được làm nhân viên bán hàng ở đây rồi.”
“Cậu cũng có thể làm chung với tớ, nếu cậu chịu để tớ chuẩn bị thư giới thiệu cho.” Viv thì thầm.
Niềm hân hoan trong lòng Grace héo đi chút ít khi cô nhớ đến nơi mà mình sắp sửa đi làm, giá như bác Evans chịu nhượng bộ bác Weatherford. Ông bác đó có vẻ thô lỗ và cửa hàng của ông lại chứa đầy những thứ mà Grace hết sức mù mờ.
Tuy vậy, cô không đủ can đảm để đưa ra một lá thư giới thiệu giả mạo. Grace chưa bao giờ giỏi nói dối, khuôn mặt cô ắt sẽ đỏ bừng lên và miệng sẽ lắp ba lắp bắp. Vẻ lúng túng đó sẽ tố cáo rõ ràng là cô đang gian dối thông tin. Tuy nhiên, Grace biết Viv sẽ không bao giờ chịu để mất cơ hội trừ phi buộc phải nhượng bộ.
“Nếu không còn cơ hội nào nữa, chắc tớ sẽ suy nghĩ lại,” Grace chậm rãi đáp.
Khuôn mặt Viv sáng bừng lên, “Cứ quyết vậy nhé.”
“Không, chỉ khi không còn cơ hội nào khác.” Grace lặp lại, đột nhiên cô tha thiết hi vọng rằng bác Weatherford có thể thuyết phục bác Evans chấp nhận mình.
Nhưng Viv đã quay đi để săm soi một đôi vớ và chỉ ậm ừ đáp lại câu khẳng định thận trọng của Grace. Viv đặt món hàng sang một bên rồi lật tung lớp giấy gói màu hồng nhăn nhúm.
“Cậu biết tụi mình chưa làm việc gì không?” Cô hồ hởi quay lại phía Grace, chiếc váy xanh lá cây xòe rộng trên đầu gối. “Tụi mình chưa đến công viên Hyde.”
Grace cười toe toét. Hồi trước, không biết đã có bao nhiêu ngày hè họ nằm dài trên bãi cỏ để tắm nắng, hít căng lồng ngực hương thơm ngọt ngào của mùa hạ rồi tưởng tượng như mình đang ở công viên Hyde? “Đi lên phía trên con đường này thôi.” Grace nhướng mày nói.
Viv nhìn quanh cơ man những dãy quầy hàng sang trọng, rực rỡ nối dài như vô tận. “Ờ, nếu tụi mình tìm được lối ra.”
Grace nghển cổ lên để tìm đường ra nhưng không thấy đâu. Thật không ngờ việc này lại mất nhiều thời gian đến vậy vì hai cô gái còn bị lạc loanh quanh giữa gian hàng chăn nệm và dụng cụ nướng nhưng cuối cùng, họ cũng tìm được cửa ra và thẳng tiến đến công viên Hyde.
Grace và Viv đã háo hức mong nhìn thấy một khu công viên với biết bao người ăn mặc đẹp đẽ ngồi kín những khu ghế xếp ngoài trời, với hồ Serpentine mênh mông sáng rực lên như viên kim cương lộng lẫy dưới ánh nắng mặt trời, với bãi cỏ xanh vô tận, êm ái như nhung mời gọi người ta cởi giày bước lên. Vậy mà hai cô gái không thể ngờ rằng thực tại bày ra trước mắt họ toàn là những chiến hào khoét sâu vào đất hệt như mấy vết thương hở miệng, hoặc hãi hùng hơn nữa là các khẩu súng khổng lồ.
Những vật thể đồ sộ làm bằng kim loại đó cao quá đầu người và dài đến thắt lưng của Grace, đang được đỡ trên các bánh xe rất lớn. Từ mỗi con quái thú nhô ra một nòng súng dài, chĩa thẳng lên bầu trời, sẵn sàng hạ gục bất kì mối đe dọa nào.
Grace nhìn lên những đám mây xám xịt, nặng nề, lòng thầm hi vọng được nhìn thấy một đội máy bay xuất hiện giữa màn mây âm u.
“Các cô không cần lo lắng về bọn Đức đâu.” Một người đàn ông lớn tuổi dừng lại trước mặt họ. “Những khẩu súng phòng không này sẽ bắn hạ chúng ngay khi chúng còn chưa kịp đụng đến chúng ta.” Ông gật gù với vẻ tự mãn. “Các cô sẽ được an toàn.”
Tâm can Grace quặn lại và những lời muốn nói đều bị chặn lại nơi đầu môi. Bên cạnh cô, Viv có vẻ cũng hãi hùng không kém nên chỉ nở được một nụ cười gượng gạo. Người đàn ông đó chạm lên vành mũ rồi tiếp tục băng qua công viên, dưới khuỷu tay ông còn kẹp một tờ báo.
“Chiến tranh thật sự sắp nổ ra sao?” Viv khẽ khàng hỏi.
Đúng thế. Tất cả bọn họ đều biết rõ điều này, cho dù họ không muốn thừa nhận đi nữa.
Số ngày nghỉ đã bị giảm xuống vì giáo viên được yêu cầu trở về nhà sớm để chuẩn bị cho khả năng đưa hàng nghìn trẻ em sơ tán khỏi London. Nếu người ta đang lên kế hoạch di dời bọn trẻ đi khỏi đất nước này, nghĩa là chiến tranh ắt hẳn sẽ sớm ập lên đầu họ.
Tuy nhiên, vẻ cam chịu toát lên trong câu nói của Viv khiến lòng Grace dấy lên cảm giác day dứt khôn nguôi.
“Viv ạ, cậu không cần ở lại đây đâu. Nơi này không an toàn. Cậu đến đây chỉ vì muốn giúp mình thôi vì mình không dám đi một mình. Cậu có thể…”
“Trở về làng Drayton sao?” Viv cong môi lên hài hước. “Tớ thà chết còn hơn quay về và chôn mình trong bùn đất ngập đầu một lần nữa.”
Chỉ là có thể thôi, bây giờ vẫn đang yên lành mà. Grace không dám nói ra suy nghĩ rùng rợn đó nhưng cô liếc nhìn khẩu súng phòng không một lần nữa, họng súng đen ngòm và đáng sợ đang chĩa lên bầu trời hoàng hôn.
“Người ta còn chưa chính thức tuyên bố chiến tranh mà.” Viv chỉnh lại dây đeo ví và dây đeo hộp mặt nạ phòng độc trên vai cho ngay ngắn. “Thôi, về nhà xem bác Weatherford đã thuyết phục được bác Evans chưa.”
Mặt Grace ỉu xìu như bánh đa nhúng nước, “Bác ấy không muốn nhận mình vào đó làm nhiều hơn cả việc mình muốn vào đó làm đấy. Cửa tiệm gì mà cũ rích, bụi bặm lại còn đầy rẫy những cuốn sách mà mình chưa từng nghe đến.”
Mắt Viv sáng lên lấp lánh, “Bởi vậy nó mới hợp với cậu nhất, Vịt con ạ.”
Grace không thể không phì cười trước cách gọi trìu mến đó. Khi còn sống, mẹ thường kể rằng hồi Grace mới lẫm chẫm tập đi, mẹ bắt đầu gọi cô là “Vịt con” vì những lọn tóc hoe vàng của cô cứ lúc la lúc lắc sang bên cổ, hệt như chiếc đuôi vịt tí hon. Nhưng rồi biệt danh này dần bị quên lãng. Sau khi mẹ mất, chỉ còn Viv là người duy nhất nhớ và gọi cô bằng cái tên thân mật ấy.
“Trước khi cậu ra tay thì cửa hàng của ông chú cậu cũng chẳng có gì ngoài mớ bụi bặm bẩn thỉu.” Viv chống nạnh. “Và tớ có linh tính rằng bác Weatherford sẽ dúi vào tay ông bác Evans nhờ ông ấy viết một lá thư giới thiệu cho cậu nếu cậu làm đủ sáu tháng và đố ông ấy dám từ chối.”
Hình ảnh bác Weatherford “giảng” cho bác Evans nghe một bài thật là tức cười. “Bây giờ là cuộc chiến để xem ai gan lì hơn ai thôi.”
“Tớ biết mình đang đặt niềm tin vào ai mà.” Viv nháy mắt. “Đi về xem bác ấy làm được gì rồi.”
Khi họ về đến phố Britton, bác Weatherford đã ngồi trong phòng khách, bên cạnh một tách trà và mùi thịt nướng thơm lừng cả không gian. Hẳn là một bữa ăn ngon lành nữa đang chờ họ. Giống như mẹ của Grace, bác nấu nướng rất khéo tay.
Bác Weatherford ngước mắt lên khỏi tách trà và vẫy tay xua làn hơi nước đọng lại trên cặp kính, “Cháu đây rồi. Ông Evans sẽ trả cho cháu một khoản lương đàng hoàng và muốn cháu đến làm ngay vào 8 giờ sáng mai.”
Grace thả đôi giày cao gót thấp rơi xuống đất, rồi bước ngay lên tấm thảm dày trong phòng khách mà quên cả xỏ dép lê, “Dạ, ý bác là…?”
Bác Weatherford nở nụ cười đắc thắng. “Đúng vậy, con gái. Con đã trở thành nhân viên mới của hiệu sách Đồi Primrose.”
Một cảm xúc vừa nhẹ nhõm vừa lo lắng dâng lên làm cho Grace bối rối. Một công việc, vậy là cô đã tìm được một công việc để sinh sống qua ngày ở London. Nhờ nó, rốt cuộc cô đã có thể hoàn toàn gạt bỏ ngôi làng Drayton và ông chú ra khỏi tâm trí.
“Cảm ơn bác đã nói giúp cháu.” Giọng Grace đầy cảm kích. “Bác sắp xếp mọi thứ cho cháu thật chu đáo.”
“Bác rất mừng vì giúp được con, con gái ạ.” Người phụ nữ lớn tuổi hít nhẹ một hơi khiến ngực bà căng lên, hành động này như chứng minh rằng bà thật lòng hoan hỉ khi làm điều đó.
Grace ngập ngừng. “Mà bác cho cháu hỏi, tại sao nó lại tên là tiệm sách Đồi Primrose trong khi nó không nằm trên đồi Primrose vậy ạ?”
Bà Weatherford mỉm cười mơ màng và giải thích rằng có một lý do rất dễ thương. “Ông Evans và bà vợ quá cố của ổng đã gặp nhau trên đồi Primrose. Chúa phù hộ cho linh hồn bà ấy yên nghỉ. Họ cùng dựa lưng vào một cái cây và phát hiện ra cả hai cùng đang đọc cuốn sách giống nhau. Cháu có tưởng tượng được khung cảnh đó không?” Bà lấy một chiếc bánh trà trong khay và kẹp nó vào giữa hai ngón tay. “Khi mở cửa tiệm này, họ nói đó là một cái tên tuyệt vời dành cho hiệu sách của cả hai. Khá lãng mạn đấy nhỉ?”
Làm sao bạn có thể tưởng tượng được ông chủ tiệm sách cục mịch ấy ngày xưa từng là một chàng trai lãng mạn si tình, nhưng cái tên cửa hiệu quả thực rất duyên dáng. Cả câu chuyện của họ cũng vậy. Có lẽ làm việc ở đó cũng không đến nỗi đáng sợ lắm đâu.
Và dù sao đi nữa, cũng chỉ có sáu tháng thôi mà.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

CHƯƠNG 3

Sáng hôm sau, Grace đến hiệu sách Đồi Primrose lúc 8 giờ kém 10 phút trong tâm trạng hồi hộp xen lẫn căng thẳng. Đêm qua, Viv đã giúp cô uốn những lọn tóc xoăn rất dễ thương và dậy thật sớm để chúc Grace may mắn, mặc dù chiều nay Viv cũng có hẹn phỏng vấn với bên cửa hàng bách hóa Harrods.
Grace sẽ cần đến tất cả vận may mà cô có thể gom góp được.
Khi cô bước vào, ông Evans đang đứng sau quầy tính tiền bừa bộn. Ông mặc áo khoác vải tuýt bên ngoài một chiếc áo sơ mi có cổ. Ông còn chẳng buồn ngó lên xem ai vừa bước vào khiến chuông cửa kêu. “Chào buổi sáng, cô Bennett”, ông lè nhè cất giọng chào với vẻ chán nản.
Grace mỉm cười với người chủ tiệm, quyết tâm khởi đầu công việc mới bằng cách mạnh dạn bước tới phía trước, hoặc người khác cũng có thể cho rằng cô chỉ đang cố chịu đựng thôi. “Chào buổi sáng, bác Evans. Cháu thật sự biết ơn bác vì đã cho cháu cơ hội làm việc ở đây.”
Ông già ngẩng đầu lên và nhìn cô qua cặp kính dày cộm. Mái tóc trắng bù xù và hàng lông mày rậm rạp của ông dường như đã được tém lại gọn gàng nhất từ trước tới nay. “Tôi đã nói là không cần ai giúp đỡ gì hết, nhưng bà ấy sẽ không để tôi yên nếu tôi không chịu nhận cô.” Ông trỏ một ngón tay múp míp về phía Grace, “Cô cũng đừng quá chúi mũi vào công việc này. Chỉ có sáu tháng thôi.”
Grace thở phào nhẹ nhõm và đôi vai được thả lỏng đôi chút. Ít ra ông ấy cũng không đòi hỏi cô phải chôn mình ở đây từ giờ cho đến hết đời. “Cháu sẽ không quá quyến luyến đâu ạ,” cô thành thật đáp. Làm sao Grace có thể nấn ná quá lâu ở một nơi vừa dơ bẩn bụi bặm vừa vắng tanh vắng ngắt như vậy chứ?
Cô nhìn lướt khắp cửa hàng và hoảng hồn vì nhận ra nơi đây chật chội đến mức nào. Những chiếc kệ đặt san sát nhau hệt như mấy cái răng to tướng chen chúc trong một khuôn miệng nhỏ xíu, vây quanh chúng là biết bao chồng sách rải rác ngổn ngang. Hoàn toàn không được phân loại hay có trật tự sắp xếp nào.
Ngày trước, khi Grace bắt đầu quản lý cửa hàng của người chú, ít ra nó cũng đã có chút hệ thống nào đó. Còn bây giờ cô sẽ làm gì với đống sách vở hỗn độn này đây?
Một cảm giác tuyệt vọng len lỏi vào lòng. Rốt cuộc cô phải bắt đầu từ đâu? Liệu bác Evans đã nghĩ ra nhiệm vụ nào cho cô chưa?
Grace cảm thấy hết sức hoang mang. Cô cứ lúng túng chôn chân một chỗ, chiếc ví và hộp mặt nạ phòng độc vẫn đeo trên vai và mũ cũng chưa kịp cởi. Ông Evans mải mê ghi chép hàng loạt con số vào một cuốn sổ cái nên dường như chẳng hề để ý đến xung quanh. Mấy đầu ngón tay ông chụm lại, cẩn thận kẹp chặt đầu bút chì. Mẩu bút đã ngắn ngủn tới nỗi chỉ cần gọt thêm lần nữa thì sẽ chẳng còn thấy nó đâu.
Grace hắng giọng, “Cháu có thể để đồ đạc ở đâu ạ?”
“Phòng sau.” Ông Evans lẩm bẩm đáp trong lúc bàn tay vẫn không ngừng di chuyển sột soạt trên tờ giấy.
Grace liếc về phía sau cửa hàng và thấy một cánh cửa, có lẽ ông Evans đang nói đến chỗ đó, “Sau đó bác cần cháu giúp gì ạ?”
Đầu bút chì bị gãy và ông chú tiệm bực bội thở hắt ra. Ông ném vào cô cái nhìn chằm chằm. “Tôi nói rồi, tôi không cần giúp gì hết. Cô có thể ngồi trong căn phòng đó may vá, kiếm một góc đọc sách, giũa móng tay hay muốn làm gì thì làm. Tôi không quan tâm.”
Grace gật đầu rồi men theo chiếc kệ sách xô lệch để đi về phía cánh cửa mà ông đã chỉ. Phía trên cánh cửa treo tấm biển bằng đồng xám xịt có khắc dòng chữ “Hiệu sách Đồi Primrose” cùng với một dòng chữ nhỏ nằm bên dưới - “nơi độc giả tìm thấy tình yêu”. Cầu mong sao đây là điềm lành báo hiệu sáu tháng tiếp theo của Grace không đến nỗi quá tồi tệ.
Căn phòng phía sau thật chật chội, lại hết sức tù mù vì chỉ có mỗi cái bóng đèn trần trụi, ngoài ra còn có một bộ bàn ghế ọp ẹp. Những chiếc hộp xếp dọc theo tất cả các bức tường, đôi khi chồng lên hai, ba tầng khiến cho không gian bị thu nhỏ lại đến mức khó lòng đi lại trong đó. Grace mắc vài cái móc lên tường để treo đồ đạc rồi trở ra khu vực chính của hiệu sách.
Cô chưa bao giờ giỏi may vá - đó là nghề của Viv - và cũng chẳng biết nên bắt đầu đọc quyển sách nào hay đọc từ đâu, huống hồ gì là sắp xếp lại chúng. Tuy nhiên, sau khi nhìn lướt qua các móng tay, Grace thở dài vì đến cả bộ giũa móng cũng đã để quên luôn ở nhà.
Chẳng còn cách nào khác, Grace quyết tâm tự tìm việc gì đó để làm. Hàng hàng lớp lớp bụi bẩn bám trên kệ đang nài nỉ được lau sạch sẽ. Mặc dù dọn dẹp cửa tiệm không nằm trong danh sách những việc mà ông Evans đã liệt kê nhưng hiệu sách này đang rất cần một bàn tay chăm sóc.
Ba tiếng sau, Grace suýt ngạt thở vì đống bụi bặm bay mù trong không khí, lúc này cô hết sức hối hận vì lựa chọn của chính mình. Chiếc váy sơ mi trắng điểm xuyết mấy cành hoa hông hồng - một trong những bộ váy mà Grace yêu thích nhất - đã nhem nhuốc cả, và ông Evans thường xuyên nhìn trừng trừng về phía cô mỗi khi húng hắng ho.
Trong thời gian đó cũng có lác đác vài vị khách ra vào tiệm. Grace cố gắng vừa dọn dẹp vừa nán lại gần họ, hết sức cẩn thận tránh để bụi bay về phía khách nhưng vẫn đủ gần để hỗ trợ ngay nếu họ cần.
Chỉ có một điều gay go là nếu họ hỏi han hay nhờ tư vấn về sách thì Grace sẽ chẳng biết trả lời ra sao. Thật may là không ai hỏi gì, ít nhất là sau khi ông Evans rời tiệm được năm phút để đến quán cà phê gần đó uống trà.
Một người phụ nữ lớn tuổi mặc chiếc váy tạp dề tươm tất tiến lại gần và nhìn Grace chăm chú, “Xin lỗi, ở đây có bán The Black Spectacles (Những chiếc kính đen) không?”
Grace mỉm cười nhẹ nhõm. Ít ra câu này cô có thể trả lời được, “Ở đây chúng tôi không bán kính. Thành thật xin lỗi.”
Người khách chớp chớp đôi mắt xanh to tròn, “Đó là một cuốn sách. Của John Dickson Carr. Tôi mới đọc xong cuốn Chiếc bản lề cong tối hôm qua và muốn tìm tập tiếp theo trong bộ Gideon Falls (Thác Gideon).”
Giá như mặt đất nứt ra ngay lúc này và nuốt chửng cả người Grace thì cô chắc chắn không phản đối tiếng nào.
Bây giờ cô phải tìm hai tựa sách và một bộ tác phẩm mà không có chút manh mối nào về vị trí của chúng. Trong lúc dọn dẹp luôn tay, Grace luôn nỗ lực xác định trật tự nào đó trong cách sắp xếp đống sách này, nhưng điều đó hoàn toàn vô ích.
“Vâng, vâng, có chứ.” Grace vẫy người phụ nữ ấy đi theo mình với hi vọng thần may mắn phù hộ cho cô tình cờ bắt gặp cuốn sách ở đâu đó, hoặc bất thình lình cô bị sét đánh cho rồi. Cách nào cũng được.
“Bà thấy cuốn Chiếc bản lề cong có hay không ạ?” Grace dè dặt hỏi nhằm cố gắng dò la xem cuốn sách mình đang tìm thuộc thể loại nào.
Người khách đó đặt tay lên ngực, “Ôi, đó là cuốn tiểu thuyết huyền bí hay nhất mà tôi từng đọc. Tôi phải nhốt mình trong phòng ngủ để có thể đọc chương cuối một lèo mà không bị bọn trẻ quấy rầy.”
A, phải rồi, tiểu thuyết huyền bí. Có lẽ có vài cuốn nằm gần kệ sách mà cô đang dẫn người phụ nữ đi đến. “Tôi nghĩ nó nằm đâu đó trên bức tường này.” Grace nhìn lướt qua nhiều cái gáy sách. Chúng không được sắp xếp theo bất kì trật tự nào, không theo tựa, không theo tên và thậm chí cũng không theo màu bìa.
“Không biết tôi có thể…” Một giọng nam cất lên sau lưng Grace.
Cô giật mình quay lại, khuôn mặt lộ rõ vẻ ngạc nhiên khi thấy một người đàn ông cao lớn mặc chiếc áo khoác xám được cắt may rất khéo léo, với mái tóc đen được chải gọn gàng sang một bên. Cô đã sớm chú ý đến anh. Thật ra, có cô gái nào lại không để ý đến một chàng trai tuấn tú như vậy chứ? Nhưng anh đến đây cũng khá lâu và Grace cứ nghĩ anh đã rời khỏi tiệm.
“Tôi tin nó nằm trên chiếc kệ ngay bức tường đằng kia.” Anh chàng hướng mắt về phía đối diện của cửa hàng.
“Dạ vâng, cảm ơn anh.” Đôi má Grace nóng bừng lên. Không, phải nói là cả người cô như muốn bùng cháy thành than vì ngượng ngùng trước cái nhìn chăm chú mà chàng trai dành cho mình. Grace hướng dẫn bà khách đi theo mình lần nữa, “Mời bà đi theo tôi.”
Nhưng người phụ nữ đó nhìn thẳng vào người đàn ông điển trai kia, và đỏ mặt. “Nếu cô không phiền thì… tôi muốn cậu ấy tìm hộ tôi.”
Anh chàng nhướng mày lên ngạc nhiên rồi nở nụ cười phóng khoáng, “Rất sẵn lòng.” Anh chìa cùi chỏ ra để đỡ người phụ nữ lớn tuổi và bà cười rạng rỡ khi nắm lấy tay anh.
Grace thích thú quan sát cả hai - chàng trai lịch thiệp đó lấy xuống một quyển sách màu đen với dòng chữ đỏ đậm in trên bìa. Người phụ nữ cảm ơn anh rồi mang sách ra chỗ quầy thu ngân bừa bộn gặp Grace để tính tiền.
“Đúng là một quý ông.” Bà khách vỗ nhẹ lên đôi má còn đỏ ửng trước khi rút tiền ra khỏi ví. “Tôi mà còn trẻ và xinh xắn như cô thì không đời nào tôi để anh chàng đó đi khỏi đây nếu chưa biết tên cậu ấy.”
Grace nơm nớp liếc về phía người đàn ông để chắc chắn lời nói vừa rồi của bà khách không lọt đến tai anh. Anh ta vẫn quay mặt vào chiếc kệ cách đó vài bước chân, xem chừng không hay biết gì. Tạ ơn Chúa.
Đôi vai nhướng lên vì căng thẳng của Grace có thể thả lỏng đôi chút. Cô đếm tiền thừa đưa cho khách, lễ phép cảm ơn và trao cho bà cuốn sách đã mua. Bà nội trợ khẽ nháy mắt với cô rồi rời khỏi tiệm, khiến chiếc chuông nhỏ vang lên tiếng lanh canh một lần nữa.
Khi tiếng chuông dứt hẳn, một sự im lặng nặng nề lại lấp đầy không gian chật chội. Tuy ban nãy Grace không để ý đến người đàn ông đang nán lại cửa hiệu nhưng bây giờ, cô lại ý thức rất rõ ràng. Giá như đây là cửa hàng gia dụng ở Drayton thì cô còn có thể đề nghị giúp đỡ anh ta một chút, hoặc có thể gợi ý về món này món kia. Nhưng ở đây, dường như anh ta còn hiểu rõ hiệu sách này hơn cả cô.
Grace kín đáo phủi hết bụi bặm dính trên váy và thầm thề rằng sẽ không bao giờ mặc bất cứ thứ gì màu trắng cho đến khi cửa tiệm này được lau chùi sạch sẽ tinh tươm. Cuối cùng, cô quyết định dọn dẹp những đồ đạc linh tinh nằm ngổn ngang trên quầy trong lúc chờ anh chọn sách. Phía dưới quầy, Grace tìm được một chiếc ly cũ nằm trong cái tủ, rồi cô gom hết đống bút chì trong tủ ra, cái nào cái nấy đều đã mòn vẹt. Tiếp theo, cô xử lý mớ giấy rác lặt vặt, sau khi đã kiểm tra kĩ lưỡng để chắc chắn không nhầm lẫn với hóa đơn vì hai cái này thường na ná như nhau.
Khi Grace nhìn lên, anh chàng đó đã đứng trước quầy thanh toán được dọn dẹp gọn gàng phần nào. Anh mỉm cười và đáp lại cái nhìn của cô bằng đôi mắt màu xanh lục quyến rũ nhất trần đời. Cằm của anh hơi chẽ đôi, khiến cho phần quai hàm hoàn hảo càng thêm sắc nét và trông anh hấp dẫn hệt như một diễn viên điện ảnh.
Grace cố vắt óc nghĩ ra câu nào đó thật duyên dáng nhưng rốt cuộc cô lại hấp tấp hỏi một câu nhạt thếch, “Em có thể giúp gì cho anh không?”
Anh chàng đẩy chồng sách trên quầy về phía cô. Vì mải lạc lối trong đôi mắt đẹp của anh nên Grace đã không để ý đến chúng.
“Tôi muốn mua mấy quyển này. Phiền cô tính tiền giúp tôi.”
Anh tự nhiên đút tay vào túi và chọn một tư thế đứng thoải mái, rõ ràng anh đang có ý định bắt chuyện. “Tôi không biết là ông Evans có thuê nhân viên bán hàng đấy.”
Grace nhấn vào một nút bấm trên chiếc máy tính tiền National cũ rích, và âm thanh ì ạch của nó liền vang lên trong cửa hàng trống trải. “Hôm nay là ngày đầu tiên em làm ở đây.” Cô ngại ngùng liếc nhìn anh trong lúc với lấy cuốn sách tiếp theo. “Hồi nãy cũng may là có anh. Cảm ơn anh vì đã giúp đỡ.”
Anh nở nụ cười tươi rói khiến cho làn da mịn màng nhăn lại ở khóe mắt. “Ít ra tôi cũng làm được việc đó. Tôi là khách quen ở đây từ hồi nhỏ. Tôi thấy cô đang dọn dẹp lại chỗ này. Một nhiệm vụ khó nhằn đấy.”
“Em đang tìm kiếm thử thách ấy mà.” Grace đáp, thừa nhận mình đang nói rất chân thành. Nếu không còn việc nào khác để làm thì sắp xếp cửa hàng cho gọn gàng, ngăn nắp sẽ giúp cô giết thời gian trong sáu tháng tới.
“Nó thực sự là một thử thách đấy.” Người khách liếc nhìn không gian đằng sau mình và giả vờ làm bộ mặt nhăn nhó. “Nhất là khi cô lại yêu sách. Tiểu thuyết huyền bí cũng có thể là truyện kinh dị, sách kinh điển cũng có thể kể chuyện tình yêu, rồi đủ thể loại phức tạp đan xen khác nữa.”
“Không đâu ạ,” Grace thú thật. “Ý em là em không phải người yêu sách gì cả. Em không có nhiều thời gian đọc sách.”
Anh hơi nhổm người về trước, dường như cảm thấy khó tin trước lời thú nhận của Grace nhưng vẫn giữ nguyên nụ cười trên môi. “Vậy, nếu cô định bắt đầu đọc thì tôi nghĩ cô có thể thử cuốn Bá tước Monte Cristo. Một tác phẩm kinh điển mà tôi rất thích.” Anh nghiêng đầu. “Nó cũng là một câu chuyện tình yêu.”
“Em sẽ suy nghĩ ạ.” Grace nhấc quyển sách cuối cùng lên. “Cảm ơn anh đã giới thiệu.”
Anh lấy ví ra và trả tiền mua sách. “Tôi có thể mạn phép được biết tên cô không?”
“Grace Bennett ạ.” Cô đáp.
“Cô Bennett.” Anh lịch sự gật đầu. “Tôi là George Anderson. Tôi rất háo hức muốn biết cô sẽ làm gì cho hiệu sách này.”
Grace im lặng gật đầu. Trước khi George rời đi, anh còn lùi lại để gửi đến cô một nụ cười “chết người”.
Trời đất ạ!
Grace đặt hai tay lên ngực như muốn làm chậm lại nhịp đập dồn dập của trái tim. Ngay lúc đó chuông cửa lại vang lên và ông Evans bước vào, bầu không khí trong cửa hàng bỗng trở nên ngột ngạt vì vẻ cáu kỉnh của ông.
Ông nhìn lướt qua mặt quầy thu ngân gọn gàng và cặp lông mày rậm rạp cau lại đầy kinh hãi, “Cái quái gì vừa xảy ra vậy? Chúng ta bị cướp à?”
“Cháu vừa dọn dẹp ạ.” Grace đáp.
Ông Evans quắc mắt và trừng trừng nhìn quanh hiệu sách, “Bởi vậy nên ở kia vẫn bụi bặm đấy nhỉ!” Ông quạt quạt tờ báo gấp lại trước mặt mình như thể bản thân không khí đã gây ra một sự xúc phạm ghê gớm.
Grace bồn chồn căng thẳng, chờ đợi những lời đay nghiến trút xuống đầu giống như ngày trước ông chú vẫn thường trách mắng cô. Suốt bao năm làm việc cho ông ấy, từ lúc Grace học xong năm cuối ở trường Drayton cho đến khi chuyển đến London, ông luôn nhiệt tình vạch ra một cách vô cùng chi tiết, tất cả những thiếu sót dẫn đến thất bại của cô. Tinh thần làm việc của Grace quá kém cỏi so với kì vọng của ông. Cô phí phạm sản phẩm còn sử dụng được. Lẽ ra hàng hóa có thể bán chạy hơn nếu như Grace thông minh, nhạy bén, chú tâm hơn. Và bớt ngốc nghếch hơn.
Cô siết chặt bàn tay thành nắm đấm, gồng mình chuẩn bị hứng chịu trận chỉ trích về khiếm khuyết của bản thân.
“Tôi nghĩ là nó cần được kì cọ kĩ lưỡng hơn.” Ông Evans làu bàu ra chiều bất đắc dĩ.
Grace nới lỏng nắm tay, “Dạ, ý của bác là?”
“Chỗ này hơi bụi bặm một chút mà tôi thì không có thời gian rề rà với nó.” Ông đập tờ báo lên mặt bàn và cầm lấy xấp biên lai, mặc kệ những tờ bị rơi vung vãi. “Cảm ơn vì cô không xem qua hóa đơn của tôi.”
“Cháu không bao giờ dám tự tiện ạ.” Grace cúi xuống nhặt mấy tờ biên lai rơi ra rồi đưa trả cho ông chủ tiệm, cẩn thận không nhìn vào chúng.
Ông Evans nhét chúng vào xấp giấy tờ rồi biến mất vào căn phòng nhỏ phía sau tiệm. Ông không trở ra suốt một lúc lâu và nếu có xuất hiện thì chỉ loay hoay ở đằng sau, lựa tới lựa lui mấy cuốn sách, trông giống như một khách hàng hơn là chủ tiệm.
Grace dành thời gian còn lại của buổi chiều để quét bụi xong xuôi và lau sạch quầy thu ngân. Bên dưới lớp bụi lưu niên, hiệu sách thật ra khá trang nhã với những hoa văn uốn lượn mềm mại được chạm khắc ở các góc và lớp sơn màu hạt dẻ đáng yêu. Thật may vì không có thêm vị khách quen nào nhờ cô tìm sách giúp nên việc duy nhất yêu cầu Grace giao tiếp với khách hàng là thu tiền của họ.
Cuối cùng, khi đến giờ tan ca, câu chào của cô với ông Evans đã được ông làu bàu đáp lại và thêm chút ậm ừ.
Mặc dù cả người nhem nhuốc bụi bẩn, mệt lả và cảm thấy áy náy vì bản thân làm việc chưa đủ siêng năng, nhưng Grace vẫn háo hức ba chân bốn cẳng chạy về nhà để hỏi thăm tình hình phỏng vấn của Viv.
Vừa về tới nhà, Grace liền mở tung cửa ra và gọi, “Viv ơi, cậu đã…?”
Từ chiếc radio được vặn âm lượng tối đa, một giọng nói vang lên khắp phòng khách như thông báo cho thính giả biết một hạm đội đã được huy động.
Một đội gì cơ?
Bác Weatherford và Viv đang ngồi trước radio, chăm chú lắng nghe. Viv lơ đễnh nhìn bạn mình và vẫy cô lại gần.
Grace vội vã lại ngồi cạnh Viv trên chiếc sô pha bọc vải nỉ màu xanh lam. “Chuyện gì vậy?” Cô thì thào. “Sao lại có phát thanh giờ này? Chưa đến 6 giờ mà.”
Viv lo lắng liếc nhìn bạn. “Tin mới đến chiều nay. Người ta kêu gọi các lực lượng dự phòng. Trước đó thì họ bảo chúng ta đừng vội kết luận là chiến tranh sắp nổ ra. Nhưng làm sao không nghĩ vậy khi các hạm đội đã được huy động và toàn bộ sĩ quan hải quân dự bị cũng như Lực lượng Không quân Hoàng gia còn lại phải đi nhận nhiệm vụ chứ?”
Grace ngả lưng vào chiếc sô pha, cảm thấy choáng váng với thông tin vừa nhận. Sao cô lại không nghe được tin tức gì hết? Mà cũng phải thôi, cả ngày nay cô tất bật với việc dọn dẹp, đầu óc chỉ mải mê vào công việc và một vài khách hàng lâu lâu lai vãng.
Lời dự đoán dội lên trong không gian đang chạy rần rần khắp người Grace. Chính là nó.
Chiến tranh.
Bác Weatherford không nói một lời nào, khuôn mặt hiện lên vẻ nhẫn nhục. Rồi bác bất ngờ đứng dậy, tắt radio. “Hôm nay như vậy là đủ rồi.” Bác hít một hơi thật sâu và quay sang Grace. “Ngày đầu đi làm ổn chứ hả cháu?”
“Dạ ổn, cháu cảm ơn bác.” Grace nhỏ nhẹ trả lời.
“Tốt rồi.” Bác uể oải gật đầu. “Cháu ngồi chơi, bây giờ bác phải đi chuẩn bị bánh kidney cho bữa tối, nếu không chúng ta sẽ không có gì ăn đâu.”
Không đợi ai trả lời, bà Weatherford vội vàng ra khỏi phòng, lưng bà ưỡn thẳng lên một cách bất thường.
Viv hạ giọng xuống, “Họ sẽ sơ tán lũ trẻ vào ngày mai. Đưa tất cả đi khỏi đất nước này, hoặc ít ra cũng đưa những đứa mà bố mẹ đã đăng kí cho chúng đi.”
Tin tức đó như thụi vào ngực Grace. Viv nói đúng. Làm sao họ có thể giả vờ như chiến tranh sẽ không xảy ra khi những biện pháp chuẩn bị này đang được triển khai?
Grace nghĩ đến bà nội trợ trong tiệm sách sáng nay. Bà vẫn vui vẻ chọn sách mà không mảy may biết rằng ngày mai con mình sẽ bị đưa đi. Tất cả những người mẹ ở London sẽ lạc mất con trong cuộc di tản ấy. Và nhiều người trong số họ còn phải chấp nhận tiễn chồng ra trận.
Nếu không đủ số đàn ông tình nguyện thì phụ nữ cũng có thể bị gọi đi lính. Dạ dày Grace hơi thắt lại.
Colin có thể bị gọi nhập ngũ.
Bảo sao mà bác Weatherford không muốn ngồi nghe thêm gì nữa.
Viv chăm chú nhìn xuống tấm thảm, trầm ngâm. Nỗi sợ hãi siết chặt lồng ngực Grace, nhưng cô cố nặn ra một câu gì đó thật hài hước để cả hai không bị chết chìm trong nỗi tuyệt vọng, “Bọn trẻ sẽ ổn cả thôi, miễn là chúng không phải sống chung với ông chú mình và cả nhà của ông ấy.”
Viv nở nụ cười buồn bã và hùa theo bạn, “Dù gì thì ông ấy cũng không đời nào chịu cho chúng ở ké đâu.”
Lúc này Grace mới nhận ra Viv vẫn đang mặc bộ vest màu xanh hải quân thanh lịch. “Hôm nay cậu được phỏng vấn chưa?”
Viv gật đầu, “Tớ được nhận vào làm nhân viên bán hàng. Mai bắt đầu, cũng may là công việc đó vẫn còn trụ được đến bây giờ.”
“Tớ tin nó sẽ duy trì được khá lâu.” Grace siết chặt tay bạn. “Người ta luôn cần một đôi vớ mới hoặc một cái áo khoác mới để giúp họ thấy tự tin hơn.”
“Hoặc một con voi hả?” Viv nghiêng đầu.
“Biết đâu là con gấu túi?” Grace nhún vai.
Viv toét miệng cười tinh quái. “Thậm chí có thể là báo đốm?”
“Đừng quên cả dây dắt nó.” Grace cảnh báo.
Viv bỗng nghiêm mặt lại, “Chúng ta sẽ vượt qua được hết, Grace Bennett ạ. Rồi cậu sẽ thấy.”
Viv siết chặt tay Grace, như một lời nhắc nhở về tình bạn thắm thiết mà họ đã vun đắp từ thời ấu thơ. Sự gắn bó keo sơn đó đã giúp hai cô gái vượt qua nỗi đau khi Grace mất mẹ, chịu đựng cuộc sống tủi nhục ở Drayton, hay chấp nhận sự độc đoán của bố mẹ Viv và thậm chí phớt lờ những trò trêu chọc dai dẳng của cái gã ngớ ngẩn Geoffrey Simmons.
Họ có thể sát cánh bên nhau để đương đầu với mọi thách thức chực chờ ập đến - bất kể là ông chủ cửa hàng cáu kỉnh hay một cuộc chiến đang cận kề.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

CHƯƠNG 4​


Hình ảnh lũ trẻ xếp thành hàng dài vô tận thật sự đã tạo nên một cảnh tượng đau lòng.
Thật ra, Grace không có nhiều thì giờ để nghĩ đến chuyện sơ tán. Họ có quá nhiều việc phải chuẩn bị vào trước đêm chính phủ ra lệnh tắt điện toàn thành phố. Colin cố gắng hoàn thiện hầm trú ẩn Anderson trong khu vườn đã nát bươm của mẹ cậu.
Ngoài miệng, bác Weatherford vẫn cáu kỉnh bảo rằng không để tâm nhưng thỉnh thoảng, bác vẫn nhắc về những luống hoa bị xới tả tơi của mình.
Tuy tất bật, quay cuồng nhưng Grace phải xấu hổ thừa nhận rằng mình chẳng còn đầu óc để nghĩ đến bọn trẻ. Chỉ đến khi rời khỏi phố Britton để đến hiệu sách Đồi Primrose và bắt gặp những quả bóng màu bạc kì lạ, to bằng cả ngôi nhà đang bay lơ lửng trên bầu trời thành phố, giống như những con cá hơi khổng rồ được bơm căng phồng, thì Grace mới sực nhớ về cuộc sơ tán. Những thứ bất thường này chắc hẳn dùng để phục vụ cho mục đích chiến tranh nào đó.
Khi rẽ xuống đường Albion Place, vì mải lo nhìn quả bóng nên Grace suýt đâm sầm vào một người đàn ông mặc áo khoác len màu xanh, đó là đồng phục của Lực lượng Không quân Hoàng gia, và một bên vai anh khoác đầy đủ đồ nghề.
Grace lúng túng, “Thành thật xin lỗi, tôi không…”
Nhưng tất cả những lời định nói đều đông cứng lại khi cô bất chợt nhìn thấy những đứa trẻ đang xếp thành hàng dài dọc theo con đường này, hướng về phía nhà ga Farringdon.
Người sĩ quan Không quân đáp lại gì đó nhưng cô không nghe rõ vì anh đã hối hả sải bước đi tiếp. Grace không còn chú ý đến điều gì khác ngoài dòng trẻ em vô tận trước mắt. Chúng đeo bên hông chiếc hộp mặt nạ phòng độc, thông tin của mỗi em được ghim vào áo khoác và túi hành lý. Những chiếc túi nhỏ ấy cho biết các em có thể phải đi xa trong một thời gian rất dài. Ai mà biết được khi nào bọn trẻ mới được trở về đây?
Một số đứa trẻ trông rất phấn khích, mặt mày rạng rỡ như đang háo hức chờ mong một chuyến phiêu lưu. Những đứa khác thì nước mắt lưng tròng, sợ hãi níu chặt lấy mẹ. Những người mẹ đi cùng con cái mặt mày đều nhợt nhạt và se lại khi phải cắn răng thực hiện nhiệm vụ đau lòng này.
Không người mẹ nào có thể chịu được nỗi đau khi buộc phải chọn lựa như họ: gửi con mình đến sống với một người xa lạ ở nơi đất khách quê người, hoặc chấp nhận để chúng ở lại một thành phố trùng trùng hiểm nguy.
Tuy phải chịu nỗi đau chia cắt và không ít rủi ro đáng sợ trong việc nỗ lực sơ tán quá nhiều trẻ em, nhưng dẫu sao phương án này vẫn tốt hơn nhiều so với việc giữ bọn trẻ ở lại một nơi liên tục nằm trong tầm ngắm bị đánh bom.
Grace chưa có con nhưng cô luôn ấp ủ hi vọng được làm mẹ vào một ngày nào đó. Vậy nên tất cả gương mặt cam chịu đau đớn ấy giúp cô thấm thía sâu sắc về tấm lòng hi sinh cao cả của những người mẹ luôn cố gắng làm mọi cách để bảo vệ con mình được an toàn.
Grace tiếp tục bước đi trong cảm giác choáng váng. Trước mắt cô là một đám đông những đứa trẻ đang chen chúc ngay lối vào nhà ga Farringdon, rồi một hàng trẻ em khác đi ngược trở ra. Dễ có đến hàng trăm em, nếu không muốn nói là hàng nghìn.
Đêm nay, rất nhiều bà mẹ sẽ phải xa con.
Nghĩ đến những người phụ nữ ấy và những đứa con bé bỏng mà họ buộc phải gửi cho người khác chăm nom, lồng ngực Grace nặng trịch như đổ chì. Cô rảo bước nhanh hơn vì không thể chịu nổi cảnh tượng này thêm một giây nào nữa.
Grace gần như quăng mình vào hiệu sách và nhận lấy ánh mắt sắc lẹm của ông Evans khi thấy cô đến. “Cuộc chiến bắt đầu chưa?” Ông lạnh lùng hỏi và lại chúi đầu vào quyển sách trước mặt.
“Có lẽ sắp rồi ạ.” Grace nhìn ra đường, thấy một người mẹ tất tả dẫn hai đứa con nhỏ đi về hướng ga tàu điện ngầm. “Bọn trẻ đang được gửi đi hết.”
Ông ậm ừ tỏ vẻ đồng tình chiếu lệ.
Grace nhìn lên trời, tìm kiếm những quả bóng lớn màu bạc. “Những khinh khí cầu đó…”
“Hàng rào bóng phòng không.”
Cô quay lại phía ông, “Nó là cái quái gì vậy ạ?”
Ông Evans nóng nảy thở dài và đặt cuốn sách xuống, “Chúng được gắn với những dây cáp thép để ngăn máy bay sà xuống thấp. Người ta để chúng ở đó để bảo vệ chúng ta.”
“Vậy là kẻ thù sẽ không thể ném bom chúng ta phải không ạ?” Grace hỏi với giọng tràn trề hi vọng.
Ông Evans khụt khịt mũi, “Ôi dào, vẫn ném thẳng tay. Những quả bóng đó chỉ cản được bom trong Chiến tranh Thế giới thứ Nhất vì lúc đó máy bay chưa bay cao được, còn bây giờ chí ít phải cỡ tầm bắn của súng phòng không thì may ra mới hạ được chúng.”
Cảm giác ớn lạnh chạy khắp cơ thể Grace. Cô rất muốn hỏi thêm nhưng ông Evans đã cầm sách lên đọc tiếp. Cửa hàng hôm đó khá vắng khách. Thật ra điều này cũng dễ hiểu, khi đám trẻ bị đưa đi sơ tán, những người đàn ông lên đường chinh chiến thì tất cả những người mẹ, người vợ đều bị bỏ lại hậu phương với nỗi buồn trĩu nặng.
Ban đầu, Grace định cố gắng sắp xếp lại đống sách nhưng cô không tài nào xua được hình ảnh những đứa trẻ đó ra khỏi đầu. Cảnh hàng nghìn trẻ em xếp hàng trước cửa nhà ga và hàng nghìn người mẹ cố tỏ ra can đảm chấp nhận lìa xa con cái để bảo vệ tính mạng của chúng cứ ám ảnh bám lấy cô.
Grace nhớ hồi còn nhỏ, có một lần mẹ cô lên thành phố thăm bác Weatherford. Tuy được ở tạm nhà của Viv nhưng cô vẫn nhớ mẹ da diết, trong khi mẹ cô chỉ đi vắng có một tuần thôi.
Những đứa trẻ thật đáng thương.
Cuối cùng, Grace cố tập trung vào việc dán chằng dán chịt mấy lớp băng keo lên cửa sổ. Đầu tiên phải bóc băng keo ra, sau đó chọn chỗ dán dọc theo tấm kính. Công việc này không đòi hỏi phải suy nghĩ, rất thích hợp với Grace lúc này vì đầu óc cô đã đặc nghẹt rồi.
Khi Grace chỉ còn dán hai miếng nữa là xong và đang băn khoăn liệu có đủ thời gian dán thêm nhiều băng keo cho cẩn thận hơn không thì ông Evans đi đến chỗ cô. “Về nhà đi, cô Bennett. Hôm nay làm đến đây thôi. Tôi cũng không có gì để phải bít bùng cửa nẻo lúc trời tối.” Ông khoanh tay trước ngực, rít một hơi qua lỗ mũi trong lúc nhìn quanh cửa hiệu. “Chiến tranh sắp tới và sách vở không phải thứ người ta cần mua.”
Grace gom mớ băng keo bỏ đi rồi đứng dậy, “Nhưng chắc chắn họ cần giải trí chứ ạ.”
Ông gật đầu về phía khung cửa sổ, “Mai tôi sẽ mang mấy tờ báo đến.”
Grace giấu vẻ mặt nhăn nhó khi nghĩ đến những ô cửa sổ lớn bị dán kín mít bằng hàng lớp giấy báo, “Cháu có thể làm rèm cửa. Bác Weatherford có sẵn ít vải. Chúng cháu còn để dự phòng.”
Quả thật, bác Weatherford đã rất sung sướng vì mua được tận mấy thước vải satanh màu đen dày với giá rất hời, chỉ hai shilling một thước.
Grace không hiểu sao mình lại ngỏ lời giúp đỡ ông Evans, nhất là khi ông đang ngầm báo trước rằng sắp tới sẽ chẳng bán buôn được gì nên cũng không cần thuê nhân viên nữa. Nhưng dẫu sao họ vẫn còn vải dự trữ và tất cả những việc Grace làm dược để xin một lá thư giới thiệu đều sẽ có ích cho cô sau này.
Grace nhanh chóng thu dọn túi xách, đội mũ và đeo hộp mặt nạ phòng độc bên hông, háo hức vì được nghỉ sớm.
Ông Evans đợi cô ngay cửa và lật tấm bảng thông báo từ mặt “Mở cửa” sang “Đóng cửa”. Ông chào, “Tạm biệt, cô Bennett.”
Sau khi Grace đi, ông đóng cửa tiệm và khóa lại. Đường phố lúc này đã vắng bóng trẻ con, hệt như chưa từng xảy ra cuộc di dời trật tự ban sáng. Grace cố xua tan kí ức đau buồn ám ảnh đó và tập trung nghĩ cách thu hút thật nhiều khách hàng cho hiệu sách Đồi Primrose.
Cô từng giúp cửa hàng của chú mình ăn nên làm ra. Chỉ cần treo vài tấm biển lên cửa sổ và bày bán những món hàng một cách khéo léo là đã giúp cho mọi thứ thay da đổi thịt. Chẳng bao lâu sau, khách khứa đã ra vào tấp nập.
Tất nhiên, hiệu sách Đồi Primrose có ít khách quen hơn, chưa kể không nhiều người có thể giữ bình tĩnh trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng này. Nhưng sách cũng có ích lợi của nó. Người ta luôn cần thứ gì đó để gây phân tâm, sao nhãng, nhất là khi chiến tranh đang cận kề.
Nếu Grace từng giúp được một cửa hàng làm ăn phát đạt thì lạy Chúa phù hộ, cô có thể gặt hái thành công một lần nữa. Khi ấy, Grace sẽ hết sức hân hoan tin rằng cô sẽ nhận được một lá thư giới thiệu đáng giá cho những nỗ lực hết sức của mình.
Về đến nhà, Grace gặp bác Weatherford ngay ngoài cửa, bác khệ nệ tay xách nách mang đủ thứ giỏ, túi hết sức linh kỉnh.
Bác dùng nửa ngón tay để ngoắc Grace lại, có lẽ đó là bộ phận duy nhất trên người bác còn rảnh rang, “Cháu về đúng lúc quá. Lại đây con gái.”
Cô sốt sắng chạy đến và kéo vài chiếc túi ra khỏi cánh tay bác. Chúng nặng ngoài sức tưởng tượng, và trì mạnh tay Grace xuống khiến cô suýt đánh rơi kiện hàng. “Bác để cái gì bên trong vậy? Bao cát ạ?”
Bác Weatherford nhìn quanh với vẻ bí hiểm rồi cúi sát xuống, thầm thì, “Là trà.” Bác đẩy một bên vai lên để tiếp tục nâng một bao to khác. “Với đường nữa. Nào, nhanh nhanh khiêng vào trong đi.”
Bà không nói gì thêm cho đến khi họ khuân hết đồ đạc vào nhà và cất chúng ở một nơi an toàn trong bếp. Những tấm rèm tối đen nặng nề treo trên cửa sổ, tương phản với nét tươi vui, trong trẻo của gian phòng như một lời nhắc nhở về lệnh giới nghiêm tắt điện kể từ tối nay. Tháng trước, thành phố này đã tiến hành thử nghiệm vài lần nhưng lần này thật sự phải thực hiện nghiêm túc.
Bác Weatherford cẩn thận đặt những bao hàng to tướng trên vai xuống và thở phào nhẹ nhõm, “Chúa ơi, nặng khiếp.”
“Tất cả đều là trà và đường ạ?” Grace săm soi từng bao, chúng được nhồi căng phồng đến tận đường may nối hai mép vải.
“Một số bao còn có bột nữa.” Bác lúc lắc ngón tay. “Đừng nhìn bác như thế, Grace Bennett ạ. Chiến tranh sắp nổ ra và cháu sẽ thấy, người ta sẽ phải thắt lưng buộc bụng thôi. Bác phải tranh thủ lấy được những thứ này trước khi những người ưa tích trữ vơ vét hết.”
Grace chăm chú xem xét đống đồ khô, “Những người tích trữ là sao ạ?”
Bác Weatherford bắt tay vào sắp xếp. Bác mở gói hàng ra. “Bà Nesbitt ít nhất cũng đã trữ nhiều gấp đôi chỗ này, trong khi bả sống có một mình.”
Bác cúi xuống quầy bếp dọn dẹp lại đồ đạc trong tủ, chừa chỗ cho những món đồ mới mua. “Chắc cháu biết bà ấy, chủ cửa hàng Nesbitt’s Fine Reads, một trong các hiệu sách nổi tiếng nhất trên phố Paternoster Row.” Bác liếc sang Grace để chờ cô xác nhận.
Nhưng Grace lắc đầu.
Bác Weatherford nhíu mày. “Chắc ông Evans đã nhắc đến phố Paternoster Row rồi chứ hả?”
“Bác ấy chưa nói gì ạ.” Grace xếp mấy túi đường vào chỗ trống trong chiếc tủ bát đĩa đang mở.
Bác Weatherford dời một số hộp sang bên để lấy chỗ sắp những hộp trà, “Ừ, đó là con đường mà đa số những người yêu sách lắm tiền hay lui tới. Bác đã nói với ông Evans hàng chục lần là chuyển sang đó bán đi.” Bà lùi lại, ngắm nghía chiếc tủ đầy ứ được xếp gọn gàng rồi gật gù hài lòng. “Lúc nào rảnh cháu cũng nên tới đó để xem một hiệu sách thứ thiệt trông như thế nào. Bác có thể chỉ đường cho cháu.”
Một hiệu sách thứ thiệt. Đó đúng là nơi Grace cần đến để học hỏi cách “lột xác” cho hiệu sách Đồi Primrose. “Tuyệt quá ạ. Sẵn tiện, cháu muốn xin phép bác cho cháu lấy ít vải satanh đen để làm rèm cho cửa tiệm được không ạ?”
Bác Weatherford nhìn cô và nở nụ cười đầy tự hào, hệt như nụ cười ngày trước mẹ thường dành cho cô vậy. Nụ cười ấy khẽ chạm vào vết thương đã chôn sâu trong lòng Grace và xoa dịu nó một cách dịu dàng nhất.
“Được chứ con gái.” Bác vui vẻ đáp. “Nhớ là phải treo ít nhất ba lớp để ánh đèn không bị lọt ra ngoài. Bác tin chắc ông già ấy sẽ cảm động trước sự nỗ lực của cháu lắm đấy.” Bác mở vòi để lấy đầy nước vào ấm. “Mặc dù ngoài miệng ổng không bao giờ chịu nói ra.”
Colin đi xuống bếp. Chú mèo Tabby lẽo đẽo theo sát gót anh, miệng kêu “meo, meo” không ngớt. “Hullo, chị Grace.” Lần nào bước vào căn phòng có Grace hoặc Viv ở đó thì y như rằng, đôi má anh chàng sẽ ửng hồng lên. “Sáng nay tụi em mới nhận thêm một con báo con. Cậu nhóc nói chung ổn lắm, chỉ có nhúm lông tơ và hơi dữ dằn chút thôi.” Mấy ngón tay Colin khum lại thành hình quả bóng để mô tả kích thước của con vật.
“Chị nghĩ cậu nhóc chắc phải đáng yêu lắm.”
“Lần sau đến Harrods, chị nhất định phải ghé qua để gặp nó nhé.” Anh con trai nhìn sang mẹ. “Mẹ đưa giúp con hộp cá ngừ được không ạ?”
Bà Weatherford bặm môi lại nhưng vẫn đưa cho anh hộp cá, “Mẹ nghĩ Tabby đã đủ lớn, chúng ta nên tìm cho nó một ngôi nhà khác. Không bao lâu nữa chính chúng ta còn phải tự kiếm ăn chứ đừng nói chi đến con mèo.”
Colin nhận lấy hộp thức ăn với nụ cười rầu rĩ.
“Hai đứa có thể nghĩ mẹ điên nhưng mẹ nói cho bay hay, sớm muộn gì mọi thứ cũng hiếm hoi chật vật hết.” Bà gấp những chiếc túi đã trống không và bắc ấm nước đầy lên bếp, trong lúc đó Colin dùng đồ khui để mở hộp cá ngừ.
Mùi cá tanh xộc lên khắp gian bếp nhỏ khiến Tabby lắm điều kêu ca khó chịu. Bà Weatherford quạt quạt tay trong không khí, miệng lên tiếng nhắc nhở, “Nhớ cẩn thận, Grace à. Bật đài lên đi rồi bác mang trà ra.”
Không đợi để nhắc đến lần thứ hai, Grace nhanh chân rời khỏi căn phòng nồng nặc đó. Nhưng khi cô bật radio lên, tin tức chào đón cô còn tệ hơn cả mùi tanh của cá.
Giọng nói khỏe khoắn của phát thanh viên Lionel Marson phát ra từ loa, “Đức đã xâm lược Ba Lan và đánh bom nhiều thị trấn…”
Grace đứng sững như trời trồng, tay cô trượt qua cái núm kim loại. Phát thanh viên tiếp tục tường thuật chi tiết sự kiện Ba Lan bị tấn công vào sáng hôm đó, các thành phố lớn của họ đã bị giội bom ra sao và Pháp huy động lực lượng như thế nào. Pháp và Anh vừa mới kí Hiệp định Tương trợ lẫn nhau với Ba Lan vài ngày trước nên hai nước này chắc chắn phải ra tay can thiệp.
Suốt thời gian còn lại từ chiều đến tối, cả nhà tập trung hết trong phòng khách, ngóng chờ từng bản tin để lượm lặt chút thông tin. Phần lớn đều là những điều họ biết rồi nhưng ai nấy vẫn chăm chú nghe, hi vọng biết thêm chút gì hay chút nấy.
Tuy trong lòng nóng như lửa đốt nhưng Grace vẫn làm rèm cửa cho hiệu sách và Viv hăng hái phụ một tay. Ngày đầu tiên Viv làm việc ở cửa hàng Harrods rất suôn sẻ, thuận lợi. Với tinh thần cảnh giác cao độ, sau khi ăn xong món bánh thịt lợn của bác Weatherford, họ chuẩn bị sẵn sàng cho buổi tối tắt đèn trước khi mặt trời lặn hẳn.
Hitler có thể tấn công nước Anh giống như ông ta đã tàn sát Ba Lan. Bất kì tia sáng nào hắt ra từ cửa sổ cũng có thế trở thành manh mối để máy bay của hắn định vị diêm ném bom.
Cảm giác đề phòng lạnh lẽo lan khắp sống lưng Grace. Trước đây, cô sợ hãi việc tắt điện và những quy định khắt khe, nhưng bây giờ Grace thầm biết ơn vì tầm nhìn xa trông rộng của chính phủ đã bảo vệ họ không biến thành mục tiêu giội bom lồ lộ giữa đêm đen.
Grace cũng rất cảm kích với hầm trú ẩn Anderson trong khu vườn sau nhà. Khi biết mình đang nhận được sự bảo vệ ngay sát bên, cô cảm thấy an toàn và yên tâm hơn hẳn.
Bóng tối đặc quánh của đêm tắt điện đầu tiên khiến Grace khó lòng yên giấc, nhất là khi tâm trí cô cứ ong ong những lời bàn tán về cuộc chiến và trăn trở về lũ trẻ bị sơ tán hồi sáng nay.
Những tấm rèm dày cộm rõ ràng đã làm rất tốt nhiệm vụ chắn sáng. Cuối cùng, Grace cũng chìm vào giấc ngủ nhưng sáng hôm sau, cô thức dậy muộn hơn gần nửa tiếng so với kế hoạch. Mặc dù đã cố gắng chuẩn bị khẩn trương nhưng cô vẫn tới cửa hàng muộn vài phút.
Thấy cô đến, ông Evans nhìn lên với vẻ mặt nghiêm nghị. Grace nắm chặt túi xách, chờ đợi những lời quở trách trút xuống đầu. Trong túi là tấm rèm chắn sáng dày tận ba lớp.
“Tôi cứ nghĩ cô đã bỏ quách cái nơi tăm tối không có tương lai này rồi.” Khóe miệng ông chủ tiệm nhếch lên thành nụ cười rồi ông từ từ quay người đi ra phía sau. “Nếu vậy tôi cũng không trách cô đâu.”
“Cháu xin lỗi vì đến trễ ạ.” Cô gọi với theo và chầm chậm thở ra. “Cháu có mang theo rèm đây ạ.”
Ông Evans ngoái lại nhìn chiếc túi xách của Grace và gật đầu một cái.
Đối với Grace, cử chỉ đó không khác gì lời cảm ơn mà cô hằng mong đợi. Trước tiên, cô bắt tay vào sắp xếp cửa hàng ngăn nắp, dọn dẹp đống hóa đơn và những thứ linh tinh mà ông Evans bày bừa trên quầy. Mặc dù còn mù mờ về sách vở mà tiệm đang bán nhưng Grace cũng chọn vài cuốn có bìa bắt mắt, xếp chúng thành một đường cong để trưng bày ở ô cửa sổ lớn.
Chí ít, đây cũng là sự khởi đầu.
Grace vừa kê một chiếc thang nhỏ để chuẩn bị treo những tấm rèm nặng trịch lên thì chuông cửa vang tiếng báo hiệu có khách đến. Một ông già bước vào, nhìn cô bằng ánh mắt sắc lẹm rồi cất giọng hỏi, “Cô là ai?”
“Cháu tên Bennett.” Grace trèo xuống thang. “Nhân viên mới của hiệu sách ạ.”
Vừa nhìn qua, cô không thể không liên tưởng vị khách này giống như chú chim đang gồng mình chống chọi cơn gió dữ trong một ngày lạnh lẽo. Mái đầu bạc phơ rụt vào đôi vai rúm ró và đôi chân khẳng khiu của ông thò ra ngoài chiếc áo khoác sẫm màu to sụ. Ông liếc nhìn tấm rèm đang chờ được treo lên rồi tặc lưỡi, “Không cần rèm riếc chi cho mất công. Xài hắc ín được rồi.”
Grace rùng mình khi nghĩ đến ý tưởng bôi đầy hắc ín lên cửa kính, “Bác cần cháu giúp gì không ạ?”
“Evans đâu?”
“Pritchard đó hả?” Ông Evans xuất hiện từ một rừng kệ sách, dĩ nhiên không quên ôm theo một cuốn sách nào đó ngay trước chiếc bụng phệ. Ông đóng mạnh cuốn sách lại và đẩy kính cao lên sống mũi.
“Ông mới thuê nhân viên đấy à?” Chiếc mũi nhọn hoắt càng khiến ông khách thêm giống chú chim hơn. “Hóa ra ông đang làm mấy chuyện này đấy hả?”
“Ông sẽ không biết mình cần gì khi chiến tranh ập đến đâu.” Ông Evans hóm hỉnh đáp. “Lại muốn đọ sức giữa tiệm sách của hai chúng ta à, Pritchard?”
Người khách tặc lưỡi, “Mắc gì phải lo! Chính phủ còn chưa tuyên bố chiến tranh mà. Nếu vụ um sùm ở Ba Lan buộc Anh phải nhảy vào thì ta sẽ đánh cho Hitler và đám quân ‘phát tởm’ của hắn một trận tan xác để chúng cuốn xéo về Đức. Để rồi ông xem, mọi chuyện sẽ chấm hết vào Giáng sinh thôi.”
“Tôi vẫn sẽ treo rèm lên.” Ông Evans gật đầu về phía Grace, giải thoát cô khỏi cuộc trò chuyện này. “Dù sao đi nữa, chí ít nó cũng ngăn bọn giám sát phòng không hiếu chiến gõ cửa nhà tôi.”
Ôm tấm vải trơn tuột trong tay, Grace lại leo lên thang để treo rèm trong lúc hai người đàn ông thảo luận về chuyện bán sách và chính trị.
“Cô làm thế nào để đuổi sạch lũ chuột ra khỏi tiệm vậy?” Ông Pritchard bất thần hỏi khi Grace làm xong việc. “Tôi luôn điên đầu với lũ chuột bọ đó.”
“Tiệm tôi chưa bao giờ có chuột.” Giọng ông Evans trở nên lơ đễnh, tỏ rõ ý muốn chấm dứt cuộc trò chuyện nhưng ông Pritchard lại không nhận ra dấu hiệu tinh tế này.
Người khách rụt đầu sâu hơn vào vai và càu nhàu, “Biết đâu là do ông không ở gần sông Thames thôi. Đâu giống như tôi ở phố Paternoster Row.”
“Bác cần một con mèo ạ.” Grace nói khi đã xuống khỏi thang và ngắm nghía thành quả của mình. “Con trai bác Weatherford có nuôi một con mèo và nó đang cần tìm ngôi nhà mới.”
Ông Pritchard chế giễu, “Cái bà ưa chõ mũi vào chuyện người khác ấy à?”
Grace vờ loay hoay gấp thang lại để giấu đi cái cau mày trước đánh giá khó nghe của ông khách về người phụ nữ đã hết lòng cưu mang cô. “Muốn bắt chuột thì cần một con mèo. Cháu dám chắc sáng nay bác Weatherford không bận rộn gì nên sẽ sẵn lòng nghe điện thoại của ông.”
Ít ra như vậy cũng có thể tìm được ngôi nhà mới cho Tabby.
Ông Pritchard từ tốn gật gù, “Tôi biết rồi. Ờ, tôi cũng nghĩ có lẽ mình cần một con mèo. Chúc một ngày tốt lành nhé, Evans.”
Ông Evans lẩm bẩm chào tạm biệt và ông Pritchard rời khỏi hiệu sách. Sau khi đã treo rèm và trưng bày những cuốn sách lên cửa sổ thật đẹp mắt, Grace chuyển sang nhiệm vụ tiếp theo: tìm chỗ sắp xếp lại những chồng sách ngổn ngang trên sàn nhà.
Cô không ngờ nhiệm vụ này lại thách thức đến vậy. Mọi hệ thống kệ sách mà ông Evans từng đặt ra trước đây đều đã xáo trộn lung tung. Bây giờ Grace buộc phải tự tạo ra một hệ thống mới. Trước sau gì cũng phải làm, nhưng bây giờ cô chỉ đang tìm chỗ sắp xếp những bộ sách bị bỏ đi.
Grace làm say sưa quên giờ giấc đến nỗi ông Evans phải lên tiếng nhắc mấy lần rằng cô đã ở lại quá giờ quy định. Mỗi lần bị nhắc, cô đều trả lời ông là sắp xong rồi, nhưng hễ lúc nào Grace nghĩ mình sắp xong thật thì cô lại phát hiện thêm nhiều chồng sách nữa.
Một tiếng sấm nhỏ làm Grace chú ý, ông Evans xuất hiện trước mặt cô, tay cầm theo chiếc ô, “Cô Bennett, về nhà đi. Tôi phải đóng cửa, trời cũng sắp mưa rồi.”
Cô ngước lên từ một dãy sách được ép sát rạt vào nhau đến mức không thể nhét thêm bất kì quyển nào, mặc dù Grace đã cất đi đến hơn hai chục cuốn. Những cuốn sách vẫn chưa được sắp xếp theo thứ tự nhưng ít ra cũng không còn nằm vạ vật trên sàn.
Cô nhìn về phía cửa sổ và thấy rèm đã được kéo ra. Rõ ràng đã đến giờ toàn thành phố tắt điện.
Thật sự đã muộn đến vậy ư?
“Mai cô nghỉ ở nhà đi.” Ông Evans nói. “Hôm nay cô làm nhiều lắm rồi.”
“Nhưng hôm qua…”
“Lẽ ra cô được về từ chiều nhưng bây giờ đã đêm rồi.” Ông dúi cái ô vào tay cô lần nữa. “Nếu bà Weatherford còn gọi đến tìm cô chắc bà ấy nhai nát đầu tôi mất.”
A! Bác Weatherford. Chắc chắn việc cô về muộn đã khiến bác đứng ngồi không yên. Grace nhận lấy cái ô rồi vội vàng thu dọn đồ đạc. Ông Evans theo cô ra đằng trước và mở cửa.
Bên kia cánh cửa là màn đêm đen kịt, thăm thẳm mịt mù như biển cả vô tận.
Grace chớp chớp mắt như muốn nhìn cho rõ nhưng vô ích, cô không thể chống lại bóng tối đặc quánh này. Cô không hề biết việc tắt hết đèn điện sẽ khiến người ta bất lực như vậy.
“Tôi nên đưa cô về nhà thì hơn.” Ông Evans như đang nói với chính mình chứ không phải với cô.
“Không cần đâu ạ!” Grace rướn cổ cao hơn một chút, giống như Viv hay làm mỗi khi muốn thể hiện hết sự tự tin. Nhưng trong trường hợp này Grace chỉ muốn tỏ ra can đảm. Grace giải thích, “Nhà cháu cách đây chưa đến mười phút. Hai bác cháu mình không cần để bị ướt hết đâu ạ.”
Ông chau mày như đang định nói gì đó thì một tiếng còi lanh lảnh chói tai xuyên qua không khí.
“Tắt đèn đi,” tiếng ai đó quát từ đằng xa. Giọng nói ra lệnh trịch thượng đó rõ ràng là của người giám sát phòng không, những người dân tự nguyện nhận nhiệm vụ giám sát bà con trong khu phố thực thi lệnh tắt điện.
“Chúc bác ngủ ngon, bác Evans.” Grace nhanh chân lách ra khỏi cửa tiệm rồi mở bung chiếc ô.
Ông Evans vẫn đứng đợi, giữ cửa mở cho cô thấy đường. “Tắt đèn đi, ông Evans,” người giám sát lại gào lên, lần này ở khoảng cách gần hơn.
Cuối cùng, ông để cánh cửa đóng lại và tấm chăn bóng đêm dày đặc trùm kín lên người Grace. Bóng đêm như ép chặt vào mắt cô, khiến cô cố căng mắt ra để nhìn cho được thứ gì đó - bất kể là thứ gì - nhưng đành bó tay bất lực.
Nếu vào những lúc bình thường thì luôn có người qua lại hoặc những chiếc ô tô chiếu đèn pha sáng rực lên mặt đất tối đen như mực, có cả những cột đèn tỏa ánh vàng ấm áp xuống mặt đường. Nhưng bây giờ, trong thời gian tắt điện giới nghiêm, tuyệt nhiên không có chút tia sáng nào.
Grace bần thần đứng yên một chỗ để cố xác định phương hướng nhưng mọi nỗ lực đều vô ích. Mưa vẫn không ngừng rơi tí tách trên chiếc ô.
Vì không thể thấy gì nên Grace đành dò dẫm tìm đường về nhà theo trí nhớ. Thật bất ngờ khi chỉ sau một tuần ở London, cô đã có thể dễ dàng hình dung ra con đường đến phố Britton, với điều kiện Grace nhận ra chính xác cảnh vật xung quanh.
Grace thận trọng bước lên một bước, tiếng giày lọc cọc vang lên giữa con phố vắng ngắt. Cô thầm mong có một chướng ngại vật nào đó để giúp mình định hướng. Nhưng chẳng có gì cả. Bước thứ hai, rồi bước thứ ba cũng thế. Grace tiếp tục dò dẫm từng bước ngập ngừng trên vỉa hè, trong màn đêm tối mịt chỉ có tiếng lạch cạch vang lên dưới đế giày.
Cô đã đi được bao nhiêu bước rồi? Grace đi chậm lại và đưa cái tay còn rảnh ra trước mặt, vỗ nhẹ vào không khí.
Liệu cô có nên quay lại và nhờ ông Evans đưa về nhà không? Nhưng sau đó làm sao ông ấy quay về cửa hàng?
Thần kinh của cô như muốn vỡ tung ra theo từng bước chân mù mờ, mọi giác quan đều căng lên đầy cảnh giác. Một tiếng đì đùng thình lình vang lên trong màn đêm tịch mịch. Có cái gì đó đang lao đến, Grace vội vàng lùi lại nhưng chẳng may vấp ngã. Một chiếc ô tô không bật đèn pha vù vù lướt qua, cuốn chiếc váy của cô bay tung theo luồng gió mạnh và làm bắn tung tóe một thứ nước chắc hẳn là nước mưa.
Chiếc váy của Grace liền dính sát vào người khiến cô lạnh buốt và ướt sũng thứ nước bẩn thỉu. Lúc này, Grace chỉ biết vòng hai tay ôm lấy mình trong khi một tay vẫn nắm chặt cán ô, cô không còn tâm trí đâu để ý đến việc mưa quất vào người lạnh buốt như thế nào nữa.
Trên đầu, một ánh chớp chói lòa lóe lên chiếu sáng cả không gian. Chỉ cần như vậy là đủ để Grace xác định phương hướng cần đi và biết chắc không còn chiếc xe nào đang lao về phía mình nữa.
Ướt sũng, không nhìn thấy gì và lạnh cóng, Grace loạng choạng dò từng bước trở về phố Britton. Thỉnh thoảng một tia chớp lại lóe lên. Chặng đường hằng ngày thường vẫn đi chỉ mất mười phút vậy mà hôm nay dường như kéo dài vô tận. Không ai biết Grace đã tốn bao nhiêu thời gian đi qua đi lại ngôi nhà của bác Weatherford trong nỗ lực vô vọng là xác định đúng cánh cửa cần vào.
Cuối cùng, Grace cũng xác định được chắc chắn đâu là nhà mình và thận trọng leo lên từng bậc thang. Đôi giày của cô ngấm nước nhiều đến mức mỗi chiếc như nặng thêm mấy cân. Mỗi khi Grace đặt chân xuống thì chúng lại bẹp dúm, làm cho nước đọng quanh những ngón chân. Grace sờ soạng lên cánh cửa để tìm tay cầm. Chất kim loại mát lạnh chạm vào lòng bàn tay, mấy ngón tay cô liền nắm lấy nó. Cánh cửa được mở khóa, đẩy bật vào trong.
Ánh sáng chói lòa khiến mắt Grace muốn nổ tung. Vừa bước ra từ bóng tối mịt mù nên cô gần như chưa nhìn thấy gì. Grace liêu xiêu bước vào và chực ngã gục xuống đất.
“Grace,” bác Weatherford đang ngồi trong phòng khách thảng thốt kêu lên. “Trời ơi con ơi, có chuyện gì vậy? Chúng ta lo đến phát bệnh đây.”
Chính trong những lúc căng thẳng thế này, tính cách ưa sai bảo của bà Weatherford lại vô cùng hữu ích. Chỉ trong vòng một tiếng ngắn ngủi, Grace đã kịp hong khô người, thay quần áo sạch và nhâm nhi tách trà ấm nóng trước khi ngả lưng lên giường.
Tận hưởng cảm giác an toàn và ấm áp dưới lớp chăn bông, Grace rúc sâu vào giường và lại bầu bạn với bóng đêm khi nó lôi cô vào giấc ngủ. Trước khi giấc ngủ tóm được Grace, cô đã lên kế hoạch tận dụng ngày nghỉ ở hiệu sách để đến tham quan phố Paternoster Row vào sáng mai. Sau khi ngắm nghía cách bài trí và sắp xếp sách vở trong những cửa hiệu ở đó, biết đâu cô sẽ nảy ra ý tưởng hay ho hơn để thực hiện công việc của mình.
Thật không may, mọi kế hoạch đã sắp xếp đâu vào đó lại tan thành mây khói trước tin tức ập đến vào sáng hôm sau.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

CHƯƠNG 5​


Nước Anh chính thức tuyên bố có chiến tranh.
Ngày hôm sau, trước khi Grace kịp rời khỏi nhà, thủ tướng đã thực hiện một buổi phát thanh đặc biệt vào lúc 11 giờ 15 phút.
Grace ngồi cạnh Viv trên chiếc sô pha bọc ni, lắng nghe giọng Thủ tướng Chamberlain sang sảng vang lên khắp gian phòng khách nhỏ. Colin không còn ngồi trên sàn vì con mèo Tabby đã chuyển đến chỗ ông Pritchard. Bây giờ anh đang nhấp nhổm bên mép chiếc ghế gỗ Morris ngay cạnh mẹ mình.
Chính giữa cái bàn nhỏ đặt một khay trà, bên cạnh là bình hoa cúc dại nhưng chưa một ai đụng đến.
Thủ tướng tiếp tục cho biết Đức đã phớt lờ yêu cầu rút quân khỏi Ba Lan. Grace nín thở, thầm cầu nguyện ngài Chamberlain đừng thông báo tin tức mà tất cả bọn họ đang hãi hùng nghĩ đến.
Nhưng cho dù tất cả thính giả ở London đều nín thở thì cũng không ngăn được ông nói ra những lời tiếp theo. “… Vì vậy, đất nước của chúng ta sẽ bước vào cuộc chiến với Đức.”
Tuy đã lường trước tình hình nhưng lời tuyên bố đó vẫn giáng vào Grace một cú xây xẩm mặt mày. Tại sao một sự kiện vốn nằm trong dự đoán vẫn có thể khiến người ta choáng váng đến vậy?
Và không chỉ một mình Grace bàng hoàng.
Viv cầm chiếc khăn tay viền ren xinh xắn mà cô đã thêu trước khi rời làng Drayton chấm nhẹ lên mắt. Bác Weatherford hít mạnh một hơi và Colin ngay lập tức nắm lấy tay mẹ.
Chiến tranh một lần nữa nổ ra tại đất nước của họ.
Điều đó có nghĩa là gì? Họ sẽ bị giội bom? Đàn ông buộc phải nhập ngũ? Hay lương thực sẽ bị cắt giảm?
Grace nhớ lại những điều mẹ từng kể về thời Chiến tranh Thế giới thứ Nhất đầy loạn lạc khổ đau. Đối với Grace, chúng chỉ là những câu chuyện không có bối cảnh và cô khó lòng hình dung những năm tháng ấy thật sự diễn ra như thế nào. Vậy mà giờ đây, thế giới bí hiểm đó sắp biến thành hiện thực cuộc sống mới mà họ phải tập làm quen.
Một tiếng rền rĩ đinh tai xé tan bầu không khí im lặng. Hồi còi báo hiệu không kích liên tục réo vang lúc cao lúc thấp. Máu trong người Grace đông cứng cả lại. Cô nghẹt thở. Cả người hoàn toàn bất động.
Họ sẽ bị ném bom. Giống như Ba Lan. Bị quân Đức tấn công.
“Grace.” Bác Weatherford mạnh mẽ gọi tên cô, phá tan lớp sương mù khiếp sợ đang bao trùm lấy cô. “Đổ đầy nước vào bồn rửa bát và bồn tắm. Viv, mở tất cả cửa sổ ra. Bác sẽ lấy mặt nạ và dụng cụ ra, còn Colin đi khóa hết van ga ở đường ống chính.”
“Nh… nhưng bom.” Viv lắp ba lắp bắp, Grace chưa bao giờ thấy bạn mình khiếp sợ như vậy.
“Họ mới thấy máy bay thôi.” Bà Weatherford đứng bật dậy và tắt radio. “Chúng ta có ít nhất năm phút để dời xuống hầm.”
Giọng điệu bình tĩnh đầy uy lực của bác đã kéo tất cả mọi người đứng lên thực hiện nhiệm vụ. Grace không hiểu tại sao phải đổ đầy nước vào tất cả các bồn nhưng cô vẫn ngoan ngoãn làm theo. Tiếng nước chảy xối xả hòa cùng tiếng còi báo động rền rĩ vang lên bên tai.
Chưa bao giờ các vòi nước lại chảy chậm rì rì như thế.
Khi cái bồn cuối cùng được đổ đầy, Grace ba chân bốn cẳng chạy xuống hầm. Nơi trú ẩn thực ra rất đơn giản, chỉ là một đường cong bằng kim loại được chôn bên dưới một ít bùn đất, tạo thành khối chữ U úp ngược chìm xuống. Từ trước đến nay, Grace chưa bao giờ mảy may tự hỏi một công trình như vậy làm sao có thể bảo vệ họ tránh khỏi mưa bom bão đạn.
Cô bước xuống một lối đi hẹp, lách mình chui vào chỗ trú ẩn. Mùi đất và mùi kim loại ẩm ướt xộc lên mũi, ánh nắng trên đầu bị che khuất nên mọi thứ trong hầm đều tối mờ mờ. Trong chỗ tranh tối tranh sáng đó, Colin đã đặt hai băng ghế dài ở hai bên thành hầm chật chội và Viv đang ngồi trên một chiếc. Viv vòng tay ôm lấy người và ngước lên đầy căng thẳng, đôi mắt nâu long lanh mở to lộ rõ sự hoang mang.
Còi báo động đã ngừng. Một sự im lìm đáng ngại thay thế cho tiếng rền rĩ thảm thiết.
Grace ngồi cạnh Viv và nắm lấy tay bạn. Cô không tìm được một lời an ủi nào bởi lẽ mọi khối cơ trên chính cơ thể cô cũng đang căng thẳng đến muốn nổ tung.
Chính là nó. Giống như Ba Lan. London chắc chắn cũng sẽ bị tàn phá hệt như Warsaw.
Thậm chí Grace còn chưa từng nghe âm thanh bom nổ và cũng không biết chuyện gì sẽ xảy ra, huống hồ là biết cách ứng phó nếu chẳng may họ bị tấn công trong lúc trú ẩn dưới hầm.
Colin là người tiếp theo chui vào hầm. Anh gập thân hình cao kều rồi ngồi xuống chiếc ghế đối diện với hai cô gái. Đầu anh hơi cúi về phía trước để vừa vặn với cái trần thấp lè tè. Bác Weatherford vào sau cùng, một vai đeo bốn chiếc mặt nạ phòng độc, còn một tay ôm theo cái thùng lớn. Âm thanh di chuyển lạch cạch của bác đập vào khung thép và dội vào tai họ.
Colin nhanh chóng đưa tay lên đỡ giúp mẹ chiếc thùng. Bà cười tỏ vẻ cảm ơn và phát cho mỗi người một cái mặt nạ.
Grace đưa đôi tay đang run bần bật ra nhận lấy mặt nạ. “Chúng ta có nên đeo luôn bây giờ không ạ?”
“Khi nào cháu nghe thấy tiếng gỗ gõ lạch cạch bên ngoài thì hẵng đeo.” Bác ngồi xuống ghế, bên cạnh Colin. “Những người giám sát phòng không đều được trang bị mặt nạ với mục đích như vậy. Bác đã mua một ít thuốc mỡ chống khí độc ở hiệu thuốc. Chúng ta có khoảng một phút để bôi nó lên phần da để trần, như vậy là dư dả thời gian rồi. Các con thấy đó, không có gì đáng lo đâu.”
Bác nhấc chiếc nắp thùng sơ sài lên, bên trong đựng vô số vật dụng lỉnh kỉnh. Một hộp thuốc mỡ chống khí độc số 2 với cái nắp màu vàng, một hộp khoai tây chiên giòn hiệu Smiths, một vài chai lọ gì đó có vẻ là nước chanh cùng một ít sợi và kim đan.
“Con khóa ga chưa, Colin?” Giọng bà Weatherford vẫn dịu dàng và điềm tĩnh, giống như họ không phải đang ngồi chờ cái chết xộc đến vậy.
Anh con trai gật đầu.
“Bồn rửa và bồn tắm thì sao?” Bác nhìn sang Grace.
Cô cũng gật đầu. Viv đang ngồi cạnh cô cũng mau mắn gật theo mà không cần đợi bác hỏi đã làm xong nhiệm vụ hay chưa.
“Giỏi lắm.” Bà Weatherford đưa chiếc thùng về phía Grace và Viv. “Ăn miếng khoai tây chiên không các cháu?”
Miệng của Grace khô khốc, đến nuốt nước bọt còn khó khăn chứ đừng nói đến ăn uống. Chưa kể dạ dày của cô đang thắt lại nên nhất định sẽ không tiếp nhận bất cứ thứ gì. Grace nhìn chằm chằm vào hộp khoai tây chiên giòn màu xanh lam và lắc đầu.
“Chúng ta có nên đặt cánh cửa đó vào đúng vị trí không ạ?” Viv chỉ cánh cửa thép đang đặt bên cạnh lối vào hầm.
Bà Weatherford thậm chí không buồn ngoái lại. “Chừng nào nghe tiếng máy bay thì ta sẽ bít cửa lại. Giờ mà đóng lại thì trong này sẽ tối thui như cúp điện đấy.”
“Sao bác có thể bình tĩnh như vậy ạ?” Grace hỏi.
“Cháu yêu ạ, London không phải mới bị đánh bom lần đầu.” Bác chìa chiếc hộp thiếc về phía Viv nhưng cũng nhận được cái lắc đầu lặng lẽ. “Thu thập kiến thức là cách tốt nhất chống lại nỗi sợ hãi. Bác đã dành khá nhiều thời gian để hỏi ý kiến ông Stokes về cách chuẩn bị mọi thứ thật đúng đắn.”
“Ông Stokes là người giám sát công tác phòng không ở khu chúng ta.” Colin khui nắp chai nước chanh và đưa cho Grace. Cô đưa tay nhận lấy trong trạng thái gần như chết lặng. Anh tiếp tục đưa cho Viv, cho mẹ và cuối cùng mới tự lấy cho mình.
Bác Weatherford đậy nắp thùng và nhấp một ngụm nước. “Chúng ta đổ đầy nước vào các bồn để có phương tiện dập lửa nếu chẳng may đường ống nước bị hư. Mở hết cửa sổ ra để nhìn thấy các đám cháy bên trong và hi vọng cơ quan chức năng sẽ đến dập kịp thời. Còn việc khóa ga, bác nghĩ tụi con đều hiểu tại sao.”
Grace cảm thấy bớt căng thẳng phần nào trước thái độ điềm tĩnh của người bác. Grace không biết cô có thể tự tin, bình thản giống như người bạn của mẹ mình hay không nhưng cách hành động dứt khoát của bà khiến nỗi sợ trong cô vơi bớt dần.
Chai nước chanh mát lạnh trên tay cô. Cô đưa cái chai thủy tinh lên môi và hơi ngửa đầu lên uống. Thứ nước giải khát ngọt ngào, thơm phức chảy tràn vào khoang miệng rồi đọng lại thứ vị chua chua ở hàm dưới. Grace không hề nhận ra miệng mình khô rát đến vậy cho đến khi dòng chất lỏng tươi mát đó chảy xuống cổ họng.
“Hồi Chiến tranh Thế giới thứ Nhất thì như thế nào ạ?” Viv hỏi.
Tất cả bọn họ đều hướng mắt về phía bà Weatherford, kể cả Colin. Tất nhiên, Grace đã nghe mẹ kể về trải nghiệm của mẹ nhưng cuộc sống ở London chắc hẳn phải khác với ở quê rất nhiều.
“Ờ thì…” Người phụ nữ bình tĩnh nhìn khuôn mặt của các cô, cậu thanh niên. “Không dễ chịu gì. Mấy đứa có chắc là muốn biết không, vì có thể chúng ta sẽ sớm phải đối mặt với hoàn cảnh tương tự đấy?”
Viv cười toe toét, “Thu thập kiến thức là cách tốt nhất để chống lại nỗi sợ hãi. Bác đã nói như vậy mà.”
“Làm sao bác có thể từ chối một câu trả lời bạo dạn như thế nhỉ?” Bác Weatherford vuốt thẳng chiếc váy, hít sâu một hơi và kể cho họ nghe câu chuyện của nhiều năm về trước. Lúc đó, việc sử dụng thực phẩm bị giám sát khắt khe đến mức chỉ cần cho chim bồ câu trong công viên ăn cũng có thể bị phạt. Trước khi ném bom, những chiếc tàu bay Zeppelin và máy bay hạng nhẹ lượn lờ trên bầu trời giống như những quả khinh khí cầu. Chúng bay quá cao nên Không quân Hoàng gia Anh không thể tiếp cận nổi.
Nhưng bà cũng nói về chiến thắng - những chiếc tàu bay Zeppelin đã đại bại dưới tay loại máy bay mới có thể vươn đến độ cao cần thiết, phụ nữ được nhận vào làm ở nhiều vị trí trong công sở và được phép đi bỏ phiếu, và người dân Anh đã vượt qua giai đoạn thiên nan vạn nan đó bằng tình bằng hữu keo sơn.
“Điều tồi tệ nhất là gì ạ?” Viv lo lắng nhìn Grace. “Để chúng cháu chuẩn bị tinh thần.”
Bà Weatherford nhìn Colin bằng ánh mắt nghiêm trang hiếm thấy rồi thẫn thờ nhìn sang chỗ khác. “Những người đàn ông một đi không trở lại,” giọng bà trầm xuống.
Tiếng còi báo động rền rĩ chói tai đột ngột xuyên qua không gian lần nữa khiến họ giật bắn mình.
Ngay cả trong lúc hãi hùng tột độ, Grace vẫn nhận ra tiếng còi lần này khác với lần thứ nhất, nó kéo một hồi dài rền vang chứ không ngập ngừng thất thường như lúc nãy.
“An toàn rồi đó.” Bác Weatherford uống nốt ngụm nước chanh cuối cùng và cất cái chai rỗng vào thùng. “Tất cả chúng ta đã sống sót sau đợt cảnh báo không kích đầu tiên. Cầu trời đừng có thêm lần nào nữa.” Bà thu dọn mặt nạ phòng độc, Colin nâng chiếc thùng lên và họ cùng rời khỏi căn hầm tối tăm bẩn chật.
Vài tiếng sau, đài phát thanh thông báo rằng báo động không kích ngày hôm đó chỉ là giả.
Nhưng nếu lần tiếp theo là thật thì sao?
Những mối băn khoăn lo lắng liên tục nổi lên trong tâm trí khi Grace cố gắng ru mình vào giấc ngủ. Không gian tĩnh mịch nhấn chìm nỗi sợ vào những góc u tối nhất.
Ngày hôm sau, chuỗi tin tức lê thê bất tận trên radio cũng chẳng cung cấp thêm thông tin nào mới. Đã đến giờ Grace phải đi làm.
Ông chủ tiệm vẫn không ngẩng đầu lên khi cô bước vào. Grace biết bây giờ không nên mong đợi gì hơn. Nhiều mẩu rác vụn vứt bừa bãi trên mặt quầy tính tiền, những tấm rèm chắn sáng vẫn kéo kín bưng để che nắng và vài chồng sách mới mọc lên trên mặt sàn xám xịt hệt như đống cỏ dại.
“Dường như chúng ta đang có chiến tranh.” Grace nhẹ nhàng nói.
Ông Evans nhìn lên và nhướng mày, “Ông Pritchard bảo đến Giáng sinh sẽ kết thúc thôi.”
“Bác nghĩ sao về chuyện này ạ?” Grace hỏi.
“Chiến tranh thì không ai đoán trước được gì đâu, cô Bennett ạ.” Ông Evans kẹp một mảnh giấy vào giữa quyển sách của mình, sau đó đóng sổ cái và để lại một tờ giấy khác.
Grace nhặt mẩu giấy bị bỏ sót đó, toan trả lại cho ông nhưng ông đưa tay ngăn lại, “Đó là danh sách những cuốn đang bán ở đây và cách sắp xếp chúng theo chủ đề.”
Grace khá phấn khởi và tập trung nhìn danh sách. Một dãy tựa sách được viết tay gọn gàng, bên cạnh kèm theo tên thể loại, “Cháu sẽ tìm thấy mấy quyển này ở đâu ạ?”
Ông Evans nhún vai, “Sau khi cô tìm được chúng thì việc bắt đầu phân loại đống lộn xộn đó từ đâu cũng như nhau thôi mà, phải không?” Nói đoạn, ông quay lưng đi về đằng sau cửa hàng. “Nhớ là phải về trước 2 giờ,” tiếng ông vọng lại qua vai khi ông sải bước đi. “Tôi sẽ không để cô ở lại làm đến tối mịt tối mờ và mò mẫm về nhà trong bóng tối nữa đâu. Tôi cũng không chịu nổi bất kì cuộc gọi mắng vốn nào của bà Weatherford về vấn đề này.”
Grace nhăn nhó. Cô có thể tưởng tượng ra hai người họ đã cự cãi nhau thế nào. Thay vì suy nghĩ vẩn vơ và khó chịu về ông Evans, cô quyết định tập trung nghiên cứu tờ danh sách.
Trên cùng là hai mươi lăm tựa sách được phân loại vào nhóm tiểu thuyết kinh điển, tiếp theo là nhóm sách lịch sử, triết học và tiểu thuyết huyền bí. Đến chiều, Grace chỉ mới tìm được bốn cuốn tiểu thuyết kinh điển. Tiếng chuông của bất ngờ vang lên cắt ngang mạch làm việc của cô. Grace kéo mình ra khỏi chiếc kệ mà cô đang săm soi rồi chuyển ra đằng trước hiệu sách tiếp tục tìm kiếm để tiện giúp đỡ người khách mới đến.
Vị khách quen đó chẳng phải ai khác mà chính là George Anderson. Anh chào cô bằng một nụ cười quyến rũ, “Chào buổi chiều, cô Bennett.”
Trái tim Grace đập rộn ràng hơn, “Chúc một ngày tốt lành, anh George. Em có thể giúp gì cho anh không?” Cô suýt phì cười vì lời đề nghị của mình giống y hệt lần trước. “Hoặc anh có thể ngồi đây trong lúc em tìm mấy cuốn sách.”
“Cô đang cần tìm gì sao?” Chàng trai nhìn lướt qua danh sách trên tay Grace.
Cô giấu vội tờ giấy ra sau lưng vì nhận thấy anh có ý muốn giúp đỡ. Cô lắc đầu, “Không có gì đâu ạ.”
Đôi mắt xanh lục của anh nheo lại tỏ vẻ ngờ vực hài hước, rồi anh nở nụ cười trêu chọc, “Không có gì thật sao? Tôi không nghĩ vậy đâu.”
Grace định phủ nhận nhưng lại nghĩ biết đâu anh ấy hiểu rõ cửa hàng hơn cô thật thì sao? Cô chậm rãi xòe tờ giấy ra, “Em đang cố gắng sắp xếp lại hiệu sách và bác Evans đưa cho em những tựa sách này để bắt đầu.”
Anh cầm tờ danh sách và chăm chú nghiên cứu nó. Với bộ com lê ba mảnh được may khéo léo và mái tóc đen được chải gọn gàng, trông George như một luật sư đang đọc hồ sơ vụ án quan trọng hơn là một khách hàng đang giúp cô nhân viên kiểm kê sách vở thất lạc.
Anh làm nghề gì nhỉ?
Grace mím môi để không bật ra câu hỏi đó. Thay vì vậy, cô nói, “Em đã tìm thấy bốn quyển Đồi gió hú, Lý trí và Tình cảm, Hai thành phố và Frankenstein,” rồi cô đi vòng quanh anh để chỉ vào các tựa sách. Người anh tỏa ra một mùi hương sạch sẽ, tựa hồ mùi xà bông cạo râu và mùi gì đó cay cay mà Grace không biết tên. Thứ mùi hương thật hấp dẫn.
“Khởi đầu tốt đấy.” Anh nháy mắt với Grace. “Để xem chúng ta còn tìm được cuốn nào khác không.”
Hai người cùng bắt tay rà soát các kệ sách. Trong lúc làm việc, cô thú thật ý định muốn đến phố Paternoster Row để tìm cách quảng cáo ăn khách nhất cho hiệu sách Đồi Primrose.
“Paternoster Row là một địa chỉ xuất bản uy tín.” Hàng mi của George khẽ hạ thấp xuống trong lúc nhìn lướt qua dãy sách trước mặt. “Có nhiều nhà in, thợ đóng sách và đủ loại công ty xuất bản khác nhau. Số ít trong đó có khuynh hướng thiên về tôn giáo do ảnh hưởng bởi lịch sử của con phố này.”
“Lịch sử thế nào ạ?” Grace hỏi.
“Nhà thờ chính tòa Thánh Paul cũng ở đó.” Anh đưa ngón trỏ lướt dọc theo một dãy gáy sách đủ màu. “Người ta nói cách đây nhiều năm, các giáo sĩ thường diễu hành trên phố trong lúc đọc Kinh Lạy Cha, vì vậy mới đặt tên như thế.” Chàng trai dừng lại ở một quyển sách có gáy màu hạt dẻ với dòng chữ mạ vàng chạy dọc trên gáy. “Lý trí và Tình cảm. Tôi có thể mạo muội khẳng định đây là một câu chuyện xuất sắc. Một kiệt tác kinh điển.”
“Nhưng cũng là một câu chuyện tình yêu?” Grace nhận lấy cuốn sách và bổ sung nó vào chồng sách ít ỏi đến đáng thương sau một buổi sáng miệt mài “khai quật”.
Anh lại nở nụ cười sảng khoái, hào phóng, ấm áp mà cô rất yêu mến. “Cô sẽ không biến cửa tiệm này thành một nơi hợm hĩnh khoe khoang như những hiệu sách khác đâu, đúng không?” George nhăn mặt.
“Em chưa thấy chúng bao giờ.” Grace thừa nhận. “Nhưng dù sao em cũng nghĩ mình sẽ không bao giờ làm vậy. Em muốn biến nơi này trở nên ấm cúng và hiếu khách hơn.”
“Tôi luôn trân trọng cảm giác cổ kính mà nơi đây mang lại.” Người khách trẻ rướn một vai lên. “Thật đáng tiếc nếu nó trở thành hiệu sách Nesbitt’s Fine Reads thứ hai, mọi thứ đều mới toanh bóng lộn nhưng chẳng có chút cá tính đặc sắc nào.”
“Em sẽ tự mình đến đó xem để hiểu những gì anh nói. Em muốn làm hết sức để giúp hiệu sách Đồi Primrose hấp dẫn hơn. Có nhiều khách hơn.”
“Thật tốt vì cô tận tâm với nó như vậy.”
“Thật ra thì mục đích của em không cao thượng lắm đâu,” Grace thú nhận. Cô kể cho anh nghe về nhiều năm trời làm lụng vất vả để vực dậy cửa hàng của người chú, sau đó bất đắc dĩ chuyển đến London nhưng không có thư giới thiệu nên không thể đi làm ở nơi nào khác. Grace vốn ít khi chia sẻ chuyện riêng tư với người khác, nhưng ở George có một sự tử tế khiến cho anh dường như đáng tin cậy nên cô đã quyết định mở lòng.
Chàng trai lắng nghe và hơi nhíu mày, thỉnh thoảng gật gù tỏ vẻ thấu hiếu. “Tôi rất tiếc trước những gì cô phải trải qua. Tôi sẵn lòng giúp cô một tay trong việc tân trang cửa hiệu này để cô nhận được lá thư giới thiệu ấn tượng nhất từ trước đến nay.”
Hai má Grace nóng bừng lên và đột nhiên cô cảm thấy không còn buồn phiền vì hoàn cảnh khó khăn vừa qua nữa. “Thật ra anh có thể giúp em.”
George cầm tờ danh sách mà họ đang nghiền ngẫm lên, nhướng một bên mày ra vẻ thật tếu táo. “Bằng cách tìm cho ra tất tần tật đống sách này hả?”
“Thậm chí em còn không biết chắc kì tích như vậy có khả thi không.” Grace liếc về phía trước cửa hàng để xem có ai bước vào không. Cuộc trò chuyện của họ lôi cuốn quá nên dám chừng cô đã không nghe thấy tiếng chuông nào đó. “Em có thể hỏi anh vài câu về việc đọc sách không, để biết cách quảng cáo cho hiệu quả nhất ấy.”
“À, cô muốn ‘rà trúng đài’ của độc giả phải không?” Anh chàng chỉ ngón tay vào cô. “Xuất sắc.”
Một làn sóng ấm áp nữa lại tràn qua khuôn mặt cô gái trẻ. “Anh thích điều gì nhất trong việc đọc sách?”
George đan các ngón tay vào nhau và gõ nhẹ tay này lên tay kia trong lúc suy nghĩ. “Một câu hỏi khó đấy, không khác gì yêu cầu tôi mô tả tất cả màu sắc trong một ống kính vạn hoa đang xoay tít.”
“Thật sự phức tạp lắm sao?” Grace bật cười.
“Tôi sẽ cố gắng.” George nghiêng đầu và ánh mắt chăm chú nhìn xa xăm, rõ ràng anh đang cân nhắc câu trả lời một cách rất thận trọng. “Đọc sách sẽ…” Anh chau mày lại nhưng rồi vầng trán giãn ra khi những lời lẽ thích hợp đã lóe lên trong trí óc. “… sẽ đưa ta đến bất cứ nơi đâu mà không cần bắt xe lửa hay đón tàu. Sách mang ta đi chu du những thế giới mới mẻ ngoài sức tưởng tượng, cho ta sống một cuộc đời hoàn toàn khác với cuộc đời mà ta hằng quen thuộc và nhìn ngắm vạn vật dưới lăng kính của nhiều người khác. Đọc sách là cách học mà không phải đối mặt với hậu quả thất bại và là con đường tốt nhất để đi đến thành công.” Anh ngập ngừng giây lát. “Tôi nghĩ trong tất cả chúng ta đều có một khoảng trống, một khoảng trống đang chờ được thứ gì đó lấp đầy. Đối với tôi, thứ đó chính là sách và tất cả trải nghiệm mà chúng tặng cho người đọc.”
Grace nghe tim mình mềm đi trước giọng điệu trìu mến mơ mộng của chàng trai trẻ. Cô ghen tị với những cuốn sách lẫn niềm hạnh phúc đong đầy mà George tìm được trong đó. Cả cuộc đời Grace chưa bao giờ gặp được bất cứ điều gì khơi dậy niềm say mê đến thế.
“Em đã hiểu tại sao anh lại nói rằng mình đang cố gắng mô tả tất cả sắc màu trong chiếc kính vạn hoa đang xoay tít. Thật là đẹp đẽ.”
George bắt gặp ánh mắt cô lần nữa và nở nụ cười bẽn lẽn. “Tôi không biết câu trả lời vừa rồi có giúp được gì cho việc quảng cáo của cô không.” Anh hắng giọng.
“Chắc chắn là có ạ.” Grace ngừng lại để tập hợp những suy nghĩ đang rượt đuổi trong đầu. “Hừm, có lẽ là thắp sáng những ngày tháng tắt điện tăm tối bằng niềm vui khi thưởng thức các trang sách, hoặc đọc sách để bước vào một chuyến phiêu lưu mới mẻ, thoát khỏi cuộc chiến khắc nghiệt này.”
George mở hai tay ra như thể muốn cho cô xem một kiệt tác. “Ý tưởng tuyệt vời. Cô sẽ làm rất xuất sắc cho mà xem.”
“Cảm ơn anh.” Hơi nóng lan khắp hai má rồi xuống đến ngực Grace.
George liếc nhìn đồng hồ, “Thật xin lỗi cô, nhưng giờ tôi có cuộc hẹn nên phải đi ngay. Tôi rất muốn chúng ta tiếp tục trao đổi xem tôi có thể hỗ trợ cô thế nào. Lúc nào tiện, mình gặp nhau uống trà một chút được không?”
Lúc này hai má Grace đã nóng bừng tới nỗi cô chỉ muốn áp đôi tay mát lạnh lên để làm chúng dịu lại. Cô gật đầu, “Em rất sẵn lòng ạ.”
“Vậy trưa thứ Tư tuần sau nhé?” Anh đề nghị.
Hôm đó Grace vẫn đi làm nhưng nếu xin phép, có lẽ ông Evans sẽ đồng ý cho cô nghỉ một chút để ra ngoài uống trà. Grace hi vọng thế. “Dạ được.”
“Quán cà phê gần đây tiện cho cô chứ, P&V’s nhé?”
Cô gật đầu, “Em đã muốn thử tới đó mà chưa có dịp.”
George cười rạng rỡ, “Tôi rất mong đến hôm đấy.” Rồi anh khẽ cúi đầu chào Grace, “Chúc một ngày tốt lành, cô Bennett.”
Lòng Grace rộn rã reo vui nhưng cô vẫn kìm nén đủ lâu để bình tĩnh tiễn anh ra cửa. Chỉ khi chàng trai đi khỏi, cô mới cho phép mình đặt tay lên ngực để xoa dịu nhịp tim dồn dập rồi tiếp tục áp tay lên má để hạ bớt cái nóng bừng bừng.
“Thứ Tư cô có thể đi uống trà,” giọng ông Evans vọng ra từ một chỗ nào đó trong hiệu sách.
Grace sửng sốt, đôi tay vẫn áp trên má và mắt mở tròn xoe. “Bác… bác nói gì ạ?” Cô ấp úng hỏi lại.
“Tôi không cố ý nghe trộm đâu, nhưng hai cô cậu nói to quá.” Ông Evans mặc chiếc áo thun sẫm màu xuất hiện từ phía bên kia cửa tiệm, và hai tay ông đang khoanh trước ngực.
Grace vội vàng đứng thẳng người lên, thả hai tay xuống.
Ông Evans liếc nhìn đống sách mà họ đã nỗ lực thu gom được. “Cô nên chọn những người như George Anderson. Anh ta là kĩ sư nên rất có thể sẽ không bị gọi đi tham chiến. Nhưng cũng chưa biết được đâu, anh chàng vốn là kẻ ưa xung phong tình nguyện bất chấp.”
Lời nhắc nhở về cuộc chiến khắc nghiệt nghe thật chói tai. Trong giây phút ngắn ngủi, Grace đã quên mất sự hiện diện của nó. Trong khoảnh khắc chớp mắt ấy, cô tưởng như thế giới lại quay về cuộc sống yên bình hạnh phúc như xưa.
Nhưng không, ngoài kia, những quả khí cầu phòng không vẫn lơ lửng trên bầu trời để ngăn cản địch đánh bom. Biết bao đứa trẻ đã bị đưa sang đất khách quê người để sống với người dưng nước lã. Những người đàn ông lên đường ra trận và biết đâu một đi không trở lại, còn Hitler, ông ta có thể giội bom thành phố bất cứ lúc nào.
Cảm giác đó như vừa sực tỉnh sau một giấc mơ đẹp và bàng hoàng nhận ra bây giờ cơn ác mộng mới bắt đầu.
Ở đâu đó bên ngoài, một đám mây che khuất mặt trời, phủ lên cửa tiệm một màu xám xịt u ám.
“Tôi chỉ mong cô đừng tính chuyện ngu ngốc với Anderson.” Ông Evans nhìn cô bằng ánh mắt nghiêm khắc của một người cha nhìn con gái. “Các cô gái đều hấp tấp lấy chồng trước khi đàn ông bị lôi cổ ra trận.” Miệng ông chành ra hăm dọa. “Liệu hồn mà tỉnh táo đấy.”
Grace cố gắng đứng yên chịu trận. Có thật là ông đang khuyên bảo cô về chuyện yêu đương không? “Cháu không có ý định cưới xin gì sớm ạ,” cô từ tốn đáp.
Ông già làu bàu rồi lại biến mất sau lối đi. Grace không biết như vậy nghĩa là ông có tin lời cô hay không. Buổi chiều hôm đó, Grace chỉ tìm thêm được hai quyển nữa trong danh sách được giao. Cuộc tìm kiếm rõ là kém hào hứng khi vắng bóng anh George.
Cuối cùng cũng đã đến giờ nghỉ nhưng cô không đi về phố Britton ngay. Không, lần này Grace quyết tâm tìm đường đến Paternoster Row để xem những người London khác quảng cáo hiệu sách của họ như thế nào.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến
CHƯƠNG 6

Trải dọc con phố Paternoster Row là những cửa hàng với các ô cửa sổ rộng lớn quay ra ngoài mặt đường, phô bày những cuốn sách được bày bán bên trong. Tên cửa hiệu được trang trí trên tấm kính bằng kiểu chữ mạ vàng lộng lẫy, đặt bên cạnh những áp phích sơn màu sặc sỡ, trưng ra mức giá hấp dẫn để lôi cuốn khách vào đây mua sách với giá hời. Cách trưng bày ở mặt tiền thật muôn màu muôn vẻ. Nơi thì sắp xếp cầu kì nghệ thuật. Nơi chỉ đơn giản chồng chất sách vở lên nhau mà không theo một trật tự cụ thể nào, có lẽ vì họ muốn che khuất đi cửa hiệu bên trong mà không cần treo thêm rèm chắn sáng. Suy cho cùng, liệu có ai cần đến ba lớp vải nữa trong khi họ đã có đến năm chồng sách rồi?
Grace rảo bước trên vỉa hè đắp nổi của con đường hẹp, đi sát những tòa nhà cao tầng để tránh mấy cột mốc sơn đen được dùng để ngăn xe cộ lấn lên phần đường đi bộ.
Giữa các hiệu sách, những người bán dạo đứng rải rác bên quầy hàng di động của mình, họ phục vụ đủ các món ăn uống từ nước chanh đến bánh sandwich. Trong không khí còn phảng phất cả mùi cá và khoai tây chiên béo ngậy.
Grace đang ngây người chiêm ngưỡng ô cửa sổ vuông khá lớn được bài trí rất trang nhã của hiệu sách F. G. Longman thì một khuôn mặt quen thuộc chợt thu hút sự chú ý của cô. Bên kia đường, ngay ngưỡng cửa của một cửa hàng, có một người đàn ông vai rộng, mũi khoằm với đôi chân gầy nhẳng đang đứng đó, và sát gót ông là một con mèo mướp.
Ông Pritchard.
Grace chưa kịp lo lắng sẽ bị ông bắt gặp thì ông đã thình lình quay vào rồi biến mất trong cửa hàng mang tên Pritchard & Potts, ông chỉ dừng lại giây lát để giữ cửa cho con mèo theo vào sau. Tên hiệu sách đó được sơn nổi bật bằng chữ in đậm trên ô cửa sổ và mặt kia tấm kính chỉ tuyền một màu đen.
Hắc ín.
Grace tự nhiên cảm thấy rất cảm kích vì bác Weatherford còn dư nhiều vải sẫm màu. Nhờ vậy, cô có thể làm nên những tấm rèm đàng hoàng cho hiệu sách Đồi Primrose.
Án ngữ ngay trước cửa tiệm Pritchard & Potts là những chiếc thùng đồ sộ chứa đầy sách vở lộn xộn, thậm chí chúng còn không được xếp thành từng chồng gọn gàng. Grace hình dung bên trong cửa hàng có lẽ cũng không khác nào một bãi chiến trường cho lắm.
Có khi bên trong đó còn kinh khủng hơn cả hiệu sách của bác Evans.
Grace cố nén một cái rùng mình, rồi tiếp tục đi dọc xuống con phố Paternoster Row. Mặt tiền của một cửa hàng nào đó được sơn đỏ rực rỡ, trông thật bắt mắt. Qua các tấm kính cửa sổ lớn, chỉ vài quyển sách đã qua tuyển chọn được trưng bày thật ngăn nắp. Và rồi Grace nhìn thấy cái tên “Nesbitt’s Fine Reads” toát lên vẻ kiêu hãnh qua nét chữ bay bướm màu vàng lấp lánh hòa quyện với màu đen bóng lộn.
Dù hiệu sách Đồi Primrose có thể chẳng bao giờ có được vẻ sang trọng, lộng lẫy như vậy nhưng Grace vẫn quyết tâm học hỏi hết những gì có thể. Tất nhiên cô cũng không quên lời nhận xét của Anderson về nơi này.
Grace đẩy cửa bước vào và nhận ra ngay bản lề cánh cửa đã được tra dầu kĩ lưỡng. Một tiếng chuông leng keng thanh thoát vang lên để chào mừng khách đến.
Tuy Nesbitt’s Fine Reads có nhiều kệ sách, nhưng không gian rộng rãi thoáng đãng, còn sách vở được sắp xếp theo trật tự và có dán nhãn rõ ràng. Những kệ cao hơn được xếp phía ngoài, bao quanh chu vi cửa hàng. Ở giữa gian phòng đặt một vài chiếc bàn để thu hút độc giả tìm đến những cuốn sách rực rỡ nằm trên các kệ nhỏ hơn. Trên tầng hai, tất cả những chiếc kệ sơn trắng được dựng sát tường, ngăn nào ngăn nấy đều đầy ắp sách.
Grace đưa mắt nhìn quanh, mọi thứ ở đây đều toát lên vẻ sạch sẽ, tinh tươm. Gỗ được ép góc sắc sảo và đánh dầu bóng loáng, những tấm kính phản chiếu ánh nắng lấp lánh và đều sạch như ly như lau. Ngay cả lớp bìa bọc sách trông cũng sắc nét, sạch bong như vừa được lấy ra khỏi hộp.
Hiệu sách Nesbitt’s Fine Reads thật đúng là tuyệt đẹp.
“Tôi có thể giúp gì cho cô không?”
Grace ngó quanh và thấy một người phụ nữ có chiếc mũi nhọn, mái tóc màu xám được búi lên đằng sau thành một búi chặt.
“Dạ không, cháu chỉ ngắm nghía chút thôi ạ.” Grace đáp. “Cảm ơn bác.”
Người phụ nữ không rời đi. Bộ vest màu than ôm gọn lấy người khiến bà trông càng gầy. Đôi mắt đen của bà nhìn Grace chằm chằm.
“Cô có phải là một trong hai người mới đến ở trọ trong ngôi nhà bé tí xuống cấp tệ hại của bà Weatherford không?” Giọng bà the thé khó nghe, như đang nhai rau ráu những phụ âm trong lời xúc phạm của mình.
Grace định đáp trả để bênh vực người phụ nữ đã tử tế cưu mang cô trong lúc cô chẳng còn nơi nào để đi. Tuy mới gặp bà Nesbitt lần đầu nhưng Grace chẳng lạ gì kiểu người này. Người như bà ở đâu chả có, từ khắp các thị trấn nhỏ đến thành phố lớn. Bà sẽ sẵn sàng cãi chày cãi cối rồi cười nhạo sau lưng người khác.
Lúc này, Grace không thèm kiềm chế khao khát bênh vực ân nhân, cô hất cằm cao hơn một chút, rướn thẳng lưng lên, xẵng giọng, “Là tôi đây! Có chuyện gì sao?”
Hành động táo bạo của cô phản chiếu qua cặp mắt nheo lại của bà Nesbitt. “Cô tới đây để rình rập đấy à? Tôi biết thừa cô đang làm việc cho cái túp lều sách tồi tàn của lão Percival Evans.”
“Nếu bà cho nó là tồi tàn, mắc gì bà phải sợ quýnh lên khi tôi tới đây?” Cảm giác phấn khích trước sự bạo dạn của bản thân chạy rần rật khắp các mạch máu của Grace. Cô chưa bao giờ dám dũng cảm phản kháng lại người khác, nhưng có điều gì đó trong sự xấu tính của người phụ nữ này đã thôi thúc Grace lên tiếng.
Bà Nesbitt khịt khịt mũi tỏ vẻ khinh thường và hất mạnh đầu, “Đừng bén mảng tới đây hòng bắt chước cửa hàng của tôi.”
“Tôi không định bắt chước.” Grace phẫn nộ đáp lại. “Tôi sẽ làm tốt hơn nhiều.” Nói xong, cô đi một mạch ra khỏi cửa.
Vừa lâng lâng trong niềm vui chiến thắng vừa háo hức viết ngay những ý tưởng vừa lóe lên trong đầu, Grace vội vàng quay về nhà. Sau khi quan sát các ô cửa sổ trưng bày rộng rãi trên phố Paternoster Row, cách sắp xếp trong hiệu sách Nesbitt’s Fine Reads và những chia sẻ sâu sắc về cảm nhận của độc giả từ anh Anderson, Grace đã biết chính xác điều mình muốn làm.
Ý nghĩ về anh chàng George Anderson khiến lòng Grace reo vui rộn rã. Chắc hẳn Viv sẽ ngỡ ngàng khi nghe kể về cuộc hẹn hò sắp tới của bạn mình.
Tối hôm đó, trong lúc Grace đang tỉ mỉ liệt kê danh sách những việc muốn thực hiện ở hiệu sách Đồi Primrose thì cánh cửa phòng của cô và Viv bật mở, Viv bước vào và mang theo một hương hoa mới lạ.
Viv vẫn luôn là người sành điệu nhưng chỉ sau một thời gian ngắn ở London, phong cách thời trang của cô đã thanh lịch hơn đáng kể. Viv mặc chiếc áo thun màu xanh mua ở cửa hàng Harrods, phối hợp hài hòa với chân váy bút chì bằng vải tuýt mà cô tự may hôm trước. Những lọn tóc xoăn được chải một cách cầu kì khiến Viv yêu kiều tựa như người mẫu trên bìa tạp chí.
“Grace thân yêu ơi. Tớ rất mong được gặp cậu đấy.” Một chiếc túi nhỏ đung đưa trên khuỷu tay đang gấp lại của Viv.
Grace đứng bật dậy. “Tớ cũng đang trông cậu về nhà sớm. Mình có chuyện này muốn kể cậu nghe đây.” Cô cười hớn hở.
Viv xoa xoa tay chờ đợi, “Vậy hả, cậu kể trước đi.”
Grace vặn vẹo đôi vai với vẻ thẹn thùng, “Tớ vừa được người ta mời đi uống trà.”
Viv phấn khích kêu lên, “Anh chàng chỗ hiệu sách đó hả?”
Grace đã nhắc đến George Anderson với Viv trong một cuộc tán gẫu đêm khuya nào đó trước khi cả hai thiếp đi trên chiếc giường nhỏ nhắn của mình. Viv còn nhớ mang máng chút thông tin ấy.
Grace hào hứng gật đầu, rồi kể tiếp việc anh chàng muốn gợi ý cho cô nhiều ý tưởng tân trang hiệu sách hơn trong cuộc hẹn cà phê tuần tới.
“Cậu đồng ý rồi chứ?” Viv khoanh tay trước ngực, để chiếc túi xoay xoay trên cánh tay.
“Tất nhiên rồi.”
Viv vỗ tay thích thú, gương mặt xinh xắn của cô sáng bừng vui vẻ. Grace vốn đã háo hức trông đến buổi hẹn hò nhưng trước sự cổ vũ tưng bừng của Viv, cô càng nôn nao hơn gấp bội.
“Tớ cũng có cái này cho cậu xem.” Viv kéo chiếc túi tuột khỏi cánh tay và lấy ra một cái hộp nhỏ.
Grace nhận lấy chiếc hộp, mở nắp và thấy một chiếc vòng tay bên trong. Nó gồm nhiều mắt xích kim loại đơn giản móc lại với nhau. Hai mắt xích chính giữa - một bên là miếng kim loại màu trắng hình bầu dục, bên còn lại là tấm huy hiệu nhỏ. Chiếc vòng được gắn với tấm thẻ cho biết đây là vòng tay nhận dạng danh tính nạn nhân bị không kích.
“Tớ cũng có một cái.” Viv chìa cổ tay ra, tự hào khoe món trang sức hợp thời. Cô đã viết tên mình và địa chỉ của họ trên đó, tương tự như cái đưa cho Grace. “Tớ thấy chúng ở cửa hàng Woolworths.”
Grace nhìn chằm chằm chiếc vòng của mình lần nữa và nghe nỗi sợ hãi đang bao trùm khắp người. “Vòng tay nhận dạng danh tính hả?”
“Lỡ như chúng ta bị đánh bom.” Miệng Viv méo đi và Grace biết bạn mình đang cắn môi, đó vốn là một thói quen của Viv từ thời thiếu nữ. “Những thứ này bền chắc hơn nhiều so với chứng minh thư. Như vậy họ có thể xác định chúng ta là ai.”
Năm ngoái, cơ quan Đăng kí Quốc gia đã cấp cho mỗi người dân Anh một thẻ căn cước và yêu cầu họ phải luôn mang nó theo bên mình. Nhưng Viv nói đúng, một mẩu giấy cho dù dày dặn cách mấy thì cũng quá đỗi mong manh trước bom đạn.
“Viv…” Grace nuốt nước miếng, không biết nên nói gì.
“Nếu có bất trắc thì người ta vẫn biết chúng ta là ai chẳng phải vẫn tốt hơn sao?” Viv đặt chiếc túi lên bàn, cạnh đống khăn voan màu vàng nhạt mà cô vừa mua hôm trước. “Tớ không thể chịu nổi sự mù mờ không biết chuyện gì đã xảy ra với cậu nếu một ngày nào đó cậu không trở về nhà. Cái đêm cậu bị lạc đường trong bóng tối đó…” Vầng trán mịn của Viv nhăn nhúm lại vì lo lắng. “Tớ lo thắt cả ruột gan.”
Grace bước lại gần định ôm lấy bạn nhưng Viv đã đưa tay ngăn lại. “Không, cậu sẽ làm tớ khóc mất, rồi lớp son phấn sẽ bị trôi đi hết.” Viv hơi gập ngón tay trỏ rồi đưa lên chấm chấm phía dưới mắt một cách duyên dáng để lau khô nước mắt chực trào ra. “Tớ biết có lẽ cậu cho rằng việc này thật ngớ ngẩn.”
Grace mím môi để không bật ra lời phản đối. Sau ngần ấy năm làm bạn, họ đã quá hiểu nhau rồi.
“Trên mặt này là hình Thánh Christopher, Người sẽ bảo vệ cho chúng ta thượng lộ bình an.” Viv gõ gõ vào tấm huy hiệu. “Cậu có thể không cần đeo nhưng tớ sẽ đeo. Tớ phát điên lên vì sợ bị đánh bom. Chiều nay chỉ một chiếc xe buýt nổ máy đã khiến nửa số người trên phố nhảy dựng hết lên vì tưởng là bom đấy.” Cô tự cười chế giễu bản thân. “Trong đó có cả tớ.”
“Cảm ơn cậu đã mua cho tớ. Cậu thật chu đáo.” Chiếc vòng đè nặng trên tay Grace, không phải vì trọng lượng mà chính vì mục đích của nó - thứ giúp xác định danh tính nạn nhân bị bom nổ tan xác không còn có thể nhận diện được nữa.
Một ngón tay lạnh buốt vuốt dọc sống lưng Grace. “Có lẽ tớ sẽ đeo nó sau,” cô hứa.
Viv gật đầu thông cảm, “Ừ, để sau.”
Grace đặt chiếc vòng vào ngăn kéo của chiếc bàn nhỏ bên cạnh giường.
Viv ngửi thấy một mùi thơm trong không khí đang bay về phía cửa phòng ngủ. “Nghe nói tối nay bác Weatherford sẽ làm món xúc xích tẩm bột nướng theo công thức của mẹ cậu. Cậu nghĩ bác đã xong chưa?”
Hồi Grace còn bé, mẹ cô thường xuyên làm món này tới mức Grace từng cảm thấy phát ngán đến tận cổ. Vậy mà sau rất nhiều năm không được ăn nó, thật buồn cười vì giờ đây cô rất thèm nhưng cũng biết rằng mẹ sẽ chẳng bao giờ nấu cho mình được nữa.
“Tụi mình xuống dưới xem sao đi.” Grace hào hứng không kém gì bạn mình. “Cảm ơn cậu về chiếc vòng tay, và vì lúc nào cũng nghĩ đến tớ.”
Viv ôm chặt lấy Grace. “Lúc nào cũng thế, bạn thân mến ạ.” Bụng Viv sôi lên òng ọc và cô vỗ vỗ vào nó cùng một nụ cười khúc khích.
Hai cô gái rời khỏi phòng rồi đi xuống cầu thang, cùng hít hà mùi thơm ngậy của bánh pudding Yorkshire và xúc xích rán nâu sậm. Đi được nửa đường, họ nghe thấy tiếng thì thầm kín đáo của bác Weatherford, “Chào buổi tối, ông Simons, tôi là Weatherford.”
Viv dừng lại phía trước Grace và thốt lên, “Sếp của Colin.”
“Tôi muốn chắc chắn rằng ông đã đảm bảo được Colin là nhân viên quan trọng cần thiết trong cửa hàng.” Bác hạ thấp giọng một cách khác thường, rõ ràng không muốn Colin nghe thấy.
Đây không phải là cuộc trò chuyện mà họ nên nghe.
Grace lắc đầu với Viv, ngầm bảo họ nên đi tiếp. Nhưng Viv chỉ khoát tay gạt bỏ sự băn khoăn của bạn và tiếp tục đứng đó.
“Ông cần bao lâu mới nhận được phản hồi?” Sau câu hỏi của bác là một khoảng lặng dài. “Tôi hiểu,” cuối cùng mẹ Colin lên tiếng. “Ngày mai tôi sẽ gọi lại để xem ông có tin tức gì chưa.” Lại một khoảng lặng nữa nhưng lần này ngắn hơn. “Vâng, ngày mai nhé,” bà khẳng định chắc nịch. “Chào ông.”
Tiếng “cạch” của ống nghe được gác lên giá đỡ cho biết cuộc gọi đã kết thúc. Viv lật đật lao xuống cầu thang, giả đò như chưa hề nghe được cuộc trò chuyện bí mật mà họ không nên nghe.
“Mùi xúc xích nướng tẩm bột thơm quá,” Viv xuýt xoa. “Sắp ăn được chưa ạ?”
“Đã 7 giờ rồi hả?” Bác Weatherford vuốt thẳng chiếc tạp dề đeo bên ngoài cái váy mặc ở nhà có in hình hoa oải hương, trông nó giản dị và lôi cuốn y như váy của Viv. Câu trả lời hơi khó chịu cùng cái cau mày lo lắng chứng tỏ bà đang trăn trở suy tính nhiều việc trong đầu.
“Đúng chuẩn 7 giờ ạ.” Viv vui vẻ đáp.
“Rồi, vậy bữa tối sẵn sàng rồi đấy.” Người phụ nữ niềm nở vẫy hai đứa cháu gái vào phòng ăn với bà.
Grace vẫn làm thinh vì không tự tin rằng mình có thể khỏa lấp cảm giác áy náy.
“Mẹ vừa nói chuyện với ai vậy ạ?” Colin hỏi trong lúc đặt chiếc đĩa sau cùng lên bàn. Anh hỏi rất tự nhiên nên Grace tin chắc anh không nghi ngờ gì về nội dung cuộc gọi ban nãy.
Colin thoáng nhìn Viv và Grace, hai gò má lại ửng hồng lên khi anh chàng nở nụ cười bẽn lẽn. Colin là một chàng trai trẻ tuổi, trầm tính và hay đăm chiêu khiến người khác luôn thắc mắc tự hỏi đôi mắt xanh lam sắc sảo kia rốt cuộc đang ẩn chứa điều gì.
Nếu hiểu về Colin, bạn sẽ biết rất có thể anh ấy đang vắt óc nghĩ ra cách mới để nuôi một con sư tử hoặc trị thương cho một chú chim bị gãy cánh.
“À, cô Gibbons gọi điện càm ràm về cửa hàng tạp hóa ấy mà.” Bác Weatherford lấy một con dao dài, thái mỏng mấy thanh xúc xích nằm giữa chiếc bánh pudding dày dặn. “Đường sắp hết sạch rồi. Ta nói cho các con biết, mấy người đã cố mua vơ mua vét cái cửa hàng đó… sao họ không biết xấu hổ nhỉ.” Bà thở dài phản đối.
Bác Weatherford đặt con dao sang một bên và mỉm cười vui vẻ với các chàng trai cô gái. “Có ai ăn nước xốt hành tây không?”
Trong lúc ăn, Grace lại suy nghĩ về Colin. Một chàng trai hiền lành, tốt bụng và lễ phép. Một tay cậu lo liệu hết mọi việc trong nhà, từ thay bóng đèn cho đến sửa chữa lặt vặt mà không chút nề hà. Ngoài việc chăm sóc các con vật ở cửa hàng Harrods, điều cậu quan tâm nhất chính là bảo vệ cho tất cả tụi nó được sống an toàn và thoải mái.
Nhưng nếu có cơ hội, liệu rằng Colin có muốn đi lính không?
Dường như tất cả đàn ông đều lựa chọn như vậy.
Grace không hiểu tại sao người ta lại hăng hái dấn thân vào nơi chiến tranh khói lửa, nơi có thể bị súng bắn bom rơi bất cứ lúc nào. Dù sao thì cô cũng không bao giờ có được lòng can đảm đó. Không giống như những người đàn ông sẵn sàng đánh đổi mạng sống vì sự an toàn của toàn thể người dân Anh.
Đêm đó, những suy tư về lòng dũng cảm tràn ngập tâm trí Grace khi cô chui vào chiếc giường bằng đồng thau, kéo tấm chăn bông trùm qua vai giữa căn phòng tối đen như hũ nút. So với tinh thần anh hùng đó, cô có khác gì một kẻ hèn nhát đâu.
Đây là một nhược điểm mà Grace cần đối diện, bởi vì từ bé, mẹ vẫn luôn động viên và dạy cô phải biết tự bảo vệ bàn thân, không được để ai bắt nạt mình. Rốt cuộc, chính cô cũng phải chấp nhận suy nghĩ đó.
Ngay khi cô bắt tay vào việc sắp xếp lại hiệu sách Đồi Primrose.
Sáng hôm sau, Grace đi làm sớm mười phút với vô số ý tưởng nhảy múa trong đầu. Cô mở cửa chạy ùa vào trong. Chiếc chuông trên đầu báo hiệu có người đến bằng tiếng kêu chói tai như thường lệ.
Ông Evans ngẩng đầu lên, ném vào cô cái nhìn cáu kỉnh.
Grace nhăn mặt, “Cháu xin lỗi ạ. Cháu không cố ý mở cửa sỗ sàng như vậy.”
Ông già vẫn cau có.
“Cháu nói thật ạ,” Grace cố gắng phân trần. “Chỉ tại cháu đang hào hứng với mấy ý tưởng mà cháu… định…”
Ông đặt tay lên một gói bưu phẩm màu nâu, bên trên có đính kèm một lá thư ngắn rồi đẩy nó về phía Grace. “Cái này của cô,” ông nghiêm nghị nói.
Grace liếc xuống cái phong bì màu kem. Tên người nhận là “Cô Bennett” được viết tay trông vô cùng mềm mại.
“Tôi rất tiếc.” Ông Evans lê bước ra khỏi quầy, để lại đằng sau vài mẩu giấy vương vãi và ruột bút chì bị bỏ đi.
Ông tiếc chuyện gì vậy?
Grace mở chiếc phong bì và rút lá thư ra. Mảnh giấy tạo nên tiếng sột soạt khe khẽ giữa bầu không khí im phăng phắc nặng nề của cửa hàng. Cô lướt nhìn xuống cuối bức thư và thấy kí tên George. Là George, chứ không phải Anderson.
Trống ngực Grace đập dồn dập vì cách xưng hô thân mật ấy, nhưng việc đó chỉ kéo dài cho đến khi cô đọc hết lá thư mà anh thú thật rằng mình đã tình nguyện đăng kí vào Lực lượng Không quân Hoàng gia. Cô ngạc nhiên khi biết anh không chỉ là kĩ sư mà còn có nhiều kinh nghiệm về máy bay. George không ngờ được gọi đi nhanh đến vậy, anh nhận được giấy triệu tập chỉ sau hai ngày đăng kí.
Anh không chỉ tiếc nuối vì đành thất hẹn với Grace mà còn chân thành xin lỗi vì không thể giúp cô sửa sang hiệu sách. Tuy nhiên, George đã gợi ý một số khẩu hiệu quảng cáo. Chưa hết, anh còn để lại cho Grace một thứ mà anh hi vọng sẽ được thảo luận với cô trong lần gặp gỡ tiếp theo, một thứ đã khơi dậy mạnh mẽ niềm đam mê đọc sách của anh.
Nỗi thất vọng lẫn lo sợ bóp nghẹt trái tim Grace. Máy bay thường là mục tiêu bị bắn hạ trong chiến tranh. Nếu George ra trận và trở thành phi công, tính mạng của anh sẽ như nghìn cân treo sợi tóc.
Grace nhắm mắt lại. Không, không thể nghĩ như thế được. Nhất định cô sẽ gặp lại anh.
Nhưng là khi nào?
Cô dịu dàng đặt lá thư sang một bên và kéo món quà lại gần mình. Bưu kiện được gói trong tờ giấy màu nâu trơn, căn cứ theo hình dáng và trọng lượng của nó thì rõ ràng là một quyển sách. Nổi bật ngay giữa tờ giấy là dòng chữ gọn gàng của George.
Một tiểu thuyết kinh điển, nhưng cũng là một câu chuyện tình yêu.
Grace liền mỉm miệng cười. Cô mở lớp giấy gói ra và thấy một quyển sách bìa da. Qua lớp bìa trầy xước, qua những góc cạnh đã mòn vẹt và cong vào trong, cô biết quyển sách này đã cũ và hẳn là được đọc rất nhiều lần. Grace xoay nó sang bên để xem phần gáy.
Tựa sách đã bợt bạt gần hết nhưng vẫn còn lờ mờ dòng chữ mạ vàng. Bá tước Monte Cristo của Alexandre Dumas.
George không chỉ tặng Grace cuốn sách mà anh nghĩ cô sẽ thích, có lẽ đó còn là tác phẩm yêu thích mà anh đã đọc thời niên thiếu. Nghe cách anh nhắc đi nhắc lại về nó, có thể thấy George yêu quý quyển sách này biết chừng nào.
Grace miết các ngón tay trên tấm bìa da cũ kĩ, tưởng tượng về cậu bé George năm nào thường để tâm trí dẫn dắt mình chu du đến những vùng đất mới lạ. Giờ đây, cô sẽ được bước lên chuyến phiêu lưu đã mang George đến với niềm say mê đọc sách cả đời. Grace hi vọng rằng những trang sách này cũng có thể thắp lên trong cô một tình yêu tương tự. Và cô càng hi vọng mãnh liệt về một ngày được gặp lại anh, để gửi lại quyển sách và trò chuyện với anh về nội dung của nó.
Nhưng hiệu sách này sẽ chẳng còn như trước khi không còn được thấy nụ cười quyến rũ của George.
“Tôi đã nói trước với cô là cậu ta rất có thể xung phong ra trận.” Ông Evans nói với ra từ phía sau các giá sách.
Grace nhắm mắt lại, cố dẹp yên cơn sóng lo lắng đang cồn cào trong lòng. Sự bận rộn sẽ giúp cô vượt qua tất cả. Trước đây, khi mẹ trở bệnh rồi qua đời, Grace cũng đã chống chọi với mọi đau khổ lẫn tổn thương. Chỉ cần vùi đầu vào công việc, tâm trí sẽ không suy nghĩ vẩn vơ nữa. Grace mở mắt ra, nở một nụ cười tươi tắn dù trong tiệm chẳng có ai.
“Cháu biết, đáng lẽ cháu nên nhanh chân tổ chức đám cưới với anh ấy cho rồi.” Grace nói thật to và có thể thấy rõ cô đang cố tỏ ra hài hước. Rồi cô đợi.
Ông Evans thò đầu ra khỏi những kệ sách và nhìn cô với đôi lông mày chau lại, “Tôi hi vọng cô chỉ đang nói giỡn.”
“Cháu phải làm gì đó để kéo bác ra khỏi công việc của bác mới được.” Grace cầm tờ danh sách sáng kiến mà cô đã thu thập lên. “Cháu muốn thảo luận với bác về một số ý tưởng đổi mới cho cửa tiệm.”
“Không.” Ông Evans vội vàng thu mình lại, hệt như con rùa không muốn đối mặt với thế giới bên ngoài chiếc mai của nó.
Grace cẩn thận gấp lá thư bỏ vào phong bì, cho vào túi xách của mình và đặt quyển sách lên quầy. “Chúng ta sẽ bắt đầu từ việc nhỏ thôi ạ,” cô dỗ dành.
“Cô đã lau dọn sạch sẽ chỗ này và làm rối tung hết đống sách của tôi.”
“Bác ngó qua một cái thôi mà.” Grace len lén nhìn qua một cái kệ và bắt gặp ông Evans đang nhăn nhó nhìn cô y như một đứa trẻ sưng sỉa giận hờn.
Không màng đến vẻ mặt của ông chủ, Grace giúi tờ danh sách vào người ông rồi để mặc nó ở đó trong lúc đi cất đồ đạc vào phòng sau. Khi quay lại, ông Evans nhìn cô với vẻ đầy cảnh giác.
Ông đặt tờ giấy lên trên một dãy sách, “Cô có thể tự do di chuyển mọi thứ để sắp xếp sao cho hợp lý. Nhưng nhớ kĩ là đừng có quảng cáo mạnh miệng quá. Và tôi không bao giờ mua lại sách hay bán đồ đã qua sử dụng như cửa hiệu của Foyle đâu nhé.”
“Vâng, chắc chắn là không rồi ạ.” Grace hứa.
Ông lẩm bẩm điều gì đó nghe như là đồng ý.
“Xin lỗi bác?” Grace hỏi lại với vẻ mặt ngây thơ. “Như vậy là bác cho phép cháu thay đổi mọi thứ trong hiệu sách Đồi Primrose đúng không ạ?”
Ông Evans thở dài, “Ừ.”
Grace nắm ngay lấy tờ danh sách, cô đã biết rõ phải bắt tay làm từ đâu, “Bác nhất định sẽ không hối hận đâu.”
“Tôi hi vọng cô nói đúng.” Ông Evans càu nhàu đáp, rồi lôi một cuốn sách trên kệ vào lòng bàn tay đang chờ đợi của mình.
Mặc dù ông Evans tỏ rõ thái độ không yên tâm nhưng Grace tin chắc ông sẽ rất hài lòng với thành quả cuối cùng. Nếu muốn thực hiện hết những công việc đã liệt kê ra, có lẽ cô sẽ mất khá nhiều công sức trong mấy tháng tới. Tuy nhiên, Grace hi vọng việc này không kéo dài quá khoảng thời gian mà cô định dành cho hiệu sách vì chắc chắn cô sẽ không có kế hoạch ở lại đây lâu hơn.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

CHƯƠNG 7

Hai tháng tiếp theo ở London rề rà trôi. Tất cả dự đoán về chiến tranh vẫn chỉ là dự đoán. Mọi công tác chuẩn bị, những kì vọng hay nỗi căng thẳng sợ sệt xem chừng đều là công cốc. Còi cảnh báo không kích đã ngừng vang lên, chỉ thị thắt chặt nguồn cung không còn áp dụng, các cuộc tấn công bằng khí độc không còn xảy ra, và đài phát thanh dường như chỉ nhai đi nhai lại một vài tin tức nghe đến phát ngán.
George vẫn bặt vô âm tín. Grace không biết địa chỉ để liên lạc với anh nhưng cô vẫn thầm hi vọng anh sẽ gửi thư về hiệu sách cho mình.
Đối với Grace, thời gian thấm thoắt trôi qua theo guồng quay của việc sắp xếp sách vở, di chuyển các giá, kệ và dọn dẹp lau chùi túi bụi tất bật hơn cô nghĩ. Công việc cuốn chặt lấy cô lâu đến mức một hôm, Grace giật mình nhận ra đã sang tháng Mười Một tự lúc nào.
Hiệu sách Đồi Primrose vẫn còn nhiều điểm phải sửa sang lại nhưng Grace vẫn kiêu hãnh rướn thẳng người mỗi khi bước vào tiệm. Không gian rộng mở thân thiện này chính là thành quả mà cô đã nỗ lực tạo ra. Mấy chiếc bàn mới tinh được đặt ngay giữa cửa hàng, nơi trưng bày những cuốn sách quay bìa ra ngoài để chào đón khách quen. Trên tấm bảng trắng, các thể loại sách được ghi rõ ràng bằng mực đen nổi bật.
Thật ra Grace chỉ mới phân loại và sắp xếp khoảng chừng một phần tư số sách của tiệm. Nhưng số lượng đó cũng đã khá đáng kể so với kho sách khổng lồ của ông Evans. Phần còn lại đang chất đống ở đằng sau, khiến cho căn phòng vốn đã chật chội nay càng ngột ngạt hơn và gần như chẳng thể nhúc nhích khi bước vào. Ngoài ra trên tầng hai còn cơ man sách vở nằm la liệt chồng chất. Nơi này đã bị khóa lại khi Grace dọn dẹp đống lộn xộn trong cửa hàng.
Vào một buổi sáng se lạnh, Grace đang bê một cái thùng đi xuống chiếc cầu thang xoắn ốc nhỏ hẹp thì chuông cửa reo lên báo hiệu có khách. Cô vội vàng đặt chiếc thùng vào một hốc tường ngay chân cầu thang, gắn lại biển báo “Không được vào” ở lan can rồi đi ra phía trước.
Ông Pritchard thập thò ở lối vào, đầu ông rụt sâu vào chiếc áo khoác to tướng. Đằng sau ông, như thường lệ vẫn là chú mèo Tabby lon ton theo sát gót.
“Chúc bác một ngày tốt lành, bác Pritchard.” Grace mỉm cười. “Nếu bác cần tìm bác Evans thì ông ấy đang ở sau dãy sách lịch sử kia.” Trông người đàn ông lớn tuổi có vẻ quạu quọ khi đọc tấm biển báo.
“Mấy cái này mới có.”
“Cháu vừa mua chúng vài tuần trước.”
Ông Pritchard cáu kỉnh, “Tôi hi vọng nó giúp ích cho cô hơn là con mèo này giúp cho tôi.” Ông lừ mắt về phía Tabby -cậu nhóc đang liếm sạch sẽ bàn chân với vẻ thoải mái. “Nó chỉ giỏi ngủ mập thây chứ bắt chuột nỗi gì.”
Để đáp lại câu nói đó, Tabby xoa một bàn chân đầy lông lá lên tai và mặt mình.
“Cháu rất tiếc khi nghe điều này,” Grace đáp. “Nhưng trông nó có vẻ rất quý mến bác.”
“Cũng chẳng được tích sự gì với đám chuột bọ chỗ tôi.” Ông Pritchard tặc lưỡi phản đối. “Hình như cô khá bận nhỉ, cô Basset.”
Grace chẳng buồn chỉnh lại khi ông nói sai tên mình. Ông Pritchard tiếp tục chăm chú ngó nghiêng tấm biển đặt trên quầy. Đây là một trong những ý tưởng cô đã nghĩ ra sau khi trò chuyện với George, một câu quảng cáo “Hãy thắp sáng những tháng ngày tắt điện tăm tối bằng một cuốn sách hay”.
Grace vẫn thường nghĩ về anh. Mỗi lần như thế, lòng cô lại bứt rứt áy náy vì chưa đọc quyển Bá tước Monte Cristo được nhiều hơn. Tuy đã cố gắng hết sức nhưng khi thì cô bị sao nhãng không tập trung được, khi thì quá mệt nên không thể thức thêm, hoặc đôi lúc vì cả hai. Do đó, cuốn sách vẫn nằm im lìm trên chiếc bàn cạnh giường ngủ của Grace, và cô mới chỉ đọc được vài trang đầu tiên.
Chưa kể nó còn nằm bên cạnh một danh sách việc cần làm chừng như dài bất tận. Nếu không phải làm việc ở hiệu sách, có lẽ Grace sẽ tập trung ghi lại những ý tưởng quảng cáo hoặc luôn tay dọn dẹp nhà cửa. Cuối cùng, khi có thể vớt vát chút thời gian để thở thì cũng đã đến lúc đi ngủ và sáng ngày hôm sau, cô tiếp tục bị guồng quay công việc cuốn chặt lấy mình.
“Tôi nghe nói chỗ này đang ăn nên làm ra lắm.” Sau khi săm soi tấm biển, ông Pritchard đứng thẳng người lên và nhìn cô chằm chằm qua chiếc mũi nhọn hoắt. “Cô có nghĩ là nhờ vào những quảng cáo này không?”
Grace nhún vai một cách vô thưởng vô phạt vì không biết ông Evans có muốn để lộ thông tin gì không.
Ông Pritchard bước lại gần hơn, người ông tỏa ra mùi bạc hà và băng phiến. “Nếu cô đồng ý đến làm cho tiệm Pritchard & Potts, tôi sẽ trả cao hơn lương hiện tại của cô một shilling một giờ.”
“Ông Pritchard.” Ông Evans từ đâu xuất hiện đằng sau họ.
Grace chưa kịp từ chối lời mời mọc của ông Pritchard bất kể được tăng thêm một pound một giờ đi nữa, thì người chủ của cô đã nói tiếp bằng giọng đều đều. “Nếu ông tới đây tham quan cửa hàng của tôi, chúng tôi rất sẵn lòng chào đón. Ông có thể thoải mái phàn nàn than thở về thế giới hay mạnh miệng tuyên bố về cuộc chiến.” Cặp mắt xanh của ông Evans nheo lại sau cặp kính dày cộm. “Nhưng nếu ông định dụ dỗ cô Bennett thì mời ông ra khỏi đây cho.”
Cảm giác sung sướng tự hào chạy rần rần khắp người Grace. Chú của cô sẽ chẳng bao giờ bênh vực cô như thế.
Ông Pritchard rướn thẳng người lên và tặc lưỡi cau có, hành động đó khiến cho đám tóc trắng trên đỉnh đầu ông rung lên từng hồi. “Cô ta sẽ phát huy tốt hơn nếu được làm trong một hiệu sách trên phố Paternoster Row, một nơi danh giá hơn hẳn Hosier.” Ông cong môi khi thốt ra từ cuối cùng. Nói xong, cặp chân gầy đét của ông quay ngoắt bước ra khỏi cửa hàng và Tabby lăng xăng chạy theo chủ.
“Cháu sẽ không đồng ý đâu.” Grace nói.
“Tôi cũng nghĩ thế.” Ông cúi đầu nhìn cô qua vành kính. “Cô đã làm ở đây được hơn hai tháng theo thời gian cam kết rồi.”
Trong mấy tháng qua, sự hóm hỉnh lạnh lùng ấy là điều khiến Grace quý mến ông Evans. Cô cười đáp, “Bác có chắc là không muốn cháu làm ở đây lâu hơn không?”
Ông tùy tiện khoát tay và chậm rãi đi về phía quầy thu ngân, giở cuốn sổ cái mà Grace đã tổng hợp vài tuần trước để xem qua. Có chút thay đổi về cách tổ chức bảng biểu, theo dõi doanh số cũng như những tiêu đề phổ biến mà cô sử dụng. Ông Evans thường xuyên xem nó và so sánh doanh thu qua từng ngày.
Khi nhận lương vào cuối tuần đó, Grace nhận ra ông đã tự tăng thêm một shilling một giờ cho thù lao của cô. Một hành động tử tế mà ông chẳng cần được cảm ơn, chỉ muốn nhắc nhở cô hãy giữ đúng cam kết làm đủ sáu tháng. Sau đó, chắc chắn Grace sẽ nhận được một lá thư giới thiệu tuyệt vời.
Kết quả làm việc của Viv ở trung tâm mua sắm Harrods cũng xuất sắc không kém. Cô được quản lý khen ngợi vì sự tinh tế trong việc giúp các quý bà, quý cô chọn được bộ trang phục hợp ý. Hai cô gái đã dần quen với nhịp sống sáng đi làm, chiều 4 giờ tan sở, rồi ở trong bếp tán gẫu về một ngày vừa qua bên tách trà nóng hổi, đôi khi có thêm bác Weatherford góp chuyện nếu bác không bận tay mấy việc lặt vặt.
Một buổi chiều nọ, Grace và Viv lặng lẽ ngồi bên nhau ngắm mưa rơi tí tách tạt lên ô cửa sổ, một khoảng lặng thật dễ chịu. Bất chợt Viv thở dài, “Cậu không khó chịu chút nào sao?”
Grace đang mải mê ngắm những giọt nước mưa tan vào nhau trước khi rơi xuống cửa sổ. Nghe bạn hỏi, cô ngẩng lên thắc mắc, “Khó chịu cái gì?”
Viv nhìn ra ngoài bằng ánh mắt khát khao, “Sự nhàm chán.”
Grace suýt nữa đã phì cười. Cô không còn mong muốn nào khác ngoài việc vùi đầu vào núi công việc ngất ngưởng ở hiệu sách.
Viv tròn mắt, “Tớ biết cậu không thấy chán, nhưng cuộc chiến này có thể chẳng bao giờ chấm dứt.”
“Nhưng có chuyện gì xảy ra đâu.” Grace phản đối. Rốt cuộc họ không hề nghe thêm tiếng còi báo động không kích nào nữa. Cũng chẳng có cuộc tấn công hay lệnh thắt chặt nguồn cung. Mà chỉ còn những tin đồn, nhưng tin đồn thì lúc nào chẳng có và cho đến giờ tất cả đều vô căn cứ.
“Chính xác.” Viv mở to mắt nóng nảy. “Tớ nghĩ London rồi sẽ lại hào nhoáng, người dân sẽ lại nháo nhào đi mua vé xem kịch và khiêu vũ thâu đêm suốt sáng cho xem.”
“Chúng ta có thể thử đi xem phim lần nữa.” Grace dè dặt đề nghị.
Viv đăm đăm nhìn bạn bằng ánh mắt rầu rĩ, chắc hẳn cô đang nhớ lại buổi đi xem phim gần nhất đầy thảm họa. Tòa nhà chiếu phim tối đen như tấm áo choàng của tử thần. Hai cô gái loạng choạng suýt ngã vài lần vì va phải tấm vách ngăn tạo thành dãy hành lang dẫn đến quầy mua vé. Bên trong tối đen như mực đến nỗi họ không thể thấy đường để đếm tiền xu. Rồi trên đường về nhà, Viv và Grace suýt chút còn bị ô tô đâm trúng vì chiếc xe chạy vượt quá tốc độ theo quy định mới ban hành.
Nỗ lực khám phá rạp chiếu phim rốt cuộc đã thất bại thê thảm. Cả hai đã quên mang theo mặt nạ phòng độc, một sự cố thường tình khi bị trễ giờ và do đó họ không được phép bước vào rạp. Chưa hết, chẳng những gặp chuyện bực mình trên đường về mà vừa đặt chân vào nhà, hai cô gái còn bị bác Weatherford “lên lớp” một bài về tầm quan trọng của mặt nạ phòng độc và lý do không được phép bỏ quên chúng.
Grace cũng đã kinh qua đủ tình huống mạo hiểm thót tim khi lang thang ngoài phố vào giờ giới nghiêm tắt điện. Sau trải nghiệm khủng khiếp trong tuần đi làm đầu tiên, sau lần cả hai suýt bị đụng xe trên đường từ rạp chiếu phim trở về, cộng thêm tất cả báo cáo về tệ nạn trộm cướp hành hung trong thành phố vừa bị bóng tối giăng kín này, hai cô gái quyết định không bao giờ liều lĩnh ra ngoài lần nào nữa.
Nhưng Grace không thích nhìn thấy Viv rầu rĩ than thở vì cuộc sống quá tẻ nhạt.
“Họ đã sơn thêm sơn trắng trên lề đường.” Viv vuốt thẳng ve áo. Cô vừa may một chiếc váy mới nữa. Ít nhất là cứ cách hai tuần, cô lại may thêm quần áo, không chỉ cho mình mà còn cho cả Grace và bác Weatherford. “Và tớ nghe nói những người giám sát phòng không giờ đã được mặc áo choàng phản quang.”
Grace khuấy nhẹ tách trà, lớp bột dưới đáy ly được đánh lên tạo thành xoáy nước nho nhỏ. “Ừ, nhưng vẫn có hơn nghìn người bị đụng xe. Ban đêm trời tối đen như mực, các nhân viên ở bến tàu sẽ bị rơi xuống nước chết đuối mất.”
Ngoài cửa sổ, một tia chớp lóe lên. Nếu là hai tháng trước, có lẽ họ đã hốt hoảng nhảy dựng lên vì ngỡ là bom, nhưng bây giờ cả hai vẫn ngồi yên bình thản.
Viv nói đúng, chẳng có cuộc chiến nào xảy ra, hay nói đúng hơn, giờ đây họ đang chiến đấu chống lại những ngày tháng tẻ nhạt.
“Tớ nghĩ…” Viv gõ gõ móng tay sơn đỏ bóng bẩy lên miệng tách trà cong cong. “Tớ đang cân nhắc có nên tham gia ATS hay không.”
Chiếc thìa trên tay Grace rơi xuống va vào thành chiếc tách trà. Lực lượng Hỗ trợ Mặt đất là chi nhánh trực thuộc Quân đội Anh. Nếu gia nhập vào đó, Viv sẽ phải tham gia huấn luyện và rất có thể bị điều đến nơi khác công tác. “Sao cậu phải làm thế?”
“Sao lại không chứ?” Viv hất một bên vai. “Tớ nghe nói bây giờ phụ nữ đều đang làm thư kí hoặc bán hàng nhỏ lẻ. Giống như những việc tớ đang làm, nhưng ít ra tớ có thể góp sức để mau chấm dứt tình trạng này.” Cô vẫy vẫy tay trong không khí như ngầm khái quát về tình trạng hiện nay của họ. “Tớ sẵn sàng làm mọi thứ để chiến tranh nhanh chóng kết thúc, để chúng ta thoải mái đi xem phim, đi nhảy đầm mà không phải nơm nớp nháo nhào chạy về nhà, để sau khi tất cả đàn ông giải ngũ, ta có thể gặp gỡ một anh chàng đẹp trai lạ mặt hay thậm chí hẹn hò đâu đó. Tớ không muốn tiếp tục sống trong nỗi sợ bị đánh bom hay phải thắt lưng buộc bụng. Tớ muốn cuộc sống trở lại bình thường như trước.”
“Nhưng cậu thích Harrods lắm cơ mà,” Grace tìm cách phản đối.
“Làm ở đó rất vui.” Viv thu hai tay vào lòng. “Chí ít hồi đầu thì vui lắm. Nhưng bây giờ chẳng còn mấy ai thiết tha đến quần áo váy vóc nữa. Vài người phụ nữ còn ghé qua đó chỉ để than thở với tớ về nỗi đau khổ của họ. Ai cũng đứng ngồi không yên vì không biết người thân sống chết ra sao ngoài chiến trường và con cái họ phải gửi đến ở với những người xa lạ ở một đất nước xa xôi. Một số bà mẹ nhận được thư con mà lòng đau thắt. Bọn nhỏ van nài được trở về nhà, hứa rằng sẽ ngoan ngoãn để mẹ đừng đuổi chúng đi nữa.” Viv nhìn xuống đôi tay mình. “Tớ chỉ muốn kết thúc tất cả chuyện này.”
Sự tĩnh lặng của ngôi nhà trong một ngày mưa đột nhiên bị một tiếng khóc nghẹn ngào xé tan.
Viv và Grace giật mình, lo lắng nhìn nhau rồi đứng lên tìm hiểu xem tiếng khóc đó phát ra từ đâu. Bác Weatherford đứng cạnh cửa ra vào, dưới chân rải rác những phong thư và bàn tay chặn lên miệng. Colin đang đứng trước mặt mẹ, anh mặc chiếc áo sơ mi trắng có cổ, tay áo xắn lên và trên tay cầm một lá thư để mở.
“Chuyện gì vậy ạ?” Viv hỏi.
“Bác có sao không ạ?” Grace vội vàng chạy đến cạnh người bác. Thậm chí bà còn không nhận ra sự có mặt của Grace vì vẫn đang đăm đăm nhìn cậu con trai bằng đôi mắt mở to sau cặp kính.
Grace nhìn Colin. Đây là lần đầu tiên anh không đỏ mặt khi thấy hai người chị xuất hiện. Gương mặt anh vẫn hằn lên nét xúc động dữ dội đối với lá thư. Anh nuốt nước bọt và yết hầu trên chiếc cổ gầy guộc của anh nhấp nhô thấy rõ. “Cuối cùng chuyện gì đến cũng đã đến.”
Colin xoay bức thư về phía họ. Trên cùng là dòng chữ in đậm “Lệnh triệu tập tham gia nghĩa vụ quân sự quốc gia (Lực lượng vũ trang), năm 1939” do Bộ Lao động và Quân dịch gửi đến. Thứ Bảy, ngày 11 tháng Mười Một, anh Colin phải đến Hội đồng Y khoa Trung tâm để kiểm tra sức khỏe. Lệnh đã được đóng dấu xanh.
“Mẹ nghĩ nghề của con phải được đặc cách rồi chứ.” Bác Weatherford lắc đầu, bà nhìn chằm chằm tờ lệnh triệu tập với vẻ hoài nghi.
“Họ chỉ nói là sẽ cố gắng thôi, mẹ ạ.” Colin nhẫn nại giải thích. “Chưa hề có sự đảm bảo nào cả. Con không thể khoanh tay ngồi ở nhà trong khi những anh em khác đang liều mình chiến đấu.”
Bà Weatherford quắc mắt lên, “Vậy con có tự nguyện không?”
“Dạ không.” Colin xoay bức thư lại về phía mình và cúi mặt xuống. “Con biết mẹ không muốn con đi. Con cũng biết mẹ đang cố tìm mọi cách để con được phép ở nhà. Nhưng con không thể làm ngơ được mẹ ạ. Con sẽ không làm thế.”
Grace quan sát Colin trong lúc hai mẹ con anh nói chuyện. Tờ giấy khẽ rung lên trong đôi tay to lớn và dịu dàng của anh, mặc dù anh cố ưỡn vai lên bày tỏ lòng quyết tâm khi thực hiện một nghĩa vụ chính đáng. Trái tim Grace tan vỡ.
Những người như Colin vốn không dành cho chiến tranh.
“Họ triệu tập con vào Ngày Đình chiến.” Bác Weatherford vuốt nhẹ chiếc váy hoa màu xanh mà Viv đã may cho bác. Hẳn là bác đang cố gắng kìm nén sự xúc động vì trước đây Grace từng thấy bác làm như vậy.
“Cha của con đã hi sinh để chúng ta có được ngày này, làm sao họ lại có thể triệu tập con ngay trong ngày đó chứ?” Giọng bà rít lên đầy hãi hùng và đau đớn.
Grace đưa tay chạm vào người bác Weatherford lần nữa nhưng bác gạt cô ra. “Mẹ phải gọi cho ông Simons. Ông ta nói với mẹ là đã đưa tên con lên làm nhân viên thiết yếu của cửa hàng. Ông ấy có thể…”
Colin bước tới để ngăn mẹ lại. Cuối cùng bà đành đứng yên, rồi nhìn cậu con trai bằng đôi mắt mở to rưng rưng.
“Mẹ, con sẽ thực hiện bổn phận của con.” Anh ưỡn bộ ngực gầy. “Đất nước cần đến chúng con.”
Cổ họng Grace nghẹn lại. Chàng trai trẻ trung, rất đỗi dịu dàng và tử tế này, chàng trai vẫn còn đâu đó nét đáng yêu, trong sáng của tuổi mới lớn mà bây giờ lại bản lĩnh như thế đấy.
Grace không tưởng tượng nổi ngôi nhà sẽ ra sao nếu vắng bóng Colin, và bác Weatherford sẽ sống thế nào khi không có con trai bên cạnh. Bác đã dồn hết tình thương vào Colin và lúc nào cũng nhìn con bằng ánh mắt chứa chan tình thương lẫn tự hào.
Cằm bác Weatherford run run. Bác mím môi lại nhưng không kìm được và đôi mắt chớp chớp rất nhanh. “Mẹ không làm được. Mẹ…” bà nghẹn giọng, rồi bỏ chạy lên tầng.
Cánh cửa phòng ngủ trên tầng hai của bác đóng sập lại. Tiếng khóc đau đớn, tức tưởi vang lên, xé tan bầu không gian yên lặng.
Colin cúi đầu, cố giấu đi cảm xúc.
Grace đặt tay lên tay áo bông mềm mại của cậu em, “Lên với mẹ đi. Chị sẽ đun một ấm nước khác.”
Colin gật đầu mà không nhìn Grace, rồi anh nặng nề lê bước lên cầu thang trong lúc Grace dẫn Viv quay vào nhà bếp. Khi chỉ còn lại mình họ, Grace liền áp tay lên ngực. Một cơn đau âm ỉ bắt đầu dội lên.
Colin. Đi lính.
Đầu tiên là George. Giờ đến lượt Colin.
Có phải tất cả đàn ông ở London này sẽ nhanh chóng ra đi hết không?
Cô nhìn sang Viv, nghe nỗi đau trĩu nặng cả người, ngay cả Viv cũng sẽ sớm rời khỏi đây thôi.
Dường như đọc được suy nghĩ của bạn, Viv lắc đầu mạnh mẽ khiến những lọn tóc đỏ lúc lắc quanh khuôn mặt cô. “Lẽ ra tớ không nên nói những lời lúc nãy.” Viv hít mạnh một hơi. “Tớ sẽ không tham gia ATS. Colin đã phải ra đi rồi.”
Viv vòng tay ôm lấy bạn, mùi nước hoa thơm mát mang hiệu It’s You mà cô mới mua len lỏi quấn theo vòng tay của họ.
“Tớ sẽ không bỏ đi đâu,” Viv hứa. “Bây giờ bác Weatherford cần cả hai chúng ta.”
Grace gật đầu trên vai bạn, cô cảm thấy vô cùng cảm kích vì sau khi George và Colin ra trận, cô vẫn còn lại Viv. Nếu cả ba người đều phải đi thì quả thực cô sẽ không thể nào chịu đựng nổi.
Những ngày sau đó, Colin tất bật sửa sang, thu xếp cho ngôi nhà ổn thỏa trước khi lên đường. Anh xin nghỉ việc ở Vương quốc Thú cưng để dành thời gian đóng lại những chỗ ọp ẹp trên cầu thang hay tra dầu cho cái bản lề kêu cót két. Thậm chí Colin còn lo xa hơn khi hướng dẫn cho Grace và Viv cách sửa chữa một số sự cố lặt vặt trong lúc anh vắng nhà, chẳng hạn như vòi nước bị rò rỉ hay nắm đấm cửa bị lỏng.
Một ngày nọ, sau khi đi làm về, Grace bắt gặp Colin đang lom khom bên cạnh cửa sổ phòng khách, cẩn thận dán giấy lót lên tấm kính theo một kiểu mẫu hoa văn rất nghệ thuật. Anh làm vậy để phòng khi ngôi nhà bị đánh bom thì kính cũng không thể vỡ vụn. Nhưng dường như nguy cơ bom đạn không còn đáng lo nữa.
Viv đã báo trước hôm nay sẽ về muộn vì phải làm cho xong mấy việc lặt vặt. Grace để tờ giấy liệt kê những câu quảng cáo đang chờ cân nhắc sang một bên và quỳ xuống cạnh Colin. Cô không cần ngỏ lời đề nghị giúp một tay vì biết đằng nào anh cũng sẽ từ chối. Thay vào đó, Grace cắt một dải băng keo, thấm ướt mặt sau và dán lên kính, theo đúng mẫu hoa văn tỉ mỉ của Colin.
Chàng trai ngước lên, anh chăm chú nhìn Grace một lúc bằng đôi mắt xanh dịu dàng và nở nụ cười biết ơn.
“Chị nghĩ mẹ em sẽ không cho phép dán chằng dán chịt lên cửa sổ vậy đâu nhỉ?” Grace vừa hỏi vừa tiện tay cắt bỏ một đoạn vải lót dài.
“Nó sẽ bảo vệ mọi người an toàn.” Bàn tay to dày của Colin vuốt vuốt lên mảnh giấy mà Grace vừa dán, làm thoát ra những bọt khí nhỏ. “Chị nên xem em đã làm gì với những bông hoa còn lại của mẹ kia kìa.”
Grace há hốc miệng, “Em không định nói là em đã… đã biến nó thành đất trồng rau rồi chứ?”
Từ tháng Mười đến nay, chính phủ bắt đầu kêu gọi người dân hãy xới bỏ các luống hoa và trồng rau thay thế để hưởng ứng chiến dịch “Canh tác vì chiến thắng” (the Dig for Victory). Mặc dù chính sách thắt chặt nguồn cung vẫn chưa được ban ra như bác Weatherford từng tuyên bố chắc nịch, nhưng hành động khuyến khích nhà nhà tự trồng nhiều rau củ chứng tỏ chỉ thị này sắp được thi hành.
Ấy vậy mà bác Weatherford vẫn không đành lòng nhổ bỏ những cây hoa hồng và dạ lan hương đang khoe sắc rực rỡ trong khu vườn thân yêu của mình.
Colin từ tốn gật đầu và đưa mắt nhìn qua tác phẩm của anh. “Em không rành lắm về các loại rau, em chỉ đọc sách rồi cố làm theo thôi.” Anh nhún vai tỏ vẻ bất lực.
“Sao em không hỏi Viv, trước khi lên đây cô ấy từng làm việc trong trang trại.” Grace nói.
“Chính vì vậy em mới chọn lúc chị ấy không có nhà để tranh thủ làm.” Colin đứng lên và bắt đầu dán phần phía trên cửa tấm kính cửa sổ. “Chị ấy lúc nào cũng tươm tất xinh xắn. Em không thể để chị ấy ra vườn cho bụi đất lấm lem rồi hỏng hết móng tay được.”
Grace đứng lên với Colin. Cô chỉ cao ngang ngực anh nên không thể với tới phần cửa sổ cao hẳn phía trên tường.
“Và em cũng biết Viv quá cứng đầu nên không đời nào từ chối đâu.” Grace không cố gắng với lên để dán miếng giấy mà chỉ cắt ra, thấm ướt rồi đưa cho Colin.
Anh chàng cười toe toét và nhận lấy mảnh giấy. “Cái này là chị nói, không phải em nhé.”
“Mẹ em thấy khu vườn chưa?” Grace gỡ một mảnh giấy có keo dính khác ra khỏi cuộn giấy.
Colin lắc đầu. “Mẹ tham gia Hội Phụ nữ tình nguyện địa phương và đi họp buổi đầu tiên rồi. Chắc chắn mẹ sẽ bất ngờ khi thấy nó.”
Anh ngó ra ngoài cửa sổ, đăm chiêu nhìn phố phường bên dưới. Khuôn mặt anh dần mất đi nét tươi cười. “Chị Grace ạ, mẹ sẽ cần được đỡ đần nhiều lúc em vắng nhà.”
“Chị sẽ luôn ở đây,” cô trang trọng hứa.
Colin cúi đầu. “Em không bao giờ muốn bỏ mẹ một mình. Nếu quân Đức ném bom London thì sao? Mẹ và hai chị sẽ gặp nguy hiểm.”
Dù có Colin thì chắc hẳn cậu cũng không thể ngăn cản bom từ trên trời rơi xuống, Grace nghĩ vậy nhưng không nói ra. “Chúng ta đã có hầm trú ẩn ở sân sau, cửa sổ thì được dán băng keo kín mít. Em cũng đã trồng rau để mẹ và tụi chị có đủ thức ăn, và em cũng biết là mẹ có dự trữ sẵn khá nhiều vật dụng thiết yếu rồi.”
Chàng trai ngẩng đầu lên và khẽ cười, “Ừ, đúng nhỉ. Phải tranh thủ kẻo những người ưa tích trữ sẽ vơ vét hết.” Anh nháy mắt với Grace.
“Chính xác.” Cô đưa mắt nhìn Colin. “Em yên tâm, bác và hai chị ở nhà sẽ ổn thôi. Em nhất định phải tự bảo vệ mình. Chúng ta chắc chắn sẽ chuẩn bị một bữa tiệc hoành tráng nhất trần đời để mừng em trở về.”
Anh chàng đáp lại bằng nụ cười ngọt lịm khiến trái tim Grace muốn tan chảy.
“Em thích lắm,” Colin đáp.
Cánh cửa chính mở ra rồi đóng lại, tiếp theo là tiếng lách cách của đôi giày được tháo ra, tiếp theo là chiếc ví và mặt nạ phòng độc được treo lên.
Colin nhăn mặt lại và liếc ngang liếc dọc bức tường.
“Phải mẹ em về không?” Grace thì thào.
Colin cau mày gật đầu.
“Chúng ta có nên nói chuyện đó với bác không?” Grace hỏi.
Chàng trai lắc đầu lia lịa khiến Grace phải bụm cả hai tay lên miệng để không phì cười.
Tiếng cánh cửa đằng sau nhà mở ra rồi khép lại. Ngay lúc đó, hai chị em biết ngay là họ chẳng cần phải thông báo với bà Weatherford rằng những luống hoa của bà đã anh dũng hi sinh. Một tiếng thét xé tai vang lên cho biết bà đã phát hiện ra sự thật đau lòng.
Tuy nhiên, việc nhổ bỏ những khóm hoa của bác Weatherford hay dán kín bưng các ô cửa sổ (điều khiến bác nhăn nhó chê rằng “thật khó coi”) vẫn chưa phải nỗi mất mát lớn nhất. Điều khiến mọi người đau buồn hơn cả chính là thực tại rằng Colin phải lên đường nhập ngũ.
Buổi sáng Ngày Đình chiến, Colin đi kiểm tra sức khỏe. Hai ngày sau thì nhận được lệnh triệu tập đi nghĩa vụ.
Mọi việc xảy ra dồn dập tới mức đến ngày anh chuẩn bị lên đường, mọi người vẫn thức dậy trong nỗi bàng hoàng vì không tin đây là sự thật.
Viv cố gắng nặn ra một nụ cười để tiễn Colin và cô chính là người đầu tiên ôm tạm biệt cậu.
Tiếp theo, chàng trai ôm lấy Grace. Anh thì thầm, “Chị giúp em chăm sóc mẹ nhé.”
Grace gật đầu trên ngực đứa em, “Chị hứa.”
Cuối cùng khi nói lời tạm biệt mẹ, Colin rưng rưng nước mắt. Anh vội chớp chớp mắt, nặng nề khụt khịt mũi rồi rướn lưng thật thẳng và vội vã rời khỏi nhà. Tất nhiên, bác Weatherford rất muốn đi cùng nhưng rốt cuộc, Colin đã thuyết phục được mẹ rằng anh muốn một mình lên đường làm tròn nghĩa vụ với đất nước.
Sau lưng chàng trai trẻ, cánh cửa khép lại và cả ngôi nhà rơi vào sự vắng lặng khác thường, như thể nó cũng đang khóc thầm cho sự ra đi đó. Bà Weatherford đến bên cửa sổ lớn của phòng khách, dõi mắt nhìn con trai đi xuống phố. Cả ngày hôm ấy, bà không hề rời khỏi ô cửa, như thể bà vẫn còn nhìn thấy Colin đang đi và vẫy tay chào tạm biệt con mình.
Mới vài ngày trước, chiến tranh còn là một điều gì đó thật nhàm chán, tẻ nhạt, tưởng như mọi công sức chuẩn bị đều vô ích. Vậy mà giờ đây, hiện thực đã ập tới với họ một cách thật tàn nhẫn.
Sự hi sinh đã quá lớn. Nhưng đây mới chỉ là khởi đầu cho rất nhiều sự kiện đang sắp sửa diễn ra.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

CHƯƠNG 8

Tuy đường phố London ngày càng vắng bóng các chàng trai nhưng khách hàng vẫn thường xuyên lui tới hiệu sách Đồi Primrose. Các bà nội trợ tìm đọc tiểu thuyết, còn những ông chú lớn tuổi tập trung ở dãy sách chính trị với lối văn phong sắc bén. Tất cả những ai chưa đủ tuổi hoặc đã quá tuổi ra trận đều đắm chìm vào thế giới sách ở cửa hàng này. Và Grace rất đỗi hạnh phúc khi được tất bật luôn tay giúp họ chọn sách. Tuyệt vời hơn cả là sau khi sắp xếp lại cửa hiệu, cô nhận thấy khách hàng thường nán lại lâu hơn gấp đôi thời gian và mua nhiều gấp ba lần so với trước.
Lý do tạo nên sự khác biệt chính là người mua có thể dễ dàng tìm thấy cuốn sách mà họ mong muốn. Tất cả đều cảm thấy thuận tiện hơn, chỉ trừ một ông giáo sư hay nhăn nhó săm soi những chiếc kệ quá ư sạch sẽ, rồi buông lời bình phẩm rằng trông chúng không còn vẻ mộc mạc, chân thật như cách phân loại loạn xạ ngày xưa. Nghe vậy, Grace khẽ mỉm cười vì nhận xét của ông làm cô nhớ đến George, anh chàng cũng rất quyến luyến cửa hiệu cũ kĩ, bụi bặm này.
Thậm chí Grace còn nỗ lực thuyết phục được ông Evans tham gia hệ thống mã quà tặng sách Quốc gia. Đây là một cơ hội quảng bá cực kì hiệu quả: người ta có thể mua thẻ để làm quà tặng và người nhận quà sẽ đổi tấm thẻ đó để lấy bất kì quyển sách nào họ thích. Grace biết đến hệ thống hay ho này nhờ một lần ghé vào Foyle’s - hệ thống nhà sách gồm sáu cửa hàng ở Anh, nơi chuyên bán sách cũ và các loại trà thượng hạng cho những khách hàng nổi tiếng. Khi vừa nhìn thấy loại thẻ đổi hàng này ở Foyle’s, Grace nhận ra chúng đã có mặt ở khắp các cửa hàng khác và nếu không bắt kịp ngay xu hướng này thì hiệu sách của ông Evans sẽ gặp bất lợi vô cùng.
Giáng sinh sắp đến, hiệu sách Đồi Primrose đã bán được vài chục thẻ ngay trong ngày đầu tiên Grace thông báo họ có phát hành thẻ đổi sách.
“Cô Bennett, tôi phải công nhận là ý tưởng vé bán sách của cô hay ho đấy.” Ông Evans bất đắc dĩ thừa nhận sau khi người khách hàng mà ông vừa tính tiền rời đi.
Grace cười toe toét khi ông cứ quen gọi là “vé” chứ không gọi là “thẻ”.
“Cháu rất vui vì có nhiều người mua chúng.” Cô quấn một đoạn dây xung quanh tấm giấy bạc đã gấp lại rồi kéo giấy phồng ra để làm thành quả bóng trang trí xinh xắn. Trông nó thật tuyệt vời để đặt vào phần tiểu cảnh mùa đông mà cô vừa bài trí bên cửa sổ.
“Sắp hết tháng Mười Hai rồi.” Ông Evans lấy cuốn sổ cái nhỏ mà Grace để cạnh quầy tính tiền, ghi lại doanh thu dựa theo hệ thống tính toán hiệu quả mà cô đã lập ra. Viết xong, ông đặt cây bút chì - một cây bút đủ dài để ông không phải kẹp nó giữa mấy đầu ngón tay - ngay ngắn ở một bên rồi ném mẩu giấy rách vào thùng rác cạnh quầy.
“Cháu hi vọng chiến tranh sẽ kết thúc vào năm 1940.” Grace buộc một mớ giấy bạc nữa lại với nhau. Chỉ cần thêm một cái nữa là đủ rồi.
“Cô đã đi được hai phần ba chặng đường của sáu tháng làm ở đây.” Ông chủ tiệm xem cuốn sổ lần nữa trước khi đóng lại.
“Vâng.” Grace quan sát và thấy vẻ mặt ông hết sức bình thản. Khi ông đang mở miệng định nói thêm điều gì thì chuông cửa vang lên leng keng, sau đó một người đàn ông cao ráo, mảnh khảnh với bộ ria mép rậm rạp bước vào. Ông Evans thở dài, “Chào buổi chiều, ông Stokes. Chúng tôi đã vi phạm gì sao?”
Tên của người này nghe quen lắm nhưng Grace không thể nhớ ra ông ấy là ai.
“Tôi không phải đang làm nhiệm vụ.” Giọng nói đầy quyền lực của vị khách tác động mạnh hơn vào trí nhớ của Grace và khiến cô giật mình ngay tức khắc.
Ông Stokes là người giám sát phòng không của thành phố.
“Tôi biết, giờ đã khá muộn rồi.” Ông khách đưa mắt nhìn lướt qua các dãy sách và cau mày lại. Những nếp nhăn trên trán cho thấy ông vẫn thường hay nhăn nhó như vậy. “Tôi cần một cuốn sách để giết thời gian cho hết đêm nay. Chỗ tôi làm chỉ có mấy gã non choẹt, cạy miệng cũng chẳng buồn nói năng gì. Tôi biết các người đang hi vọng Giáng sinh thì sẽ được bật nhiều đèn hơn một chút, nhưng rốt cuộc… chẳng có gì cả.” Khóe môi ông võng xuống lộ rõ vẻ thất vọng vì chẳng tìm được thêm cơ hội nào để quở trách.
“Một cuốn tiểu thuyết huyền bí hấp dẫn nhé?” Ông Evans vẫy người đàn ông kia đi theo mình.
Giới thiệu sách là việc mà ông Evans giỏi nhất còn Grace thì dở nhất. Cô đã dốc hết thời gian vào việc sửa sang sắp xếp nên chẳng còn thì giờ đâu để đọc chứ đừng nói đến là gợi ý cho người khác đọc. Phải chăng đó là điều ông Evans định nói với Grace khi ông nhắc đến chuyện thời gian làm việc của cô ở cửa tiệm này sắp kết thúc?
Nhưng Grace không có cơ hội để tìm ra đáp án cho băn khoăn đó. Suốt thời gian còn lại của buổi chiều hôm đó, cô bận túi bụi đến mức không thể ngẩng mặt lên và ông Evans cũng không đả động thêm gì về nó. Năm mới sắp đến, Grace quyết tâm dành thời gian để đọc những quyển sách mà họ bán. Như vậy cô có thể sẽ biết cách giới thiệu cho độc giả các tác phẩm phù hợp thay vì chỉ gợi ý những tựa sách có vẻ đang nổi tiếng.
Giáng sinh là một sự kiện quan trọng nhưng tiếc là năm nay vắng mặt Colin. Bác Weatherford đã gom góp mọi thứ để chuẩn bị một bữa tiệc thật thịnh soạn, vì họ nghe phong thanh rằng chỉ thị thắt chặt nguồn cung sẽ bắt đầu áp dụng từ tháng Một. Bác tìm được một chú gà tây mập mạp để nướng cho bữa tối, còn có cả củ cải, khoai tây và bắp cải brussels. Ba bác cháu cùng trao đổi quà cho nhau, họ cố xua tan bầu không khí nặng nề ảm đạm nhưng dường như chẳng khá hơn được mấy. Thiếu đi lòng tốt bụng tử tế của Colin, ngôi nhà đã không còn ấm áp, lung linh như trước.
Grace tặng thẻ đổi sách cho bác Weatherford và một chiếc mũ mới rất hợp mốt cho Viv. Quà của Viv là hai cái váy mới duyên dáng do chính tay cô may. Quả là những món quà tiện dụng. Người bác cũng chuẩn bị cho mỗi đứa cháu gái một chiếc túi xách có thể để sẵn mặt nạ phòng độc.
Chiếc túi khiến người ta rất tò mò vì có phần đáy tròn đủ nhét vừa một chiếc hộp và có túi nhỏ để bỏ khá nhiều mặt nạ. Cả hai cái đều được làm bằng loại da đen sành điệu với khóa vàng trên nắp. Quả là một chiếc túi xách thời thượng mà bất kì quý cô nào cũng cảm thấy kiêu hãnh khi đeo nó bên mình.
“Như vậy là hai đứa không được phép bỏ quên mặt nạ khi ra ngoài nữa nhé.” Bác Weatherford nhấn mạnh “tối hậu thư” rằng sẽ không chấp nhận bất cứ lý do lý trấu nào nếu họ để quên mặt nạ ở nhà lần nữa.
Trái với dự đoán lạc quan của nhiều người, Giáng sinh trôi qua chẳng những không chấm dứt được chiến tranh mà còn kéo theo nguy cơ thi hành chính sách hạn chế thực phẩm. Việc nguồn cung thịt xông khói, bơ và đường ngày một khan hiếm càng làm cho một trong những mùa đông lạnh lẽo nhất ở London thêm phần khắc nghiệt.
Mỗi một người dân Anh, kể cả Đức vua và Nữ hoàng, đều được phát một tập tem phiếu nhỏ ghi rõ giới hạn số lượng hàng hóa mà họ được phép mua. Mặc dù bác Weatherford đã mua đường dự trữ và cất giữ cẩn thận từ mấy tháng nay, nhưng Grace và Viv vẫn thấy hộp đường dần dần vơi đi.
Nhưng chính trong thế giới u ám đó, Grace đã bất ngờ phát hiện ra một tia nắng ấm áp.
Vào buổi chiều rét mướt nọ, sau khi rời khỏi hiệu sách Đồi Primrose, Grace nhận ra mình có một khoảng thời gian rảnh rỗi hiếm hoi. Cô biết ngay là mình nên tận dụng thời gian đó làm gì. Grace tự pha một tách trà, rúc vào chiếc ghế Morris, trùm tấm chăn dày ấm áp lên chân và đặt quyển sách Bá tước Monte Cristo nặng trịch trên đùi.
Cô lướt mấy ngón tay lên lớp bìa da đã sờn và nghĩ về George Anderson. Không chỉ anh mà còn tất cả những người đàn ông đã lên đường ra trận.
Bây giờ họ đang ở đâu? Họ có cảm thấy buồn chán lắm không?
Grace thật lòng hi vọng như thế, vì buồn tẻ vẫn còn hơn là đối mặt với hiểm nguy.
Cô từ tốn lật sách ra. Chiếc gáy sách già nua thậm chí chẳng buồn kêu cọt kẹt, như thể năm tháng đã bôi dầu trơn cho nó. Và Grace bắt đầu đọc.
Hóa ra cuốn sách không hề giống với những gì cô đã đọc ở trường. Không có những phép toán khô khan, bài tập cấu tạo từ hay phân tích cấu trúc câu. Rốt cuộc, khi Grace thật sự dành sự chú tâm xứng đáng cho một tác phẩm kinh điển, nó đã cuốn hút cô đọc say sưa đến mức không thể nào rời mắt.
Câu chuyện mở đầu bằng sự kiện nhân vật chính bị buộc tội, rồi nhiều hành động lừa gạt khác tiếp nối nhau để đưa đến một âm mưu phản bội ghê tởm nhất. Từng câu, từng chữ, từng trang cứ thế kéo Grace bước vào một thế giới cô chưa từng biết đến và theo chân một người mà cô chưa từng gặp qua.
Grace hoàn toàn đắm chìm vào câu chuyện. Đôi mắt cô mỗi lúc một lướt nhanh hơn trên trang giấy, ngấu nghiến từng câu từng chữ, háo hức muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra với Edmond…
“Grace?” Tiếng gọi của bác Weatherford thình lình xen ngang câu chuyện, phá tan khung cảnh tưởng tượng sống động trong tâm trí Grace.
Cô giật mình, ngước nhìn bác Weatherford.
“Bữa tối sắp xong rồi đấy.” Người bác nhìn Grace với ánh mắt dò xét rồi lật đật chạy đến bên cửa sổ. “Cháu quên kéo rèm lại này. Thế nào ông Stokes cũng nhắc nhở chúng ta cho coi.”
Grace chớp chớp mắt và thoáng chút bối rối. Căn phòng đã tối mù mờ tự lúc nào. Thấy vậy, cô đang định bật đèn thì trong trí óc hiện lên cảnh Mercedes và Edmond tổ chức tiệc đính hôn và âm mưu quỷ quyệt bắt đầu thật sự giăng ra.
Một ánh đèn chói mắt lóe lên khiến trang giấy hiện ra trắng lóa trước mắt Grace rồi những dòng chữ đen nhánh từ từ rõ ràng hơn.
“Cháu đang đọc gì thế?” Bác Weatherford vừa bước lại gần vừa nghiêng người nhìn bìa sách.
“Bá tước Monte Cristo ạ.” Hai má Grace nóng lên. “Quyển sách này anh Anderson đã để lại cho cháu trước khi nhập ngũ.”
Đôi mắt bác Weatherford tối sầm lại, “Đó cũng là một trong những cuốn sách mà Colin thích nhất.”
“Bác có tin gì của em ấy không?” Grace hỏi.
Bà Weatherford thẫn thờ đi qua đi lại quanh phòng, chỉnh lại chồng tạp chí cho ngay ngắn và sắp xếp những chiếc gối căng phồng đến mức không thể nhét thêm bông vào ruột nữa. “Bác chưa nghe được gì hết nhưng bác mong là sẽ sớm nhận được tin của nó. Cháu biết mà, người ta sẽ huấn luyện tụi nó kĩ lưỡng trước khi…” Giọng bà nghẹn lại.
Trước khi đẩy họ ra chiến trường.
Những lời chưa nói lẫn trong nỗi lo sợ về hiểm nguy cận kề cứ vậy mà lửng lơ trong không khí.
“Nếu bác thích thì sau khi đọc xong cháu sẽ đưa bác mượn ạ.” Grace cố gắng đổi đề tài.
“Cảm ơn cháu, bác đang đọc một cuốn tiểu thuyết dễ thương của Jane Austen. Bác mua bằng tấm thẻ đổi sách mà cháu tặng đấy. Bác còn chưa đọc xong cả cuốn Emma.” Bà loay hoay gỡ tấm rèm đen để nó rơi xuống che kín cửa sổ. “Bác còn bận túi bụi với các cô các bà ở Hội Phụ nữ tình nguyện nữa, mà giờ bác cháu mình đi ăn nhanh đi kẻo đồ ăn nguội hết rồi.”
Hội Phụ nữ tình nguyện địa phương đã trở thành điểm tựa tinh thần cho bác Weatherford trong những ngày vắng bóng con trai bên cạnh. Nếu không có công việc bận rộn ở đó, có lẽ bác sẽ mải vùi đầu vào chuyện lau nhà cửa để quên đi hiện thực khắc nghiệt. Không chỉ vậy, nhờ đội tình nguyện, bác còn được gặp gỡ và bầu bạn với những người mẹ đồng cảnh ngộ khác đang thấp thỏm vì con trai đã dấn thân vào nơi mưa bom bão đạn.
Grace ngoan ngoãn đặt quyển sách xuống rồi đi vào bếp ăn tối. Thiếu đi Colin ngồi ở vị trí đối diện với mẹ cậu, bàn ăn dường như trở nên quá trống trải.
Viv toét miệng cười khi thấy Grace bước vào. “Tớ nghĩ hôm nay cậu muốn bỏ luôn bữa trà với chúng ta vì quá đắm chìm vào cuốn sách của anh George rồi.”
Grace cảm giác mình đã đi lạc vào một thế giới khác và bây giờ mới tìm được lối quay về thực tại. Cô bật cười, cảm thấy bản thân hơi ngốc nghếch. “Xin lỗi cậu, tớ chẳng nghe tiếng cậu bước vào. Tớ còn không nhận ra là căn phòng đã tối thui.”
Suốt bữa tối hôm ấy, ngay cả trong lúc vừa tán gẫu vừa thưởng thức món gà nướng mềm và ngon tuyệt của bác Weatherford, Grace nhận ra mình vẫn không ngừng suy nghĩ về câu chuyện của Edmond Dantés. Không chỉ vậy, cô còn xúc động sâu sắc trước những trải nghiệm của anh như thể chính cô mới là người nếm trải biến cố chứ không phải nhân vật trong sách.
Chắc hẳn đó chính là cảm xúc mà George đã trải qua khi anh đọc sách.
Đêm hôm ấy, Grace trùm chăn kín đầu rồi chong đèn pin soi sáng những trang sách và tiếp tục đắm mình vào hành trình của Edmond. Cứ hết một chương, cô lại tự nhủ là chỉ đọc nốt một chương nữa thôi, mãi cho đến khi hai mắt díp lại rồi những hình ảnh mờ ảo trong câu chuyện hòa lẫn vào giấc mơ thì khi ấy cô mới thực sự chìm vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau Grace giật mình thức dậy, mắt lờ đờ mệt mỏi và cuống cuồng vì sắp trễ giờ làm. Sau khi nhấp vội tách trà nhạt thếch không đường và cắn miếng bánh mì nướng phết qua loa chút bơ, cô khoanh tay thật chặt để chống lại cái lạnh cắt da trên đường đến hiệu sách Đồi Primrose.
Nếu vào mùa hè hay mùa thu, đoạn đường đi bộ này hẳn sẽ rất nhanh chóng và dễ chịu nhưng đến mùa đông thì thời tiết thật khắc nghiệt. Gió quất mạnh vào người Grace, khiến bước chân của cô ngày càng nặng nề vì cái lạnh ẩm ướt thấm sâu vào xương tủy.
Khi sắp đến nhà ga Farringdon, trong lúc Grace đang mơ màng nhớ lại những tình tiết của câu chuyện Bá tước Monte Cristo thì một tràng cười bất ngờ khiến cô chú ý đến con đường bên cạnh. Giữa tiết trời lạnh lẽo, hai đứa trẻ hồn nhiên chạy lăng xăng như đang chơi đuổi bắt. Đôi má chúng đỏ ửng lên vì cái rét cắt da cắt thịt và miệng chúng cười phả ra cả khói.
Tiếng cười khúc khích đó đi xa dần rồi hòa vào âm thanh xe cộ ồn ào qua lại lẫn tiếng nói cười rôm rả. Đột nhiên Grace nhận ra bao lâu nay cuộc sống đã thiếu vắng tiếng trẻ con đến nhường nào.
Mặc dù không phải người mẹ nào cũng đồng ý gửi con ra nước ngoài nhưng với số lượng quá đông trẻ con được sơ tán, hầu như người ta chẳng còn thấy bóng dáng đứa bé nào.
Và Grace không chỉ nhìn thấy hai đứa trẻ đang chơi đuổi bắt ấy. Trên đường đến cửa tiệm, cô còn bắt gặp những bé gái đứng bên cạnh chiếc xe nôi đồ chơi đẩy búp bê đang thì thầm to nhỏ gì đó với nhau.
Có phải bọn trẻ đang trở về không?
Nếu đúng vậy thì rất có thể chiến tranh sắp kết thúc rồi. Vui mừng với ý nghĩ đó nên vừa đẩy cửa bước vào, Grace liền hỏi ông Evans, “Bác có thấy bọn trẻ không? Hình như chúng được đưa về nhà rồi.”
Ông chủ tiệm khoát tay mạnh mẽ, suýt chút làm đổ hết lọ bút chì đã chuốt nhọn. Ông nói, “Đóng cửa lại đi, cô Bennett. Ngoài trời lạnh như băng đấy.”
Grace nhanh chóng làm theo, đóng sập cửa lại để ngăn một cơn gió hung hăng đang cố luồn những ngón tay lạnh lẽo vào trong cửa hàng. Khi cái rét đã bị chặn đứng ở bên ngoài, hơi ấm của hiệu sách râm ran trên hai gò má và đôi tay Grace, khiến cả người cô nóng bừng lên trong đống quần áo mùa đông.
“Đám trẻ đã được trở về từ Giáng sinh này.” Ông Evans liếc nhìn gì đó trong cuốn sổ cái. “Cái này là gì?” Ông chìa cuốn sổ về phía Grace.
Cô nhìn xuống dòng chữ viết tay ngoằn ngoèo của ông và cố gắng phớt lờ cái đầu đang nhức bưng bưng vì thiếu ngủ. “Là năm quyển ạ.” Ông Evans ậm ừ xác nhận và hí hoáy viết gì đó bên cạnh mẩu ghi chú. “Tôi không biết làm sao mà cô có thể đọc ra chữ của tôi còn giỏi hơn chính tôi nữa.”
“Cháu nghĩ mình nên đặt một số sách cho trẻ em và sắp xếp một khu sách mới.” Grace đặt chiếc túi xách lên bàn kêu cái “kịch”. Từ khi có thêm hộp mặt nạ phòng độc và cuốn sách, trọng lượng của nó đã tăng lên đáng kể.
“Tôi dám cá là chúng sẽ lại bị đưa đi nữa sau khi hết Giáng sinh.” Ông Evans nhướng cặp lông mày rậm rạp lên trong lúc viết, như thể nếu làm vậy thì chữ của ông sẽ dễ nhìn hơn.
“Một khu nhỏ ở đây.” Grace cởi dây kéo áo khoác và kéo khăn choàng ra khỏi cổ trong lúc quét mắt nhìn khắp cửa tiệm, hình dung xem có thể sắp xếp không gian đọc sách cho bọn trẻ ở đâu.
Một chiếc bàn đặt ngay giữa cửa tiệm đã được chuẩn bị để bày bán quyển sách mới ra lò nổi tiếng nhất - What Hitler Wants (Mong muốn của Hitler). Cuốn Mein Kampf với bìa áo rời bên ngoài có dải màu cam bắt mắt, hứa hẹn là một bản phân tích sâu sắc về những động lực đằng sau các quyết định của Hitler và dự đoán hành động của ông ta trong tương lai. Đối với Grace, đây là một ấn phẩm phi nhân đạo nhưng rõ ràng phần đông độc giả không nghĩ thế, họ luôn hiếu kì và muốn tìm hiểu nó nhiều hơn.
Có lẽ bác Weatherford nói đúng, rằng có hiểu biết thật sự là cách mạnh mẽ nhất để chiến đấu với nỗi sợ hãi. Grace chỉ vào chiếc bàn vốn định dành để bày những quyển sách về Hitler. “Ở đây.” Chỗ này dùng để làm khu vực đọc sách cho trẻ em thì sẽ hữu ích hơn nhiều.
Ông Evans càu nhàu gì đó và Grace xem như vậy tức là ông đã đồng ý, hoặc ít ra thì ông cũng chưa bao giờ phản đối mọi việc cô làm.
Chiều hôm ấy Grace bắt tay chuẩn bị ngay. Cô soạn một danh sách những cuốn sách để Simpkin Marshalls giao đến. Nhà phân phối sách sỉ nằm trên phố Paternoster Row này có một ưu điểm phi thường là có thể giao hàng thần tốc từ kho sách đồ sộ của họ.
Tuy tất bật nhưng Grace vẫn không thể gạt bỏ Bá tước Monte Cristo ra khỏi đầu. Edmond chỉ vừa mới chui qua đường hầm thông đến phòng giam của người tù Abbé.
Anh ta sẽ tìm thấy gì ở đó? Nếu họ đều bị bắt thì sao? Ý nghĩ ấy khiến tim cô đập nhanh hơn.
Sau khi đặt một lô sách mới để chào đón những đứa trẻ quay về thành phố, Grace lôi quyển sách dày cộm ra khỏi túi xách và lẻn vào giữa hai chiếc kệ lớn đằng sau cửa hàng. Cô ngay lập tức chìm đắm vào câu chuyện, và màn sương mù mỏi mệt đang bao trùm tâm trí được xua tan tức khắc.
“Cô Bennett.” Giọng ông Evans vọng vào giữa “căn phòng giam” có bức tường đá và lôi cô trở về hiệu sách.
Grace đứng bật lên, gập mạnh cuốn sách lại rồi ngay lập tức hối hận vì chưa kịp đánh dấu số trang. Hồi còn làm cho cửa tiệm của chú, chưa bao giờ cô bớt xén dù chỉ một giây để làm việc riêng. Grace rón rén nhìn ông Evans, trong lòng cảm thấy áy náy và căng thẳng.
Đôi lông mày nặng trịch của ông Evans xoắn vào nhau khi ông cúi xuống đọc cái tựa trên gáy sách, “Cô đang đọc Bá tước Monte Cristo à?”
Grace gật đầu, “Dạ phải, cháu…” Lời phân trần đã chực chờ trên môi nhưng cuối cùng Grace ngăn nó lại. Không lý do gì có thể bào chữa cho hành động vừa rồi. “Cháu xin lỗi ạ.”
Khóe miệng ông nhếch lên, “Tôi biết cô đọc cuốn này vì Anderson giới thiệu.” Ông gật đầu nhìn về phía quyển sách. “Cô đọc tiếp đi. Nếu nó đã khiến cô say mê như vậy thì tôi mong cô có thể giới thiệu nó cho khách để chúng ta bán được kha khá.”
Grace thấy nhẹ cả người và đôi vai cô lại được thả lỏng. “Cháu sẽ đặt thêm ở chỗ Simpkin Marshalls,” cô trả lời.
“Cô cứ làm đi.” Ông nhặt chút xơ vải màu vàng dính trên chiếc áo khoác vải tuýt của mình. “Sau đó cô có thể đọc thử Jane Austen. Cánh phụ nữ có vẻ thích những nhân vật nữ chính trong truyện của bà ấy.”
Được khơi gợi trí tò mò, Grace tự nhủ nhất định sẽ mua một tác phẩm của nữ tác giả Austen. Có thể là cuốn Emma chăng. Hình như bác Weatherford khen nó rất thú vị thì phải.
“Tôi rất vui khi thấy cô bắt đầu mê đọc sách trong thời gian làm ở đây.” Ông Evans gỡ kính ra để kiểm tra. Khi không đeo kính, trông mắt ông khá nhỏ. “Dù cô chỉ còn làm hơn một tháng nữa theo thỏa thuận của chúng ta.”
Thật sự chỉ còn hơn một tháng nữa thôi ư? Tại sao một mùa Giáng sinh ảm đạm lại có thể trôi qua chóng vánh đến vậy?
Grace gật đầu, lúng túng không biết nói gì rồi chợt nhận ra là ông Evans không còn nhìn cô nữa.
Ông rút chiếc khăn tay ra, lau sạch một chỗ trên mắt kính rồi đeo lại. Ông chớp mắt nhìn cô đầy nghiêm nghị, “Này, không phải cô đã quyến luyến cái hiệu sách này rồi chứ hả?”
Câu hỏi này khiến Grace bất ngờ nhưng gần như ngay lập tức, cô nhận ra quả thật mình đã phải lòng nơi đây.
Cô thích ngắm nhìn những khách hàng dễ dàng tìm được cuốn sách họ cần trong một cửa tiệm vừa được sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp. Cô mê mẩn những chiếc bìa áo sách được nhà xuất bản thiết kế đầy sáng tạo. Thậm chí, Grace còn thích thú cả mùi bụi bặm vẫn bướng bỉnh vương lại trong tiệm cho dù cô có thường xuyên lau chùi như thế nào, và càng ngày cô càng quý mến ông Evans với bản tính hài hước khô khan cũng như tất cả mọi thứ ở đây.
Grace chưa kịp trả lời thì tiếng chuông cửa vang lên, thông báo có khách đến.
“Evans?” Giọng ông Pritchard vui vẻ cất lên từ ngoài cửa. “Ông có đây không?”
Ông Evans đảo mắt lên trần và rề rà đi ra ngoài để đón một người mà Grace cũng chẳng biết là bạn bè hay đối thủ của ông. “Chào buổi chiều, Pritchard.”
“Gần đây ông đã nếm thử món cá với khoai tây chiên ở đường Warrington chưa?” Ông Pritchard hỏi. “Tôi mới nếm qua một chút. Mẹ ơi nó kinh khủng lắm. Thật xấu hổ khi thấy một London như bây giờ vì đến một bữa cá và khoai tây chiên ngon lành cũng không bói ra được. Tôi biết họ không còn dùng nhiều dầu chiên như trước nhưng ông nghĩ đi, sau khi xếp hàng rã cả chân và trả bằng đó tiền mà tôi phải…”
Hai ông già tiếp tục phàn nàn về chính sách hạn chế thực phẩm đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến thú vui ăn uống của họ, và bơ thực vật không đời nào hoàn toàn thay thế cho bơ họ thường dùng được. Trong lúc đó, Grace ngỡ ngàng nhận ra một sự thật đáng buồn rằng chẳng bao lâu nữa, cô sẽ không còn làm ở hiệu sách này.
Sau bao lần ước ao được làm việc chung với Viv tại Harrods, giữa một thế giới quần áo rực rỡ sành điệu và không gian sực nức mùi nước hoa xa xỉ, Grace chưa bao giờ nghĩ rằng có lúc cô lại thật lòng yêu thích công việc hiện tại đến thế.
Bụng Grace thắt lại và cô siết chặt quyển sách của George trong tay, làm như nó có thể xoa dịu cơn sóng cảm xúc đang trỗi dậy trong lòng cô lúc này.
Chỉ một tháng nữa thôi, Grace sẽ nhận được thư giới thiệu và kì hạn làm việc ở hiệu sách Đồi Primrose cũng kết thúc.
Ngay từ đầu, ông Evans đã nhắc nhở cô là đừng quá lưu luyến nơi đây. Mặc dù Grace không hề có ý định nấn ná nhưng rốt cuộc, cô đã trót gắn bó với tiệm sách này rồi.
Và đến giờ phút này, cô thực lòng không muốn phải chấm dứt công việc ở nơi đây.​
 


Top