Hà mã, chó, chim, cá và những thứ khác | VN-Zoom | Cộng đồng Chia Sẻ Kiến Thức Công Nghệ và Phần Mềm Máy Tính

Adblocker detected! Please consider reading this notice.

We've detected that you are using AdBlock Plus or some other adblocking software which is preventing the page from fully loading.

We need money to operate the site, and almost all of it comes from our online advertising.

Please add vn-z.vn to your ad blocking whitelist or disable your adblocking software. 

All the knowledge we share is completely free. If you are willing, please support us here.

×

Hà mã, chó, chim, cá và những thứ khác

malemkhoang

Rìu Chiến
Hà Mã, Chó, Chim, Cá và Những Thứ Khác.jpg

CÁNH CỬA​


Đây là một đoản văn về cánh cửa. Như phần lớn những đoản văn khác viết về con đường, cái nhà, căn phòng hay bàn ghế... mà chúng ta đã từng đọc; trong phần mở đầu, nó giải thích vì sao có sự hiện diện của cánh cửa ở đây mà không phải là con dao hay cái kéo, những thứ thật ra cũng không kém phần hữu ích trong đời sống; và vì sao cánh cửa này chứ không phải một cánh cửa nào khác lại trở nên thu hút sự chú ý đến mức phải viết cho nó một đoản văn như vậy.

Sau phần mở đầu đó - có thể nói là quan trọng đối với một tác phẩm văn chương, nó khiến cho người đọc sẽ cân nhắc có nên tiếp tục đọc hay không cái chủ đề xem ra chẳng có gì lý thú này và như vậy, nó quyết định gần như hoàn toàn sự thành công hay thất bại của một tác phẩm - đoản văn bắt đầu miêu tả chi tiết cánh cửa. Chi tiết và trung thực đến mức những người vốn cổ súy cho trường phái văn học hiện thực không còn lời nào chê trách.

Trước hết nó miêu tả về kích thước của cánh cửa, chiều cao, chiều ngang và bề dày. Nó đề cập đến hai cái bản lề đã bị tróc nước sơn để lộ ra lớp kim loại gỉ bên trong, mỗi khi khép mở thường phát ra tiếng rít ken két, có lẽ từ lâu không có ai chú ý tra dầu mỡ. Rồi nó nói sang cái tay nắm có lỗ tra chìa khóa, cái bộ phận máy móc rắc rối nhất của cánh cửa, đã không ít lần gây bối rối cho chủ nhân của nó, nhất là những lúc khuya về nhà, dưới ánh sáng đèn hành lang vàng vọt, trong khi những căn phòng bên cạnh và chung quanh đã chìm sâu trong giấc ngủ, mà vẫn không làm sao xoay chiếc chìa khóa đi đủ được hai vòng. Hình như nó bị hóc ở đâu đó. Trên trán và trên bàn tay chủ nhân đã xuất hiện những giọt mồ hôi lấm tấm. Sau đó người ta đã có ý định thay nó bằng một cái tay nắm mới, nhưng không hiểu vì sao cho tới giờ này nó vẫn chưa bị thay và vì vậy, thỉnh thoảng cứ lại dở chứng.

Đoản văn cũng không quên đưa ra những chi tiết về chất liệu gỗ và tình trạng hiện thời của cánh cửa. Nó đã khéo léo cho người đọc cảm nhận một cách gián tiếp tính chất siêu bền của chất liệu bằng cách nói rằng, cứ quan sát khu nhà ở nhiều tầng lầu này, từ màu vôi quét tường vàng chóe ban đầu nay đã bị tróc lở ra từng mảng lớn và chuyển sang màu xanh đen của rêu, từ những bậc thang lở lói trơ cả ximăng và cốt thép bên trong, đến trần nhà bị ngấm nước tạo thành những mảng lớn vàng đen trông như một bức tranh trừu tượng trên màu nền xám ngoét, đến hệ thống thoát nước bị ứ và rác từ những căn hộ trên cao cứ vô tư đổ xuống mái sau của những căn bên dưới, mới thấy cánh cửa vẫn là vật thể duy nhất ở nơi này còn hoạt động tốt. Tất nhiên trừ một vài chi tiết bị ảnh hưởng bởi quy luật thời gian – màu verni, nhiều vết trầy xướt.

Ngày hôm ấy, người ta nghe thấy những tiếng động khác thường phát ra từ phía sau cánh cửa. Nó gợi sự tò mò của nhiều người chung quanh. Một, hai người trong số họ đã đứng áp sát lỗ tai vào cánh cửa để nghe ngóng. Họ nghe thấy tiếng bước chân đi lại trong phòng, đều đặn, gấp rút, rồi bỗng nhiên trở nên nặng nề, chậm chạp. Tiếng mở một cái ngăn kéo, tiếp theo là âm thanh sột soạt của những tờ giấy. Sau đó lại vang lên tiếng bước chân trong phòng và âm thanh của một chiếc ghế sắt bị kéo lê trên nền gạch. Bây giờ hình như có cả tiếng sụt sịt của nước mắt và nước mũi. Không thể nhầm lẫn được. Đó chính là tiếng thổn thức, tiếng nấc nghẹn của chủ nhân căn phòng; nó bị ngắt quãng và xen lẫn với tiếng giấy bị vo viên. Họ quay lại, đưa mắt nhìn nhau dò hỏi. Nhưng trước khi có một ý kiến giải thích nào được đưa ra từ đám người hiếu kỳ này, người ta lại nghe thấy những tiếng đổ vỡ ồn ào rộ lên tiếp theo. Từ bên ngoài, người ta nghe tiếng thủy tinh vỡ loảng xoảng, rồi tiếng những đồ vật bị ném hay đổ ngã trên sàn nhà một cách khô khốc, nặng trịch, kèm theo tiếng la hét, như thể người ta đang chứng kiến cảnh Lý Liên Kiệt đang tỉ thí võ nghệ với đám sát thủ trong một khách sạn. Sau tất cả sự ồn ào kinh hoàng vào lúc giữa khuya đó, im lặng đột ngột trở lại. Im lặng hoàn toàn. Người ta thực sự không còn nghe thấy gì nữa từ phía sau cánh cửa.

Đoản văn đến đây, như thường lệ, còn tiếp tục một đoạn nữa mới kết thúc về số phận của cánh cửa. Nhưng nhiều người hàng xóm đã không thể kiềm chế sự hiếu kỳ của mình để nhẩn nha đọc tiếp thêm chừng mươi dòng nữa, họ quyết định tông cửa bước vào.

Trước mắt họ, một cảnh tượng lạ lùng đang bày ra: dưới ánh sáng ấm áp của ngọn đèn có mái chụp tròn, ông nhà văn đang từ tốn viết nốt những dòng cuối cùng của đoản văn. Nhưng cánh cửa phòng bất ngờ bị mở tung, tiếp theo là tiếng người ồn ào xô đẩy nhau khiến nhà văn hoảng hốt buông cây bút trong tay xuống bàn, ngơ ngác nhìn đám người đứng lố nhố trước mặt. Nhìn ánh mắt của ông, có vẻ như ông hoàn toàn không hiểu chuyện gì đang xảy ra.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

THÚ ĂN CỎ

Tất cả bắt đầu từ một miếng da Tê Giác, bây giờ nghĩ lại, anh thấy có lẽ là như vậy. Hay nói một cách rõ ràng hơn nữa là từ ngày ông hàng xóm cạnh nhà không hiểu sao bị mẩn ngứa khắp người, da đột nhiên trở nên sần sùi, ngứa ngáy không chịu nổi. Ông gãi, ban đầu nhè nhẹ vuốt ve ngoài mặt, nhưng rồi không thể kìm chế được cơn ngứa hành hạ, ông gãi càng lúc càng mạnh, gãi mê man, tóe cả máu mà vẫn không làm sao hết ngứa. Cả người ông lở loét. Ông không còn dám mặc áo ngắn tay và quần short khi đi ra ngoài phố nữa. Nhưng kể cả lúc mặc áo bằng vải cotton dài tay, người tinh mắt vẫn có thể nhìn thấy những vết đỏ lấm tấm nổi lên trên tay và lưng áo ông. Ông lấy làm khổ sở về chuyện đó. Những người chung quanh khuyên ông đi bốc thuốc dân tộc. Nhưng uống ròng rã cả tháng trời mà vẫn không một chút gì thuyên giảm, người ông cứ thế mà gầy rộc đi, có lẽ vì buồn bực hơn là vì cái chứng ngứa ngáy quái ác ấy.
Cho đến một ngày, một người bạn đồng nghiệp mang đến cho ông một miếng da tê giác, bảo ông mài ra thành bột hòa với nước uống.
Anh ghé qua nhà ông hàng xóm chơi sau khi miếng da đã được mài đến ngày thứ tư. Vừa bắt tay anh nơi ngưỡng cửa, ông tươi cười hớn hở khoe ngay là đã đỡ ngứa đi rất nhiều. Nhìn sắc diện ông lúc ấy đã hồng hào và tươi tỉnh trở lại. Rồi sau đó, như gặp đúng tri âm, tri kỷ, ông ta được thể không ngớt lời ca tụng với anh về miếng da tê giác thần diệu. Và trong cơn hoan hỉ phấn chấn không gì kìm hãm, ông lấy ngay miếng da tê giác ra khoe với anh, cứ như thể niềm vui của ông chỉ thật sự hoàn hảo, trọn vẹn khi tất cả mọi người phải cùng ông tận mắt chứng kiến và cùng trầm trồ thán phục phép màu có một không hai ấy.
Miếng da chỉ to bằng nửa lòng bàn tay, một bên cạnh đã bị mài mòn vẹt. Nếu không nói trước, không ai biết đó là miếng da của một loài động vật, mà đúng hơn nó có vẻ như là một mảnh gỗ, cứng và thô ráp. Một bên mặt, vết tích duy nhất làm người ta liên tưởng đến trước kia có thể đã từng là lớp biểu bì, chỉ còn lại những mô típ hình vuông to nhỏ không đều nhau tạo bởi những nét cắt ngang dọc, mốc đen, dấu vết của những năm tháng trầm mình trong ao hồ phủ kín rong rêu và cỏ dại ở những cánh rừng già thâm u, bí hiểm. Còn bên mặt kia, một thời đã từng là máu thịt của tê giác, bây giờ chỉ như một thớ gỗ đã sấy khô, màu trắng đục.
Nhưng khi vừa đặt những ngón tay lên miếng da, anh liền cảm thấy một luồng điện cực mạnh bất ngờ truyền sang cơ thể. Toàn thân anh rúng động. Anh đứng bất động, ngây dại như đã bị đông cứng. Mọi thứ trước mặt bỗng nhiên trở nên nhòe nhoẹt.
"Anh sao thế?" ông hàng xóm nhìn anh chăm chăm hỏi.
Anh rút bàn tay lại, nghe rõ tiếng tim đập mạnh trong lồng ngực:
"Không... tôi chỉ thấy hơi chóng mặt."
"Không khéo anh bị cảm nắng rồi cũng nên."
Rồi vin vào cớ đó, anh cáo từ ông, vội vã trở về nhà.
Anh đã nằm trên giường trọn một buổi chiều ngày hôm đó. Đến khi trời đã sẩm tối, vợ và hai đứa bé con anh đi chơi về, nhìn thấy nhà cửa tối tăm, không một ngọn đèn thắp sáng, họ cất tiếng gọi anh và chạy vào các phòng tìm.
Họ đã bắt gặp anh trong phòng ngủ, nằm đắp chăn thiêm thiếp, mê mệt, người nóng rực như một hòn than. Họ hoảng hốt lo sợ, cuống quýt mở hết các cánh cửa sổ để cho căn phòng thêm thoáng khí và đắp khăn lạnh lên trán anh. Trong lúc bối rối, vợ anh nhớ đến một người bạn bác sĩ, ngay lập tức nàng gọi điện thoại cầu cứu.
Anh chỉ tỉnh dậy vào trưa ngày hôm sau.
Trong khoảng thời gian dài ấy, anh đã có một giấc mơ lạ lùng nhất trong đời.
Anh mơ thấy mình lang thang trên một thảo nguyên mênh mông, giữa màu xanh của cỏ non và mây trời bát ngát. Gió thổi lồng lộng và thảo nguyên trong phút chốc bỗng hóa thành một đại dương gợn sóng trùng trùng điệp điệp. Anh sung sướng lăn mình trên thảm cỏ, ngụp lặn trong ánh sáng ấm áp mùa xuân, ngửa mặt ngắm nhìn bầu trời trong vắt như ngọc thạch ấy, rồi cười sảng khoái. Nhưng ngay lập tức anh im bặt khi tiếng cười vừa thoát ra khỏi lồng ngực. Anh bất ngờ nhận thấy sự khác lạ của nó. Đắn đo một lúc rồi anh quyết định kêu lên lần nữa một tiếng thật dài để kiểm chứng.
Không, không phải là giọng của anh, mà đó là tiếng kêu của một con dê. Anh bắt đầu hoảng sợ về điều vừa khám phá. Bất giác anh nhìn vào thân thể mình. Anh kinh hãi khi thấy toàn thân phủ đầy lông lá và khi liếc thấy bốn cái móng đen vung vẩy trong nắng chiều thì không còn hồ nghi gì nữa, anh hét lên và ngất đi.
***
Phải ba ngày sau khi bị cơn sốt bất thình lình đó quật ngã, anh mới hoàn toàn bình phục và đi làm việc lại. Ba ngày nghỉ việc không ăn lương, nằm nhà một mình, anh có cảm tưởng như vừa trở về từ một chuyến đi xa dài ngày. Nhìn mọi vật chung quanh lúc ấy, anh thấy chúng vừa thân thuộc nhưng vừa có một cái gì đó lạ lẫm, khả nghi.
Một buổi sáng thức dậy, đứng bên cửa sổ nhìn ra ngoài, anh nhẩm đếm trong đầu đã bước sang ngày thứ 118 tính đến ngày hôm ấy, trời chưa đổ một giọt mưa. Mùa mưa đến chậm một cách khó hiểu. Người ta cứ thấp thỏm nhìn lên bầu trời chờ đợi và đồn đại rằng nhiệt độ đã bắt đầu giảm và đã có một vài cơn mưa ngắn rải rác một số nơi thuộc phía Đông, trong khi đó, khu vực anh ở sẽ còn phải chịu đựng tình trạng oi bức thêm vài tuần lễ nữa.
Căn hộ của anh ở lầu sáu. Cửa sổ nhìn xuống một cái sân xi măng chơi bóng rổ, bóng chuyền nhưng thường xuyên bị bỏ hoang, thỉnh thoảng chỉ có mấy đứa nhỏ tụ tập nhau đá bóng vào dịp lễ hay hè. Cỏ dọc hai bên lối đi chạy quanh sân đã cháy vàng, trơ ra lớp đất khô cứng. Phía bên phải sân là một hàng cây xanh trồng thẳng tắp, thấp thoáng những dãy nhà với những mái ngói đỏ và một cái bể bơi. Chỉ có một phần rất nhỏ của mặt bể xao động, lấp lánh dưới ánh nắng đó được nhìn thấy. Xa xa về phía bên trái sân là những tòa nhà hình hộp và đường phố, từ khung cửa sổ nhà anh nhìn ra, tất cả mọi chuyển động nhộn nhịp của đời sống nơi ấy diễn ra hệt như trong một cuốn phim câm.
Anh thấy hai người đàn bà đi tản bộ quanh sân. Họ là hai chị em ruột, cả hai đều đã ngoài tám mươi. Họ ở cùng một tầng lầu với anh nhưng nằm tận cuối dãy hành lang, phía đối diện. Căn hộ ấy thường xuyên đóng kín cửa. Thỉnh thoảng người ta mới tình cờ gặp họ ngoài hành lang hay trong thang máy và lần nào cũng vậy, họ đều xuất hiện sóng đôi bên nhau, mặc cùng một màu áo. Điều đó làm cho đời sống vốn đã khép kín của họ khoác thêm lên một vẻ bí ẩn và mọi người chung quanh, mỗi lần đi qua căn hộ ấy, cứ mặc sức đưa ra những lời đồn đoán thêu dệt.
Lần ấy họ khoác chiếc áo rộng màu vàng nâu, điểm những đốm đen tròn. Họ bước đi chậm chạp một cách nặng nhọc. Nhìn từ trên cao, trông họ nhỏ bé và dúm dó tội nghiệp, thỉnh thoảng hai vạt áo bị một cơn gió hiếm hoi đầu ngày thổi phồng lên, khiến anh không khỏi so sánh với hình ảnh hai con bọ rùa.
Anh gần như đã quên hẳn cái biến cố từ miếng da tê giác và giấc mơ quái gở đó. Chúng bị bỏ lại càng lúc càng xa về phía sau, khi mà sự hối hả, bận rộn thường nhật không cho phép những giấc mơ làm anh bê trễ bổn phận. Anh trở về với nhịp điệu quen thuộc, tẻ nhạt mỗi ngày, tiếp tục đưa hai đứa bé đến trường, lạng lách qua các con phố hẹp đông đúc, nhấn ga vượt qua một ngã tư, rồi vội vã lên cả chục tầng lầu để đến văn phòng cho đúng giờ.
Ngày trở lại văn phòng, đứng trong thang máy, trong lúc đếm nhẩm những con số các tầng lầu hiển thị trước mặt mỗi lần nó bật sáng, anh chợt nảy ra ý nghĩ rằng dường như mỗi ngày anh đang dự phần vào một cuộc chạy đua với một đối thủ vô hình nào đó mà phần thắng không bao giờ thuộc về anh, chẳng khi nào anh có thể đến đích trước. Khi ấy, một lần nữa, anh lại liên tưởng đến con bọ rùa. Và hình ảnh nó mải miết bò trên một mặt phẳng láng mượt, hễ mỗi lần bị trượt ngã lại gắng gượng ngoi lên bò tiếp tục, như thể chính nó cũng đang kiên trì theo đuổi một cách tuyệt vọng cuộc hành trình dài vô tận, cứ ám ảnh anh mãi không dứt. Anh tự hỏi không biết vì sao nó lại khổ nhọc như vậy, sao không cất cánh mà bay lên. Chỉ cần xòe cánh ra và bay, đơn giản thế thôi.
Cánh cửa thang máy tự động mở ra ở tầng lầu 27, như thường lệ. Anh chàng trưởng phòng Kế toán đã đứng sẵn đấy. Trông thấy anh, gã mỉm cười và giơ tay bắt.
"Chào mừng cậu đã trở lại với công việc. Khá hơn rồi chứ?" Bàn tay gã ấm nóng và nhem nhép ướt. Bất chợt anh rùng mình khi ánh mắt vô tình nhìn xuống cánh tay gã phủ đầy những sợi lông đen dài xoăn tít. Anh lấy làm ngạc nhiên tại sao cho đến bây giờ anh mới để ý đến điều này. "Cảm ơn. Tôi khỏe rồi." "Mấy hôm cậu nghỉ, tôi bối rối quá." "Sao? Có gì thế?" "Công ty Sierra yêu cầu mình gửi cho họ cái phó bản tờ vận đơn, tôi tìm mà chẳng thấy đâu cả." "Tôi còn một bản vẫn để trên bàn làm việc." "Cậu chuyển cho tôi gấp nhé." "OK."
Lúc anh vừa dợm bước quay đi, gã lại gọi giật giọng. "À này, còn nữa. Hồ sơ cho lô hàng ngoài cảng còn thiếu tờ chứng nhận xuất xứ hàng hóa đấy nhé." "Tôi biết rồi."
Không để gã nói tiếp, anh chạy biến vào nhà vệ sinh ngay lập tức. Anh sát xà phòng vào hai bàn tay, kỳ cọ thật kỹ rồi mở vòi nước xả mạnh. Anh sát xà phòng nhiều lần và rửa đi rửa lại nhiều lần nữa, đến nỗi hai bàn tay anh đỏ ửng cả lên.
Sau đó, anh dí hai bàn tay sát tận mũi để ngửi, đến lúc đã chắc chắn không còn một mùi gì nữa mới đặt tay dưới cái máy sấy. Anh để tay như vậy thật lâu, lâu cho đến khi anh cảm thấy hai bàn tay mình đã hoàn toàn khô sạch.
***
Hôm nay nữa là ngày thứ 135 không có mưa. Bầu trời trên đầu anh vẫn xanh ngăn ngắt. Đêm, anh lắng tai nghe ngóng từng ngọn gió hiếm hoi thổi qua mặt đất nóng bỏng và kiên nhẫn chờ đợi. Sự chờ đợi tưởng như không thể kéo dài hơn nữa.
Trong những đêm nóng bức, trằn trọc không thể ngủ đó, vợ anh và anh mỗi người một cuốn sách trên tay, đọc cho đến khi mỏi mệt và thiếp đi. Anh nghiệm ra rằng, không phải vì nóng, mà từ lâu rồi hai người đã ít chuyện trò với nhau, những câu chuyện bâng quơ, không đầu không đuôi; bây giờ họ chỉ nói với nhau khi thấy thật sự cần thiết.
Một lần nàng bàn với anh cuối tuần cả nhà nên thu xếp về bên ngoại chơi để tránh cái oi bức ở thành phố. Đó là một vùng ngoại thành cách khu vực của anh hơn 50 cây số về phía Đông, có nhiều đồng cỏ và một con sông lớn chảy qua. Nơi ấy, nàng còn mẹ và hai em sống nhờ vào một khu vườn trồng cây ăn trái bốn mùa lúc lỉu quả. Trong căn nhà của họ, phòng của nàng thuở còn con gái vẫn được gìn giữ nguyên vẹn cùng với các thứ đồ đạc đi kèm với nó: chiếc giường sắt, bàn ghế, kệ sách, những bức tranh... Hễ mỗi lần có cơ hội là nàng lại trở về đó, như thể được trở về với thế giới thực sự của mình. Một mình hay đôi lúc cùng với hai đứa bé.
Tất nhiên là anh cũng có một chỗ ở nơi ấy. Nhưng anh chỉ có mặt vào những dịp lễ tết. Thường sau một vài vòng chào hỏi thì anh mắc võng lên hai thân cây ngoài vườn, nằm lim dim nghe gió thổi và nghe họ nói cười rúc rích. Anh biết họ sẽ lại giở những cuốn album ảnh ra và sẽ kể đi kể lại những câu chuyện cũ, trong đó chắc chắn là anh không hề được nhắc đến.
Ngày mai anh sẽ đưa nàng và hai đứa nhỏ về nơi ấy.
Anh nằm ở sofa đọc sách, trong khi nàng trong nhà bếp để chuẩn bị các thứ cho chuyến đi. Hai đứa nhỏ thì ngồi chơi dưới đất, thỉnh thoảng một đứa lại kêu ré lên mách đứa khác và anh phải bỏ dở trang sách để phân xử. Tuy nhiên, chỉ được một lúc thì một đứa bỏ vào nhà bếp với mẹ, còn một đứa thì trèo lên sofa nằm bên cạnh anh. Đến nước này thì anh không thể tiếp tục đọc được nữa.
"Sao con không chơi với chị nữa?" "Không." "Sao thế?" "Chán lắm!" "Thế ba chơi với con nhé?" "Ba làm ngựa con cưỡi đi."
Anh vứt cuốn sách lên mặt bàn và ngồi bệt xuống đất cho nó leo lên lưng. Chưa gì hết mà anh đã nghe nó cười khúc khích. Khi cảm giác nó đã ngồi chắc chắn, anh mới bắt đầu di chuyển.
Khi anh vừa chớm đưa một cánh tay ra phía trước mặt, một hiện tượng lạ lùng bất chợt xuất hiện. Anh cảm thấy ngây ngất, lâng lâng. Cả người anh nhẹ bỗng như được nâng lên khỏi mặt đất. Tứ chi của anh như đang mọc cánh. Đầu anh đang bốc lửa. Máu huyết trong cơ thể anh chảy cuồn cuộn và một cảm xúc mãnh liệt chưa bao giờ có tràn ngập trong anh, làm anh ngạt thở.
Anh ngửa mặt lên trời hí một tiếng dài hùng tráng tưởng như có thể xé rách cả hư không, lao về phía trước. Anh nghe tiếng gió rít ở hai bên tai. Anh sải những bước dài thiên lý. Trong chớp mắt tất cả đều biến mất: hành lang hẹp, cầu thang máy, cái sân xi măng, con phố chật, ngã tư đông người, gã trưởng phòng Kế toán... để trước mắt anh chỉ còn có mỗi đồng cỏ, thảo nguyên mênh mông tận chân trời. Tất cả năng lượng trong anh lúc ấy mới được giải phóng. Anh tung vó và sung sướng cất tiếng hí vang. Đứa nhỏ ôm chặt lấy cổ anh và cúi gập trên lưng, nó vừa thích thú vừa sợ hãi.
Cánh cửa nhà bếp đột ngột mở tung.
Tiếng la hét trong phòng khách đã làm cho vợ anh hoảng hốt. Nàng há hốc mồm kinh ngạc chứng kiến quang cảnh trước mặt.
Sự xuất hiện bất thình lình đó làm cho anh cụt hứng. Tuy hai đầu gối và hai bàn tay anh kịp khựng lại, nhưng cái cổ vẫn còn vươn dài ra đằng trước như thể không thể nào kìm lại được tư thế phi nước đại. Anh ngước mắt lên nhìn nàng bối rối, cái nhìn của một kẻ bất ngờ bị bắt quả tang đang phạm tội.
Còn đứa nhỏ, nó cũng len lén bước xuống. Nét mặt nó tiu nghỉu như đành phải vứt đi một chiếc bong bóng cao su bị xì hơi ở trong tay.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

NHỮNG CHI TIẾT NHỎ NHƯNG PHIỀN TOÁI

Ông vẫn nghĩ là ông có lý do khi làm vậy?"
"Cho đến ngày hôm qua tôi vẫn tin là mình đã hành động đúng khi quyết định cắt bỏ đường dây điện nối với cái chuông ngoài cổng, trong lúc chờ để lắp một cái máy interphone", người đàn ông ngồi đối diện trả lời nhưng mắt ông không nhìn vào người đối thoại mà nãy giờ vẫn đặt đâu đó vào bức tường trước mặt. Trên bức tường sơn trắng sạch sẽ ấy, chỉ độc có mỗi cái đồng hồ mà cả hai cây kim đều nằm chồng lên con số sáu.
"Không dưới năm lần trong ngày tôi đã phải chạy lên chạy xuống hai mươi bậc cầu thang, tổng cộng không dưới hai trăm bậc, để mở cổng. Lúc thì là một anh bưu tá phát thư, hay nhân viên hãng cung cấp nước uống đến giao hàng. Lúc là người của công ty cung cấp khí đốt hoặc nhân viên điện lực hay nhà máy nước gì đó đến ghi đồng hồ chỉ mức tiêu thụ hàng tháng. Lúc là một cô gái trẻ đẹp giới thiệu dịch vụ thuê bao điện thoại di động đời mới với giá khuyến mãi. Có khi là một anh da đen, tóc xoăn tít, đến xin phun thuốc diệt côn trùng trong nhà và ngoài vườn. Lắm lúc lại chỉ là một ông già lẩm cẩm, chân tay run lẩy bẩy, nhầm địa chỉ."
"Những lúc như thế tôi đều phải bỏ dở công việc đang làm. Nếu đúng vào lúc đang hầm một nồi thịt, tôi chỉ cần vặn nhỏ lửa lại để nó không trào bọt, còn nếu đang chiên món cá rô phi hay rán khoai, tôi bắt buộc phải tắt hẳn bếp ga, sau đó lau hai bàn tay ẩm ướt vào cái tạp dề đeo trước bụng, xỏ vội cái áo lên người và phóng như bay xuống sân, nhất là lúc bị hối thúc bởi những hồi chuông riết róng một cách bất nhã. Nhưng có lẽ gây căng thẳng nhất là tiếng chuông đổ phải lúc đang ở trong nhà tắm hay đang ngồi trong toilet."
"Bây giờ thì tôi có thể yên tâm không còn sợ bị ai quấy rầy nữa. Từ nay tôi có thể tự do làm những công việc mình ưa thích mà trước đây phải tạm gác sang một bên vì không có thời gian, hoặc đơn giản là sẽ có được những giây phút hoàn toàn riêng tư."
"Tôi vừa mất việc làm. Một sự sắp xếp về tổ chức đã đẩy tôi cùng với gần chục người bỗng dưng ra khỏi cổng sở làm và trở thành thất nghiệp bất đắc dĩ. Trong khi chờ đợi để kiếm một việc làm khác, mỗi ngày tôi truy cập mạng và đọc báo, vào những mục rao tìm người, rồi đi chợ, nấu ăn và chờ vợ đi làm về."
"Đối với tôi, những ngày đầu không đi làm là cả một trải nghiệm chưa từng có trong đời. Tôi rũ bỏ nhiều thói quen cũ và bắt đầu tập một số thói quen mới. Tôi không còn thức giấc với cái đồng hồ báo thức ở bên cạnh giường nữa. Tôi không bị bận bịu chọn lựa vào mỗi sáng sớm chiếc áo sơ mi nào nên mặc, cái cà vạt nào hôm trước đã đeo, đôi giày kia chưa đánh xi. Tôi không phải mỗi ngày đi về trên một con đường quá quen thuộc cả chục năm trời. Tôi không còn bị những cuộc họp nặng nề, nhàm chán hành hạ, không còn phải gặp hàng ngày những khuôn mặt đần độn, hợm hĩnh nữa. Tôi như được một bàn tay vô hình cất đi một gánh nặng trên vai lâu ngày. Tôi cảm thấy nhẹ hẫng, vô cùng khinh khoái."
"Tuần lễ thứ nhất trôi qua một cách thật dễ chịu. Lần đầu tiên tôi thực sự sở hữu một không gian chỉ dành riêng cho mình. Gần trọn một ngày, từ 8 giờ 30, khi vợ tôi ra khỏi nhà cho đến lúc nàng trở về vào chiều sẩm tối, một mình trong căn nhà trống trải, tôi bất ngờ khám phá ra có rất nhiều thứ chung quanh hàng ngày vẫn hiện diện bên cạnh mà hầu như tôi chẳng khi nào để tâm đến chúng. Từ những đồ vật hết sức nhỏ mọn, như cái chụp đèn, khung cửa sổ, tấm rèm che, đến cái ghế, cái bàn, cái bếp ga...Trong ánh sáng tự nhiên ngoài trời rọi vào gian phòng, những đồ vật đó xuất hiện với tất cả sự dửng dưng thách thức chưa từng thấy."
"Tôi đã bỏ thời gian để ngắm nghía hình dáng chúng không chán, cũng như thích thú quan sát những chậu hoa vẫn đặt trên bậu cửa sổ. Những bông hoa màu đỏ thẫm nở vào mùa hè, rung rinh trước gió sớm mà tôi không còn nhớ tên vợ tôi mua nhân một buổi cùng nàng đến khu chợ quê họp mỗi tháng một lần cách xa nơi chúng tôi ở những hai mươi cây số. Mọi lần vợ tôi tưới nước cho nó và đây là lần đầu tự tôi làm công việc này. Tôi chăm chú theo dõi bầy kiến di chuyển lặng lẽ trên thềm nhà và nhớ đến Henri Michaux. Ừ nhỉ, kiến là một loại sinh vật có một đời sống cộng đồng khép kín nhất dưới bầu trời này."
"Trong bầu không khí tĩnh mịch, thân mật, tôi nghe tiếng động của chính mình di chuyển trong căn nhà và tiếng động do tôi va chạm với những thứ đồ vật chung quanh, như cái thìa kêu lanh canh trong bồn rửa bát, tiếng cọt kẹt của cánh cửa gỗ mở vào trong, tiếng ghế kéo lê trên sàn đá..."
"Nó mang đến một thứ cảm xúc thật mới mẻ và lạ lùng. Đến lúc ấy tôi mới chợt nhận ra sự hiện hữu của mình, một cách cụ thể, gần gũi, có thể cảm nhận, sờ mó được mà từ lâu tôi đã xao lãng."
"Và tôi còn khám phá ra nhiều thứ âm thanh lý thú khác. Chẳng hạn tiếng vỡ trong suốt của một viên đá trong ly rượu whisky. Trong ánh sáng chạng vạng của buổi chiều tà, ngồi trong góc phòng nhìn ra ngoài trời chờ vợ tôi về, âm thanh đó cũng đủ sức mạnh làm tôi giật mình hoảng hốt. Trong sự đơn độc, tôi đã học lắng nghe được nhiều thứ."
"Thế nhưng những giây phút êm đềm đó quá ngắn ngủi, chúng không thể kéo dài sang tuần lễ thứ hai thì đã bị hủy hoại bởi cái chuông điện vô tri vô giác đó."
"Tất cả những điều đó có phải chính là lý do đã dẫn ông đến việc cắt cái chuông?"
Bên ngoài trời đã sụp tối từ lúc nào. Bây giờ đang là giữa mùa thu, gió mang một chút không khí mát lạnh vào chỗ hai người đàn ông ngồi. Tiếng động của đường phố đã trở nên nhỏ lại, tiếng những chiếc xe ô tô chạy bên ngoài vọng vào bên trong phòng chỉ còn là một chuỗi âm thanh rầm rì bất tận. Người đàn ông vẫn giữ nguyên tư thế ngồi như từ lúc mới vào, hai chân bắt chéo lên nhau, nhưng ánh mắt bây giờ không biết có phải là do chịu ảnh hưởng từ sự thay đổi đó của khung cảnh mà bỗng nhiên trở nên sống động hơn, trong khi người đối thoại với ông đang có những dấu hiệu mỏi mệt trên nét mặt. Anh kín đáo liếc xuống chiếc đồng hồ trên tay rồi ngước mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Hôm nay là sinh nhật của Thúy. Anh đã đặt trước một chỗ ngồi cho hai người ở một hiệu ăn vào lúc tám giờ và anh cũng đã mất gần trọn một buổi chiều cuối tuần trước để chọn mua cho Thúy một món quà mà anh nghĩ sẽ mang đến cho nàng sự ngạc nhiên thú vị. Anh tưởng tượng đến nét mặt và nụ cười rạng rỡ của Thúy khi ấy và một cách vô thức không thể kiểm soát, trên môi anh bỗng phác lên một cái nhoẻn miệng mơ hồ như thể một nụ cười. Trong lúc người đàn ông tiếp tục nói, anh nhìn sang cái điện thoại đặt trên bàn. Chắc giờ này Thúy đang sốt ruột mong anh đến lắm. Lát nữa anh sẽ mặc bộ quần áo nào đây để đến với Thúy? Nàng không thích những tông màu sặc sỡ chói lóa, nàng nói nó không phù hợp với anh, anh gầy mà nước da anh không sáng, em thích nhìn anh trong những màu hơi sẫm, lúc ấy trông anh có vẻ từng trải, dày dạn hơn. Thúy luôn luôn có lý trong tất cả mọi cuộc tranh luận với anh và nhất là khi nó lại quan hệ đến chuyện trang phục và màu sắc, những thứ mà anh thường cảm thấy mình vụng về. Nhiều lúc anh tự biện hộ cho sự vụng về của mình bằng cách đổ hết cho công việc bận rộn, dù trong thâm tâm anh cũng thấy lý lẽ đó không thuyết phục được ngay cả chính anh.
"Tôi đã không thể chịu đựng lâu hơn nữa những thứ âm thanh đó, nó làm cho tôi quá căng thẳng, những lúc ấy và cả sau đó, khi tiếng chuông đã dứt rồi, tôi vẫn cứ nghe như có nghìn cái chuông điện tiếp tục reo vang lên trong đầu tôi..."
Câu trả lời bất chợt kéo anh ra khỏi dòng suy tư miên man và đưa anh trở về với người đàn ông ngồi trước mặt. Anh kín đáo ngắm nghía khuôn mặt của ông ta. Một khuôn mặt bình thường, nếu không muốn nói là tẻ nhạt. Chỉ có duy nhất cái nốt ruồi nằm bên má trái gần khóe miệng là đáng chú ý. Và không hiểu sao ngay lúc anh phát hiện ra cái nốt ruồi ấy, anh liền bất ngờ bị nó thu hút. Anh khởi sự quan sát nó. Ở vị trí cách nhau qua một cái bàn, khẽ nghiêng đầu như giả vờ đang nhìn về phía tấm cửa kính trước mặt, anh vẫn có thể nhìn thấy cái nốt ruồi khá rõ. Đó chỉ là một mẩu thịt dư màu đen to bằng đầu cây đũa, mỗi lần người đàn ông mở miệng nói, mẩu thịt ấy cũng nhúc nhích lên xuống theo. Thật ngộ nghĩnh. Có một sợi lông đen nhô lên cong cong ở phần đầu từ mẩu thịt và anh đoán chắc chắn nó phải còn những sợi lông khác nhỏ hơn ở chung quanh, như vẫn thường xảy ra cho các loại mụn mọc trên cơ thể con người, mà từ chỗ anh ngồi anh không thể nhìn thấy rõ được. Sự phán đoán đó càng kích thích trí tò mò của anh hơn, khiến anh tiếp tục dồn hết chú ý vào cái nốt ruồi đó một cách khoái chá, anh không còn cảm giác mệt mỏi nữa, ngược lại, thấy phấn chấn hơn lúc nào hết. Bây giờ thì anh có thể khẳng định là trên chóp cái nốt ruồi đó nhất định còn có một cái nhân màu phơn phớt hồng nữa mà anh không thể xác định được kích thước. Nhưng ô kìa, kỳ dị thay, không những thế, bây giờ anh lại còn thấy cái nốt ruồi ấy di chuyển nữa. Nó chuyển động dần dần, từng tí một, một cách hết sức chậm chạp, theo một đường chéo ngược lên về phía mũi của người đàn ông. Anh nghĩ là mình có thể đã bị hoa mắt vì tập trung chú ý quá lâu, bèn bỏ kính xuống bàn, nhắm mắt lại thư giãn. Một lúc sau, anh lại đeo kính vào và nhìn cái nốt ruồi ấy một lần nữa. Chính xác là như thế rồi. Không, đó không phải là ảo giác. Chính xác là cái nốt ruồi đang di chuyển. Phát giác đó làm anh hoảng hốt, anh rút chiếc khăn tay từ trong túi quần ra để lau những giọt mồ hôi rịn ra trên trán. Anh bất giác buột miệng hỏi người đàn ông, để tìm cách thoát ra khỏi cảnh tượng lạ lùng vừa chứng kiến và để tự trấn tĩnh, một câu hỏi mà anh không chắc có theo đúng thứ tự hợp lý của câu chuyện đang diễn ra giữa hai người hay không:
"Còn những tiếng động khác có làm ông có cảm giác tương tự không?"
Im lặng một lúc rồi người đàn ông tiếp tục nói, càng lúc càng tỏ ra cởi mở hơn so với lúc mới bắt đầu câu chuyện.
"Tiếng chuông điện mang đến những hồi ức mà tôi muốn lãng quên. Nó giống như một cái công tắc điện, khi đã bật lên, nó sẽ kích hoạt những cảm xúc, thói quen nằm sâu trong tiềm thức. Tôi buộc phải sống lại cái đời sống bận rộn, hối hả, trong đó tôi hoàn toàn bị tước đoạt mất ý thức làm chủ; không, quả thật tôi không sống cho tôi mà sống theo ý muốn của người khác. Chỉ cần cắt cái chuông đi, tất cả sẽ trở lại trật tự tự nhiên của nó, như nó vốn đã được tạo hóa bày ra như vậy."
Trong lúc người đàn ông trả lời, anh nhìn xuống hai bàn tay mình đặt trên bàn, nhìn mười ngón tay đan vào nhau ẩm ướt mồ hôi, để tránh phải trực diện với gương mặt người đàn ông. Anh cố gắng tập trung tinh thần vào đó để không phải liên tưởng đến cái hình ảnh lạ thường vừa rồi nữa. Nhưng vô ích, có một ma lực huyền bí nào đó thôi thúc anh, bắt anh phải ngước mắt lên nhìn vào cái nốt ruồi đằng trước mặt. Anh tự nhủ không được đầu hàng. Phải quyết liệt chống cự lại nó. Mồ hôi từ hai bàn tay anh chảy ra đọng thành vũng trên bàn. Một cuộc giằng xé âm thầm không cân sức diễn ra.
Sau cùng, anh bỏ cuộc, vì quá mệt mỏi. Anh không thể cưỡng lại sự cám dỗ của cái nốt ruồi ma quái ấy. Anh lại ngước mắt lên nhìn vào gương mặt người đàn ông. Nhưng... Ồ... Quái lạ thay! Không thể như thế được... Anh suýt kêu lên thành tiếng. Cái nốt ruồi bây giờ đã to lên quá cỡ và đã di chuyển đến vị trí của cái mũi. Hay nói chính xác là cái mũi của ông ta bây giờ đã biến thành một cái cục thịt dư đen thui, nó lắc lư, động đậy, như chực rơi xuống đất vào bất kỳ lúc nào. Còn cái nhân ở chóp mũi đến lúc ấy mới hiện ra màu sắc thật sự của nó, một màu hồng tươi, ở đó anh nhìn thấy một túm lông đen rậm rạp, phất phơ dưới ánh đèn. Quá kinh hãi, anh cảm thấy ngạt thở như thể mũi anh đang có ai bít chặt lại. Anh nới lỏng cái cà vạt, mở khuy cài cổ áo và hít một hơi thật mạnh. Anh cảm thấy chóng mặt, ngồi không vững. Anh cúi gầm mặt xuống bàn, gần như chẳng còn nghe người đàn ông kia đang nói gì nữa.
"Tôi sống bình yên được thêm vài ngày nữa, cho đến một buổi chiều từ sở làm về, nàng để nguyên bộ quần áo trên người không thay, ném cái túi xách lên bàn và hỏi luôn:
"Anh đã làm gì với cái chuông nhà mình thế?"
Tôi thấy trên khuôn mặt của nàng tất cả sự mệt mỏi sau một ngày bị vắt kiệt sức bởi công việc. Tôi biết đó là giây phút mà người ta dễ mất tự chủ nhất.
"Anh cắt dây điện "
Nàng nhìn tôi trân trân một lúc lâu, sau đó buông ra câu hỏi một cách máy móc, câu hỏi mà nàng không cần đợi tôi trả lời:
"Tại sao anh làm vậy? "
Rồi ngay lập tức nàng nói liền một hơi:
"Anh có biết là vì anh mà cả tuần nay nhiều thứ quan trọng người ta gửi đến nhà cho em mà em không nhận được không? Hai cái bưu phẩm, một cái thư bảo đảm rồi lại một cái thẻ Câu lạc bộ nữa. Không những chỉ có thế mà thôi, tại sao điện thoại di động của em đi làm về để ở trên bàn, anh cũng tự ý tắt nó đi? Ngay cả điện thoại ở nhà reo trước mặt anh mà anh cũng chẳng buồn nhấc máy lên để nghe nữa. Tại sao vậy? Tại sao anh xa lánh tất cả mọi thứ như vậy. Anh không muốn tiếp xúc với một ai. Anh sợ cả ánh sáng nữa? "
Tôi dị ứng với ánh sáng đèn néon, nó cho tôi một thứ cảm giác trần trụi, khó chịu, rất khó mô tả. Cả ngày tôi mở hết những cánh cửa sổ để lấy ánh sáng bên ngoài, hầu như tôi chẳng khi nào mở đèn, chỉ trừ lúc trời đã tối hẳn.
Nàng dừng lại một lúc để thở, để cố thoát ra khỏi những nỗi bực dọc đang đè nén trong lồng ngực làm nàng bị ngộp. Tôi nhìn thấy một giọt nước đọng ở đuôi mắt của nàng. Không hiểu sao vào lúc ấy, tôi chỉ nghĩ đến bữa cơm tối của hai chúng tôi mà thôi, tôi đã sắp sẵn trên bàn từ ban chiều và đợi nàng về, nhưng bây giờ thì tôi nhìn nó đang nguội lạnh. Tôi đứng lên dìu nàng ngồi xuống ghế. Bất ngờ nàng òa lên khóc nức nở, như thể tất cả những gì đã chất chứa, tích tụ bao ngày trong lòng chỉ chờ đúng vào lúc ấy để vỡ bùng ra. Một bên vai tôi ướt đầm nước mắt.
Hôm sau và nhiều ngày liên tiếp, mỗi khi chúng tôi bên cạnh nhau và khi thấy có cơ hội thuận tiện, nàng dịu dàng khuyên tôi nên đi tham vấn bác sĩ trị liệu tâm lý. Nàng nói rằng đó là một việc bình thường thôi, tâm lý cũng như thể xác đều cần được chúng ta chăm sóc thường xuyên để tránh những xáo trộn có thể có do sự thay đổi trong điều kiện sinh hoạt. "Anh hãy vì anh và vì em nữa, anh hãy đi khám đi. Em sẽ đưa anh đi, nghe anh. "
Và để làm cho vợ tôi vui lòng, tôi đã có mặt ở đây, thưa bác sĩ."
Anh đã hoàn toàn kiệt sức, không thể kéo dài được nữa, anh phải chấm dứt câu chuyện này càng sớm càng tốt. Nhưng vì phép lịch sự, anh phải đợi cho ông nói hết câu, anh quyết định kết thúc buổi tham vấn ở đó và cho ông một cái hẹn khác vào ba ngày sau rồi anh nói với ông ta là không có gì phải quá lo lắng, đó cũng là tâm trạng thường thấy khi có một sự kiện nào đó xảy ra trong cuộc sống, rằng ông có thể trở lại sớm hơn hoặc vào bất kỳ lúc nào ông muốn, anh cũng sẵn sàng tiếp. Anh tiễn ông ra đến tận cửa.
Ở bên ngoài, gió thổi lạnh, tiếng động ồn ào của đường phố theo cánh cửa mở chạy hết vào bên trong. Anh hít một hơi thật dài, thật căng lồng ngực, hơi lạnh làm cho đầu óc anh tỉnh táo lại và trong người nhẹ nhõm hơn được một chút. Những cửa hàng ăn đối diện nhộn nhịp người ra vào. Anh nhìn thấy một chiếc xe ô tô đã chờ sẵn, một người phụ nữ trung niên vòng hai tay trước ngực đứng bên cạnh mà anh không nhìn thấy rõ mặt vì chiếc khăn quấn quanh cổ của bà bị gió thổi bay ngược lên trên che mất một bên đầu. Anh đoán đó là vợ của người đàn ông. Anh nảy ý tò mò muốn đứng một lúc nữa ở ngay cửa để quan sát cặp vợ chồng đó, nhưng trong lúc ông ấy chưa bước được vào bên trong xe thì anh đã nghe có tiếng chuông điện thoại réo vang từ sau lưng. Anh vội vàng chạy vào trong nhà quên cả đóng cửa.
"Alô"
Tiếng của Thúy ở đầu dây bên kia.
"Không có gì hết... Anh vừa tiếp xong một bệnh nhân cuối cùng... Xong hết rồi. Anh đang chuẩn bị về đây... Ba mươi phút nữa... anh sẽ đến đón em..."
Anh đặt ống nghe xuống rồi vừa nhìn đồng hồ đeo tay vừa vơ vội mấy thứ trên mặt bàn cho vào trong cặp. Ba mươi phút nữa. Đoạn đường từ phòng khám về nhà để sửa soạn rồi từ nhà đến chỗ nàng. Hôm nay là thứ sáu, ngày cuối tuần. Anh nghĩ đến những chiếc xe nối đuôi nhau chạy vào trung tâm mà toát cả mồ hôi.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

BIỂN

Sung rủ vợ chồng tôi đi Mũi Kê Gà nhân dịp kỷ niệm 5 năm ngày cưới của vợ chồng nó. Sung nói không phải lo chỗ ở, một người dì vợ của Sung nhà ở sát ngay biển. Nhà rộng, có vườn, tôm cá tươi thì gần đó đã có vựa bán sẵn tha hồ nhậu. "Mày có nghe nói đến ngọn hải đăng và ngắm cảnh mặt trời mọc ở đó chưa? Chưa? Vậy thì băn khoăn gì nữa."
Kế hoạch được Sung phác họa như thế này: Hai đứa chúng tôi, mỗi đứa một chiếc Honda, khởi hành từ 5 giờ sáng, đi thong thả, mệt đâu nghỉ đó. Khoảng trưa thì đến nơi.
Khi Sung đi khỏi, tôi ngồi bần thần. Thế mà đã 5 năm trôi qua! Ngày nó lấy vợ, nó nhờ hai đứa tôi làm phù dâu, phù rể. Lúc đó nó cân nặng chưa đến 50 ký, mặc một bộ vest màu kem mượn của một thằng bạn học, tay áo dài trùm cả cổ tay. Tôi còn giữ mấy tấm hình chụp tôi với Ly ôm mâm quả và mấy tấm đứng bên cạnh bàn thờ gia tiên. Ngày ấy Ly tròn trịa và trắng hơn bây giờ rất nhiều.
Lời mời mọc của Sung thật sự làm tôi xao xuyến khó tả. Lần cuối cùng vợ chồng tôi đi biển nhân cơ hội cơ quan tôi tổ chức một chuyến nghỉ mát ở Vũng Tàu cho tất cả nhân viên. Khi ấy, còn khoảng hai tháng là chúng tôi làm đám cưới. Không biết tại sao tôi chẳng giữ một tấm hình nào về chuyến đi ngày đó hết. Bây giờ con bé Hồng đã tròn 4 tuổi, nó chưa một lần biết đến biển.
Tôi nói chuyện này với Ly sau bữa cơm tối, lúc Ly đang rửa chén trong bếp. Nàng liền dừng tay nhìn tôi, với một vẻ bán tín bán nghi, "Thật hả?". Nước đã ở mấp mé miệng chậu trong khi cái vòi rôbinnê vẫn cứ tiếp tục chảy. Nàng xoay người lại để khóa nước. Cái rôbinnê bị lờn gioăng từ mấy bữa chưa sửa cho nên dù đã khóa mà nó vẫn cứ nhỏ giọt tí tách.
"Nhưng mà..." Ly ngập ngừng, bỏ dở câu nói nửa chừng.
"Bộ có vấn đề gì sao em?"
"Tối thứ Sáu này có một đám tiệc sinh nhật. Cả thảy 5 bàn ăn, gần 50 người."
Hơn một năm nay, Ly bỏ nghề dạy học để cùng với mấy người bạn đứng ra nhận nấu ăn thuê cho các đám tiệc. Công việc chẳng có giờ giấc và rất ít khi có ngày nghỉ lễ; trái lại, càng vào những ngày lễ, Tết, khách hàng đặt tiệc càng nhiều. Có những hôm Ly về đến nhà thật muộn, mang theo những bọc thức ăn trên tay và đủ thứ mùi nấu nướng trên người.
"Để em nói với con Tư xem nó bữa đó có làm giúp được không."
Có lẽ cũng như tôi, nàng đang đứng trước sự cám dỗ của chuyến đi. Tôi có thể đọc thấy điều ấy qua ánh mắt của Ly.
Đêm ấy chúng tôi thức nói chuyện khá khuya. Giường bên cạnh, con bé đã ngủ say từ sớm. Ban đầu chúng tôi bàn chuyện sẽ mua cho con một chiếc xe đạp để cho nó tập đi, loại xe có 2 bánh sau mà tôi vẫn thuê cho nó cưỡi ở công viên. Ly khoe với tôi sắp tới sẽ có một con chó. Nàng kể con chó Phú Quốc nhà ông tổ phó vừa mới đẻ một lứa được 4 con, ông ta hứa sẽ cho Ly một con. Nhưng mà phải chờ cho nó mở mắt và uống được sữa đã thì mới bắt về. Có con chó con trong nhà cũng vui chứ, phải không anh? Rồi chúng tôi, như không thể cưỡng lại được, lại quay trở về với chuyện đi Mũi Kê Gà. Nàng nói, em sẽ làm mấy món đem theo cho hai anh nhậu nhé? Tôi nói, không cần đâu em. Thằng Sung nó nói với anh rồi mà.
Nhưng tôi vẫn không thể làm cho Ly đổi ý vì nấu nướng vốn là sở thích và nghiệp dĩ của nàng.
Một lúc lâu không nghe thấy Ly nói gì nữa, tôi nghĩ nàng đã ngủ. Tôi nằm nhìn bóng cây trứng cá in lên vách những hình thù kỳ dị di động theo gió, như trong một phim đèn chiếu. Cây trứng cá trước nhà là nơi trú ngụ quen thuộc của bầy dơi, tiếng đập cánh bay và tiếng kêu hoảng loạn của chúng trong không gian tĩnh mịch làm cho đêm khuya càng thêm lạnh lẽo và thâm u một cách khác thường. Tôi nghĩ thế nào cũng phải mua một chai Stolichnaya mang theo hôm đi biển.
Bất thình lình, bên cạnh, Ly lại lên tiếng: "Không biết bộ áo tắm của em bây giờ có còn mặc được nữa không hả anh? Chắc nó rộng lắm rồi?"
Hóa ra nàng vẫn còn thức. Tôi nói, "Trời! Thôi em mua cái khác đi. Nó cũng cũ quá chừng rồi còn gì." Tôi chợt nhớ đến lần đi biển trước, "Em còn nhớ lần mình đi Vũng Tàu không?"
"Nhớ! Sao hả?"
"Sao anh với em chẳng có tấm hình nào hết vậy?"
Ly quay người lại, trả lời thật gọn: "Làm gì mình có chụp riêng tấm nào. Anh không nhớ à?"
Ủa, chỉ có những tấm hình chụp chung với mọi người thôi sao? Tôi lẩn thẩn nghĩ trong đầu mà không nói ra với Ly, không biết bây giờ có ai còn giữ những tấm hình ngày ấy để tôi có dịp được một lần xem lại?
Một lúc sau, "Thế anh có nhớ bài thơ hồi ở Vũng Tàu anh làm tặng em không? Quên luôn chắc?"
Thật sự tôi không nhớ mình có làm một bài thơ nào vào lúc ấy không nữa. Lâu quá rồi. Có một thời kỳ tôi gặp khó khăn, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Đồng lương không đủ chi trả đến cuối tháng, cơm bụi, cà phê vỉa hè, thuốc lá đen, và thường xuyên bị thức giấc nửa đêm bởi hình ảnh đang bóp chết một con vật hay đập nát một cái gì đó, đến nỗi có lúc bỗng dưng tôi mắc chứng nói lắp. Tôi đã tìm đến trang viết như một cách vượt thoát. Tôi nuôi mộng trở thành một nhà văn, tôi ấp ủ nhiều hoài bão viết lách. Bây giờ thì văn chương với tôi đã kết thúc, như một giấc mộng đẹp nhưng quá ngắn ngủi.
Ly đọc cho tôi nghe bài thơ. Sau bao nhiêu năm tháng ấy, không hiểu sao Ly vẫn còn nhớ được. Bài thơ có tiếng sóng, có những cánh chim hải âu và những chòm mây trắng. Tôi ngạc nhiên không nhận ra bài thơ ấy là của chính mình. Như đã từng ngạc nhiên không nhận ra mình trước một tấm hình cũ chụp lúc lên ba mặc chiếc áo liền quần có cái yếm trước ngực đứng ngơ ngác giữa một công viên dập dìu người qua lại. Tấm ảnh ấy đã thất lạc cùng với một vài thứ đẹp đẽ khác chẳng nhiều nhặng gì cho lắm mà tôi thừa kế từ quá khứ.
Bài thơ khá dài và có lẽ, tôi đã ngủ lơ mơ khi nó vẫn chưa kết thúc.
***
Sung chỉ ngón tay xuống bãi cát nó đang ngồi nói với tôi có thể mấy năm nữa bãi tắm này chỉ dành riêng cho khách du lịch thôi. Một dự án xây dựng khu nghỉ mát khép kín đang được gấp rút hoàn thành. Tôi hỏi, vậy chớ bà dì với mấy đứa con nít sẽ đi đâu? Sung nói, chưa biết.
Sáng qua, lúc chạy xe, tôi thấy rải rác dọc hai bên đường mấy tấm bảng to giới thiệu bản đồ quy hoạch. Theo thời gian nhiều xóm chài đã lần lượt biến mất, chỉ còn lác đác mấy căn nhà trơ trọi sót lại, để nhường chỗ cho những công trình xây dựng ngổn ngang lởm chởm gạch ngói phía sau hàng rào kẽm gai. Bãi tắm chúng tôi ngồi chơi cũng sắp sửa được đắp bờ kè để chắn sóng. Những hộc đá xanh nằm lổn nhổn ở một góc, có chỗ cao như một ngọn núi nhỏ bị khoét nham nhở, bên cạnh mấy chiếc xe cút kít đẩy tay. Hiện thời, chỉ có mấy người chúng tôi ở đây, trong khi các khách du lịch đều ở mé trên, nơi tập trung những khu nghỉ mát với bãi cát trắng, sạch sẽ, dài đến ngút tầm mắt. Thỉnh thoảng, một vài người tản bộ đi qua tò mò ngó chúng tôi. Một đôi vợ chồng già; người chồng đội chiếc mũ rơm bước khập khiễng, hình như có tật ở chân, một tay nắm lấy cánh tay vợ, từ khu nghỉ mát đi tới. Tôi nhìn theo cho đến khi họ đi khuất hẳn. Rất lâu sau đó, vẫn không thấy họ đi nguợc trở lại. Trong gió thấm đẫm mùi cá tanh. Những người đi ghe họp chợ sớm đã giải tán; trên bãi bây giờ chỉ còn rải rác mấy cái thuyền thúng, xác cá ươn và những con hải âu lạc lõng.
Sung lấy trong túi áo bao thuốc lá, rút ra một điếu đưa lên miệng ngậm, đầu điếu thuốc bị nhăn nhúm nhưng Sung không buồn vuốt lại cho thẳng và cũng không vội châm lửa ngay. Cái nắp zippo bị Sung bật lên xuống trong tay kêu lách cách không ngớt. Đó là cái zippo của lính Mỹ thời chiến tranh; một mặt của nó khắc dòng chữ Fighter by day. Lover by night. Drunkard by choice. Army by mistake. Nét chữ bây giờ đã mờ cũng như cái bật lửa đã bị trầy sướt cũ kỹ, mòn vẹt gần hết. Sung đã vượt biên mấy lần đều thất bại. Lần cuối cùng ra khỏi trại giam, tìm được việc làm tạm bợ một thời gian rồi lấy vợ. Trong suốt những tháng ngày trôi nổi đó, cái zippo luôn ở bên mình Sung, như một thứ nhân chứng thầm lặng.
"Mày biết không, năm ngoái biển động, sóng đánh tràn qua hết chỗ này vượt lên tận con lộ," Sung nói.
Nhìn theo ánh mắt của Sung, tôi chỉ thấy toàn cỏ rác, vài thân cây dừa nằm lăn lóc trên đám rau muống biển và một vũng nước lớn khoét sâu vào đất. Trên trục đường chính có một cây cầu nhỏ; lúc chạy ngang qua đó tôi thoáng thấy bóng những người đàn bà lom khom trong đám sú vẹt đi cào hào.
Con Hồng vẫn ngồi vọc cát trên bãi cùng với hai đứa cháu của Sung, bên cạnh mấy mỏm đá trơn bóng. Cả hai đứa nhỏ, đứa trai lớn hơn Hồng và đứa gái trạc tuổi, đều cởi trần, lưng đen nhẻm. Cha mẹ chúng không còn đi ghe nữa, lưu lạc tận trong Sài Gòn kiếm sống, để hai đứa cho bà nội giữ. Một con chim nhỏ mon men kiếm mồi gần đấy nhưng chúng nó không để ý. Lúc nãy tôi dắt Hồng, chưa ra đến mép nước nó đã rụt tay ra khỏi tay tôi, vùng chạy xuống trước. Nhưng chỉ mới nhúng chân vào vũng nước trước mặt, nó đã co ngay chân lại, không biết vì nước lạnh hay nó quá nhát. Tôi dỗ thế nào nó cũng chỉ ngồi một chỗ, không chịu xuống nước. Ly và vợ Sung ngâm mình ngay sát bờ để trông chừng mấy đứa bé, đầu họ nhô lên khỏi mặt nước như hai quả cầu bằng sắt đen. Ở khoảng cách này, tôi không thể nghe thấy gì từ phía họ. Mặt trời phủ lên người tôi một lớp nắng mỏng, êm dịu, vàng mịn như mật và cát dưới lưng bây giờ cũng bắt đầu ấm dần. Cơn say hồi đêm vẫn còn lẩn khuất đâu đó chưa hết và tôi có cảm tưởng cơ thể mình đang tan chảy ra chầm chậm như một mẩu sáp. Biển đang biến mất khỏi tầm mắt, tiếng sóng nghe nhỏ dần và xa lắc. Cơn buồn ngủ ở đâu kéo đến đè nặng lên hai mí mắt, tôi nghĩ là mình đã thiếp đi một lúc.
"Ê, con bé Hồng coi thấy ghét quá nha mày,"
Sung khiến tôi choàng tỉnh, "Ừm...m...m"
"Coi cái lóng chân của nó kìa... con nhỏ này không có lùn đâu nhe."
"Cao hơn mẹ nó là ok rồi."
"Tao có cái phao nhựa cho nó đó." Sung nói.
Tôi hít một hơi thật sâu, mùi thuốc lá đánh thức cái đầu còn ngầy ngật, "Thôi không cần đâu. Nó không chịu xuống nước. Để nó chơi với thằng Khang, con Út ở đó được rồi."
Vợ chồng Sung lấy nhau đã lâu nhưng không có con. Chẳng biết tại ai. Không đứa nào chịu đi khám để tìm hiểu. Hai vợ chồng nó rất thương con Hồng, có lần Sung ngỏ ý muốn xin nó làm con nuôi.
Tôi chuyển sang đề tài khác, "Chừng nào đi ra ngọn hải đăng chơi, Sung?"
"Tao định sáng sớm nay đi rồi đó chớ. Nhưng -censor-., hồi hôm nhậu xỉn quá."
"Thôi thì sáng mai đi."
Không nghe nó nói gì, tôi quay sang nhắc lại, "Sao mày?"
"Để tao coi. Tao có mấy nhà quen ngoài đó. Hay là tối nay cho mấy bả với sấp nhỏ ra đó chơi rồi ngủ lại luôn?"
"Tùy. Sao tiện cho mày thì thôi."
Câu chuyện bị bỏ lửng ở đó khi chúng tôi bất chợt nhìn thấy một người đàn ông đeo kính cận, sơ mi trắng tay dài bỏ trong chiếc quần màu nâu rộng thùng thình, vai khoác một cái túi đen, đang tiến thẳng về phía mình.
"Chào hai anh."
Người đàn ông cất tiếng chào rồi sà xuống ngồi bên cạnh Sung, cái túi hở toác miệng được bỏ ra khỏi vai đặt xuống đất. Khuôn mặt của ông ta khắc khổ, xương xẩu, bên dưới cằm lún phún những sợi râu bạc. Chiếc kính cận có lẽ quá to một cách không không tương xứng.
"Hai anh ngồi chơi coi bói? Tình duyên, gia đạo, làm ăn, buôn bán, vận mạng hanh thông..."
"Cha bói gì vậy? Bài Tây hay chỉ tay?" Sung hỏi.
"Đủ. Bài Tây, chỉ tay, chữ ký, tướng số, tử vi..."
"Bao nhiêu một quẻ?" Sung tiếp tục hỏi.
Tôi biết Sung chỉ đẩy đưa bỡn cợt chứ không có ý định bói toán gì hết.
Có lẽ nghĩ mình đã tìm được khách, nét mặt người đàn ông bỗng trở nên linh hoạt hẳn, "Cái đó thì tùy tâm của quý khách. Bao nhiêu cũng được. Nếu quý khách thấy tôi coi trúng thì quý khách thưởng."
Thấy tôi im lặng từ nãy giờ, ông ta ngó sang tôi, nói "Ông anh này coi bộ tướng tốt đó nghe! Chỉ có cái mũi là hơi bị hếch lên chút xíu. Tiền không giữ được lâu đâu."
"Tụi tôi chỉ muốn coi chừng nào trúng độc đắc để đổi đời thôi," Sung đưa bao thuốc lá mời người đàn ông. Ông ta lắc đầu từ chối.
"Ông là người vùng này hả?" Sung lại hỏi.
"Dạ phải."
"Chắc ông hành nghề lâu rồi?"
Ông ta không trả lời ngay, lấy chân đẩy qua đẩy lại nhè nhẹ cái túi, "Cũng kha khá."
"Ba!" con Hồng và hai đứa bé thôi không nghịch cát nữa. Chúng chạy lại, ngồi cạnh tôi. Tôi phủi cát bám đầy trên lưng, cả trên tóc cho Hồng. Nó nằm xuống, ngả đầu lên cánh tay tôi.
"Tôi thấy cha có vẻ giống công nhân viên nhà nước quá."
Tôi phì cười nghe thấy Sung coi tướng ngược lại cho ông thầy bói.
"Trước tôi làm bên bưu điện đó chứ. Sau rồi cơ cấu, sắp xếp tới, sắp xếp lui, tôi bị đẩy ra ngoài rìa lúc nào cũng không biết."
Tôi hỏi chêm vào, "Rồi ông chuyển nghề, đi coi bói luôn?"
"Không. Tôi thử đủ thứ hết. Ban đầu viết đơn, thư từ cho mấy bà, mấy cô rồi đi bỏ báo. Hầm bà lằng. Có gì làm đó."
Thằng Khang có vẻ chán. Nó bắt đầu móc cát đắp lên chân tôi. Con Hồng ngồi bật dậy cùng với con Út hí hửng bắt chước làm theo. Tôi nằm im để mặc tụi nó.
"Ông có con cái gì không?" tôi hỏi.
"Từ hồi tôi thất nghiệp, mụ vợ của tôi cũng bỏ đi luôn. Đàn bà mà, phải không hai ông anh?"
Giọng người đàn ông dửng dưng, không đượm một chút gì chua chát. Sung rít một hơi thuốc cuối cùng, tiếng rít thật dài, nén hết khói vào trong lồng ngực rồi cong hai ngón tay búng mẩu thuốc ra xa. Tôi thoáng thấy đốm lửa ở đầu điếu thuốc lóe sáng lên rồi tắt lịm trước khi nó rơi xuống đất.
"Hai ông anh coi cho một quẻ nghe. Coi làm quen." Vừa nói ông ta vừa thò tay vào trong cái túi xách, lấy ra một cuốn sổ nhỏ và cây bút bi.
"Nói thiệt tụi tôi đang có công chuyện. Ngày mai, ngày kia, ông trở lại đi." Sung nói.
Một chút thất vọng thoáng qua gương mặt phong sương sạm nắng của người đàn ông. Ông ta bần thần nhét trở lại mấy thứ vừa lấy ra vào trong túi du lịch, khoác nó lên vai, rồi đứng lên, cười buồn. Tất cả những động tác ấy đều được thực hiện một cách chậm rãi cố ý, như thể để kéo dài đến giây phút cuối tia hy vọng mong manh. "Thôi chào hai ông anh."
Người đàn ông vừa bước đi, Ly và vợ Sung cũng đứng lên.
"Để tao vô coi kiếm cái gì trưa mình lai rai. -censor-., hết một buổi sáng." Sung nói.
Đợi hai người đàn bà đến gần, Sung mới đứng dậy uốn éo cái lưng.
"Thằng Khang, con Út theo cô vô nhà rửa chân tay mặt mũi đi thôi."
Hai đứa bé đứng lên theo vợ chồng Sung đi trở qua bên kia đường. Còn lại một mình, Hồng vẫn mê mải đắp cát lên người tôi.
Ly ngồi xuống bên. Trong bộ áo tắm một mảnh màu xanh nước biển pha vàng nhạt mới mua, coi nàng có vẻ như gầy hơn và cái vết chàm ở bắp vế cũng đậm hơn.
Nàng hỏi, "Lúc nãy hai anh nói chuyện với ai vậy?"
"À, thằng cha thầy bói đó mà."
"Ổng nói gì với anh?"
"Anh có coi đâu."
"Sao anh không kêu em với chị Sung?"
Ly ngồi một lúc rồi cũng đứng lên, dắt Hồng về nhà. Tôi nói với Ly để tôi nằm chơi một chút rồi sẽ vô sau. Tôi nghe tiếng chân của họ xa dần, sau cùng chỉ nghe thấy mỗi tiếng gió thổi mấy cái bịch nilon bay lạch phạch trên bãi cát. Tôi có cảm tưởng như không thể ngồi dậy được nữa. Cát, rất nhiều cát, trên thân thể đang nhấn chìm tôi xuống.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

PIZZA​


Đến hồi chuông thứ hai mới nghe thấy có tiếng động nho nhỏ đằng sau cánh cửa gỗ. Cánh cửa mở ra. Bên trong còn một lớp cửa sắt kéo. Một khuôn mặt già nua, xương xẩu, giông giống nhân vật Walt Kowalski trong phim Gran Torino, râu tóc lơ thơ, bạc trắng, thò qua khe hở, "Cậu nhỏ hỏi ai?"
Biên không thích bị gọi là cậu nhỏ, cả cái cách ông già này lê từng bước chân ra cửa, nhìn trừng trừng vào mặt với một thái độ e dè, cảnh giác. Cảm thấy chiếc nón và bộ đồng phục mặc trên người có lẽ chưa đủ để chứng minh với khách, y lên tiếng tự giới thiệu, "Tôi ở cửa hàng Pizza H," Ngó bề ngoài luộm thuộm và vẻ mặt ngơ ngác, y nghĩ chắc ông già này không phải là chủ nhà và càng không phải là người gọi điện đến cửa hàng để đặt bánh mà phải là một người nào khác.
"Tôi đến giao bánh."
Nói xong, y liếc nhanh biển số nhà một lần nữa để chắc chắn là mình không thể lầm địa chỉ. Người đàn ông không có chút phản ứng, đôi mắt đã mờ đục thủy tinh thể ấy vẫn xoáy vào mặt như thể muốn dò tận tâm can làm y lúng túng. Y rút trong túi áo xấp hóa đơn, kiểm tra lại số nhà, số điện thoại, một cái Seafood Posto, đúng rồi, ủa sao kỳ vậy cà. Y đọc số điện thoại ghi trong tờ hóa đơn cho ông già nghe. Phải, ông già trả lời. Ở đây lúc nãy có gọi một cái pizza hải sản cỡ nhỏ, y nói. Đôi mắt ông già đờ đẫn ra một lúc, ờ phải rồi, tôi gọi. Đ.m, bữa nay gặp phải chập cheng rồi, một ý nghĩ thoáng qua trong lúc y quay lại chiếc xe dựng ở sau lưng, mở cốp thùng lấy hộp bánh đưa cho khách cùng với tờ hóa đơn. Bàn tay ông già khẳng khiu, những ngón tay với những cái móng để dài cáu bẩn run rẩy.
"Cậu nhỏ chờ một chút, tôi vô lấy tiền."
Biên ngó theo ông già cầm hộp bánh lê dép trở vào cho đến khi khuất sau bức màn. Bên trong nhà mờ mờ tối. Không có quá nhiều đồ đạc bày biện ở bên ngoài: một bộ bàn ghế, cái bàn thấp mặt kính với xấp báo bên trên cùng một ly nước uống dở, một chậu cây đặt trên cái đôn bằng gỗ trong góc, một bức tranh hay một tấm ảnh gì đó bên cạnh ngọn đèn áp tường. Toàn bộ những đồ vật ấy toát ra một thứ mùi cũ kỹ, xa vắng, gợi lên không khí bàng bạc của những câu chuyện cổ tích có bóng dáng các tiểu thư thướt tha đài các thấp thoáng đằng sau bức màn the, bất chợt kích thích trí tò mò của y về thân thế của người khách. Còn ai khác sống trong căn nhà này nữa và tại sao ông ta lại phải đề phòng quá mức như vậy?
Y sửa lại điệu bộ chút đỉnh khi nghe tiếng dép trở ra. Ông già đi đến đúng vị trí lúc nãy khi ra mở cửa, thò cánh tay qua khe hở chìa một mớ giấy bạc. Y đếm lại, không thấy có tiền tip, y cười cười, gợi chuyện: "Ông ở đây có một mình hả?"
Vẫn giữ nguyên ánh mắt cảnh giác như lúc đầu, ông già không trả lời mà áp sát mặt vào song sắt hỏi ngược lại: "Có chuyện gì không vậy cậu nhỏ?"
Biên có cảm tưởng như hứng trọn vô mặt hơi thở hôi mùi tỏi sống thoát ra từ miệng ông già, "Tôi 28 tuổi rồi, ông ơi. Ông đừng có gọi tôi là cậu nhỏ nữa."
Y ngoay ngoảy quay lại chỗ dựng xe, dắt xe đi vài bước rồi nổ máy chạy thẳng ra ngõ, trong bụng không ngớt chửi rủa một ngày xúi quẩy gặp toàn những chuyện bực mình không đâu. Đầu tiên là chiếc Sirius bộ thắng đĩa vừa tân trang không chịu nổ máy, kết quả của việc chạy qua mấy con phố ngập nước mưa đến ngang đầu gối hôm trước. Cái điện thoại di động rơi trong nhà vệ sinh nứt mặt kính. Rồi đến ả quản lý nhà hàng yêu cầu làm thay cho thằng Dũng Sùi ca tối thứ Ba mà y không thể thoái thác. Hình như có cái gì đó bất thường đang lần lượt xảy ra theo một trật tự đã được sắp đặt trước mà y không thể hiểu nổi. Cái công việc chó đẻ này cũng vậy, y không thể hiểu tại sao mình lại có thể gắn bó lâu đến thế. Ban đầu chỉ tính làm tạm bợ, bán thời gian, tuần mấy buổi sáng trong lúc đợi một công việc thích hợp, vậy mà bây giờ đã là một nhân viên bán hàng chính thức, ngày làm tám tiếng, tuy không phải đầu bếp mà cũng thành thạo đủ thứ. Tháng Ba này là tròn một năm bốn tháng, thật không làm sao hiểu được.
Khi Biên chạy xe gần ra đến đường, một tay thợ sửa chìa khóa ở đầu ngõ nhìn y cười cười và hỏi:
"Có phải ông đến nhà ông giáo sư không?"
Lúc mới chạy vô, thấy có một đám lố nhố buôn bán gì đó ngay đầu ngõ nhưng y không chú ý vì mải lo nhìn số nhà, bây giờ không biết ở đâu ra cái gã này, "Ông giáo sư nào? Tôi đâu biết."
"Cái ông già mà ông giao bánh pizza đó. Lâu lâu ổng hay kêu người ta đem đến lắm," gã sửa khóa nói.
"Ủa, bộ ông già đó là giáo sư à?"
"Giáo sư đại học đó nhưng hưu trí lâu rồi. Ở đây người ta vẫn kêu ổng là giáo sư. Vợ ổng bị ung thư chết hơn năm rồi, có một đứa con gái lấy chồng ở chỗ khác. Lâu lắm mới thấy đến thăm ổng."
Y bắt đầu tò mò với câu chuyện của gã thợ khóa này, "Vậy à. Hèn gì tôi thấy có một mình ổng."
"Hồi nãy ông có bị ổng chửi hay tạt nước không?"
"Vậy nữa hả? Không, không có."
Gã thợ gật gù, "Ông hên đó nghe. Nhiều người bị rồi. Từ lúc vợ chết, ổng tự nhiên khùng khùng mát mát vậy đó. Ai đến trước cửa nhà cũng bị ổng làm cho một tăng, chạy mất dép."
Nghe gã thợ khóa nói, Biên thấy mình đúng là hên thật.
***
Để được tuyển dụng, bạn chẳng cần phải có kinh nghiệm hoặc kỹ năng gì về bếp hay phục vụ, chỉ cần vui vẻ, năng động, hoạt bát và yêu thích làm việc trong lĩnh vực nhà hàng. Vui vẻ, năng động và hoạt bát thì OK. Nhưng còn cái khoản kia? Biên tin chắc không riêng gì y mà tất cả những nhân viên ở đây chẳng có ai yêu thích công việc của mình đến mức sẵn sàng gắn bó lâu dài với nó. Ai ở cái nhà hàng này cũng nghĩ đó là một thứ tạm bợ, vất vả, nặng nhọc mà đồng lương lại thấp, đói thì đành phải làm thôi. Buồn cười là khi nhận đơn xin việc và phỏng vấn, có lẽ ngay cả người quản lý cũng thừa biết điều đó. Nhưng có hề chi, mỗi người một vai diễn, miễn sao bạn diễn cho thật khéo.
Ít nhất Biên cũng đã thực hiện khá tròn trịa vai diễn của mình trong 15 phút phỏng vấn khi xin việc. Lẽ ra với một mảnh bằng tốt nghiệp đại học kinh tế hạng khá (quá mức yêu cầu), khả năng nói tiếng Anh chấp nhận được, nếu y tự tin hơn, kết quả có thể còn khả quan hơn nữa, có thể ngay từ đầu y đã được cử vào một vị trí quản lý, như trong đơn y xin. Vấn đề ở chỗ y không có nhiều tham vọng và vì vậy, có lẽ người ta thấy y thích hợp hơn với việc bán hàng, cái công việc phổ thông, lương thấp mà nhà hàng đang cần.
Một ngày làm việc của bạn bắt đầu từ 3 giờ chiều và kết thúc vào lúc nửa đêm, trên nguyên tắc là 11 giờ nhưng chẳng có khi nào đúng y như vậy, nhất là vào những ngày cuối tuần. Ban đầu bạn sẽ phải học thuộc thực đơn bằng hai thứ tiếng Việt và Anh, học cách phục vụ, nhất là với khách hàng nước ngoài, học đặt món ăn bằng máy POSH và nếu ở khâu chế biến, bạn sẽ phải học cách trộn bột, ủ bột sao cho bạn nhấc chiếc bánh lên không bị dính và có thể quay vòng vòng trên tay y như trong các pizzeria thứ thiệt của Ý, rồi học cách đặt lò, nướng bánh, cách làm topping và hàng chục loại nước sốt khác nhau cho pizza và spaghetti. Mấy ngày đầu nhận việc rơi đúng vào cuối tuần, khách đến ăn đông, Biên phải đứng và chạy lên chạy xuống liên tục từ nhà bếp ra các bàn ăn của khách nằm ở hai tầng, mỏi quá mà không dám tìm chỗ ngồi vì con nhỏ giám sát ca cứ lượn lờ quanh quẩn gần đó; đêm về đến nhà hai chân cảm tưởng như của ai chứ không phải của mình, nó tê liệt, cứng đờ như khúc gỗ không nhấc lên nổi. Có đêm y chiêm bao thấy cháy nhà, tiếng chân người chạy rầm rập, tiếng gõ phèng la, tiếng hét rồi bất thình lình y thấy bộ mặt to bè với cặp môi cong dày của con nhỏ giám sát ca dí sát vô mặt. Tỉnh giấc, y uống một hơi hết ca nước lạnh để ở đầu giường mà vẫn chưa hết bàng hoàng. Đến tháng thứ ba y đã trở thành một cái máy được lập trình, tất cả mọi động tác, di chuyển y đều thực hiện một cách thuần thục, chính xác, không thừa không thiếu. Sau 3 tháng, bộ phận thân thể mà y cảm tưởng không thuộc về mình không còn phải là đôi chân như mấy ngày đầu nữa, mà chính là cái đầu, một cái đầu trống rỗng, đông cứng mọi suy nghĩ, của một kẻ nào đó y phải mang trên đôi vai.
Một bữa hết ca, hơn 12 giờ khuya, xe đã mang thợ sửa chưa đến ngày lấy, Biên đi kiếm xe ôm về nhà. Mọi lần mấy tay chạy xe ôm đợi khách ngay ngã tư gần nhà hàng, bữa ấy không biết sao không có lấy một bóng. Y thả bộ dọc theo con phố chính kiếm xe. Tháng 11, về khuya, trời trở lạnh. Phố vắng hoe, các cửa hàng đều đóng, đâu đó một vài cửa sổ trên những chung cư còn ánh đèn. Bên dưới những mái hiên, người ta trải chiếu, trải bìa cạc tông cứng nằm ngủ co quắp. Ở một góc, một gã, có lẽ say quắc cần câu, nằm gục bên gốc cây mặt úp vào bãi ói của mình, một chân xỏ dép, chiếc kia văng xa xuống dưới lòng đường. Biên đi bên dưới tiếng lá kêu xào xạc. Một gã thanh niên đứng ở bến xe buýt nhìn y cười tươi. Rồi gã chúm môi về phía y mút chút chút. Y bất chợt rùng mình, lạnh chạy dọc xương sống. Hồi còn nhỏ, mỗi lần phải đi một mình về nhà lúc trời tối, khi tới bãi đất trống có hàng cây bông gòn, y vừa chạy vừa phải hát thật to, hát đủ bài, để cho bớt sợ. Bây giờ, mỗi khi chỉ có một mình và không biết làm gì cho khỏi chán, thỉnh thoảng y cũng hát to nhưng thường thì y đứng trước gương múa may hay làm điệu bộ.
Qua một công viên, mấy cô gái từ trong tối túa ra như những bóng ma, vây lấy y. "Khuya rồi, còn đi đâu nữa hả anh, vô đây vui vẻ với em đi." Rồi một giọng khác nhừa nhựa thuốc lá, "Cưng ơi cưng." Y sải bước thật nhanh như chạy. Đi qua hết một dãy nhà, y mới đứng lại thở. Đúng lúc đó, nước từ một căn nhà nào bên trên bất ngờ đổ ào xuống ướt hết từ đầu đến chân. Y đứng chết lặng một lúc mới đưa tay lên vuốt nước trên mặt. Rồi đột nhiên, như không thể kìm chế, Biên cứ thế bật khóc ngon lành, cho đến khi y thấy ánh đèn từ phía sau lưng rọi tới rồi một chiếc xe gắn máy ghé vào. Lạy Chúa lòng lành! Lại con nhỏ giám sát ca!
"Biên hả? Sao lại đứng đây? Sao ướt hết trơn vậy?"
Biên kể.
"Biên nhà ở đâu?"
"Nhà tôi ở tận trong quận 10."
"Đường nào?"
Biên nói tên đường.
"Tôi cũng đi về hướng đó. Lên đây, tôi chở về. Giờ này không dễ kiếm xe đâu."
Ngồi sau lưng, mùi dầu gội đầu từ mái tóc của ả thoang thoảng. Một đôi lần y phải quay đi để tránh những sợi tóc lờn vờn trên mặt nhột nhạt. Y nhìn thấy bắp chân no tròn của ả và đôi giày bít bằng da cứng đen bóng như đang bị nong ra hết cỡ để có thể chịu đựng và một chiếc vớ bên phải đã sút chỉ thành một đường dọc lớn bằng cây đũa. Con nhỏ này ăn vụng pizza của nhà hàng phải biết!
Về sau này, Biên mới biết nhà ả ở tuốt bên Gò Vấp, ả chẳng phải đi về cùng hướng với y, như ả nói khuya hôm ấy.
***
Lý Hà Liên là tên con nhỏ giám sát ca. Cái tên nghe có vẻ rất giống Tàu mà Biên không tiện hỏi. Sau lần về chung đó, Hà Liên tỏ ra thân thiện với Biên hẳn. Nhiều lần tình cờ y bắt gặp ả nhìn mình một cách khác thường. Hà Liên thường xuyên để phần cho y khẩu phần thức ăn bồi dưỡng ca tối với nhiều thịt bằm, đôi khi kèm theo một ly cà phê đá. Ả hay có lý do để ở bên cạnh và có những tiếp xúc da thịt mà y không thể chắc chắn đó là một sự ngẫu nhiên hay cố ý. Y cũng nhận ra là ả hay cười và có thể cười thích thú với tất cả những gì y nói.
Nhà bếp tiếp giáp với một con ngõ nhỏ, nơi mỗi ngày hàng hóa được tiếp nhận và rác cũng được đóng bao, vô thùng tập trung chờ xe rác đến lấy. Những lúc vắng khách, mấy nhân viên nhà bếp tụ tập tán gẫu bên dưới mái hiên, nhìn ra mặt sau của một cái khách sạn tám tầng với những cái máy lạnh như những tai nấm mọc đầy trên tường. Hà Liên nói đã từng nộp đơn xin làm ở khách sạn đó và nhiều nơi khác nữa trước khi vào làm ở nhà hàng này. Mỗi nơi ả chỉ làm chừng một năm, nhiều nhất là hai năm. Lâu nhất từ trước đến giờ có lẽ là ở đây, hai năm rưỡi. Rồi ả bất ngờ hỏi, "Biên cũng không muốn làm ở nhà hàng nữa hả?" Y nghe tiếng nhai chewing gum trong miệng ả nhóp nhép.
Quả thật nhiều tên đàn ông khác đã lần lượt xin nghỉ việc gần hết khiến nhà hàng hiện thời phải gấp rút tuyển bổ sung nhân viên nam. Người đầu tiên ra đi là A Chảy trong tổ bếp nấu ăn cho vợ chồng một viên chức người Úc. Đức đi học tiếp đại học. Cường nhớt làm cho một công ty du lịch và gần đây nhất là Hải làm cho công ty môi giới chứng khoán. Bây giờ chỉ còn Dũng Sùi và y giữa một đám toàn đàn bà, con gái. Hình như Dũng Sùi cũng đang có ý định nghỉ việc để chuẩn bị lấy vợ, rồi sau đó sẽ kiếm một công việc khác. Trong tương lai có thể chỉ còn lại y. Nhưng y nghĩ chắc chắn rồi sẽ đến lượt mình, trước sau gì y cũng phải rời bỏ cái nhà hàng này, cuộc đời của y không thể chết dính cùng với đống bột nhồi bánh mà nó phải rất khác, phải hết sức đặc biệt, mặc dù y cũng chưa biết mình sẽ đi đâu và làm gì ngay vào lúc này. Ngày ngày, y chăm chỉ kiếm việc trên báo, hoặc trên mấy trang timviecnhanh, tuyendungnhanh, kiemviec... trên internet, tích cực gởi đơn kèm theo lý lịch đi các nơi rồi chờ đợi cơ hội đến.
Thứ Ba thông thường là ngày nghỉ bù trong tuần của Biên. Hà Liên hỏi, "Ngày nghỉ Biên làm gì?" Y nói không làm gì hết. "Bộ Biên không đi chơi đâu sao?" Y trả lời với ả là y làm biếng lắm. Y thuê một lúc mấy đĩa phim liền, loại hành động Mỹ, nằm nhà xem cho hết ngày, chẳng thích đi đâu và tiếp xúc với ai. Sau đó mấy lần Hà Liên gởi tin nhắn vào điện thoại di động hẹn đi uống cà phê, thấy y có vẻ không hào hứng lắm, ả chán không rủ rê nữa.
Biên nghĩ cái tay ở cửa hàng bán và cho thuê đĩa là gay, qua điệu bộ và cách nói năng của gã. Có lần gã chìa cho y xem mấy đĩa sex nam. Gã đi vào trong nhà, vén màn một căn phòng nhỏ bên ngách, lấy mấy cái đĩa có vỏ bên ngoài lòe loẹt chụp mấy gã trai vạm vỡ đưa cho Biên, "Tặng bồ xem chơi." Thỉnh thoảng, y bắt gặp mấy tên thanh niên đẹp trai thấp thoáng trong phòng ấy. Một lần làm như tình cờ, y giả vờ hỏi, "In, sang đĩa sex trong đó hả?" Gã chỉ cười cười không trả lời, có lẽ gã cũng đoán được ý định trêu chọc đàng sau câu hỏi.
Lần này Biên thuê mấy đĩa liền của Kevin Costner và Robert de Niro, trong số đó có một phim cuối cùng của Marlon Brando diễn chung với Robert de Niro và Edward Norton, phim The Score, quay năm 2001. Phim kể về âm mưu lấy cắp một cái trượng bằng vàng ròng nạm ngọc của Pháp, một thời tưởng đã mất tích, bất ngờ người ta phát hiện nó đã được đưa lậu vào Canada và được cất giữ trong một nhà kho của thuế quan Montréal với sự canh phòng hết sức cẩn mật. Kế hoạch được thực hiện bởi hai tên trộm bậc thầy, một tên với vỏ bọc là chủ quán bar mê nhạc jazz, hiền lành lịch sự (Robert de Niro) và một tên giả vờ khuyết tật, thiểu năng tâm thần làm nhân viên vệ sinh trong chính nhà kho thuế quan (Edward Norton); cả hai đã qua mắt hàng xóm và cả một hệ thống kiểm soát vòng trong vòng ngoài một cách ngoạn mục. Giữa chừng phim, Biên bất thình lình nghe tiếng mưa tuôn xối xả trên mái tôn. Y sực nhớ, vùng chạy ra đóng cửa sổ, nhưng nước mưa cũng đã hắt vào quá nửa nhà, làm ướt mấy bộ quần áo chưa giặt vắt trên lưng ghế.
***
Hôm nay Biên lại đi giao bánh, tờ hóa đơn trên tay ghi đúng cái nhà của ông giáo sư đại học lần trước. Một cái pizza pepperoni cỡ lớn. Lúc chạy xe trên đường y không ngớt hồi tưởng lại lần giao bánh trước, nhớ đến khuôn mặt gầy gò, ánh mắt gườm gườm và mùi tỏi sống từ miệng của ông già. Lần này thì y không còn bị bất ngờ bởi sự thiếu thân thiện và đãng trí của ông ta nữa. Chỉ mỗi việc là cần phải đề phòng có thể bị tạt nước vào người như tay thợ khóa nói.
Không phải chờ đợi lâu la, sau một hồi chuông, Biên đã nghe tiếng mở cửa. Nhưng không phải ông già mà là một cô gái trạc tuổi y. Cô mặc chiếc áo đen hai dây và quần vải hoa, một chiếc khăn lông quấn quanh đầu, cả người cô tỏa ra một sự mát mẻ của nước và shampoo. Cô nhận hộp bánh và tờ hóa đơn từ tay Biên, nói y đứng chờ một chút. Căn phòng vẫn tối mờ mờ như trước đây, cùng với những đồ vật quen thuộc, trừ bộ bàn ghế Biên không thấy nữa. Một lúc sau cô gái trở ra, đưa tiền cho y, cô đợi cho y kiểm lại xong rồi mới đóng cửa.
Biên chạy xe ra đầu ngõ, cố ý tìm tay thợ chữa khóa để nói chuyện.
Gã hỏi ngay khi vừa nhìn thấy Biên, "Đi giao bánh hả?"
"Bữa nay hên không gặp ông già chập cheng đó nữa," y nói.
Gã thợ khóa bật cười, "Ổng chết mất đất rồi còn đâu mà gặp cha."
Y ngớ ra, bởi cái tin ấy quả thật quá đột ngột. Y buột miệng hỏi dồn dập, "Ủa, trời đất ơi, ổng chết rồi à? Chết hồi nào vậy?"
"Hơn hai tháng nay rồi. Mấy đứa con nít chơi trong xóm thấy ổng nằm té trước nhà. Người ta đến nơi thì người ổng đã lạnh cứng đời nào. Hình như ổng bị nhồi máu cơ tim hay gì đó không biết."
"Vậy còn cô gái?" y hỏi.
"Con ổng đó. Nghe nói con ổng đang rao bán nhà. Ê ông, cửa hàng của ông có bán thịt gà rán không? Thằng nhỏ con tôi thích ăn mà tôi bận, không có thời giờ để đưa nó đi."
"Không. Chỉ có bánh pizza với mì Ý thôi."
Thấy đến lúc có thể kết thúc câu chuyện, y giả vờ đưa cánh tay lên xem đồng hồ rồi chào gã thợ khóa. Chạy xe trên đường, nghĩ đến cái chết bất ngờ của ông già, y gặp lại tâm trạng thất vọng của mình khi xem đoạn kết thúc lãng xẹt của phim Gran Torino. Đôi khi vẫn xảy ra như vậy, trong lúc bạn nghĩ phim có thể kết thúc như thế này thì đạo diễn lại để cho nó diễn ra cách khác.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

KARL​


Cho đến bay giờ tất cả những gì tôi biết về Karl có thể tóm tắt như sau:
- 54 tuổi.
- Ly hôn (Nghe Ursula nói là Karl còn có một đứa con trai).
- Hành nghề luật sư.
- Trước khi nước Đức thống nhất, sinh sống ở Leipzig.
Tôi gặp Karl trong một cuộc hội thảo về giáo dục tổ chức hồi tháng Sáu năm ngoái tại Thái Lan. Khách mời đến từ các trường đại học của Đức, Trung Quốc, Mỹ và Việt Nam, tổng cộng 15 người. Trường đại học, nơi diễn ra hội thảo, nằm ở một thành phố nhỏ ven biển, cách Bangkok khoảng hơn một tiếng đồng hồ xe chạy. Trừ hai ngày cuối tuần bãi biển đông nghẹt người cùng với những chiếc pick-up đủ các màu sắc từ Bangkok và các nơi lân cận đổ về đậu kín một bên đường, những ngày khác thành phố mang dáng dấp của một tỉnh lẻ đìu hiu. Dọc con đường chạy ôm lấy biển rợp bóng dừa dài khoảng năm, sáu cây số với những chiếc xe bán thức ăn dạo, vài hiệu ăn nhỏ phô bày một tình trạng vệ sinh khả nghi, một cái spa, một máy ATM, một cửa hàng 7-Eleven, tiệm giặt quần áo và cửa hàng dịch vụ internet, ngoài ra chẳng có gì nữa đáng để xem.
Có những buổi tối tôi đi hết con đường ấy, ra đến một cái bến nhỏ, nơi cặp ghe thuyền đánh cá của dân địa phương. Ở đó có một cái nhà hàng bán thức ăn hải sản với những người phục vụ có cách phục sức, trang điểm giống như những vũ công Tiffany. Đứng trước nhà hàng vắng vẻ sáng rực nhìn ra biển, chỉ thấy loáng thoáng trước mặt những điểm sáng nhấp nháy từ một cái thuyền câu hay một con tàu nào đó neo đậu ngoài xa. Nghe nói ở đây có một ngọn hải đăng, bây giờ đã bị bỏ phế.
Đi qua khỏi nhà hàng một quãng nữa sẽ đến một quán giải khát và bán thức ăn nhanh. Lúc đó đang vào đúng tuần lễ Festival bia Singha. Những bích chương, quảng cáo dán khắp trước cửa và chung quanh những thân cây. Ở bên hông quán người ta đặt một cái bục gỗ làm sân khấu cho một ban nhạc gồm một tay trống và một nam ca sĩ vừa hát vừa tự đệm đàn guitare. Tiếng nhạc lan ra xa từ một thùng loa to. Hai cô gái phục vụ mặc jupe trắng ôm sát lấy người đứng trước cửa tươi cười mời mọc. Tôi chọn một cái bàn ngoài cùng, gần lối ra vào.
Uống chưa được nửa ly, tôi bỗng nghe tiếng tằng hắng và cảm thấy ngột ngạt bởi một cái bóng to lớn nào đó sau lưng mình sắp sửa đổ ập xuống. Tôi ngoái cổ lại, nhìn thấy Karl.
"Chào cô. Rất vui được gặp cô ở đây."
Trên tay Karl cầm một cái vại bia to đã uống quá nửa, miệng nở nụ cười hết cỡ bên dưới bộ ria ẩm ướt. Y ngỏ ý muốn ngồi cùng bàn. Tôi liếc nhanh cái ghế trống trước mặt, không kịp nói phản đối hay tán thành, đã thấy một bàn tay to bè của Karl, bàn tay không cầm bia, đặt lên lưng ghế kéo ra. Tôi biết trước là y chỉ hỏi cho có lệ.
"Thời tiết gì mà tồi tệ quá. Phải không cô?" - y nói bâng quơ để mở đầu câu chuyện. Hai cánh tay của y đầm đìa mồ hôi, mỗi khi nhấc lên kêu nhem nhép để lại trên mặt bàn những hình thù thẫm đen.
Quả thật, trời nóng đến ngạt thở, như thể nó đang trong thời kỳ thai nghén những cơn mưa. Chiều hôm qua có một trận mưa rào hiếm hoi. Mưa khá lớn. Quyển sách tôi đọc dở bỏ quên ngoài ban công bị ướt mèm.
"Có thể sẽ có thêm vài cơn mưa nữa trong mấy ngày tới." Cái bàn nhỏ và khoảng cách giữa hai chúng tôi thì quá gần, tôi không biết mình nên làm gì, tôi đặt mắt lên cái logo trên chiếc áo sơ mi màu xanh nhạt của Karl có hình dáng một cái đầu sư tử, nói, "Trời sẽ dịu hơn. Hôm nay, tôi nghe trên bản tin thời tiết như thế."
Ban đầu, chúng tôi nói đủ thứ chuyện, không đầu không đuôi, và đều không có ý định đá động gì đến cuộc hội thảo đang diễn ra. Trong câu chuyện, Karl than thở cái thang máy của khách sạn hay bị giật cục mỗi lần khởi động; nước hồ bơi không sạch làm cho da mẩn ngứa và cô thư ký lo việc tiếp tân của trường đại học hay nhìn trộm y. "Cô có bị dòm ngó như tôi không, hả?" y hỏi, cánh mũi phập phồng và lỗ mũi nở to vì bia. Karl muốn nói đến cô Pat. Mỗi sáng đi bên ngoài hành lang đến hội trường, nhìn vào văn phòng tôi đã thấy cô ngồi ở bàn làm việc. Đôi khi tình cờ ngẩng lên trông thấy tôi, cô gật đầu mỉm cười chào. Cô có mái tóc ngắn khoe nguyên cái cần cổ, khuôn mặt bầu bĩnh với nụ cười thường xuyên nở trên môi. Có lần định đi Bangkok, tôi hỏi cô đường đi và giá thuê xe. Cô lấy đưa cho tôi một cái bản đồ và một tập sách mỏng giới thiệu những thắng cảnh ở Bangkok. Khi ấy, tôi mới để ý thấy cô có đôi mắt hơi bị hiếng, thường nghiêng đầu sang một bên mỗi lần ngước lên nhìn. Không biết có phải chính điều này đã làm cho Karl có ấn tượng không tốt về cô gái hay không?
"Cô ấy hình như có tật ở mắt." tôi nói.
Tiếng nhạc quá to làm cho Karl phải hơi chồm người về phía trước và nghiêng một bên tai để nghe cho rõ hơn. Tôi ngửi thấy hơi thở và mùi da thịt của y.
"Ý cô muốn nói là... Ồ không, tôi không hung dữ thế đâu. Nhưng mà..." y bỏ dở câu nói ở đấy như để gom góp lại ý tưởng còn tản mác đâu đó trong sóng biển, "Cô biết không, mấy lần cô gái đó hỏi tên tôi và lần nào cũng đều đọc sai, viết sai hết. Tên đầy đủ của tôi là Karl Schwarz."
Khi đọc tên mình, không biết có phải vì Karl cố ý nhấn mạnh hay vì do những ồn ào chung quanh át cả tiếng nói nên y phải gằn từng chữ. Ria mép của y vểnh cong lên khi phát âm đến chữ cuối cùng.
"Xin lỗi, Schwarz trong tiếng Đức hình như có ý nghĩa gì liên quan đến máy móc hay cơ khí gì đó, phải không?" tôi hỏi.
Tôi đọc thấy sự khó chịu qua ánh mắt và giọng nói của Karl: "Không. Tuyệt đối không. Tôi là luật sư. Tôi ghét tất cả kim loại hay máy móc các thứ." Giọng của Karl bình thường trầm, đục, bây giờ nghe càng bi phẫn.
"Có một người mang họ Schwarz. Rất nổi tiếng. Có lẽ ông cũng biết." Tôi muốn lái cuộc trò chuyện này sang một chiều hướng khác dễ chịu hay tốt nhất là kết thúc nó một cách chóng vánh. Nhưng tôi không hy vọng nhiều lắm. Điều đó thật chẳng dễ dàng một chút nào, nhất là với Karl và cách nói chuyện sấn sổ, dai như đỉa của y.
"Cô muốn nói ai vậy?"
"Gerard Schwarz."
Gương mặt Karl đầy vẻ nghi hoặc, "Chưa bao giờ nghe đến tên."
"Ông ta chỉ huy dàn nhạc Seattle và đài phát thanh Berlin. Người Mỹ."
Karl nhún vai, hoàn toàn dửng dưng với cái thông tin đó. Rồi như bất chợt nhớ ra điều gì, y hỏi "À! Cô có hay tin gì chưa?"
Tôi nhìn Karl và thử đoán mò trong đầu. Hai hôm trước khi đi tham quan một ngôi chùa ở Ayutthaya, Karl đã kiên quyết từ chối thay đổi trang phục theo yêu cầu của ban quản lý và vì vậy, y đã không được cho vào thăm chánh điện. Ngoài chuyện này ra, không biết còn thứ gì khác nữa.
"Chưa!" tôi đinh ninh sắp sửa được nghe một chuyện giật gân.
"Vừa mới xảy ra một vụ nổ súng. Biểu tình ở thủ đô. Mẹ kiếp! Có thể ban tổ chức sẽ phải hủy bỏ chuyến đi lên Bangkok ngày kia. Nói thật lòng nhé, tôi thích đi Chiang Mai hơn."
Chiang Mai. Cái tên không nói lên với tôi một điều gì.
Ban nhạc nghỉ giải lao. Ca sĩ và người đánh trống đều đi vào bên trong quán. Tôi nghĩ là vừa mới có một ngọn gió từ mé biển thổi lướt qua mang đến chỗ chúng tôi ngồi một chút xíu ẩm ướt và nhiều tiếng động của biển. Những ngày này tôi thường phải để máy lạnh chạy liên tục trong phòng, chỉ thỉnh thoảng vào lúc sáng sớm hay về đêm, trời mát dịu, mới ra bên ngoài ban công hóng gió. Cách phòng tôi không xa là một cặp vợ chồng già, có lẽ khách du lịch. Người chồng với mớ tóc bạc lơ thơ đã rụng gần hết thường ngồi ở chiếc ghế mây kê trước cửa trong lúc người vợ mặc bộ váy ngủ rộng thùng thình đi đi lại lại trong phòng như một bệnh nhân tâm thần. Qua đám cây xanh ngăn cách, người đàn ông và tôi chào nhau.
Tôi thấy đã có thể kết thúc cuộc trò chuyện. Tôi cáo từ Karl. Nhưng vừa mới bước đi vài bước, đã nghe y nói với theo sau lưng:
"À! Nhân tiện..."
Tôi đứng lại để nghe nốt.
"Nếu gặp Ursula, cô nói giúp là tôi đã mang trả cây dù cho quầy tiếp tân rồi nhé. Cảm ơn."
***
Ursula và Jürgen ở sát ngay bên cạnh phòng của Karl. Nhưng rất ít khi họ đi chung hoặc ngồi chung với y. Tôi nhận ra điều đó ngay từ buổi tiếp đón các đại biểu.
Buổi tiếp tân hôm ấy được tổ chức ở một khách sạn, có lẽ vì phòng khánh tiết của nhà trường không đủ rộng. Ngoài ban giám hiệu và hội đồng quản trị, khách mời còn có một vài vị quan chức của thành phố. Sau một vài lời giới thiệu và diễn văn chào mừng ngắn gọn, mọi người nhập tiệc. Ursula, Jürgen, Raymond và tôi ngồi chung một bàn. Bàn đối diện bên kia, nơi có các vị quan chức, tôi nhìn thấy Karl với những đồng nghiệp châu Á. Giữa chừng buổi tiệc, tôi nghe Karl bỗng nhiên nói to tiếng khác thường. Có vẻ như y đang tranh luận với mấy người ngồi bên cạnh. Ursula và tôi chẳng hẹn mà cùng đưa mắt nhìn nhau, tự hỏi nhau, "Nè! Không biết chuyện gì đang xảy ra với Karl vậy hả?", Ursula khẽ nhún vai, như ngầm bảo, "Làm sao mà tôi biết được?!"
Sau hôm đó, Ursula và tôi trở nên thân nhau. Cũng có thể một phần vì hội thảo chỉ có hai phụ nữ.
Ursula cao chừng 1m65, tóc màu hạt dẻ, mặt lốm đốm những vết tàn nhang. Với một bề ngoài bụi bặm, cô có vẻ như là một sinh viên hơn là một nhà tâm lý giáo dục. Tôi thích ngắm cổ tay của Ursula, tròn trịa, gợi cảm, đeo những chiếc vòng lạ mắt cô tự kết lấy bằng những sợi chỉ nhiều màu sắc. "Theo kiểu Brazil đó," cô nói với tôi. Mỗi ngày tôi khám phá thêm trên người của cô nhiều món trang sức khác ngộ nghĩnh không kém. Tôi tặng cho Ursula một con búp bê mặc áo dài với chiếc nón lá che nghiêng một bên đầu.
Một lần ngồi chung bàn ăn sáng với nhau, Ursula nói về công việc của mình. Cô nói về những con phố bẩn thỉu với những căn nhà đổ nát bị bỏ hoang không có kinh phí sửa chữa, những người già bị bỏ rơi, những phụ nữ bị chồng đánh đập, nạn thất nghiệp, buôn lậu, những đứa trẻ lang thang sớm nghiện ngập ma túy, những người đàn ông nghiện rượu và băng đảng phát xít mới.
Tôi nghe chuyện của cậu bé Hans, 8 tuổi. Bố là thợ cơ khí nhà máy ô tô. Nhà máy đóng cửa, mất việc làm và bị vợ bỏ rơi, ông sinh ra nghiện ngập. Hans bị bố bán cho một nhà thổ nam để có tiền mua rượu. Khi cảnh sát phá đường dây buôn bán trẻ con làm nô lệ tình dục, bố của Hans bị bắt và cậu bé được đưa vào bệnh viện để chăm sóc. Ở đấy, ngưòi ta phát hiện ra Hans bỗng dưng bị mất tiếng nói và có một thói quen kỳ lạ là chỉ đứng có một chân. Cậu đứng cả ngày với tư thế đó trong toilet nhìn trừng trừng vào cánh cửa.
"Bốn mươi năm phân ly và đầy dẫy nghi kỵ, bồ không dễ gì xóa bỏ trong một sớm một chiều. Thanh niên ở phía bên này và cũng như bên kia, họ không biết nhau," Ursula gõ gõ ngón tay trỏ lên đầu," Biên giới vẫn còn hiện diện ở trong những cái này này..., bồ biết không?"
Chúng tôi ngồi bên dưới một tán cây rộng, gần với hồ bơi. Một nhân viên khách sạn trong bộ đồng phục màu xanh đang đi quanh để vớt những chiếc lá rụng trên mặt hồ bằng một cây vợt cán dài. Trên một chiếc ghế, một chiếc khăn tắm của ai bỏ quên từ đêm qua. Gần đó, những con chim sẻ dạn dĩ đi tìm những mảnh vụn bánh mì rơi rớt trên mặt đất. Tôi nghe tiếng nước chảy róc rách từ một cái thác nhân tạo. Nhà hàng bây giờ đã bắt đầu ồn ào tiếng người. Những thực khách từ các phòng lục tục kéo đến. Tiếng muỗng nĩa và ly đĩa chạm vào nhau kêu lanh canh không ngớt. Chếch về bên trái trước cửa ra vào, một đầu bếp đứng tráng trứng ở một cái bàn dài cho hai người khách, một nam một nữ, đang kiên nhẫn chờ đợi.
Ursula xoay người lại phía sau đưa một ngón tay lên nhịp nhịp ra dấu cho cô phục vụ bàn đứng gần đấy, nhưng cô gái không nhìn thấy. Phải đến lần thứ hai cô mới nhận ra. Ursula ngỏ ý muốn uống thêm cà phê. Sau đó, cô phục vụ nhìn sang tôi, hỏi:
"Bà có dùng thêm cà phê không ạ?"
"Không, cảm ơn." Tôi nói.
Khi cô gái rời khỏi bàn, bất chợt tôi nhìn thấy Karl. Y đang lững thững từ phòng tập thể hình đi ra, chiếc khăn lông vắt một bên vai. Y đi đến chỗ thang máy lên các phòng, bấm nút đợi. So với chúng tôi, y vẫn thường là người đến nhà hàng ăn sáng muộn hơn hết.
***
Đầu tháng Tư năm nay, tôi bất ngờ nhận được e-mail của Ursula. Cô báo tin Karl tử nạn trong một vụ tai nạn ô tô mà cô mô tả là hết sức hi hữu.
Toàn bộ sự việc diễn biến như sau:
Cách lễ Phục Sinh khoảng hai tuần, Karl mang xe đi bảo trì định kỳ. Ngày nhận lại xe, Karl chạy thử loanh quanh trong các đường phố. Sau đó y lái ra xa lộ. Khi xe đang chạy ngon trớn trên đường, bất thình lình Karl kéo hết thắng tay. Chiếc xe bất thần bị chổng ngược, quay vòng vòng rồi lật ngửa.
Ursula scan gửi kèm theo mail một bài báo đưa tin về vụ tai nạn. Tôi không đọc được tiếng Đức, chỉ có thể xem hình. Tôi đếm được tổng cộng 255 chữ trong bản tin đó. Rồi tôi nhìn tấm ảnh chụp chiếc ô tô trong bài báo. Coi nó lúc đó chẳng khác gì một con gián bị lật ngửa.
Ursula nói trong mail, "Cho tới bây giờ mình vẫn không hiểu nổi tại sao Karl lại có hành động khùng điên đến như vậy được."
Ursula không hiểu tại sao. Nhưng tôi, tôi nghĩ là mình có thể hiểu.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến
MÂY

Bầu trời nhìn qua một khung cửa hẹp thật tẻ nhạt. Nếu may mắn bạn sẽ trông thấy một đám mây. Nó đứng ở đấy thật lâu, bất động như được treo lơ lửng bằng một sợi dây, trước khi nó từ từ được kéo đi khỏi bởi một bàn tay vô hình. Lúc khác bạn thấy một con chim vụt bay xẹt qua. Nhưng phần lớn thời gian bầu trời chỉ như một tấm phông màn đơn sắc. Những cái nhánh cây trụi lá, dây điện, những mái nhà, tháp chuông, băm vằm nó ra thành từng mảnh manh mún, lộn xộn. Nhiều lúc để bớt nhàm chán tôi nghĩ ra một trò chơi thú vị. Tôi tưởng tượng ra nhiều hình thù kỳ dị vừa vặn, khít khao với những khoảng trống ấy và lần lượt lắp chúng vào, tương tự như trò chơi lắp ghép hình, cho đến khi bầu trời trở thành một bức khảm lạ lùng. Khi thì tôi nhìn ra hình ảnh cái chân của một người khổng lồ đang bước đi, hay hàm răng nhọn lởm chởm của một con cá mập, hình Chúa Jesus Christ trên cây thập giá, hoặc đôi cánh của một thiên thần; lúc thì tôi tưởng tượng nơi cái chạc ba mũi một chiếc tàu ngầm xuyên đại dương hay cái tai của một con dã tượng đang phe phẩy.
Đôi khi tôi cũng nhìn xuống miếng đất trống phía bên kia đường, trước kia làm bãi đậu xe, nay đã mọc lên một cửa hàng bán bánh. Cửa hàng thường xuyên vắng. Cả ngày mới thấy một, hai chiếc xe dừng lại; một, hai người khách ghé qua. Gã đàn ông bán hàng ngồi phía sau quầy như một pho tượng bằng sáp bày trong tủ kính. Ánh mắt vô cảm của một con cá ướp lạnh. Gã mong đợi gì từ mặt đường nhựa vô tri đó? Một tiếng phanh gấp trước cửa, một bóng người lao vào vội vàng? Gã có thấy nhàm chán và cũng như tôi, có bao giờ ngước nhìn lên bầu trời? Tôi tự hỏi.
Bây giờ đang là mùa xuân. Cây hai bên hè phố mọc lá xanh non mơn mởn. Ban ngày tôi cảm thấy ở đấy như có cả ngàn con mắt nhìn vào cửa sổ phòng tôi không chớp.
Tôi nhớ đến cây khế thuở nhỏ. Những chùm hoa be bé màu tím rụng đầy trên mặt những cái lu chứa nước mưa ở sân sau. Sau này cha tôi đã cho tráng xi măng và lợp mái tôn trùm lên hết mảnh sân ấy. Chỗ cây khế được chừa một khoảng trống khá rộng. Trong lúc mọi người say sưa giấc ngủ trưa, tôi thường lẻn trốn lên đó, ngồi vắt vẻo giữa cái chạc ba hái khế ăn. Bên dưới, con ngõ im ắng trong cái nắng ngột ngạt. Tôi ngắm nhìn không gian xanh rộng trên đầu, nhìn những đám mây mỗi lần chúng thay đổi hình dáng và màu sắc, như thể đang len lén nín thở chứng kiến có người vén lên tấm màn bí mật che đậy bầu trời, một thế giới hoàn toàn khác với cái thế giới mà tôi vẫn biết. Tôi nhận ra rằng nhờ có mây mà bầu trời trở nên gần gũi hơn và con người không còn thấy mình bé nhỏ.
Đó là thời kỳ sau chiến tranh. Tất cả đều khan hiếm, từ những vật dụng thông thường phục vụ cho nhu cầu đời sống hàng ngày cho đến những nguyên, vật liệu dành cho sản xuất. Cái xưởng cơ khí nhỏ của cha tôi cầm cự sống lay lắt qua từng ngày. Đám thợ thuyền nghỉ việc gần hết, họ trở về quê hoặc bỏ ra buôn bán vất vưởng ở vỉa hè. Rồi đến lúc không còn gì để làm. Cái xưởng đóng cửa bỏ phế. Máy móc lần lượt tháo ra bán sắt vụn. Cha tôi có lẽ vì việc đó mà đau buồn ngã bệnh. Cảnh ông nằm rên rỉ, vật lộn với cơn đau đang hoành hành thân thể mỗi ngày một suy kiệt làm tôi sợ. Lần đầu tiên trong đời tôi biết thế nào là sự bất lực của con người. Tôi chỉ dám đứng ở xa, quay mặt đi nơi khác để khóc.
Tôi học được từ những đám mây cách nhìn ngắm nỗi đau, cách để nó trôi qua không một tiếng động, không một chút dấu vết, cho đến lúc chân trời ló dạng.
Anh em chúng tôi nghỉ học. Như thường lệ, tôi lại trèo lên cây khế mỗi buổi trưa để cho trí tưởng tượng trôi dạt theo mây trắng lũ lượt bay qua trên đầu. Con ngõ vẫn trân mình ra cam chịu dưới cái nắng nóng mùa hè đổ lửa. Gió hiu hiu thổi. Những con diều giấy bị vướng dây điện như những con thú bị sập bẫy tử thương, đầu rách nát phơi những cái cật tre bên trong, nhưng đuôi vẫn còn chao lượn trong gió như thể đường bay của chúng vẫn không một chút nào bị gián đoạn. Ở cái ngõ nhỏ này, diều nếu không bị vướng dây điện thì cũng bị các mái tôn thấp xé rách, chúng không làm sao vươn tới được bầu trời bao la lồng lộng gió. Chỉ trừ phi bạn thả diều từ một nơi cao hẳn như ở cây khế này. Nhưng làm sao tôi có thể làm được điều ấy?
Có người nói rằng sau này căn nhà của chúng tôi đã bị tháo dỡ và cây khế đã bị đốn bỏ. Cho đến tận bây giờ, tôi cũng chưa một lần đặt chân trở lại đó.
***
"Ồ! Nhìn kìa! Cái máy bay bị nuốt chửng rồi kìa!"
"Chưa mà, vẫn còn cái đuôi màu đỏ của nó."
"Đó!"
"Cái gì?"
"Cái đuôi của nó biến mất thật rồi!"
"Ừ nhỉ. Không thấy nó đâu nữa. Trông cứ như là mình bỏ một món đồ chơi vào trong cái bịch nilon đấy nhỉ?"
"Không. Giống như một cái ví đầm thì đúng hơn."
"Em muốn nói cái ví bằng da cá sấu của em, phải không?"
"Đúng thế."
"Anh đã từng thấy cái ví đó không những chứa cái máy bay mà cả đại bàng, cá voi và một con bulldog nữa."
"Có thật không? Cả cá voi và chó nữa hả?"
Chúng tôi nằm trên một cánh đồng cỏ ngắm mây bay. Nhiều ngọn cỏ trổ hoa cao vút quá đầu người. Mây từ dưới chân đồi đùn lên lớp lớp, rải rác từng cụm trông giống như một bầy lạc đà đang bước đi đủng đỉnh qua một sa mạc mênh mông. Từ xa, cái thác nước vọng lại ồ ồ nghe như âm thanh của một cái xưởng máy đâu đây. Thỉnh thoảng từng tốp ba, bốn người đi qua. Khi ngang qua chỗ chúng tôi nằm, tiếng nói chuyện rõ dần cùng lúc hiện ra nửa phần trên thân người của họ, một lúc sau chỉ còn nhìn thấy đầu và sau cùng thì họ hoàn toàn biến khỏi tầm mắt. Có lẽ họ đi về phía thác nước. Tháng Năm, hoa dại màu tím và mimosa vàng nở rộ hai bên bờ suối. Ở đây cấm bơi nhưng được phép câu cá. Từ trong bờ hay đứng ở bãi đá, người ta thả câu bắt những con cá lấp lánh ánh bạc cỡ ba, bốn ngón tay chụm lại. Có lúc chúng tôi bắt gặp một con rùa nhỏ, bốn chân khua khoắng bơi giữa dòng suối, lưng nổi lên trên mặt nước như một mảnh gỗ vàng tươi.
Một chấm đen xuất hiện ở phía chân trời. Mối đe dọa mỗi lúc mỗi loang rộng ra. Nàng lo sợ một cơn mưa đang tiến đến gần. Không dễ gì mưa đâu, tôi nói để trấn an, khi mà nắng lóa vẫn tràn ngập cả một vùng đồi rộng lớn này.
Chúng tôi đến đây lần đầu. Hai tuần trước trong lúc ngồi cắt tóc tình cờ lật trang trong một tờ tạp chí, mục Nếp Sống Đô Thị, thấy giới thiệu khu vực cắm trại này kèm theo nhiều hình chụp hấp dẫn, tôi đã rủ nàng cùng đi. Đoạn đường dài 153 cây số, không tốt lắm, mất khoảng hai tiếng đồng hồ xe chạy. Tuy nhiên, bây giờ thì nàng đã quá quen với những chuyến đi như thế. Cũng như với việc cả ngày hai đứa ngước nhìn lên bầu trời trên đầu không biết chán. Nàng tỏ ra thích thú với những câu chuyện hoàn toàn do tôi hư cấu từ hình dáng của những đám mây bay. Cái gì cũng có thể làm cho nàng cười phá lên được, kể cả những thứ mà tôi nghĩ là không có mấy hay hớm. Nàng tham gia trò chơi với tôi. Hai đứa ngó lên bầu trời và thay phiên kể cho nhau nghe nhiều câu chuyện bịa đặt. Tôi thích bịa ra những thứ khôi hài, giễu cợt, còn nàng lại ưa tưởng tượng những câu chuyện tình cảm nghiêm trang và cảm động. Một lần nàng chỉ lên đám mây có hình dáng như một cánh bướm rồi hư cấu ra một câu chuyện thế này: Con bướm ấy có một năng lực siêu nhiên huyền bí. Hễ mỗi lần đậu lên người nào, nó sẽ khiến cho người ấy có thể nhìn thấy tương lai của mình hiển hiện ra trước mặt. Một ngày nọ, nó bay vào hoàng cung, vào khuê phòng của cô công chúa và đậu lên trán nàng trong lúc nàng ngủ say. Trong giấc mộng, cô công chúa mơ thấy mình kết hôn với một hoàng tử tuấn tú và tài giỏi của vương quốc láng giềng. Họ sống hạnh phúc và có với nhau nhiều đứa con xinh đẹp. Rồi bỗng nhiên binh đao, khói lửa xảy ra. Hoàng tử ra mặt trận. Lần nào chàng cũng trở về trong tiếng hát khải hoàn. Thế nhưng, trong một lần chỉ huy, chàng bị trúng một mũi tên tẩm độc dược và đã hy sinh một cách anh dũng. Con bướm bay đi và công chúa giật mình thức giấc, không hết bàng hoàng bởi giấc mộng.
"Giả dụ nếu con bướm ấy đậu lên người em lúc này thì em sẽ thấy những gì?"
Một câu hỏi đường đột không đúng lúc, có lẽ vậy, khi tôi liếc thấy nàng vẫn chưa hết say sưa phấn khích bởi câu chuyện tạo ra từ trí tưởng tượng.
"Em hả?" Nàng ngập ngừng một lúc trước khi nói tiếp, như đọc một văn bản có sẵn ở trong đầu "Em thấy mình thi lấy bằng lái xe đậu và vượt qua được cuộc phỏng vấn xin việc làm ở HSBC. Ừm... ừm... Em thấy mình dọn đến một căn hộ mới tiện nghi, có bà gác dan dễ chịu và thấy mình đang nằm phơi nắng ở một bãi biển với một ly sherry bên cạnh."
Còn tôi? Tôi mong đợi gì ở tương lai? Bất giác tôi đưa lưỡi rê qua một lượt hàm trên trong cùng, nơi có mấy cái răng bị nha chu định đi khám từ cả tuần nay. Hóa đơn điện thoại hơn chục ngày chưa thanh toán. Cái gì bây giờ cũng tăng giá vùn vụt đến chóng mặt. Giá dầu thô trên thế giới đã vượt ngưỡng trên 100 đô la/thùng. Lạm phát, người ta đang nói thế trên báo chí. Cho nên chẳng trách gì vợ chồng chủ nhà hễ thấy tôi ở trong nhà tắm hơi lâu một chút là ở bên dưới họ khóa ngay bình nước nóng. Nhiều lần phải cắn răng chịu lạnh. Nhưng tôi không thể tìm một chỗ nào khác tử tế hơn với số tiền ít ỏi dành dụm còn sót lại sau khi thất nghiệp.
Vần đề của tôi là tôi đã không có được cái khả năng đó của nàng: biết mình muốn gì, có thể làm được gì và bằng cách nào. Nàng cho tôi cảm tưởng nàng đang bước những bước đi chắc nịch trên bề mặt của một hiện thực bằng phẳng và kiên cố. Cái cảm tưởng mà bạn không thể nào có được khi ánh mắt ngước lên một độ cao nhất định. Chẳng hạn ngó lên một đám mây, ở chỗ chúng tôi nằm lúc này, bạn sẽ thấy mọi thứ chung quanh đều bồng bềnh và tan loãng.
Nàng, chứ không phải tôi, đã nhanh chóng nhận ra những hạt mưa đầu tiên. Một đám mây hình cái nấm to màu đen đang mọc lên ở hướng đông. Nàng ngồi nhổm ngay dậy.
"Mưa rồi, anh ơi!"
Chung quanh mọi người đang lục tục thu dọn lều, bạt. Một số ít đã nhanh chân nổ xe đi trước. Tôi vơ vội mấy thứ rồi cả hai cùng lao ra xe.
Bà gác gian ở căn phòng tận cuối sân trong. Thường ngày bà vẫn ngồi đan móc cạnh lối cầu thang lên xuống cho đến chiều tối. Nàng nói để dễ kiểm soát người ra vào. Mỗi lần nhác trông thấy bóng người, bà dừng tay, đặt các thứ lên đùi và trễ cái kính lão xuống tận chóp mũi, nhìn lom lom. Người lần đầu mới đến như anh, bà ta hạch hỏi y như một viên cảnh sát. Chưa kể trong lúc mình đi vắng, bà ta có chìa khóa dự phòng có thể tự tiện vào trong phòng mình để kiểm tra xem mình có phá hoại nhà cửa hay không. Nhiều người không chịu nổi chỉ ở vài tháng là cuốn gói đi nơi khác.
"Em bị lần nào chưa?"
"Bị gì?"
"Kiểm tra."
"Chưa. Nhưng mấy đứa sinh viên thì bị rồi."
Hôm nay trời mưa, có lẽ bà ấy đang ở trong nhà. Cửa đóng kín. Ngoài hiên treo lủng lẳng một cái lồng chim trùm vải kín mít.
Mấy đứa sinh viên nàng nói lúc nãy, trước đây trọ ở lầu một, hiện thời nơi đó để trống. Khi đi ngang qua, tôi ngoái đầu nhìn thấy cửa phòng có ổ khóa ngoài, những mảnh giấy báo dán chồng lên một ô kính vỡ. Cầu thang gỗ ẩm ướt và tối. Sơn hai bên tường bị dấu tay bôi bẩn thành một mảng dài, nước mưa từ trần chảy lâu ngày để lại những vệt xám đen. Tầng lầu thứ hai có một ngọn đèn vàng áp tường. Ánh sáng vừa đủ để bước tránh những chỗ ọp ẹp. Chúng tôi đứng lại hôn nhau ở bậc thang cuối cùng. Chúng tôi còn phải đi qua một cái sảnh khá rộng, có kê một cái bàn dài ở giữa, trong góc là một chồng các thùng giấy chất lên nhau, trước khi rẽ vào một hành lang hẹp. Nàng ở cạnh một cô người Hoa giữ chân thu ngân ở một quầy hàng thuốc tây. Cửa khép hờ bên ấy. Cuối hành lang là nhà tắm, nhà vệ sinh và một góc nhỏ làm chỗ nấu nướng chung.
Trong lúc chờ nàng đi hâm nóng lại thức ăn chúng tôi mua trên đường về - một con gà nướng, khoai tây chiên và hai ly cà phê pha sẵn - tôi đặt một cái đĩa nhạc của Tarja Tunuren và đảo mắt khắp phòng. Một bộ bàn ghế sơn verni cũ vừa làm bàn ăn, chỗ tiếp khách, kê ở giữa. Một cuốn tạp chí lật ra ở trang có hình cô gái quàng túi xách màu đỏ trên mặt bàn. Quần áo trên cái móc trong góc. Một cái tivi nhỏ bên cạnh chụp đèn. Kệ sách. Tranh ảnh trên tường. Một chậu cây đã rụng hết hoa trên bậu cửa sổ. Tất cả đều không có gì đặc biệt đáng chú ý, ngoại trừ một bầu không khí cô quạnh, buồn bã toát ra từ bốn bức tường.
Tôi ngồi vào bàn máy vi tính của nàng. Máy để ở chế độ nghỉ đông. Tôi tìm kiếm trên Google và thu được 187.000.000 kết quả về mây chỉ trong 0,15 giây. Một con số không phải nhỏ. Để thu hẹp phạm vi, lần này tôi đặt chữ mây trong hai dấu ngoặc kép. Kết quả vẫn không hề thay đổi. Sự thật, so với một hiện thực tẻ ngắt mà chúng ta phải chung đụng mỗi ngày, mây còn đáng để quan tâm nhiều hơn thế nữa. Tuy nhiên, vào những trang chuyên khảo sát về mây, tôi mới thực sự thất vọng về cái kiến thức nghèo nàn của các nhà khoa học. Ở đó, mây chỉ được họ phân loại sơ sài theo hình dáng và độ cao. Nhưng ngay cả ở khía cạnh hình dáng và độ cao đó, người ta cũng chỉ có thể phô diễn một sự lười biếng, nông cạn về trí tuệ.
Chẳng hạn, về hình dáng, bạn sẽ có mây cumulus xếp chồng lên nhau; mây stratus từng lớp; mây cirrus hình lọn tóc quăn. Ở độ cao, bạn sẽ có mây họ A cao từ 6000 mét trở lên; mây họ B từ 2000 đến 6000 mét; mây họ C từ 2000 mét trở xuống và cuối cùng là mây họ D theo chiều thẳng đứng. Những đám mây mang những cái tên bằng tiếng La tinh khô khan, tẻ nhạt, kèm theo một vài bức ảnh chụp ở những thời điểm khác nhau trong ngày. Người ta bằng lòng với định nghĩa và những hình ảnh có sẵn đó để tạo ra cho mình một cái nhìn cố chấp về mây, và cũng có thể, nào ai biết, về tất cả mọi thứ trên đời. Sau khi đã lướt qua Google, tôi dám cá với bạn là, bạn không thể tìm thấy bất cứ ở đâu một con số thống kê đầy đủ có tất cả bao nhiêu hình dáng của mây trên thực tế. Tôi tin có lẽ cho đến bây giờ nó vẫn còn là một thách thức lớn nhất của loài người.
"Anh đang xem gì đó?"
Nàng đã đứng bên cạnh tôi từ lúc nào. Hơi thở ấm một bên tai.
"Anh không tìm thấy đám mây hình con bướm của em ở đâu hết."
"Ủa? Thế à?!"
Có vẻ nàng không mấy hứng thú với chuyện đó lắm vào lúc này.
"Thôi ăn đi anh. Em đói lắm rồi."
Có tiếng đóng sập cửa ở bên ngoài hành lang. Có lẽ từ phòng cô gái người Hoa. Tôi đoán do tiếng nói chuyện và tiếng nhạc từ bên chúng tôi vọng sang. Tôi vặn nhỏ cái máy nghe CD.
Hôm đó chúng tôi đi ngủ thật muộn. Hình như lúc gần sáng đã có một cơn mưa nhỏ.
***
Tất cả đã diễn ra quá nhanh. Đầu tiên là bức thư của ngân hàng HSBC thông báo nàng được nhận vào làm việc. Buổi trưa nàng lật đật chạy đến báo tin. Chúng tôi liền ăn mừng để đánh dấu sự kiện quan trọng đó. Với hai cái hamburger, một hộp kem hương vị dâu cho nàng và một chai Smirnoff Ice cho tôi, hai đứa ra bờ sông, ngồi trên bờ kè ngó những con tàu đang ăn hàng và rặng cây bên kia sông. Bầu trời xanh ngăn ngắt, không một gợn mây che chở khiến chúng tôi cảm thấy trần trụi, tương tự như đang phải khỏa thân. Nàng không giấu nổi sự vui sướng cũng như sự căng thẳng, bồn chồn trên gương mặt. Tôi hiểu cảm giác đó, cảm giác mà tôi dã từng trải qua, khi chỉ mới chạm tay vào phần giấy sặc sỡ bóng lộn gói bên ngoài và hồi hộp trước những bất ngờ chờ đợi ở bên trong hộp quà. Chúng tôi im lặng ngồi bên nhau cho đến tận chiều. Cuối cùng nàng nói, "Em thấy ớn lạnh." Tôi nghĩ trong đầu, ờ, anh cũng lạnh đéo chịu được.
Trong cả mùa thu ấy, bầu trời trong vắt, uể oải. Những đám mây lười biếng. Nàng bận bịu với công việc mới và chúng tôi không còn thường xuyên bên nhau để ngắm mây bay như trước. Một người bạn làm việc cho một tờ báo thỉnh thoảng kiếm cho tôi những bài báo nho nhỏ hay những truyện ngắn nước ngoài để dịch. Công việc không mấy hứng thú nhưng mang đến một món tiền khiêm tốn cần thiết, trong khi chờ đợi. Chúng tôi chỉ gặp nhau vào ngày Chủ nhật. Nàng mua thức ăn, đồ uống mang đến và chúng tôi đi chơi cả ngày. Những hôm thời tiết xấu không thể ra ngoài trời, chúng tôi ở nhà, nằm hàng giờ nghe Nightwish, xem phim, tán dóc và làm tình. Những lần như thế, nàng thường hay nói về công việc, về những đồng nghiệp, khách hàng của mình. Đủ thứ lạ lùng, nguyên văn nàng nói. Tôi nghe nàng nói say sưa, không nỡ cắt ngang. Nếu vào lúc khác, tôi sẽ chen vô ngay lập tức, Làm ơn dẹp đi, Chán chết mẹ. Tôi còn lạ gì. Chẳng phải bạn và tôi đang chết dần chết mòn bởi mấy cái thổ tả đó sao?
Rồi ngay đến những chuyến rong chơi những ngày Chủ nhật cũng thưa thớt dần. Nàng gọi điện hay gửi SMS báo phải dự sinh nhật của một đồng nghiệp, một đám cưới hay thứ gì đó đại loại. Trước sau gì nàng cũng không tránh khỏi, tôi nghĩ, đó là một phần của cuộc chơi, một khi đã chấp nhận, nàng không thể tham dự cuộc chơi có một nửa. Tôi trở lại bờ sông một mình, ngồi hàng giờ trên bờ kè, không làm gì hết. Có những ngày bầu trời trắng đục như sữa, cảm tưởng như ai đã khuấy những đám mây tan loãng ra. Mấy con chim kiếm mồi quanh đám rác nổi ven sông kêu điếc tai. Sự xuất hiện thường xuyên của tôi có lẽ đã gây chú ý cho chung quanh. Những đứa trẻ bán dạo, gái điếm và những gã đực rựa bắt đầu lân la đến gạ gẫm.
Một tai nạn đã bất ngờ xảy ra. Một lần trên đường về nhà, băng qua một con phố hẹp, thình lình một chếc xe từ đâu lao ra. Tôi nghe thấy một tiếng hét rồi một cú tông thật mạnh vào người. Cái tai nạn đó khiến tôi nằm ở bệnh viện mất hơn hai tháng. Nàng hớt hải đến bệnh viện ngay ngày hôm sau trong lúc tôi vẫn còn mê man. Gãy xương bả vai và thương tích ở những phần mềm. Toàn thân băng bó giống một cái xác ướp, sau này nàng nói. Tôi không hỏi ai đã báo tin cho nàng biết. Rất có thể người ta đã tìm thấy cái danh thiếp mà nàng trao cho tôi dạo vừa mới vào làm cho HSBC tôi vẫn để ở trong ví. Chúng tôi lại gặp nhau vào mỗi Chủ nhật và mỗi lần, nàng ở lại cho đến sẩm tối mới trở về. Nàng ngồi ở chiếc ghế đầu giường đọc sách cho tôi nghe, bóc trái cây cho tôi ăn, thỉnh thoảng nắm lấy bàn tay tôi bóp nhẹ. Nàng không còn nói về công việc của mình như những ngày đầu nữa. Cái gì vậy? Tôi tò mò muốn hỏi nàng một điều gì đó nhưng rồi lại quên.
Hai tuần lễ trước khi tôi xuất viện, nàng không đến. Có thể nàng lại bận bịu gì đó. Tôi không có điện thoại bên người để nàng báo tin. Hai ngày chủ nhật ấy bỗng trở nên trống rỗng và dài tưởng như vô tận. Tôi nhớ lại lần gặp cuối cùng với nàng đến từng chi tiết. Không có gì khác thường, ngoại trừ nàng tỏ ra ít nói về công việc của mình hơn trước. Cũng có thể nàng thấy những chuyện như vậy hoàn toàn không phù hợp với một người đang ở trong tình trạng hiện thời như tôi. Thế nhưng tôi vẫn không khỏi bồn chồn lo lắng. Có lúc tôi đã toan đưa số điện thoại của nàng cho cô y tá trực nhờ hỏi thăm, nhưng đắn đo mãi rồi lại thôi.
Việc đầu tiên tôi làm khi ra khỏi bệnh viện là đến tìm nàng ở nhà trọ.
Bà gác gian hạ thấp gọng kính xuống nhìn tôi một lúc như để dò xét. Tôi không mấy ngạc nhiên trước cử chỉ đó, một phần vì đã được nàng cảnh báo ngay từ đầu. Điều mà tôi chú ý hơn cả vào lúc ấy là cái lồng chim. Một cái lồng bằng mây trống không, không chim, không gì cả, treo ngay trên đầu bà. Không biết để làm gì.
"Cậu là như thế nào với cô ấy?"
"Bạn."
"Bạn? Thật cậu không biết gì cả à?"
"?"
"Cô ấy đã dọn đi khỏi đây từ tuần nay rồi. Con bé dễ thương, hiền lành thật đấy!"
"Vâng." Tôi ngó cái lồng chim treo trước mặt "Đủ thứ lạ lùng."
"Hả? Cậu nói cái gì?"
***
Buổi sáng bầu trời sạch sẽ, bóng lộn. Nó thường gợi cho tôi hình ảnh của một đại dương bình yên. Gió mát hây hẩy vửa đủ để tạo nên những lọn mây nhỏ lăn tăn trên bề mặt. Khi những tiếng chuông ngân nga từ ngọn tháp nhà thờ vừa dứt, không khi bắt đầu nóng dần lên. Thoạt đầu với sự xuất hiện của người đi giao báo. Ông ta đạp xe thong thả từ đầu phố, đến đoạn leo dốc thì gò lưng, cúi rạp người trên tay lái. Đến từng nhà, ông bước xuống xe cẩn thận đặt báo trước cửa rồi lại leo lên đạp tiếp cho đến căn nhà trước bến xe buýt mới rẽ sang đoạn phố khác; một hành trình bất di bất dịch từ bao năm nay. Người giao báo vừa đi khuất thì đến lượt chiếc xe bồn tưới nước cho cây hai bên hè phố chậm chạp đi qua. Khi ấy, không cần xem đồng hồ, mọi người đều biết là đã tám giờ. Như thể đã có thỏa thuận với nhau, các hàng quán đều đồng loạt mở cửa.
Chính lúc ấy, lần đầu tiên, tôi bắt gặp ánh mắt gã đàn ông ở cửa hàng bán bánh phía bên kia đường ngước nhìn lên những đám mây bạc màu.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

TẤT CẢ NHỮNG ĐIỀU ĐÓ

Thùy, vợ của Quang, gọi điện thoại cho họ trong lúc cả hai đang ăn cơm tối. Chị báo tin chồng mình đã được đưa vào bệnh viện. Nghe giọng run run, đứt quãng, anh đoán ở bên kia đầu dây chị đang cố gắng kìm nén sự xúc động. Anh biết không thể tìm hiểu thêm gì nhiều nơi chị vào lúc ấy, nên tự giới hạn trong vài câu hỏi tối cần thiết.
Khi đặt ống nghe xuống, cảm giác hụt hẫng gây ra bởi cái sự kiện bất thình lình đó hình như cũng truyền cả sang anh. Trước ánh mắt dò hỏi của vợ, anh chỉ tóm tắt lại ngắn gọn nội dung cuộc điện đàm cho nàng nghe rồi đề nghị cả hai sẽ đi thăm Quang ngay tối mai.
Quang là bạn học chung đại học với anh. Đang ở trong giai đoạn sung sức và hăng hái làm việc cho một công ty phần mềm điện toán thì một hôm Quang thấy mình bị đau một bên đầu và mắt đột ngột mờ đi, bèn đi khám ở một phòng mạch của một người bạn bác sĩ. Rồi sau đó anh lại được giới thiệu đến kiểm tra ở một bệnh viện chuyên khoa về thần kinh. Người ta kết luận Quang có một khối u trong não và buộc anh phải nằm lại điều trị.
Tất cả đã diễn ra quá nhanh, thực sự là một cú sốc đối với Thùy và những người thân thuộc. Ngay cả Quang, khi vào bệnh viện, cũng nghĩ chẳng qua đó là một trục trặc nhỏ, sau vài ngày anh sẽ lại về nhà và tiếp tục công việc. Nhưng đến ngày hôm nay thì Quang đã ở trong bệnh viện hơn một tuần. Người ta chẩn đoán trong não anh có khối u thần kinh đệm, một loại khối u ác tính mà tỷ lệ tử vong rất cao.
Lúc họ đến thăm thì Quang đã được chuyển đến phòng săn sóc đặc biệt nằm ở cuối dãy hành lang, trên lầu một. Họ phải lần lượt đi qua phòng làm việc của bác sĩ, phòng của y tá trực và nhiều phòng bệnh khác đóng kín cửa. Qua lớp kính mờ đục, họ chỉ nhìn thấy những bóng đèn néon cháy sáng. Ở trước cửa phòng Quang, một người đàn bà luống tuổi trên tay bồng một đứa bé gái và nhiều người nữa ngồi bệt dưới đất, họ đều là thân nhân đi nuôi bệnh. Bên trong phòng có tất cả năm giường, Quang nằm ở trong cùng, sát vách. Họ thấy mỗi mình Thùy. Chị ngồi ở bên cạnh giường chồng. Trông chị phờ phạc hẳn, hai mắt đỏ và sưng húp, có lẽ chị đã khóc rất nhiều trong những ngày qua. Khi vừa nhìn thấy họ, chị lại không kìm được nước mắt.
Bệnh viện cho biết người ta không thể tiến hành phẫu thuật cho Quang được vì khối u nằm ở một vị trí quá hiểm, mà chỉ có thể làm xạ trị và hóa trị. Điều đó cũng có nghĩa là cơ hội để cứu sống anh rất mong manh.
Trên giường Quang nằm ngủ thiêm thiếp, tấm chăn mỏng đắp ngang ngực. Trong bộ quần áo màu xanh lá cây của bệnh viện và với cái đầu trọc không một sợi tóc, họ không còn nhận ra những nét quen thuộc trên gương mặt Quang nữa. Mới hơn một tuần mà anh đã biến đổi hoàn toàn, vàng vọt, tiều tụy hẳn. Quang vừa trải qua một đợt xạ trị sáng nay. Chiếc kính trắng của anh còn đặt nằm ngửa lên bìa một tờ tạp chí ở trên chiếc tủ nhỏ kê ngay đầu giường.
Từ lúc vào nàng luôn luôn đứng bên cạnh Thùy. Cả hai đứng nép vào nhau ở ngay đầu giường. Suốt buổi nàng chẳng có một cảm xúc gì rõ rệt. Chỉ có những ý nghĩ lộn xộn không đầu không đuôi. Có một lúc, nàng bắt đầu cảm thấy mệt, nàng mong sao cho mọi thứ và cả buổi tối này nữa qua đi thật nhanh.
Một cô y tá mở cửa đẩy chiếc xe thuốc vào. Cô đến bên các giường bệnh ghi chép, phát thuốc hoặc chỉnh lại các dây truyền dịch. Cô đến bên giường Quang sau cùng, đưa những hộp thuốc cho Thùy, dặn dò chị rồi ghi chép gì đó vào một tờ giấy kẹp vào tấm nhôm treo ở chân giường. Bên cạnh giường Quang, một bệnh nhân nằm thiêm thiếp, một sợi dây tiếp dưỡng khí gắn vào mũi, phía trên đầu đặt một máy đo nhịp tim nhấp nháy liên tục và phát ra một thứ âm thanh nhức óc như một cái búa nện; người kế nữa to béo nằm xoay lưng lại và hai bệnh nhân còn lại, một người đàn ông trung niên và một bà lão; tất cả đều giống hệt nhau, đều nằm bất động, da thịt nhợt nhạt, lịm tắt.
Khi cô y tá trở ra, qua cánh cửa mở, anh nhìn thấy những người nuôi bệnh vẫn còn đứng lố nhố ở đấy, họ thò đầu vào trong ngó nghiêng một lúc rồi lại rụt ra.
Vào những giây phút cuối, họ không nói năng gì, hoặc cũng có thể cả Thùy nữa, chẳng còn gì để nói với nhau, họ ngồi im lặng nhìn Quang, cho đến lúc hai người chào từ giã Thùy ra về.
Họ cũng giữ im lặng trong phần lớn thời gian ngồi trên xe về nhà.
Chỉ đến khi chiếc xe bắt đầu rẽ vào một con phố nằm một bên con kênh, len lỏi qua dòng xe cộ và đám đông giăng giăng trước mặt, thì cả hai mới bắt đầu cảm thấy bầu không khí nặng nề ấy đã kéo dài.
"Lúc đi, em đã cho con Sumo vào nhà chưa?"
"Nó vẫn còn ở ngoài sân." Nàng nói.
Xe phải dừng một lúc ở dốc cầu đang trong giai đoạn sửa chữa để nhường cho những chiếc gắn máy vượt lên trước. Người ta quây bạt và thắp đèn sáng ngay ở giữa đường để làm việc. Mọi người phải cho xe đi chậm lại. Phía trước mặt là vườn thú, cũng bị vây kín mít bởi những tấm tôn và vải bạt, ở bên ngoài thấy loáng thoáng những ngọn đèn bảo vệ trên những cái chòi cao. Nghe nói người ta đang có kế hoạch nâng cấp, sửa chữa nơi này và một số con thú sẽ được di chuyển bớt đến một vườn thú khác rộng rãi hơn nằm ngoài thành phố. Anh rẽ vào một con phố cổ theo một lối đi vòng, xa hơn. Từ đó, họ phải mất thêm chừng mười lăm phút nữa mới về đến nhà.
Bây giờ đang là giữa tháng Tư nhưng trời đã nóng gay gắt. Dù đã vào đêm mà ở trên xe, máy lạnh phải mở lớn mới chịu nổi. Cả ngày con Sumo đều quanh quẩn trong nhà, nó nằm dài trên sàn gạch dưới gầm bàn hay gầm giường. Đến chiều tối, khi trời đã bắt đầu dịu mát, nó mới tha thẩn ra ngoài sân, ngồi lim dim dưới giàn bông hoàng anh.
Lúc nãy ở bệnh viện, khi từ trong phòng Quang bước xuống dưới tầng trệt, nàng đã muốn ngộp thở bởi hơi người và bầu không khí ngột ngạt bên ngoài hành lang. Khách đến thăm và thân nhân nuôi bệnh chen nhau đứng, ngồi trên những băng ghế đá; nhiều người còn trải chiếu ra đất hoặc nằm trên những chiếc ghế bố. Phần lớn trong số họ từ các tỉnh xa đến phải ăn ngủ ngay tại chỗ. Trên nét mặt ai cũng đầy sự mệt mỏi, lo âu.
Thực sự nàng rất ngại lui tới những chốn này. Nàng dị ứng với cái không khí nặng trĩu ở đó, sợ nhìn thấy những thân người nằm dúm dó trong những căn phòng lạnh lẽo sực nức mùi ê te, mùi bông băng. Dấu ấn bi thảm nhất còn đọng lại trong trí nhớ nàng là khoảng thời gian cha nàng nằm bệnh viện. Ông mắc chứng xơ gan. Ở đấy nàng phải chứng kiến cảnh ông bị trói chân tay vào thành giường và kéo dài sự sống nhân tạo qua từng ngày, người ông bị sưng phù và vào giai đoạn cuối máu chảy tràn ra khắp cơ thể. Cho nên ngày hôm qua, lúc anh đề nghị hai người tối nay sẽ đi thăm Quang, nàng chỉ ậm ừ cho anh vui lòng.
Anh bắt đầu tăng tốc. Xe chạy qua con phố cổ một đoạn khá xa, qua khỏi ngã ba nơi có những tiệm ăn và những cái quán bar nhỏ, đèn đuốc sáng rực. Nhiều người ra vào nhộn nhịp, họ ngồi ở những cái bàn kê ngay trên vỉa hè.
Đến lúc ấy, họ mới chợt nhớ ra hôm nay là một ngày cuối tuần.
Về đến nhà, nàng chui vào ngay phòng ngủ, trong lúc anh còn nhiệm vụ phải cho con Sumo đi dạo đêm một vòng theo con đường nhỏ bọc quanh khu phố, như mọi bữa.
Vào giờ đó, mọi người hầu hết đã đi ngủ, chỉ vài nhà còn mở ti vi hoặc để đèn sáng. Gió bắt đầu thổi xào xạc trên những ngọn cây. Một cô gái mặc chiếc váy ngủ, tóc xõa xuống vai, mở cửa ra đứng ngoài hàng hiên, đưa mắt nhìn theo khi anh dắt con chó đi ngang qua. Ánh đèn theo cánh cửa mở hắt ra một vệt sáng trước mặt, anh nghe thấy tiếng người nói từ bên trong nhà vọng ra ngoài rồi giọng cười trong trẻo của cô gái vang lên ở sau lưng. Anh rảo bước thật nhanh, ngoặt qua một cái góc tối, cảm tưởng giọng cười trong trẻo đó còn đuổi theo anh về đến tận nhà.
Tiếng kẹt cửa làm cho nàng trở mình. Anh hơi ngạc nhiên khi thấy từ nãy giờ nàng vẫn còn thức.
"Ủa, em vẫn chưa ngủ sao?" - anh hỏi khi vừa đặt lưng xuống giường.
Nàng quay mặt lại, nằm nép sát vào người anh. Nàng không trả lời mà hỏi lại: "Không biết bao giờ thì cái vườn thú sẽ hoàn thành, anh nhỉ?"
Trong khoảng vài giây, anh thấy mình lúng túng, không kịp nghĩ ra một cái gì cụ thể, bởi câu hỏi quá đột ngột ngoài sự mong đợi. Có phải vì bận tâm đến điều này mà nàng trằn trọc mãi không ngủ?
"Cũng phải mất cả năm chứ em."
"Thế còn con hà mã con?"
"?"
Gần hai năm trước, họ đến vườn thú đúng vào lúc tin tức về một chú hà mã con chào đời cách đó không lâu được báo chí đăng tải rùm beng, đánh giá đó là một thành tích to lớn của chương trình bảo tồn các thú hoang dã nhiệt đới. Thông báo của vườn thú nói con hà mã con cân nặng những 30 kg.
Khi họ đến, chỉ thấy có mỗi hà mã bố nằm nhô đầu lên mặt nước lim dim phơi nắng, hai mắt nó mở he hé nhìn đám người lớn và trẻ con hiếu kỳ đứng bâu quanh vòng rào một cách lạnh nhạt, khinh khỉnh. Được một lúc, dường như quá ngán ngẩm với bầu không khí buồn tẻ đó, nó hụp đầu xuống nước rồi phun ra đằng mũi một đám hơi nước như sương mù, khiến đám đông ồ lên thích thú.
Sau cùng, nhân vật chính cũng xuất hiện. Từ dưới vũng nước, hà mã mẹ trồi lên địu trên lưng chú hà mã con, thân hình hai con vật bên dưới lớp nước như sáng ngời lên trong ánh nắng. Cảnh tượng ấy mới đẹp làm sao! Nàng bấu chặt lấy cánh tay anh nhìn không chớp mắt. Những chiếc máy ảnh bấm liên tục. Con hà mã con có màu da hồng nằm ngoan ngoãn trên lưng mẹ, có vẻ như đang ngủ. Anh giải thích cho nàng biết là hà mã con sẽ bú mẹ cho đến khi được một tuổi và trong hai năm đầu, nó chỉ quanh quẩn bên mẹ để học hết những kỹ năng cần thiết cho cuộc sống tự lập sau này.
"Còn hà mã bố làm gì trong thời gian đó?"
"Nó có trách nhiệm bảo vệ hạnh phúc của gia đình mình bằng cách lấy đuôi quất phân, nước tiểu bay ra thật xa để phân định ranh giới, ngăn không cho kẻ lạ mặt nào lai vãng đến."
Nghe anh trả lời, nàng nheo nheo mắt nhìn anh giễu cợt: "Thế thì mẹ con hà mã chết ngạt vì mùi hôi thối mất!"
Một tháng sau lần đi chơi ở vườn thú ấy, họ làm lễ cưới. Quang và Thùy được mời làm phụ rể, phụ dâu. Và vài tháng sau nữa, kế tiếp đến cặp Quang - Thùy cũng lấy nhau.
"Không biết người ta có đưa con hà mã con đi không, hả anh?" Nàng hỏi tiếp.
"Chắc bây giờ hà mã con đã trưởng thành rồi, có thể người ta sẽ cách ly nó với bố mẹ. Nó sẽ được đưa đến vườn thú mới. Biết đâu như vậy sẽ tốt hơn."
Nàng nằm im lặng, không nói gì thêm.
Một mùi thơm nhè nhẹ tỏa ra từ mái tóc và da thịt nàng. Anh hít một hơi thật dài và luồn tay vào bên trong váy nàng, vuốt ve làn da mềm mại dọc theo sống lưng rồi chuyển ra trước ngực, anh mân mê hai bầu vú săn gọn của nàng. Nàng khẽ rùng mình, quàng tay ôm chặt lấy anh.
Họ nằm như thế cho đến hết đêm.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

MỘT LẦN NGỒI BÊN SÔNG

Ngày thứ tư sau khi Hằng bất ngờ bỏ đi, y mới ra khỏi nhà.
Suốt bốn ngày nhốt mình trong bốn bức tường, y giết thời giờ bằng cách chăm sóc cho đám cây trồng ở khoảnh đất nhỏ trên lầu, cạnh buồng tắm. Khoảnh đất ấy có một mặt hướng ra ban công để hứng lấy gió và ánh sáng mặt trời. Y thấy đã có một cái cuốc ngắn, cây kéo tỉa nhánh, mấy cái chậu bằng nhựa và bằng đất nung nằm lăn lóc trong một góc. Y đứng ngó một lúc rồi chợt nhận ra trong cái khoảng không gian nhỏ bé đó đã có quá nhiều những loại dây leo mọc chằng chịt, trong khi chẳng có lấy một cây hoa nào để tạo ra cho nó một chút màu sắc tươi tắn. Y quyết định cắt bỏ bớt một số và nhổ hết mấy cây dại đi để trồng thêm vào đó một vài khóm hoa nhỏ.
Ngày thứ tư, khi cơn mưa đã dứt và trời có nắng đẹp trở lại, y cũng vừa kéo dây điện bắt xong một bóng đèn tròn và bắt đầu bón thêm phân. Trong lúc xới đất, thỉnh thoảng y buộc phải dừng tay để nhìn qua những chấn song sắt xuống miếng vườn sau của nhà bên cạnh. Tiếng la hét inh ỏi của hai đứa con trai chơi bóng quanh mấy gốc cây bên đó đã kéo y ra khỏi sự tập trung chú ý vào công việc. Y nhìn thấy đứa bé gái ngồi một mình nghịch đất, còn ở chỗ sáng sủa và thoáng đãng nhất mẹ của chúng nằm phơi nắng trên một chiếc ghế dài. Nàng mặc một bộ bikini màu xanh, kính râm, một chân co chân duỗi. Tuy cách nhau một cái hồ bơi và bức tường thấp, y tưởng vẫn có thể nhìn thấy rõ những sợi lông tơ trên cánh tay trần và cặp đùi thon dài của nàng. Y không thể cưỡng lại được sự cám dỗ của da thịt người đàn bà đang phơi trần trước mặt. Cặp mắt y mơn trớn vuốt ve dài theo thân thể của nàng, chúng dừng lại khá lâu ở phần ngực và giữa cặp đùi. Một chút rung động nhè nhẹ trong huyết quản đủ để làm cho y cảm thấy ngạc nhiên với chính mình. Có một lúc nàng bất thình lình ngẩng mặt lên về phía chấn song, hay y có cảm tưởng như vậy, khiến y chột dạ vội vàng đứng lùi ra xa khung cửa. Y đã giáp mặt nàng nhiều lần ngoài đường nhưng đều không để lại ấn tượng gì đặc biệt. Có lẽ với đàn bà, y nghĩ, chỉ khi tiếp cận qua xác thịt người ta mới khám phá hết những bí ẩn của họ.
Đúng vào lúc ấy, y nhận được cú điện thoại của Hùng rủ rê đi câu cá, "Mày có rảnh ra đây chơi. Tao có một mình và đang buồn muốn chết đây!"
Nói đúng ra, y không có mấy hứng thú câu cá vào thời điểm ấy. Nhưng hôm đó trời vừa mới tạnh sau hai, ba ngày mưa dầm liên tiếp và y cũng cần ra ngoài tìm một chút khí trời để thở.
Nhà của Hùng nhìn ra một con sông nhỏ, cách chiếc cầu sắt sơn trắng nối liền với trục lộ chính bởi một đám dừa nước và lùm cây dại nở hoa tím um tùm. Thỉnh thoảng một nhóm nhỏ tụ tập ở nhà Hùng, câu cá, ăn uống, ca hát, chơi bài và làm đủ thứ trò tiêu khiển khác. Họ phần lớn là bạn học hay đồng nghiệp với nhau. Đôi khi có trăng sáng, họ kéo đèn từ trong nhà ra tận mép sông ngồi chơi đến hết đêm.
Mùa mưa, mực nước lên khá cao, những đám lục bình kéo về đầy mặt sông làm chỗ dừng chân cho bầy vịt trời. Sau mấy ngày mưa lê thê, bầu trời quang đãng như vừa được tắm gội sạch sẽ, coi nó sáng láng và yên tĩnh khác thường, yên tĩnh đến mức y chợt nghĩ nếu có một khẩu súng săn trong tay, y sẽ bắn ngay lên không trung vài tiếng nổ lớn để cho bầy vịt hoảng loạn, cất tiếng kêu quang quác vang vọng suốt mặt sông dài.
"Mày mở một chút gì lên nghe đi," y nói.
"Ủa? Định ngồi đây nghe nhạc ngắm trời, không ra câu sao?" Hùng hỏi bằng một giọng chế giễu.
Y không có ý muốn nói với Hùng là phải mở nhạc lên nghe mà thật ra là nghe bất cứ cái gì cũng được. Nhưng có cần thiết phải giải thích rõ ràng như thế không?
"Có. Một chút nữa."
Một điệu nhạc có vẻ quen thuộc trỗi lên. Hùng trong nhà trở ra, một tay cầm cần câu, bên hông đeo lủng lẳng một cái hộp mồi nhỏ và cái giỏ đan bằng mây để đựng cá.
"Mày để cần câu với mấy đôi bốt ở đâu?" y hỏi ngược ra sau. Trong mấy đôi bốt đó có một đôi của y. Y để ở nhà Hùng cho tiện, không phải mang đi mang lại, cái cần câu và một đôi găng tay nữa, cũng thế.
"Trong nhà xe. Vẫn trong cái tủ gỗ kê sát tường."
Hùng lội bộ ra sông một quãng. Thấy bóng người, bầy vịt hoảng hốt bay đi hết. Khi cách chiếc bàn làm bằng những thân cây dừa kết lại, nơi y đang ngồi khá xa, hơn hai chục mét, Hùng mới đứng lại buông câu. Theo kinh nghiệm, y biết đất ở đó tương đối rắn chắc, ít bùn nhão nhất. Nước đục lờ màu đất sét dập dềnh gần đến đầu gối Hùng. Y không thấy hứng thú với bất cứ thứ gì ở đây vào lúc này. Y ngồi uống từng ngụm bia nhỏ mà Hùng đã ướp lạnh sẵn mấy chai từ trước đựng trong một cái xô chứa đầy đá đặt trên bàn, nghĩ ngợi bâng quơ. Trong ngọn gió thổỉ từ phía lùm cây đến hình như vẫn còn vương lại hơi nước ẩm ướt của mấy hôm trước. Xa xa, thấp thoáng bóng một chiếc ô tô màu rêu đậu bên mép nước, chắc cũng của một tay đi câu dạo nào đó.
Chính ở nơi đây y đã gặp Hằng. Hồi đó chưa có chiếc cầu sắt, cho nên muốn đến nhà Hùng mọi người đều phải gửi xe lại ngoài phố rồi đợi ghe qua sông. Hàng hiên và bậc tam cấp dẫn lên nhà của Hùng vẫn còn bằng gỗ sơn. Từ đó nhìn ra con sông phía trước, chỗ cái bàn y đang ngồi hiện thời, chỉ toàn đất bùn. Bên kia bờ sông những mái ngói đỏ mới lác đác. Hằng và y ngồi ở bậc tam cấp, sau lưng là nhóm người đang quây quần bên dưới ánh đèn măng sông để nghe một nhạc sĩ vừa gẩy đàn guitare vừa hát giới thiệu những ca khúc mới do anh sáng tác. Họ đang ở vào mùa hè. Khu vực quanh sông bất ngờ bị mất điện. Sự nóng bức bên trong nhà có vẻ như là một cái cớ đã đẩy hai người ra ngoài hàng hiên để đón những cơn gió hiếm hoi thổi từ mé sông vào. Trăng sáng vắt vẻo trên đầu.
Hùng giật cần câu lên khỏi mặt nước. Một con cá bạc, không đoán được to hay nhỏ, đang vùng vẫy trong không khí. Hùng cẩn thận gỡ con cá ra khỏi lưỡi câu rồi cho vào giỏ đeo bên hông. Bầu trời mỗi lúc trở nên cao hơn, chói chang và có vẻ như không khí đang bốc hơi thật nhanh. Vài con vịt trời đã bắt đầu quen với sự có mặt của Hùng đang mon men quay trở lại. Một con đập cánh bay là là đám bèo rồi đáp xuống mép nước gần chỗ y ngồi. Bây giờ thì nắng đã khiến y phải nheo mắt lại khi nhìn ra con sông. Tầm nhìn của y không vươn tới được chiếc ô tô nhưng y nghĩ hẳn nó vẫn còn ở đó. Đó là một kinh nghiệm từ hồi nhỏ. Một lần y đã phạm một lỗi gì đó, ba y tức giận đã đem mấy con cá của y nuôi trong cái lọ thủy tinh trút hết xuống giếng. Lúc ấy y nghĩ vĩnh viễn mất hẳn chúng, nhưng rồi đến một ngày những người trong nhà múc nước từ giếng lên, y mới biết những con cá ấy vẫn còn sống và tiếp tục sinh sôi nảy nở trong lòng giếng sâu.
Y nhìn thấy Hùng từ ngoài sông đi vào. Đến bên bàn, Hùng ném cần câu xuống đất rồi tháo cái giỏ đeo bên hông đặt lên băng ghế. Y ngó cái giỏ mây thử ước lượng trong đầu xem từ nãy giờ Hùng đã câu được bao nhiêu cá. Hùng vừa lom khom đặt mình ngồi xuống vừa đưa tay giở nón. Hùng vốn dĩ có một mái tóc xoăn rối bồng, bây giờ khi bỏ nón ra, có mồ hôi dính bết vào trông nó chẳng khác một đóa hoa bồ công anh bị hai ngón tay bóp dẹp. Ở trong gió thoang thoảng mùi mồ hôi, mùi bùn và mùi nắng tỏa ra từ thân thể của Hùng ở bên kia bàn.
"Không câu nữa?" - y hỏi trống không.
Hùng với tay rút một chai bia từ trong xô đá ra, bật nắp, uống một hơi rồi mới trả lời, "Nghỉ một chút cái đã. Đứng mỏi chân quá."
Cả hai nhìn ra con sông trước mặt. Nước trôi về phía cây cầu kéo theo những đám lục bình. Y không còn nghe thấy tiếng nhạc trong nhà, nó đã kết thúc từ lúc nào y không để ý. Hùng lại cầm cái nón lên phe phẩy.
"Mày biết không, chúng ta cứ thường lầm tưởng là mình đã biết hết mọi thứ ở trên đời." Bất chợt Hùng nói, không ăn nhập vào đâu.
Y uống một hơi cạn rồi nắm lấy vỏ chai không ở trong tay. Y nheo nheo mắt nhìn vào trong ruột của nó nhưng hoàn toàn không thể thấy được chút gì hết ở phía đối diện, ngoài một màu xanh thẫm của cái đáy chai. Một đám mây nhỏ như có dát bạc giống một cái ô ở trên đầu hai người đang trườn đi chầm chậm.
"Tao không chắc mày đang định nói gì," y đặt cái chai xuống bàn, nét mặt dò hỏi.
So với Hùng, cuộc đời của y, nhìn chung, chẳng có gì đáng phàn nàn. Công việc môi giới nhà đất với một mức lợi tức không đến nỗi tồi, một căn nhà rộng rãi, đầy đủ tiện nghi trong khu đô thị mới, những ngày nghỉ hè nằm trên bãi biển ngắm cảnh mặt trời lặn... Chỉ đến khi Hằng ra đi, y mới bắt đầu cảm thấy có điều gì đó thực sự không ổn. Chứng đổ mồ hôi đầm đìa vào lúc nửa đêm và căn bệnh táo bón bỗng dưng trở lại. Y cảm thấy có một chút ghen tị với sự tự tin của Hùng. Mọi chuyện đối với anh ta có vẻ như đều dễ dàng.
Hùng làm một hơi cạn hết phần bia còn trong chai. Chiếc nhẫn cẩn viên đá màu xanh mắt mèo của Hùng kịp bẫy được một chút ánh sáng phản chiếu khi anh ta đặt khuỷu tay lên bàn. Y để ý đến những sợi lông đen và dài trên những đốt ngón tay của Hùng. Hùng quay sang hỏi y:
"Mày có nhớ thằng Hoàng bột không?"
Y cố moi trong trí nhớ những gương mặt quen thuộc, nhưng không thể, "Hoàng bột à?"
"Thằng Hoàng cận thị có bố làm mục sư đó?"
À, thằng Hoàng to béo ngồi ở cuối lớp, học gạo, hiền lành như cục bột.
"Nó đang sống thảnh thơi với vợ con bên Mỹ mà?" y nói.
Nghe nói Hoàng bột làm việc ở Silicon Valley, lương cao ngất trời.
"Ngồi bóc lịch trong tù rồi."
"Ủa! Làm sao vậy?"
"Nó bắn vợ con chết rồi tự sát, nhưng không thành,"
Im lặng.
"Bạn bè nói nó bị quẫn trí vì mất việc làm sau vụ NASDAQ sụp đổ hồi năm 2000," Hùng nói tiếp, "Với cái án giết người này, không khéo nó phải hết đời trong nhà giam."
"Vậy... thằng Hoàng có phải bị ngồi ghế điện hay cái gì đó giống như thế không?"
Câu hỏi tự động được thốt ra cửa miệng một cách máy móc tương tự như bạn cần phải nói một cái gì đó để cho câu chuyện khi đến đoạn gây cấn nhất không bị gián đoạn. Tuy nhiên, Hùng đã không trả lời ngay và sự im lặng đó đã khiến cho y có cảm tưởng như vừa phạm phải một lầm lỗi không thể tha thứ.
"Người ta nghi ngờ thằng Hoàng bị rối loạn tâm thần." Hùng đáp.
Y nghe ra có một chút rung động thoáng qua trong giọng nói của Hùng.
Câu chuyện bất thình lình ngừng lại ngay đấy và mỗi người theo đuổi ý nghĩ của mình.
"Mày còn nhớ có một lần nó đem vô lớp, đúng vào giờ học Công dân, cái đồ chơi là một thằng hề làm bằng nhựa không? Cứ mỗi lần lên giây cót là thằng hề lại cười ré lên một cách rất quái đản, nghe cứ tức không chịu nổi."
"Nhớ chứ. Lần đó ông thầy tức quá, tra hỏi hết lớp mà không có một đứa nào thú nhận. Ổng điên tiết lên không dạy nữa, còn bắt cả đám quỳ gối cho đến hết giờ học."
Y nghĩ, nói cho công bằng, ít nhất Hoàng bột cũng đã có một hành động thật phi thường. Bằng chứng là đã ngần ấy thời gian trôi qua cùng với bao nhiêu đổi thay chung quanh, y, và có thể còn rất nhiều đứa trong lớp nữa, cho dù có thể đã quên đi cái tên Hoàng bột nhưng vẫn cứ nhớ như in kỷ niệm ngày hôm ấy.
Cái gì đã khiến Hoàng bột có những hành động xuất thần và giàu cảm xúc đến như thế?
Câu chuyện về Hoàng bột chợt làm y liên tưởng đến Hằng. Có lần cô đã hỏi y vào lúc nửa đêm, Nếu một buổi sáng nào đó khi anh thức dậy và phát hiện ra em đã bất ngờ biến mất, không để lại một dấu vết, anh sẽ làm gì?" "Em nói cái gì kỳ cục vậy? Anh không hiểu." "Giống như ánh trăng thôi, khi anh tỉnh dậy, ánh trăng đã biến mất và chung quanh anh không còn một chút dấu vết nào của đêm qua." Đêm ấy, quả thật, trăng rất sáng. Cửa sổ bên cạnh giường mở, ánh trăng tràn hết vô trong phòng, rọi lên thân thể của hai người. Có những câu chuyện về trăng và năng lực huyền bí của nó tác động lên các loài vật, lên sự tăng trưởng lông tóc và móng của chúng, lên cả tâm lý, hành vi con người, nhất là phụ nữ; nhiều cô gái có thể trở nên điên loạn vào những đêm trăng tròn, họ có thể tưởng mình là sói và có hành vi của một con sói hoang dã. Có lẽ Hằng bị ảnh hưởng bởi ánh sáng trăng đêm ấy chăng? "Nghe em nói, anh cứ tưởng như một câu chuyện liêu trai. Em là con hồ ly tinh, tu luyện từ chín kiếp vậy."
Y ví Hằng như hồ ly tinh, còn cô thường so sánh y với con chim gõ kiến; trong tất cả mọi việc, cô nói y giống như cái cách chim gõ kiến săn mồi: hùng hục, băm bổ, một cách tẻ nhạt. Con chim gõ kiến không biết cất tiếng hót ngân nga như nhiều loài chim khác; thông thường bạn chỉ nghe từ nó những tiếng vang đều đều, kiên nhẫn, phát ra bởi một cái mỏ cứng gõ lên thân gỗ. Trong con mắt của Hằng, ngay cả cách làm tình của y cũng đơn điệu như vậy.
Rồi một buổi sáng, quả thật, y không thấy Hằng nữa. Cô đã biến mất một cách đột ngột, không để lại một lời từ biệt hay một dấu hiệu cho biết sẽ quay trở lại. Y có thể gọi điện thoại hay viết thư liên lạc với bạn bè, họ hàng của Hằng để truy tìm tung tích của cô dễ dàng, nhưng y đã không làm thế. Câu chuyện về ánh trăng đêm hôm ấy khiến cho y tin đó là một lựa chọn hoàn hảo nhất của Hằng mà y cần tôn trọng và chính cảm xúc của y vào lúc này cũng thầm mách bảo với y, rằng cũng như ánh trăng, sẽ có một ngày Hằng lại xuất hiện. Vì vậy, y cứ đợi.
"Tao ra câu tiếp đây," Hùng lên tiếng.
"Mày định làm gì với mớ cá đó?" y hỏi.
"Đủ tao với mày làm một món chiên, một cái lẩu."
"Mày chờ tao một chút." Y cũng đã chán ngồi bó cẳng ở một chỗ với bầy vịt trời và đám bèo trước mặt lắm rồi. Y đứng dậy đi vào nhà xe.
Tuy nhiên, Hùng đã không đứng đó đợi. Anh ta đã đi xuống dưới sông trước, thả câu một chỗ khác, ở đó có nhiều bóng râm hơn hồi nãy.
***
Họ lại tụ tập nhau ở nhà của Hùng. Nhưng lần này không phải để tiêu khiển như thường lệ mà đễ tiễn đưa Hùng về nơi yên nghỉ cuối cùng.
Người ta tìm thấy xác Hùng nổi lên gần chân cầu. Trong lúc cuộc điều tra chưa đi đến kết luận chính thức, trong chỗ thân quen giả thuyết về một khả năng Hùng đã bị tai nạn có vẻ như đang được nhiều người nghĩ đến. Họ căn cứ vào sinh hoạt thất thường của Hùng những ngày này, uống nhiều rượu, đi về đêm hôm với những dấu hiệu sức khỏe đang giảm sút. Đó là tất cả những gì họ có trong tay để có thể giải thích với nhau cho hợp lý về một sự ra đi đột ngột.
Ổng hiền khô à. Dễ thương lắm. Trời! Thiệt tội nghiệp. Ổng hay đứng câu cá trước nhà. Tui đâu dè. Bạn bè và một vài người láng giềng của Hùng ngồi chung quanh cái bàn ở trước nhà. Cũng có thể lắm chứ, mùa mưa nước ở đây lên cao. Say rượu té xuống sông như chơi. Xác của Hùng khi được vớt lên đã bị trương phình. Chiếc áo gió và đôi bốt da của anh là tài sản duy nhất ở trên người.
Trên sân, bên cạnh những cái bạt dựng vội cho người đến dự tang lễ là những chiếc xe nằm kề nhau san sát. Những vòng hoa tang được xếp ngay ngắn trên một băng ghế dài. Đó là một ngày đẹp trời. Những cơn mưa dài, ẩm ướt đã kết thúc. Tuy vậy, so với mọi năm, nhìn chung lượng mưa năm nay không nhiều như người ta dự báo. Trời xanh trong và cao. Mấy khúc gỗ mục nổi bập bềnh trên sông. Tiếng một con chim kêu từng chập đâu đó ở trong không trung.
Y nhìn mông lung ra phía cây cầu và tưởng tượng còn nhìn thấy ở đó đôi bốt cao su của Hùng. Đôi bốt của Hùng màu nâu, còn của y màu đen, cùng một số, mua ở cùng một cửa hàng; chúng đã từng nằm cạnh nhau trong chiếc tủ gỗ kê tận trong cùng nhà xe. Lúc nãy, y đã mở tủ ra nhìn một lần nữa để tin chắc rằng đôi bốt của y vẫn còn ở vị trí cũ. Những vật dụng để đi câu của Hùng, của y và một số bạn bè còn nguyên, trừ đôi bốt của Hùng. Một ham muốn dữ dội, bất thình lình trỗi dậy khiến y đã toan cầm chúng lên để ngắm nghía và sờ mó từng cái một trong tay, nhưng mùi cao su lẫn lộn với đủ thứ mùi hôi thối khác xộc thẳng vào mũi làm cho y phải từ bỏ ngay ý định đó.
Một cô bạn từ trong nhà ra đứng cạnh y. Cô rít một hơi thuốc dài, nói chậm rãi qua làn khói mỏng:
"Lẽ ra tuần này Hùng với mình đi lên Cao nguyên,"
Y ừ hử trong cuống họng.
"Tụi mình đã đặt khách sạn xong xuôi hết rồi." cô nói tiếp.
Cô bạn là phóng viên ảnh của một tờ báo, cặp với Hùng một thời gian rồi chia tay rồi quay trở lại với nhau. Cô đang xin một đứa con nuôi. Chính cô đã báo tin Hùng chết cho y biết qua điện thoại vào lúc sáng sớm. Y còn nhớ lúc ấy đang nằm trên giường, tuy đã thức giấc. Tiếng chuông điện thoại bất thình lình vào lúc nửa đêm hay sáng tinh mơ thường làm cho người ta liên tưởng đến những chuyện bất thường. Lúc y chồm dậy, thật ngạc nhiên là y chỉ nghĩ đến Hằng. Có lẽ bởi vì y đã thấp thỏm trong tuyệt vọng từ bao ngày một cuộc gọi hay một tín hiệu nào đó của cô. Y hoàn toàn không mong đợi sẽ đón nhận cái tin dữ ấy từ cô bạn.
"Cậu cho mình xin điếu thuốc," y nói. Y đã bỏ hút thuốc đã lâu, chỉ thỉnh thoảng vui với bạn bè trong cuộc rượu mới bập một vài hơi.
Có tiếng chân ở sau lưng. Thêm một người bạn nữa ra đứng bên cạnh. Họ ngó ra con sông chảy chầm chậm trước mặt.
"Hùng còn gửi mấy thứ ở nhà mình," người bạn vừa mới ra nói.
Không ai lên tiếng hưởng ứng.
Cô bạn vẫn rít thuốc lá không ngừng. Thỉnh thoảng người cô lắc lư mạnh như một chiếc lá bị cơn gió sắp sửa bứt khỏi cành.
Y có cảm tưởng vẫn còn nhìn thấy qua làn khói thuốc con cá bạc bữa nọ Hùng câu được đang vùng vẫy trước mặt, những giọt nước thật nhỏ từ thân mình của nó bắn ra tung tóe trong ánh nắng chói lóa. Vẻ đẹp ấy rực rỡ, tráng lệ quá khiến y chỉ có thể đứng hoàn toàn bất động trong tư thế của một kẻ bị thôi miên.
Y không chắc mình có thể tiếp tục chịu đựng được đến khi nào cảm giác choáng ngợp đó.​
 


Top