Ghét, thân, thương, yêu, cưới | VN-Zoom | Cộng đồng Chia Sẻ Kiến Thức Công Nghệ và Phần Mềm Máy Tính

Adblocker detected! Please consider reading this notice.

We've detected that you are using AdBlock Plus or some other adblocking software which is preventing the page from fully loading.

We need money to operate the site, and almost all of it comes from our online advertising.

Please add vn-z.vn to your ad blocking whitelist or disable your adblocking software. 

All the knowledge we share is completely free. If you are willing, please support us here.

×

Ghét, thân, thương, yêu, cưới

malemkhoang

Rìu Chiến
Ghét, Thân, Thương, Yêu, Cưới.jpg

Về Tác giả:​

Alice Munro sinh ngày 10 tháng 7 năm 1931 là nhà văn nữ người Canada. Bà được mệnh danh là “bậc thầy của truyện ngắn hiện đại” và từng được trao giải Man Booker 2009, Nobel Văn chương 2013.

Munro sinh ra tại i Wingham, Ontario và bắt đầu viết văn ở tuổi thiếu niên. Bà đã từng trải qua nhiều nghề như người hầu bàn, người hái thuốc lá và thư ký ở thư viện.

Ban đầu, bà đã thử sức với thể loại tiểu thuyết nhưng chuyển sang viết truyện ngắn kể từ khi bà trở thành nội trợ với ba cô con gái nhỏ. Bà không đủ thời giờ dành cho việc viết tiểu thuyết. Munro nghĩ sẽ viết truyện ngắn trong một thời gian nhưng rồi cuối cùng thể loại này đã quyến rũ bà.

Tập truyện ngắn đầu tay của bà, Dance of the Happy Shades đã được viết trong vòng 15 năm và đã đoạt giải văn học cao nhất tại Canada, đưa tên tuổi bà đến gần hơn với độc giả trên toàn thế giới. Tập truyện Dear Life (Cuộc đời yêu dấu) là tác phẩm mới nhất của bà và đã được dựng lại thành một tác phẩm cho dàn nhạc biểu diễn tại Trung tâm Nghệ thuật Quốc gia Ottawa năm 2015.

Alice Munro được đánh giá rất cao ở thể loại truyện ngắn, một số người gọi bà là Anton Chekov của Canada. Trong suốt sự nghiệp văn chương của mình, bà đã cho ra đời 14 tập truyện. Bà theo đuổi chủ nghĩa hiện thực tâm lý, truyện của bà có bối cảnh ở những thị trấn nhỏ, những con người hết sức giản dị bình thường nhưng không thể tránh khỏi xung đột đạo đức, mâu thuẫn về tham vọng của con người,…

Bà sở hữu 22 giải thưởng về văn chương. Alice Munro là người phụ nữ thứ 13 được nhận giải Nobel Văn học và là người Canada đầu tiên nhận giải thưởng này.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

Phù Thủy Chữ Nghĩa.

Có vẻ như sự kiện nhà văn Canada Alice Munro được vinh danh ở giải Nobel văn học 2013 là khá bất ngờ đối với độc giả Việt Nam. Xét về độ “phủ sóng” tên tuổi thì nhà văn Nhật Bản Haruki Murakami được kỳ vọng hơn nhiều.
Tuy nhiên, giới phê bình văn học thế giới từ lâu luôn liệt bà vào số những tác giả xuất sắc của nền văn học đương đại Canada cũng như văn học viết bằng tiếng Anh, và xem bà là ứng viên của giải thưởng danh giá nhất này.
rước đây bà từng đoạt được vô số giải thưởng, trong đó phải kể đến giải Man Booker International 2009 cho cống hiến trọn đời, ba giải Governor General’s Prize của Chính phủ Canada, hai giải Giller, giải W.H. Smith Literary Award. Nhiều truyện ngắn của bà được đăng tải trên The New Yorker, The Atlantic Monthly, The Paris Review.
Sinh năm 1931 tại Ontario, Canada, sự nghiệp sáng tác của bà gồm một tiểu thuyết (Lives of girls and women) cùng 14 tuyển tập truyện ngắn như Open secrets; Runaway; The view from Castle Rock; Too much happiness; Hateship, Friendship, Courtship, Loveship, Marriage... Bà được ví như Eudora Welty, Anton Chekhov, James Joyce ở tầm cỡ mô tả cuộc sống con người nơi quê hương mình. Những tác phẩm của bà đã được dịch ra 14 thứ tiếng.
Tác giả “sách giáo khoa tâm lý phụ nữ”
Những truyện ngắn thời đầu của Alice Munro hầu như đều “mang chiều sâu của tiểu thuyết”. Về sau, kể từ Runaway (giải Giller 2004) tới Too much happiness (2009), bà giảm thiểu rối rắm để đặt mình vào tâm thế người kể chuyện. Có ý kiến cho đó là “rũ bỏ hào quang cũ”, hoặc đơn giản là bà đã “hết hơi”.
Tuy nhiên, với người yêu và hiểu Munro, sự chuyển dịch mang tính cách mạng này chẳng gây ngạc nhiên. Amazon.com từng lo ngại bà hay lặp lại môtip và mô tả tính cách nhân vật hơi quá. Song, đa số lại bênh vực bà là người kể chuyện với độ chính xác khó ai bì, đến nỗi bà được nhận xét chẳng khác nào “Shakespeare khi mô tả những nhân vật của ông”.
Đề tài bà mổ xẻ nếu không là thói đỏng đảnh trong tình yêu của nông dân Canada - mắc kẹt giữa khát khao và nhược điểm của mình - thì cũng là về cái sâu xoáy phức tạp của những mối quan hệ, trong đó người ta xung đột để hiểu nhau và để hiểu chính mình. Vùng Ontario quê hương là chất liệu cho bà đào xới, đưa những phụ nữ và đàn ông trôi vào trôi ra khỏi quỹ đạo của họ, bị câu kéo bởi những thế lực thần bí, đôi khi cái ác ẩn hiện, rình rập, rồi bùng phát, gây ra những hệ quả không ngờ.
Khả năng lột tả tâm trạng nhân vật của bà phải được gọi đúng tên là “người viết sách giáo khoa tâm lý phụ nữ bằng truyện ngắn”. Phù thủy chữ nghĩa là đây. Trong Runaway, bà tung tẩy sao đó mà một tiểu thư sẵn sàng chạy theo anh dạy cưỡi ngựa. Một cô gái xuất sắc nhất quyết đi tìm bằng được ông đánh bắt tôm ở hóc bà tó. Phu nhân một bác sĩ danh giá lại tâm tưởng một kẻ “sơn lâm mãi võ”. Còn cô giữ trẻ trong Hateship, Friendship, Courtship, Loveship, Marriage thì dan díu với ông chủ nhà. Hệ lụy là nỗi cay đắng dằng dai. Bà để họ “trốn chạy” nhưng chạy không thoát. Tất cả diễn ra tự nhiên như vốn dĩ chúng phải vậy.
Không kể lể nỗi khổ của phụ nữ là bị bạo hành hay bị túng thiếu, Munro xoáy mạnh vào nỗi giằng xé của phụ nữ trong những cọ xát đời thường, với những người họ yêu thương. Đàn ông trong truyện của bà không hề bị đổ tội. Việc gì bà phải bêu riếu đàn ông khi mà chính diễn biến tâm lý của phụ nữ đã đẩy họ đến những hành động xốc nổi, dễ bị lên án? Diễn biến tâm lý tựa như thói thất thường của thời tiết xô đẩy phụ nữ vào nếp sống ủ ê, bải hoải.
Bà tinh tế đến từng chi tiết. Trong Mắc lỡm (tuyển tập Trốn chạy), tôi cảm phục cái cách bà theo dõi cô y tá nhẫn nại vào thư viện lục lọi tất cả những gì có thể về lịch sử, địa lý, tôn giáo, thơ ca của đất nước Montenegro (Nam Tư cũ), quê hương người yêu cô gặp đúng một lần trong đời. Chỉ vin vào mỗi mẩu giấy con anh ta dúi cho cô lúc chia tay, ghi tên vùng núi chẳng là cái chấm nào trên những tấm bản đồ cô tìm, mà cô gái chịu sống lầm lũi cả đời. Nỗi đau mới gặm nhấm làm sao! Thậm chí, với đứa con gái tàn độc bỏ mẹ ruột của mình để đi biệt tăm biệt tích trong Nín lặng, chắc chắn cô ta sẽ bị độc giả rủa xả đích đáng. Nhưng, phải chăng Munro muốn lý giải rằng bà mẹ trong cơn tan nát tột cùng, tiếc thương “chồng” đã vô tình để lộ ra cái hố đen sâu hoắm trong tâm can bà, khiến đứa con kinh sợ đến nỗi phải bỏ chạy (?).
Thật trùng hợp, nhưng là trùng hợp một cách cố ý như những nhát cọ tô đậm vào những đường nét tính cách và số phận nhân vật bà đã vẽ nên trong các tác phẩm của mình. Ở tuyển tập cuối cùng - Dear life (2012) - cũng lại những diễn biến tâm lý ấy áp vào những nhân vật phụ nữ khác, trong những bối cảnh khác. Có ý kiến chê lối đặt tựa của bà là manh mún.
Những con chữ “Amundsen,” “Pride,” “Haven”... trượt vút qua mắt người đọc như thể những tấm biển chỉ đường trên xa lộ miền quê hun hút, rợn người. Cũng cốt truyện thay đổi đột ngột, các nhân vật bị xoắn vặn bởi những biến cố hi hữu, chỉ có Chúa trời mới sắp đặt nổi. Xe lửa (lại xe lửa) xem ra là sân khấu cho người ra diễn vở kịch cuộc đời của chính mình. Một anh lính “bỗng nhiên” tái hợp vị hôn thê. Vị cảnh sát, sau này là cai ngục, mãi mới ngộ ra căn nguyên nỗi ám ảnh của vợ mình, một cách ngẫu nhiên. Người phụ nữ có chồng dan díu với gã hát rong bà gặp ở lễ hội mùa hè. Munro gắp ra những sự kiện lạc lõng trồi lên bề mặt của những mảnh đời tù túng, bị giam hãm. Hoàn toàn không nuông chiều lối ước lệ của thể loại truyện ngắn.
Một lần nữa, môtip chủ đạo của bà là tra tấn nhân vật nhưng không giải phóng được họ. Kẻ từ bỏ cuộc sống mẫu mực, thách thức văn hóa và tập tục ắt phải gánh chịu sự phỉ báng. Kết thúc thương tâm là tất yếu cho kẻ dám đi ngược lại với cỗ máy đang vận hành đều đều của cộng đồng. Nhân quả chăng? Sự trừng phạt ghê gớm nhất cho người phụ nữ là bị mất con. Trật tự bất thành văn sẽ tái lập. Cuộc sống lại tiếp diễn giữa những cơn va đập của con người.
Những cuộc tằng tịu trái luân lý, những mối quan hệ lủng củng rất dễ bị phán xét là lặp lại lối mòn. Nhưng tựu trung, chẳng phải trong thực tế đời người cũng chỉ luẩn quẩn bên bàn ăn và trên chiếc giường thôi sao? Hãy nhìn dưới góc độ tâm lý học thực thụ, rằng trong khi đàn ông có lối tư duy theo kiểu những vòng tròn đồng tâm thì phụ nữ lại suy nghĩ giống như những vòng tròn Olympic (Men are from Mars, women are from Venus, John Gray, Mỹ).
Chẳng phải bà đang chứng minh sự quay cuồng trong não bộ người phụ nữ đó sao. Chính phụ nữ ngụp lặn trong ma trận của mình. Đàn ông hiện hữu vô tình, đúng với bản chất cố hữu của họ. Những vòng tròn đan xen nhau chằng chịt, để rồi ngoắt theo hướng người đàn ông hay bất cứ thứ gì trôi vào đúng lộ trình của chúng. Lý do thật vụn vặt. Chỉ cần cái cung cách treo bộ yên ngựa, chỉ cần cái việc thốt ra tên vài vị thần Hi Lạp, hay có khi chỉ là cái mõm con chó cưng cũng khiến phụ nữ bị xâu chặt vào người đàn ông nào đó.
Giải Nobel được trao cho nhà văn vì thành tựu trọn đời hơn là vì tác phẩm cụ thể. Alice Munro được vinh danh, đồng nghĩa truyện ngắn lên ngôi. Bà nhận được tin khá bất ngờ. Nó khiến bà kinh ngạc. Với một nhà văn tài hoa có cuộc đời bình dị, có khuynh hướng tránh xa sự phô trương thì đây là quả ngọt. Chúng ta hãy chờ gặp lại bà ở lễ trao giải tại Thụy Điển vào ngày 10-12.
“Tình yêu và hôn nhân không bao giờ là chuyện tầm thường”
Vinh danh Alice Munro, Ủy ban Nobel nhận được sự hân hoan đồng thuận của các nhà văn, nhà báo tên tuổi khắp thế giới, cho rằng đây là quyết định chính xác.
Tác giả Jeffrey Eugenides, giải Pulitzer 2003, tuyên bố bà là bậc thầy truyện ngắn, nhưng còn “bậc thầy hơn ở sức tái lập”.
Nhà văn Lorrie Moore, giải Rea Award 2004, bày tỏ: “Đây là chiến thắng cho những nhà văn kính trọng bà, cho cả những dịch giả chuyển ngữ tác phẩm của bà. Một chiến thắng nhờ lòng dũng cảm, quyết theo đuổi những đề tài của mình. Bà nhắc nhở chúng ta rằng tình yêu và hôn nhân không bao giờ là chuyện tầm thường. Chúng nhào nặn hình hài cuộc sống của con người, dù đúng dù sai”.
Chủ nhân giải Pulitzer 2009, Elizabeth Strout, thừa nhận: “Một cách thầm lặng và kiên định, Alice Munro dạy tôi nhiều điều về thuật viết lách. Lần nào đọc tác phẩm của bà ấy cũng đều khiến tôi hưng phấn như nhau”.
Nhà văn Jonathan Franzen, giải National Book Award 2005, khẳng định: “Alice Munro luôn đặt tôi vào trạng thái suy tư về chính cuộc đời mình: về những quyết định tôi đã đưa ra, những điều tôi đã làm và chưa làm, về bản chất con người tôi, về viễn cảnh cái chết”.
(*): Tác giả là người chuyển ngữ cuốn Trốn chạy (Runaway) của Alice Munro do Nhã Nam xuất bản năm 2012.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

Chương 1
.​

“Cũng tới ga đó.”
“Vâng.”
“Cô sẽ ngồi tàu đó đến Toronto, nhưng sau đó cô phải đợi tàu Xuyên Lục Địa, khởi hành lúc mười rưỡi đêm. Cô muốn vé nằm hay vé ngồi? Vé nằm thì có giường, vé ngồi thì chỉ có ghế, trong toa thường.”
Cô ta nói chọn vé ngồi.
“Đợi tàu đi Montreal ở Sudbury, nhưng đừng xuống ga ấy, họ sẽ dồn toa và móc và tàu Montreal. Rồi đến ga Cảng Arthur rồi Kenora. Nhưng cô đừng xuống ga nào, chờ đến tận Regina thì xuống để đón tàu tuyến nhanh.”
Cô ta gật đầu như muốn nhắc ông viết và xuất vé ngay cho mình.
Ông nói chậm rãi, “Nhưng tôi không hứa được là đồ đạc của cô sẽ tới cùng lúc với cô đâu, tôi nghĩ phải mất một hai ngày sau mới tới. Theo thứ tự ưu tiên mà. Có người đón cô ở ga không?”
“Có.”
“Vậy thì tốt. Vì ga xếp đồ chẳng giống nhà ga thường đâu. Thị trấn ở chỗ đó khác nơi này. Còn hoang sơ lắm?”
Cô ta trả luôn tiền vé tàu, rút từ cuộn tiền đựng trong một cái túi vải nhét trong ví. Phong cách của một bà già. Cô ta cũng đếm chỗ tiền trả lại nữa. Nhưng không phải như cách các bà già thường đếm tiền - cô ta cầm cả chỗ tiền trong tay rồi lướt mắt qua, nhưng nhìn là biết cô ta không sót một đồng xu nào. Rồi cô ta quay gót đi hơi bất nhã, không hề chào tạm biệt.
“Hẹn gặp cô thứ Sáu này,” ông gọi với theo.
Hôm nay là một ngày tháng Chín ấm áp, thế mà cô ta lại mặc một cái đó choàng dài màu nâu xỉn, kèm thêm đôi giày buộc dây cục mịch với bít tất cộc đến mắt cá.
Ông đang rót cà phê từ bình ủ ra, thì thấy cô ta quay lại và đập cửa bán vé.
“Những món đồ tôi sắp gửi,” cô ta nói. “Đều là đồ tốt, gần như mới nguyên đấy. Tôi không muốn món nào bị xước xát hay trầy tróc bất kể kiểu gì đâu nhé. Tôi cũng không muốn đồ đạc lại có mùi gia súc.”
“Ồ, tưởng gì,” ông đáp. “Ngành đường sắt quá quen với nghề vận chuyển rồi. Và họ không dùng toa đang chở lợn để chứa đồ nội thất đâu.”
“Tôi lo làm sao đồ đạc đến được đầu kia vẫn nguyên vẹn như tình trạng khi gửi ở đầu này.”
“Vâng, cô nghe này, khi cô mua thì đồ đạc đang ở trong cửa hàng nội thất đúng không? Vậy cô chỉ nghĩ làm thế nào mà đồ đạc có mặt ở đó được? Người ta có sản xuất ra đồ nội thất tại cửa hàng không nào? Không hề. Chúng được làm ra ở xưởng mộc nào đó tận đẩu đâu cơ, rồi mới được chuyển đến cửa hàng, chắc cũng bằng tàu hỏa. Nếu đúng vậy, thì đó chẳng phải là bằng chứng rằng ngành đường sắt biết cách bảo quản đồ nội thất sao?”
Cô ta vẫn găm ánh mắt vào ông, không kèm thêm một nụ cười hay cử chỉ nào công nhận mình đã có suy nghĩ ngốc nghếch kiểu đàn bà.
“Tôi mong vậy,” cô ta nói. “Tôi mong họ biết làm cho đúng.”
Người nhân viên trực ga đáng lẽ phải nói, mà không cần nghĩ, rằng mình biết tất cả mọi người trong thị trấn. Nghĩa là ông thực sự biết một nửa số dân trong thị trấn. Và đa phần những người ông biết đều là dân kỳ cựu, những người thực sự là dân “thường trú” theo nghĩa không phải mới chân ướt chân ráo đến đây và đang nhấp nhổm muốn rời đi. Ông không biết người phụ nữ sắp chuyển đến Saskatchewan vì cô ta không đi nhà thờ, hay dạy học ở trường lũ con ông, hoặc làm ở các cửa hiệu, nhà hàng hay văn phòng ông thường lui tới. Cô cũng không phải vợ một trong những người đàn ông mà ông biết trong các hội huynh đệ Elks hay Oddfelows, hoặc các câu lạc bộ Lions hay Legion. Một cái liếc mắt vào bàn tay trái lúc cô ta trả tiền đã cho ông biết - và ông cũng không lấy gì làm lạ - rằng cô ta chưa có chồng. Với kiểu giày như vậy, và tất cộc chứ không phải tất dài, rồi còn không mang găng, mũ gì vào buổi chiều, thì dễ cô ta làm nghề nông lắm. Nhưng cô ta lại không có kiểu ấp úng thường thấy ở đám phụ nữ làm nông, vẻ thẹn thùng ấy. Cô ta cũng không có phong thái quê mùa - đúng ra, cô ta chẳng có phong thái gì hết. Cô ta đối xử với ông cứ như với một cái máy cung cấp thông tin. Hơn nữa, địa chỉ cô ta viết là ở ngay thị trấn - đường Triển Lãm. Đúng rồi, cô ta gợi cho ông hình ảnh của một nữ tu mặc quần áo thế tục ông từng thấy trên ti vi, đang kể về công việc truyền giáo của bà ta ở đâu đó trong rừng - chắc là ở đó họ không mặc quần chùng áo dài dành cho nữ tu để dễ trèo đèo lội suối. Bà sơ này thỉnh thoảng lại cười để chứng tỏ rằng đạo tu của bà là để làm cho mọi người hạnh phúc, nhưng ngoài những lúc ấy ra thì bà nhìn xuống khán giả như thể mọi người sinh ra trên thế gian này là để bà dẫn dắt.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

Chương 2
.​

Một việc nữa mà Johanna định làm từ lâu nhưng vẫn chần chừ mãi chưa làm. Cô phải đến hiệu quần áo tên Milady để mua một bộ cánh mới cho mình. Cô chưa vào cửa hiệu đó bao giờ, vì khi cần mua thứ gì, như bít tất chẳng hạn, cô đâu tới Cửa hàng quần áo Nam Nữ Trẻ em Callaghans. Cô có khối quần áo được thừa hưởng từ bà Willets, toàn đồ như chiếc áo choàng này, mặc không biết đến đời nào mới sờn. Và Sabitha - đứa bé gái mà cô phải trông nom ở nhà ông McCauley - thì mặc không xuể quần áo của bọn chị em họ thải ra, toàn những thứ đắt tiền.
Ngoài quầy kính trưng bày tiệm Milady có hai ma nơ canh mặc bộ vét với váy thật ngắn và áo vét ngắn vạt vuông. Một bộ màu vàng xỉn còn bộ kia màu xanh lá cây đằm và nền nã. Những chiếc lá phong to làm bằng giấy màu sặc sỡ rải khắp quanh chân các ma nơ canh và dính đây đó trên kính quầy trưng bày. Vào mùa này trong năm, khi hầu hết mọi người phải lo vun lá lại đem đốt thì ở đây lá lại được chọn làm vật trang trí. Một dòng quảng cáo với kiểu chữ mềm mại màu đen đính chéo qua tấm kính, có nội dung: Đơn giản đến trang nhã, mốt mùa thu.
Cô đẩy cửa bước vào.
Ngay trước mắt cô là một tấm gương cao bằng đầu người, khiến cô nhìn thấy ngay toàn thân mình trong chiếc áo choàng dài của bà Willets, tuy là hàng cao cấp nhưng cứ đuồn đuỗn chẳng ra phom dáng gì, dưới đó là bắp chân to mập hở ra khoảng nửa gang tay trên đôi tất ngắn chỉ che đến mắt cá. Tất nhiên, họ làm việc ấy có chủ ý. Để tấm gương ở đó thì khách hàng mới thấy ngay những khiếm khuyết của mình, và rồi - chủ hàng hy vọng vậy - vội kết luận rằng mình phải mua món gì đó để thay đổi hình ảnh. Một ngón nghề lộ liễu đến thế đáng lẽ có thể khiến cô quay ra ngay lập tức, nếu trước đó cô không hạ quyết tâm phải mua cho xong những thứ mình cần.
Dọc một bức tường là giá treo váy dạ hội, chiếc nào cũng xứng đáng dành cho các nàng hoa khôi dạ vũ, với những mảng ren và vải taffeta, với những gam màu mơ mộng. Tiếp đó, trong một chiếc tủ kính để ngăn những ngón tay tò mò là khoảng nửa chục váy cưới, cái bằng lụa màu trắng tinh khôi, cái bằng xa tanh màu kim nhạt, cái bằng đăng ten màu ngà, chêm thêm hạt cườm bạc hay hạt ngọc trai xinh xinh. Phần eo bó sát, viền cổ lượn sóng, chân váy bung xòe. Khi còn trẻ cô cũng không bao giờ hình dung được sự hoang phí đến mức ấy, không chỉ riêng về tiền bạc mà còn cả về kỳ vọng, về niềm hy vọng vô lối vào khả năng biến hóa, vào niềm hạnh phúc.
Phải mất hai, ba phút mới có người ra. Hình như họ quan sát cô từ một khe ngắm bí mật, và nghĩ rằng cô không phải là loại khách họ chào đón, thầm mong cô sẽ đi ra. Nhưng cô không đi. Cô lướt qua tấm gương - bước từ khoảng sàn thô gần cửa lên tấm thảm bông - và cuối cùng thì tấm rèm ở góc cuối cửa hàng cũng mở ra, để chính bà chủ Milady xuất hiện trong bộ vét màu đen với hàng khuy lấp lánh. Giày cao gót, cổ chân thon, thắt lưng bó, đôi tất giấy sột soạt, tóc vàng ánh kim chải ốp về phía sau khoe khuôn mặt được trang điểm kỹ.
“Tôi muốn thử bộ vét bày ngoài quầy kính.” Johanna nói với giọng điệu được chỉnh kỹ trước khi thốt ra. “Bộ màu xanh lục ấy.”
“A, mẫu ấy đẹp thật,” bà chủ nói. “Nhưng bộ ngoài tủ kính lại là cỡ số mười. Trông cô… chắc mặc số mười bốn?”
Bà ta sột soạt vượt qua Johanna vào phía trong cửa hàng, nơi treo quần áo thường nhật, vét và váy đi làm.
“May cho cô đấy nhé. Có số mười bốn đây.”
Việc đầu tiên Johanna làm là nhìn tem giá. Ít nhất gấp đôi con số cô dự định, và cô cũng không cố giấu ý nghĩ đó.
“Cũng đắt nhỉ.”
“Chất len xịn mà.” Bà ta lần mò cho đến khi moi được mác, rồi bóc thông tin về chất liệu nhưng Johanna nghe câu được câu mất vì đang mải soi chất lượng đường may trên gấu.
“Sờ nhẹ như lụa nhưng mặc chắc như áo giáp. Cô trông lớp lót kỹ chưa này, tuyền chất lụa pha sợi tổng hợp thích ghê. Bộ này giữ phom tốt lắm, không xộc xệch khi ngồi xuống như hàng rẻ tiền đâu. Xem viền cổ tay với cổ áo bằng nhung điểm thêm hàng khuy bọc nhung xinh xắn trên ống tay này.”
“Tôi thấy rồi.”
“Hàng kỹ đến thế cơ mà, đắt xắt ra miếng, tiền nào của đấy cả cô ạ. Tôi thích chất nhung này lắm. À chỉ có màu lục mới có cổ và gấu tay nhung đấy nhé - màu mận không có đâu, mà giá cũng y hệt.”
Thực ra Johanna cũng thấy chính những mảng nhung ở gấu tay và cổ áo đã tôn cho chiếc áo một vẻ sang trọng mà tinh tế khiến cô muốn mua. Nhưng cô không nói ra ý nghĩ đó.
“Tôi đi mặc thử nhé?”
Cô đã chuẩn bị cho việc này từ trước khi đến đây. Đồ lót mới và phấn rôm thoa dưới hai cánh tay.
Bà chủ cửa hàng giữ ý, để cô một mình trong buồng mặc thử quần áo ngập ánh sáng. Johanna cố tránh không nhìn vào tấm kính cám dỗ cho đến khi vuốt thẳng thớm chiếc váy và cài đủ khuy áo.
Đầu tiên cô chỉ nhìn vào bộ vét. Trông cũng ổn. Khá vừa vặn - dù chân váy có ngắn hơn mức cô quen mặc, nhưng gu quần áo cô thường mặc không ra kiểu thời trang gì. Chẳng có gì phải băn khoăn với bộ vét cả. Vấn đề là ở những chỗ không được bộ vét che. Cổ và mặt, tóc và đôi bàn tay thô, bắp chân cục mịch.
“Cô mặc xong chưa? Để tôi ngó chút nhé?”
Cứ ngó nghiêng thoải mái đi, Johanna nghĩ thầm, rồi bà sẽ thấy ngay đôi tai lừa[1] của tôi.
Bà chủ cửa hàng ngắm nghía hết bên này đến bên kia.
“Đúng rồi, cô phải đi thêm tất dài và giày cao gót. Cô mặc thấy thế nào? Thoải mái không?”
“Bộ vét mặc thì ổn,” Johanna đáp. “Chả có vấn đề gì với bộ vét hết.”
Qua gương, cô thấy bà chủ đổi hẳn nét mặt. Bà tắt ngay nụ cười, lộ ra vẻ mặt thất vọng và mệt mỏi, nhưng tử tế hơn.
“Chuyện đôi khi vẫn xảy ra ấy mà. Trông thì đẹp nhưng mặc vào mới biết. Thực tế là,” bà ta nói, giọng điệu có vẻ thuyết phục trở lại nhưng ôn hòa hơn, “thực tế là dáng người cô cân đối, nhưng mạnh mẽ. Khung xương cô nở nang, nhưng thế thì đã làm sao? Cái kiểu khuy bọc nhung lắt nhắt này không hợp với tạng cô. Đừng băn khoăn mẫu này nữa. Cứ cởi ra đi?”
Rồi khi Johanna vừa trút xong bộ vét chỉ còn đồ lót thì có tiếng gõ cửa rồi một bàn tay thò vào qua tấm rèm che.
“Cứ choàng thử cái này vào xem ra làm sao.”
Một cái váy len dài màu nâu, có gót, chân váy xòe xếp nếp mềm mại, ống tay lửng và cổ khoét tròn đơn giản. Đơn giản đến mức không thể đơn giản hơn, trừ dải thắt lưng nhỏ màu vàng. Không đắt như bộ vét, nhưng giá vẫn có vẻ cao quá, nếu xét tất cả các yếu tố từ chất liệu đến kiểu dáng. Ít ra chân váy cũng dài vừa đủ, và chất vải ôm khéo quanh đôi chân cô.
Nín thở để lấy quyết tâm xong cô mới nhìn vào gương. Lần này trông cô không như bị nhồi vào bộ đồ trên người để làm một con rối.
Bà chủ cửa hàng đến đứng đằng sau cô, bật lên cười, nhưng với vẻ nhẹ cả người.
“Cùng màu với mắt cô đấy. Cô không cần mặc đồ nhung. Cô có đôi mắt nhung rồi.”
Đó là lời khen sến đến mức lúc bình thường thể nào Johanna cũng phải trả đũa lại bằng những lời mỉa mai, nhưng đúng vào thời điểm đó lại có vẻ chân thực. Mắt cô không lớn, và nếu buộc phải tả màu mắt, cô chắc sẽ nói, “tôi nghĩ là màu nâu nâu.” Nhưng lúc này đây, cặp mắt cô trông thật sâu với sắc nâu trầm, mềm mại và lấp lánh.
Không phải cô chợt có ý nghĩ rằng mình xinh đẹp hay thế nào đó. Chỉ là đôi mắt cô, nếu là một mảnh vải thì hẳn sẽ có sắc màu thật đẹp.
“Rồi, tôi cá là cô không hay đi giày da,” bà ta nói. “Nhưng nếu cô mang tất dài và giày đế cao chút xíu thôi… Và tôi cá là cô không đeo trang sức, cũng có lý thôi, cô không cần thêm nữ trang gì ngoài cái dây lưng đó.”
Để bà ta khỏi phải nói thêm những lời chào hàng, Johanna nói, “Thôi, để tôi cởi ra cho bà gói giúp.” Cô thấy tiếc nuối phải rời xa cảm giác mềm mại từ chiếc váy và dải ruy băng kín đáo màu vàng quanh eo. Chưa bao giờ trong đời cô có cảm giác vô lý như thế, rằng giá trị bản thân có thể được nâng lên bởi những thứ mình mang trên người.
“Tôi mong là nó sẽ được dùng vào một dịp quan trọng,” bà chủ nói vọng vào khi Johanna đang khoác vội lại quần áo, giờ trông thật thảm hại.
“Chắc tôi sẽ mặc trong lễ cưới của mình,” Johanna nói.
Rồi cô thấy ngạc nhiên vì mình đã nói ra kiểu đó. Cũng không phải là sai lầm lớn - bà ta chẳng biết cô là ai, và chắc cũng chẳng nói với những người quen biết cô. Nhưng dù sao cô cũng từng tự nhủ mình sẽ giữ kín chuyện này. Chắc là do cô thấy mình mang nợ con người này - sau khi đã cùng trải qua sự cố bộ vét màu xanh lục và cùng phát hiện ra chiếc váy nâu, dường như giữa họ đã hình thành một thứ tình cảm. Một điều thật vô lý. Công việc của bà ta là bán quần áo, và bà ta vừa thực hiện được một giao dịch thành công.
“Ôi trời!” bà ta thốt lên. “Ôi, thế thì thật tuyệt.”
Vâng, có lẽ vậy, Johanna thầm nghĩ, mà cũng có thể là không. Cái người cô sắp cưới chưa biết là loại người như thế nào. Có thể là một bác nông dân khổ cực muốn có thêm tay thêm chân giúp việc đồng áng, hay một cụ lụ khụ ốm o muốn tìm một người hộ lý. Bà chủ cửa hàng này không thể biết cô sắp chọn người đàn ông loại nào, mà đằng nào thì cũng chả liên quan gì tới bà ta hết.
“Tôi chắc đó là cuộc hôn nhân vì tình yêu,” bà ta nói, cứ như là vừa đọc được những thắc mắc của cô vậy. “Thảo nào tôi thấy ánh mắt cô rực lên trong gương. Tôi đã gói cẩn thận bằng giấy mềm rồi, cô chỉ việc dỡ ra rồi treo bên mắc là nó tự suôn ra thôi. Nếu muốn thì cô có thể lấy bàn ủi là sơ qua, nhưng có lẽ không cần đâu.”
Rồi đến thủ tục trao nhận tiền. Cả hai bên đều vờ không nhìn vào tệp tiền, nhưng họ đều làm vậy.
“Cũng đáng đồng tiền,” bà chủ cửa hàng nói. “Ai cũng chỉ làm đám cưới có một lần. À, nhưng không hẳn luôn phải như vậy.”
“Đối với tôi thì sẽ là như vậy đấy,” Johanna nói. Mặt cô đỏ bừng lên vì, thực ra, hai người chưa từng nói đến đám cưới. Dù là trong bức thư gần đây nhất. Cô vừa tiết lộ cho bà chủ cửa hàng điều mình đang kỳ vọng, và có lẽ cần kiêng không nên làm thế để tránh nói trước bước không qua.
“Cô gặp người ấy ở đâu?” bà ta hỏi, vẫn với giọng điệu vui vẻ đầy quan tâm. “Lần hẹn hò đầu tiên ra sao?”
“Qua họ hàng giới thiệu,” Johanna nói thành thực. Cô không định nói gì thêm nhưng cứ tự thốt ra. “Hội chợ miền Tây. Ở London.”[2]
“Hội chợ miền Tây à?” bà ta nhắc lại. “Ở London?” Cô tưởng như bà ta có thể nói tiếp “Trong buổi dạ vũ ở cung vua à?”
“Con gái anh ấy và bạn nó đi cùng chúng tôi,” Johanna nói, nghĩ bụng đúng ra thì anh và bé Sabitha cùng bé Edith đón cô, Johanna, đi cùng với họ.
“Rồi, giờ tôi có thể nói hôm nay mình cũng làm được việc có ích. Tôi vừa chuẩn bị váy cưới cho một cô dâu hạnh phúc. Thế là đã đủ lý do cho sự tồn tại của tôi trên cõi đời này rồi.” Bà chủ cửa hàng buộc một sợi ruy băng mảnh dẻ màu hồng bên ngoài hộp đựng chiếc váy, thắt thành một chiếc nơ lớn quá mức cần thiết, kết thúc bằng một nhát kéo rất gọn và khéo.
“Suốt cả ngày tôi cứ quanh quẩn với cửa hàng này,” bà ta nói. “Và đôi khi tôi thắc mắc không hiểu mình có biết mình đang làm cái gì đây không. Tôi tự vấn, ‘Mi nghĩ mi đang làm gì ở đây thế hả?’ Tôi bày hàng mới ra quầy kính, và tôi làm việc này việc kia để thu hút khách vào mua hàng, nhưng có những ngày - có nhiều ngày - tôi chẳng thấy ma nào bước qua cửa kia. Tôi biết - người ta nghĩ quần áo ở đây quá đắt - nhưng toàn hàng tốt đấy chứ. Quần áo ở đây toàn hàng tốt. Muốn có chất lượng ra tấm ra món thì phải trả giá cao thôi.”
“Muốn mặc kiểu đồ như thế kia thì phải vào đây,” Johanna vừa nói vừa nhìn vào những chiếc váy dạ hội. “Không thì còn tìm ở đâu ra được chứ?”
“Chết ở chỗ ấy đấy. Họ chẳng vào đây. Họ lên thành phố - họ đi tìm ở đấy đấy. Họ lái xe hàng chục, hàng trăm cây số, không tính đến tiền xăng, và tự nhủ rằng đi xa thế thì họ tìm được món hời hơn đồ của tôi ở đây. Nhưng rốt cuộc có tìm được đâu. Chất lượng chẳng tốt hơn, mẫu mã chẳng đẹp hơn. Chẳng có gì. Chỉ để khỏi phải thấy xấu hổ khi nói là mua trang phục cưới ở ngay cái tỉnh lẻ này. Đôi khi họ vào thử đồ này đồ khác rồi nói sẽ suy nghĩ. Tôi sẽ quay lại sau, họ nói thế đấy. Tôi nghĩ bụng, dạ vâng, tôi biết tỏng thế nghĩa là thế nào rồi. Thế nghĩa là họ sẽ cố tìm hàng như thế nhưng rẻ hơn ở mấy thành phố London hay Kitchener, và đến đó rồi thì dù không rẻ hơn họ vẫn phải mua, vì đã chạy xe ngần ấy đường rồi, và đi xem đến phát mệt rồi.”
“Tôi cũng không biết nữa,” bà ta nói tiếp. “Nếu tôi là người gốc ở đây thì có khi chuyện lại khác. Tôi thấy ở đây thủ cựu lắm. Cô không phải người ở đây phải không?”
“Không,” Johanna đáp.
“Cô không thấy ở đây thủ cựu à?”
“Thủ… cựu?”
“Ý tôi là khó dung nạp người ngoài ấy.”
“Tôi quen sống một mình một kiểu rồi,” Johanna nói.
“Nhưng cô đã tìm được một người rồi. Cô sẽ không sống một mình một kiểu nữa, như thế đáng yêu quá đi chứ? Đôi lúc tôi nghĩ cưới chồng rồi ở nhà chăm sóc gia đình hẳn là rất tuyệt. Tất nhiên, tôi đã từng có chồng, nhưng vẫn đi làm. Thế đấy. Rồi biết đâu một ngày sẽ có một người đàn ông từ cung trăng bước vào đây, rồi mẹ tôi, thói đời tôi sẽ ổn!”
Johanna đang vội - nhu cầu trò chuyện của bà chủ cửa hàng đã giữ chân cô. Cô phải vội về nhà, cất gói đồ mới mua trước khi Sabitha đi học về.
Rồi cô nhớ ra Sabitha không ở đây, cuối tuần rồi con bé đã được người em họ của mẹ, dì Roxanne, đón đi để trải nghiệm cuộc sống như một nữ sinh giàu có ở Toronto, đi học trường dành cho các nữ sinh giàu có. Nhưng cô vẫn bước gấp đến nỗi mấy chú lỏi ranh đang vật vờ bên hiệu thuốc có cớ giật giọng trêu cô, “Em ơi cháy ở đâu đấy?” khiến cô phải đi chậm lại để tránh gây chú ý.
Cái hộp đựng váy thật phô - cô đâu có biết được cửa hàng ấy lại thửa riêng loại hộp các tông màu hồng, với tên hiệu Milady vắt ngang màu tím trông như như chữ viết tay để dựng đồ. Lộ liễu quá. Cô thấy mình thật ngốc vì đã nói đến đám cưới, trong khi anh chưa hề đả động tới việc ấy, và đáng ra cô phải nhớ điều đó. Hai người đã nói, đúng hơn là viết cho nhau, quá nhiều điều khác, bày tỏ tình cảm và nói nhớ nhung, khiến việc cưới xin cụ thể dường như đã bị bỏ qua. Kiểu như người ta nói buổi sáng sẽ dậy như thế nào mà không nhắc đến ăn sáng, dù chắc chắn là có ý định ăn sáng.
Nhưng lẽ ra cô vẫn nên giữ kín việc này.
Cô trông thấy ông McCauley đi bộ ngược hướng với mình ở phía lề đường bên kia. Nhưng không có gì đáng lo - cho dù có giáp mặt cô thì ông cũng chẳng ác ý đến cái hộp cô đang cầm. Chắc ông sẽ lấy ngón tay nâng mũ rồi đi tiếp, có thể nhận ra cô là người giúp việc nhà mình, cũng có thể không. Ông có quá nhiều thứ khác trong đầu, và ai hiểu ông cũng biết, có lẽ cái thị trấn hiện lên trong mắt ông khác với thị trấn mà họ đang thấy. Tất cả các ngày trong tuần - và đôi khi, những lúc ông đãng trí, vào cả những ngày nghỉ và Chủ nhật - ông đóng nguyên bộ com lê đủ cả gi lê, một trong số vài bộ ông có, với áo choàng nhẹ hoặc áo khoác dày, mũ phớt xám, giày da bóng lộn, tản bộ từ đường Triển Lãm lên văn phòng được ông mở từ thời dưới nhà còn là cửa hàng bán va li, túi xách. Mọi người gọi đó là Văn phòng bảo hiểm, dù đã lâu rồi ông không còn bán bảo hiểm nữa. Đôi khi cũng có người leo lên cầu thang gặp ông, hình như để hỏi về hợp đồng bảo hiểm của họ nhưng đa phần và về ranh giới các lô dấu, về lịch sử của các mảnh bất động sản trong thị trấn hay trang trại ngoài đồng quê. Văn phòng ông đầy các bản đồ cũ có mới có, và không gì làm ông thích thú hơn việc mở bản đồ ra tra cứu và khơi mào một cuộc thảo luận sẽ lan man ra ngoài câu hỏi ban đầu rất xa. Ba hay bốn lần trong ngày, ông rời văn phòng và đi dạo phố, như lúc này. Trong thời chiến, ông đã cất chiếc xe hơi hiệu McLaughlin-Buick lên bục trong nhà kho, và đi đâu cũng đi bộ như muốn làm gương cho người khác. Mười lăm năm sau, dường như ông vẫn xứng đáng là tấm gương ấy. Tay chắp sau lưng, trông ông như một người địa chủ tốt bụng đi khám điền thổ, hay một nhà thuyết giáo đang trìu mến nhìn bầy con chiên của mình. Tất nhiên, đến một nửa số người ông gặp chẳng hề biết ông là ai.
Thị trấn đã thay đổi nhiều, kể cả so với thời điểm Johanna tới đây. Hoạt động kinh doanh đang chuyển ra ngoài gần đường cao tốc, ở đó đã mọc lên một cửa hàng giảm giá, một cửa hàng lốp ô tô và một nhà khách với quầy rượu có vũ nữ ngực trần. Vài cửa hàng ở trung tâm thị trấn từng cố tô điểm lại với màu sơn hồng hay tím hoa cà hay xanh ô liu, nhưng nước sơn đã bắt đầu tróc, lộ ra nền gạch cũ và một số cửa hàng thì bên trong đã trống trơn. Chẳng mấy mà cửa hàng quần áo của bà Milady cũng sa sút vậy.
Nếu Johanna mà là bà chủ cửa hàng thì cô sẽ làm gì? Đầu tiên là cô sẽ không nhập vào nhiều váy dạ hội diêm dúa đến thế. Thế thì thay bằng gì? Nếu chuyển sang hàng quần áo rẻ tiền hơn thì chỉ tự đưa mình vào thế cạnh tranh trực tiếp với tiệm Callaghans và cửa hàng giảm giá, và chắc sẽ không giành được đủ thị phần trong phân khúc này. Hay là đi vào thị trường quần áo trẻ sơ sinh, quần áo trẻ em cao cấp để thu hút các bà nội bà ngoại, bà dì bà bác có tiền và sẽ không ngại chi tiêu vào những thứ đó? Đành là phải quên các bà mẹ trẻ đi, vì với túi tiền eo hẹp hơn và đầu óc thực dụng hơn, họ chắc sẽ đến cửa hàng Callaghans.
Nhưng nếu là chủ cửa hàng, cô - Johanna - sẽ không bao giờ thu hút được một người khách này bước vào tiệm. Cô có thể xét đoán xem cần làm những việc gì, và làm như thế nào, và cô cũng có thể tổ chức và quán xuyến người khác làm những việc ấy, nhưng cô không bao giờ quyến rũ hay chèo kéo được. Phong cách của cô là, mua thì mua không mua thì đi. Đương nhiên là khách sẽ đi.
Người mến được cô thì hiếm lắm, và từ lâu cô đã biết điều đó. Đến bé Sabitha cũng không hề nhỏ một giọt nước mắt khi chia tay cô - dù đối với Sabitha, cô Johanna gần như là người thay thế mẹ, kể từ khi mẹ bé mất. Ông McCauley chắc sẽ buồn phiền khi cô đi, vì cô làm việc tốt và thật khó kiếm được người thay thế cô, nhưng chỉ thế mà thôi. Cả ông lẫn cô cháu ngoại đều chỉ biết nghĩ đến bản thân vì quen được nuông chiều. Còn những người hàng xóm, đương nhiên là họ sẽ vui mừng. Johanna đã có hiềm khích với cả hai bên láng giềng. Một bên thì có con chó cứ sang đào bới vườn của cô để giấu và tìm những khúc xương được chủ cho - mà đáng lẽ nó phải đào ở nhà nó chứ. Và bên kia thì vì cây anh đào đen, gốc thì ở trên đất nhà McCauley nhưng quả thì lại chỉ sai ở các cành vươn sang phía sân nhà bên cạnh. Trong cả hai vụ thì cô đều lên tiếng trước, và giành phần thắng. Con chó bị xích lại còn người hàng xóm bên kia thì không dám đụng đến những quả anh đào nữa. Nếu bắc thang thì cô có thể với sang phía bên sân nhà họ hái quả, nhưng họ lại không buồn đuổi lũ chim đến ăn trên các cành ấy nữa, khiến lượng quả thu hoạch giảm đáng kể.
Nếu để mặc ông McCauley thì ông đã kệ cho họ hái. Mà ông cũng kệ cho con chó đào. Ông cứ để kệ cho người ta lợi dụng mình. Một phần nguyên nhân là ông muốn thể hiện rằng mình không buồn để ý đến họ, là những người mới đến, sống trong những căn nhà mới xây. Đã có thời trên cả đường Triển Lãm chỉ có ba bốn căn nhà lớn thôi. Bên kia đường là bãi hội chợ, nơi tổ chức hội chợ mùa thu (tên gọi chính thức là Triển lãm Nông nghiệp, nên nhờ đó mới có tên thế). Và giữa các căn nhà đó là vườn quả, bãi cỏ. Trong một thập niên trước, hay quãng đó, đất này được phân thành lô đều nhau để bán và các ngôi nhà mới mọc lên - những ngôi nhà nhỏ với hai kiểu kiến trúc đan xen, một kiểu có vài tầng còn kiểu kia chỉ có một tầng. Nhiều ngôi nhà xây từ dạo đó giờ đây trông đã khá xập xệ.
Ông McCauley chỉ quen biết và thân thiện với chủ nhân của vài ngôi nhà cùng phố - ông thầy giáo, cô Hood và bà mẹ, nhà Shultz có cửa hàng sửa giày. Con gái nhà Shultz, bé Edith, đang hoặc đã từng là bạn thân của Sabitha. Điều đó cũng tự nhiên thôi, vì hai đứa ở gần nhà mà lại học cùng lớp cùng trường - ít nhất là vào năm học trước, khi Sabitha bị đúp. Ông McCauley không hề buồn phiền - hình như ông đã manh nha cảm thấy rồi Sabitha sẽ rời khỏi đây sớm để có một cuộc sống khác ở Toronto. Johanna chắc sẽ không chọn Edith để làm bạn với Sabitha, dù cô bé không bao giờ mất lịch sự hay gây phiền hà khi tới nhà chơi. Và cô bé không hề ngốc nghếch. Có lẽ đó chính là vấn đề - cô bé thông minh còn Sabitha thì không. Cô bé đã làm cho Sabitha trở nên tinh quái hơn.
Nhưng giờ thì mọi chuyện đã kết thúc. Giờ đây người em họ của mẹ con bé, dì Roxanne - vợ ông Huber - đã tới đón Sabitha, và cô bạn nhà Shultz đã trở thành một ký ức tuổi thơ của nó.
Em sắp chuyển hết đồ nội thất của anh bằng tàu hỏa tới cho anh ngay khi bên họ sẽ xếp được chuyến sớm nhất. Em sẽ trả trước tiền cước vận chuyển ngay khi họ báo giá. Em vẫn nghĩ bây giờ anh đang cần những đồ đạc đó. Em chắc anh sẽ không ngạc nhiên lắm vì em đoán anh sẽ không phiền lòng về việc em cũng tới trên cùng chuyến tàu để giúp được anh như em mong muốn.
Đó là nội dung lá thư cô đã mang gửi ở bưu điện, trước khi đến đặt chuyến ở nhà ga xe lửa. Đây là lá thư đầu tiên cô gửi trực tiếp cho người ấy. Các lá thư trước đó luôn được kẹp cùng những lá thư cô bảo bé Sabitha viết. Và thư từ anh gửi cho cô cũng bằng cách đó, được gấp cẩn thận và có tên cô, Johanna, đánh máy ở mặt sau để khỏi bị nhầm. Cách đó vừa khiến những nhân viên bưu điện không thể phát hiện ra mối liên hệ, vừa tiết kiệm thêm được một con tem. Tất nhiên, Sabitha cũng có thể báo cho ông nó, hay thậm chí đọc được nội dung những tờ thư viết cho Johanna, nhưng Sabitha không còn hứng thú chuyện trò với ông già cũng như chẳng có hứng viết hay nhận thư.
Đồ nội thất được cất vào nhà kho, một cái kho kiểu thành phố chứ không phải kho trang trại nơi trữ thóc và làm chỗ ngủ cho gia súc. Khi Johanna để mắt đến những đồ đạc đó quãng một năm về trước, cô thấy chúng đã phủ một lớp bụi mờ và rải rác phân chim bồ câu. Những món đồ bị xếp đống tùy tiện và không được che phủ gì cả. Cô đã phải mang hết những thứ có thể tự bê được ra ngoài sân, để trong kho đủ khoảng không tiếp cận những đồ to nặng cô không bê được - cái ghế xô pha, tủ búp phê, tủ ly, bàn ăn. Cái giường thì cô dỡ ra được. Những phần gỗ cô lấy phất trần mềm phủi trước, rồi dùng tinh dầu chanh. Khi cô làm xong, nước gỗ bóng lên như kẹo. Kẹo mật phong - quả đúng là gỗ phong vân mắt chim. Giờ đây cô thấy đống đồ nội thất nhìn thật hấp dẫn, ngang với ga giường lụa hay mái tóc vàng. Hấp dẫn và hiện đại, tương phản hoàn toàn với những đồ gỗ sẫm màu và chạm trổ rối rắm cô thường phải lau chùi trên nhà chính. Lúc đó cô nghĩ chúng là đồ đạc của anh ấy và vẫn tin như vậy khi cô lấy chúng ra vào ngày thứ Tư. Cô đã phủ thảm cũ lên lớp dưới cùng để khỏi bị lớp trên đè vào, và trải mấy mảnh ga giường lên trên bề mặt lớp cao nhất để tránh lũ chim nên khi lấy ra chỉ có một lớp bụi thưa. Nhưng cô lại quét tước và đánh dầu chanh toàn bộ trước khi xếp lại nguyên như thế, chờ xe tải đến chở đi vào ngày thứ Sáu.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

Chương 3​


Cách đây đã nhiều năm, khi ngành đường sắt còn duy trì nhiều tuyến nhánh, một hôm có một người phụ nữ trán cao, lốm đốm tàn nhang với mái tóc xoăn màu hung đến nhà ga để hỏi về vận chuyển đồ nội thất.
Nhân viên trực nhà ga theo thói quen thường buông lời trêu ghẹo với phụ nữ, nhất là những người trông làng nhàng và có vẻ thích được bông đùa.
“Đồ nội thất hả?” ông vặn hỏi cứ như chưa ai từng có ý định chuyển loại hàng đó bao giờ. “Rồi. Thế… Để xem phải chuyển những loại đồ gì đây?”
Một bộ bàn ăn kèm sáu ghế. Trọn bộ giường tủ trong phòng ngủ, một cái xô pha, một bàn nước, hai bàn góc, một cây đèn đứng. Còn một tủ ly và một tủ búp phê nữa.
“Ái chà. Có vẻ cô muốn chuyển nguyên một căn nhà.”
“Không nhiều đến thế đâu,” cô ta đáp. “Không có đồ nội thất bếp và chỉ vừa cho căn nhà một phòng ngủ thôi.”
Răng cửa cô ta xô hết về phía trước như sẵn sàng tranh cãi.
“Cô sẽ cần thuê xe tải đấy,” ông nói.
“Không, tôi muốn chuyển bằng tàu hỏa về miền Tây, hướng Saskatchewan.”
Cô ta nói lớn tiếng như thể ông bị điếc hay chậm hiểu, và có cái gì đó không ổn trong cách phát âm. Bị pha giọng. Ông nghĩ thầm đến Hà Lan - nhiều người gốc Hà Lan đang chuyển đến vùng này - nhưng cô ta không có dáng vóc cao to của những người phụ nữ Hà Lan, cũng không có nước da trắng hồng hay màu tóc sáng. Có lẽ cô ta chưa đến bốn mươi, nhưng có nghĩa lý gì đâu nhỉ? Đâu phải là dạng hoa khôi, không bao giờ.
Ông liền tập trung vào chuyên môn. “Trước hết cô cần xe tải để chở đồ từ chỗ cô đang ở để đến nhà ga này. Và chúng ta nên xem tàu có qua ga nào gần chỗ cô muốn chuyển đến ở Saskatchewan không đã. Nếu không cô phải tìm cách nhận ở ga chính, chẳng hạn như là ga Regina.”
“Chỗ đó là Gdynia,” cô ta nói. “Tàu có chạy qua ga đó?”
Ông với tay lấy cuốn danh bạ lấm lem treo trên một cây đinh, rồi bảo cô ta đánh vần lại tên địa danh đó. Cô ta tự nhấc cây bút chì cứng treo ở một đầu dây và viết vào mảnh giấy lấy từ trong ví ra: GDYNIA.
“Từ này có gốc từ tiếng nước nào vậy?”
Cô ta đáp không biết.
Ông đòi lại cây bút chì và dò theo các tuyến.
“Rất nhiều địa danh ở đây theo tiếng Séc, hoặc Hungary hay Ukraina,” ông nói. Vừa nói ông vừa chợt nghĩ có thể cô là người gốc một trong những nước đó. Nhưng đâu có sao, ông chỉ nói một sự thật hiển nhiên thôi mà.
“Đây rồi, ổn thôi, đúng trên tuyến.”
“Vâng,” cô ta nói. “Tôi muốn chuyển vào thứ sáu - ông có thu xếp được không?”
“Chúng tôi chuyển đi được, nhưng tôi không hứa được ngày nào thì đến đấy đâu,” ông nói. “Còn phụ thuộc vào thứ tự ưu tiên nữa. Khi hàng của cô đến có người chờ nhận ở đầu kia không?”
“Có.”
“Thứ Sáu có chuyến vừa chở hàng vừa chở khách, lúc hai giờ mười tám phút chiều. Xe tải sẽ đến lấy đồ sáng thứ sáu. Cô có ở ngay thị trấn này không?”
Cô ta gật đầu, viết địa chỉ của mình xuống giấy: Số 106 đường Triển Lãm.
Các ngôi nhà trong thị trấn này chỉ vừa mới được đánh số cách đây không lâu, và ông không hình dung ra được nơi cô ta ở, mặc dù ông biết rõ đường Triển Lãm ở đâu. Nếu lúc đó mà cô ta nói là cái tên McCauley thì ông đã để ý hơn rồi, và mọi chuyên có thể xảy ra theo chiều hướng khác. Đường ấy có những ngôi nhà mới xây sau chiến tranh, dù vẫn được gọi là “các căn nhà thời chiến.” Ông đoán có lẽ cô ta ở một trong những căn nhà đó.
“Khi nào chuyển hàng cô mới phải trả tiền,” ông bảo cô ta.
“Tôi cũng muốn mua một vé hành khách cho mình trên cùng chuyến tàu đó. Chiều thứ Sáu.”
2
3
Thưa ông McCauley,
Tôi sẽ đi trên chuyến tàu chiều nay (thứ Sáu). Tôi biết mình đã không báo tin này trước cho ông, nhưng bù lại tôi sẽ không nhận kỳ lương cuối cùng, tức là tổng cộng ba tuần tính đến thứ Hai tuần tới. Có món bò hầm trong nồi cách thủy trên bếp, chỉ cần đun lại. Đủ cho ông dùng ba, nếu ăn dè thì có thể thành bốn bữa. Sau khi hâm đủ nóng và lấy đủ ăn, cần đậy vung lại và cất vào tủ lạnh. Nhớ là phải đậy ngay vung lại kẻo thức ăn có thể bị ôi. Thân chào ông và bé Sabitha, chắc tôi sẽ liên lạc lại sau khi ổn định.
Johanna Parry.
T.B: Tôi đã gửi đồ nội thất đến cho ông Boudreau vì có thể ông ấy cần chúng. Ông nhớ kiểm tra cho đủ nước ở đáy nồi cách thủy trước khi đun.
Ông McCauley chẳng khó khăn gì cũng xác định được Johanna đã mua vé đến Gdynia, tỉnh Saskatchewan. Ông gọi điện cho người trực ga để hỏi. Ông không biết cách tả nhận dạng của Johanna - cô trông già hay trẻ, gầy hay đậm người, mặc đồ màu gì? - nhưng khi ông nhắc đến đồ nội thất thì những thông tin đó không còn cần thiết nữa.
Khi ông McCauley gọi điện đến nhà ga, có vài người đang đợi chuyến tàu tối. Thoạt tiên người trực ga cố ghìm giọng nói nhỏ, nhưng khi nghe thấy rằng đó là đồ ăn cắp, ông chợt trở nên bị kích động (thực ra ông McCauley nói chính xác là “và tôi tin cô ta có mang theo vài món đồ nội thất”). Ông thề rằng giá mình biết được cô ta là ai và định làm gì thì ông đã không để cô bước chân lên tàu. Mọi người xung quanh đều nghe rõ, nhắc lại và tin chắc vào lời tuyên bố này, không ai thắc mắc rằng người trực ga sẽ làm cách nào để chặn một phụ nữ đã trưởng thành, mua vé đầy đủ, trừ phi ông ta có ngay bằng chứng rằng cô ta ăn trộm. Hầu hết những người nhắc lại lời tuyên bố đó của ông ta đều tin là ông có khả năng và quyết tâm chặn cô ta lại - họ tin vào quyền hành của người trực nhà ga và nhân cách của ông lão khả kính luôn đi lại đĩnh đạc trong bộ com lê nguyên bộ, đủ cả gi lê như ông McCauley.
Món bò hầm quả là tuyệt, xứng với trình độ nấu ăn bấy lâu của Johanna, nhưng ông McCauley vẫn thấy nuốt không nổi. Ông bỏ mặc lời dặn về việc đậy nắp, và cứ để nồi mở tơ hơ trên bếp, thậm chí không buồn tắt bếp đi cho đến khi nước ở đáy nồi đun cách thủy bị cạn hết và ông chợt phát hiện ra mùi khét của kim loại cháy.
Đó là mùi của sự phản bội.
Ông tự nhủ vẫn còn may là ít nhất bé Sabitha cũng đã được thu xếp ổn thỏa, và ông không phải lo gì cho bé cả. Cô cháu gái - đúng ra là cháu họ của vợ ông, tên là Roxanne - đã viết thư kể cho ông những nhận xét của cô ta về Sabitha trong lần đi tham quan hồ Simcoe vào mùa hè rằng cô bé cần phải được uốn nắn.
“Nói thật là cháu nghĩ bác và cái cô làm thuê sẽ không thể làm chủ được tình hình khi bọn con trai bu đến xung quanh con bé.”
Cô không dám hỏi thẳng là ông có muốn con bé rồi cũng sẽ như Marcelle mẹ nó không, nhưng rõ ràng là có ý đấy. Cô nói sẽ đưa Sabitha đi học trường thật tốt để ít nhất con bé cũng học được cách cư xử lễ phép.
Ông bật ti vi để khỏi nghĩ về việc đó, nhưng chẳng tác dụng gì. Chính đống đồ nội thất làm ông sôi máu. Chính là Ken Boudreau.
Chuyện là cách đây ba ngày - và chính cái ngày Johanna mua vé tàu, theo như lời người trực ga vừa kể với ông - ông McCauley có nhận được một lá thư của Ken Boudreau yêu cầu ông: (a) ứng một chút tiền vì đống đồ nội thất thuộc sở hữu của gã (Ken Boudreau) và người vợ quá cố, Marcelle, đang nằm trong nhà kho nhà ông McCauley, hoặc (b) nếu ông không đồng ý làm như trên thì bán đống đồ đạc ấy được càng nhiều tiền càng tốt, và gửi số tiền đó càng nhanh càng tốt đến Saskatchewan. Chẳng đả động gì đến những khoản trước đây ông con rể đã vay của bố vợ, lần nào cũng lấy cớ vì giá trị của đống đồ nội thất này và đem cộng lại thì đã vượt xa số tiền có thể thu được nếu bán đống đồ đó đi ở bất kỳ thời điểm nào. Ken Boudreau đã quên tất cả những khoản đó rồi chăng? Hay là gã chỉ hy vọng - khả năng này có vẻ cao hơn - rằng ông bố vợ gã đã quên rồi?
Hình như giờ đây gã đã sở hữu một khách sạn. Nhưng lá thư của gã chứa đầy những lời rủa xả lão chủ trước, người đã lừa gã về nhiều điểm trong giao dịch này.
“Nếu con vượt qua được trở ngại này,” gã viết, “thì con tin rằng con vẫn có thể thành công.” Nhưng trở ngại này là gì? Là nhu cầu phải có tiền ngay, dù gã chẳng nói rõ là tiền để trả nợ lão chủ trước, hay ngân hàng, hay một quỹ nhận thế chấp tư nhân, hay cái quái gì. Vẫn là câu chuyện cũ rích - với một giọng điệu van vỉ, cầu xin pha lẫn một chút ăn vạ, kiểu như đòi bù đắp những thiệt thòi, bởi những tổn thương, những nỗi nhục nhằn gã đã phải chịu, liên quan đến chuyện Marcelle.
Dù đầy nghi ngại, nhưng nhớ ra Ken Boudreau rốt cuộc cũng là con rể mình, từng chiến đấu trong cuộc nội chiến, vả lại đã phải trải qua cuộc hôn nhân với những nỗi khổ mà chỉ có trời mới biết được, ông McCauley cũng ngồi xuống và viết thư hồi âm, nói rằng ông không biết bán những món đồ đó đi bao nhiêu là được giá, và ông không biết hỏi ai, và ông gửi kèm đây một tờ chi phiếu, coi như là tiền của ông cho gã vay riêng. Ông mong chàng rể sẽ ghi nhận đúng tính chất việc làm của mình, và nhớ tổng số tiền ông đã từng cho vay kiểu như thế này - mà ông tin rằng tính gộp đến nay đã vượt quá các loại giá trị của đống đồ nội thất. Ông gửi kèm thư một danh sách liệt kê ngày tháng từng lần gửi và số tiền. Ngoài năm chục đô được trả cách đây đã gần hai năm (với lời hứa sẽ gửi thêm theo định kỳ), ông chẳng nhận được cái gì hết. Ông con rể hẳn phải biết rằng những khoản cho vay chẳng thu được cả vốn lẫn lời đó đã khiến thu nhập của ông McCauley suy giảm nhiều, vì lẽ ra ông có thể đem số tiền đó đầu tư.
Ông định thêm rằng, “Tôi chẳng ngốc như anh nghĩ đâu,” nhưng lại quyết định thôi, vì như thế là làm lộ sự bực tức và có lẽ cả sự yếu đuối.
Và giờ thì thế đấy. Gã con rể lại còn ăn non và dụ dỗ Johanna tham gia vào mưu mô của gã - gã luôn lấy lòng được đàn bà - và chiếm đoạt được cả đống đồ nội thất lẫn tiền của ông. Cô ta đã phải bỏ tiền túi ra trả tiền vận chuyển, người trực ga nói vậy. Mấy thứ đồ gỗ phong trông bóng bẩy kiểu tân thời ấy đã được danh giá quá cao trong các giao dịch trước, và hai đứa sẽ không thu được mấy tiền đâu, nhất là nếu tính cả khoản cước phí đường sắt đã trả. Nếu chúng thông minh hơn thì lẽ ra chỉ cần lấy món gì đó từ trên nhà chính, một cái tủ cổ hay cái trường kỷ phòng khách ngồi đến là khó chịu vì được làm ra và mua về từ thế kỷ trước. Tất nhiên, nếu chúng làm như thế thì đã thành hành vi ăn cắp rõ rồi. Nhưng làm thế này thì cũng chẳng khác mấy.
Ông đi ngủ với quyết tâm sẽ đưa họ ra pháp luật.
Ông thức dậy trong căn nhà trống vắng, không có mùi cà phê đang pha hay mùi bữa sáng đang nấu trong bếp, đã thế lại còn phảng phất mùi nồi cháy trong không khí. Hơi thu lạnh lẽo đã ngự trị trong tất cả các căn phòng trần cao, trống trải. Đêm qua và nhiều đêm trước căn nhà rất ấm cúng - thì ra lò sưởi chưa bật, và khi ông McCauley đi bật lò sưởi lên thì làn hơi ấm đầu tiên kéo theo mùi căn hầm ẩm ướt, mùi mốc, mùi bụi và mục rữa. Ông tắm rửa và mặc quần áo rất chậm rãi, đôi lúc lại lơ đễnh ngừng lại, rồi lấy một mẩu bánh mì ra phết bơ lạc làm bữa sáng. Ông thuộc về một thế hệ có những trang nam nhi mà người ta bảo là đến cả đun nước sôi cũng không biết, và ông là một trong số đó. Ông nhìn ra ngoài cửa sổ mặt tiền và thấy hàng cây bên kia đường đua chìm trong làn sương mù buổi sớm, đáng ra vào giờ này đã phải tan rồi mà trông vẫn như đang dày thêm, lan tỏa khắp trường đua. Ông còn tưởng như nhìn thấy tòa nhà Triển lãm cũ trong làn sương mù - với những gian nhà thô kệch, rộng huếch hoác như những kho cỏ khổng lồ. Chúng đã tồn tại ở đó nhiều năm mà không được sử dụng - qua suốt cuộc chiến - và ông chẳng nhớ cuối cùng điều gì đã xảy ra với chúng: bị phá hay tự sụp? Ông hận những cuộc đua ngựa giờ đây đang diễn ra ở đó, hận đám đông với cái loa và bọn uống rượu trái phép, hận những tiếng la hét sập trời vào những ngày Chủ nhật suốt mùa hè. Nhớ đến cảnh đó và ông lại nghĩ đến cô con gái tội nghiệp Marcelle, nhớ cô thường ngồi trên bậc thềm gọi lũ bạn học, giờ đã trưởng thành, vừa mới xuống xe bãi đỗ để vội vã vào trường đua. Cô cứ tíu tít cả lên, thể hiện niềm vui mừng khi được về quê, ôm ấp rồi giữ chân người ta, nói liến thoắng luôn miệng về những ngày thơ ấu và nỗi nhớ mọi người. Rồi cô nói rằng điều duy nhất không hoàn hảo trong cuộc sống và nỗi nhớ chồng, anh Ken, đang phải bơ vơ ở miền Tây vì công việc.
Cô ra ngoài đó trong bộ đồ ngủ bằng lụa, với mái tóc nhuộm màu vàng kim bù xù không chải. Tay chân cô gầy guộc, nhưng khuôn mặt có vẻ hơi phù, và nước da mà cô bảo là rám nắng hình như là sắc nâu xỉn do bệnh tật chứ không phải do bắt nắng. Có thể là triệu chứng vàng da.
Con bé con thì ở trong nhà xem ti vi - chương trình hoạt hình Chủ nhật dành cho lứa tuổi nhỏ hơn nó nhiều.
Ông không thể nói, đúng ra không thể biết chắc có cái gì đó trục trặc hay không. Marcelle đi London để làm chuyện gì đó của phụ nữ, rồi tử vong ở bệnh viện. Khi ông gọi điện cho chồng cô, Ken Boudreau hỏi, “Cô ấy uống thuốc gì vậy?”
Nếu mẹ Marcelle còn sống, liệu mọi chuyện có khác đi không? Sự thật là bà ấy, khi còn sống, cũng hoang mang chẳng kém gì ông. Bà từng ngồi khóc trong bếp trong khi cô con gái, lúc ấy đang ở tuổi dậy thì, bị khóa trái trong buồng riêng, đã trèo qua cửa sổ, trượt xuống mái hiên và được một lũ con trai đánh xe đến đón.
Ngôi nhà này phủ đầy cảm giác bị ruồng bỏ nhẫn tâm, cảm giác bị phản bội. Ông và vợ ông hiển nhiên đã là ông bố bà mẹ tốt, nhưng bị dồn đến chân tường vì cô con gái Marcelle. Khi cô trốn nhà đi với một phi công, họ đã từng hy vọng rằng mọi việc của cô cuối cùng cũng sẽ ổn. Họ đã rộng lượng với hai đứa, như với một cặp vợ chồng trẻ đàng hoàng. Nhưng rồi cũng chẳng đâu vào đâu. Ông cũng từng rộng lượng như vậy với cô giúp việc Johanna Parry, và xem cô ta đã tráo trở với ông như thế này đây.
Ông quyết định đi bộ vào trung tâm tới khách sạn để ăn điểm tâm. Cô phục vụ bàn niềm nở, “Hôm nay ông đến sớm thế!”
Và trong lúc cô ta còn đang rót cà phê vào tách cho ông, ông đã bắt đầu kể về cô giúp việc bỏ đi vô cớ mà không báo trước, lại còn khuân theo một đống đồ nội thất thuộc sở hữu của con gái ông, giờ đây có vẻ thuộc quyền thừa kế của con rể nhưng không hẳn như vậy, vì chúng được mua bằng tiền mừng cưới của con gái ông. Ông kể lể chuyện con gái ông đã lấy phải một gã phi công bảnh bao, có vẻ ngay thẳng như thế nào, rồi hóa ra lại là kẻ bội tín ra sao.
“Xin lỗi ông,” cô chạy bàn nói. “Tôi rất thích chuyện trò, nhưng có nhiều người đang chờ tôi mang đồ ăn sáng quá.”
Ông thông cảm.
Ông leo cầu thang lên văn phòng, và ở đó, trải sẵn trên bàn là những tấm bản đồ cũ, vì hôm qua ông đang tra tìm vị trí chính xác của nghĩa địa đầu tiên trong hạt này (rồi bị bỏ hoang, ông tin như vậy, vào năm 1839). Ông bật đèn lên và ngồi xuống, nhưng nhận ra rằng mình không thể tập trung được. Sau lời trách cứ của cô chạy bàn - hay những lời ông cho là trách cứ - ông không thể nuốt trôi được bữa điểm tâm hay thưởng thức được ly cà phê nữa. Ông quyết định phải đi dạo để lấy lại bình tĩnh.
Nhưng thay vì đi tản bộ theo lối quen thuộc, chào hỏi qua loa những người quen mặt như thường lệ, ông lại tự nhiên không kìm được tâm sự. Khi mọi người vừa hỏi ông câu xã giao sáng nay thế nào, ông lập tức để xổ ra nỗi tức giận, một điều cực kỳ bất thường, thậm chí đáng xấu hổ, với tính cách của ông. Và cũng y như phản ứng của cô chạy bàn, những người này cáo bận và ừ ào rồi lảng lảng và xin lỗi phải đi. Sáng nay trời có vẻ lạnh lâu hơn và sương tan chậm hơn những buổi sáng mùa thu bình thường, và áo vét ông mặc có vẻ không đủ ấm, nên ông ghé vào các cửa hàng cho bớt lạnh.
Những người quen biết ông lâu nhất lại là những người bị sốc nhất. Ông chưa bao giờ thể hiện điều gì ngoài sự trầm tĩnh một quý ông lịch duyệt, đầu óc chỉ nghĩ về quá khứ, tính nhã nhặn như thể hiện sự ăn năn về đặc quyền mình được hưởng (mà thực ra là một điều nực cười, vì những đặc quyền đó chủ yếu do ông tự hồi tưởng và người khác không cảm nhận được). Ai chứ ông McCauley phải là người cuối cùng trên đời đi kể lể oan trái và cầu xin sự cảm thông - khi vợ chết ông không thế, thậm chí khi con gái chết ông cũng không thế - vậy mà giờ đây ông đang làm vậy, vừa kể vừa chìa ra mấy lá thư và hỏi người đối diện xem gã nọ moi tiền ông hết lần này đến lần khác như vậy có đáng nhục không, giờ lại còn đồng lõa với cô giúp việc nhà ông lấy trộm đống đồ nội thất sau khi đã lợi dụng lòng thương của ông thêm một lần nữa. Vài người còn nghĩ là ông bị mất đồ đang dùng trong nhà - họ tưởng ông già không còn giường ngủ hay bàn ghế trong nhà. Họ khuyên ông nên đi báo cảnh sát.
“Chẳng ăn chua đâu, chẳng ăn thua đâu,” ông nói. “Làm sao mà lũ mặt sắt ấy động lòng được?”
Ông vào hiệu Sửa Giày và chào bác Herman Shultz.
“Bác có nhớ đôi bốt bác làm đế lại cho tôi không, đôi tôi mua từ Anh ấy? Bác làm lại đế cách đây khoảng bốn, năm năm.”
Cửa hiệu này như một cái hang vậy, với những cái đèn có chao treo rủ xuống các bàn làm việc. Không gian bí bách kinh khủng, nhưng ông McCauley lại thấy thứ mùi nam tính ở đây thật dễ chịu - mùi keo dán, mùi da, mùi xi và đống đế dạ mới cắt cùng những cái đế cũ đã mục. Đây là bác hàng xóm Herman Shultz, một người thợ thủ công đeo kính, da vàng vọt, vai lệch, tay nghề thành thạo, bận rộn quanh năm - luôn tay đóng đóng, tán tán những cây đinh sắt, hay cắt những miếng da theo hình đã định bằng một con dao mũi cong kỳ dị. Đế giày thì cắt bằng một dụng cụ trông giống một cái cưa cầm tay lưỡi tròn nhỏ xinh. Dụng cụ đánh bóng da phát ra tiếng rì rì, đĩa mài gắn giấy ráp thì phát ra tiếng xoèn xoẹt, đĩa cắt có đá mài tạo ra âm thanh chói tai như tiếng côn trùng máy, còn chiếc máy khâu thì lướt trên miếng da theo một nhịp điệu mẫn cán rất công nghiệp. Tất cả những âm thanh mùi vị này cũng như những công việc tỉ mỉ trong tiệm sửa giày đã quá quen thuộc với ông McCauley hàng thập kỷ nay rồi, song ông chưa từng ghi nhận hay suy nghĩ về chúng. Lúc này đây khi bác Herman, trong chiếc tạp dề da đen thui, tay vẫn đang cầm một chiếc bốt, đứng lên, mỉm cười và gật đầu, ông McCauley mới nhìn thấu cả cuộc đời bác hàng xóm trong cái hang này. Ông muốn thể hiện sự cảm thông, hay khâm phục, hay một điều gì còn hơn cả thế mà chính ông cũng không hiểu.
“Vâng, tôi nhớ,” bác Herman nói. “Đôi bốt đó thật đẹp.”
“Bốt xịn đấy. Bác biết là tôi mua đôi bốt đó trong chuyến trăng mật mà. Tôi mua ở Anh. Giờ tôi chẳng nhớ là ở chỗ nào nữa, nhưng không phải ở London.”
“Vâng, tôi nhớ ông đã kể thế.”
“Và bác đã sửa rất khéo. Đến giờ đôi bốt vẫn dùng tốt. Bác làm cẩn thận lắm, bác Herman. Ở đây có bác làm thật chu đáo. Bác làm việc rất uy tín.”
“Thế thì tốt.” Bác Herman liếc nhanh vào chiếc bốt đang cầm trên tay.
Ông McCauley hiểu rằng bác ta muốn tiếp tục làm việc, nhưng ông không buông tha.
“Tôi mới bị trắng mắt một cú. Sốc quá.”
“Thật à?”
Thế là ông lão liền rút bức thư ra và bắt đầu đọc to vài đoạn, đôi lúc dừng lại để thêm vào một nụ cười chua chát.
“Viêm phế quản. Nó nói nó bị ốm vì viêm phế quản. Không biết nhờ vả chỗ nào nữa. Con không biết nhờ vả được ai nữa. Hừ, lúc nào nó chẳng quá rõ phải nhờ vả ai. Sau khi đã cầu cạnh hết các cửa khác rồi mới lần đến tôi đây. Chỉ vài trăm thôi cho đến khi con hồi phục. Xin xỏ và cầu cạnh tôi trong khi đó vẫn đang ủ mưu với con giúp việc nhà tôi. Bác có biết không? Con đó ăn trộm cả đống đồ nội thất và khuân sang miền Tây rồi. Thì ra chúng bày trò mèo mả gà đồng. Chính cái thằng tôi đã cứu nguy hết lần này đến lần khác. Mà chưa bao giờ trả lại một xu. Không, không, tôi phải thành thực mà nói là nó có trả năm chục đô. Năm chục trong số hàng trăm nối tiếp hàng trăm đô. Hàng mấy nghìn rồi. Thì nó có tham gia Không quân trong chiến tranh, chắc ông cũng biết. Cái bọn lùn lùn ấy lại thường vào Không quân. Đi đâu cũng khệnh khạng ra vẻ ta đây là anh hùng đã trải qua cuộc chiến. À, tôi biết mình không nên nói điều này, nhưng tôi nghĩ chiến tranh đã làm hỏng đầu nhiều đứa trong số đó, chúng không bao giờ tái hòa nhập cuộc sống bình thường được. Nhưng chừng đó chưa đủ làm cái cớ để biện minh được. Đúng không nào? Tôi không thể tha thứ cho nó suốt đời chỉ vì cuộc chiến ấy được.”
“Đúng rồi, sao thế được.”
“Tôi biết nó là loại không thể tin được ngay lần gặp đầu tiên. Thế mới kỳ chứ. Tôi biết điều đó, mà vẫn để cho nó bòn rút. Có những kẻ như thế đấy bác ạ. Chỉ vì biết chúng đểu giả nên ta thương xót chúng. Tôi đã kiếm cho nó việc trong ngành bảo hiểm đó, tôi cũng có quen biết đôi chút. Tất nhiên là nó lại không trụ được. Đồ lưu manh. Có những kẻ suốt đời như thế.”
“Ông nói phải lắm.”
Hôm nay bác gái Shultz không có ở tiệm. Thường bác vẫn đứng ở quầy, nhận giày của khách mang đến sửa, rồi mang vào cho chồng xem sau đó ra nói lại với khách ý kiến của chồng, viết hóa đơn, thu tiền khi trả giày lại cho khách. Ông McCauley chợt nhớ mùa hè năm đó bác gái vừa trải qua một ca phẫu thuật gì đó.
“Bác gái hôm nay không ra cửa hàng à? Dạo này bà ấy khỏe không?”
“Hôm nay cô ấy muốn nghỉ ngơi. Tôi cho cháu ra giúp ông ạ.”
Bác Herman hất đầu về phía những cái giá bên phải quầy, nơi để những chiếc giày đã làm xong. Ông McCauley quay đầu nhìn theo và thấy Edith, con gái ông bà Shultz, thế mà từ lúc vào ông không nhận thấy sự có mặt của nó. Một bé gái gầy gò kiểu trẻ con với mái tóc đen thẳng đang sắp xếp lại những đôi giày, lưng quay lại phía ông. Đúng là phong cách mà nó thường thoắt đến thoắt đi khỏi nhà ông hồi còn làm bạn với Sabitha. Dường như không ai có thể nhìn kỹ được mặt nó.
“Giờ cháu có thể ra giúp bố được rồi đấy hả?” ông McCauley cất tiếng. “Cháu học xong rồi à?”
“Hôm nay là thứ Bảy,” Edith nói, hơi ngoái người lại và hé môi cười.
“Ờ nhỉ. Mà, đỡ đần cho bố thì dù sao cũng là việc tốt. Cháu phải chăm sóc cha mẹ. Họ đã làm lụng chăm chỉ và sống tử tế.” Với giọng pha nhẹ chút ân hận, như biết mình vừa lỡ lời phán xét, ông McCauley tiếp, “Hãy tôn kính cha mẹ, để được sống lâu trong…”[3]
Edith lẩm bẩm để ông không nghe thấy. Cô bé nói, “Hiệu sửa giày.”
“Tôi làm bác mất thì giờ, làm phiền bác quá,” ông McCauley nói giọng buồn bã. “Bác còn nhiều việc phải làm.”​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

Chương 4​


“Con đâu cần nói xóc như vậy hả,” ông Herman nói với Edith khi ông già McCauley vừa đi khỏi.
Trong bữa tối bác Herman kể lại với vợ tất cả câu chuyện về ông McCauley.
“Lão ấy không còn là chính mình nữa,” bác bình thêm. “Lão như bị bắt vía rồi.”
“Có lẽ lão bị đột quỵ dạng nhẹ,” bác gái nói. Kể từ khi phải mổ - vì bị sỏi mật - bác thường bình luận với vẻ hiểu biết pha lẫn đắc ý ngầm về bệnh tật của người khác.
Giờ đây khi Sabitha đã chuyển khỏi thị trấn, biến mất vào một cuộc sống kiểu khác dường như luôn chờ đón nó, Edith lại trở lại với đúng bản chất của mình, như trước khi Sabitha tới đây. Già trước tuổi cần mẫn, khó tính. Chỉ sau ba tuần ở trường cấp ba, nó biết mình sẽ giỏi tất cả các môn mới - tiếng La tinh, đại số, văn học Anh. Nó tin là trí thông minh của mình sẽ được ghi nhận và tưởng thưởng, và một tương lai tươi sáng sẽ mở ra cho nó. Những trò ngu muội năm ngoái với Sabitha đang lui dần vào dĩ vãng.
Nhưng khi nó nghĩ đến việc cô Johanna bỏ đi miền Tây, nó cảm thấy một cơn ớn lạnh dội về từ quá khứ, một hồi chuông cảnh tỉnh thúc giục. Nó cố tìm cách nén cảm giác đó lại, nhưng chẳng ăn thua.
Ngay sau khi rửa bát xong, nó chui tọt về phòng mình với cuốn sách mới được chỉ định phải đọc cho lớp văn học. Cuốn David Copperfield.
Nó là một đứa bé chưa bao giờ bị bố mẹ nói nặng lời hơn mức quở trách qua loa, kiểu nuông chiều thường thấy ở những cặp vợ chồng già rồi mới sinh được một đứa con nhỏ tuổi như nó. Người ta vẫn bảo đó là nguyên nhân khiến nó có cách hành xử như vậy - nhưng bản thân nó thì lại thấy mình có cảnh ngộ bất hạnh rất giống David. Nó cảm thấy là mình cũng hệt như cậu ta, có thể như một đứa bé mồ côi, vì có lẽ nó sẽ phải bỏ nhà đi trốn và tự lo cho bản thân, một khi sự thật bị phát giác và quá khứ của nó sẽ chặn hết đường đến tương lai.
Tất cả bắt đầu từ lúc Sabitha tự nhiên nói, trên đường đi học, “Chúng mình phải ghé qua bưu điện đã. Tớ phải gửi một lá thư cho bố.”
Hằng ngày hai đứa đều đi cùng đường tới trường và về nhà. Đôi khi chúng còn thử vừa đi vừa nhắm mắt, hay đi lùi. Đôi khi, gặp người qua đường, hai đứa còn thì thầm bằng một thứ ngôn ngữ lạ tai do chúng tự bịa ra để làm họ rối trí. Hầu hết những trò hay ho đó đều do Edith nghĩ ra. Trò duy nhất mà Sabitha đầu têu được là trò viết tên một thằng con trai cùng với tên một trong hai đứa, rồi gạch bỏ những chữ cái trùng nhau xong bắt đầu đếm những chữ còn lại. Vừa đếm vừa bấm đốt ngón tay, nhẩm, Ghét, thân, thương, yêu, cưới rồi đảo lại cho đến chữ cuối cùng để bởi định mệnh giữa hai người.
“Thư gì mà dày thế,” Edith nói. Nó để ý mọi thứ, ghi nhớ mọi thứ và có thể thuộc làu nhiều trang sách giáo khoa trong thời gian cực ngắn, khiến lũ bạn cùng học phát khiếp. “Cậu có nhiều điều để kể lể với ông bô thế à?” nó nói với vẻ sửng sốt vì nó không tin điều đó - đúng ra là không tin được Sabitha có thể viết ra những điều đó trong một bức thư dài đến vậy.
“Tớ chỉ viết có một trang thôi,” Sabitha vừa nói vừa nhấp nhấp lá thư trong tay để ước lượng độ nặng.
“A ha,” Edith gật gù. “À há.”
“A ha gì cơ?”
“Tớ cá là mụ ấy đã bỏ cái gì nữa phong bì. Mụ Johanna ấy.”
Kế hoạch phát sinh đột xuất từ phát hiện này là chúng không mang thư ra thẳng bưu điện nữa, mà giữ lại rồi mang về nhà Edith sau giờ học, hơ trên hơi nước nóng để bóc trộm. Chúng có thể thoải mái làm việc này ở nhà Edith vì mẹ nó phải làm suốt ngày hiệu sửa giày.
Chào anh Ken Boudreau,
Em nghĩ mình phải viết để gửi lời cảm ơn những lời tốt đẹp anh đã dành cho em trong thư gửi con gái. Anh đừng lo em sẽ bỏ việc. Anh nói em là người anh có thể tin cậy. Đấy là theo ý em hiểu, và em ngẫm lại, cho đến giờ phút này, điều đó đúng. Em cảm kích vì anh đã nói ra điều đó, vì có người cho rằng với một người giúp việc không biết rõ gốc gác như em thì thật là ‘câu chuyện cảnh giác’. Vậy nên em nghĩ mình cần kể với anh đôi điều về bản thân. Em sinh ra ở Glasgow, nhưng mẹ bỏ em khi bà đi lấy chồng. Em được đưa vào nhà cô nhi khi mới được năm tuổi. Em cứ chờ bà quay lại đón em, nhưng bà không bao giờ trở lại và em quen dần với mọi thứ ở đó, và mọi người cũng không Tệ[4]. Năm mười một tuổi, em được đưa sang Canada theo một Chương trình hỗ trợ và sống với ông bà Dixon, làm việc ở trang trại, lau nhà họ. Trong Chương trình có điều khoản được đi học, nhưng em chẳng mấy khi được đi. Mùa đông, em làm việc trong nhà đỡ đần bà chủ nhưng hoàn cảnh khiến em nghĩ mình phải đi khỏi đó, và vì cao lớn hơn tuổi, em được nhận vào làm trong Viện Dưỡng lão, chăm sóc người già. Em cũng không ngại làm ở đó, nhưng thấy được nhiều tiền hơn nên chuyển đến làm ở một Xưởng Sản xuất Chổi. Ông chủ xưởng Willets có một bà mẹ già đến ngó qua xem công việc ra sao, và bà ấy với em cũng kiểu khá hợp nhau. Không khí ở nhà xưởng làm em khó thở, nên bà ấy bảo em nên về làm cho bà, và em đã nghe theo. Em sống với bà 12 năm bên một cái hồ tên là hồ Chim Gáy ở miền Bắc. Chỉ có hai người với nhau, nhưng em quán xuyến được hết mọi việc trong nhà ngoài đường, lái được cả xuồng máy và ô tô. Em học đọc thành thạo vì mắt bà càng ngày càng kém và bà thích được em đọc cho nghe. Bà mất năm 96 tuổi. Chắc anh sẽ nói còn trẻ thế mà phải sống đời như vậy, nhưng em hạnh phúc. Bữa nào em cũng ăn cùng với bà, và em ngủ trong phòng bà vào khoảng một năm rưỡi trước khi bà qua đời. Nhưng sau khi bà mất, gia đình bảo em phải dọn ra trong một tuần. Bà để lại cho em ít tiền, và chắc điều đó làm họ không vui. Bà muốn em dùng tiền đó chi cho Giáo dục, nhưng như thế thì em lại phải ngồi cùng lớp với bọn trẻ con. Nên khi em thấy quảng cáo ông McCauley đăng trên báo Hoàn cầu và Thư tín, em đã đến xem thử. Em cần làm việc để vượt qua nỗi nhớ bà Willets. Em nghĩ em đã làm anh đủ chán với Hoàn cảnh Gia đình rồi, em nên buông tha cho anh và trở về với Hiện tại. Cảm ơn anh về lời nhận xét tốt và về việc đưa em đi cùng tới Hội chợ. Em đi không phải để chơi trò chơi này kia hay ăn quà, nhưng chắc chắn em thấy rất vui khi được đi cùng.
Bạn anh, Johanna Parry.
Edith nhại lại lời lẽ của Johanna với chất giọng da diết và biểu cảm bi ai. “Em sinh ra ở Glasgow, nhưng mẹ em bỏ em khi bà nhìn thấy em lần đầu…”
“Thôi thôi,” Sabitha nói. “Tớ chết vì cười mất.”
“Làm thế nào mà mụ ấy nhồi được thư của mụ vào cùng với lá thư của cậu mà cậu không biết?”
“Mụ bảo tớ đưa thư tớ viết cho mụ để mụ bỏ vào phong bì và viết địa chỉ, mụ nghĩ chữ tớ khó đọc.”
Edith phải dùng băng dính dán ngoài mép phong bì vì không còn đủ hồ dính bên trong. “Mụ đang yêu ông bô đấy,” nó nói.
“Ôi, ọe ọe,” Sabitha vừa nói vừa ôm bụng. “Không đời nào. Bà cô Johanna ơi.”
“Thế ông bô nói gì về mụ?”
“Chỉ nói là tớ phải quý trọng mụ, và nếu mụ bỏ việc thì rất dở, vì may lắm mới kiếm được một người giúp việc như mụ, và ông bô không có chỗ nuôi tớ còn ông ngoại thì không thể tự mình chăm cháu gái, rồi cà kê dê ngỗng. Ông nói mụ là người đứng đắn lịch thiệp. Ông nói ông cảm nhận được như thế.”
“Thế rồi mụ mang lòng y-ê-u.”
Lá thư phải để lại nhà Edith qua đêm, nếu không Johanna sẽ phát hiện ra rằng thư chưa được gửi đi, và lại còn được dính lại bằng băng dính nữa. Sáng hôm sau hai đứa mới mang ra bưu điện.
“Rồi chúng mình xem ông bô nhà cậu viết lại thế nào. Cứ chờ đấy,” Edith nói.
Mãi chẳng có thư hồi âm. Rồi khi có, thì hai đứa lại thất vọng. Chúng lại đem hơ trên hơi nước nóng để mở thư ở nhà Edith, nhưng chẳng thấy có dòng nào cho Johanna hết.
Sabitha con yêu,
Giáng sinh năm nay đến đúng lúc bố hơi kẹt, rất tiếc bố không có gì hơn để gửi cho con ngoài tờ hai đô la. Nhưng bố mong con khỏe mạnh và có một lễ Giáng sinh vui vẻ và chăm học. Riêng bố thì không được khỏe lắm, bị viêm phế quản, hình như cứ đến mùa đông là bố lại bị, nhưng đây là lần đầu tiên bố bị nó quật phải nằm dưỡng bệnh ngay trước lễ Giáng sinh. Chắc con cũng thấy trên địa chỉ gửi thư, bố đã chuyển đến nơi ở mới. Căn hộ trước ở một nơi rất ồn ào và có quá nhiều người ghé lại đòi tụ tập ăn uống. Bố đang ở một ký túc xá, cũng thấy hợp vì không phải đi chợ nấu nướng, là những việc bố không bao giờ rành.
Chúc lễ Giáng sinh vui vẻ và yêu con, Bố.
“Johanna tội nghiệp,” Edith nói. “Trái tim mụ sẽ tan nát mất.”
Sabitha nói, “Ai hơi đâu mà lo.”
“Trừ chúng ta,” Edith nói.
“Gì cơ?”
“Viết trả lời mụ.”
Chúng sẽ phải đánh máy lá thư, vì Johanna sẽ nhận ra chữ viết không phải của bố Sabitha. Nhưng đánh máy có khó gì. Trong nhà Edith có một máy đánh chữ, trên một cái bàn chân xếp ở phòng khách. Trước đây khi còn chưa lấy chồng mẹ Edith có làm cho một văn phòng, và thỉnh thoảng bác ta vẫn kiếm thêm bằng việc soạn những thư từ người ta cần trình bày trang trọng. Bác đã dạy Edith những thao tác đánh máy cơ bản với hy vọng một ngày nào đó Edith cũng sẽ kiếm được việc làm ở một văn phòng.
“Johanna thân,” Sabitha nói, “Tôi xin lỗi không thể yêu em được vì em bị những nốt xấu xí đầy khắp mặt.”
“Tớ đang cần suy nghĩ nghiêm túc,” Edith nói. “Cậu ngậm miệng lại đã.”
Nó bắt đầu gõ, “Tôi rất mừng khi nhận được thư em…” và đọc to những lời tự bịa, chỉ dừng khi cần nghĩ ngợi thêm, giọng nó càng lúc càng trịnh trọng và dịu dàng. Sabitha nằm xoải trên đi văng và cười khúc khích. Có lúc nó bật ti vi lên, nhưng Edith nói, “Làm ơnnn nào. Tớ tập trung vào cảm xúccc sao được khi những thứ cứt đái ấy dội vào tai?”
Edith và Sabitha tập tọng văng những từ như “cứt đái” và “chó đẻ” hay “lạy Chúa” khi chỉ có chúng với nhau.
Johanna thân,
Tôi rất mừng khi nhận được thư em gửi cùng với thư Sabitha và được biết về cuộc đời em. Thật là nhiều buồn tủi và cô đơn, dù em cũng có may mắn gặp được bà Willets. Em lúc nào cũng thật chịu khó, không kêu ca và tôi phải nói rằng tôi rất quý trọng em. Cuộc đời tôi cũng chìm nổi và tôi chưa bao giờ ổn định được. Tôi không biết vì sao luôn thấy bồn chồn và cô đơn trong tâm, có lẽ là số phận. Tôi cũng gặp gỡ và chuyên trò với mọi người, nhưng đôi khi tôi tự vấn, ‘Ai là bạn mình?’ Rồi lá thư của em đến và em viết ở cuối thư, ‘bạn anh.’ Rồi tôi nghĩ, Có phải cô ấy nói thật không? Và nếu Johanna nói với tôi rằng em coi tôi đúng là một người bạn thì thật là một món quà giáng sinh ý nghĩa. Hay là em chỉ viết thế để kết thúc lá thư một cách lịch sự, và em chưa hiểu tôi đủ. Dù sao cũng chúc Giáng sinh vui vẻ.
Bạn em, Ken Boudreau.
Bức thư được chuyển về nhà cho Johanna. Lá thư cho Sabitha cũng được đánh máy lại, vì thư viết cho người này viết tay còn cho người kia lại đánh máy thì hơi kỳ. Lần này chúng hơ hơi nước nóng vừa đủ và mở thư cẩn thận hơn, nên không bị bong nhiều hồ và không cần phải dùng băng dính một cách lộ liễu nữa.
“Sao chúng mình không kiếm một cái phong bì mới và đánh máy luôn địa chỉ? Nếu ông bô đã dùng máy chữ thì phải đánh luôn trên phong bì chứ.” Sabitha vừa hỏi vừa nghĩ rằng mình cũng khôn ngoan.
“Vì một cái phong bì mới sẽ không có dấu bưu điện hiểu chưa đồ ngốc.”
“Thế nhỡ mụ trả lời thư thì sao?”
“Thì chúng ta lại đọc.”
“Ừ, nhưng nếu mụ ta viết rồi gửi trực tiếp cho ông ấy?”
Edith không muốn tỏ ra rằng mình chưa nghĩ đến tình huống ấy. “Mụ sẽ không làm thế đâu. Mụ cáo lắm. Dù sao, cậu cũng cần viết lại ngay cho ông bô để mụ nghĩ có thể nhồi thư vào cùng.”
“Tớ ghét phải viết những lá thư ngu xuẩn lắm rồi.”
“Cố đi. Có chết đâu mà lo. Cậu không muốn xem mụ sẽ nói gì à?”
Bạn thân mến,
Anh hỏi rằng em có đủ hiểu anh để kết bạn không, và câu trả lời của em là em nghĩ đã đủ. Em mới chỉ có một người Bạn trong đời, bà Willets, người em yêu thương và cũng rất tử tế với em, nhưng bà đã mất rồi. Bà hơn em nhiều tuổi quá và điều nan giải với Bạn Vong niên là họ bỏ mình mà chết trước. Bà ấy lại già cả lú lẫn quá, đến nỗi nhiều khi gọi em bằng tên của một người khác. Nhưng em không chấp đâu.
Em muốn kể cho anh một chuyện lạ. Bức ảnh anh thuê thợ chụp ở Hội chợ, có anh và bé Sabitha và bé Edith bạn nó, và em, em đã phóng to và lồng khung treo trong phòng khách. Bức ảnh không được đẹp lắm và chắc gã thợ chụp vẫn đòi anh đủ tiền, như có còn hơn không. Hôm kia em lau chùi quanh đã tưởng rằng mình nghe được tiếng anh gọi, ‘Chào em,’ anh nói thế, và em nhìn chăm chú mặt anh trong ảnh và em nghĩ, Ôi, mình mất trí rồi. Hoặc đó và dấu hiệu em sắp nhận được thư anh. Em đang nói nhảm đấy, em chẳng tin những điều như thế. Nhưng hôm qua có thư đến thật. Nên anh thấy đấy, đề nghị em làm bạn của anh chẳng có gì là quá. Em có thể tìm cách khỏa lấp bằng công việc, nhưng có một người Bạn thực sự lại là một chuyện khác.
Bạn anh, Johanna Parry.
Tất nhiên, lá thư này không thể bỏ vào phong bì chung được. Bố của Sabitha sẽ nhận ra điều bất ổn khi đọc đoạn nói tới lá thư trước mà anh ta không bao giờ viết. Chữ nghĩa của Johanna phải đem xé nhỏ và xối nước xuống bồn cầu nhà Edith.
Phải hàng mấy tháng sau bức thư tiếp theo của bố Sabitha, nói về khách sạn, mới đến. Khi ấy là mùa hè. Và chỉ nhờ may mắn tình cờ mà Sabitha mới nhận được lá thư đó, vì nó vừa đi xa ba tuần, tới chơi với gia đình dì Roxanne và chú Clark tại ngôi nhà nghỉ bên hồ Simcoe thuộc sở hữu của họ.
Câu đầu tiên mà Sabitha lập tức thốt lên ngay khi vừa bước vào nhà Edith là, “Hự, hự. Chỗ này mùi kinh quá.”
“Hự, hự” là từ nó mới học được từ đám em họ.
Edith hít hít không khí. “Tớ chẳng ngửi thấy mùi gì cả.”
“Mùi giống hệt cửa hàng bố cậu vậy, chỉ không nặng bằng thôi. Chắc dính theo quần áo đồ đạc của bố mẹ cậu.”
Edith bắt tay vào việc hơ nước nóng và mở thư. Trên đường từ bưu điện đến đây, Sabitha đã ghé hiệu bánh mua hai cái bánh su kem phủ sô cô la. Nó nằm xuống đi văng và ăn cái bánh của mình.
“Chỉ có mỗi một lá. Cho cậu,” Edith nói. “Tội nghiệp bà cô Johanna. Tất nhiên là ông ấy chẳng bao giờ nhận được thư của mụ.”
“Cậu đọc giúp đi,” Sabitha nói buông xuôi. “Tay tớ dính đầy kem rồi.”
Edith đọc nhanh như đọc công văn, không thèm dừng ở những chỗ chấm câu.
Ôi, Sabitha, vận may của bố chợt đổi bất ngờ, như con thấy trong địa chỉ, bố không còn ở Brandon nữa mà đang ở một thị trấn tên là Gdynia. Và không còn đi làm ở chỗ cũ nữa. Mùa đông trước bố chật vật vì luôn bị tức ngực do thời tiết, và họ, những sếp ở chỗ bố làm, vẫn không cho bố làm việc trong văn phòng mà định bắt bố rong ruổi ngoài đường bất chấp nguy cơ bố bị viêm phổi nên đã xảy ra cãi cọ và hai bên quyết định chia tay nhau. Nhưng vận may luôn là thứ khó hiểu, vì đúng lúc này thì bố lại được làm chủ một khách sạn. Những chi tiết cụ thể rất phức tạp bố không giải thích hết được, nhưng nếu ông ngoại hỏi thì con cứ nói là có người nợ bố tiền không trả được nên đã gán cho bố cái khách sạn này. Thế là giờ bố chuyển từ một phòng trong ký túc xá đến một tòa nhà mười hai phòng ngủ, từ chỗ chẳng sở hữu được chính cái giường mình nằm cho đến chỗ có trong tay bao nhiêu giường. Thật là kỳ diệu khi mỗi sáng thức dậy thấy mình được làm chủ chính mình. Bố còn phải sửa sang vài chỗ, và thực ra là nhiều chỗ nữa, và sẽ bắt tay làm ngay khi thời tiết ấm lên. Bố sẽ phải thuê người phụ giúp và sau này sẽ thuê một đầu bếp tốt để mở một nhà hàng cùng với quầy đồ uống trong khách sạn. Chắc sẽ bán chạy như tôm tươi vì thị trấn này chưa có những thứ đó. Mong con khỏe, chăm chú học hành và rèn luyện những thói quen tốt.
Yêu con, Bố.
Sabitha hỏi, “Nhà cậu có cà phê không?”
“Có loại uống liền,” Edith nói. “Sao?”
Sabitha nói cà phê đá là thứ mọi người ở nhà chú dì đều uống cả và ai cũng mê. Cả nó cũng mê nữa. Nó bật dậy và lục lọi trong bếp, đun nước và quấy cà phê với sữa và đá viên. “Cái này mà có kem va ni nữa thì mới hợp,” nó nói. “Ôi lạy thánh, tuyệt làm sao. Cậu không muốn ăn bánh su kem à?”
“Có chứ. Để đấy tớ ăn hết,” Edith nói phũ phàng.
Sabitha thay đổi đến thế, trong có ba tuần - suốt thời gian đó Edith phải làm việc ở cửa hàng còn mẹ nó nghỉ ngơi ở nhà sau ca phẫu thuật. Da của Sabitha giờ đây lên màu bánh mật rất ngon mắt, tóc nó được tỉa ngắn hơn, bồng ra ôm lấy khuôn mặt. Lũ em họ Sabitha đã cắt và uốn tóc kiểu đó cho nó. Nó mặc một kiểu như áo liền quần, phần quần sóc trông như váy ngắn còn có khuy cài đằng trước và dải đăng ten trên vai tông màu xanh da trời tươi tắn. Nó đã có da có thịt hơn, và khi cúi xuống với ly cà phê sữa trên sàn, nó bày ra một cái khe mịn màng, bóng bẩy.
Bầu vú. Có khi từ trước lúc đi nghỉ, nó đã bắt đầu nẩy ngực nhưng Edith không để ý thấy. Hay là tự nhiên một hôm ngủ dậy vú nó đã to lên như thế. Chịu không biết được.
Dù bằng cách nào đi chăng nữa, đôi bầu vú có vẻ như là một lợi thế tự nhiên có, và rất không công bằng.
Sabitha nói hết chuyện này đến chuyện khác về lũ em họ và cuộc sống ở ngôi nhà nghỉ của chú dì nó. Nó kể, “Nghe này, tớ phải kể chuyện này cho cậu, buồn cười cực…” rồi liến thoắng về những lời dì Roxanne quát chú Clark khi họ cãi nhau, về chuyện đứa em họ Mary Jo không có bằng vẫn lái chiếc xe của Stan (Stan là ai vậy?) lại còn hạ mui xuống và đưa cả bọn vào chỗ mua đồ ăn phục vụ tại xe - nhưng ý nghĩa của câu chuyện hay cái chỗ buồn cười cực thì chẳng rõ là gì.
Nhưng sau một hồi thì chuyện cũng rõ ràng. Những cuộc phiêu lưu mùa hè đích thực. Bọn con gái lớn hơn - trong đó có Sabitha - ngủ ở tầng trên của nhà thuyền. Đôi khi chúng chơi cù ky - cả bọn xúm vào cù một đứa cho đến khi đứa ấy phải thét lên xin tha và chịu tụt quần ngủ cho mọi người xem có lòng chưa. Rồi chúng kể những câu chuyện về bọn con gái ở trường nội trú làm việc đó với cán lược gỗ, cán bàn chải. Hự hự. Đôi khi hai đứa trong số các em con dì nó diễn trò cho cả bọn xem - một đứa nằm lên trên đứa kia, giả vờ làm con trai, rồi chúng quắp chân lấy nhau, rên rỉ và thở hồng hộc rồi cứ thế.
Cô em ruột chú Clark và chồng đến nghỉ tuần trăng mật, và chúng đã bắt gặp chú ta cho tay vào trong quần bơi của vợ.
“Họ yêu nhau thắm thiết lắm, làm chuyện đó cả ngày lẫn đêm,” Sabitha nói. Nó ôm một cái gối vào ngực. “Con người ta không thể thiếu được chuyện đó khi yêu nhau đến thế.”
Một đứa em họ nói đã làm với con trai rồi. Đó là một cậu làm vườn và mùa hè, trong số những người được thuê để chăm sóc khu vườn của nhà nghỉ ở cuối đường. Cậu ta chèo thuyền đưa nó ra giữa hồ và dọa đẩy nó xuống nước cho đến khi nó đồng ý để cậu ta làm chuyện đó. Như thể con bé không hề có lỗi.
“Thế nó không biết bơi à?” Edith hỏi.
Sabitha kẹp cái gối vào giữa hai chân. “Á á á,” nó thốt lên. “Làm thế này sướng quá.”
Edith biết tỏng tất cả những trò lạc thú Sabitha đang tán tụng, nhưng nó hơi sửng sốt vì người ta lại có thể nói khơi khơi như thế. Bản thân nó thì thấy sợ hãi những cảm giác ấy. Nhiều năm trước đây, trước khi nó ý thức được mình đang làm gì, nó đã kẹp chăn vào giữa hai chân khi đi ngủ, rồi mẹ nó phát hiện ra và kể cho nó chuyện một đứa con hay làm như thế, cuối cùng phải đi mổ để chữa chứng ấy. “Người ta tạt nước lạnh vào người nó, nhưng không ăn thua gì,” mẹ nó kể. “Rồi cuối cùng phải đưa nó đi cắt.”
Nếu không thì bộ phận ấy có thể sẽ bị tắc dẫn đến tử vong.
“Thôi đi nào,” nó bảo Sabitha, nhưng Sabitha phản đối bằng tiếng rên kích động và nói, “Không sao đâu. Ở đấy ai cũng làm thế này. Cậu không lấy gối dùng à?”
Edith đứng dậy và đi vào bếp, đổ đầy nước lạnh vào ly cà phê đá vừa uống hết. Khi nó trở lại phòng khách, Sabitha đang nằm rũ ra trên đi văng, cười lớn, cái gối bị quăng xuống sàn.
“Cậu nghĩ tớ đang làm gì lúc nãy,” nó nói. “Cậu không biết là tớ đùa cậu à?”
“Tớ khát,” Edith nói.
“Nhưng cậu vừa uống hết nguyên một ly cà phê đá mà.”
“Tớ khát nước.”
“Nói chuyện với cậu chả thú gì cả.” Sabitha ngồi dậy. “Nếu cậu khát thế sao không uống nước đi?”
Chúng ngồi trầm ngâm không nói với nhau câu nào nữa, rồi đột nhiên Sabitha nói với giọng làm lành nhưng không giấu được vẻ thất vọng, “Chúng mình viết cho Johanna một lá thư nữa đi chứ? Viết cho mụ một lá thư thật tình tứ vào.”
Edith không còn mấy hứng thú về chuyện thư từ nữa, nhưng nó vui khi thấy Sabitha vẫn chưa hết hứng. Cảm giác mình là kẻ sành sỏi hơn Sabitha đã trở lại phần nào, sau cú sốc về những chuyện ở hồ Simcoe và cặp vú. Edith thở dài vẻ miễn cưỡng, đứng dậy và mở nắp máy chữ.
“Người tình thân yêu nhất Johanna…” Sabitha nói.
“Không. Nghe chối quá.”
“Nhưng mụ ấy không thấy thế đâu.”
“Mụ sẽ thấy chối đấy,” Edith nói.
Nó băn khoăn không biết có nên nói với Sabitha về nguy cơ bị tắc cơ quan ấy không. Rồi quyết định là không. Vì một lẽ, thông tin đó rơi vào tập hợp những lời cảnh báo từ phía mẹ nó, và không bao giờ phân loại được là có thể tin hay không. Điều đó không đáng ngờ đến độ như lời giảng về việc đi dép cao su trong nhà sẽ làm giảm thị lực, tuy nhiên cũng chẳng nói trước được một ngày nào đó có thể nó sẽ phát hiện ra cả hai điều trên đều ngớ ngẩn như nhau. Và vì một lẽ khác - chắc Sabitha sẽ chỉ cười phá lên thôi. Sabitha luôn cười phá lên khi nghe những lời cảnh báo - nó thậm chí sẽ cười khi bạn bảo với nó là ăn nhiều bánh su kem sô cô la sẽ làm nó béo.
“Thư trước của em làm anh thật sung sướng…”
“Thư trước của em khiến anh ngất ngây…” Sabitha nói.
“… làm anh thật sung sướng khi nghĩ rằng mình có một người bạn thực sự trên thế gian này, đó chính là em…”
“Suốt đêm anh không ngủ được vì luôn mong chờ được ôm siết em trong vòng tay…” Sabitha vòng tréo hai tay tự ôm lấy người nó và đung đưa.
“Không. Anh thường thấy rất cô đơn, không có người chia sẻ, dù có mặt cuộc sống hướng ngoại…”
“Chữ đó nghĩa là gì… ‘hướng ngoại’ ấy? Mụ sẽ không hiểu đâu.”
“Mụ ấy hiểu.”
Những từ đó làm Sabitha tắt tiếng và có lẽ cảm thấy phật ý. Nên cuối cùng Edith đọc to, “Anh phải nói lời tạm biệt thôi, và cách duy nhất anh có thể kết thúc bức thư là tưởng tượng rằng em sẽ đỏ mặt khi đọc những dòng này…”
“Thế là đúng ý cậu muốn thêm rồi chứ gì?”
“Đọc những dòng này trên giường, lúc đang mặc váy ngủ,” Sabitha nói, như nó vẫn thường vui lại rất nhanh, “và nghĩ về lúc anh ôm siết em trong vòng và mút ti em…”
Johanna thương yêu,
Lá thư trước của em khiến anh hạnh phúc khi nghĩ rằng mình có một người bạn thực sự trên thế gian này, đó chính là em. Anh thường thấy rất cô đơn và không có người chia sẻ dù có một cuộc sống hướng ngoại.
Ừ, anh đã kể với Sabitha trong thư cho nó về vận may của anh và anh khởi nghiệp kinh doanh khách sạn ra sao. Nhưng anh không kể cho nó mùa đông trước mình đã bị ốm như thế nào, vì anh không muốn làm nó lo lắng. Anh cũng không muốn làm em lo lắng, Johanna yêu dấu, chỉ muốn nói với em rằng anh rất hay nghĩ về em và mong được nhìn thấy khuôn mặt dịu dàng thân thương của em. Trong cơn sốt, anh có cảm giác mình nhìn rõ khuôn mặt em đang cúi xuống và nghe tiếng em nói rằng anh sẽ chóng khỏe thôi và cảm nhận đang được bàn tay vị tha của em chăm sóc. Lúc đó anh đang ở ký túc xá, và khi anh khỏi sốt thì rất nhiều người xung quanh chế nhạo và trêu anh, cái cô Johanna đó là ai vậy? Nhưng anh buồn cực độ khi tỉnh dậy mà không thấy em ở bên. Anh tự vấn có cách nào em bay xuyên không gian đến với anh được không, dù anh biết điều đó không thể xảy ra. Tin anh, tin anh đi, ngay cả ngôi sao điện ảnh xinh đẹp nhất cũng không được anh đón nhận như em. Anh không biết có nên kể với em những gì em đã nói vào tai anh không, vì đó và những lời ngọt ngào và tình cảm nhưng có thể làm em ngượng đấy. Anh không muốn dừng bút vì giờ đây anh cảm thấy như mình đang ôm chặt em và đang thì thầm vào tai em trong bóng tối nơi căn phòng riêng tư của chúng mình, nhưng anh phải nói lời tạm biết thôi, và cách duy nhất anh có thể kết thúc bức thư là tưởng tượng rằng em đang đọc những dòng này và đỏ mặt lên. Nếu em đọc trên giường khi đang mặc váy ngủ và nghĩ về vòng tay của anh đang ôm chặt em thì càng tuyệt.
Y-e, Ken Boudreau.
Một điều hơi lạ là Johanna không hồi âm lại bức thư này. Sau khi Sabitha viết xong lá thư của nó, dài đâu chừng nửa trang, Johanna liền bỏ vào phong bì rồi viết địa chỉ ra ngoài, và chỉ có thế.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến
Chương 5

Khi Johanna xuống tàu, chẳng có ai đón cô. Cô gắng không lấy thế làm lo lắng - trước đó cô đã từng nghĩ rằng lá thư của mình có thể còn đến sau chuyến tàu chở cô. (Thực ra nó đã đến nơi rồi, và đang nằm ở bưu điện chưa có người đến nhận, do Ken Boudreau, không hề ốm nặng vào mùa đông năm ngoái, mà giờ mới mắc bệnh viêm phế quản và đã mấy ngày nay không ra bưu điện kiểm tra thư từ. Đến hôm đó thì còn có một phong thư nữa cũng gửi cho gã, trong đó có tờ ngân phiếu của ông McCauley. Nhưng ông đã báo ngân hàng hủy lệnh thanh toán theo tờ ngân phiếu đó rồi.)
Điều làm cô lo ngại hơn là nơi này trông không có vẻ gì giống một thị trấn cả. Ga tàu là một gian phòng xép với mấy băng ghế xếp dọc tường, quầy bán vé thì có bức mành gỗ khô sụp xuống che khuất. Có một gian kho chứa hàng - cô đoán rằng đó là kho hàng - nhưng cửa đẩy không nhúc nhích. Cô ghé mắt nhìn qua khe cửa cho đến khi mắt quen với bóng tối, đủ để nhận ra bên trong rỗng không, sàn phủ một lớp bụi. Không có kiện hàng đồ nội thất nào hết. Cô gọi to, “Có ai ở đây không? Có ai không?” đến vài lần, dù không mong chờ có người đáp lời.
Cô đứng trên sân ga và cố tĩnh tâm lại.
Khoảng nửa dặm phía trước có một ngọn đồi thấp, dễ nhận ra nhờ vòm cây. Và cái lối mòn nâu nâu vàng vàng - mà khi nhìn từ trên tàu cô cứ tưởng là đường tắt vào một thửa ruộng - hẳn phải là đường chính. Rồi cô bắt đầu nhận ra những ngôi nhà thấp tè rải rác trong lùm cây - và một tháp nước, trông xa như một thứ đồ chơi - một anh lính chì với đôi chân lêu đêu.
Cô nhấc va li lên và cất bước - cũng chẳng nặng nhọc lắm. Xét cho cùng, cô đã mang chiếc va li đó suốt từ đường Triển Lãm ra ga cơ mà.
Có một làn gió thổi nhẹ qua, nhưng hôm nay là một ngày nóng nực - nóng hơn thời tiết ở Ontario nơi cô vừa rời đi, và làn gió cũng có vẻ phả thêm hơi nóng. Bên ngoài chiếc váy mới cô lại khoác thêm chiếc áo choàng cũ, vì nếu cho vào va li thì choán mất nhiều chỗ quá. Cô thèm thuồng nhìn bóng râm của thị trấn trước mặt, nhưng khi tới tận nơi, cô mới nhận ra đó chỉ là những cây vân sam - tán vừa hẹp vừa vươn thẳng nên chẳng có mấy bóng râm, hay cây dương lá mỏng lưa thưa, gió nhẹ cũng tạt đi và không cản nổi ánh nắng.
Cô thấy nản lòng vì có cảm giác nơi này thật thiếu quy củ, thiếu tổ chức. Không có vỉa hè, chẳng có đường rải nhựa, không có công trình nào tầm vóc ngoại trừ một nhà thờ lớn nhưng trông na ná một cái nhà kho xây bằng gạch. Có một bức bích họa trên vòm cửa, thể hiện gia đình Đức Chúa với những khuôn mặt màu đất và những đôi mắt xanh lấp lánh. Nhà thờ mang tên của một vị thánh cô chưa từng nghe - Thánh Voytech.
Các căn nhà ở đây có vẻ không được quy hoạch hay thiết kế chu đáo. Chúng nằm xiên xẹo không theo hàng lối với đường phố, và phần lớn có những ô cửa sổ nhỏ trổ ra tùy tiện trông có vẻ tồi tàn, với các mái hiên chắc tuyết như những cái hộp bên ngoài cửa ra vào. Không có ai ở ngoài sân hết, vả lại sao lại phải ở ngoài cơ chứ? Chẳng có cây cối rau quả gì cần chăm sóc, chỉ có những cụm cỏ nâu, thỉnh thoảng điểm một khóm lớn đại hoàng đã kết hạt.
Phố chính, cứ tạm gọi thế đi, chỉ có một bên vỉa hè lát gỗ, và mấy ngôi nhà rời rạc, trong đó chắc chỉ có một cửa hàng tạp hóa (có một gian làm bưu điện) và một ga ra sửa xe là còn hoạt động. Có một ngôi nhà hai tầng, khiến cô nghĩ đó chính là khách sạn đang tìm, nhưng hóa ra là ngân hàng và đã đóng cửa rồi.
Con người đầu tiên cô nhìn thấy - dù có hai con chó đã sủa với theo cô dọc đường đi - là một người đàn ông trước ga ra sửa xe, đang bận chất dây xích lên thùng sau xe tải.
“Khách sạn à?” ông ta nói. “Cô đi quá rồi.”
Ông ta bảo cô rằng nó ngay cạnh ga, nhưng chếch xuống một chút về phía bên kia của con đường, sơn màu xanh và không thể lẫn vào đâu được.
Cô bỏ va li xuống, không phải vì chán nản mà vì cần nghỉ tay một chút.
Ông ta nói sẽ chở cô tới đó nếu cô chờ được một lát. Và dù cô chưa từng nhận một lời đề nghị giúp đỡ kiểu đó bao giờ, ít phút sau cô đã ngồi trong buồng lái nóng nực và nhờn dầu mỡ của chiếc xe tải, chạy ngược lại con đường đất mà cô vừa vượt qua, giữa tiếng xủng xoảng của những dây xích sau thùng xe.
“Vậy… cô mang cơn gió nóng từ đâu tới đây vậy?” ông ta hỏi.
Cô đáp Ontario, với một giọng như ra dấu rằng sẽ không đáp thêm dù chỉ một lời nào nữa.
“Ontario à,” ông ta nói với vẻ hối tiếc. “Đây. Nó đây rồi. Khách sạn của cô ấy.”
Ông ta bỏ một tay ra khỏi vô lăng. Chiếc xe tải giật chồm một cái khi ông ta chỉ tay vào một ngôi nhà hai tầng mái bằng. Đúng là cô đã nhìn thấy nó từ trên tàu hỏa, trước khi vào ga. Nhưng lúc đó cô nghĩ đó là một căn nhà ở, tuy rộng nhưng cũ kỹ xập xệ và có lẽ đã bị bỏ hoang. Sau khi đã nhìn thấy các ngôi nhà khác nơi này, cô biết lẽ ra lúc đó không nên suy đoán như thế. Tường ngoài ngôi nhà được ghép bằng những tấm tôn có dập hình để lòng giống như gạch xây, và sơn màu lam nhạt. Phía trên cửa vào có một biển hiệu với chữ KHÁCH SẠN bằng đèn huỳnh quang, nhưng không còn sáng nữa.
“Tôi là một đứa tối dạ,” cô nói và đề nghị trả ông ta một đô vì đã chở cô tới đây.
Ông ta cười lớn. “Cứ giữ tiền cho chặt. Không biết khi nào cô sẽ cần tới chúng đâu.”
Ngoài cửa khách sạn có một chiếc xe trông khá tử tế hiệu Plymouth đang đỗ. Nhưng nó bụi bặm quá, mà cũng phải thôi, với tình trạng đường sá thế này thì tránh sao được?
Có vài tấm biển trên cửa quảng cáo một loại thuốc lá, và bia. Cô chờ cho chiếc xe tải đi khuất rồi mới gõ cửa - cô gõ vì khách sạn trông không có vẻ gì là đang mở cửa kinh doanh. Rồi cô thử đẩy cửa xem có mở không, và bước vào một căn phòng nhỏ đầy bụi có một cầu thang, tiếp đó là một phòng tối om có một bàn bi a, bốc mùi bia lưu cữu chua loét, còn sàn nhà thì chưa được quét dọn. Từ đó có một phòng ngách, nơi cô thấy ánh phản chiếu của một tấm gương, một bàn quầy và các kệ rỗng. Những căn phòng này đều có mành kéo kín. Nguồn ánh sáng duy nhất cô nhìn thấy là từ hai cửa sổ tròn nhỏ, đúng ra là hai ô kính gắn trên hai cánh cửa ra vào. Cô bước qua cánh cửa đó tới một gian bếp. Ở đó sáng hơn vì phía trên tường đối diện có một dãy cửa sổ nhỏ trên cao, ố bẩn, không có gì che phủ. Và đây mới có dấu hiệu đầu tiên của sự sống - ai đó đã ăn ở bàn và bỏ nguyên chiếc đĩa với những vệt xốt cà chua đã khô và một nửa tách cà phê đen đã nguội lạnh.
Một trong những cánh cửa từ nhà bếp dẫn ra phía ngoài - nhưng đã bị khóa - và một cánh cửa dẫn tới kho chứa đồ ăn, trong đó có một ít đồ hộp, một cánh cửa dẫn tới tủ đựng chổi và giẻ lau, và một cánh cửa khác dẫn đến một cầu thang quây kín. Cô bước lên cầu thang, nhấc chiếc vali trước mặt từng bậc một vì không có đủ chỗ xách bên cạnh. Thẳng đầu cầu thang, trên gác hai cô thấy một phòng vệ sinh với bệ ngồi bồn cầu đã lật lên.
Cánh cửa phòng ngủ cuối hành lang đang mở toang, và cô tìm thấy Ken Boudreau trong đó.
Cô nhìn thấy quần áo của gã trước khi thấy gã. Áo vét của gã treo ở một góc cửa, quần treo ở tay nắm, ống quét dưới sàn nhà. Cô lập tức nghĩ đó không phải là cách giữ gìn quần áo tốt, nên bước dứt khoát vào căn phòng - bỏ lại chiếc va li ở hành lang - với ý định treo quần áo lên cho nghiêm chỉnh.
Gã nằm trên giường, chỉ đắp một tấm ga. Chăn và đồ sơ mi của gã nằm dưới sàn. Gã thở gấp như sắp dậy đến nơi, nên cô cất tiếng, “Chào buổi sáng. À buổi chiều.”
Ánh nắng rực rỡ chiếu qua cửa sổ gần như rọi thẳng vào mặt gã. Cửa sổ bị đóng chặt và không khí trong phòng bí khủng khiếp - bốc mùi, ít nhất là từ cái gạt tàn đã đầy ụ đặt trên chiếc ghế gã dùng làm bàn cạnh giường.
Gã có một thói quen tệ hại - gã hút thuốc trên giường.
Nghe tiếng cô, gã không trở dậy - hoặc gã mơ màng nửa ngủ nửa thức. Rồi gã bắt đầu ho.
Cô nhận ra ngay đây là tiếng ho đáng ngại, tiếng ho của một người bệnh. Gã cố chống người dậy, mắt vẫn nhắm nghiền, và cô bước tới bên giường để đỡ gã. Cô đảo mắt tìm khăn mùi soa hay hộp khăn giấy, nhưng không tìm thấy nên cô với lấy chiếc áo sơ mi của gã trên sàn, nghĩ rằng có thể giặt lại được. Cô muốn nhìn kỹ xem gã ho ra cái gì.
Sau khi ho rũ rượi một tràng, gã làu bàu rồi vật xuống giường, hổn hển, khuôn mặt ngổ ngáo hấp dẫn mà cô giữ trong ký ức giờ đây nhăn nhúm lại trông phát ghê. Cô biết gã đang sốt cao từ lúc chạm tay vào người gã.
Cái đống gã ho ra có màu vàng vàng xanh xanh - nhưng không có vệt nâu đỏ nào. Cô mang chiếc áo vào bồn trong toa lét, ở đó cô không ngờ lại tìm thấy một bánh xà phòng, liền đem giặt áo ngay và treo lên móc cửa, sau đó kì cọ tay thật kỹ. Cô buộc phải chùi tay vào chiếc váy mới màu nâu cho khô. Mới vài tiếng trước đây cô vừa mặc chiếc váy này trong một phòng toa lét nhỏ xinh khác - phòng vệ sinh nữ trên tàu. Lúc đó cô còn băn khoăn không biết có nên trang điểm một chút không.
Trong một buồng kho hành lang cô thấy một cuộn giấy vệ sinh và lấy mang vào phòng để lần tới gã ho có cái lau. Cô nhặt chăn lên và đắp cẩn thận cho gã, kéo mành xuống sát bệ cửa sổ và cố nâng tấm kính đang kẹt rất chặt lên vài phân, rồi chặn cái gạt tàn vừa mới rửa sạch vào để giữ khe cửa mở. Rồi cô ra ngoài hành lang, thay chiếc váy nâu bằng bộ quần áo cũ lấy ra từ va li. Cái váy đẹp và đồ trang điểm ở cái thế giới thực tại lúc này mới phù phiếm làm sao.
Cô không biết gã ốm nặng đến mức nào, nhưng cô đã chăm sóc bà Willets - cũng là một người nghiện thuốc lá nặng - qua vài cơn viêm phế quản rồi, và cô nghĩ có thể tự xoay xở được trước khi nghĩ đến chuyện gọi bác sĩ. Cũng trong cái buồng kho ở hành lang ấy, cô tìm thấy một chồng khăn sạch nhưng đã sờn và bạc phếch, rồi đem nhúng nước một chiếc và lau khắp chân tay gã để hạ sốt. Trong khi cô làm thế thì gã lại tỉnh nửa vời và lên cơn ho. Cô dựng gã dậy và bảo gã khạc vào giấy vệ sinh, xem một lần nữa trước khi vứt vào bồn cầu rồi rửa tay kỹ. Giờ cô đã có khăn để lau tay. Cô đi xuống dưới nhà và tìm thấy một cái ly thủy tinh ở trong bếp, cùng một chai soda gừng lớn đã hết, cô đổ đầy nước vào chai. Cô mang chai nước lên bắt gã uống. Gã nhấp một chút rồi không chịu uống nữa, nên cô để gã nằm xuống. Khoảng năm phút sau cô lại bắt gã uống tiếp. Cô làm thêm nhiều lần cho đến khi cảm thấy gã đã uống đủ, nếu quá có thể bị nôn ra.
Lâu lâu gã lại ho và cô phải đỡ gã dậy, một tay giữ gã còn tay kia đấm lưng để giúp những thứ trong phổi long ra. Đôi lần gã mở mắt và nhận biết sự có mặt của cô mà không có biểu hiện của sự ngạc nhiên hoặc hoảng hốt - hay biết ơn vì những gì cô làm. Cô lại lau nước cho gã một lần nữa, cẩn thận kéo chăn che ngay những chỗ vừa lau qua cho gã khỏi lạnh.
Cô nhận thấy trời đã bắt đầu tối, bèn đi xuống bếp, tìm công tắc đèn. Các bóng đèn và bếp điện cũ kỹ vẫn hoạt động. Cô mở một lon cháo gà và hâm nóng rồi mang lên gác và đánh thức gã. Gã nuốt một chút từ cái thìa cô đưa. Cô tranh thủ thời điểm này, khi gã đang tỉnh táo để hỏi xem trong nhà có lọ thuốc aspirin nào không. Gã gật đầu bảo có, nhưng rồi lại lẫn lộn không chỉ được chính xác ở chỗ nào. “Trong sọt rác,” gã nói.
“Không, không,” cô nói. “Ý anh không phải là ở trong sọt rác chứ gì.”
“Ở… ở…”
Gã cố dùng tay ra dấu hình thù của cái gì đó. Mắt gã ứa lệ.
“Không sao,” Johanna nói. “Không sao đâu.”
Dù sao thì cơn sốt cũng hạ. Gã ngủ được một tiếng, có khi hơn, mà không bị ho lần nào. Rồi gã lại lên cơn sốt. Lúc đó thì cô đã tìm được lọ thuốc aspirin - nó ở trong ngăn kéo tủ bếp cùng với những thứ như một cái tuốc nơ vít, vài cái bóng đèn và một cuộn dây sợi - và cho gã uống vài viên. Một chốc sau gã lên cơn ho dữ dội, nhưng cô không nghĩ gã ho bật viên thuốc nào ra. Khi gã nằm xuống, cô áp tai vào ngực gã để nghe tiếng khò khè. Cô đã đi tìm lọ mù tạt để làm thuốc đắp, nhưng chắc trong nhà không còn. Cô lại xuống dưới nhà đun chút nước nóng, đựng vào trong một tô lớn. Cô cố bắt gã áp mặt vào, phủ khăn tắm bên ngoài để gã hít được hơi nước vào phổi. Gã chỉ nghe lời và để yên được một chốc, nhưng chắc như thế cũng có tác dụng - gã khạc ra một đống đờm.
Gã lại hạ sốt và ngủ ngon lành hơn. Cô kéo một chiếc ghế bành tìm thấy ở một phòng khác sang đó và ngủ trên gác, chập chờn, đôi lúc thức giấc lại thắc mắc không biết mình đang ở đâu, rồi chợt nhớ ra mọi chuyện, đứng dậy và đến bên giường sờ tay xem gã còn sốt không - có vẻ thân nhiệt gã đã ổn định - và dém lại chăn. Cô thì đắp chính chiếc áo choàng dạ vĩnh cửu, món quà của bà Willets.
Gã thức dậy. Trời đã sáng bạch. “Cô đang làm gì ở đây thế?” gã nói bằng giọng khè khè, yếu ớt.
“Em mới đến hôm qua,” cô đáp. “Em mang đồ nội thất đến cho anh. Tàu hàng chưa đến nơi, nhưng đang trên đường tới. Lúc em đến em thấy anh ốm, và anh trở bệnh gần như suốt đêm. Giờ anh thấy thế nào?”
Gã nói, “Khá hơn,” và bắt đầu ho. Cô không phải đỡ gã dậy nữa, gã đang tự ngồi rồi, nhưng cô vẫn tới bên giường và vỗ lưng cho gã. Khi hết cơn ho, gã nói, “Cảm ơn.”
Da gã giờ đã mát như da cô rồi. Và trơn mịn, không vết sần sùi hay bệu mỡ. Cô có thể chạm thấy xương sườn gã. Gã giờ đây giống như một cậu trai mảnh khảnh ốm yếu. Người gã ngửi như mùi ngô.
“Anh cứ nuốt đờm,” cô nói. “Đừng làm thế, không tốt đâu. Giấy vệ sinh đây, phải nhổ đờm ra. Cứ nuốt thế có thể bị suy thận đấy.”
“Tôi đâu biết như thế,” gã chống chế. “Cô có tìm được cà phê không?”
Máy pha cà phê đóng cặn đen sì bên trong. Cô cố rửa đi rửa lại kỹ hết sức trước khi cho cà phê vào. Rồi cô đi tắm rửa và chải chuốt qua, vừa băn khoăn không biết nên cho gã ăn gì. Trong kho chứa đồ ăn có một hộp bột bánh bích quy. Thoạt tiên cô nghĩ phải dùng nước để pha, nhưng sau tìm thêm được một hộp sữa bột. Khi cà phê pha xong cô đã có một khay bánh quy trong lò.
Khi vừa nghe tiếng cô nấu nướng trong bếp, gã tự dậy đi vào nhà vệ sinh. Gã yếu hơn gã tưởng - phải khom người và chống một tay vào két nước. Rồi gã tìm thấy ít đồ lót ở đáy buồng kho ngoài hành lang, nơi gã để quần áo sạch. Đến lúc đó gã đã nghĩ ra được người phụ nữ đó là ai rồi. Cô ta nói đến đây để mang đồ nội thất cho gã, dù gã không bảo cô, hay bất kỳ ai khác mang đồ nội thất gì cả, chỉ cần tiền thôi. Gã chắc mình biết tên cô, nhưng không nhớ ra. Vì thế gã mở ví cô, đang để trên sàn ngoài hành lang cạnh va li của cô. Có một biển tên được may vào lớp lót.
Johanna Parry, và địa chỉ của ông bố vợ gã, ở đường Triển Lãm. Có một vài thứ khác nữa. Một cái túi vải đựng vài đồng tiền giấy. Hai mươi bảy đô la. Một cái túi nữa đựng xu lẻ, gã không buồn đếm. Một cuốn sổ trương mục ngân hàng màu lam nhạt. Gã mở ra một cách vô thức, không mong đợi sẽ nhìn thấy điều gì bất thường.
Vài tuần trước, Johanna đã chuyển được tất cả số tiền thừa hưởng từ bà Willets, cộng với tất cả các khoản đã dành dụm được vào chung một tài khoản. Cô giải thích với người quản lý ngân hàng rằng không biết mình cần đến số tiền đó khi nào. Số dư không phải quá khủng, nhưng cũng đủ gây ấn tượng. Điều đó khiến cô có vị thể hẳn lên. Trong đầu Ken Boudreau, con số đó như bọc thêm một lớp nhung lên cái tên Johanna Parry.
“Lúc trước em mặc một cái váy nâu cơ mà?” gã nói, khi cô mang cà phê lên.
“Vâng, em có mặc. Lúc mới tới đây.”
“Anh nghĩ đó là một giấc mơ. Hóa ra là em thật.”
“Đúng như trong giấc mơ kia anh,” Johanna nói, cái trán đầy tàn nhang của cô đỏ rực lên. Gã không biết điều đó nghĩa là gì, và không đủ sức để hỏi lại. Có lẽ là một giấc mơ gã đã lảm nhảm ra miệng và bị cô chứng kiến đêm qua - mà giờ đây chính gã cũng chẳng nhớ nổi. Gã lại ho, nhưng nhẹ hơn và cô đưa cho gã dải giấy vệ sinh.
“Rồi,” cô nói, “giờ anh muốn để cà phê của anh ở đâu?” Cô đẩy chiếc ghế gỗ vào chỗ cũ, trước đó cô đã bê dịch nó ra ngoài để đến bên giường gã nhanh hơn. “Đây nhé,” cô nói. Cô xốc nách gã dậy và lót gối vào lưng gã. Chiếc gối bẩn thỉu, không có vỏ gối, nhưng đêm qua cô đã dùng khăn tắm phủ lên.
“Em tìm giúp xem dưới nhà còn điếu thuốc nào không?”
Cô lắc đầu, nhưng vẫn nói, “Em sẽ tìm. Em đang nướng bánh trong lò.”
Ken Boudreau bị nhiễm thói hay cho người khác vay tiền, cũng như hay phải đi vay. Hầu hết các việc phiền phức rơi vào đầu gã hay nói cách khác là gã tự chui đầu vào, là do gã không biết từ chối bạn bè. Lòng trung thành. Không phải gã bị loại khỏi binh chủng Không quân trong thời bình, mà tự xin xuất ngũ để tỏ lòng trung thành với người bạn bị kỷ luật vì chửi rủa viên sĩ quan chỉ huy trong buổi liên hoan đơn vị. Trong những bữa tiệc liên hoan như thế, ai cũng biết mọi việc chỉ là bông đùa và không ai để bụng cả, thì việc bạn gã bị kỷ luật là bất công. Và gã bị mất việc ở công ty phân bón vì đã lấy xe tải của công ty vượt biên giới sang Mỹ mà chưa xin phép, lại vào ngày Chủ nhật, để đón một chiến hữu vừa dính vào một vụ ẩu đả và đang lo bị bắt và truy tố.
Càng hào hiệp với bạn bè bao nhiêu thì lại càng khó làm vừa lòng cấp trên bấy nhiêu. Gã sẵn sàng thổ lộ là rất khó quỵ lụy người khác. Các từ thưa bẩm sao mà khó bật ra từ miệng gã thế. Gã cũng không bị đuổi khỏi công ty bảo hiểm, nhưng bị bỏ qua nhiều đợt xét lên lương, lên chức cứ như là người ta muốn thách xem gã có dám bỏ việc không, và cuối cùng gã bỏ thật.
Cũng phải nói là tật uống rượu có góp phần không nhỏ. Phần nữa là tư tưởng cho rằng sống ở đời phải có tính trượng phu, mà thời buổi này dường như người ta quá thiếu. Gã thích kể với mọi người rằng gã đã thắng được cả cái khách sạn trong một canh xì tố. Gã không hẳn là một tay sành cờ bạc, nhưng hình như phụ nữ thích nghe những câu chuyện kiểu như vậy. Gã không muốn thú nhận là gã đã nhận bừa bất động sản đó, chỉ nhìn lên giấy tờ, khi người ta gán nợ. Ngay cả khi đã nhìn tận mắt rồi, gã vẫn tự an ủi và có thể cải tạo được, ý tưởng được tự làm chủ đã hấp dẫn gã. Gã không coi đó là nơi mọi người đến thuê phòng để ngủ lại, may ra chỉ có đám thợ săn đến đây vào mùa thu. Gã dự tính sẽ mở quán bán đồ uống và một nhà hàng. Nếu kiếm được một đầu bếp tốt. Nhưng trước khi khởi động được những việc đó, cần phải rót tiền vào. Có quá nhiều việc phải làm - và dù chẳng phải kẻ vụng về, chắc một mình gã cũng không kham nổi. Gã nghĩ nếu trụ được qua mùa đông và túc tắc tự làm được kha khá việc để chứng tỏ quyết tâm tu chí, có lẽ gã sẽ thuyết phục được ngân hàng cho vay khoản tiền đầu tư. Nhưng gã cần một khoản vay nhỏ hơn để tồn tại qua mùa đông, và thế là gã nghĩ đến ông bố vợ. Gã biết là vay của người khác sẽ tốt hơn, nhưng chẳng ai khác có sẵn tiền để bơm cho gã dễ dàng thế.
Gã nghĩ có khi hỏi vay tiền dưới hình thức đề nghị mang bán đống đồ nội thất lại là một ý tốt, vì gã biết ông già chẳng bao giờ lại chịu động chân động tay làm việc đó cả. Gã biết, tuy không cụ thể, vẫn còn các khoản vay cũ chưa trả được - nhưng gã cũng tự trấn an được rằng mình đáng được hưởng những khoản đó vì đã từng cưu mang Marcelle trong quãng thời gian hành xử vô lối (tất nhiên là nói về cách sống của cô ta, chứ gã lúc đó chưa hành xử như vậy) và vì đã nhận Sabitha là con mình, mặc dù gã có nghi ngờ. Ngoài ra, nhà McCauley là những người duy nhất gã quen biết có tiền không phải do những người đang còn sống làm ra.
Em mang đồ nội thất đến cho anh.
Gã không luận ra được điều đó sẽ mang lại hậu quả tốt xấu ra sao cho gã tại thời điểm này. Gã đã quá mệt rồi. Khi cô mang bánh bích quy đến (và không có điếu thuốc nào) gã thấy thèm ngủ hơn ăn. Để làm cô vui lòng, gã cố ăn một nửa cái. Rồi gã ngủ như chết. Gã chỉ lơ mơ tỉnh khi cô lật nửa người gã qua một bên rồi lật lại qua bên kia để rút tấm ga giường bẩn ra, rồi nhét tấm mới vào mà vẫn không phải đánh thức gã dậy hoặc bắt gã rời khỏi giường.
“Em tìm thấy một tấm ga sạch nhưng nó mỏng tang,” cô nói. “Lại có mùi lưu cữu khó chịu nữa, nên phải phơi trên dây một lúc.”
Sau đó gã nhận ra âm thanh kéo dài triền miên trong giấc mơ của mình hóa ra là tiếng máy giặt. Gã thắc mắc sao lại có thể thế được, vì bình nước nóng hỏng từ lâu rồi. Chắc cô ta đun từng nồi nước trên bếp điện. Lát sau, gã nghe tiếng xe ô tô quen thuộc của mình nổ máy và chạy đi. Chắc cô ta đã tìm thấy chùm chìa khóa trong túi quần gã.
Cô ta có thể đã lấy đi tài sản duy nhất có giá trị và bỏ gã lại, trong khi gã chẳng thể nào gọi điện cho cảnh sát để truy tìm cô ta. Dù gã có lần ra được tới chỗ để máy thì đường dây điện thoại cũng đã bị cắt từ đời nào rồi. Tình huống ấy lúc này cũng có thể xảy ra - lấy trộm đồ rồi bỏ đi - nhưng khi gã trở mình trên tấm ga mới, có mùi gió đồng nội và mùi cỏ, gã chìm lại vào giấc ngủ, biết chắc rằng cô chỉ đi mua sữa, trứng, bơ, bánh mì và các đồ ăn thức dùng khác - có khi cả thuốc lá nữa - cần thiết cho một cuộc sống tử tế, và rồi cô sẽ về đây và bận rộn việc nọ việc kia dưới nhà, dệt nên các tiếng động như một tấm lưới an toàn nâng đỡ gã, một món quà trời ban không cần thắc mắc.
Hiện giờ gã cũng đang gặp phiền phức với phụ nữ. Đúng ra là hai người phụ nữ, một cô trẻ và một mụ già hơn (có nghĩa là tầm tuổi gã) chợt biết về chuyện của người kia với gã, và sẵn sàng xé xác nhau khi có dịp. Gần đây, mỗi khi gặp họ, gã chỉ được nhận những lời nhiếc móc và kêu ca, điểm thêm những câu nhắc nhở cắm cảu rằng mình yêu gã hơn người kia. Có lẽ giải pháp cho vụ phiền phức đó cũng đã đến.
Lúc đang mua đồ trong tiệm tạp hóa, Johanna nghe thấy tiếng tàu hỏa và trên đường lái xe về khách sạn, cô thấy một chiếc xe đỗ ở ga tàu. Chưa kịp dừng hẳn chiếc xe của Ken Boudreau, cô đã nhìn thấy các kiện đồ nội thất xếp trên sân ga. Cô nói chuyện với nhân viên đường sắt - đó chính và chiếc xe của anh ta - và anh ta tỏ ra vừa ngạc nhiên vừa khó chịu vì những kiện hàng lớn như vậy lại được chuyển đến ga này. Khi cô moi được thông tin về người có xe tải từ anh ta - mà cô đòi hỏi phải là xe tải sạch sẽ, cô dùng điện thoại của nhà ga để gọi người này, nhà cách đó hai mươi dặm và thỉnh thoảng làm thêm dịch vụ chở hàng, nửa ra lệnh nửa dụ dỗ anh ta phải đến ngay. Rồi cô buộc người nhân viên đường sắt phải ở lại trông kiện hàng cho đến khi xe tải đến.
Quãng sau bữa tối xe tải mới tới, rồi chủ xe cùng với con trai dỡ đồ xuống và mang vào phòng chính trong khách sạn.
Ngày hôm sau cô xem xét kỹ xung quanh. Cô đang nung nấu một ý định.
Rồi hôm sau nữa, khi xét thấy Ken Boudreau đã có thể ngồi dậy và lắng nghe, cô nói, “Bỏ tiền vào chỗ này như bỏ xuống giếng thôi. Thị trấn này sắp hết đát rồi. Giờ việc cần làm là dỡ tất cả những gì có thể bán lấy tiền mặt được, đem bán ngay. Em không nói tới đống đồ nội thất mới mang tới, chỉ nói những thứ như bàn bi a, bếp điện. Sau đó chúng ta phải bán ngôi nhà cho ai có thể bóc những tấm tôn bọc tường ra bán sắt vụn. Có nhiều thứ anh tưởng không có giá trị gì nhưng có thể bán ra tiền, dù ít dù nhiều. Rồi… Trước khi ôm cái khách sạn này, anh tính sẽ làm gì?”
Gã nói rằng gã từng có ý định đi tới vùng British Columbia, tới thành phố Salmon Arm nơi gã có một người bạn có lần nói sẽ tìm được cho gã việc quản lý vườn cây ăn trái. Nhưng khi đó gã không đi được, vì xe ô tô của gã cần thay lốp mới và chỉnh sửa trước khi có thể chạy đường dài, mà tiền gã có chỉ đủ sống qua ngày. Rồi cái khách sạn đột nhiên rơi vào tay gã.
“Vâng, như quả tạ ngàn cân ấy,” cô nói. “Đầu tư tiền mua lốp và sửa xe còn tốt hơn là chi thêm một đồng một cắc nào vào cái nơi như giếng không đáy này. Nên sang tới bên đó trước khi tuyết bắt đầu rơi thì tốt hơn. Và chúng ta lại chuyển đống đồ nội thất này bằng tàu hỏa, để dùng khi đến đó. Đống đồ đó đủ để trang bị cho một ngôi nhà.”
“Có lẽ lời hứa giúp tìm việc đó cũng không chắc chắn lắm đâu.” Cô nói, “Em biết. Nhưng rồi mọi việc sẽ ổn thôi.”
Gã hiểu rằng cô biết thật, và mọi chuyện đã ổn, sẽ ổn. Có thể nói rằng xử lý những trường hợp như của gã là sở trường của cô.
Không hẳn là gã sẽ vô ơn. Gã đã hiểu ra rằng cảm giác biết ơn không phải là gánh nặng, khi nó đến tự nhiên, nhất là khi không đòi hỏi. Trong gã bắt đầu dấy lên ý nghĩa sự hồi sinh. Đây chính là sự thay đổi ta đang cần. Trước đây gã đã từng nói câu đó, nhưng lần này mới thực sự đúng. Mùa đông không quá khắc nghiệt, mùi những cánh rừng thông và táo chín. Chúng ta chỉ cần có thế để xây dựng một gia đình.
Gã có lòng tự trọng, cô nghĩ. Đó là điều đáng ghi nhận. Có lẽ tốt hơn hết là không bao giờ nhắc lại những lá thư trong đó gã đã trải lòng với cô. Trước khi rời nhà, cô đã hủy hết thư từ. Đúng ra, cô đã hủy ngay từng bức thư sau khi đọc đủ kỹ để nhớ thuộc lòng được, và đối với cô chuyện đó không mất nhiều thời gian. Một trong những lý do làm thế là cô không bao giờ muốn những lá thư đó rơi vào tay bé Sabitha và con bạn gian giảo của nó. Nhất là đoạn trong bức thư sau cùng, về chiếc váy ngủ và trên giường. Không phải là những chuyện đó không thể xảy ra, nhưng người ta sẽ nghĩ viết ra trên giấy trắng mực đen thì dung tục, hoặc sến sẩm, hay dễ làm mồi cho những lời châm chọc đàm tiếu. Cô không nghĩ họ sẽ gặp bé Sabitha thường xuyên. Nhưng cô sẽ không bao giờ ngăn cản, nếu gã muốn gặp con bé nhiều.
Cảm giác choáng ngợp về trách nhiệm và tình cảm này không hẳn là một trải nghiệm hoàn toàn mới mẻ với Johanna. Cô đã trải qua cảm giác tương tự với bà Willets - một con người cũng dễ nhìn, đồng bóng, luôn cần được chăm sóc và quản lý. Hóa ra Ken Boudreau lại nặng về những điểm như thế hơn cô hình dung lúc ban đầu, cộng thêm những điểm khác biệt cần phải lường trước được vì gã là đàn ông, nhưng không có điểm nào ở con người gã mà cô không thể xử lý được.
Sau bà Willets, trái tim cô đã khô cằn, và cô tưởng rằng mình sẽ như thế suốt đời. Giờ đây, thật là một sự xáo trộn ấm áp, một tình yêu bận bịu.​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

Chương 6​

Sau khi Johanna bỏ đi khoảng hai năm thì ông McCauley mất. Đám tang của ông là đám cuối cùng được cử hành tại nhà thờ dòng Anh giáo. Rất đông người đến dự. Sabitha - đi cùng với dì họ, người Toronto - giờ đây thật chững chạc và xinh đẹp, và mảnh mai đến không ngờ. Cô bé đội một cái mũ đen diêm dúa và không bắt chuyện với ai trừ phi họ hỏi chuyện cô trước. Ngay cả khi đã nói chuyện, cô bé cũng có vẻ không nhớ rõ ai với ai.
Bản cáo phó đăng trên báo nói rằng tang quyến của ông McCauley gồm có cháu ngoại Sabitha Boudreau, con rể Ken Boudreau, cô Johanna vợ ông Boudreau và con trai mới sinh của vợ chồng họ, bé Omar, đến từ thành phố Salmon Arm, tỉnh B.C.
Mẹ của Edith đọc to những dòng này - bản thân Edith không bao giờ xem báo địa phương. Tất nhiên, việc hai người đó lấy nhau không phải là tin mới với cả hai mẹ con họ - hay với bố của Edith, lúc này đang xem ti vi trong phòng khách. Tin này đã được đồn về trước đó. Chỉ có tin về Omar là mới mẻ.
“Cô ta với một đứa con”, mẹ Edith nói.
Edith đang dịch những dòng chữ La tinh trên bàn bếp. Tu ne quesieris, scire nefas, quem mihi, quem tibi…[5]
Lúc ở nhà thờ, nó đã thận trọng không bắt chuyện trước với Sabitha, trước khi Sabitha kịp lờ nó đi.
Giờ đây nó không hẳn sợ bị phanh phui - dù vẫn không hiểu được tại sao hai đứa vẫn chưa bị phát giác. Xét ở góc độ nào đó, những trò tinh quái con người quá khứ của nó không nên liên hệ gì với con người hiện tại thì có vẻ tốt hơn - chưa nói tới con người thật mà nó mong sẽ bộc lộ ra, một khi nó rời khỏi thị trấn này và cách biệt hẳn những người luôn cho rằng họ biết nó. Nó thấy bối rối trước kết cục trái khoáy không thể ngờ được ấy - có vẻ hoang đường, nhưng lờ mờ khó hiểu. Nó còn thấy như bị trêu ngươi, giống như bị ám ảnh bởi một lời nhạo báng hay cảnh báo vô duyên. Vì trong danh sách những việc nó muốn đạt được trong cuộc đời, làm sao lại có chỗ nói rằng nó sẽ góp phần tạo ra một sinh linh tên là Omar trên cõi đời này.
Phớt lờ bà mẹ, nó đặt bút viết, “Đừng hỏi, chúng ta không được phép biết…”
Nó dừng lại, cắn bút nghĩ ngợi và viết nốt câu dịch với một cảm giác hài lòng, “… số phận sẽ mang gì tới cho mình, hay cho người…”​
 

malemkhoang

Rìu Chiến

Chương 7

Cầu Phao
Cô đã từng rời bỏ gã một lần. Lý do ban đầu khá vặt vãnh. Gã đã về hùa với mấy đứa nhóc trong bọn Tội phạm Vị thành niên (mà gã gọi là bọn Ma cà bông) thuổng hết nguyên chiếc bánh ga tô vị gừng cô vừa làm định để dành mời mọi người sau buổi họp tối hôm đó. Cô đã lẻn ra khỏi nhà, không bị ai phát hiện - ít nhất là không bị Neal và lũ Ma cà bông nhận ra, và tới ngồi trong một trạm chờ xe buýt có ba mặt che kín, nằm ngay trên phố chính, tuy mỗi ngày chỉ có hai chuyến xe nội đô dừng lại đây. Cô chưa bao giờ tới chỗ này, và đợi ở đây hẳn mấy tiếng đồng hồ. Cô ngồi xuống và đọc tất cả những thứ mọi người đã viết hoặc khắc vào vách gỗ nhà thờ. Vài cái tên viết tắt yêu nhau mãi mãi. “Laurie G. bú -censor-”, “Dunk Cultis là đồ bóng. Thầy Garner (dạy toán) cũng thế”, “H.W Gange Ăn Cứt vô địch”, “Trượt pa tanh hay là Chết”, “Chúa Trời ghét ô uế”, “Kevin S. Là Thằng Thịt Ôi”, “Amanda W. xinh đẹp ngọt ngào và ước gì nàng không bị đi tù vì ta nhớ nàng bằng cả trái tim”, “Tao muốn V.P. Các bà phải ngồi đây mà đọc những thứ bẩn thỉu ghê tởm do chính các mụ viết.”
Vừa đọc những chùm thông điệp của con người kiểu này - choáng nhất là với câu tâm sự chân tình được viết rất nắn nót về cô gái tên Amanda W. Jinny vừa băn khoăn không hiểu khi viết những thứ đó người ta có ngồi một mình không. Và cô tiếp tục tưởng tượng đến đoạn mình sẽ ngồi đây hay một chỗ tương tự, trong khi chờ xe buýt một mình, mà nếu cứ theo đúng kế hoạch cô đang vạch ra, thì chắc chắn tình huống đó sẽ xảy ra. Liệu cô có bốc đồng đến mức để lại những tuyên bố này nọ bên những bức vách công cộng không nhỉ?
Lúc đó cô thấy có sự kết nối giữa bản thân với cảm xúc của những người bị đang bị thôi thúc phải viết ra một thứ gì đó - cô thấy kết nối qua cảm xúc bực tức, phần nào giận dữ (chắc chỉ phần nào thôi nhỉ và hào hứng vì những gì cô sắp làm với Neal, để trả thù gã. Nhưng cuộc đời cô sắp dấn thân vào có lẽ sẽ không cho cô một người nào để cô bực tức, hay nợ nần gì cô, hay được hưởng lợi hoặc bị trừng phạt, thậm chí chịu tác động thực sự từ những việc cô làm. Mọi cảm xúc của cô sẽ trở nên vô nghĩa với bất kỳ người nào khác ngoài chính bản thân cô, dù những xúc cảm vẫn sẽ tích tụ bên trong cô, bóp nghẹt trái tim và hơi thở của cô.
Rốt cuộc, cô chẳng phải là loại người thiên hạ đổ xô đến chiêm ngưỡng. Nhưng cô vẫn là người kén cá chọn canh theo kiểu riêng của mình.
Cho tới tận khi cô đứng dậy và đi bộ về nhà, vẫn chẳng có chuyến xe buýt nào lai vãng tới.
Neal không có nhà. Gã đang đưa bọn nhóc trở lại trường, và khi gã về tới nhà, đã có lác đác vài người đi họp tới sớm. Cô kể cho gã những việc mình đã làm, sau khi bình tâm trở lại và có thể coi đó như một chuyện đùa. Thực ra, đã khá nhiều lần cô mang câu chuyện đó ra làm trò đùa trong đám bạn - chỉ chừa ra, hoặc kể lướt về nội dung những dòng bậy bạ cô đã đọc được trên vách.
“Thế anh có nghĩ đến chuyện đi tìm em không?” cô hỏi Neal.
“Tất nhiên. Chưa phải lúc thôi.”
* * *
Bác sĩ chuyên khoa ung thư có cung cách của một cha cố, lại còn mặc một cái áo cổ lọ màu đen bên dưới áo choàng trắng - một dấu hiệu gợi ý rằng ông mới trải qua một buổi lễ ban thuốc định toa. Da ông trẻ trung mịn màng - trông giống như viên kẹo caramel. Trên chỏm đầu ông chỉ có một nhúm tóc đen mỏng manh, khá giống phần tóc còn sót lại của Jinny. Chỉ có điều tóc cô màu nâu xám, như lông chuột vậy. Thoạt tiên Jinny còn tự vấn không biết có phải ông vừa là bệnh nhân vừa là bác sĩ chăng. Rồi, lại băn khoăn hay là ông chọn kiểu tóc này để bệnh nhân thấy thoải mái hơn. Chắc đó là tóc cấy. Hay cũng có thể là thứ mốt ông tự chọn cho mình.
Ta chẳng dám hỏi ông. Ông đến từ Syria hay Jordan hoặc một nước nào đó, nơi các bác sĩ luôn giữ vẻ nghiêm trang. Cung cách lịch sự của ông toát ra vẻ lạnh lùng.
“Thế này,” ông nói. “Tôi không muốn gây ảo tưởng.”
Cô rời khỏi tòa nhà có điều hòa, bước ra ngoài trời nắng chói chang giữa buổi chiều muộn một ngày tháng Tám ở Ontario. Mặt trời lúc chiếu rát mặt, lúc lại ẩn sau những đám mây mỏng - nhưng lúc nào thì cũng nóng như nhau. Những chiếc xe đang đỗ, vỉa hè, tường gạch của những ngôi nhà xung quanh dường như đang chủ động tấn công cô, như những sự kiện riêng rẽ xuất hiện theo một trật tự kỳ quặc. Dạo này cô không thích nghi tốt với những thay đổi về ngoại cảnh, cô muốn mọi thứ phải quen thuộc và ổn định. Thay đổi về thông tin cũng vậy.
Cô nhìn thấy chiếc xe đón mình rời chỗ đậu ở lề đường, chạy xuôi phố về phía cô. Đó là một chiếc xe van sơn màu lam nhạt có nhũ trông muốn buồn nôn. Màu xanh nhạt đi ở những chỗ gỉ cũ bị sơn đè lên. Xe dán đầy đề can: TÔI BIẾT MÌNH ĐANG LÁI MỘT ĐỐNG SẮT VỤN, NHƯNG HÃY ĐẾN XEM NHÀ TÔI, rồi HÃY VINH DANH MẸ - TRÁI ĐẤT, và (đề can này mới được thêm vào) DÙNG THUỐC TRỪ SÂU DIỆT TRỪ CỎ DẠI, GIA TĂNG UNG THƯ.
Neal xuống xe, đi vòng ra để giúp cô.
“Cháu nó đang ở trong xe rồi,” gã nói. Trong giọng gã có nét hăm hở, không rõ ngầm ý cảnh báo hay cầu khẩn. Quanh gã toát ra một vẻ sôi nổi, căng thẳng khiến Jinny nghĩ giờ không phải lúc thông báo cho gã biết tin của cô, nếu có thể gọi đó và “tin”. Khi có mặt người khác, dù chỉ một người, ngoài Jinny, cách xử sự của gã khác hẳn, gã trở nên hoạt bát hơn, hào hứng hơn, vồn vã hơn. Jinny không còn thấy phiền lòng vì điều đó nữa - họ đã chung sống với nhau hai mươi mốt năm rồi. Và chính cô cũng thay đổi - cô từng nghĩ đó và phản ứng tự nhiên - cô đã trở nên giữ kẽ hơn, có phần cay nghiệt. Một vỏ bọc ngụy trang là điều cần thiết, hoặc chỉ là thói quen quá đà khó bỏ. Cũng như vẻ ngoài cổ lỗ sĩ của Neal - dải khăn sặc sỡ trên đầu, mái tóc rễ tre màu muối tiêu buộc túm đuôi ngựa, chiếc khuyên tai vàng lấp lánh phụ họa với những viền răng vàng khắp hai hàng, và kiểu quần lùng thùng bặm trợn.
Trong khi cô đang gặp bác sĩ, gã đã đi đón cái cô bé sẽ về đỡ đần cuộc sống của họ từ nay trở đi. Gã quen cô bé ở Trung tâm Giáo dưỡng Tội phạm Vị thành niên, nơi gã dạy học và cô bé làm việc cho bếp ăn. Trung tâm Giáo dưỡng nằm ngay ngoại ô thị trấn nơi họ sinh sống, cách thị trấn có bệnh viện này khoảng hai chục dặm. Cách đây mấy tháng cô bé đã bỏ việc ở nhà bếp để nhận một việc mới, làm giúp việc cho một gia đình chủ trang trại có người mẹ già ốm đau. Ở đâu đó không xa thị trấn lớn này. May mắn là đúng lúc này cô bé đang nhàn rỗi.
“Rồi bà lão làm sao?” Jinny từng hỏi. “Chết rồi à?”
Neal trả lời, “Bà ta phải nhập viện.”
“Thế thì cũng chả khác gì.”
Họ đã bất đắc dĩ phải thực hiện nhiều sự điều chỉnh mang tính thực dụng trong một thời gian ngắn. Dọn khỏi phòng khách toàn bộ hồ sơ, báo và tạp chí có những bài báo, thông tin cần thiết chưa được lưu vào đĩa - những thứ đó trước đây chất tràn ngập các giá kệ cao tới tận trần nhà. Cả hai chiếc máy vi tính, cái máy chữ cổ lỗ, và máy in nữa. Tất cả những thứ đó phải tìm chỗ mới - chỉ tạm thời, dù không ai nói điều đó ra - ở nhà một người khác. Phòng khách sẽ trở thành phòng bệnh.
Jinny đã nói với Neal rằng gã có thể giữ lại, ít nhất là một chiếc máy vi tính để lắp trong phòng ngủ. Nhưng gã đã gạt đi. Dù gã không nói ra, nhưng cô hiểu, gã tin mình không có thời gian dành cho máy tính.
Suốt những năm cô chung sống với gã, Neal dành hầu hết thời gian rảnh rỗi tổ chức và thực hiện các chiến dịch vận động. Không phải toàn các chiến dịch vận động chính trị (dù cũng có) mà về các chiến dịch bảo tồn các ngôi nhà cổ, cây cầu cổ và nghĩa địa cổ, hay ngăn không cho đốn cây cả trên các phố của thị trấn lẫn trong những cụm rừng già còn sót lại, hay bảo vệ các con sông khỏi nguồn nước thải ô nhiễm, các mảnh đất ngon lành khỏi các nhà đầu tư phát triển và dân cư địa phương khỏi các sòng bạc. Gã liên tục viết đơn và thư kiến nghị, vận động các phòng ban chính quyền, phân phát băng rôn khẩu hiệu và tổ chức các cuộc biểu tình. Phòng khách của ngôi nhà là nơi chứng kiến các cơn phẫn nộ (Jinny nghĩ là như thế thì mọi người hả dạ được rất nhiều) và các cuộc bàn luận cũng như đề xuất kiểu ông chằng bà chuộc, và cá tính bốc đồng đáng sợ của Neal. Giờ đây, căn phòng bỗng đột nhiên trống vắng, khiến cô nhớ lại lần đầu tiên bước chân vào ngôi nhà này, ngay sau khi chuyển khỏi tầng lửng với những bức rèm rủ nhà bố mẹ cô, và nghĩ về những giá kệ chất đầy sách, những bức mành gỗ ngoài cửa sổ và những tấm thảm Trung Đông đẹp đẽ mà cô không bao giờ nhớ nổi tên, trải trên sàn gỗ đánh véc ni. Bản in một tác phẩm của danh họa Canaletto cô mua để treo trong phòng ở hồi còn là sinh viên án ngữ một bức tường trống. Bức Ngày hội Ngài Thị trưởng trên sông Thames. Chính tay cô đã treo nó lên, nhưng sau đó không còn để ý đến nó nữa.
Hai người đã thuê một chiếc giường chuyên dụng từ bệnh viện - dù họ chưa cần đến nó, nhưng kiếm một chiếc ngay lúc đang sẵn có thì vẫn tốt hơn, vì giường loại này thường cung không đủ cầu. Neal đã tính đến mọi chuyện. Gã đã treo mấy tấm rèm nặng, được thải ra từ phòng khách nhà một người bạn. Mấy tấm rèm đó có họa tiết hình nhạc ngựa và vại uống bia, theo Jinny là rất xấu xí. Nhưng giờ cô biết, rồi sẽ đến lúc xấu hay đẹp cũng chỉ có một mục đích sử dụng tương tự nhau mà thôi, rồi sẽ đến lúc bất kỳ thứ gì mắt ta nhìn vào cũng chỉ là chỗ tạm treo những mảnh rối bời của tâm trí và cơ thể trong chốc lát.
Cô vừa bước sang tuổi bốn mươi hai, và luôn trông trẻ hơn tuổi rất nhiều, cho tới mãi gần đây. Neal già hơn cô mười sáu tuổi, nên cô từng nghĩ nếu mọi việc cứ theo dòng tự nhiên thì cô mới là người phải ở trong vị trí của gã hôm nay, và đôi lúc băn khoăn không biết mình sẽ xoay xở ra sao. Một lần khi cô nắm tay gã trên giường, trước khi họ chìm vào giấc ngủ, bàn tay gã ấm và hiện hữu, cô đã nghĩ mình sẽ nắm hay vuốt bàn tay này ít nhất là một lần khi gã lìa đời. Và cô không thể tin được điều đó. Rằng gã sẽ chết và không còn sinh khí. Dù có chuẩn bị trước tinh thần bao lâu chăng nữa, cô cũng không thể nào chấp nhận được sự thật này. Cô không thể tin được rằng, trong thâm tâm, gã chẳng có suy tư gì về thời điểm đó. Cứ nghĩ đến chuyện gã không suy nghĩ gì đến việc đó là cô như bị đưa đến trước một vực thẳm cảm xúc, một cảm giác rơi tự do đầy kinh hoàng.
Ấy thế nhưng… cũng đầy hứng khởi. Sự hào hứng không thể nói ra lời, khi cảm nhận được một thảm họa đang ập đến, hứa hẹn sẽ giải thoát ta khỏi tất cả mọi nghĩa vụ trong đời ta. Nhưng vì phải giữ thể diện, ta phải tỏ ra hết sức trật tự và nghiêm trang.
“Em định đi đâu thế?” gã đã hỏi như vậy, khi cô vừa thu tay về.
“Đi đâu đâu. Em chỉ trở mình thôi.”
Giờ đây khi việc này xảy đến với mình, cô không rõ Neal cũng có cảm giác giống vậy không. Cô đã có lần hỏi gã đã quen với ý nghĩ đó chưa. Gã lắc đầu.
Cô bèn nói, “Em cũng chưa?” Rồi cô tiếp, “Chỉ cần anh đừng đi gặp các ông bà Chuyên gia Tâm lý Tang gia. Chắc họ đã bu đầy xung quanh rồi. Chỉ chờ dịp tấn công phủ đầu.”
“Đừng giày vò anh thế,” gã nói với giọng tức giận hiếm thấy.
“Em xin lỗi.”
“Em không cần lúc nào cũng phải cố nhìn mọi chuyện ở góc độ nhẹ nhàng hơn.”
“Em biết,” cô nói. Nhưng thực tế là đã có quá nhiều chuyện đang xảy ra và những sự kiện trước mắt đã thu hết tâm trí cô, cô thấy gần như chẳng có độ lùi để nhìn sự việc ở bất cứ góc độ nào cả.
“Đây là Helen,” Neal nói. “Là người sẽ chăm sóc chúng ta từ nay trở đi. Nhưng cháu nó cũng không chấp nhận chuyện gì vô lý đâu.”
“Thế thì tốt cho con bé,” Jinny nói. Cô chìa tay ra, sau khi đã ngồi xuống ghế. Nhưng có lẽ cô bé không nhìn thấy bàn tay Jinny, vì cô đang ngồi lọt thỏm giữa hai ghế trước.
Cũng có thể cô bé không biết phải làm gì. Neal đã kể rằng cô bé vừa thoát khỏi một cảnh ngộ không thể tin được, một gia cảnh cực kỳ man dại. Thực tế đang diễn ra những việc ta không thể tin được ở thời đại này, vào lúc này mà còn có chuyện như vậy. Một trang trại biệt lập, người mẹ qua đời để lại một đứa con gái thiểu năng trí tuệ với một người cha già nua tàn bạo, loạn luân đến mất trí nhớ và hai đứa bé gái. Helen chính là đứa lớn hơn, đã chạy trốn được vào năm mười bốn tuổi sau khi đánh gục được lão già. Em được một người hàng xóm che chở và gọi điện báo cảnh sát. Cảnh sát đã tới giải cứu cho đứa em gái và đưa cả hai vào chương trình Bảo trợ Trẻ em. Lão già và cô con gái lão - tức là cha và mẹ của hai em - đều bị đưa vào bệnh viện Tâm thần. Hai chị em Helen lần lượt trải qua các gia đình cha mẹ nuôi và phát triển bình thường cả về thể chất lẫn tinh thần. Chúng được cho đi học, nhưng đều thấy rất khổ sở vì phải bắt đầu từ lớp một. Rồi cả hai cũng học đủ để đi làm.
Khi Neal đã khởi động xong chiếc xe, Helen quyết định lên tiếng.
“Cô chú chọn đúng ngày nóng nực để ra đường,” nó nói. Chắc đó là câu nó nghe thấy những người khác nói khi bắt đầu câu chuyện. Nó có một chất giọng cứng cứng, đều đều mang vẻ chống đối và nghi ngờ, nhưng giờ thì Jinny đã biết, kể cả thế thì cũng không nên nghĩ con bé có ý gì. Đơn thuần chỉ là phong cách nói chuyện của nhiều người ở miền đất này - nhất là những người vùng nông thôn.
“Nếu cháu nóng thì cứ bật điều hòa lên,” Neal nói. “Xe này có điều hòa kiểu cổ điển - chỉ việc quay hết kính xuống.”
Tới ngã tư tiếp theo, Neal cho xe rẽ vào hướng Jinny không ngờ tới.
“Chúng ta phải đi qua bệnh viện,” Neal nói. “Không có gì phải lo. Em gái của Helen làm việc ở đó, và nó đang giữ mấy thứ Helen muốn ghé vào lấy. Phải không Helen?”
Helen đáp lại, “Vâng. Đôi giày tốt của cháu.”
“Đôi giày tốt của Helen.” Neal nhìn vào gương chiếu hậu. “Giày tốt của cô Hồng Helen.”
“Tên cháu không phải là Hồng Helen,” Helen nói. Dường như đây không phải là lần đầu cô bé nói câu đó.
“Ta chỉ gọi cháu thế vì sắc mặt cháu hồng hào như thế mà,” Neal nói.
“Không có đâu.”
“Có đấy. Đúng không, Jinny? Đấy, cô Jinny đồng ý với chú rồi, cháu có sắc mặt hồng hào. Cô Helen Má Hồng.”
Cô bé quả thật có nước da hồng phớt. Jinny cũng đã kịp nhận thấy lông mi và lông mày của cô bé gần như bạc trắng, mái tóc màu vàng kim mềm như của trẻ sơ sinh, và cái miệng, có một vẻ trần trụi rất lạ, không chỉ kiểu trần trụi thông thường của đôi môi không đánh son. Cô bé có cái vẻ non nớt như con gà vừa chui từ trong vỏ trứng ra, như còn thiếu một lớp da nữa, hay lớp lông tơ cần phải thêm thời gian để cứng cáp hơn. Chắc chắn cô bé rất dễ bị mẩn ngứa hay viêm nhiễm, hơi chạm một tí là có thể để lại các vết bầm xước, hay bị nổi mụn quanh miệng và giữa đôi mi mắt trắng. Nhưng cô bé trông không hề yếu ớt. Đôi vai rộng, cô bé gầy nhưng có khung xương lớn. Trông cũng chẳng có vẻ gì ngốc nghếch, tuy có cách biểu lộ bộc trực như một con nai hay con bê vậy. Với cô bé, mọi thứ phải ngang bằng sổ thẳng, khiến có cảm giác như toàn bộ sự chú ý và cá tính của nó dồn hết vào người đối diện, với một vẻ ngây thơ, và - riêng với Jinny - một sức mạnh khó chấp nhận.
Họ đang ngược lên một con dốc dài để đến bệnh viện - chính và chỗ Jinny đã trải qua ca phẫu thuật và đợt hóa trị đầu tiên. Ngay phía bên kia đường, đối diện với bệnh viện có một nghĩa trang. Đây là trục đường chính, và mỗi khi hai người đi qua đây - trước đây họ chỉ đến thị trấn này để mua sắm, hay thỉnh thoảng đổi gió xem một suất phim - Jinny thường nói những câu kiểu như “Quang cảnh gì mà sầu đời thế” hay “Đây là ví dụ quá đáng về tính thuận tiện trong quy hoạch.”
Giờ thì cô chỉ im lặng. Cô không còn thấy phiền lòng về nghĩa trang nữa. Cô nhận ra nó cũng chẳng đáng ngại.
Neal hẳn cũng nhận ra điều đó. Gã nói vào gương, “Đoán xem có bao nhiêu người chết trong nghĩa trang đó?”
Mất một lúc Helen chẳng nói năng gì. Rồi - hơi đột ngột - “Cháu không biết.”
“Trong nghĩa trang đó ai mà chẳng là người chết.”
“Cô cũng đã bị chú xỏ bằng trò đó,” Jinny nói. “Đó là trò đùa của học sinh lớp bốn.”
Helen không đáp lại. Có lẽ cô bé chưa từng học qua lớp bốn.
Họ lái xốc tới cổng chính của bệnh viện, rồi theo chỉ dẫn của Helen, vòng qua phía sau. Nhiều người mặc áo choàng bệnh viện, trong đó có những người kéo theo chai truyền dịch, ra ngoài để hút thuốc.
“Hai chú cháu có thấy cái ghế băng đằng kia không,” Jinny nói. “Chẳng sao, đằng nào chúng ta cũng đi qua mất rồi. Trên đó có cái biển đề ĐỪNG HÚT THUỐC, XIN CẢM ƠN. Nhưng người ta để cái ghế đó ra là để cho mọi người ngồi khi ra ngoài tòa nhà chứ. Và tại sao họ lại ra ngoài? Để hút thuốc. Thế mà lại cấm họ ngồi ở đó à? Thật không hiểu nổi.”
“Em gái Helen làm ở bộ phận giặt là,” Neal nói. “Nó tên gì, Helen? Tên em cháu là gì?”
“Lois,” Helen đáp. “Dừng ở đây. Được rồi. Ở đây.”
Họ đang ở trong một bãi đỗ xe đằng sau một chái nhà của bệnh viện. Chẳng có cái cửa ra vào nào ở tầng trệt, ngoài cửa kéo, đang đóng chặt. Ở ba tầng trên có cửa mở ra một cầu thang sắt thoát hiểm.
Helen xuống xe.
“Cháu biết đường vào chứ?” Neal hỏi.
“Dễ ợt.”
Cầu thang thoát hiểm cao cách mặt đất chừng mét hai, mét rưỡi, nhưng nó bám được vào tay vịn và đu người lên chỉ trong vài giây, có lẽ nhờ đạp được một chân vào hõm gạch nào đó trên tường. Jinny không thể lý giải nổi nó làm được việc đó như thế nào. Còn Neal thì cười phá lên.
“Tóm hết bọn chúng đi, cô gái,” gã nói.
“Không có đường nào khác à?” Jinny hỏi.
Helen đã chạy tới tầng ba và mất hút.
“Nếu có chắc nó đã đếch phải dùng cách đó,” Neal nói.
“Gan lì tướng quân,” Jinny cố nói.
“Nếu không nó đã chẳng trốn khỏi chỗ đó được”, gã nói. “Lúc đó nó cần đến toàn bộ sự gan lì trời cho.”
Jinny đang đội một chiếc mũ cói rộng vành. Cô cởi nó ra và bắt đầu quạt.
Neal nói, “Xin lỗi. Hình như chẳng có chỗ nào râm để anh đỗ xe vào. Chắc nó ra ngay thôi.”
“Em trông có bê bối quá không?” Jinny hỏi.
Gã đã quen với câu hỏi đó của cô. “Em ổn lắm. Mà cũng có ai ở quanh đây đâu.”
“Ông bác sĩ hôm nay em gặp không phải là ông lần trước. Em nghĩ ông này quan trọng hơn. Buồn cười một nỗi là ông ấy có kiểu tóc lơ thơ như của em. Chắc ông ấy để như vậy để bệnh nhân thấy dễ chịu.”
Cô định tiếp tục kể về những lời bác sĩ đã nói, nhưng gã cất tiếng, “Cái đứa em gái này không sáng sủa bằng nó đâu. Helen vừa kiểu như chăm sóc, vừa bắt nạt nó. Cái vụ giày dép này - quá điển hình. Hình như em nó không có khả năng tự mua lấy giày cho mình hay sao ấy? Mà nó cũng chưa có chỗ ở riêng của mình nữa - vẫn phải sống với gia đình đang nuôi nó, đâu đó ngoài vùng quê.”
Jinny không tiếp lời nữa. Việc quạt mũ đã ngốn gần hết sức lực của cô. Gã ngắm nhìn tòa nhà.
“Anh hy vọng ơn Chúa con bé không bị người ta gô cổ vì tội đột nhập,” gã nói. “Vi phạm luật. Luật sinh ra không phải dành cho những đối tượng như con bé này.”
Vài phút sau gã bật lên tiếng huýt sáo.
“Cô bé ra đây rồi. Cô-bé-đang-ra. Nước rút những bước cuối cùng. Liệu-cô-có đủ khôn ngoan để dừng lại trước khi nhảy không? Có nhìn trước khi vọt xuống? Có-hay-không-có-hay… không. Không. Ối-trời-ơi.”
Helen không cầm đôi giày nào trên tay cả. Nó nhảy lên xe và sập cửa đánh rầm rồi nói, “Một lũ ngốc. Đầu tiên cháu lên đó và cái lão khỉ gió ấy chặn đường. Biển tên đâu? Phải đeo biển tên. Không ai được vào đây mà không có biển tên. Tôi nhìn thấy cô lên đây từ lối thang thoát hiểm, cô không làm thế được. Biết rồi, biết rồi, nhưng cháu cần gặp em cháu. Bây giờ thì không gặp được vì không phải giờ nghỉ của nó. Cháu biết mà, thế cháu mới phải vào bằng thang thoát hiểm vì cháu chỉ cần mấy mấy thứ thôi. Cháu không muốn nói chuyện với nó, cũng không muốn làm mất thì giờ của nó, cháu chỉ muốn lấy mấy thứ thôi. Thế không được. Được chứ. Không thể được. Rồi cháu bắt đầu gọi to Lois. Lois. Với đủ các thứ máy móc đang chạy, ở trong chỗ đó phải nóng tới sáu chục độ C, ai cũng mồ hôi mồ kê mướt mát, bận rộn việc nọ việc kia. Nhưng cháu kệ. Cứ Lois, Lois chẳng cần biết nó ở đâu hay có nghe thấy không. Nhưng rồi nó chạy ào ra, vì vừa nhìn thấy cháu là nó… Chết cha. Chết cha, nó nói, em đi mà quên mất. Nó quên mang giày trả cháu. Tối qua cháu đã gọi điện nhắc nó, thế mà đến lúc đó nó lại cứ, ối, chết cha, nó quên. Đúng ra cháu có thể tẩn cho nó một trận. Giờ cô đi ra ngay, lão kia nói. Đi xuống đường cầu thang và ra khỏi cửa. Không được dùng thang thoát hiểm vì như thế là phạm luật. Tổ sư nhà lão.”
Neal vừa cười ngặt nghẽo vừa lắc đầu.
“Thế nó quên thật à? Không mang giày đến cho cháu?”
“Quên ở nhà cô June chú Matt?”
“Thật là bi kịch.”
Jinny nói, “Giờ mình chạy xe cho có gió chút được chưa nhỉ? Quạt tay mãi cũng chả ăn thua.”
“Được ngay,” Neal nói. Gã lùi xe và quay đầu, một lần nữa lại chạy qua cổng trước quen thuộc của bệnh viện, cũng vẫn thấy những người đang đứng hút thuốc, có cả những khuôn mặt họ đã gặp khi tới lẫn những kẻ mới nhập bọn, trông thật ảm đạm trong đồng phục bệnh viện và chai truyền dịch.
“Helen phải chỉ cho chúng ta chỗ cần đến thôi.” Gã gọi với xuống ghế sau, “Helen?”
“Gì cơ?”
“Từ đây chúng ta rẽ ngả nào thì tới nhà họ?”
“Họ nào cơ?”
“Nơi em cháu ở. Nơi có giày của cháu. Chỉ đường để chúng ta đến đó đi.”
“Chúng ta không đi đến đó. Cháu chẳng chỉ đường đâu.”
Neal đi ngược lại con đường cũ.
“Chú cứ đi lối này cho đến khi nào cháu nhớ ra đường. Nếu đi ra đường cao tốc thì có tiện hơn không? Hay cứ đi vào trung tâm thị trấn? Bắt đầu từ chỗ nào?”
“Chẳng bắt đầu từ đâu cả. Chẳng đi đâu hết.”
“Chỗ đó không xa mấy, phải không nào? Tại sao chúng ta không đi chứ?”
“Chú giúp cháu một lần là đủ rồi.” Helen ngồi vươn lên đằng trước hết tầm, thò đầu ra giữa ghế lái của Neal và ghế phụ của Jinny. “Chú đã đưa cháu đến bệnh viện, thế là đủ rồi phải không nào? Chú không phải lái loanh quanh chỉ để giúp cháu.”
Xe chạy chậm lại, rồi rẽ vào một phố nhánh.
“Ngốc thật,” Neal nói. “Cháu sắp phải đi xa cả ba chục cây và cũng khá lâu nữa mới quay lại đây. Cháu cần mang theo đôi giày đó chứ?”
Không có tiếng đáp lại.
Gã cố thêm, “Hay là cháu không thuộc đường? Cháu không biết đường từ đây đến chỗ đó à?”
“Cháu biết, nhưng cháu không nói đâu.”
“Thế thì chúng ta cứ phải đi lòng vòng vậy. Đi vòng quanh cho đến khi cháu muốn chỉ đường.”
“Cháu chẳng muốn. Cháu không chỉ.”
“Chúng ta có thể quay lại bệnh viện gặp em cháu. Chú cá là nó sẽ chỉ đường. Chắc đến giờ nó tan ca rồi, và chúng ta có thể chở nó về nhà luôn.”
“Hôm nay nó làm ca chiều cơ, ê, ê…”
Họ đang đi ở một khu trong thị trấn mà Jinny chưa thấy bao giờ. Xe chạy rất chậm và rẽ phải rẽ trái liên tục nên chẳng có bao nhiêu gió vào được bên trong xe. Một nhà máy đã niêm phong, các cửa hàng bán đồ giảm giá, cửa hàng cầm đồ với một biển hiệu đèn nhấp nháy dòng chữ TIỀN, TIỀN, TIỀN MẶT gắn trên các cửa sổ gắn song sắt. Nhưng cũng có nhà cửa, những căn nhà cũ kỹ tồi tàn, và một kiểu nhà gỗ đơn được dựng lên cấp tốc trong Thế chiến thứ hai. Một khoảng sân nhỏ chất đầy các thứ đồ thanh lý - quần áo treo trên dây, mấy cái bàn chất đầy bát đĩa và đồ gia dụng. Một con chó chúi mũi đánh hơi quanh gầm một cái bàn, suýt húc đổ cả bàn nhưng người phụ nữ ngồi trên bậc thềm, vừa hút thuốc vừa nhìn cảnh vắng khách, chẳng có vẻ gì là bận tâm cả.
Bên ngoài một cửa hàng ở góc phố, mấy đứa trẻ đang mút kem. Một thằng bé đứng ngoài cùng trong bọn - chắc chỉ khoảng bốn năm tuổi - ném cây kem mút về phía chiếc xe họ. Cú ném mạnh không ngờ. Cây kem đập vào cửa xe phía Jinny ngay dưới chỗ cô để tay khiến cô bật lên tiếng kêu khẽ.
Helen thò đầu ra ngoài cửa kính ghế sau.
“Thằng kia, muốn bó bột tay à?”
Thằng bé bật lên tiếng tru. Nó không dám đôi co với Helen, chắc cũng không dám đôi co về chuyện cây kem đã mất.
Quay vào trong xe, Helen nói với Neal. “Chú chỉ làm tốn xăng thôi.”
“Ở phía Bắc thị trấn?” Neal nói. “Hay phía Nam Đông Tây Nam Bắc, Helen nói cho chắc.”
“Cháu nói rồi. Hôm nay chú đã làm xong việc cho cháu.”
“Và chú nói rồi. Chúng ta sẽ đi lấy giày cho cháu trước khi về nhà.”
Dù giọng gã có nghiêm đến mấy, Neal vẫn tươi cười. Khuôn mặt gã biểu lộ một sự ngờ nghệch cố ý mà vẫn tự nhiên. Dấu hiệu của một niềm vui đang xâm lấn. Xâm chiếm cả thể chất lẫn tâm hồn Neal. Gã rạng rỡ một niềm vui ngờ nghệch.
“Chú ương bướng quá,” Helen nói.
“Rồi cháu sẽ thấy bướng đến mức nào.”
“Cháu cũng thế. Cháu cũng cứng đầu không kém đâu.”
Dường như Jinny cảm nhận được hơi nóng từ cặp má của Helen, giờ đang ở rất gần mặt cô. Đương nhiên cô nghe rõ tiếng thở của nó, hơi nặng và gấp có lẽ do đang phấn khích, điểm những tiếng khò khè di chứng của bệnh hen. Sự hiện diện của Helen trong xe có thể so sánh với một con mèo nhà, không nên mang nó lên bất kỳ một chiếc xe ô tô nào vì quá dễ kích động, không thể cư xử đúng mực, mà cũng quá thông minh nên chẳng thể nhảy phắt từ ghế này sang ghế khác.
Nắng lại như thiêu như đốt xuyên qua cả mây. Mặt trời vẫn chiếu chói chang chưa chịu ngả bóng.
Neal ngoặt xe vào một con phố có hàng cây cổ thụ với những ngôi nhà khả dĩ hơn.
“Ở đây tốt hơn không?” gã hỏi Jinny. “Thêm bóng râm cho em đó?” Giọng gã hạ giọng xuống và có vẻ riêng tư, ý như có thể tạm thời gạt bỏ chuyện đôi co với cô bé, suy cho cùng cũng nhảm nhí thôi mà.
“Đi vào con đường thật đẹp,” gã nói, hướng xuống phía ghế sau. “Hôm nay ta được đi vào con đường thật đẹp nhờ cô Helen Má Hồng.”
“Có lẽ chúng ta nên đi thẳng luôn,” Jinny nói. “Đi luôn về nhà đi.”
Helen xen ngay vào, nói gần như quát. “Cháu đâu có ngăn cản ai về nhà.”
“Thế thì cháu phải chỉ đường cho chú,” Neal nói. Gã cố ghìm giọng để có vẻ nghiêm túc. Và cũng để nén nụ cười, cứ luôn xen vào bất chấp nỗ lực thường xuyên của gã cố nuốt vào trong. “Thôi, đi đến chỗ đó cho xong việc rồi chúng ta về nhà nào.”
Đi thêm được chừng nửa con phố với tốc độ rùa bò nữa thì Helen rên lên.
“Chắc phải làm việc cần làm thôi,” nó nói.
Họ không phải đi xa lắm. Qua một khu khác, rồi Neal lại nói với Jinny, “Chẳng thấy khe suối nào. Cũng chẳng có điền trang nào.”
Jinny hỏi, “Gì cơ?”
“Điền trang khe suối bạc. Trên biển đề thế.”
Chắc gã đọc được từ một biển chỉ dẫn mà cô không nhìn thấy.
“Rẽ,” Helen nói.
“Phải hay trái?”
“Ở chỗ đống rác.”
Họ đi qua một bãi chứa đồ thải, có những xác xe ô tô cũ nhô cao khỏi hàng rào chắn bằng những tấm tôn xập xệ. Rồi đi lên một ngọn đồi qua mấy cánh cổng tới một bãi sỏi, là nơi phong quang nhất ở ngay giữa ngọn đồi.
“Nhà họ ở đó. Hộp thư của họ ngay trước mặt kia,” Helen nói với vẻ trịnh trọng nhất định, và khi họ tới gần hơn, cô đọc to tên chủ nhà.
“Matt và June Bergson. Đúng họ rồi.”
Hai con chó xổ ra sủa dọc lối đi ngắn dẫn vào nhà. Một con to lớn màu đen, con kia nhỏ màu lông bò trông như còn non vậy. Chúng chạy nhặng lên quanh bánh xe khiến Neal phải nhấn còi. Rồi một con khác - con này trông gian và lì hơn, với bộ lông đốm khoang bóng mượt - chui ra từ đám cỏ cao.
Helen quát lũ chó im, nằm xuống và biến đi.
“Không cần để ý lũ này, trừ con Pinto,” cô bé nói. “Hai con kia thì nhát như cáy.”
Họ dừng lại một chỗ khá rộng, trống trải có rải sỏi. Một bên là nhà kho hay lán chứa dụng cụ gì đó, lợp tôn, cạnh đó, ngay sát bờ một ruộng ngô là một căn nhà trang trại cũ bỏ hoang, tường gạch đã bị dỡ gần hết để lộ những vách gỗ đen đúa. Chỗ đang dùng để ở là một cái nhà di động đã được tân trang đẹp đẽ với tiền sảnh và mái, và một vườn hoa bên trong hàng rào xinh xinh như đồ chơi. Căn nhà di động và vườn tược trông khá chỉn chu tươm tất, mọi chỗ còn lại ở khu đất thì rải rác đầy những thứ không rõ được đặt ở đó có mục đích hay chỉ vứt ra cho mục nát đi.
Helen đã nhảy xuống xe và đang tìm cách xích lũ chó lại. Nhưng chúng liên tục chạy thoát và nhảy xổ lại sủa vào xe, mãi cho đến khi một người đàn ông chui từ cái lán ra và quát chúng. Jinny không nghe rõ ông ta quát chúng những gì và gọi tên chúng như thế nào, nhưng lũ chó im bặt ngay.
Jinny đội mũ lại. Suốt từ nãy tới giờ cô cứ cầm mũ trên tay.
“Chúng cứ phải diễn thế ấy mà.” Helen nói.
Neal cũng đã rời xe và đang cố thương lượng với lũ chó với một vẻ dứt khoát. Người đàn ông rời lán tiến về phía họ. Ông ta mặc một chiếc áo phông tím đẫm mồ hôi, dính chặt vào bụng và ngực. Ông ta béo đến nỗi có ngực và người ngoài có thể nhìn lấy rốn ông ta lồi ra như rốn bà chửa, cứ nhấp nhô tràn bụng như viên bi ve khổng lồ.
Neal tiến lại phía ông ta, chìa tay ra. Người đàn ông chùi tay vào quần bảo hộ, cười lớn và bắt tay Neal. Jinny không nghe được họ nói những gì. Một người phụ nữ ra khỏi căn nhà di động và mở cánh cổng đồ chơi, còn gài chốt lại sau khi đã ra ngoài.
“Lois đi làm mà quên mang giày cho cháu.” Helen nói với về phía bà ta. “Cháu đã gọi điện dặn dò đủ thứ, thế mà lúc đi làm nó vẫn quên, nên chú Lockyer đưa cháu đến lấy.”
Bà ta cũng rất béo tuy không đến nỗi như ông chồng. Bà ta mặc một cái váy hoa dài kiểu Hawaii màu hồng với họa tiết mặt trời Aztec, tóc bà ta điểm xuyết những lọn vàng. Bà ta vượt qua bãi sỏi với vẻ bình thản và xởi lởi. Neal quay ra và tự giới thiệu, sau đó đưa bà ta lại chỗ chiếc xe để giới thiệu Jinny.
“Rất vui được gặp cô chú,” bà ta nói. “Cô không được khỏe lắm nên phải tìm người giúp việc phải không?”
“Tôi vẫn ổn,” Jinny nói.
“Ừ, giờ đã đến đây rồi thì nên vào nhà đi. Vào nhà cho đỡ nóng.”
“Ồ, chúng tôi chỉ ghé qua thôi,” Neal nói.
Người đàn ông đã đến sát bên. “Chúng tôi có điều hòa trong nhà,” ông ta nói. Ông ta vừa nói vừa săm soi bên trong chiếc xe van, mặt biểu lộ vẻ vừa thương hại vừa thông cảm.
“Chúng tôi chỉ ghé lấy giày thôi,” Jinny nói.
“Giờ các bạn đã tới nơi rồi thì phải làm được hơn thế chứ,” người đàn bà - tên June - nói và cười phá lên như thể ý định không vào nhà của họ là một trò đùa lố bịch. “Vào nhà đi, nghỉ ngơi chút cho hồi sức.”
“Chúng tôi không muốn làm phiền bữa tối của gia đình,” Neal nói.
“Chúng tôi ăn xong rồi,” ông Matt nói. “Chúng tôi ăn tối sớm lắm?”
“Nhưng còn rất nhiều bò xay xốt ớt.” Bà June nói. “Các bạn phải vào xử lý giúp món đó với.”
Jinny đáp, “Cảm ơn chị. Nhưng tôi nghĩ mình chẳng ăn được gì đâu. Khi trời nóng bức thế này tôi chả muốn ăn gì cả.”
“Thế thì cô phải uống chút gì vậy,” June nói. “Chúng tôi có soda gừng, Coca. Chúng tôi có cả rượu đào.”
“Bia nhé,” Matt nói với Neal. “Cậu muốn làm một chai Blue không?”
Jinny vẫy Neal lại gần chỗ cô ngồi lên xe.
“Em không vào được,” cô nói. “Hãy nói với họ em không thể.”
“Em biết làm thế là họ phật ý mà,” gã thì thầm. “Họ đang cố thể hiện lòng mến khách.”
“Nhưng em không thể. Hay là anh đi thôi.”
Gã cúi xuống sát hơn. “Em biết mình không vào thì họ sẽ nghĩ thế nào. Trông sẽ có vẻ như em tự cho rằng họ không xứng với mình.”
“Thôi anh vào đi.”
“Cứ vào trong nhà là em sẽ khá hơn mà. Điều hòa mát sẽ làm em dễ chịu ngay.”
Jinny lắc đầu.
Neal đứng thẳng người lên và nói.
“Jinny muốn nghỉ ngơi ngoài này vì ở đây có bóng râm.”
June nói, “Nhưng cô ấy cứ vào trong nhà nghỉ cũng được mà…”
“Thật tình tôi muốn làm một chai Blue,” Neal nói. Gã quay lại nhìn Jinny với nụ cười nặng nề. Cô thấy gã có vẻ vừa buồn bã vừa tức giận. “Em có chắc mình sẽ ổn không?” gã nói cho những người khác nghe thấy. “Chắc hả? Anh đi và nhà một chút không sao chứ?”
“Em sẽ ổn thôi,” Jinny nói.
Gã khoác một tay lên vai Helen và tay kia lên vai June, vui vẻ cùng họ tiến lại phía căn nhà di động. Matt nở nụ cười khó hiểu với Jinny rồi bước theo ba người.
Lần này, khi ông ta gọi lũ chó đi theo thì Jinny nghe rõ được tên từng con.
Goober. Sally. Pinto.
Chiếc xe đậu dưới một rặng liễu, toàn những cây to đã già nhưng lá quá thưa nên không tròn bóng. Dù sao thì được yên tĩnh một mình cũng khiến Jinny thấy nhẹ nhõm hẳn.
Sáng nay, khi đi trên đường cao tốc từ thị trấn nơi họ sống, họ đã dừng lại ở một quầy ven đường mua vài trái táo đầu mùa. Jinny lấy ra một trái từ chiếc túi để dưới chân cô và cắn một miếng nhỏ, chủ yếu để thử xem cô có còn cảm nhận được mùi vị, và có đủ sức nuốt trôi miếng táo xuống dạ dày mà không nôn ra không. Cô cần cái gì đó để chống lại cảm giác khi nghĩ đến món bò xốt ớt và cái rốn lồi quá khổ của Matt.
Cũng ổn. Quả táo giòn và rôn rốt nhưng không quá chua, nếu cô cắn từng miếng nhỏ và nhai cẩn thận, chắc cũng xoay xở hết được.
Cô từng chứng kiến Neal xử sự kiểu này - hay gần giống như thế này - đã vài lần rồi. Với một thằng nhóc nào đó ở trường gã. Kiểu nhắc đến cái tên ấy một cách suồng sã, thậm chí trịch thượng. Kiểu nhìn giả lả, kiểu cười hì hì vẻ biết lỗi nhưng có nét bất cần.
Nhưng cô không bao giờ phải chứa chấp người ấy ở nhà mình, nên chẳng bao giờ nảy sinh chuyện gì được. Hết giờ gặp gỡ thằng nhóc đó là ai về chỗ nấy. Nên lần này chắc cũng qua đi thôi. Chẳng nên phiền lòng.
Nhưng cô vẫn băn khoăn nếu việc này xảy ra ngày hôm qua thì có nhẹ nhàng hơn hôm nay không.
Cô xuống xe, vẫn để cửa mở để bám được vào tay nắm bên trong. Mọi thứ bên ngoài xe đều nóng quá, không thể bám vào được dù chỉ trong chốc lát. Cô phải thử xem mình có tự đứng vững được không đã. Rồi cô dò bước trong bóng râm. Lác đác vài nhành liễu đã chuyển vàng. Vài cọng lá đã rụng xuống gốc. Từ trong bóng râm cô bắt đầu quan sát mọi thứ xung quanh sân.
Một chiếc xe chở hàng méo mó, đã mất cả hai đèn pha và hàng chữ bên sườn bị sườn đè lên. Một chiếc xe nôi đã bị lũ chó cắn rời ghế ra, một đống củi làm chất đốt đổ bừa ra chưa được xếp lại, một chồng lốp xe cỡ lớn, vô vàn bình nhựa và vài can dầu cùng những tấm gỗ xe cũ và mấy tấm bạt màu da cam xiêu vẹo bên cạnh vách lán dụng cụ. Trong lán một xe tải GM hạng nặng, và một xe tải nhỏ hiệu Mazda đã te tua, cùng một chiếc máy kéo cỡ nhỏ, với các dụng cụ còn nguyên vẹn hay đã hỏng hóc và mấy bánh lái, tay cầm, thanh trục rời còn hữu dụng hay vô dụng tùy theo trí tưởng tượng về công dụng. Sao người ta lại có thể chuốc vào thân nhiều thứ đến thế. Cũng như cô đã phải quản lý đống hình ảnh, công văn, biên bản, bài báo, hàng ngàn hạng mục do cô tự nghĩ ra cách phân loại và lưu vào đĩa, cho đến khi cô phải bắt đầu đợt hóa trị và rồi mọi thứ bị mang đi. Chắc rốt cuộc rồi chúng cũng bị vứt bỏ thôi. Tất cả những thứ này chắc cũng chung số phận ấy, một khi Matt chết đi.
Ruộng ngô chính là nơi cô muốn tới. Những cây ngô cao quá đầu cô, có khi quá cả đầu Neal - cô muốn chui vào trong bóng râm của chúng. Cô băng ngang qua sân với duy nhất một nghĩ đó trong đầu. Ơn Chúa, lũ chó chắc đã bị bắt vào trong nhà.
Không có rào chắn ruộng. Các luống ngô cứ lan bừa lên cả sân. Cô thẳng bước về phía đó, tới rãnh hẹp giữa hai luống. Những tàu lá đập vào mặt, vào tay cô như những dải cờ bằng vải chống thấm. Cô phải bỏ mũ ra cầm ở tay cho khỏi bị lật. Mỗi thân ngô đều có bắp, trông như đứa trẻ sơ sinh trong tã quấn. Không gian đặc quánh mùi cây cỏ sinh sôi, mùi tinh bột xanh, mùi nhựa cây tươi khiến cô hơi váng vất.
Một việc cô định làm, sau khi đi được tới đây, là ngả lưng nằm xuống. Nằm xuống dưới bóng râm của những tàu lá dày đặc này cho đến khi nghe thấy tiếng Neal gọi thì mới ra. Có khi lâu hơn. Nhưng những luống ngô quá dày, ken sát nhau nên không cô không nằm lọt, hơn nữa đầu óc cô đang bận nghĩ việc khác nên không muốn cố tìm giải pháp. Cô đang giận sôi lên.
Không phải vì một việc mới xảy ra gần đây. Cô hồi tưởng lại một buổi tối trong phòng khách - hay còn gọi là phòng họp ở nhà cô, có một nhóm người ngồi chơi những trò chơi tâm lý khá nặng đô. Một trò trong số đó có mục đích làm cho người chơi trở nên trung thực hơn và cứng rắn hơn. Người chơi phải nói ra ý nghĩ của mình khi lần lượt nhìn và từng người xung quanh. Và một phụ nữ tóc bạch kim tên là Addie Norton, một người bạn của Neal, nói, “Tôi không hề muốn nói ra điều này, Jinny, nhưng mỗi khi nhìn cô, ý nghĩ duy nhất của tôi chỉ là, bà Neal tốt bụng.”
Jinny không nhớ lúc đó cô phản ứng ra sao. Hình như luật chơi không buộc người bị nhận xét đưa ra phản hồi thì phải. Nhưng lúc này đây, cô nghĩ, mình sẽ nói, sao chị lại nói không hề muốn nói ra điều đó? Chị không nhận ra được là mỗi khi ai đó nói mình không hề muốn nói điều gì ra thì thực ra là họ rất muốn nói ra điều đó à? Chị không nghĩ được rằng nếu chúng ta đang muốn trung thực, thì ít nhất hãy bắt đầu với việc thừa nhận thực tế đó sao?
Đây không phải là lần đầu cô đưa ra phản hồi tưởng tượng trong óc mình. Và tưởng tượng đến cảnh chỉ ra cho Neal thấy trò chơi này lố bịch ra sao. Vì khi đến lượt Addie, có ai dám nói điều gì mếch lòng bà ta không? Ồ, không đời nào. “Nhiệt tình, là lời nhận xét của họ, hay “Trung thực như một gáo nước lạnh?” Họ quá sợ bà ta, thế đấy.
Rồi giờ đây cô hét to lên, “Gáo nước lạnh” bằng một giọng tức giận đến the thé.
Tất nhiên, những người khác có nói những điều tử tế hơn về cô. “Em bé trong sáng” hay “Đức Mẹ Madonna bên dòng suối.” Cô tình cờ biết được tất cả những người nói ra nhận xét đó thực ra đều muốn nói “Manon bên dòng suối”[6] nhưng cô không đưa ra lời cải chính nào. Cô thấy rất bực bội vì phải ngồi đó mà nghe ý kiến của những người khác về mình. Ai cũng nói sai bét. Cô chẳng hề e thẹn hay ngoan ngoãn hay tự nhiên hay thuần khiết.
Tất nhiên, khi ta chết đi, những nhận định sai lầm đó là tất cả những gì còn lại.
Trong khi đang miên man với những ý nghĩ đó trong đầu, cô đã làm một việc dễ làm nhất trong ruộng ngô - đi lạc. Cô đã bước qua một luống, rồi một luống nữa, rồi chắc bị mất phương hướng. Cô cố trở lại lối cũ vừa đi nhưng rõ ràng là bị sai hướng. Mặt trời lúc đó lại đang khuất trong mây nên cô không biết đâu là hướng Tây. Mà cô cũng chẳng biết sau khi vào luống ngô thì mình đi về hướng nào nên nhìn mặt trời cũng chẳng giúp được gì. Cô đứng im và lắng nghe, nhưng chỉ thấy tiếng lá ngô rì rào và tiếng xe cộ ở đâu đó xa xăm.
Tim cô đập nhanh y như trái tim một người khỏe mạnh sẽ còn một quãng đời dài nhiều năm trước mắt.
Rồi một cánh cửa bật mở, cô nghe tiếng chó sủa và tiếng Matt quát rồi tiếng cửa đóng sập lại. Cô chen vội qua những thân và lá, đi về hướng đó. Và hóa ra cô chẳng đi xa mấy. Suốt lúc trước cô chỉ loanh quanh ở một góc nhỏ của ruộng ngô.
Matt đưa tay vẫy cô và nạt mấy con chó.
“Đừng dợn chúng, đừng dợn,” ông ta gọi cô. Cũng như cô, ông ta đang tiến lại chiếc xe, chỉ có điều từ một hướng khác. Khi họ đến gần nhau hơn, ông ta nói với một giọng thấp hơn, có lẽ thân mật hơn.
“Đáng ra cô cứ đến gõ cửa chứ.”
Thì ra ông ta nghĩ cô vào ruộng ngô đi giải.
“Tôi vừa bảo chồng cô để tôi ra xem cô ổn cả không.”
Jinny nói, “Cảm ơn ông. Tôi vẫn ổn.” Cô vào trong xe nhưng vẫn để cửa mở. Ông ta chắc sẽ thấy bị xúc phạm nếu cô đóng cửa. Mà cô cũng thấy mình không còn sức nữa.
“Chú ấy quả thật đói bụng, ăn món bò xốt ớt rất nhiệt tình.”
Ông ta đang nói về ai vậy? Neal.
Cô thấy mình hơi run và toát mồ hôi, đầu ong ong như có một sợi dây căng giữa hai tai.
“Nếu cô muốn ăn tôi sẽ mang ra cho cô một ít.”
Cô lắc đầu, mỉm cười. Ông ta giơ chai bia đang cầm ở tay lên - hình như ra dấu chào cô.
“Uống chút gì nhé?”
Cô lại lắc đầu, vẫn mỉm cười.
“Chút nước thôi cũng không được? Nước ở đây tốt lắm.”
“Không, cảm ơn.”
Nếu cô quay mặt lại và nhìn thấy cái rốn lồi dưới tấm áo tím của ông ta, cô sẽ nghẹt thở mất.
“Cô biết không, có một tay này,” ông ta nói với một giọng khác hẳn. Thoải mái hơn, xen tiếng khúc khích. “Có một tay đi ra khỏi nhà và cầm theo một hũ xốt củ cải ngựa trên tay. Thế là ông bố hắn liền hỏi, ‘Con mang củ cải ngựa đi đâu đấy?’
‘À, con đi kiếm một con ngựa,’ hắn nói.
‘Dùng củ cải ngựa thì mày không kiếm được con nghẽo nào đâu.’
Đến sáng hôm sau, có con ngựa đẹp nhất ta chỉ ước được trông thấy. Ngó con ngựa của con. Rồi hắn cho nó vào chuồng.
Tôi không muốn gây ảo tưởng. Chúng ta không nên để tính lạc quan làm lạc hướng. Nhưng dường như ta đang có những kết quả ngoài sự mong đợi.
Hôm sau ông bố lại thấy hắn ra khỏi nhà. Nách kép một cuộn băng dính vít. ‘Giờ mày đi đâu?’
‘À, con nghe mẹ nói muốn có một con vịt ngon để nấu bữa tối.’
‘Đồ ngốc, đừng có nghĩ là mày dùng băng dính vít để bắt vịt đấy chứ?’
‘Cứ chờ xem.'
Sáng hôm sau, hắn cắp nách về một con vịt vừa ngon vừa béo.
Trông có vẻ như đã thu nhỏ đáng kể. Tất nhiên đó là điều chúng tôi hy vọng nhưng thực lòng mà nói chúng tôi không mong đợi sẽ xảy ra. Và tôi không muốn nói rằng trận chiến đã kết thúc, nhưng đây là một dấu hiệu khả quan.
Ông bố không biết nói gì. Còn biết nói gì nữa.
Đêm hôm sau, ngay đêm hôm sau, thấy thằng con trai đi ra ngoài tay cầm một bó cành cây.
Một dấu hiệu rất khả quan. Chúng tôi chưa biết được trong tương lai sẽ còn những khó khăn gì nữa nhưng tôi có thể nói chúng tôi đang lạc quan một cách thận trọng.
‘Mày đang cầm cành cây gì trên tay thế?’
‘Mấy cành liễu bướm[7] ấy mà.’
‘Được rồi,’ ông bố nói. ‘Mày chờ một phút. Chờ tao một phút tao đi lấy mũ rồi cho tao theo với!’”
“Thật là quá quắt.” Jinny nói thành tiếng.
Thực ra cô đang nói với ông bác sĩ trong đầu mình.
“Gì cơ?” Matt nói. Một vẻ lo lắng và ngơ ngác trùm lên khuôn mặt ông ta, ngay khi vẫn đang còn cười khúc khích. “Có làm sao không?”
Jinny lắc đầu, bụm chặt bàn tay lên miệng.
“Chỉ là chuyện cười thôi mà,” ông ta nói. “Tôi không hề có ý định xúc phạm cô.”
Jinny nói, “Không, không. Tôi… Không.”
“Không sao, tôi đi vào nhà đây. Tôi đi vào ngay không làm phiền cô thậm một giây nào nữa.” Và ông ta quay ngoắt đi, quên cả gọi lũ chó.
Cô chưa từng nói điều gì như thế với bác sĩ. Mà sao phải nói? Ông ta có lỗi gì đâu. Nhưng điều đó cũng đúng mà. Thật là quá quắt. Những lời ông ta nói làm mọi chuyện nặng nề hơn. Nó khiến cô phải lặp lại đợt điều trị từ đầu năm nay. Nó tước đi một thứ tự do dù chỉ ở cấp thấp. Một màng bảo vệ mỏng manh, mà cô thậm chí chưa từng biết rằng nó có ở đó, đã bị bóc đi, để cô trơ ra.
Ý nghĩ của Matt rằng cô đã vào ruộng ngô để đi giải khiến cô nhận ra rằng mình đang thực sự muốn đi. Cô rời xe, thận trọng đặt hai chân xuống đất, giạng chân và vén chiếc váy cotton rộng đang mặc. Cô đã chọn mặc váy rộng và không mặc quần lót từ đầu mùa hè này, vì cô không còn tuyệt đối kiểm soát được bàng quang của mình nữa.
Một dòng nước đục chảy từ người cô xuống sân sỏi. Mặt trời đang lặn, buổi tối đang đến. Một bầu trời quang quẻ trên đầu cô, những đám mây đã tan hết.
Một con chó trong đàn sủa mừng rỡ, báo hiệu có người đang đến, nhưng là người quen. Chúng không đến quấy rầy cô khi cô xuống xe - chắc chúng cũng đã quen với cô. Chúng chạy ra đón người đang tới, với thái độ không có gì là cảnh giác hay kích động.
Đó là một cậu trai, hay một thanh niên, đang đi xe đạp. Cậu ta lượn tới chỗ chiếc xe đang đỗ và Jinny đi vòng ra để chào, một tay vẫn phải vịn vào thanh nắm cửa bằng kim loại, giờ đã nguội bớt nhưng vẫn còn ấm. Cô không muốn khi cậu ta cất tiếng thì hai người đứng đối diện nhau qua vũng nước cô vừa xả ra. Và cũng có lẽ đánh lạc hướng cậu ta khỏi nhìn xuống đất để thấy thứ đó, cô lên tiếng trước.
Cô nói, “Xin chào… cậu đến giao hàng gì à?”
Cậu ta bật cười, nhảy khỏi chiếc xe và thả nó đổ xuống đất, tất cả chỉ trong một động tác.
“Nhà tôi ở đây,” cậu ta nói. “Tôi vừa đi làm về.”
Cô nghĩ cô nên giải thích mình là ai, rồi kể với cậu ta cô đến đây như thế nào, ở đây bao lâu. Nhưng điều đó khó khăn quá. Phải vịn vào xe như thế, cô nghĩ chắc mình trông như người vừa thoát khỏi một vụ tai nạn.
“Vâng, tôi sống ở đây,” cậu ta nói. “Nhưng tôi làm ở một nhà hàng trong thị trấn. Tôi làm ở quán Sammy.”
Một cậu bồi bàn. Chiếc áo sáng trắng và quần âu đúng là quần của người chạy bàn. Và cậu ta có phong thái kiên nhẫn và nhanh nhẹn của một người chạy bàn.
“Tôi tên là Jinny Lockyer,” cô nói. “Helen. Helen là…”
“Được rồi, tôi biết rồi,” cậu ta nói. “Cô là người nhận Helen về làm giúp việc. Helen đâu rồi?”
“Ở trong nhà.”
“Thế không ai mời cô vào trong nhà à?”
Cậu ta chắc trạc tuổi Helen, cô nghĩ. Mười bảy hay là mười tám. Thanh mảnh, điển trai và hợm hĩnh, với một bầu nhiệt huyết nông nổi có lẽ sẽ không đưa cậu ta đi xa như vẫn mong đợi. Cô đã gặp vài đứa như thế rốt cuộc trở thành tội phạm vị thành niên. Nhưng cậu trai này có vẻ hiểu chuyện. Cậu ta có vẻ hiểu được rằng cô đang kiệt sức và đang trong trạng thái bất ổn.
“June cũng trong đó à?” cậu ta hỏi. “June bà mẹ tôi.”
Tóc cậu ta cũng nhuộm giống June, điểm mấy lọn vàng kim trên nền tóc sẫm. Cậu ta để tóc khá dài, rẽ ngôi giữa, cứ rủ xuống hai bên.
“Cả Matt nữa?” cậu nói.
“Ừ. Cả ông xã tôi nữa.”
“Thật đáng xấu hổ.”
“Ồ, không đâu,” cô nói. “Họ có bảo tôi vào. Nhưng tôi muốn đợi ngoài này hơn.”
Trước đây, Neal có đôi lần mang vài đứa trong bọn Ma cà bông của gã về nhà, để hướng dẫn chúng cắt cỏ hay sơn nhà hay làm nghề mộc cơ bản. Gã nghĩ như thế tốt cho chúng, khi được đón nhận ở nhà riêng của người khác. Jinny cũng thỉnh thoảng tán tỉnh ỡm ờ với chúng, theo cách mà không ai có thể bắt tội cô được. Chỉ là giọng nói êm dịu, một vài cử chỉ để chúng ý thức được chiếc váy mềm mại và mùi hương xà phòng tắm của cô. Không phải vì thế mà Neal thôi không đưa đứa nào về nhà nữa. Nhà trường có ý kiến rằng như thế là ra ngoài khuôn khổ.
“Thế cô đợi bao lâu rồi?”
“Tôi không biết.” Jinny nói. “Tôi không mang đồng hồ.”
“Thật à?” cậu ta nói. “Tôi cũng không mang. Tôi ít khi gặp người nào không mang đồng hồ lắm. Cô không bao giờ đeo đồng hồ sao?”
Cô nói, “Đúng vậy. Chẳng bao giờ?”
“Tôi cũng vậy. Chưa bao giờ. Tôi cũng chẳng bao giờ muốn đeo. Không biết tại sao. Chẳng bao giờ muốn. Kiểu như, tôi thường có thể nói ngay được giờ giấc bất cứ lúc nào. Chỉ sai số vài phút thôi. Không quá năm phút. Và tôi cũng biết tất cả những chỗ có đồng hồ. Trên đường đi làm, tôi nghĩ phải kiểm tra giờ, chỉ để chắc chắn lúc đó chính xác là mấy giờ. Và tôi biết nơi đầu tiên có thể xem giờ là nhìn đồng hồ trên nóc tòa án giữa các khu nhà cao tầng. Thường chênh không quá ba bốn phút. Cũng có khi khách ăn hỏi tôi mấy giờ, tôi cứ áng rồi nói đại. Họ thậm chí còn không để ý việc tôi chẳng đeo đồng hồ. Rồi ngay sau đó vừa rảnh ra là tôi đi xem giờ liền, đồng hồ trong nhà bếp. Nhưng chưa lần nào tôi phải ra báo lại giờ cho khách vì lệch quá.”
“Tôi cũng thỉnh thoảng đoán chuẩn được như thế,” Jinny nói. “Chắc là nếu không bao giờ đeo đồng hồ thì ta sẽ có được linh cảm về thời gian.”
“Ồ, đúng vậy.”
“Thế cậu nghĩ bây giờ là mấy giờ?”
Cậu ta cười. Cậu ta nhìn trời.
“Gần tám giờ. Tám giờ kém sáu, bảy phút gì đó? Nhưng lần này tôi có lợi thế. Tôi biết mấy giờ mình rời khỏi chỗ làm, sau đó tôi đi mua mấy điếu thuốc ở cửa hàng tạp hóa 7-Eleven, rồi tôi nói chuyện với mấy đứa khoảng vài phút trước khi đạp xe về nhà. Cô không sống ở thị trấn này phải không?”
Jinny xác nhận.
“Thế nhà cô ở đâu?”
Cô trả lời cậu ta.
“Cô mệt rồi phải không? Cô muốn về nhà chứ? Cô có muốn tôi vào nhà nói với chồng cô rằng cô muốn đi về không?”
“Không. Đừng làm thế,” cô nói.
“Được rồi. Được rồi. Tôi sẽ không làm thế. June chắc cũng đang xem bói cho họ ở trong nhà. Bà biết xem chỉ tay.”
“Biết thật à?”
“Biết thật. Bà có đến nhà hàng vài lần một tuần. Bà còn biết xem bói trà nữa. Xem bã trà.”
Cậu ta nhấc chiếc xe đạp lên và dắt ra khỏi mũi xe ô tô. Rồi cậu ta nhìn qua cửa kính bên ghế lái.
“Chìa khóa đang ở trong ổ điện,” cậu nói. “Vậy… cô có muốn tôi lái xe đưa cô về nhà không? Tôi sẽ cho xe đạp ra đằng sau. Chồng cô có thể nhờ Matt chở họ được thì June cũng lái xe được. June là mẹ tôi nhưng Matt không phải là bố tôi. Cô có lái được xe không?”
“Không,” Junny nói. Cô đã thôi lái xe từ mấy tháng trước.
“Tôi cũng nghĩ thế. Vậy cứ thế nhé? Cô muốn tôi lái chứ? Được chứ?”
* * *
“Đây là con đường tôi rành hơn. Đường đi này cũng đến đó nhanh như ra đường cao tốc.”
Họ vẫn chưa ra khỏi khu ấy. Đúng ra họ đi theo hướng ngược lại, theo một con đường nhỏ hình như chạy vòng quanh bãi sỏi. Dù sao thì họ cũng đang đi về hướng Tây, về phía trời còn sáng nhất. Ricky - là cái tên cậu ta tự giới thiệu với Jinny - chưa bật đèn pha lên.
“Không sợ gặp ai,” cậu ta nói. “Tôi nghĩ mình chưa bao giờ gặp một chiếc xe nào trên con đường này. Nhìn xem… không mấy ai biết có con đường này ở đây.”
“Và nếu tôi bật đèn lên,” cậu ta nói tiếp, “thì ánh đèn sẽ át hết ánh sáng tự nhiên từ bầu trời, và xung quanh sẽ tối sẽ không nhìn thấy rõ cảnh vật. Cứ chờ thêm một chốc nữa, cho đến khi nhìn thấy sao trên trời, thì đến lúc đó mới cần bật đèn.”
Bầu trời như một tấm kính nhuộm nhẹ một thoáng sắc đỏ, hay vàng, hay xanh lục hoặc xanh lam, tùy từng góc nhìn.
“Như thế có ổn không?”
“Được,” Jinny nói.
Các lùm cây, bụi cỏ sẽ tối đen một khi bật đèn pha lên, rồi sẽ chỉ nhìn thấy những cụm đen dọc đường, với bóng đen của các mảng cây ken đặc đằng sau, thay vì, như bây giờ, vẫn còn trông rõ cây nào ra cây ấy, nào tuyết tùng, nào là vân sam, nào là bách lạc diệp với những tán lá trông như lông vũ, nào những bụi hoa móng tay với những chùm hoa rực lên như những đốm lửa. Cảm giác như chúng ở gần đến mức chạm tay vào được, và xe đang chạy với tốc độ chậm. Cô thò tay ra ngoài.
Không chạm tới được. Nhưng rất gần. Đường hẹp quá, chắc chỉ rộng hơn thân xe một chút thôi.
Cô nghĩ mình nhìn thấy ánh phản chiếu từ một hồ nước phía trước.
“Ở đằng trước có nước phải không?” cô nói.
“Ở đằng trước à?” Ricky nói. “Nước ở đó và ở khắp nơi. Cả bên trái và bên phải chúng ta cũng có nước và rất nhiều nước phía dưới. Cô muốn xem không?”
Cậu ta cho xe chạy chậm lại rồi dừng hẳn. “Cô nhìn xuống bên phải xem,” cậu ta nói. “Mở cửa xe mà xuống.”
Cô làm theo và nhận ra rằng họ đang ở trên một cây cầu. Một cây cầu nhỏ dài không qua ba thước, với các khúc gỗ lót ngang làm sàn. Không có lan can ở hai bên. Và nước ở bên dưới dường như tĩnh lặng tuyệt đối.
“Quanh đây toàn là cầu,” cậu ta nói. “Và ở những chỗ không có cầu thì sẽ có cống tràn. Vì nước luôn chảy qua chảy lại bên dưới đường. Hoặc đọng nguyên một chỗ chẳng chảy đi đâu cả.”
“Sâu không?” cô hỏi.
“Không sâu. Vào mùa này thì không. Không sâu cho tới khi chúng ta đến hồ lớn - ở đó sâu hơn. Rồi đến mùa xuân thì nước tràn hết lên đường, lúc đó thì rất sâu, xe không chạy được. Con đường này rất bằng phẳng và chạy thẳng một mạch nhiều cây số. Thậm chí cũng chẳng có giao lộ nào cắt ngang. Đây là con đường duy nhất tôi biết đi xuyên qua đầm Borneo.”
“Đầm Borneo?” Jinny nhắc lại.
“Đó là tên người ta thường gọi.”
“Có một hòn đảo tên là Borneo,” cô nói. “Ở cách đây nửa vòng trái đất.”
“Tôi không biết điều đó. Tôi chỉ biết ở đây gọi là đầm Borneo.”
Rồi chợt thấy có một vệt cỏ đen mọc ở giữa đường.
“Đến lúc lên đèn rồi,” cậu ta nói. Cậu ta bật đèn lên và họ như đang ở trong một đường hầm khi xung quanh đột ngột tối đèn.
“Một lần khi tôi làm thế này,” cậu nói. “Tôi bật đèn lên như thế, và có một con nhím. Nó đứng ở giữa đường. Nó đứng thẳng trên hai chân sau và nhìn thẳng vào tôi. Trông giống như một ông già nhỏ thó vậy. Nó đang sợ chết khiếp đến nỗi không cử động được. Tôi còn nhìn thấy được cả những chiếc răng già nua đánh vào nhau lập cập.”
Cô nghĩ, đây là chỗ cậu ta hay đưa các cô gái đến.
“Vậy tôi phải làm thế nào? Tôi cố bóp còi, vẫn chẳng ăn thua gì. Tôi không muốn xuống xe để đuổi nó đi. Nó đang sợ thật, nhưng nó vẫn là nhím và nó có thể bắn lông. Nên tôi cứ đậu xe ở đó. Tôi chẳng vội gì mà. Khi tôi bật đèn lên lần nữa thì nó đã biến mất.”
Giờ đây các cành cây thật sát và quệt cả vào cửa xe, nhưng nếu có hoa trên cây đi chăng nữa thì cô cũng chẳng nhìn thấy được.
“Tôi sẽ chỉ cho cô cái này,” cậu ta nói. “Tôi sẽ chỉ cho cô điều mà tôi cá là cô chưa bao giờ thấy.”
Nếu tình huống này xảy ra khi cô còn có cuộc sống bình thường trước đây, hẳn cô đã bắt đầu thấy hoảng sợ. Nhưng nếu cô còn có cuộc sống bình thường lúc trước thì cô đã chẳng thể nào đến đây.
“Cậu chuẩn bị cho tôi xem con nhím đây,” cô nói.
“Không. Không phải. Thứ còn hiếm hơn nhím nhiều. Ít nhất là theo tôi được biết.”
Đi được chừng nửa cây số nữa thì cậu ta tắt đèn.
“Cô thấy các vì sao không?” cậu ta nói. “Tôi đã nói mà. Sao trời?”
Cậu ta dừng xe. Thoạt tiên xung quanh cực kỳ tĩnh lặng. Rồi khối tĩnh lắng đó bị xâm chiếm từ bốn phía bởi một âm thanh đều đều, có thể là tiếng xe cộ từ xa, kèm thêm các tiếng động nhỏ chưa kịp nghe rõ thì đã tắt lịm, có thể là âm thanh của các con vật ăn đêm hay chim chóc hay loài dơi.
“Nếu đến đây vào mùa xuân,” cậu ta nói, “sẽ không nghe thấy gì ngoài tiếng ếch nhái. Tưởng như có thể điếc tai vì tiếng ếch.”
Cậu ta mở cửa bên phía ghế lái.
“Xuống xe đi bộ với tôi một đoạn đi.”
Cô làm theo. Cô đi theo vết một bên bánh xe, cậu ta theo vết bên kia. Bầu trời phía trước dường như sáng hơn, và có một âm thanh khác xen vào - nghe như tiếng đối thoại rầm rì và có nhịp điệu.
Bề mặt đường giờ đây toàn là gỗ, và không thấy hàng cây hai bên nữa.
“Cứ bước lên đi,” cậu ta nói. “Đi tiếp đi.”
Cậu ta lại gần bên và chạm và eo cô như thể đang dẫn đường cho cô. Rồi cậu ta rút tay về, để mặc cô bước lên những tấm gỗ như trên boong một con thuyền vậy. Như trên boong thuyền, vì sàn gỗ đang dập dềnh lên xuống. Nhưng không phải theo nhịp sóng, mà theo nhịp bước chân, của hai người, khiến các tấm gỗ dưới chân họ hơi sụt xuống rồi lại trồi lên.
“Giờ cô biết mình đang ở đâu không?” cậu ta hỏi.
“Trên một bến tàu à?” cô nói.
“Trên một chiếc cầu. Cầu phao.”
Giờ thì cô đã nhìn ra - các tấm gỗ trải đường chỉ cách mặt nước phẳng lặng chừng mươi phân. Cậu ta kéo cô đến sát bên và họ cùng nhìn xuống. Những vì sao như đang lướt lên mặt nước.
“Nước ở đây rất sậm màu,” cô nói. “Ý tôi là… không phải sậm vì đêm tối, đúng không?”
“Lúc nào nước ở đây cũng sẫm,” cậu nói vẻ tự hào. “Vì đây là đầm. Nước ở đây có chất như nước trà và trông cũng giống màu nước trà đen.”
Cô bắt đầu nhìn được bờ, và những luống cỏ lác. Nước ở trong đám cỏ lác, nước vỗ vào bờ tạo nên âm thanh rì rầm cô vừa nghe thấy.
“Chất ta nanh,” cậu ta nói, phát âm từ đó một cách đắc ý như vừa moi được nó ra từ đêm tối.
Nhịp chuyển động nhẹ nhàng của cây cầu phao khiến cô tưởng tượng rằng cây cối và những đám cỏ lác mọc ở trên một chiếc đĩa đất, con đường là một dải đất bập bềnh còn bên dưới toàn là nước. Và nước thì có vẻ như rất tĩnh lặng, nhưng thực ra không thể tĩnh lặng đến thế, vì nếu ta nhìn cố định vào bóng của một ngôi sao, ta sẽ thấy nó rung rinh và nhòa đi rồi trượt khỏi tầm nhìn. Rồi hình ảnh ngôi sao lại tụ lại, nhưng chắc không còn là ngôi sao cũ nữa.
Chẳng phải đến lúc này cô mới nhận ra mình không mang mũ. Không chỉ riêng tại thời điểm đó cô đang không đội mũ, mà từ lúc ngồi trên xe cô cũng chẳng còn đội mũ nữa. Cô đã không đội mũ từ lúc rời xe đi giải và từ khi bắt đầu nói chuyện với Ricky. Cô cũng chẳng mang mũ khi cô ngồi trong xe, đầu tựa vào ghế và mắt nhắm nghiền, khi Matt kể câu chuyện cười của ông ta. Chắc cô đánh rơi mũ trong ruộng ngô, khi đang phát hoảng vì lạc đường và không để ý tìm lại mũ.
Trong suốt thời gian cô sợ nhìn thấy cái rốn lồi được phủ dưới tấm áo phông màu tím của Matt, thì ông ta chẳng nề hà gì khi nhìn vào chỏm đầu trọc của cô.
“Chán quá, trăng vẫn chưa lên,” Ricky nói. “Khi trăng lên cảnh ở đây đẹp lắm.”
“Giờ cũng đẹp rồi mà.”
Cậu ta luồn hai cánh tay quanh người cô như thể không có gì phải băn khoăn về việc mình đang làm, như thể cậu ta muốn có bao nhiêu thời gian để làm việc đó cũng được. Cậu ta hôn bên miệng cô. Đối với cô, dường như đây là lần đầu tiên cô góp phần trong một nụ hôn không đơn thuần chỉ là nụ hôn, mà là nguyên một sự kiện. Cả câu chuyện này cũng là cả một sự kiện. Một khúc dạo đầu nhẹ nhàng, một áp lực vừa đủ, một bước thăm dò và đón nhận nhiệt tình, một lời cảm ơn nấn ná, và một sự rút lui trong mãn nguyện.
“Ôi,” cậu ta nói. “Ôi trời.”
Cậu ta xoay cô lại, và họ cùng trở về phía chiếc xe. “Đây có phải là lần đầu cô đi trên cầu phao không?”
Cô nói đúng vậy.
“Còn giờ thì cô sắp lái xe đi trên đó.”
Cậu ta cầm bàn tay cô và vung mạnh như muốn hất tay cô đi.
“Và đây là lần đầu tiên tôi hôn một phụ nữ có chồng?”
“Cậu chắc sẽ còn được hôn nhiều phụ nữ có chồng nữa,” cô nói. “Trước khi cậu tới số.”
Cậu ta thở dài. “Ờ,” cậu ta nói. Vẻ như bị choáng ngợp và trầm ngâm với những nghĩ về tương lai. “Ờ, chắc sẽ vậy.”
Jinny chợt nghĩ đến Neal, đang ở trên đất liền. Neal nhẹ dạ và đa nghi đang chìa bàn tay chịu sự soi xét của người phụ nữ có những dải tóc sáng màu, một bà thầy bói. Hồi hộp trước ngưỡng cửa tương lai của mình.
Chẳng sao hết.
Giờ cô chỉ có cảm giác mê say hơi bâng lâng, gần như vui vẻ. Một luồng phấn khích nhẹ đang át hẳn những nỗi đau và sự trống rỗng trong cô, vào lúc này.​
 


Top