8 Ông Trùm xã hội đen khét tiếng ở Việt Nam

Cloud

Bạn có muốn những câu chuyện của các ông trùm chuyển thể thành phim?


  • Tổng số lượt bình chọn
    12
Hà Nội: Khánh Trắng, Phúc "Bồ", Sơn "Bạch Tạng"
Hải Phòng: Dung Hà, Cu Nên, Lâm "Già"
Sài Gòn: Đại Cathay, Năm Cam

1. Trương Văn Cam ( Năm Cam)
photo1498005087035-1498005088153-0-0-298-480-crop-1498005221027.jpg
Năm Cam (1947 - 2004) tên khai sinh: Trương Văn Cam là một trùm xã hội đen ở Việt Nam, đặc biệt là tại thành phố Hồ Chí Minh. Năm Cam còn là bị cáo chính trong Vụ án Năm Cam và đồng bọn (chuyên án Z5.01) nổi tiếng Việt Nam.

Năm Cam và băng nhóm của mình trong quá trình bảo kê các nhà hàng karaoke và các tụ điểm đánh bạc ở Thành phố Hồ Chí Minh đã gây nhiều tội hình sự. Năm Cam bị tòa án Việt Nam tuyên có tội tháng 10 năm 2003 và bị tử hình vào tháng 6 năm 2004.

Vụ xét xử Năm Cam và đồng bọn đã gây sự chú ý của dư luận Việt Nam và trên thế giới. Số lượng tội phạm ra hầu tòa là 156, ở mức kỷ lục. Phiên xử sơ thẩm kéo dài từ tháng 2 đến tháng 6 năm 2003 với bản án dài hàng trăm trang.

Việc phá được Vụ án Năm Cam được báo giới và chính quyền Việt Nam công nhận là một chiến công lớn trong phòng chống tội phạm. Bên cạnh đó vụ án cũng được coi là mang ý nghĩa chống tham nhũng.

Năm Cam bắt đầu hoạt động trong giới giang hồ khi còn rất trẻ. Ban đầu làm chân gác sòng bạc cho người anh rể Bảy Sy (Nguyễn Văn Sy) ở khu vực Cầu Muối, quận 1, thuộc địa bàn bảo kê trước đây của Lê Văn Đại (Đại Cathay), là đối tượng hoạt động cờ bạc chuyên nghiệp cùng với Thành "đô la", Sáu Nhã (Nguyễn Văn Nhã), khi có kinh nghiệm hơn thì được giữ vai trò phát hỏa, cắm xường trong sòng bạc của Bảy Sy.

Tháng 12 năm 1962, để bảo vệ sòng bạc tại khu Da heo, hẻm 100 - Nguyễn Công Trứ, Bảy Sy dùng dao đâm chết Nguyễn Văn Lót (Trần Ánh Tuyết); Để cứu lấy sự nghiệp cờ bạc của anh rể, Năm Cam đã đứng ra nhận tội. Do lúc đó đang ở độ tuổi vị thành niên, nên ngày 10 tháng 4 năm 1964, Tòa án Sài Gòn xử phạt 3 năm tù giam về tội "Cố ý đả thương nhân thương chí mạng". Trong tù, Năm Cam đã đánh một trung sỹ Việt Nam Cộng hòa chết. Tháng 1 năm 1965, Năm Cam được trả tự do.

Sau khi bị Đại Cathay thôn tính các sòng bạc ở quận 1, sòng bạc của Bảy Sy cũng bị xóa sổ, Năm Cam mất chỗ dựa của Bảy Sy, đến cầu cứu Nguyễn Văn Thành (Thành "cao") là trùm giang hồ quận 4 chuyên tổ chức các vụ "ăn bay" cướp hàng tiếp vụ của quân lực Việt Nam Cộng hòa, "trộm xế, nhập nha", xin nhập băng nhưng không được chấp nhận vì "bản lĩnh giang hồ' của Năm Cam còn quá ít, không phải giang hồ thứ thiệt như Thành "cao", Bắc "què", Sơn "xóm lách", Dũng "dưa", Thành "mắt lộ"...

Tháng 8 năm 1966, trong chiến dịch "bài trừ du đãng, chấn hưng đạo đức, thượng tôn pháp luật" của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, Đại Cathay và hầu hết giang hồ cộm cán ở Sài Gòn bị đày ra đảo Phú Quốc. Năm 1967, Bảy Sy được trả tự do ra trại, mua lại sòng bài cẩu của Năm Thông Lợi, gọi Năm Cam và Sáu Nhã (Nguyễn Văn Nhã) phụ giúp việc phát hỏa và cắm xường. Để giải quyết ân oán giang hồ, theo lệnh Bảy Sy, Năm Cam và Sáu Nhã lập kế hoạch giết Tài "chém" - một trùm giang hồ khét tiếng quận 1. Sự việc không thành, Năm Cam bị đàn em Tài "chém" truy đuổi. Sau đó nhờ nhờ Thành "cao" xin tha cho mạng sống của Năm Cam và Thành "cao" đã xin cho Năm Cam nhập ngũ Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong vị trí lính kiểng quân tiếp vận thuộc Đại đội 313, đóng quân tại đường Nguyễn Văn Thoại (nay là đường Lý Thường Kiệt, quận 11), Sài Gòn, sau là vận động viên bơi lội thuộc Cục Quân vận Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Năm 1971, Năm Cam bị Cảnh sát hàng Keo, Sài Gòn bắt giữ về tội đánh bạc, bị giam bảy ngày, sau đó giao cho Tòa án Quân sự Sài Gòn xử lý và trả về đơn vị cũ.

Hoạt động của Năm Cam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, chưa có một vai trò gì đáng kể trong giới giang hồ và các tổ chức tội phạm ở Sài Gòn, chỉ "ăn theo" hoặc núp bóng người khác như vai trò gác sòng, cắm xường, phát hỏa cho sòng bạc, tuy nhiên đã manh nha thành một tội phạm giang hồ nguy hiểm. như thằng này. Sau khi chính phủ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975, Năm Cam ra trình diện Ban Quân quản Quận 4, đã bị đưa đi học tập cải tạo ba ngày tại phường Lý Nhơn (nay là phường 6, quận 4, thành phố Hồ Chí Minh). Sau khi học tập cải tạo, Năm Cam làm nghề buôn bán đồng hồ cũ, radio cũ tại chợ trời Huỳnh Thúc Kháng, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Do không đủ uy tín trong giới cờ bạc, Năm Cam tìm tới Tám Phánh (một chủ sòng bạc lớn ở Sài Gòn trước năm 1975), dựa vào đó, Năm Cam đã trình bày chiến thuật mới được Tám Phánh chấp thuận là tổ chức đánh bạc vào giờ nghỉ của cơ quan hành chính, thời gian kéo dài khoảng hai tiếng, chọn lựa khách quen, xong thì giải tán.

Nuôi ảo vọng thống nhất giang hồ cả nước và thành "minh chủ", Năm Cam “bắt tín hiệu” với Thắng “Tài Dậu”, một "ông trùm" Hà Nội. Mùa đông năm 1999, Năm Cam bay ra Hà Nội và được Thắng “Tài Dậu” tổ chức một lực lượng hùng hậu đi trên 10 xe ôtô con ra tận sân bay đón.
>> Thắng “Tài Dậu” làm gì để thọc tay vào lĩnh vực bóng đá?

Trở lại chuyện Năm Cam và Thắng “Tài Dậu”, thực sự hai con người này chẳng hề có duyên nợ với nhau, chẳng qua là chuyện kẻ cắp bà già gặp nhau mà thôi.

Nếu đầu những năm 90 của thế kỷ trước, Thắng “Tài Dậu” mò vào TP Hồ Chí Minh "tầm sư học đạo" không được Năm Cam để mắt tới thì năm 1995, Trương Văn Cam lại bị UBND TP Hồ Chí Minh ra quyết định tập trung cải tạo 3 năm và thi hành án phạt tại Trại Thanh Hà, Vĩnh Phú < Biển 19 nhà mình đó:D>và đó là cơ hội để "xe duyên" cùng nhau.

Trước khi Năm Cam bị bắt đi tập trung cải tạo, hắn đã nghe ngóng thấy vận đen sắp tới nên đã vội liên lạc với kẻ cầu cạnh mình năm xưa là Thắng “Tài Dậu”. Mặc dù lúc này Thắng “Tài Dậu” đã có số có má và rủng rỉnh tiền bạc nhưng vẫn phục và thấy cần bắt tay với Năm Cam để mở rộng lãnh địa độc quyền khoản cá độ bóng đá ở miền Bắc. Vì thế, Thắng vội nắm lấy cơ hội "vàng" này mà nhận lời giúp Năm Cam.

Sau khi nhận được tín hiệu của Thắng “Tài Dậu”, Năm Cam dẫn Hiệp “phò mã" bí mật ôm theo 10.000 USD ra Hà Nội để chạy án. Thắng dẫn Năm Cam đến gặp Thuyết “buôn vua" - Trần Văn Thuyết và trao hết số tiền trên cho Thuyết.

Đến lúc bị bắt vào trại, Năm Cam tiếp tục chỉ đạo cho Hiệp “phò mã” và Long “đầu đinh” ra hẳn Hà Nội để luôn sát cánh với Thắng “Tài Dậu”, Thuyết “buôn vua” lo "chạy" cho Năm Cam. Hiệp “phò mã” và gia đình đã phải cầm cố 1 căn nhà và bán 1 xe ôtô Nissan để lấy 1,3 tỷ đồng lo chạy án.

Tháng 10/1997, Năm Cam ra trại và tiếp tục bỏ tiền mua chuộc một số cán bộ tha hoá biến chất để bao che cho việc mở lại hàng loạt sòng bạc và tổ chức bảo kê của Năm Cam tại TP Hồ Chí Minh. Năm Cam lại trở lại vị trí trùm xã hội đen tại TP Hồ Chí Minh.

Thời điểm này, tại Hà Nội và các tỉnh phía Bắc, lực lượng Công an thường xuyên tổ chức các đợt truy quét tội phạm hình sự. Đám giang hồ "trà Bắc" cộm cán như Cường “híp", Thành “chân", Thắng “chập", Hải “bánh", Dũng “đui", Dũng “Bắc Kạn", Ngọc “đói"… Mỗi tay giang hồ cộm cán này kéo theo hàng chục đàn em máu lạnh nữa chạy vào TP Hồ Chí Minh tìm đất nương thân.

Những năm 1998-2000, Hải “bánh” được Năm Cam trọng dụng, nhiều trùm giang hồ "trà Bắc" cũng tìm cách bắt tay với Năm Cam để yên thân. Vì thế, Năm Cam đã nuôi ảo vọng thôn tính toàn bộ giới giang hồ cả nước về một mối và hắn sẽ là ông trùm.

Thông qua Thắng “Tài Dậu” và các trùm giang hồ khác, Năm Cam biết tiếng và bắt quen với Dung “hà”. Ở tận Hải Phòng nhưng Dung “hà” là một trùm giang hồ cộm cán nhất và luôn có sự thách thức với Năm Cam. Tuy nhiên, lúc này Dung “hà” đang cần hình bóng của Năm Cam để đánh bóng cho tên tuổi của mình trong giới giang hồ. Vì thế khi bà Xẩm, chị ruột Năm Cam chết, Dung “hà” liền điều gần hai chục tên đàn em có số má, bay từ Hải Phòng vào TP Hồ Chí Minh để viếng đám tang bà Xẩm.

Ít bữa sau, bố Dung “hà” qua đời, Năm Cam tỏ ra coi thường và chỉ nhờ Thắng “Tài Dậu” cho một đệ tử từ Hà Nội vác một vòng hoa xuống Hải Phòng viếng. Vụ coi thường này đã làm cho Dung “hà” mất mặt với đám đàn em và lộn tiết lên đầu.

Vừa lo xong đám tang bố mình, Dung “hà” đã sai đám đàn em ở TP Hồ Chí Minh đến các sòng bạc của Năm Cam bảo kê quậy tưng bừng. Năm Cam hoảng sợ trước những chiêu quấy rối của Dung “hà” nhưng cũng chưa thể tìm ra cách gỡ.

Lại nói về Thắng “Tài Dậu”, sau những phi vụ "quên mình" cùng Thuyết “buôn vua” cứu "chúa", Năm Cam và Thắng “Tài Dậu” tỏ ra khăng khít hơn. Đầu năm 1999, để trả ơn Thắng “Tài Dậu”, Năm Cam đã mời Thắng “Tài Dậu” vào TP Hồ Chí Minh chơi. Năm Cam mở tiệc khoản đãi Thắng “Tài Dậu” từ rượu ngon đến gái đẹp.

Cũng trong những ngày ở TP Hồ Chí Minh, Thắng “Tài Dậu” và Năm Cam đã thống nhất với nhau việc mở rộng lĩnh vực cá độ bóng đá ra các tỉnh phía Bắc, tiến tới hợp nhất giới giang hồ cả nước cũng như tìm cách dàn hòa với Dung “hà”. Vì thế, mùa đông năm 1999, nhân đám cưới con gái Hội “con”, cháu Thắng “Tài Dậu”, Hải “bánh” và chuyên gia cờ bạc Tạ Đắc Lung (Lý đôi) đã tháp tùng đưa Năm Cam bay ra Hà Nội.

Tại Hà Nội, Thắng “Tài Dậu” tổ chức một lực lượng hùng hậu đi trên 10 xe ôtô con ra tận sân bay đón Năm Cam. Từ sân bay, đoàn xe chạy thẳng về phố Lương Sử A để Năm Cam ghé thăm sòng của Thắng “Tài Dậu”, sau đó cả đoàn kéo nhau về nghỉ tại khách sạn Las Vegas của Long “vàng". Được dịp trả lễ, Thắng “Tài Dậu” tổ chức khoản đãi lại Năm Cam. Tuy nhiên, cho đến lúc này, Thắng “Tài Dậu” vẫn chỉ là trọc phú mới phất.

Hai ngày sau, Năm Cam xuống Hải Phòng để gặp Dung “hà”. Dung “hà” cho Kỳ “hoác" một đàn em tin cẩn mang xe Mazda 929 lên Hà Nội đón. Năm Cam đề phòng Dung “hà” chơi xấu nên không đi với Kỳ “hoác" mà nhảy sang ngồi xe của Hải “bánh” và Hải “bụi".

Xe chạy thẳng về siêu thị của Dung “hà” trên đường Điện Biên Phủ, Hải Phòng. Tại đây, Năm Cam hạ giọng xin lỗi Dung “hà” và xin được ra mộ thắp hương cho bố Dung “hà”. Ở nghĩa trang gần ngôi mộ bố Dung “hà” lúc ấy có mấy cái huyệt đã được đào sẵn, Dung “hà” kêu Hải “bánh” tới nói gở: "Trên cõi đời này người giết tao chỉ có mày! Nếu tao chết đừng bó chiếu mà hãy hòm ván đàng hoàng và đưa tao về nằm chỗ cái huyệt này nhé".

- Em đừng nói gở như vậy! - Năm Cam nghe thấy chặn lại.

- Tôi chết còn có chỗ chôn, còn anh chết không biết chôn ở chỗ nào đâu? - Dung “hà” thừa cơ đốp lại…

Sau đó cả hai dàn hòa, Dung “hà” thành thật: "Sắp tới em vào Sài Gòn sống, có gì anh Năm giúp đỡ nhé!". Năm Cam nhận lời và hứa giúp đỡ. Sau đó cả đoàn kéo nhau ra Đồ Sơn nghỉ. Trong hai ngày Năm Cam và bầu đoàn ở Đồ Sơn, Dung “hà” còn điều hẳn hơn chục gái điếm hạng sang từ Hải Phòng xuống để phục vụ Năm Cam và đồng bọn.

Tháng 8/2000, thấy Hải “Bánh” được việc nên Năm Cam nâng đỡ bằng cách cho nhiều tiền bạc. Năm Cam còn hào phóng cho Hải “Bánh” tham gia cổ phần "bảo kê" vũ trường Phi Thuyền số 34 đường Tôn Đức Thắng, quận 1, TP HCM. Mỗi tháng Năm Cam chia cho Hải Bánh 10 triệu đồng. Năm Cam còn cho Hải “Bánh” tiền để thuê căn nhà số 21 đường Thủ Khoa Huân phường Bến Thành, quận 1, để mở tiệm cắt tóc thanh nữ "Vân's". Toàn bộ lợi nhuận từ quán cắt tóc này Năm Cam cho Hải “Bánh” hết để nuôi đám đàn em.

Thời điểm này là thời điểm huy hoàng nhất của Hải “Bánh”, lúc nào tiền cũng đầy túi, cổ nặng trĩu sợi dây xích bằng vàng 24K, ăn mặc thì toàn hàng hiệu và trên tay lúc nào cũng lóng lánh chiếc nhẫn kim cương gần 10 cara.

Cùng thời điểm này thì công tác truy quét tội phạm ở Hải Phòng và Hà Nội của lực lượng Công an làm quá mạnh, Dung “Hà” cùng đám đàn em từ Hải Phòng hết đất làm ăn nên bỏ vào TP HCM. Lúc này đứng đằng sau Dung “Hà” là Minh “Sứt”, một tên trùm buôn lậu ma túy cũng muốn lợi dụng số má của Dung “Hà” để xưng hùng xưng bá và phục vụ cho việc kinh doanh cái chết trắng của hắn. Vì thế Minh “Sứt” luôn đứng đằng sau kích động Dung “Hà” ra mặt tranh chấp lãnh địa với trùm Năm Cam.

Dung “Hà” nghe tin Hải “Bánh” được Năm Cam đỡ đầu trở lên giàu có thì hết sức tức tối. Một hôm, Dung “Hà” gặp Hải “Bánh” và lên giọng đàn chị: "Hiện số đàn em của chị vào đây khá đông, chú hưởng lộc ở Phi Thuyền là đủ rồi, tất cả lợi nhuận thu được từ tiệm cắt tóc thằng em phải nộp cho chị để nuôi chúng nó, nếu không chị sẽ cho đàn em đi quậy phá và thu tiền bảo kê ở các nhà hàng, vũ trường, bất kể là của ai...".

Dung “Hà” còn ra yêu sách cho Hải “Bánh” phải dẫn Dung “Hà” đi gặp chủ vũ trường Phi Thuyền để thông cáo các điều kiện: Thứ nhất, cho Dung “Hà” đóng góp cổ phần 1 triệu đồng nhưng lợi nhuận thì phải chia bằng cổ đông cao nhất. Thứ hai là, chủ vũ trường Phi Thuyền phải mua luôn căn nhà số 21 Thủ Khoa Huân cho Hải “Bánh” và Dung “Hà”. Thứ ba, Hải “Bánh” bỏ Năm Cam về phụ Dung “Hà” mở sòng bạc, mỗi ngày hoạt động ba ca và nhường cho Hải “Bánh” phụ trông coi một ca, bằng không Dung “Hà” sẽ quậy cho cả thầy lẫn tớ hết đường làm ăn.

Tất cả những yêu sách của Dung “Hà” Hải “Bánh” đều báo cáo lại chi tiết với Năm Cam. Theo lệnh của Năm Cam, Hải “Bánh” trả lời thẳng tưng với Dung “Hà” rằng, chủ vũ trường Phi Thuyền không chấp nhận yêu sách trên.

Để chứng minh lời nói của mình không phải chỉ để gió bay, giữa tháng 9/2000, Dung “Hà” cho đàn em mang tới tiệm cắt tóc của Hải “Bánh” 2 xô phân người và tưới khắp nhà, Dung “Hà” còn buộc Hải “Bánh” phải gỡ máy lạnh ở tiệm cắt tóc: "Cho chị mượn đỡ vì chị khó khăn quá, chưa sắm được".

Chưa dừng ở đó, Dung “Hà” cho đàn em tới quậy phá vũ trường Monaco của Năm Cam, tổ chức chém nhau tại một sòng bạc ở cầu Hang, Đồng Nai và những sòng bạc khác do Năm Cam bảo kê. Đêm 29/9/2000, Dung “Hà” tiếp tục "đại náo" vũ trường Phi Thuyền bằng cách tổ chức một tiệc sinh nhật giả để cho khoảng 20 đàn em vào vũ trường này quậy phá ném mắm tôm, chuột chết, phân người, rắn rết xuống sàn nhảy. Đêm hôm ấy, hơn 200 thực khách đang nhảy nhót ở vũ trường Phi Thuyền bị một phen hồn vía lên mây, mạnh ai nấy tìm đường thoát khỏi vũ trường. Sau đó Dung “Hà” tiếp tục bắt Hải “Bánh” phải buộc chủ Phi Thuyền thực hiện yêu sách đã đề ra, nếu không Dung “Hà” sẽ tiếp tục quậy nát vũ trường...

Sau tiệc sinh nhật kinh hoàng đêm 29/9/2000 tại vũ trường Phi Thuyền, Năm Cam tức giận đến mức ăn không ngon, ngủ không yên. Công cuộc kinh doanh của “ông trùm” đang ngon trớn thì bị một con tiểu yêu phá phách. Hắn đã nghĩ đến việc "cần phải trừ khử mẹ già đất Cảng" và thời cơ sử dụng Hải “Bánh” vào việc lớn đã đến.

Năm Cam giả bộ nhiều lần điện thoại cho Hải “Bánh” than vãn về Dung “Hà” với giọng điệu gay gắt. Khi biết Hải “Bánh” đã hiểu ý mình thì, Năm Cam gọi điện liên tục cho Hải “Bánh” và chửi thề trong điện thoại: "Đ.M anh không thể chịu đựng được nữa em biết không... anh không muốn nhìn thấy mặt con Dung “Hà” nữa... anh muốn nó "biến khỏi" mảnh đất này - Năm Cam dằn giọng".

Sau đó Năm Cam đã trực tiếp gặp Hải “Bánh” và ngầm chỉ đạo cho Hải “Bánh” giết Dung “Hà”: "Từ giờ đi đâu em cũng phải mang theo súng". Hải “Bánh” thừa hiểu, Năm Cam nói thế nghĩa là chỉ thị cho Hải “Bánh” phải lấy mạng Dung “Hà”.

Lúc này Hải "Bánh" có rất nhiều đàn em bị Cơ quan điều tra Việt Nam truy nã đã lẩn trốn sang các nước Đông Âu như Đức, Nga... Bọn chúng vẫn sống bằng nghề "bảo kê" cho các doanh nhân mới người Việt làm ăn ở nước ngoài và luôn có mối liên hệ với Hải "Bánh". Nhận được "lệnh" của ông trùm, Hải "Bánh" thừa biết, nếu đàn em trong nước ra tay thì sớm muộn gì Công an cũng lần ra. Vì thế hắn đã điều động hai tên đàn em từ Nga về Việt Nam hạ sát Dung “Hà”. Kế hoạch này được Hải “Bánh” giữ kín cho đến khi thành án và đưa lên Trại cải tạo Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai thì Hải “Bánh” mới tiết lộ với chúng tôi trong một lần cao hứng.

Trong lúc hai tên đàn em Hải “Bánh” từ Nga bay về Việt Nam để thực hiện việc lấy mạng Dung “Hà” thì Năm Cam tỏ ra nôn nóng và không kiềm chế được nên gặp Hải “Bánh” càm ràm về vụ Dung “Hà”: "Chú đã nhận việc của anh rồi mà sao không thực hiện... Đ.M. không thì phá banh luôn đi có gì liên quan đến pháp luật thì để anh lo liệu... em làm sao thì làm miễn là anh không còn nhìn thấy nó...".

Hải “Bánh” báo cáo việc hắn đã điều hai tên đàn em từ Nga về và sẽ ra tay trong ngày một ngày hai, Năm Cam thừa biết Hải “Bánh” sẽ sớm xử Dung “Hà” nên hắn ranh ma hẹn hôm sau đi ăn cơm trưa với Hải "Bánh". Chẳng ngu gì mà đi ăn trưa với tên giết người để "lạy ông tôi ở bụi này", sáng hôm sau, Năm Cam gọi điện lại cho Hải “Bánh” nói là phải đi Nha Trang có việc gấp để tạo chứng cứ ngoại phạm và đánh lạc hướng điều tra của cơ quan luật pháp. Sau đó Năm Cam tiếp tục gọi nhiều cuộc điện thoại liên lạc với một số bác sĩ Bệnh viện Chợ Rẫy để xin nhập viện và hắn đã làm thủ tục nhập viện thật.

Cùng thời điểm này, lúc nào bên cạnh Hải “Bánh” cũng có hai tên đàn em máu lạnh là Hưng "phi nhon" (Nguyễn Việt Hưng) và Trường "xoăn" luôn trung thành với Hải “Bánh”, cả hai sẵn sàng thực hiện việc giết người nếu Hải “Bánh” bật tín hiệu. Việc Năm Cam la rầy Hải “Bánh” làm Hải “Bánh” bực dọc và một lần không kiềm chế được, Hải “Bánh” đã thổ lộ với hai tên đàn em Hưng "phi nhon" và Trường "xoăn" việc Năm Cam chỉ đạo lấy số Dung "Hà".

Đêm 1/10/2000, Minh "sứt" điện thoại cho Dung "Hà" hẹn đến nhà Dung "Hà" bàn việc cần. Gội đầu xong, Dung "Hà" vẫn chưa thấy Minh "sứt" tới, do nóng ruột, Dung "Hà" mất cảnh giác một mình ra trước cửa nhà số 17 đường Bùi Thị Xuân, phường Bến Thành, quận 1, TP HCM vừa hong tóc cho khô, vừa đợi Minh “sứt”.

Gần nửa đêm, Minh "sứt" chở vợ hai, tên là Nguyễn Thị Nghiệp, đến gặp Dung "Hà". Cả ba ngồi luôn ngoài đường nói chuyện. Trời xui đất khiến thế nào, Hưng "phi nhon" và Trường "xoăn" đi chơi về ngang qua đường Bùi Thị Xuân, thấy Dung "Hà" xuất hiện ngon quá, cả hai nghĩ tới thời cơ ngàn năm có một đã đến, phải lập công với đàn anh. Cả hai hộc tốc chạy về tâu với Hải “Bánh”. Hải “Bánh” không suy nghĩ lấy luôn điện thoại di động của mình cùng khẩu súng ngắn của Lưu Tấn Nhơn - Đằng “tây" gửi và đưa luôn chiếc xe Spacy của Anh Thư cho hai tên "tiểu yêu" chạy đi lấy số Dung "Hà".

Sau này khi đang thụ án, Hải “Bánh” có kể lại với chúng tôi rằng:

0h20, ngày 2/10/2000 Trường và Hưng rời vũ trường Phi Thuyền trên chiếc xe Spacy của Hải “Bánh” đưa chạy về đường Bùi Thị Xuân. Lúc này Hải “Bánh” bồn chồn như đứng trên đống lửa, chưa bao giờ Hải “Bánh” có tâm trạng lo lắng đến như vậy.

Hai tên "tiểu yêu" chạy xe ra chỗ Dung "Hà" thì phát hiện Minh "sứt" đang bỏ đi ra cách xa chỗ Dung "Hà" ngồi để nghe điện thoại. Lúc này chỉ còn Dung "Hà" và chị Nghiệp đang ngồi tâm sự. Không bỏ lỡ thời cơ, Hưng "phi nhon" cầm lái chạy xe thẳng đến trước mặt Dung "Hà" dừng lại. Trường "xoăn" lạnh lùng rút khẩu súng ngắn trong bụng ra dí thẳng vào đầu Dung "Hà" siết cò. Sau tiểng nổ vang trong đêm vắng, Dung "Hà" ngã vật ra đường. Hai tên "tiểu yêu" tăng ga bỏ chạy ra đường Cách Mạng Tháng Tám mất hút.

Khoảng 30 phút sau, chuông từ máy điện thoại của Anh Thư ré lên, thấy số máy của Hải “Bánh” hiện trên màn hình, Hải “Bánh” biết là Trường và Hưng điện thoại cho mình nên cầm máy lên nghe: "Em đã bắn Dung “Hà” rồi, Hưng đã vứt súng, em đang đứng ở đầu đường Trần Quốc Thảo - Lê Văn Sỹ, anh ra lấy xe và điện thoại...", Trường “xoăn” lạnh lùng thông báo.

Nghĩ đến chuyện xuống tay giết Dung "Hà", một người từng có nhiều ân nghĩa với Hải “Bánh”, lúc ấy Hải “Bánh” run bắn người và không thể nhấc nổi chân để rời vũ trường Phi Thuyền. Sau này Hải “Bánh” tâm sự thật với chúng tôi: "Trong đời chưa bao giờ em có cảm giác sợ hãi đến như vậy".

Ít phút sau, hai tên được Hải "Bánh" điều từ Nga về điện thoại cho Hải "Bánh" hậm hực: "Anh giao nhiệm vụ cho tụi em mà thằng nào đã thịt nó rồi".

Hải giả tảng: "Đứa nào thịt đứa nào?".

- Dung “Hà” bị đứa nào bắn chết rồi còn gì...! Hai thằng đàn em giận dỗi.

- Thế thì chúng mày phắn khỏi Việt Nam ngay - Hải "Bánh" chỉ đạo.

Sau một hồi lâu trấn tĩnh, Hải “Bánh” gọi điện thoại nhờ Đằng “tây” đi lấy xe và súng giùm, Đằng “tây” đang ở Bar Ca Dao nhưng giả bộ cáo ốm không đi. Hải "Bánh" huỵch toẹt việc bắn Dung "Hà". Đến lúc ấy, Đằng “tây” mới chịu chạy đi lấy xe và điện thoại đem về Bar Ca Dao ở 38 Lý Tự Trọng cất. Sau đó Đằng “tây” nhờ Long "tây" chạy xe đến 21 Thủ Khoa Huân giao lại cho Hải “Bánh”. Để đánh lạc hướng Cơ quan điều tra rằng mình ngoại phạm, Hải “Bánh” điện thoại rủ nhiều người quen đến cuối đường Pasteur ăn phở. Sau đó mọi người chia tay nhau, Hải “Bánh” về 21 Thủ Khoa Huân, Anh Thư về phường 15, quận 11, TP HCM.

Sáng hôm sau, Hải “Bánh” điện thoại cho Năm Cam báo tin:

- Đã lấy số con Dung “Hà” rồi, em có nên vào bệnh viện thăm nó không?

- Em không nên xuất hiện ở đó, Công an đông lắm - Năm Cam chỉ thị. Mấy ngày sau, Năm Cam điện thoại cho Hải “Bánh” dặn dò:

- Chú hãy cẩn thận. Công an nó đang theo dõi dữ lắm! Em kêu chúng nó trốn ra Hà Nội đi, ở trong này nguy hiểm lắm.

Ngày 5/10/2000, Hưng và Trường đến 21 Thủ Khoa Huân gặp Hải “Bánh”, sau đó Hưng chạy ra làm ở Câu lạc bộ Bóng đá Quốc tế số 21 Trần Hưng Đạo, phường 1, TP Vũng Tàu, thấy Công an truy rát quá, Hưng đã đáp chuyến bay lúc 14h30 ngày 11/12/2001 ra Hà Nội lẩn trốn. Còn Trường cũng bay ra Hà Nội chuyến bay 7h ngày 11/12/2001, trước khi Năm Cam bị bắt đúng 1 ngày.

Sau khi bị bắn vào đầu, Dung “Hà” được đưa vào Bệnh viện Sài Gòn cấp cứu, nhưng đã không còn cơ hội vì vị trí bắn của đối thủ quá hiểm. Sau đó, nguồn tin mà Cơ quan điều tra thu được chỉ là lời khai của chị Nguyễn Thị Bích Thanh, Đoàn Thị Tú Anh và Nguyễn Thị Nghiệp đang ngồi uống nước với Dung “Hà” chỉ vỏn vẹn: "Lúc đó có một thanh niên khoảng 26 tuổi, dáng người gầy, cắt tóc ngắn, mặc quần áo màu xanh đen, đi bộ từ đường Cách Mạng Tháng Tám lừ lừ tiến đến chỗ Dung “Hà” từ phía sau. Khi đến gần Dung “Hà”, tên này rút trong túi quần một khẩu súng ngắn kê vào đầu Dung “Hà” siết cò. Sau tiếng nổ, Dung “Hà” ngã ra đường, tên này chạy ra đường Cách Mạng Tháng Tám nhảy lên một chiếc xe Spacy màu trắng do một tên khác chở rồi chạy mất...".

Công tác khám nghiệm hiện trường và khám nghiệm tử thi của Công an TP HCM cũng chỉ mang đến kết luận: Vũ Hoàng Dung bị bắn chết bằng một viên đạn súng ngắn xuyên thủng bán cầu đại não làm vỡ hộp sọ, đầu đạn đường kính 9mm loại súng Rulo.

Tình hình ANTT ở TP HCM thời điểm này hết sức phức tạp. Chính băng nhóm do Năm Cam cầm đầu đã gây ra những vụ giết người tàn bạo như vụ tạt axít Lâm “chín ngón” (Lê Ngọc Lâm), vụ giết anh Phan Lê Sơn trên đường Hải Triều, quận 1, vụ giết anh Phạm Ngọc Hiền trước Vũ trường Metropolis.

Vụ giết Dung “Hà” càng đẩy tình hình an ninh trật tự ở một thành phố lớn đến mức báo động đỏ. Trước tình hình trên, Bộ Công an đã có Chỉ thị số 05 về đấu tranh phòng chống tội phạm hoạt động có tổ chức, tội phạm hoạt động theo kiểu "xã hội đen". Chuyên án vụ giết Dung “Hà” được xác lập và Thiếu tướng Nguyễn Việt Thành - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát làm Trưởng ban Chỉ đạo chuyên án.

Công an TP HCM tung ra một lực lượng lớn với mức độ tập trung cao nhất để nắm mọi tin tức liên quan đến cái chết của Dung "Hà". Mọi đối tượng có mối liên quan đến Dung “Hà” đều được phân tích kỹ, mọi nguồn mâu thuẫn được sàng lọc nghiên cứu. Tất cả những thông tin từ thế giới ngầm kháo với nhau cũng được ghi nhận. Các biện pháp nghiệp vụ được triển khai...

Sau một thời gian ngắn điều tra, Công an TP HCM đã có những chứng cứ chứng minh được cái chết của Dung “Hà” là việc thanh toán nhau của các trùm băng đảng mà người đứng sau không ai khác là Năm Cam. Nhưng để bắt Năm Cam không phải dễ. Trước đây, vào ngày 20/5/1995, Năm Cam đã từng bị bắt, nhưng sau 11 tháng 15 ngày trong trại giam, Năm Cam được trả tự do với lý do "không đủ chứng cứ buộc tội". Lần này không thể để xảy ra tình huống tương tự.

Sau một thời gian điều tra, thấy chuyên án không có chiều hướng phát triển tốt, Ban chuyên án đã cho lật lại 2 vụ gây rối của Dung “Hà” bằng phân người, mắm tôm, chim, chuột tại vũ trường Phi Thuyền. Dựng lại các vụ Nguyễn Tuấn Hải cùng Hải “hấp”, Hải “lớ”, Trung “Nga” tổ chức dùng dao, súng phá sòng bạc của Cường ở Biên Hòa, vụ Hải “Bánh” rút súng đe dọa băng giang hồ khét tiếng Châu “râu” tại Bar Hoàng Hôn, đường Lê Lợi, quận 1, TP HCM và một số vụ gây rối khác để xác định các mối quan hệ Năm Cam - Hải “Bánh” - Dung “Hà” - và chủ vũ trường Phi Thuyền.

Sau khi phân tích cặn kẽ và có tính khoa học, Thiếu tướng Nguyễn Việt Thành cùng các cộng sự đã xác định: Nguyễn Tuấn Hải (Hải “Bánh”) là "chìa khóa" của các vụ án này. Nhưng bắt Hải “Bánh” lúc này sẽ đánh động đến cả một băng nhóm tội phạm lớn và chúng sẽ cao chạy xa bay thì rất khó khăn cho công tác điều tra.

Từ những nhận định trên, Ban chuyên án chọn lý do Hải “Bánh” đánh người, gây rối tại nhà hàng Tân Hải Vân đường Nguyễn Trãi, quận 1 để bắt Hải “Bánh” nhằm đánh lạc hướng Năm Cam. Chẳng là trước đó, tại nhà hàng Tân Hải Vân, Hải “Bánh” đã bê nguyên một chồng đĩa nện thẳng vào đầu một thực khách chỉ vì thanh niên này dám “nhìn đểu” hắn.

Ngày 19/5/2001, Công an TP HCM thực hiện lệnh bắt khẩn cấp đối với Hải “Bánh”. Sau khi bắt Hải “Bánh”, một loạt những người khác được gọi lên Công an quận 1, TP HCM và chỉ để hỏi về vụ gây rối, tuyệt nhiên không đả động gì đến vụ Dung "Hà".

Sau đó Hải “Bánh” được di lý về Trại giam Chí Hòa. Sau 5 tháng 24 ngày ở Trại giam Công an quận 1, Chí Hòa, và Trại giam T.16B, Hải “Bánh” chỉ khai báo tội gây rối trật tự ở nhà hàng Tân Hải Vân, còn vụ giết Dung “Hà” và các vụ án khác hắn không hé răng.

2. Lê Văn Đại (Đại Cathay)
7-dai-cathay-2.jpg
Ngay cả đám giang hồ cộm cán, đám đàn em tin cẩn cũng không ai biết hắn con ai, tên thật là gì. Chính Đại Cathay cũng… không biết tên thật của mình nốt. Hơn chục lần bị điệu về bót cảnh sát, Đại tự khai cho mình hơn chục lai lịch khác nhau. Theo đó, cha của hắn lúc là Lên Văn Cự, lúc lại là Trần Văn Trự… Mẹ của Đại Cathay cũng khá… nhiều tên, lúc là Hương, lúc là Duyên, sống hay chết thì “có trời mà biết”. Nói tóm lại, như Đại Cathay thường tự nhận, gã là một thằng… con trời có lẽ xuôi tai hơn cả.

Kì thực, Đại tuổi Thìn, sinh năm 1940. Theo tìm hiểu của chúng tôi, mẹ của Đại tên gì không rõ, chỉ biết người xung quanh thường gọi là bà Sáu. Còn cha Đại thì chính tên là Lê Văn Cự, vốn cũng là một tay giang hồ hảo hớn ở khu vực chợ Cầu Muối. Sau năm 1945, Hai Cự tham gia kháng chiến, trở thành lính của “Mười ban tự vệ công tác thành”, sau đó bỏ vào chiến khu rừng Sác đầu quân vào bộ đội Bình Xuyên của thủ lĩnh Ba Dương (tức Dương Văn Dương). Đại sinh ra giống cha như đúc nhưng tuổi thơ rất ít được gần cha.

Thuở nhỏ, gã sống với cha mẹ ở đường Đỗ Thành Nhân, Khánh Hội (nay la Đoàn Văn Bơ Quận 4). Cả cha lẫn mẹ của hắn đều nghèo, làm nghể chẻ củi thuê cho một vựa củi nằm bên kia Cầu Mống, cạnh chợ cũ, Quận 1. Đại thường xuyên trốn học chạy sang chơi vơi đám trẻ con bụi đời cạnh vựa củi. Hiền lành, ít nói, dù khuôn mặt rất ngầu, tính phóng khoáng, lại rất "lì đòn", những đức tính được "thừa kế" đầy đủ từ cha đã giúp Đại nhanh chóng được đám trẻ đồng cảnh mến mộ. Mới 10 tuổi, gã đã thường xuyên luồn lách vào các chợ, sạp hàng xung quanh, ăn trộm dưa, chuối về chia cho chúng bạn.

Sau 1945 cha Đại tham gia kháng chiến và bị bắt vào cuối năm 1946, bị đày ra Côn Đảo và ít lâu sau thì chết. Cha mất, mẹ lấy chồng khác. Bố dượng là 1 tay máu me cờ bạc, lại nghiện thuốc phiện năng nên gia sản dần dần biến hết. Cáu bẳn vì sinh kế, ông dượng thường nọc đứa con riêng của vợ ra hành hạ để hả cơn bực tức. Không chịu nổi, Đại bỏ học hẳn, sang vườn hoa Cầu Mống đánh giày, bán báo tự nuôi thân. Khu vực làm ăn của Đại là xung quanh ngã tư Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) – Nguyễn Công Trứ.
Tại đó có 1 rạp chiếu bóng tên là Cathay. Không ngày nào trước cửa rạp hát không xảy ra những vụ đánh lộn giành khách giữa đám trẻ bụi đời. Lì lợm và liều lĩnh, Đại cứ lăn xả vào đối thủ liên tục tấn công, dù kẻ đó có cao hơn nửa cái đầu cũng mặc. Trăm lần như một, Đại luôn là kẻ chiến thắng, dù tay chân mặt mũi đầy vết rách bầm. Nghiễm nhiên, hắn trở thành thủ lĩnh của đám nhóc tì du thủ du thực trong khu vực. Cũng nghiễm nhiên, gã được quyền ráp thêm "tên đất" vào sau tên cúng cơm để trở thành Đại Cathay, "đại ca" đường Nguyễn Công Trứ. Đó là năm 1954 lúc Đại mới 14 tuồi.

Trở thành "anh chị", Đại được quyền sống mà không mó tay vào bất cứ việc gì. Hắn vẫn đóng thùng đánh giày, nhưng là để giao cho đàn em "đi làm" mang tiền về nộp. Mỗi buổi sáng, hàng chục thiếu niên Ba Binh, Ba Tướng, Ba Gà ( hỗn danh để gọi đám trẻ du đãng chưa có tên tuổi. Ba Binh là quân sư, Ba Tướng là những thằng trực tiếp đi đánh nhau còn Ba Gà là những tên thuyết khách) cả trai lẫn gái tụ tập quanh Đại Cathay nhận công việc và địa bàn do hắn cắt cử, sau đó túa đi, chiều lại đem tiền về cho Đại. Được cái, hắn rất hào phóng, Đại Cathay chia hết tiền cho đàn em, chỉ giữ lại cho mình 1 khoản nhỏ, đủ cà phê, thuốc lá cho ngày kế tiếp.

Những đàn em không may bị ế báo, bị mưa ước thuốc, kẹo phải đền tiền, Đại Cathay cũng không chửi bới, đánh đập như những tên "chăn chíp" tham lam khác mà còn lấy của đứa "trúng mánh" cho thêm. Vì vậy, đàn em rất khoái và chị nghe lời "anh Đại". Tình trạng đánh lộn, tranh giành khách trong khu vực của Đại Cathay được dẹp yên.

Nằm ngay cạnh khu vực của Đại Cathay là bót cảnh sát quận Nhì, thường được gọi là bót Dân Sinh, nổi tiếng dữ dằn. Rất nhiều lần, sau khi dẫn đàn em đi chinh phạt các khu vực khác hoặc đánh dằn mặt người của các băng nhóm đến giành lãnh địa, Đại Cathay đã bị các công cò bót quận Nhì xách tai lôi về bót. Hăm dọa, tát tai, đá đít đủ kiểu, thằng nhóc vẵn trơ trơ không chịu khai tên tuổi những đàn em tham gia ẩu đả, đám mã tà phú lít lại đành thả Đại về. Hết thuốc, các ông cò nảy ra đòn độc để trị Đại Cathay, bắt đàn em của đại đứng xem.

Chúng bắt thằng nhóc quỳ giữa sàn nhà, hai ông cò hai bên xốc ngược tay Đại lên, cạy mồm, thả vào một con gián sống. Con vật lập tức chui tọt vào cổ họng lao thẳng xuống dạ dày. Ngứa ngáy, kinh tởm và nhột không chịu được, Đại Cathay ói ra mât xanh, mật vàng. Đám Ba Binh, Ba Tướng xung quanh lè mắt, có đứa hét lên ngất xỉu và ********* ra quần. Đại Cathay, sau một hồi nôn thốc nôn tháo, bắt đầu trấn tĩnh, lại tiếp tục câm như hến, tuyệt đối không khai. Không còn cách nào khác, các thầy cảnh sát đành tống Đại Cathay vào trại tế bần hoặc Trại giáo hóa thiếu nhi phạm pháp ở Thủ Đức.

Ở miền Nam trước giải phóng, có bốn nơi được coi là “lò đào tạo du đãng”. Nơi thứ nhất là Trại nuôi dạy trẻ mồ côi, cơ nhỡ nằm tại địa điểm nhà hát Hòa Bình hiện nay. Nơi thứ hai, Làng cô nhi THủ Đức, điều kiện sống khá hơn nhưng vẫn rất lỏng lẻo, tha hồ cho đám tiểu yêu phá phách. Những tên nhóc bất trị nhất, hai trại trên đều không chứa nổi thường bị cảnh sát lùa vào Trại giáo hóa Thủ Đức. Thực chất, đây chỉ là nơi nuôi báo cô đám du thủ du thực, chờ chúng đủ tuổi là đẩy vào quân đội. Nơi thứ tư, Trại Tế Bần nằm bên kia cầu Trịnh Minh Thế (nay là cầu Tân Thuận), là một Trạm trung chuyển giam giữ những tên lưu manh sắp hết tuổi vị thành niên.

Sau nửa tháng bị giam, nếu có người nhà bảo lãnh, đóng phạt, tên tiểu yêu sẽ được cho ra. Nếu không chúng sẽ bị nhốt lại, chờ đủ tuổi là tống vào đội quân “cưỡng bức phục vụ” tức lao công phục vụ chiến trường. Kẻ nào bị liệt vào hạng này coi như cầm chắc cái chết. Ngoài mặt trận, việc của họ là đi trước phát cây, mở đường, đào công sự, trong khi chân không giày dép, hai người chung một sợi dây xích chân, muốn chạy cũng không được, mặc kệ mưa đạn vãi cả trước mặt lẫn sau lưng. Biết trước số phận “bia thịt” của mình nên đám du đãng vào trại tế bần chưa ấm chỗ đã tìm cách trốn. Lọt ra khỏi vòng rào các trại, đám nhóc lại lần về với các băng nhóm du đãng, bụi đời.

Hầu hết đám giang hồ Sài Gòn nổi tiếng sau này đều đã từng qua đủ các trại nói trên. Thuộc hang vào ra như cơm bữa, Đại Cathay được liệt vào loại “tù con rạ”, để phân biệt với đám “tù con so” mới nhập trại lần đầu. Ở các trại, Đại Cathay đã làm quen với những Của Gia Định, Lâm Chín Ngón, Hắc Quảy Quảy, Hòa Áo thun… những chiến hữu đắc lực sau này trên chốn giang hồ

Mỗi lần vào trại rồi trốn ra, Đại Cathay càng liều lĩnh hơn, kinh nghiệm hơn, càng “tích cực” lao đầu vào những trận thư hùng-vốn là thứ năng khiếu nổi trội hơn cả ở hắn.Năm 1955, Đại Cathay chuyển sang sinh sống ở khu vực Hãng phân Khánh Hội cạnh Nhà máy thuốc lá Bastos. Đám trẻ con khu vực này đón tiếp Đại Cathay khá nồng nhiệt bằng những trận hỗn chiến. Một lần nữa, sự lì đòn của Đại lại giành phần thắng. Toàn bộ nhóc tì khu vực Khánh Hội, quanh cầu Ông Lãnh, gồm toàn dân bến tàu vựa cá, vựa rau cải – vốn có hạng trong nghề dao búa – đều bị Đại Cathay qui phục về dưới trướng.

Khi Đại Cathay còn là một cậu bé đánh giày thì toàn bộ khu vực Cầu Mống - Dân Sinh - Cầu Ông Lãnh mà dân giang hồ gọi là khu Da Heo, đều do một tay giang hồ nổi tiếng là Tám Lâu cai quản. Ở trần, quần dài vắt vai, đi đứng nói năng khụng khiệng, nét mặt luôn đằng đằng sát khí, Tám Lâu bị bà con khu Da Heo coi như một hung thần. Nghề chính là đạp xích lô, nhưng thực chất Tám Lâu là kẻ nhận quyền bảo kê thu thuế toàn bộ khu Da Heo, dưới trướng có hàng chục đàn em. Dưới nệm xích lô, Tám Lâu luôn thủ sẵn "hàng mã", sẵn sàng vung ra bất cứ lúc nào với bất cứ ai.

Nhiều lần chứng kiến thằng nhóc đánh giày dẫn quân đập lộn, Tám Lâu đâm "chịu" Đại. Thỉnh thoảng ngồi nhậu thấy Đại đi qua, Tám Lâu lại ngoắc vào kê ghế cho ngồi cạnh mần hơi cho ấm bụng. Qua những lần nhậu ké đó, Đại Cathay được Tám Lâu giới thiệu như một tay trẻ tuổi tài cao đầy hứa hẹn với đám giang hồ đàn anh: Ba Hội, Cảnh Tượng... Tám Lâu cũng thường đưa Đại đến các khu Lò Heo (cũ), Chánh Hưng, hẻm Hai mươi để làm quen với các tay anh chị khu vực khác. Nể tình Đại Cathay cũng hay ghé đến hẻm 110 Nguyễn Công Trứ để thăm hỏi Tám Lâu.

Tuy hung tợn, dữ dằn nhưng Tám Lâu vẫn phải thúc thủ trước uy thế của anh em Bé Bún, một trùm giang hồ quận 4, khu vực cạnh Hãng phân nơi Đại Cathay trú ngụ. Cậy đông quân lắm mã, đám này thường kéo rốc qua Cầu Ông Lãnh, tràn vào "thu thuế" giật bà con thiểu thương chợ vựa Cầu Muối, Tám Lâu không cản nổi.

Một ngày cuối năm 1957, tình cờ nghe đàn anh thở ngắn than dài, nộ khí xung thiên, Đại Cathay đề xuất:
- Anh Tám để đó em lo. Phải cho Bé Bún nằm viện, đám này mới ngán!
Tám lâu gạt phắt:
- Con nít biết gì? Tao còn thua nó, mày là cái đinh gỉ!

Tự ái Đại Cathay bỏ về. Lúc này đám Ba Binh, Ba Tướng của Đại cũng đã lớn, toàn thanh niên 17, 18 tuổi, lại lăn lộn lề đường nhiều nên cũng khá dày dạn. Nghe lời Đại Cathay, đám này vác dao qua Bến Vân Đồn "chém bậy" vài tay em của Bé Bún để khiêu khích. Điên tiết, Bé Bún hô toàn bộ em út tấn công sang khu Da Heo hỏi tội Tám Lâu. Quân Bé Bún quá đông, khiến Tám Lâu và đám đàn em hoảng hốt, định bỏ chạy.

Nhưng vừa qua khỏi Cầu Ông Lãnh, băng Bé Bún đã ôm đầu máu chạy ngược trở lại, kêu la vang trời. Không nói trước với đàn anh nửa câu, Đại Cathay đã âm thầm cho đàn em của mình "trải đệm", bất ngờ "luộc" băng Bé Bún. Dưới sự chỉ huy của Đại Cathay, đám giang hồ tân binh tả xung hữu đột lăn xả vào chém quân Bé Bún, xộc thẳng sang cả bên kia cầu. Nói là làm, Đại Cathay đã xỉ cho Bé Bún mấy nhát sau đó phải nằm viện thật, không dám bén mảng sang giành mối ở khu Da Heo nữa.

Sau trận hỗn chiến, Tám Lâu đâm ớn "tài ba" của Đại Cathay. Một mặt, Tám Lâu tuyên bố trong khu Da Heo, Đại Cathay có toàn quyền xử sự, mặt khác y lại lo ngay ngáy bị Đại Cathay lấy làm đối thủ. Biết ý, Đại tuyên bố không giành đất, khu Da Heo vẫn của Tám Lâu. Phần Đại, gã chỉ thu thuế các sòng bài, ổ đề, tiệm hút trong khu vực. Tiếp đó, Đại vươn tay bảo kê tất cả các ngành nghề kinh doanh lậu bao gồm xưởng nấu xà phòng, lò mổ heo, lò rượu...trong khu. Có tiền có quyền, Đại dần dần đã khiến các tay anh chị khác phải dạt ra. Đại Cathay tha hồ ăn chơi và làm mưa làm gió. Đầu những năm 1960, thuyết hiện sinh và phong trào hippie bắt đầu thâm nhập vào miền Nam. Các cậu ấm cô chiêu con nhà giàu tuy được ăn học đàng hoàng nhưng cũng học đòi nhau, thường xuyên có mặt ở các nhà hàng, vũ trường, tiệm hút với đủ kiểu quần áo tóc tai dị hợm. Đại Cathay tuy ít học nhưng cũng không hề kém cạnh các bậc trí .... giả trong khoản ăn chơi.

Nhẵn mặt ở các nơi đốt tiền nổi tiếng của quận 1, quận 3, Đại Cathay và đám đàn em bắt đầu quen biết với một đám sinh viên, kỹ sư, bác sĩ con nhà gia thế, trong đó có anh em Dzách Bửu, Dzí Bửu, Hùng Đầu bò, Hoàng Sayonara (tay này móc classic bản Sayonara rất "não nùng")... và nhiều văn sĩ nghệ sĩ khác. Đám nghệ sĩ trí thức cũng nể Đại Cathay chịu chơi và khoái vẻ ngang tàng, bụi bặm của gã- trông bụi đời, hippi hơn cả. Chính Hoàng Sayonara sau đó đã trở thành quân sư hoạch định chiến lược làm ăn và chinh phạt cho Đại.

Nghe lời các quân sư, Đại Cathay đứng ra cùng với Bảy Si, bà Bảy Trà đá mở sòng bài lấy xâu ở khu vực Cầu Muối. Ban Đầu Đại Cathay không thích mở sòng bài vì dân giàu có đã có các sòng Đại Thế Giới, Kim Chung... Mở nữa e không cạnh tranh nổi, Hoàng Sayonara vẽ:
- Không chỉ giàu mới máu me đen đỏ. Các sòng lớn như Kim Chung, Đại Thế Giới toàn dân quí tộc, chức sắc, dân giang hồ, người buôn bán ngại vô. Ta mở sòng vừa vừa kéo khách từ đám này.

Đại Cathay đồng ý. Ở chợ Cầu Muối trước đó Bảy Si (anh vợ Năm Cam – ông trùm sòng bạc sau này) đã có sòng bài sẵn, nhưng khi nghe Đại Cathay đề nghị hùn hạp, Bảy Si cũng không thể chối từ. Thừa thắng, Đại mở rộng ra cả lĩnh vực làm huyện đề 40 con chung với Hỏi, trùm, khu Cây Da Xà. Hắn mua của Hùng Đầu bò một chiếc Traction - 15, chiều chiều cho đàn em lái đi khắp các ngả đường vứt lên từng xấp "phơi" đề cùng với hàng cọc tiền chở về. Quyền lực được tiền bạc hậu thuẫn khiến Đại Cathay càng thêm uy thế.

Đến năm 1962, 1963, Đại Cathay đã trở thành một ôm trùm khét tiếng. Gần như hầu hết nhà hàng khách sạn, động mại dâm, tiệm hút chích, sàn nhảy ở khu vực quận 1, quận 2 đều chịu sự bảo kê của Đại. Các vũ trường nổi tiếng như Olympic, Queen Bee, Barcara, Paramouth đều coi hắn như ông chủ đích thực, Đại Cathay và đàn em tha hồ ăn chơi nhảy múa mà không một nơi nào dám viết hóa đơn, thậm chí còn lấy làm vinh hạnh vì được đàn anh chiếu cố.

Nhưng nguồn lợi lớn hơn cả mà Đại Cathay thu được lại không phải từ tiền thuế bảo kê. Chính giới doanh nghiệp làm ăn lớn là kẻ tình nguyện đóng góp đều đặn để Đại nuôi quân, đồng thời để nhờ vả Đại làm hậu thuẫn khi cần gây sức ép hay giành giật trên thương trường với kẻ khác. Cả anh em tỉ phú Hoàng Kim Qui (Vua kẽm gai), Xí Ngàn mặt rỗ (vua thuốc Bắc), La Thành Nghệ (vua thuốc đỏ) và hơn chục ông vua các ngành nghề khác của người Hoa là những người đều đặn chu cấp cho Đại. Cũng nhờ uy thế của các "vu", Đại Cathay cũng làm quen, "chơi chịu" được với khá đông nhân vật quyền thế và tên tuổi khác.

Chỉ năm năm sau ngày khởi sự ở khu Da Heo, Đại Cathay đã trở thành một ông trùm không đối thủ, được toàn giới giang hồ kiêng dè, sợ hãi. Nhưng vẫn còn ba ông trùm "lừng lẫy" khác không ưa gì Đại Cathay, đó là Huỳnh Tỳ, ôm trùm Lê Lại, Ngô Văn Cái và Ba Thế. Cho rằng Đại "chơi kèo trên", giành mối, giành đất, Huỳnh Tỳ và Ngô Văn Cái quyết định "hội đồng" diệt Đại. Hai tên giang hồ họp nhau tại vũ trường Aristo (sau này là khách sạn Lê Lai, cạnh khách sạn New World) cùng một giang hồ gộc là Thế Aristo - chủ vũ trường - có thêm Hùng phốc và Luân - 2 giang hồ cộm cán khác cùng hỗ trợ, mời Đại đến "bàn công việc".

Không chút nghi ngờ, Đại Cathay đã bất ngờ bị Thế Aristo đá lộn cổ trở xuống. Bốn kẻ phục kích cũng nhất tề rút dao xông vào chém. Đại Cathay vừa đỡ đòn vừa tìm đường thoát thân, chạy được ra ngoài, mình mẩy đầy thương tích nhưng may không chết. Những vết thương chưa kịp kéo da non, Đại đã đơn thương độc mã giắt dao đi tìm từng tên một trị tội. Cả năm tên đều lần lượt bị Đại Cathay chém trọng thương. Cuối cùng Tám Lâu phải nhờ Cảnh Tượng, Ba Hội và một số tay đàn anh khác xin lỗi giúp cho năm tên, Đại Cathay mới nguôi giận, đồng ý "hòa giải". Danh xưng "Tứ Đại giang hồ" bắt nguồn từ đó.

Lẽ ra, với những thành tích bất hảo chồng chất lên nhau, Đại Cathay đã ngồi tù mọt gông từ những năm trước đó. Nhưng xã hội miền Nam đầy nhiễu nhương với bộ máy quan chức được mua bán bằng tiền đã tỏ ra bất lực không trị nổi Đại Cathay và đám du đãng, để mặc kệ cho chúng làm mưa làm gió. Vào thời đó, chức quận trưởng quận 1 trị giá 30 triệu đồng, trong khi lương lính chỉ hơn 300 đồng cho nên những kẻ đương chức chỉ tìm cách vơ vét, làm giàu để bù lại số tiền đã bỏ ra mua *** tước.

Cò Ly, quận trưởng quận 1 còn cố tình dung túng cho Đại Cathay mở sòng bài, hoạt động bảo kê thu thuế. Bù lại, hằng tháng, Đại đều có những khoản riêng béo bở tuồn vào cửa sau cho vợ ông Cò. Mỗi chiều thứ bảy, cò Ly và Đại Cathay lại sánh vai nhau bước vào các vũ trường nhà hang sang trọng ăn chơi, đập phá thâu đêm. Đương nhiên, lương quận trượng một năm cũng không đủ chi cho một lần nhất dạ đế vương nên ông cò chẳng bao giờ phải nghĩ đến chuyện móc hầu bao. Có tiền, có quyền, có thế, Đại Cathay quyết định bành trướng xuống Chợ Lớn, lãnh địa của Tín Mã Nàm, ông trùm giới Hắc Đạo người Hoa, xưa nay vẫn được coi là bất khả xâm phạm.

So với băng du đãng của Đại Cathay, giới Hắc Đạo của Tín Mã Nàm có tổ chức chặt chẽ và hùng hậu hơn nhiều. Dưới thời Diệm - Nhu, toàn bộ hoạt động kinh tài của các bang hội Hoa Kiều Chợ Lớn đều có cổ phần của giới Hắc Đạo. Toàn bộ nhà hàng, sòng bạc, tiệm hút... đều do giới này quản lý hoặc hùn hạp. Tuy nhiên, sau đảo chính tháng 11.1963, do tham lam, chính Tín Mã Nàm đã khiến giới Hắc Đạo suy yếu.

Bắt tay với khá nhiều tướng lĩnh, chính khách thuộc phe đảo chính, "Con ngựa điên" đã bán đứng một số cơ sở kinh tài của các bang hội cho chính quyền mới, tố họ là "cơ sở kinh tài của Diệm - Nhu". Mặt khác, Tín Mã Nàm cũng tố cao và giao nộp cho cảnh sát một loạt tay giang hồ Hoa kiều không ăn cánh với y như Hỏi Phòong Kin, Sú Hồng, Cọp Chảy, Quầy Thầu Hao, Hắc Quẩy Chảy... nhằm củng cố địa vị "Vua Hắc Đạo" của mình. Vì vậy, Tín Mã Nàm được trung tá Lê Ngọc Trụ - Trưởng ty cảnh sát quận 5 trọng dụng và ưu đãi, trong khi bị nhiều đàn em oán giận và tìm cách trả đũa.

Trong những kẻ oán Tín Mã Nàm có tay tài pán tên Chó, người giúp việc cho Tín Mã Nàm quản lý ngành kinh doanh cờ bạc. Biết được sự chia rẽ đó, Đại Cathay đã sai đàn em dụ hàng tên này. Chó đã bán đứng Tín Mã Nàm, kéo một lượng lớn các con bạc nặng ký từ các sòng Đại Thế Giới, Hào Huê về Cầu Muối cho sòng của Đực Bà Tiều và Bảy Si thuộc quyền Đại Cathay, đồng thời bỏ luôn khu Chợ Lớn về theo Đại Cathay mở mang sòng bạc ở khu Sài Gòn. Biết chuyện, Tín Mã Nàm hạ lệnh cho giới Hắc Đạo:
- Chém bất cứ tên đàn em nào của Đại Cathay bén mảng xuống Chợ Lớn.

Chỉ chờ có thế, suốt 12 tháng trời, Đại Cathay đã liên tục đổ quân tập kích xuống các điểm làm ăn của Tín Mã Nàm ở vùng Chợ Lớn, chém phứa vào bất cứ ai rồi tức tốc bỏ chạy. Người bị chém thường là dân lành, khách chơi, chính vì vậy họ đâm sợ các điểm ăn chơi giải trí của Hắc Đạo, không dám lui tới nữa. Vắng khách, thu nhập thấp, đám cô hồn bảo kê của Tín Mã Nàm đành túa ra làm ăn lẻ để gỡ gạc, bất chấp kỷ luật của ông trùm.

Nhưng cứ tên Hắc Đạo nào lọt xuống khu Sài Gòn là tên đó bị đàn em của Đại Cathay chặn đánh. Đầu năm 1964, biết phe Hắc Đạo đã hết phong độ, Đại Cathay quyết định đánh trận cuối, Đại dẫn theo 9 tên đàn em "chiến đấu" nhất, trong đó có Ba Thế và Lâm chín ngón đi trên 5 xe Goebel bất thình lình tấn công vào quán cà phê ngay trước rạp Hào Huê, đối diện với Đại Thế Giới. Đây là điểm tụ tập của các tay đàn em Tín Mã Nàm vào 2 buổi sáng chiều.

Cuộc tập kích thất bài, hai bên đều thiệt hại nặng nề. Nhưng máu liều của Đại Cathay càng được giới giang hồ truyền tụng và vị nể. Tín Mã Nàm cũng lo lắng: nếu cứ để cho Đại Cathay tập kích mãi như vậy, giới Hắc Đạo chỉ còn nước dẹp hết sòng bài, tiệm hút vì không còn ai dám bén mảng. "Con ngựa điên" phải kìm cơn điên, cử người đến mời Đại Cathay lên nhà hàng Đồng Khánh điều đình.

Đàn em cố khuyên Đại đừng vào hang cọp, e bị "trải điệm" nhưng Đại Cathay nổi máu yêng hùng, vẫn quyết định nhận lời. Để tài xế ngoài cửa, Đại một mình tay không lên nhà hàng hội kiến với Tín Mã Nàm. Cử chỉ ngang tàng này khiến Tín Mã Nàm thầm phục. Hắn nhượng bộ, đồng ý giao toàn bộ khu vực từ chợ Nancy về Sài Gòn cho Đại Cathay toàn quyền . Phần quận 5, Chợ Lớn, đàn em của Đại được phép hoạt động với điều kiện không lấn vào những khu vực đã có sẵn người của Hắc Đạo. Riêng các khu vực chợ Sắt, chợ Tân Thành, hẻm "dzách bạc hồ hãn" (hẻm 100), Đại Cathay và đàn em tuyệt đối không được xâm phạm, vì đó là giang sơn riêng của Tín Mã Nàm, nơi vợ bé của y sinh sống.

Phần 2:
Mỗi lần ra đường, Đại Cathay và băng du đãng lại một phen khiến người đi đường khiếp vía. Như một gã con trời thứ thiệt, Đại Cathay chễm chệ trên băng trước chiếc Mustang mui trần do Năm Công lái, có cả chục tên đàn em phóng xe máy theo sau hộ tống. Xe chạy xả ga, hú còi vô tội vạ khiến mọi người hốt hoảng chạy giạt sang hai bên đường, trong khi đám lưu manh tha hồ vỗ tay cười hô hố. Có lúc cao hứng, Đại Cathay còn thượng cả hai chân ra trước kính xe hoặc thò ra bên cửa hông gỏ thùng xe loạn xạ…

Sự ngang ngược coi thường luật pháp của Đại Cathay khiến những kẻ tai to mặt lớn và cảnh sát ngụy hết sức tức tối, nhiều lần tống cổ Đại vào khám. Nhưng bắt cóc bỏ đĩa, chẳng lần nào cảnh sát đủ bằng chứng để giam giữ hắn lâu, đành phải thả. Dùng luật không xong nhiều quan chức ngụy tìm cách mua chuộc hắn.

Biết Đại Cathay đang tuổi quân dịch, viên tướng cao bồi Nguyễn Cao Kỳ - có lẽ do muốn chơi trội – bèn cho gọi tên du đãng đến. Kỳ phủ dụ:
- Tôi biết anh là người có chí, nhưng luật là luật, anh không thể trốn mãi được đâu. Về làm vệ sĩ cho tôi, anh vừa khỏi đăng lính, lại vẫn có quyền hành, muốn đi đâu làm gì mặc sức mà khỏi bị ai thù oán. Anh cứ suy nghĩ cho kỹ, ba ngày nữa trả lời tôi cũng được.

Tên du đãng ít học đời nào chịu suy nghĩ những ba ngày. Kỳ chưa dứt Đại Cathay đã trả lời luôn:
- Dạ, cảm ơn thiếu tướng đã có thịnh tình chiếu cố. Phiền nỗi tôi đi đâu cũng có cả chục gạc-đờ-co hộ tống, giờ tôi lại làm gạc-đờ-co cho người khác, không lẽ để cho tụi nó thất nghiệp?

Tướng râu kẽm bầm mặt nhưng vẫn ngọt nhạt:
- Làm vệ sĩ của tôi, anh là nhân viên công lực của quốc gia, danh giá đâu kém cạnh gì ai? Là quí anh tôi mới bảo thế, chứ nếu cần vệ sĩ tôi đâu thiếu người giỏi

Đại Cathay vẫn ngổ ngáo:
- Dạ, xin lỗi, tôi không hầu thiếu tướng được…

Sau Nguyễn Cao Kỳ đến lượt tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan, giám đốc Nha cảnh sát Đô Thành. Tuyên bố “Đặt giang hồ ra ngoài vòng pháp luật”, tướng Sáu Lèo cho mở “Trung tâm bài trừ du đãng” đặt ở bên kia cầu Bình Triệu (quận 9) và lập “Biệt đội hình cảnh” nhằm tiêu diệt giang hồ do đại úy Trần Kim Chi làm đội trưởng.

Theo lệnh Sáu Lèo, “Biệt đội hình cảnh” được bắn bỏ bất cứ tên giang hồ nào trên đường phố nếu chúng gây án và chống lại cảnh sát. Sau một thời gian hoạt động, “Biệt đội hình cảnh” vẫn chỉ tóm được một số tên du đãng “tép riu”, tướng Sáu Lèo bèn quay sang tìm cách mua chuộc Đại Cathay hòng “dĩ độc trị độc”. Đính thân Mã Sâm Nhơn, phụ tá của tướng Sáu Lèo đến gặp, đưa giấy mời của ngài chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan cho Đại Cathay. Cùng một đàn em, Đại Cathay có mặt y hẹn. Nguyễn Ngọc Loan ra giá:

- Tôi sẽ nhận anh vào chức vụ đại úy Phó ty cảnh sát quận 7. Anh được toàn quyền hành động, nhưng phải giúp tôi tiêu diệt hết đám lưu manh du đãng.

Đại Cathay từ chối:
- Tôi xuất thân du đãng, làm sao có thể quay lưng diệt du đãng được? Nếu tôi nhận lời, du đãng không chém, tôi cũng chết vì thân bại danh liệt.

Nguyễn Ngọc Loan hạ giá:
- Anh không muốn nhận, tôi không ép, nhưng anh phải giải tán băng nhóm, không được lộng hành.

Đại Cathay đồng ý với điều kiện để cho y và đàn em toàn quyền làm ăn và cai quản khu cảng Sài Gòn, Khánh Hội, khu vực chợ vựa Cầu Muối, và hai bên bờ Kinh Tẻ. Thấy tên giang hồ cứng đầu, Nguyễn Ngọc Loan nổi đóa:
- Tôi lệnh cho anh giải tán hết, nếu không giang hồ, du đãng sẽ không còn đất sống!

Đại Cathay trả lời:
- Giang hồ không có vua, tôi đâu có ra lệnh cho các băng khác được.

Cuộc mặc cả kết thúc. Tiếng tăm Đại Cathay nổi như cồn trong giới giang hồ vì “dám vuốt râu kẽm” tướng Nguyễn Cao Kỳ và từ chối chức tước của Nguyễn Ngọc Loan ban cho. Đại Cathay càng vênh váo hơn. Nhưng chính bằng sự nổi tiếng ấy, Đại Cathay đã tự ký cho mình bản án tử hình

Quá ngạo mạn, đang đang là giai đoạn cực thịnh của băng Cathay, Đại vẫn tiếp tục lộng hành. Không chi ngổ ngáo với tướng Sáu Lèo trong công việc, Đại Cathay còn công khai qua mặt và thách thức viên tướng này trong cả khoản ăn chơi, chẳng thèm lưu tâm gì đến sức nặng của cái *** chuẩn tướng và trọng trách “Chief” ngành cảnh sát mà Nguyễn Ngọc Loan đang nắm giữ.

Vào thời điểm đó, Sài Gòn ngập tràn trong không khí sống gấp và hưởng thụ, không cần biết đến tương lai. Một trong những mốt thời thường của các nhà buôn giàu có, các sĩ quan ngụy hào hoa, các công tử con nhà gia thế là công khai có nhân tình nhân ngãi hoặc cặp bồ với ****, nghệ sĩ trẻ đẹp. Đường đường là một vị tướng, Nguyễn Ngọc Loan đâu thèm để mắt tới các cô ****, ca sĩ phòng trà bình thường. Người ta thường thấy “ông tướng độc nhỡn” thường xuyên có mặt tại vũ trường Olympic trên đường Lê Lợi vào mỗi tối thứ 7.

Tại đó, Nguyễn Ngọc Loan là chủ nhân của một vưu vật: ca sĩ Phương Dung nổi tiếng xinh đẹp và quý phái, người được mệnh danh là “con nhạn trắng Gò Công”, lấy vũ trường này làm đất biểu diễn. Mỗi lần đến thăm tình nhân, viên tướng xách theo cả chục tên vệ sĩ thuộc hàng thiện xạ, cũng nổi tiếng ngổ ngáo và chịu chơi, phóng xe Jeep bạt mạng với những đường cua cong lề bạt phố, đạp phanh cháy cả mặt đường.

Olympic cũng là chốn mà băng Đại Cathay thường xuyên lui tới. Hơn thế nữa, Thủy Tàu – tài pán vũ trường Olympic còn là một “mối” rất khoái Đại Cathay. Khác với viên tướng và đám lâu la bụi bặm, Đại Cathay thường lướt trên một chiếc Chevrolet có gắn điều hoà không khí, choáng lộn và êm ru nhẹ nhàng bơi đến cửa vũ trường. Loại xe đó, cả Sài Gòn chỉ có dăm ba chiếc.

So với đám vệ sĩ với lương lính còm cõi, Đại và băng Cathay luôn sẵn sàng “xài lớn”, rút tiền chẳng bao giờ đếm, người ngợm củng “kẻng” hơn, dĩ nhiên là được các em **** ở đây săn đón nồng nhiệt hơn nhiều. Bị “gác kèo”, đám vệ sĩ tức lắm, nhiều lần hậm hực, nhưng Đại Cathay và đám đàn em vẵn phớt ănglê, coi như “chuyện tép”.

Một tối, Đại và khoảng chục đàn em, trong đó có Lâm Chín ngón và Lành Cầu Muối – một tay cảnh sát ăn “rơ” với giang hồ kéo đến Olympic từ khá sớm. Thấy các đàn anh, đám **** ríu rít túa ra vây lấy bá cổ níu tay, chí choé cả gian bar trên lầu 2. Cả đám “vui vẻ” mới chừng nửa tiếng, cánh cửa lại xịch mở. Đám vệ sĩ của Sáu Lèo – không có chủ tướng đi cùng – xộc vào, cũng cỡ chục tên. Ngồi chờ cả 15 phút, đám vệ sĩ vẫn không thấy cô **** nào đến săn sóc. Trong khi đó, ở mấy bàn bên vẵn lien tục vọng sang tiếng cấu véo giỡn hớt rúc rich của băng Cathay với đám **** như thể trêu ngươi. Nổi cáu, cả đám vệ sĩ đưa mắt nhìn nhau và đứng bật dậy. Thiếu úy Hải, một tay nổi tiếng thiện xạ tiến sang, đứng đối diện với Hải Súng của băng Cathay, hất hàm:
- Vui vẻ quá hả? Sang bớt mấy em chứ, để bên này ngồi không, coi sao đặng?”

Vẫn không buông vai cô “đào nhí”, Hải Súng hất mặt:
- Đâu có được, đến trước có phần trước, trâu chậm phải uống nước đục, trách gì?

Viên thiếu úy gườm gườm, đưa tay vào bụng đặt lên báng súng:
- Đừng chơi quê tụi này chớ!
- Thì đã sao? – Hải Súng hếch mặt lên. Lúc này băng Cathay và đám **** cũng đã ngưng đùa giỡn, ngẩng lên thủ thế. Được khích lệ, Hải Súng tiếp: - Thịt người tanh không ăn được, đừng doạ nhau, tụi này không thích!

Bị khiêu khích, mắt thiếu úy Hải vằn lên. Hắn xấn xổ chụp lấy tay cô đào nhí kéo về phía mình, tuyên bố:
- Không thích cũng bắt!

Phần 3
Sợ hãi, cô **** thét lên. Không nói không rằng, Hải Súng vớ ngay chai Black and White trên bàn giáng thẳng xuống đầu đối thủ. Phản xạ nhanh, thiếu úy Hải vội buông cô **** nhảy vọt sang một bên và móc súng. Hai băng xông vào nhau. Bàn ghế ly tách bay tứ tán. Đột nhiên, Đại Cathay hét lên:
- Tụi nó chơi súng, rút, tụi bây.
Pằng! Pằng! Pằng! Ầm

Đại chưa dứt câu, dàn đèn phe lê đã rơi ụp xuống sàn, vỡ tung toé, đồng thời một viên đạn cũng nhằm đầu gối Đại găm tới, xô y gục xuống. Hải Súng vội xô tới xốc Đại lên bỏ chạy. Trong băng chỉ có Hải và Lâm Chín ngón giắt súng theo. Cả hai cũng vội móc ra bắn loạn xạ. Lâm Chín ngón gào lên:
- Anh em rút đi, để tôi lo!

Lúc này, đám ****, bồi bàn đã hoảng hồn bỏ chạy hết. Thủy Tàu khá nhanh trí, vội chạy bổ vào trong sập cầu dao điện. Bóng tối chụp lấy vũ trường đã hỗ trợ cho băng Cathay bỏ chạy. Bị thương, Đại Cathay khó khăn lắm mới được Hải Súng và Ngân Pôcon dịu được xuống lầu và kéo thẳng ra đường. Lúc này, Lành Cầu Muối cũng vừa vặn trờ chiếc Mustang tới, hốt cả bọn lên xe chạy thẳng. Lâm Chín ngón chạy sau cùng. Sauk hi nhả hết đạn, y cũng vội đu cửa số phóng xuống được Tạ Thu Thâu cắm đầu chạy luôn một mạch. Sau lưng, đám vệ sĩ Sáu Lèo vẫn nã đạn theo chíu chíu.

Không thu phục được Đại Cathay, tướng Sáu Lèo đã ra lệnh cho “Biệt đội hình cảnh” bắt bỏ tù hàng loạt đàn em nhằm cô lập hắn. Núng thế, Đại Cathay đành tìm cách hoãn binh. Một buổi tối, hắn mua nguyên nhà hàng Paramouth mời đại úy Trần Kim Chi đến dự tiệc. Khi rượu đã chếnh choáng, Đại Cathay mới ngỏ ý:
- Nếu đại úy chịu tha một số anh em của tôi vừa bị bắt, chúng tôi sẽ không quên ơn anh…

Viên đội trưởng “Biệt đội hình cảnh” cũng thuộc loại ngang tàng không kém gì Đại Cathay, từ chối thẳng thừng:
- Ăn nhậu là ăn nhậu, bắt là bắt. Nếu anh mời tôi đến đây là để mặc cả thì coi như tàn tiệc, tôi xin kiếu.

Nếu là trước đó mười hôm, máu côn đồ của Đại Cathay sẽ nổi lên ngay. Nhưng đang yếu thế nên Đại vẫn nhũn nhặn:
- Ồ không không. Nếu đại úy không ưng thuận thì thôi. Còn hôm nay mời đại úy đến là để an hem vui vẻ. Mời đại úy cứ tự nhiên, đêm nay toàn bộ nhà hàng này là chỉ để phục vụ chúng ta, đại úy đừng bận tâm làm gì.

Viên đại úy không vui vẻ được lâu, cũng chẳng còn thời gian để bận tâm lâu hơn nơi cõi thế. Sau buổi tiệc chỉ nửa tháng, một chiếc xe “be” chở gỗ không rõ xuất xứ đã “bò” ngang qua chiếc xe hơi CV2 của Trần Kim Chi khi viên đại úy này đang đi công vụ trên xa lộ. Đại úy Chi và viên lái xe chết tại chỗ, chiếc xe gây tai nạn bỏ chạy mất tăm, “không nhận dạng được biển số”. Giới giang hồ đều cho rằng chính Đại Cathay đã sát hại Trần Kim Chi

Cái chết của Trần Kim Chi đã đánh dấu chấm than cuối cùng cho cuộc đời du đãng của Đại Cathay. Tháng 8.1966, với tội danh “Du đãng đặc biệt”, Đại Cathay lại bị tóm cổ. Cùng với một loạt du đãng khác, ngày 28.11.1966, Đại Cathay bị tống lên máy bay vận tải C47 đưa ra giam giữ tại đảo Phú Quốc.

Gọi là “Trung tâm hướng nghiệp” nhưng chính xác, đây là nơi lưu đày những tên lưu manh ngoại hạng dày thành tích bất hảo nhưng không có chứng cớ để bắt quả tang, do chính Nguyễn Ngọc Loan (Ông này là người nổi tiếng với bức ảnh bắn một tù binh -censor- ngay trên đường phố.) đề nghị thành lập nhằm “bài trừ du đãng, chấn hưng đạo đức, thượng tôn luật pháp”.

Trại là những dãy nhà dã chiến thấp lè tè nằm trong rào kẽm gai bịt bùng đặt cạnh sân bay Phú Quốc ngay tại thị trấn Dương Đông. Gọi là “hướng nghiệp” cho oai, kỳ thực đám tù suốt ngày chỉ ngồi ngáp vặt, đánh mạt chược mà không hẹn ngày về chứ chẳng có việc gì để làm. Một hôm, đang đánh mạt chược, Đại Cathay bảo:
- Gọi “hướng nghiệp” nghe chán thấy mẹ, tụi mình đặt lại tên cho nó đi.

Cả bọn đồng ý. Bác sĩ Nghiệp, một tên du đãng có học đề xuất:
- Bốc đại một con mạt chược, trúng con gì, đặt tên đó.

Đại Cathay quơ được con Cửu Sừng, vậy là “Trung tâm hướng nghiệp Phú Quốc” nghiễm nhiên trở thành “Trại Cửu Sừng”.

Không giống như dự định của tướng Sáu Lèo và sảnh sát ngụy, Trại “Cửu Sừng chẳng những không “hướng” được chút “nghiệp” nào cho đám đầu trâu mặt ngựa mà ngược lại hoàn toàn. Toàn bộ đám du đãng bị bắt vào đây như Đại Cathay, Hải Súng, Hoà áo thun, Lâm Chín ngón, Bảy Si, Hỏi Phoòng Kin, Thanh tưa, Quẩy Thầu Hao.. sau này đều là những tên giang hồ cộm cán nhất của Sài Gòn – Chợ Lớn, càng ngày càng hung hãn hơn. “Trại Cửu Sừng” như một con dấu chất lượng để đánh giá giang hồ. Tên nào từng ngồi ở “Trại Cửu Sừng” sau này đểu trở thành đàn anh, được quyền ăn trên ngồi trốc trên chốn giang hồ.

Người vợ cuối cùng, cũng là cuộc tình sâu nặng nhất của Đại Cathay là cô Nhân, con gái chủ tiệm đồ gỗ Đồng Nhân nổi tiếng nằm trên đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) đối diện với vũ trường Olympic. Khi Đại và cả đám đàn em bị tống ra đảo Phú Quốc, Nhân ở lại Sài Gòn, biết chắc rằng loại tù không án như chồng mình e khó có ngày về. Cô cùng anh trai vung tiền ra tìm cách cứu Đại Cathay.

Đầu tháng 1.1967, Nhân có mặt trong đoàn thân nhân ra thăm nuôi đám du đãng bị nhốt ở Trại Cửu Sừng. Gặp Đại Cathay cô báo cho chồng biết đã lo xong việc tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục. Đám lính gác sẽ làm ngơ cho Đại Cathay và một số đàn em trốn ra khỏi trại. Một xuồng máy chờ sẵn sẽ đưa đám tù ra khơi, có tàu hải quân do Nhân bố trí sẵn rước về đất liền. Để mua chuộc đám lính gác, Nhân đưa cho Đại một chiếc áo bluson và dặn dò kỹ lưỡng. Nhìn bề ngoài, nó chỉ là một chiếc áo lạnh rẻ tiền, sau lưng có một con rồng ấp quanh bản đồ Việt Nam thêu hai màu, nửa miền Bắc màu đỏ, nửa miền Nam màu vàng. Loại áo này bán nhan nhản dọc các tiệm đường Lê Thánh Tôn, trong chợ Dân Sinh… chủ yếu để đám lính Mỹ sắp hồi hương mua về làm kỉ niệm.

Khi chuyển áo cho Đại Cathay, tên lính canh của trại hướng nghiệp Phú Quốc thấy nó nặng hàng ký nên đâm nghi ngờ. Lần theo lưng áo hắn sờ thấy giữa hai lần vải có hàng chục miếng kim loại mỏng được khâu đầy trong đó. Đoán là vàng, tên lính canh định lôi ra khám xét. Lập tức cái liếc xéo mắt của tên sĩ quan đứng cạnh đã ngăn hắn lại. Tên lính đành trả lại áo cho Đại Cathay mang về phòng.

Theo lời đồn đại của giới giang hồ thì khi về phòng, Đại Cathay đã xé chiếc áo lấy ra đúng 62 lá vàng loại 1 lượng khâu trong đó. Với số vàng này, Đại đã mua chuộc đám cai ngục để chúng bố trí cho lính gác làm ngơ khi Đại bỏ trốn. Đi theo Đại Cathay có khoảng một chục đàn em trong đó có Xì kíp, Lắm Mổ bụng, Hùng Mỏ chuột, Hải Súng và Lâm Chín ngón… Đến phút cuối, Đại Cathay theo lời Hải Súng tham mưu, quyết định để Lâm Chín ngón – gã đệ tử thân nhất - ở lại. Đại nói với cả đám:
- Thằng Lâm lóc choc, dễ làm bể chuyện lắm. Vả lại, chuyến đi này lành ít dữ nhiều, nó còn trẻ, tội lắm. Chi bằng để nó lại, mình thoát rồi lo cho nó về sau an toàn hơn.

Trước giờ khới sự, Đại Cathay gọi Lâm Chín ngón đến và bảo:
- Mày phải bỏ xì ke đi, hại lắm. Tao chích cho mày một lần cuối cùng, sau đó là phải chừa hẳn, nếu không đừng trách.

Đại đã tự tay chích cho Lâm một mũi gấp đôi đô bình thường do chính tay Hải Súng pha chế, có độn thêm một ít tân dược để tăng nồng độ. Phê thuốc, Lâm Chín ngón quay ra ngủ say như chết. 12 giờ đêm ngày 7.1.1967, Đại Cathay dẫn đàn em đào thoát ra ngoài. Theo sự phân công của Đại Cathay, đám tù trốn trại chia làm hai tốp. Tốp thứ nhất gồm năm tên đi trước để nghi binh.

Tốp thứ hai, có Đại Cathay và Hải Súng chạy theo hướng bờ biển. Bất ngờ, khi cả hai tốp vừa vọt ra khỏi vòng rào thì phía trại báo động inh ỏi. Tốp thứ nhất, gồm Xì kíp, Hùng Mỏ chuột,.. bị tóm cổ lại ngay. Đại Cathay và Hải Súng vội đổi kế hoạch, chạy lên phía Bắc đảo, lần vào khu núi tượng, nơi có Quân giải phóng hoạt động. Đến đây, không ai còn tận mắt gặp lại Đại Cathay và Hải Súng. Và hàng loạt giai thoại giải thích sự mất tích của hai tên du đãng đầu sỏ bắt đầu xuất hiện.

...Theo hồ sơ về cái chết của hai tên du đãng mà chúng tôi có được: Biết không trị nổi Đại Cathay, lại nhiều lần bị tên đãng làm bẽ mặt, chuẩn tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan rất hận, tìm cách loại trừ vĩnh viễn Đại Cathay. Khi biết cô Nhân – vợ Đại – đang tìm cách lo lót tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục… Nguyễn Ngọc Loan đã chỉ đạo cứ để cho Đại Cathay thực hiện kế hoạch. Đến giờ chót, theo lệnh Loan, toàn bộ toán lính gác của trại hướng nghiệp bất ngờ bị đổi. Toán lính gác mới ráo riết truy kích đám tép riu, còn Đại và Hải, chúng cố ý để cho đào thoát vào núi Tượng.

Sau đó, Loan cho một tiểu đội biệt kích do thiếu úy Trần Tử Thanh chỉ huy, được trực thăng chở từ Sài Gòn ra truy kích Đại và Hải, bắn hạ chúng. Khi đi, toán biệt kích dù phải thay quần áo bà ba, đội mũ tai bèo, mang dép râu và sử dụng súng AK47, giả trang làm Quân giải phóng để đổ vấy cho việc giết Đại Cathay và Hải Súng cho phía Cách Mạng. Diệt xong, toán biệt kích dù phải đắp mộ, đề bia tử tế để dễ bề nhận diện và gây dư luận. Chính thiếu úy Trần Tử Thanh sau này đã từng huênh hoang khoe với nhiều phóng viên của một số tờ báo ở Sài Gòn trước 1975 rằng chính tay y đã nổ súng hạ gục Đại Cathay. Khá nhiều người cũng biết rõ ngọn nguồn sự việc, song trước khi ngụy quyền sụp đổ, không một tờ báo nào dám viết về âm mưu hại địch thủ của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Vì vậy, lời đồn đại, đoán non đoán già vẫn cứ loang ra mãi, đắp thêm chất huyền thoại vào cuộc đời và cái chết của Đại Cathay – tên du đãng ngoại hạng.

3. Lê Ngọc Lâm (Lâm 9 Ngón)
149675480410686-162.jpg
Lâm Chín ngón: Chân dung “hoàn hảo” du đãng Sài Gòn

Du đãng ở Sài Gòn trước năm 1975 có đến hàng ngàn, du đãng có “số má” cũng lên đến hàng chục, hàng trăm.
Những những tên du đãng để lại dấu ấn đậm trong thế giới giang hồ Sài Gòn chỉ khoảng 10 người. Còn những tên du đãng “khét tiếng” cả trước và sau năm 1975 chỉ có vài người, trong đó Lâm Chín ngón và Năm Cam. Lâm Chín ngón có “duyên nợ” cả với trùm du đãng trước năm 1975 là Đại Cathay và với trùm xã hội đen sau này là Năm Cam.
Nếu như Đại Cathay đưa Lâm Chín ngón lên hàng “chiếu trên” của thế giới giang hồ Sài Gòn thì Năm Cam đã đặt dấu chấm hết cuộc đời du đãng của Lâm Chín ngón với cú tạt a xit kinh hoàng. Lâm Chín ngón cũng là tội phạm ở tù “xuyên” 2 thời kỳ, trước và sau năm 1975, mỗi thời kỳ trên dưới 10 năm…

Người ơn của Đại Cathay

Lâm Chín ngón tên thật là Lê Ngọc Lâm. Trong một lần liều chết để cứu “chủ tướng” là Đại Cathay, Lâm đã bị đối phương chém rùng 1 ngón tay, hai bàn tay chỉ còn lại 9 ngón, vì vậy mà có biệt danh “Lâm Chín ngón”.

Sinh năm 1945 tại Hà Tây, trong một gia đình Công giáo, Lâm đã cùng gia đình di cư vào Năm lúc mới 9 tuổi. Tại Hố Nai (Biên Hòa), gia đình Lâm đã gặp nhiều biến cố, suy sụp, mới 12 tuổi Lâm đã bị xô ra xã hội, rồi được đưa vào làng cô nhi Thủ Đức, nơi nuôi dạy những đứa trẻ lang thang, không nơi nương tựa.

Tại làng cô nhi, Lâm tiếp tục được học đến “tú tài”, nhưng cũng nơi đây đã “dạy” cho Lâm làm “giang hồ vặt” khi Lâm cũng những đứa trẻ cô nhi khác đã lân ra ra ngoài nhập vào đám quân bụi đời, bán báo trước làng cô nhi… Những trận đụng độ xảy ra như cơm bữa đã biến Lâm từ một cậu bé sùng đạo, hiền lành thành một kẻ ngang tàng, bất chấp và rất lì đòn.
Năm 1963, Lê Ngọc Lâm bị bắt quân dịch. Trong thời gian “ba tháng quân trường”, Lâm đã bỏ trốn về Sài Gòn sống lang thang, được Đại Cathay nhận vào băng du đãng mới nổi lên ở khu Da Heo quận 1.

Có chút học thức, đánh đấm giỏi, lại lỳ đòn, Lâm nhanh chóng được Đại Cathay tin dùng trong các trận thư hùng nhằm tranh giành lãnh địa. Không bao lâu, Lâm trở thành trợ thủ đắc lực của Đại.

Một lần, Đại Cathay dắt quân tập kích vào khu vực rạp Hào Huê ở quận 5, là lãnh địa của băng du đãng Hắc Đạo người Hoa do Tín Mã Nàm làm thủ lĩnh. Băng Hắc Đạo không đương đầu nổi với băng của Đại Cathay, nên bỏ chạy.

Lâm Chín ngón thời trẻ
Say men chiến thắng, Đại bị băng Hắc Đạo dụ chạy sâu vào trong các con hẻm, sau đó hạ cửa sắt bít đường rút đầu các hẻm lại và phản công. Băng của Đại Cathay chỉ khoảng 10 người, trong khi băng của Hắc Đạo mấy chục tên với đủ thứ “đồ chơi”. Đại và các “chiến hữu” rơi vào cửa tử, bị đánh, chém tơi tả, chống cự trong vô vọng.

Trong lúc bế tắc, Lâm đã liều chết mở đường máu, tiếp cận được cửa hậu, dùng “đại dao” chém đứt được sợi dây xích khóa cửa, rồi tả xung hữu đột giúp Đại Cathay tháo chạy thoát thân. Trong trận này Lâm bị chém rớt ngón cái trên bàn tay phải, biệt danh Lâm Chín ngón bắt đầu từ đó, do chính Đại Cathay đặt.

Không chỉ 1, mà đến 2 lần Lâm cứu Đại Cathay thoát chết. Lần sau là vào năm 1966, tại nhà hàng Olympic, Đại Cathay và các “chiến hữu” bất ngờ bị đám vệ sĩ của tướng cảnh sát Nguyễn Ngọc Loan tấn công bằng vũ khí “nóng” (dùng súng).
Đại Cathay bị bắn bể đầu gối, nằm quỵ xuống sàn, Lâm Chín ngón đã lấy thân che đạn cho “chủ tướng”, vừa bắn chặn đối phương, rồi dìu Đại Cathay thoát khỏi “chiến địa” nồng nặc mùi khói súng.

May mắn Đại Cathay và Lâm Chín ngón khi người tài phán của vũ trường đã cắt cầu dao điện, cả vũ trường chìm trong bóng tối, những làn đạn đan xen nhau trong bóng đêm, nhờ vậy mà Lâm Chín ngón và Đại Cathay mới thoát thân được an toàn.

Cuối năm 1966, Tổng giám đốc Nha Cảnh sát Đô thành – chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan – mở chiến dịch bài trừ du đãng.

Hàng loạt du đãng cộm cán ở Sài Gòn bị bắt, trong đó có Đại Cathay và Lâm Chín ngón. Cả bọn bị chở ra “Trung tâm cải huấn” trên đảo Phú Quốc, nơi được giới tội phạm đặt lại tên là Trại Cửu Sừng, lấy tên một quân bài trong bộ bài mạt chược.

Đầu năm 1967, Đại Cathay cùng một nhóm tù du đãng tổ chức vượt ngục với kế hoạch khá mạo hiểm và chu đáo, sau khi thoát khỏi trại sẽ có tàu cao tốc đón đưa về đất liền. Biết cuộc vượt ngục này “lành ít dữ nhiều”, Đại Cathay không muốn cho Lâm Chín ngón, người ơn đã 2 lần cứu Đại thoát chết, tham gia.

Theo ý của Đại, nếu lỡ “có bề nào” thì “sự nghiệp” của Đại cũng còn có người đáng tin cẩn là Lâm Chín ngón nối nghiệp.
Trước khi chia tay không biết là sinh ly hay tử biệt, Đại bắt Lâm thề phải bỏ ma túy, đồng thời tự tay Đại chích 1 liều ma túy cuối cùng cho Lâm Chín ngón.

Liều ma túy nặng gấp đôi bình thường ấy đã làm Lâm say ngủ như chết và nằm lại trại, đến ngày hôm sau khi tỉnh dậy thì Lâm nhận được hung tin: Đại Cathay và gần một chục tên vượt ngục khác sau khi ra khỏi trại đã bị phát hiện và truy sát, tất cả đều bị bắn chết.
Về sau, Lâm mới biết rằng chính tướng Nguyễn Ngọc Loan đã “gài” vụ cượt ngục này để ra tay hạ sát Đại Cathay vì Đại đã dám “vuốt râu hùm” – hạ sát một cận vệ của Nguyễn Ngọc Loan ở Sài Gòn.

Trong tù 2 lần giết người
Sau khi Đại Cathay bị bắn chết ở Phú Quốc, Lâm Chín ngón ở tù thêm một thời gian, cuối năm 1969 được thả ra. Trở về đất liền, băng du đãng của Đại Cathay đã tan rã, không còn chỗ cho Lâm Chín ngón dựa, “người kế thừa sự nghiệp Đại Cathay” không đủ sức xưng hùng, xưng bá để thu thuế, lấy xâu như trước nữa.

Lâm Chín ngón trở lại thế giới du đãng bằng nghề đi cướp đường bằng xe gắn máy. Chẳng bao lâu, đường phố Sài Gòn đã bị ám ảnh bởi một tên cướp chạy xe như bay, thách thức lực lượng cảnh sát.

Lâm đi cướp bằng xe Honda 67, loại mới nhập cảng vào Sài Gòn, Lâm đem về “đôn dên” để tăng dung tích xi lanh cho xe.
Tốc độ thiết kế của xe Honda 67 tối đa là 90km/h, Lâm Chín ngón “cải tiến” nâng lên ngoài 100km/h, các phương tiện giao thông chuyên dùng của cảnh sát cũng phải chào thua. Lâm Chín ngón thường ra tay cướp của ở trước cửa các ngân hàng, nạn nhân là những người vừa lĩnh tiền từ ngân hàng ra.

“Ăn bay” được đúng 1 năm, vào cuối năm 1970, Lâm Chín ngón đã xui rủi va chiếc xe Honda 67 vào chiếc xe xích lô khi hắn đang cố chạy thoát sau 1 vụ cướp.

Chiếc xe bị ngã ra đường, Lâm chưa kịp bò dậy chạy tiếp thì cảnh sát đã ập đến, bắt Lâm tống vào trại giam Chí Hòa. “Kinh nghiệm” ở tù ngoài Phú Quốc trước đó đã giúp Lâm Chín ngón nhanh chóng trở thành “đại bàng” trong trại giam.
Cảnh sống trong tù và ngoài đời đối với Lâm Chín ngón không mấy khác nhau, tức cũng cướp bóc, ăn nhậu, bài bạc, hút sách… “Đại bàng” mới Lâm Chín ngón vào trại đã sớm đụng chạm với những “cựu tù” có số má trong khám Chí Hòa, bắt đầu xảy ra những cuộc đâm chém tranh giành ngôi vị, lãnh địa trong trại giam.

Giám thị, cai tù thì bị vô hiệu hóa bởi “đạn” bắn từ bên ngoài – người thân của các “đại bàng” dùng tiền mua chuộc giám thị, cai ngục.
Trong trại giam Chí Hòa không thiếu thứ gì, bên ngoài có gì thì trong trại giam cũng có thứ ấy, nếu như người tù có nhu cầu và có tiền.
Thậm chí có lần Lâm Chín ngón chơi ngông, đặt tiệc ở nhà hàng bên ngoài, họ mang vào tù tất cả những món ngon vật lạ bảo đảm vẫn còn nóng sốt.
Trại Chí Hòa lúc đó có khoảng 2.000 phạm nhân. Rất nhiều người trong họ là đệ tử của “nàng tiên nâu” lúc ở ngoài đời, khi vào tù họ cũng có nhu cầu hút chích. Bán thuốc phiện ngoài đời đã siêu lợi nhuận, bán “cái chết trắng” trong tù lại càng lời “khủng”.
Lâm Chín ngón độc quyền bán thuốc phiện ở khu FG, sau đó mon men mở rộng lãnh địa ra toàn trại giam Chí Hòa. Lúc ấy, ở khu AB quyền cung cấp thuốc phiện thuộc về một “đại bàng” có tên là Chương khùng.

Bị Lâm Chín ngón tranh giành chuyện làm ăn trong tù, Chương “khùng” tức tối chuẩn bị kế hoạch xử Lâm Chín ngón.
Một buổi chiều, khi Lâm Chín ngón đang chơi bóng chuyền ở sân trại, một đàn em cấp báo cho y biết có Chương “khùng” tới tìm. Bỏ ngang trận đấu bóng chuyền, Lâm Chín ngón ra cửa gặp Chương “khùng”.

Một cuộc tỉ thí đã xảy ra, phần thắng thuộc về Lâm Chín ngón, Chương “khùng” thua trận bỏ chạy về “méc” cho đại ca của mình là Cương Võ sĩ. Cương võ sĩ tên thật Vũ Đình Cương là một võ sĩ quyền anh nổi danh khắp miền Nam, qua cả Campuchia. Cương bị bắt vì tội buôn ma túy.

Là một võ sĩ, lại là em ruột của Sơn Đảo, một trùm du đãng ở Sài Gòn thời bấy giờ ở bên ngoài, nên trong tù uy thế của Cương rất lớn, trở thành trùm du đãng trong trại Chí Hòa.

Khi các băng nhóm trong trại có xích mích, chỉ cần Cương đứng ra nói một lời là tất cả đều răm rắp tuân theo. Tuy nhiên, Cương ít khi lộ diện đâm chém, vì vậy nên y mới được gán cho biệt danh “Hiệp sĩ trong bóng tối”.

Thấy đàn em tên Chương “khùng” ôm đầu máu chạy về vì bị Lâm Chín ngón hạ thủ, Cương võ sĩ tức giận chửi: “Đ.M nó! ở đây tao là đàn anh hay thằng Lâm là đàn anh? Nó muốn qua mặt tao hả, để tao cho nó một bài học!”. Cương hùng hổ dẫn một mấy đệ tử sang khu FG để hỏi tội Lâm Chín ngón.

Phần Lâm Chín ngón, sau màn ra tay khá nặng với Chương “khùng”, đang ngồi nghỉ thì một tên đàn em chạy vào cấp báo có Cương võ sĩ đến hỏi tội.

Lâm Chín ngón lặng lẽ đứng dậy, nhét con dao lá lúa vào người, rồi đi ra cửa khám. Chạm mặt nhau, Cương Võ sĩ hất hàm hỏi: “Ở đây mày với tao ai là đàn anh?”.

Không đợi Lâm trả lời, Cương Võ sĩ ỷ thế giỏi võ đã tung ngay một cú đấm như trời giáng vào mặt Lâm.

Dù đã có ý đề phòng, nghiêng người né tránh, nhưng cú đấm của Cương Võ sĩ quá chuyên nghiệp, nên Lâm cũng bị dính đòn sượt ngang mặt. Cú đấm quá mạnh không thật trúng đích đã làm Cương Võ sĩ bị lỡ đà, ngã chồm về phía trước.
Lâm Chín ngón lợi dụng khoảnh khắc đó, chộp cổ áo Cương Võ sĩ và rút dao… Những đàn em của Cương Võ sĩ chỉ kịp thấy ánh thép lóa lên, tiếp theo là tiếng “ực” rất gọn của Cương Võ sĩ, tên trùm du đãng trong trại giam Chí Hòa ngã vật ra sàn, chết ngay lập tức vì nhát dao đâm trúng tim.

Lâm Chín ngón trước khi đưa tay cho cai ngục dẫn đi về trại biệt giam, còn kịp nhắn lại: “Tôi không cố ý, tại anh Cương… Thôi, anh em thắp cho ảnh mấy nén nhang giùm tôi”.

Tên trùm du đãng Sơn Đảo (tức Vũ Đình Khánh) bên ngoài nhận được hùng tin đứa em ruột bị giết chết trong trại giam Chí Hòa, đã tức lồng lộn, thề: “Tao mà không giết được Lâm Chín ngón thì sẽ từ bỏ thế giới giang hồ!”.

Sơn Đảo âm thầm lên kế hoạch giết Lâm Chín ngón: Gửi sát thủ từ bên ngoài vào hoặc nhờ một tay giang hồ nào đó trong trại Chí Hòa giết chết Lâm Chín ngón. Cuối cùng, Sơn Đảo chọn phương án 2, tức người trong tù.

Đó là Nguyễn Văn Hoàng, tự Hoàng “đầu lâu”, vì trên bả vai của y có xăm hình chiếc đầu lâu. Hoàng Đầu lâu võ nghệ cao cường, mang đai đen tứ đẳng Taekwondo, từng thượng đài lúc chưa vô tù.

Sơn Đảo tiếp cận Hoàng “đầu lâu” bằng cách bỏ tiền mua một căn nhà mặt phố nhỏ đem tặng cho vợ con Hoàng đang sống chui rúc trong nhà trọ nơi hẻm sâu ở quận 8. Sau đó Sơn Đảo lại sang một sạp vải ở chợ cho vợ Hoàng đứng bán, làm kế sinh nhai. Chỉ cần như thế, Hoàng “đầu lâu” trong tù đã chấp nhận thực hiện yêu cầu của Sơn Đảo.

Lúc ấy, Hoàng “đầu lâu” đang mang án tù nhẹ, không chung khu giam giữ với tù trọng án, nên không thể tiếp cận được Lâm Chín ngón. Sơn Đảo đã dày tổ chức cho Hoàng phạm tội ngay trong tù để thành tù trọng án.

Lúc ấy, trong trại Chí Hòa có một cai ngục là trung sĩ Cách rất hống hách, ăn chặn tiền bạc, đồ ăn của tù nhân. Hoàng “đầu lâu” đã đón chặn trung sĩ Cách chém rớt sóng mũi của y, máu tuôn xối xả, trung sĩ Cách ôm mặt quằn quại…
Sau đó, Hoàng “đầu lâu” nghiễm nhiên trở thành tù trọng án. Ở bên ngoài, Sơn Đảo tiếp tục bung tiền lo lót với giám thị, cai tù để cho Hoàng “đầu lâu” chuyển sang ở cùng một buồng giam với Lâm Chín ngón.

Từ sau khi giết Cương Võ sĩ, Lâm Chín ngón hình dung rằng thế nào Sơn Đảo ở ngoài cũng tìm cách trả thù. Vì vậy mà khi theo dõi câu chuyện Hoàng “đầu lâu” chém trung sĩ Cách, rồi bất ngờ tên tội phạm này được đưa về giam chung buồng với mình, kèm theo những lời thì thào to nhỏ trong đám giang hồ trong trại giam, Lâm thừa biết Hoàng sắp giết ai.

Lâm Chín ngón âm thầm chuẩn bị cho cuộc tỉ thí. Lâm nhờ đàn em kiếm một chiếc quai đeo ba lô hình chữ X bằng inox đem vào trại giam.

Chờ lúc Hoàng “đầu lâu” ra khỏi phòng, Lâm lấy thanh inox ra mài xuống sàn xi măng thành một lưỡi dao nhọn.
Xong Lâm nhờ người mua cho mình một chai rượu Remy Martin về mời Hoàng “đầu lâu” nhậu. Không chút suy xét, Hoàng “đầu lâu” nốc rượu thoải mái sau bao ngày nhịn thèm.

Say rượu, Hoàng “đầu lâu” nằm lăn ra ngủ. Lâm Chín ngón lẵng lặng nấu nồi nước “để tắm”. Khi nước vừa sôi, Lâm bê nguyên cả nồi đổ ụp xuống mặt Hoàng “đầu lâu”, xong rút dao tự chế đâm Hoàng “đầu lâu” tổng cộng 37 nhát, cho đến khi nạn nhân tắt thở.

Khi Lâm Chín ngón đến báo mình đã giết người, viên cai ngục đang ngủ gà ngủ gật vẫn không tin. Đến khi chạy vào, nhìn xác Hoàng đẫm máu nằm thẳng đơ trên nền gạch, ông ta mới thất kinh hỏi Lâm Chín ngón: “Sao mày lại giết nó?”.
Lâm Chín ngón vứt dao, chùi máu đính trên tay, thản nhiên trả lời: “Tôi không đâm nó, nó cũng giết tôi! Tôi không còn con đường nào khác để chọn”. Lâm Chín ngón lại bị tống vào biệt giam.

Ở bên ngoài, Sơn Đảo lại lồng lộn thề thốt sẽ tìm cách giết Lâm Chín ngón cho bằng được. Nhưng chưa kịp nghĩ ra cách nào giết Lâm thì chính Sơn Đảo đã bỏ mạng bởi một đàn em làm phản. Trong tù hay tin, Lâm Chín ngón thở phào.
Người chủ quán thịt chó

Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Lâm Chín ngón đang trong trại giam. Lâm Chín ngón tiếp tục sống trong trại giam từ Chí Hòa, đi Côn Đảo, về trại cải tạo Cà Mau, sang Trại Z30D Hàm Tân, Bình Thuận, lại chuyển qua trại Phú Sơn, Phú Khánh.

Năm 1988, Lâm Chín ngón được trả tự do sau 18 năm ở tù qua 2 thời kỳ. Trở về đời thường, Lâm tỏ ra chí thú làm lại cuộc đời.

Năm 1993, Lâm cưới vợ và sinh con, cùng vợ mở một quán thịt chó bình dân trên đường 3-2, quận 10 TP.HCM. Tưởng như tên trùm du đãng ngày nào giờ đã lo chí thú làm ăn, làm lại cuộc đời, đoạn tuyệt hẳn với giới giang hồ.

Nhưng, nghiệp chướng tiếp tục đeo bám, không để cho Lâm an phận với cuộc hoàn lương. Một ngày cuối năm 1994, có 3 tên “xã hội đen” còn trẻ là chỗ quen biết vào quán thịt chó của Lâm ăn nhậu.

Rượu vào, lời ra, bọn chúng kể cho Lâm nghe một “phi vụ” mà chúng vừa thực hiện: Bảo kê các cảng cá Vũng Tàu, Long Hải và Phước Tĩnh. Có tiền, bọn chúng đã “đập phá” ở thành phố biển, bị công an tạm giam và tịch thu xe…
Bọn chúng nhờ “anh Lâm” xuống Vũng Tàu xin lại xe máy chúng. Vào một ngày Tết năm 1994, Lâm cùng ba tên xuống Vũng Tàu.
Dù đã “gác kiếm từ lâu”, nhưng uy danh của “Lâm Chín ngón” vẫn chưa phai trong giới xã hội đen ở Vũng Tàu, nhờ vậy mà y không khó nhờ “anh em” giúp xin lại được mấy chiếc xe.

Để trả ơn, mấy tên “đàn em” đã bao cho “đại ca Lâm” ăn chơi mấy ngày và chính thức mời “anh Lâm” xuống Vũng Tàu hợp tác “làm ăn”.

Thấy nguồn lợi quá lớn, so với quán thịt chó kiếm “bạc cắc” hàng ngày, Lâm Chín ngón đồng ý. Ở Vũng Tàu, sự có mặt của Lâm Chín ngón đã khiến các băng nhóm lưu manh khác khiếp vía, dạt ra hết, tạo điều kiện cho Minh Samasa và Dũng Ba lém tha hồ độc chiếm cảng cá, tha hồ nâng hạ giá, bán mua tùy ý để làm giàu.

Đổi lại, Lâm Chín ngón chỉ việc chường mặt ra cảng cá nhưng không phải mó tay vào bất cứ việc gì, mọi chi phí ăn uống chơi bời đều được “bao cấp”, kèm số lương 5 triệu đồng một tháng. Thấy đất Vũng Tàu làm giàu quá dễ, Lâm Chín ngón nảy ra ý đồ làm ăn riêng, tranh giành lãnh địa cho riêng mình.

Tuy có “số má” nhưng thế cô, Lâm Chín ngón không đương đầu nổi với đám giang hồ Vũng Tàu, nên chỉ một thời gian Lâm bị đánh bật, phải trở về với quán thịt chó ở Sài Gòn.

Bất ngờ, vào khoảng 8 giờ tối ngày 14.7.1999, khi Lâm chở vợ và đứa con trai 6 tuổi đi ăn ở quán Lồi (cư xá Bắc Hải, quận 10), tai họa đã ập xuống và chôn vùi vĩnh viễn tương lai của Lâm Chín ngón.

Khi Lâm vừa dựng xe cho vợ con bước xuống, một kẻ lạ bất ngờ tạt thẳng vào mặt Lâm một ca đầy a xít. Lâm đau đớn, ôm mặt ngã xuống mặt đường quằn quại.

Trận đòn thù quá hiểm ác, làm Lâm biến dạng toàn bộ khuôn mặt, hai tai rụng, mũi rụng, cằm chảy ra dính chặt vào ngực, hai mí mắt cũng chảy ra dính vào nhau, bịt kín con mắt, hai mắt gần như mù lòa…

Lâm Chín ngón sau khi bị tạt axit
Dù vậy, Lâm Chín ngón không cho vợ con, gia đình thưa, báo công an. Lâm cho rằng, tai vạ xảy ra chính là nghiệp chướng mà anh ta đã vay thì phải trả. Thậm chí, anh ta cho rằng kẻ hại mình đã chơi đúng luật giang hồ, chỉ xử Lâm chứ không hề đụng đến vợ con y…

Thật ra, Lâm Chín ngón biết rất rõ ai là kẻ ra tay hại mình, nhưng vì để giữ sự bình yên cho vợ con, Lâm đành ôm hận, nín lặng. Mà nếu muốn làm gì thì Lâm cũng cũng có đủ lực, trong khi người ám hại Lâm lại là một trùm giang hồ mới.

Cho đến tháng 12.2001, khi Năm Cam bị tóm cổ, Lâm Chín ngón đã lập tức tìm đến cơ quan công an để tố cáo chính Năm Cam là kẻ chủ mưu trong vụ tạt a xít ám hại Lâm.

Toàn bộ sự thật đã được phơi bày. Năm 1988, khi Lâm Chín ngón được trả tự do trở về Sài Gòn, chính Năm Cam đã dang tay giúp đỡ, tạo điều kiện cho Lâm sinh sống, cưới vợ.

Vậy mà, sau khi bị đám giang hồ đánh bật khỏi các cảng cá ở Vũng Tàu, nghi là có bàn tay của Năm Cam, Lâm Chín ngón đâm hận Năm Cam và “lấy oán trả ân”.

Về thành phố Hồ Chí Minh, đi đâu Lâm cũng rêu rao thoá mạ, công khai chửi bới, coi thường uy thế của Năm Cam. Thậm chí có lần, vào năm 1998, Lâm chủ động mời Năm Cam (cùng nhiều tay trong giới xã hội đen) đến một nhà hàng trên đường Trần Hưng Đạo ăn nhậu. Khi Năm Cam bước vào, những tên thuộc hàng đàn em đều nhất loạt đứng lên chào “anh Năm”.
Bất ngờ, Lâm Chín ngón gầm lên: “Thằng Năm Cam là cái đếch gì mà tụi bay phải bợ đỡ. Tao coi nó là cái đinh. Đ.M, thằng nào quị luỵ Năm Cam thì đừng coi tao là đàn anh nữa!”.
Bất ngờ bị Lâm Chín ngón chửi bới, hạ nhục, nhưng Năm Cam vẫn tươi cười: “Anh Lâm say rồi! Tôi cũng hơi mệt, thôi anh em ngồi chơi, tôi về trước”.
Ngày 11.7.1999, Năm Cam cho gọi Dung Hà đến nhà riêng để nhờ “dạy” Lâm Chín ngón một bài học. Dung Hà nhận lời, tức thì Thọ Đại úy (cháu Năm Cam) mang về cho Dung Hà một can a xit đậm đặc…Sau đó 3 ngày sau, Lâm Chín ngón vĩnh viễn trở thành người tàn phế.

Cuộc đời Lâm Chín ngón có thể nói là điển hình cho giới du đãng Sài Gòn trước năm 1975: xuất thân từ trẻ bụi đời, lớn lên trong cô nhi viện; nhờ liều lĩnh, đánh đấm mà trở thành du đãng; giết người không gớm tay; vào tù ra khám như đi chợ; sau ngày giải phóng dù cố hoàn lương nhưng không chiến thắng được những cám dỗ; cuối cùng lại trở về với thế giới giang hồ và kết thúc cuộc đời trong cay đắng, tăm tối…

Con đường giang hồ vốn dĩ như thế, bước vào tội ác thì dễ nhưng khi muốn bước ra thì vô cùng khó khăn.

Đến cuối đời, hơn ai hết Lâm Chín ngón đã nhận ra điều đó, khi đã trở thành một kẻ tàn phế mù lòa. Câu chuyện của Lâm Chín ngón, và nhiều gương du đãng khác, rất đáng để nhiều người biết đến và suy ngẫm!

4. Phạm Đình Nên (Cu Nên)
cunen-1458761584304-0-0-316-430-crop-1458761610434.jpg
Ấn tượng đầu tiên của tôi về Cu Nên, đó là 1 trận đánh nhau mà tôi chứng kiến. Hai bên hùng hổ lao vào nhau, túm tóc, chơi đủ đòn xấu như cắn, cấu. Sau chừng 5 phút, mệt quá buông nhau ra, kẻ bị ăn nhiều đòn hơn nức nở hét lên: " Mai tao gọi Cu Nên đến giết cả nhà mày!" Đoạn thắt lại khăn quàng đỏ, cầm cặp sách đi mất. Chuyện thật 100% các bác ạ. Thời ấy, đối với khá nhiều người lớn và cả trẻ em ở Hải Phòng, Cu Nên là một cái gì đó cực kỳ đáng sợ.

Nếu để tóm tắt về Nên, chỉ có 2 từ duy nhất: Ngông và ác. Cu Nên trưởng thành từ trường trại, mà theo 1 tờ báo thì cho tới tận bây giờ, hắn vẫn đang giữ "kỷ lục" về số tiền án, tiền sự trong giới tội phạm Việt Nam. Nhưng chỉ sau khi từ trại tị nạn Hongkong trở về, Nên mới nổi lên như một " ngôi sao đâm chém ", còn trước kia, Nên cũng chỉ giống như bao tên giang hồ vặt vô danh khác.

Cu Nên không có vẻ mặt của 1 gã sát thủ, mà ngược lại còn trắng trẻo, dễ nhìn là đằng khác. Theo một bác xích lô già kiêm coi tướng số dạo gần nhà, thì Nên chỉ có đôi mắt là vô cùng đáng sợ. Người biết Nên thường kể, mỗi khi không vừa ý chuyện gì, cặp mắt Nên vằn đỏ, ai nhìn thấy cũng biết ý tránh xa. Tính tình Nên khó đoán, lại thêm hung hãn và tàn bạo, nên không chỉ kẻ thù, mà ngay cả đàn em nếu không vừa ý cũng dính đủ đòn. Đám đàn em của Nên không có kẻ nào thuộc dạng "mắt ma", vậy mà cũng có lần, một kẻ bị chính tay Nên đâm lê ngập đùi. Lý do: đánh nhau với kẻ khác, nhưng đánh không lại, bỏ chạy và bị chém phải nằm viện. Xử xong đàn em, Nên mới kéo quân đi hỏi tội kẻ kia.

Thời gian đó ở Hải Phòng, Nên cũng không hơn gì nhiều so với Lâm già hay Dung Hà. Có điều, hắn lại là kẻ mà người dân sợ và căm ghét nhất. Lâm già thì dùng giang hồ chủ yếu để làm kinh tế, còn Dung Hà chỉ chăm chăm vài cái sòng bạc trên Trạng Trình và Kiến An, và nếu không ai đụng chạm tới, thì chúng cũng không hẳn có gì đáng sợ. Thậm chí sau này, khi Dung bị bắt, người dân trong phố còn lũ lượt kéo tới kí đơn kêu oan cho Dung nữa.

Cu Nên thì khác hoàn toàn. Bản tính hung hãn, cộng với sự sợ sệt của người dân khiến Nên trở thành một dạng hung thần ngay trong lòng thành phố. Đến tận bây giờ, người ta vẫn kể những chuyện đại loại: giữa ban ngày, Nên cho đàn em xông vào nhà người khác, đánh người ngay trước mặt công an. Thậm chí, còn chỉ mặt công an và quát: Pháp luật là tao này! Quả thật, thời điểm ấy, ngay cả chính quyền cũng không dám đụng chạm tới Nên. Công an thì cũng là con người, cũng có vợ con, cũng biết sợ cho tính mạng của cả gia đình mình, nhất là khi phải động chạm tới một kẻ như Cu Nên.

Ngay ở Hải Phòng, có một ngõ khá lớn mà trước kia, Nên và gia đình từng ở. 7 giờ tối, mọi nhà nội bất xuất, ngoại bất nhập, dạng như 1 kiểu thiết quân luật mà Nên tự đặt ra. Vô phúc bén mảng ra vào trong giờ giới nghiêm của Nên, chắc chắn sẽ lành ít dữ nhiều. Thực ra không phải chơi ngông, mà Nên làm vậy cũng vì hắn sợ cho sự an toàn của chính mình. Ân oán nhiều, nên không ít kẻ sẵn sàng thí mạng với Nên để trả thù.

Các vụ án do Nên và đám đàn em gây ra không đếm xuể, nhưng không một ai dám đứng ra tố cáo Nên. Một phần vì sợ bị trả thù, phần kia là vì có tố cáo cũng không biết gửi ai. Chỉ biết rằng một thời gian dài, Nên ngông nghênh hoành hành khắp Hải Phòng như 1 dạng trời con. Người rỗi việc cũng thường đồn đại lắm chuyện quanh gã lưu manh ngoại hạng này. Có 1 chuyện khá buồn cười: Nên tuy là tội phạm có cỡ, nhưng lại hâm mộ bóng đá và thích nhất đội ... Công An Hải Phòng. Một lần lên Hà Nội xem CAHP thi đấu, nghe cổ động viên 2 bên khích bác nhau, Nên nổi điên, phanh ngực áo chỉ tay về phía cổ động viên đội bạn thách: Bơi hết vào đây, bố tiếp từng thằng một! Đám cổ động viên bên kia đông hơn hẳn, nhưng nhìn thấy bộ dạng của Nên, tự dưng im bặt.

Quả thật, kẻ võ biền như Nên nhưng cũng có thể xưng hùng xưng bá, 1 phần do sự hung hãn và độc ác, nhưng cũng phải có 1 cái đầu tinh quái ở bên cạnh tham mưu. Kẻ thường được nhắc tới kèm với Cu Nên - chính là cái đầu tinh quái ấy: Cu Lý.

Dạo ấy Hải Phòng hầu như tháng nào cũng án mà toàn những vụ ghê gớm cả. Những cái tên Cu Nên, Lâm "già", Dung "Hà" khi ấy làm nhiều người dân khiếp sợ, không dám **ng, cũng chẳng dám tố cáo bởi chúng là những tên cầm đầu của ba ổ nhóm tội phạm khét tiếng.

Riêng Cu Nên thì chơi trội hơn cả.

Nên sinh năm 1957, người gốc Hải Phòng, là con trai độc nhất trong một gia đình có 4 chị em vì anh trai của Nên đã hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ. Nên cao ráo, trắng trẻo nhưng có bộ mặt sát nhân, lạnh lùng và lỳ lợm.

Trong lịch sử tội phạm ở Việt Nam có lẽ Phạm Đình Nên là kẻ giữ kỷ lục về tiền sự với 22 tiền sự, trong đó đa số là về tội cướp và cố ý gây thương tích. Năm 1987, sau khi đi tập trung cải tạo về, vợ chồng Phạm Đình Nên chia tay và Nên trốn sang Hongkong. Ở trại tị nạn Hồng Kông 2 năm, Nên lấy vợ hai, sinh con rồi đến năm 1989 thì phải hồi hương.

Trở lại Hải Phòng, Nên thực sự trở thành một giang hồ cộm cán chuyên làm giàu bằng các sòng bạc. Chỉ trong vòng vài năm, với những đồng tiền bẩn thỉu kiếm được từ các hoạt động tội phạm, Nên trở thành một kẻ giàu có. Lúc đó, trong khi chiếc xe máy còn là tài sản lớn mà nhiều công chức cả đời ky cóp chưa mua nổi thì Phạm Đình Nên đã có xe hơi. Ngoài ngôi nhà 3 tầng to vật vã ở số 112 đường Lạch Tray, con đường đẹp và đắt giá nhất Hải Phòng, Nên còn bỏ tiền ra mua liền một lúc 5 căn hộ ở mặt đường ngay sát cạnh nhà Nên để phá bỏ làm xưởng sửa chữa ôtô.

Ngôi nhà 112 đường Lạch Tray trong một thời gian dài là hang ổ của băng tội phạm do Phạm Đình Nên cầm đầu. Trong nhà Nên, ngoài mẹ Nên, vợ chồng Nên và 3 đứa con lúc nào cũng có hàng chục tên đàn em túc trực, để bảo vệ tính mạng cho chú Nên như lời khai của Đinh Văn Lĩnh, tức Linh cu, một tay chân thân tín của Phạm Đình Nên.

Những tên đàn em này được Nên nuôi ăn hàng ngày, được Nên sắm sửa cho các vật dụng, trang sức đắt tiền, được Nên cho tiền tiêu và để đổi lại thì bọn chúng phải bắn, giết, cướp bất cứ lúc nào khi Nên ra lệnh.

Linh "cu" là một ví dụ. Nhà ở phố Lý Thường Kiệt, Linh nghiện ma túy từ năm 15 tuổi, mỗi ngày đốt khoảng 500 nghìn đồng. Cha mẹ Linh bỏ nhau, Linh ở với bố, một người cũng khá tiếng tăm trong giới giang hồ Hải Phòng. Cha Linh do có mối quan hệ thâm tình với Phạm Đình Nên từ khi Nên mới chỉ là tay trộm cắp vặt nên mới gửi Linh xuống ở nhà Nên để “nhờ chú cai nghiện và bảo ban cháu (?!).

Ở nhà Nên, Linh không những không cai được nghiện mà còn được huấn luyện thành tay đao búa. Sau này, trong tất cả các phi vụ cướp giết để bảo vệ danh dự cho chú Nên Linh "cu" đều có mặt và là kẻ hành động chính. Tuy nhiên, khi băng tội phạm Phạm Đình Nên bị đưa ra xét xử, Linh "cu" mới 16 tuổi nên y không bị kết án tử hình mà chỉ phải chịu hình phạt cao nhất đối với trẻ vị thành niên là 20 năm tù giam.

Khi thi hành án ở trại giam Nam Hà, Linh đã đánh chết một đồng phạm cùng buồng giam và tiếp tục bị xử phạt tù chung thân. Một thời gian sau, Linh "cu" trốn trại. Khi bị lực lượng cảnh sát trại giam truy bắt, Linh "cu" đã bắn trọng thương Đại úy Nguyễn Văn Phục, cán bộ trinh sát của Cục Cảnh sát trại giam. Với tội trạng này, Linh "cu" đã bị tuyên án tử hình.

Không giống như Linh "cu", Đinh Văn Tuyển lại trở thành tay chân đắc lực của Phạm Đình Nên bởi sự lóa mắt vì tiền bạc. Tuyển sinh năm 1967, đẹp trai, cao to. Nhà Tuyển ở phường Vạn Hương, thị xã Đồ Sơn. Cả gia đình Tuyển làm nghề đi biển. Tuyển cũng xuất cảnh trái phép sang Hongkong và ở cùng trại tị nạn với vợ chồng Phạm Đình Nên. Sau này khi đã hồi hương, Tuyển không muốn quay về với nghề đi biển vì ngại khổ.

Vì thế, Tuyển đã tìm đến với Phạm Đình Nên và chỉ một thời gian sau Tuyển cũng được huấn luyện thành một tay đao búa. Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án còn lưu trữ tại Công an Hải Phòng thì trong tất cả 8 vụ cướp, giết, cố ý gây thương tích do Phạm Đình Nên chỉ huy, Tuyển và Linh “cu” thực hiện tội phạm "tích cực" nhất.

Sẵn có trong tay tiền bạc, vũ khí và cả một đám tay chân sát thủ, Phạm Đình Nên lộng hành như một ông trùm đao búa. Giữa ban ngày Nên xông vào tận trụ sở Công an phường Lạch Tray, nơi gia đình Nên cư trú để giải cứu cho đồng bọn khi tên này bị công an phường bắt giữ vì có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Không chỉ thế, Nên còn đe dọa sẽ bắn và tạt axít vào mặt phó trưởng công an phường.

Chỉ vì một xô xát nhỏ giữa gia đình chị ruột Nên và người hàng xóm, Nên đã cho đàn em đánh trọng thương một cán bộ của Ban Tuyên giáo Thành ủy Hải Phòng. Thậm chí ban đêm nhà Nên có trộm, một người đi đường không đuổi trộm hộ Nên cũng bị Nên sai tay chân ra đánh cho sây sẩm mặt mày.

Một tối gia đình Nên đang ăn cơm bỗng thấy có ai đó bắn vào cửa. Đoán đó là đám tay chân của Lâm già, lập tức Nên sai Linh "cu" và Tuyển, mỗi tên mang một khẩu súng đến tận cửa nhà Lâm "già" nã liền lúc hàng chục phát đạn vào nhà để dằn mặt.

Lần khác, Linh "cu" đi chơi xô xát với một thanh niên tên là Nguyễn Văn Cường. Linh gọi điện về báo cho Nên, lập tức Nên bảo Tuyển và mấy tên đàn em mang súng tới "giải quyết". Nên bảo Tuyển cứ bắn chết thằng ấy cho tao và Tuyển đã nhằm vào Cường nổ hai phát súng nhưng may là Cường không trúng đạn. Hậm hực vì không giết được Cường, Nên bảo Tuyển đi đến nhà Cường lấy báng súng đập vào đầu bố Cường cho bõ tức (?!).

Khi cháu của Nên va chạm xe với một người đi đường, Nên sai Linh "cu", Tuyển và một vài tên khác đi cùng Nên để xử lý. Tới nơi theo lệnh của Nên đám đàn em này không chỉ đâm trọng thương bạn của người đàn ông đã va chạm với cháu Nên mà khi người này phải vào Bệnh viện Việt - Tiệp cấp cứu, Nên còn cho tay chân theo vào tận bệnh viện để tiếp tục đâm.

Anh Trần Anh Tuấn, nhà ở Hồ Sen, con trai độc nhất của một người thương binh mù, bạn của người đàn ông nói trên khi hay tin bạn mình bị cấp cứu đến thăm đã bị Linh "cu", Tuyển và đám đàn em của Phạm Đình Nên đâm chết ngay tại nhà gửi xe của bệnh viện. Vụ án này đã gây căm phẫn cao độ trong quần chúng nhân dân thành phố Cảng...

Chỉ vài tháng sau khi đảm nhận trách nhiệm Phó giám đốc Công an thành phố phụ trách cảnh sát, Đại tá Trần Đồn đã có trong tay toàn bộ hồ sơ về tội trạng của băng tội phạm Phạm Đình Nên. Trong khi làm án, ông luôn bị ám ảnh bởi hình ảnh người thương binh mù cả hai mắt trong nỗi đau mất con.

Tờ mờ sáng ngày 15/3, hàng đoàn xe ôtô của Công an Hải Phòng được hóa trang bằng các biển số xe Hà Nội đã đổ quân xuống tiền sảnh của Cung Văn hóa hữu nghị Việt - Tiệp, để từ đây hàng trăm cán bộ chiến sĩ thuộc các lực lượng cảnh sát điều tra, cảnh sát hình sự, cảnh sát bảo vệ... đã bao vây chốt giữ ở tất cả các điểm xung quanh ngôi nhà 112 Lạch Tray.

Đúng 10h30, ông ra lệnh cho các lực lượng vây bắt từ các vị trí phục kích đồng loạt đột nhập vào nhà số 112. Công an đã bắt giữ Phạm Đình Nên cùng 6 tên đồng bọn, thu 10 nghìn USD cùng nhiều trang sức bằng vàng.

Khám xét nhà Nên và khu vực hầm ở phía sau nhà thu giữ 1 súng tiểu liên, 3 súng ngắn, 47 viên đạn, 1 quả lựu đạn và nhiều lê, kiếm. Trận đánh nhanh, gọn, không phải nổ súng, đảm bảo an toàn cho lực lượng công an và nhân dân xung quanh. Thứ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã gửi điện khen Công an Tp. Hải Phòng.

Nhân dân thành phố đổ ra đường chào đón lực lượng công an. Hoa và thư khen của quần chúng nhân gửi đến Công an thành phố nhiều vô kể. Phạm Đình Nên sau đó bị tuyên án tử hình.

Trong những ngày chờ thi hành án, Phạm Đình Nên đã làm thơ gửi vợ, ao ước được trở về với cuộc sống nghèo khó mà lương thiện: "Đêm lạnh trong tù anh nhớ về dĩ vãng/ Nhớ vợ hiền và đứa con thơ/ Nhớ mái nhà tranh dột nát năm nào/ Giờ thân tội tù như chim ***g cá chậu...

5. Vũ Thị Hoàng Dung (Dung Hà)
20131130185609dung_ZLCJjpg.jpg
Một góc phố Trạng Trình - Hải Phòng, nơi Dung "hà" sinh ra và lớn lên

Với những chiêu thức tinh khôn và không lạm dụng bạo lực, thị đã xây dựng được một “đế chế” độc tôn, trật tự và khá an toàn cho thế giới tội phạm ở phố cảng. Nhưng quá khứ đó đã được thay bằng cảnh “hỗn mang” từ khi Dung “hà” chết. Vậy người đàn bà đó là ai?

Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu có ba “ả tố nga” bên dòng sông Tam Bạc nước cả bốn mùa, Dung “hà” là út nhưng tính tình trầm lặng, lạnh lùng và quyết liệt nhất. Nhà ở phố Trạng Trình gần chợ, gần sông và gần bến xe nên tuổi dậy thì của Dung “hà” cũng là tuổi chập chững trong giới cướp giật móc túi ở Hải Phòng.

Cũng là kẻ đa đoan nên mối tình đầu của Dung “hà” là một gã du côn ít tên tuổi nhưng phong nhã tên là Hùng “chim chích” ở chợ Sắt. Hùng “chim chích” trưởng thành qua các tăng tù “bất khuất” (những trại tù có nhiều tội phạm nguy hiểm) nên hắn có những hình xăm hoa mỹ trên người. Ngập vào ma túy nên bản lĩnh Hùng “chim chích” trở nên thấp hèn. Một người “chí lớn” như Dung “hà” thì không thể coi đó là “tri âm”.

Chia tay Hùng “chim chích”, Dung “hà” yêu một đại bàng đầy số má, đẹp trai và cũng tên là Hùng - Hùng “cốm”. Dung “hà” sẵn cơ mưu, nhìn xa trông rộng, không cầu lợi nhỏ, không chấp chuyện vặt nên đôi uyên ương vùng vẫy trong giang hồ với kẻ tung người hứng, kẻ đấm người xoa rất ý hợp tâm đầu. Hùng “cốm” lãnh án dựa cột bởi tội giết người. Hận vì tình vỡ cộng với máu giang hồ, Dung “hà” tổ chức một cuộc cướp tù với kế hoạch cực kỳ táo bạo, công phu và đầy mưu mẹo.

Quà tắc tế được giấu một quả lựu đạn sẽ tìm một phương án khả dĩ nhất để đưa vào tới tay Hùng “cốm”. Một chiếc xe tải rách nát chuyên chở bắp cải, su hào sẽ đến gần cổng trại giam. Lựa thời điểm, Hùng “cốm” sẽ dùng lựu đạn cướp khóa, khống chế quản giáo, tháo thân. Lựu đạn cay, hỏa mù và các phương tiện đánh lạc hướng sẽ được đám đệ tử phát huy. Xe tải chở Hùng “cốm” phóng thẳng.

Hàng chục xe máy, công nông, xe thồ... sẽ có nhiệm vụ cản đường tại những trục chính đã được tính rằng xe công an có thể rượt đuổi. Hùng “cốm” chạy ra bờ biển. Xuồng nhỏ, xuồng lớn phục sẵn tại các điểm hẹn sẽ đưa kẻ đào tẩu đến phao số không và đi Hong Kong. Các tình tiết ngoại phạm, các phương án xóa dấu vết... được tính toán từng chi tiết.

Tuy nhiên kế hoạch bất thành. Người tình vẫn phải đền tội nhưng Dung “hà” đã khiến tất cả những tên côn đồ hữu dũng vô mưu hay những kẻ to mắt sợ ma phải cúi đầu bởi không chỉ vì lá gan, mưu sâu mà cả vì là liệt nữ hành hiệp “trọng nghĩa” hơn bất kỳ một đại ca nào.

Câu chuyện trên không được Công an Hải Phòng xác nhận nhưng nó đã trở thành một “huyền thoại” trong giới giang hồ đất cảng. Trong tất cả những trùm giang hồ Hải Phòng trong ba chục năm qua thì Dung “hà” được tôn trọng, nể vì nhất. Điều đó khiến đàn em thị trung thành nhất và đông đảo nhất.

Để được như vậy, Dung “hà” luôn tỏ ra độ lượng, thưởng phạt phân minh “ân đức” bao trùm lên thế giới giang hồ. Thị luôn tránh va chạm với dân thường bằng bạo lực. Trái lại, trong con mắt nhiều người, thị còn là một người đàn bà tốt bụng, hảo tâm. Đối với khu xóm, ai hoạn nạn ốm đau, thai sản đều được thị thăm hỏi, quà cáp.

Ngày lễ tết hay đi du lịch, chùa đền về, thị thường chia lộc, chia vui với bà con khu phố. Năm 1995, khi Dung “hà” bị công an bắt, có tới 45 người dân là bà con cùng khu phố thị ở đã viết đơn kêu oan cho Dung “hà”.

Không nuôi gái , không ma túy, không đòi nợ thuê, không buôn lậu hay vận tải mà Dung “hà” chỉ tập trung “thâm canh” bằng cờ bạc và "làm luật" ở một vài khu chợ, bến bãi. Lựa chọn những ngạch làm ăn này vừa nhẹ nhàng, vừa ít va chạm lại thu nhập cao nên thị mở nhiều sòng bạc ở nhiều địa chỉ khác nhau. Tuy nhiên sới bạc tại nhà vẫn là qui mô nhất với đại gia đình tham gia.

Sau khi triệt phá hàng loạt băng nhóm tội phạm có tổ chức, năm 1995 Công an Hải Phòng bắt Dung “hà” về tội tổ chức đánh bạc và lãnh án 7 năm tù giam. Sau bốn năm thụ án, Dung “hà” được đặc xá. “Binh lực” và tiền bạc vẫn mạnh nhưng cửa làm ăn ở Hải Phòng đã hết, Dung “hà” tìm vào Sài Gòn và đã bị Năm Cam cho người hạ sát.

Vinh "lì" kể: "Lúc đó khoảng 9-10 giờ tối, bọn em đang chơi xóc đĩa ở phố Cát Dài thì một anh có điện thoại. Vừa nghe được mấy câu ông ấy rống lên như bò bị cắt tiết, ném điện thoại xuống chiếu, mặt không còn hạt máu: “Chúng mày ơi chị mất rồi! Chúng nó bắn chị Dung chết rồi!”.

Cả chiếu bạc hơn 40 người nháo nhác như gà mất mẹ. Một anh già có vẻ cứng bóng vía nhất quát lên: “Ai bảo mày? Ai nói chị chết?”. Liên tục những cuộc điện thoại gọi đến gọi đi. Nhiều tiếng khóc thảm như trẻ con".
Đêm ấy, thành phố Hải Phòng như không ngủ. Tiếng khóc, tiếng chửi, tiếng bàn tán xì xào lẩn khuất khắp nơi trong thành phố. Ngôi vị cao nhất của giang hồ đất cảng đã chết không một lời trăng trối, đã bị hạ sát bởi một kẻ lạ mặt giữa lúc thị đang ngự trị giữa bầy đàn đệ tử. Lúc đó lòng thương xót và cơn uất hận của đám ong ve ngùn ngụt như lửa nhưng tất cả đều không biết ai là thủ phạm.

Thậm chí ban đầu ngay những đệ tử tháp tùng Dung “hà” vào Sài Gòn cũng không biết ai là kẻ chủ mưu hại Dung “hà”. Nhiều đầu lĩnh Hải Phòng đã thu xếp vào Nam đòi nợ máu nhưng không thể lên đường vì không rõ đối thủ. Vinh “lì” nói không biết là do quá khôn ngoan hay may mắn mà Năm Cam đã không lộ diện giết Dung “hà”.

Bởi nếu giang hồ đất cảng biết điều đó sớm thì dù Năm Cam có nhiều tiền và hùng mạnh đến đâu chắc chắn cũng không thể tránh khỏi thảm họa như Sìn “cơm” thời mới ở Hong Kong về.
Thi thể Dung “hà” đã được tắm gội, khâm liệm, cúng tế bằng những nghi thức trang trọng và ngay lập tức được đưa vào quan tài kẽm chở về Hải Phòng trong chuyến bay sớm nhất. Giang hồ đất cảng đã tiễn đưa “người chị” đoản mệnh về nơi chín suối bằng một đám tang kỳ quái chưa từng có ở VN.

Từ mờ sáng trên các tuyến phố lớn và đại lộ huyết mạch từ khu trung tâm thành phố (bến xe Tam Bạc, gần phố Trạng Trình, nhà Dung “hà”) dẫn ra nghĩa trang Ninh Hải nằm ở ngoại ô hướng đông nam đã xuất hiện hàng dãy dài những thanh thiếu niên nam khôi ngô tuấn tú mặc đồng phục comlê đen, kính đen, cài dải tang trên áo đứng nghiêm cẩn dọc hai bên để dẹp đường, cấm tất cả các loại xe hoạt động.

Tiếng trống phách, thanh la vang lên não nuột nhưng rất ồn ã từ phố Trạng Trình. Đi đầu đám tang là những cô bé, cậu bé mặc đồ trắng, cầm cờ, hoa, câu đối đi chậm rãi, ngay ngắn. Phía sau họ là một cái kiệu gỗ có ảnh người chết, bát hương và một số đồ cúng tế do những người đàn ông lực lưỡng cáng trên vai.

Vòng xung quanh kiệu là rất đông nhà sư, thầy cúng, ông đồng bà cốt vừa đọc kinh, lần hạt, nhảy múa và hát. Phía sau là những đoàn người trong tang phục đen mà chủ yếu là đàn ông với rất nhiều vòng hoa lớn. Hai bên đường là hai hàng xe hơi màu đen toàn loại sang trọng rì rì lăn bánh theo bước chân người.

Một chiếc quan tài phủ hoa rực rỡ được công kênh bằng những cánh tay người cao vút trên đầu. Đám tang ngày một thêm đông, người đưa ma kéo dài hàng cây số. Các loại phương tiện lớn nhỏ đều phải dừng lại dưới sự chỉ huy của những thanh niên mặc đồ đen. Dân đổ kín hai bên phố và theo chân quan tài đi nhiều tiếng đồng hồ ra tới nghĩa trang.

Tất cả những tên du đãng ở Hải Phòng lúc đó, dù trong đời chưa một lần được “chị” biết đến, thậm chí chưa được nhìn thấy “chị” cũng tự nhận mình là em, là cháu Dung “hà” mà khóc lóc thảm thiết...
Đám tang qui mô, long trọng và kỳ lạ chưa từng thấy ở thành phố này do một đại ca đầy danh tiếng ở Hải Phòng cũng đang lập nghiệp ở Sài Gòn là Minh “sứt” đạo diễn (Minh “sứt” nguyên là công an Hải Phòng, sau bị đưa ra khỏi ngành, vì buôn ma túy hắn bị Tòa án nhân dân TP.HCM xử chung thân).
Minh “Sứt” sinh năm 1956. Năm 1974, sau khi tốt nghiệp phổ thông, Minh được tuyển dụng vào lực lượng Công an và đi học lớp sơ cấp tại Hải Phòng. Học xong, Minh được điều động về phục vụ đội bóng Công an Hải Phòng rồi chuyển qua Cảnh sát bảo vệ và cuối cùng về quận Lê Chân. Do chỉ thích lêu lổng ăn chơi, không chịu ghép mình vào tổ chức nên Minh bị đưa ra khỏi lực lượng Công an.

Năm 1981, Minh lại được nhận vào làm việc tại Công ty Vận tải biển Hải Phòng. Từ đó, sự cạnh tranh giữa y với trùm buôn lậu đất Cảng L. “Đen" gia tăng, nhiều lúc mâu thuẫn đã phải giải quyết bằng… máu. Chính lúc này, Minh đã nghĩ đến chuyện phải bắt tay với xã hội đen.

Tại thời điểm này, Dung “Hà” nổi lên là một ả xã hội đen cộm cán ở Hải Phòng. Dưới tay Dung “Hà” có hàng chục tên tay dao, tay súng chém người không gớm tay như H. “Hấp" – H. “Chó ngao", Đ. “Con", Đ. “Ngỗng", Dũng “Bắc Cạn", Dũng “Moze"… Nhưng Dung “Hà” lại rất cần tiền để nuôi đám đàn em và nướng vào những sòng đỏ đen. Còn Minh cần mối quan hệ của bọn xã hội đen để phục vụ việc đánh hàng lậu, vì thế kẻ cắp, bà già dễ dàng đến với nhau. Cũng chính sự bắt tay của trùm buôn lậu với trùm giang hồ mà đất Cảng những năm 1980 của thế kỷ trước xảy ra nhiều chuyện động trời…

Máu tham của Minh có thể nói là không cùng. Y đã bắt tay với cả "Hạnh Sự", đàn chị Dung “Hà”, thâu tóm lĩnh vực buôn bán sắt vụn ở hầu hết các tỉnh miền Bắc để xuất khẩu. Và sự tranh giành lãnh địa buôn lậu của Minh và L. ngày một quyết liệt. L. cũng tập hợp quanh mình một số tên đầu gấu. Cả hai thường xuyên theo dõi nhau và tố cáo chuyện làm ăn phi pháp với các cơ quan chức năng.

Năm 1987, chờ Minh đánh một quả lớn hàng điện tử, L. tố với cơ quan chức năng, Minh bị bắt giam. Ngày 27/7/1988, Tòa án Tối cao tại TP Hà Nội tuyên phạt Minh 2 năm tù về tội Buôn lậu hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Minh ngậm trái đắng trong trại giam.

Sau khi ra tù, tại thời điểm ấy, hàng điện tử đã có chiều hướng "nhạt" lãi, Minh quay sang bắt tay với Ngô Xuân Phương - Phương “Trộm trâu" - Việt kiều Nhật, tổ chức một đường dây buôn lậu ma túy lớn, có lúc đường dây này vận chuyển cả tấn cần sa và hàng ngàn bánh heroin từ Lào, Campuchia về Việt Nam, sau đó chuyển sang Nhật, Mỹ, Australia, Hà Lan để tiêu thụ.

Lúc này sự cạnh tranh với L. vẫn rất quyết liệt. Sợ L. biết và tố cáo chuyện buôn bán ma túy thì dựa cột là cái chắc nên cuối năm 1990, Minh quyết định bỏ đất cảng Hải Phòng chạy vào Quy Nhơn, Bình Định tiếp tục tổ chức buôn lậu hàng điện tử và buôn bán ma túy.
Gieo rắc tội ác

Lúc này băng nhóm giang hồ Hà “L” đặt đại bản doanh ở Nha Trang nhưng vươn vòi bảo kê ra gần hết dải đất miền Trung. Minh đã không bỏ lỡ cơ hội để câu móc với Hà “L" đứng ra bảo kê cho hắn. Mặt khác, Minh vẫn sử dụng cô em kết nghĩa Vũ Hoàng Dung cùng cô chị Vũ Hoàng Oanh để tổ chức mua và vận chuyển ma túy từ Nghệ An vào Bình Định bằng ôtô đưa xuống tàu biển “xuất khẩu…”!

Tại Quy Nhơn, Minh liên kết làm ăn với vợ chồng Nguyễn Thị Ng. - một trùm buôn lậu địa phương. Mặc dù có vợ và hai con ở Hải Phòng, nhưng trong quá trình làm ăn, Minh nảy sinh tình cảm với Ng. Ng. cũng khoái Minh nên thường lén lút trốn chồng lẻn đi với Minh.

Hai tên đã lừa cho chồng Ng. đánh một lô hàng lậu thật lớn rồi mật báo với cơ quan chức năng. Chồng Ng. bị bắt quả tang và đi tù nhiều năm. Ở ngoài, Ng. và Minh công khai ở với nhau. Sau này sợ mang tiếng với bàn dân thiên hạ, Minh và Ng chuyển hẳn vào TP HCM thành lập công ty TNHH ở số 47 đường Cửu Long, phường 2, quận Tân Bình làm vỏ bọc để tiếp tục thực hiện những phi vụ mua bán ma túy xuyên quốc gia.

Chuyện tình của Minh và Ng. ở thành phố biển miền Trung cũng để lại những giai thoại mà nhiều đàn em sau này lấy ra kể làm chuyện cười với nhau. Chẳng là Minh vốn nửa giang hồ, nửa con buôn, tung hoành khắp nơi, tiền tài cũng chẳng kém ai. Nhưng từ khi dính với Ng., Minh cứ như khỉ gặp sư tử cái.

Có thời gian, Ng quản Minh đến mức, cả ngày Minh ăn mặc thật đẹp quanh quẩn hết phòng khách lại lên phòng ngủ, không dám bước cẳng ra khỏi cổng. Chiếc Mercedes cáu cạnh của Minh cũng không khác ông chủ, suốt ngày chỉ im ỉm nằm trong garage. Thỉnh thoảng Minh lại chui vào xe đề máy nghe chơi cho đỡ nhớ những giây phút tung hoành khắp phố chứ đố dám lăn bánh xe ra khỏi cổng khi không có Ng ngồi sau tay lái…--PageBreak--

Ngược lại, thời gian ở TP HCM lại là thời gian đường dây vận chuyển và buôn bán ma túy của Minh hoạt động mạnh nhất. Ngoài đường dây do Dung và đàn em đánh hàng từ Lào, Nghệ An chuyển về các cảng miền Trung tập kết xuống tàu biển thì một đường dây vận chuyển ma túy từ Campuchia về TP HCM và các tỉnh phía Nam đưa xuống tàu biển cũng được Minh củng cố. Mặt khác, Minh câu móc với cả tiếp viên hàng không như Tăng Anh Tuấn để vận chuyển ma túy từ Việt Nam đi nước ngoài và ngược lại bằng đường hàng không.

Cũng vào thời điểm này, cơ quan chức năng đã phát hiện ra con đường vận chuyển ma túy này. Lực lượng Công an đã mở nhiều đợt tấn công triệt phá nhiều đường dây vận chuyển và mua bán ma túy. Nhiều tên tội phạm bị tử hình. Minh chột dạ. Một đàn em của y từng tâm sự với chúng tôi, Minh nhiều lần nằm mơ thấy mình bị dựa cột, tỉnh giấc rồi mà miệng vẫn ú ớ không nói lên lời vì như có ai nhét chanh vào miệng, quần áo thì ướt đẫm mồ hôi. Sáng hôm sau, Minh kêu đàn em đến tâm sự: "Tàu bè bạc bẽo, ma túy bạc bẽo và đầy nguy hiểm… Anh muốn đổi nghề…".

Hàng chục năm cùng đám đàn em lăn lộn trong giới giang hồ, nhưng do thói bốc giời của Minh nên tiền bạc hốt được, hắn lại ném vào sòng bạc hay vác đi cá độ đá bóng hết. Ngoái đầu nhìn lại, hắn thấy trùm giang hồ Năm Cam từ tiếng tăm đến tiền bạc, cái gì cũng đủ đầy.

Ngược lại, hắn gần như trắng tay mà lúc nào cái thòng lọng của luật pháp cũng lơ lửng trên đầu. Chính ý nghĩ ấy đã thôi thúc Minh bàn với Dung kế hoạch cắt bớt phần buôn bán ma túy, đẩy mạnh công việc lấn chiếm lãnh địa bảo kê sòng bạc, khánh sạn, vũ trường của Năm Cam và tiến tới tiếm quyền Năm Cam trong giới giang hồ.

Để thực hiện kế họach, Minh thúc đẩy Dung kéo hàng chục tên đầu gấu từ Hải Phòng chạy vào TP HCM nằm vùng. Dung ra mặt buộc Năm Cam phải chia bớt tiền bảo kê để Dung nuôi đám đàn em. Thực hiện chỉ đạo của Minh, Dung cho đàn em xộc vào sòng bài của Năm Cam ở Cầu Hang, Đồng Nai chém đám con bạc và tuyên bố đứa nào còn bén mảng đến đây chơi sẽ chém chết.

Tại TP HCM, nhiều lần Dung tổ chức cho đàn em phá rối vũ trường Phi thuyền, địa điểm bảo kê của Năm Cam. Dù Năm Cam đã có nhân nhượng và chu cấp tiền bạc cho Dung nhưng để đạt được mục đích, Dung đòi Năm Cam chia sẻ quyền lợi, lãnh địa bảo kê nhà hàng, khách sạn, vũ trường, sòng bạc. Chính sự nôn nóng thực hiện ý đồ của Minh, của Dung đã đẩy Năm Cam đi đến quyết định "lấy số" Dung.
Minh “Sứt” bị bắt

Trở lại chuyện buôn bán ma túy của Minh “Sứt”, vào thời điểm những năm 1990 của thế kỷ XX, nhiều đường dây lớn khác do Thanh Tứ, Dũng “Đui” mỗi tên cầm đầu một đường dây lớn ở Nghệ An. Nhiều lúc hút hàng, bọn chúng vẫn lấy hàng của nhau nên biết hết cách tẩy nhau.

Lúc này, dưới tay Dũng gồm hàng chục tên đầu gấu ở Nghệ An. Đàn em của Dung, Minh tỏ ra không kém cạnh nên lấy Minh ra hù dọa Dũng. Mấy lần Minh hẹn mua hàng của Dũng nhưng đến lúc giao nhận hàng thì Minh giở quẻ. Từ đó hai bên luôn xảy ra ân oán với nhau.

Năm 1999, Dũng “Bắc Cạn", Dũng “Đui” cùng Dũng "Mode" mua thuốc phiện mang vào TP HCM tiêu thụ. Cả bọn thuê khách sạn Embassy để ở và tập kết hàng. Minh chỉ đạo Hải “Chó ngao" báo Công an đến bắt. Khi Công an ập tới, cả bọn bỏ lại cả hàng hóa, tiền mặt cùng một xe ôtô xuyên lục địa chạy thoát thân.
Vì tên gián điệp hai mang Dũng “Bắc Cạn", vừa là đàn em của Minh vừa là đàn em của Dũng “Đui”, nên sau vụ này, Dũng “Đui” thù Minh “Sứt” thấu trời. Dũng “Đui” tổ chức cho đàn em tìm Hải để chém. Hải sợ quá lặn một hơi không dám chường mặt ra chốn giang hồ.

Tháng 2/2001, Công an An Giang bắt quả tang hai đàn em của Minh là "Dũng Bường" và "Hải Luận" đang vận chuyển ma túy. Tuy là cánh khác, Dũng “Đui” cũng mua ma túy chung một mối từ Campuchia qua đường An Giang về TP HCM. Là một chuyên gia ném đá giấu tay, Minh đã xúi hai tên đàn em đổ tội đánh hàng thuê cho Dũng “Đui”. Dũng “Đui” bị bắt sau đó.

Ngày 22/12/2001, vụ án Năm Cam xảy ra, Hải “Bánh" thành khẩn khai báo vụ Dũng “Đui” tổ chức buôn lậu ma túy bị bắt hụt tại khách sạn Embassy nên Dũng “Đui” được di lý từ Công an An Giang về Công an Tiền Giang để làm rõ. Do thâm thù Minh, Dũng “Đui” khai toẹt ra hắn có bán cho Minh và Thanh mỗi tên hàng chục bánh heroin.

Sau đó, Thanh bị Ban chuyên án Năm Cam bắt. Với "thành tích" buôn bán cả ngàn bánh heroin, biết không thể thoát tội chết, Thanh xé áo quần kết lại tự treo cổ tự tử sau 13 ngày nhập trại. Ngày 26/5/2002, Minh cũng tiếp tục bị Ban chuyên án Năm Cam bắt về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 26/2/2004, Tòa sơ thẩm tại TP HCM tuyên phạt Minh mức án tù chung thân. Viện KSND Tối cao kháng nghị.

Ngày 16/6/2004, Tòa phúc thẩm Tòa án Tối cao tại TP HCM tuyên phạt Minh mức án tử hình. Ngày 18/6/2004, tử tù Ngô Đức Minh làm đơn xin tha tội chết. Xét thấy Minh đã thành khẩn khai báo tội trạng của mình và nhiều đường dây ma túy lớn tầm cỡ quốc tế khác, giúp cơ quan điều tra phá án thuận lợi. Áp dụng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước, đã ký quyết định tha tội chết cho hắn.

Sau 4 năm thi hành án, được sự giáo dục của cán bộ quản giáo Trại Xuân Lộc, Minh đã dần nhận ra tội lỗi của mình nên tích cực lao động cải tạo.

Tuy nhiên, hàng chục tội phạm đã bị tử hình, hàng chục tên khác bị ngồi tù vì sự lôi kéo, dụ dỗ của Minh vào con đường buôn bán cái chết trắng. Hàng chục góa phụ, hàng chục những đứa con côi cút mất cha, xa mẹ. Và cái chết của Dung “Hà”… tất cả sẽ còn ám ảnh Minh đến cuối đời .

6. Nguyễn Thị Phúc (Phúc Bồ)
1_241555.jpg
Cho tới giờ, khi những tay anh chị như Sơn "bạch tạng", Khánh "trắng" đã “dựa cột”, đám giang hồ đất Hà Nội một thời, nay chỉ còn Nguyễn Thị Phúc (Phúc "bồ") quay trở lại với cuộc đời sau khi phải “bóc 11 cuốn lịch”.

Vào những năm cuối của thập kỷ 1990, cái tên Phúc “bồ" và Khánh “trắng" từng là nỗi kinh hoàng cho những người dân lành vô tội buôn bán ở khu vực chợ Đồng Xuân, Hà Nội. Núp dưới danh nghĩa những đội bốc xếp, vận chuyển hàng hóa cho những người buôn bán, Phúc “bồ" và Khánh “trắng" thực chất là những tên lưu manh sừng sỏ cầm đầu những băng nhóm "xã hội đen" ngang nhiên lộng hành bắt nạt và chèn ép những dân lành buôn bán.

Bằng các thủ đoạn độc quyền vận chuyển, bốc xếp, thu tiền bến bãi, ép giá, bắt phạt, đe dọa báo cán bộ thuế vụ, chúng đã thu tiền trái phép đối với người kinh doanh buôn bán hoặc người từ địa phương khác đến giao hàng. Thậm tệ hơn, chúng đã xâm phạm chỗ ở, bắt giữ người trái pháp luật, cho vay nặng lãi, đòi nợ thuê, và tiến hành hàng chục vụ đâm thuê chém mướn gây thương tích cho người dân vô tội.

Tham gia giải quyết các vụ mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân bằng "luật rừng", cho đàn em khống chế đe dọa buộc bên đối phương phải chấp nhận những điều kiện và luật lệ do chúng đặt ra, băng nhóm của chúng đã khiến cho bao nhiêu người phải điêu đứng.

Nếu như Khánh “trắng" là một sát thủ máu lạnh đội lốt một ông đội trưởng đội bốc xếp có vẻ ngoài hào hoa lịch lãm và làm nhiều công tác từ thiện để che mắt thiên hạ thì Phúc “bồ" lại là một người đàn bà "hung dữ" trắng trợn cầm đầu băng nhóm "xã hội đen" thu nạp đám đàn em thân tín là những tên lưu manh trộm cắp, côn đồ hung hãn từng vào tù ra tội. Đàn bà dễ có mấy tay, mà đàn bà như Phúc “bồ" thì đàn ông dù có máu mặt giang hồ cũng phải quy phục dưới trướng của thị.

Không đến mức chém giết người dã man, trắng trợn và thâm độc như Khánh “trắng", song với 21 tháng tồn tại, băng nhóm của Phúc “bồ" làm mưa làm gió đối với bà con buôn bán ở chợ tạm Phùng Hưng và một số khu vực lân cận quanh chợ Đồng Xuân. (Lúc đó chợ Đồng Xuân bị cháy nên chính quyền lập chợ tạm Phùng Hưng cho bà con buôn bán). Đứng đằng sau với vai trò chủ mưu và cầm đầu băng nhóm, Phúc “bồ" đã dựng người tình của mình lên làm đội trưởng đội bốc xếp.

Thị lập ra các tổ bốc xếp nhỏ ở từng khu vực buôn bán các mặt hàng, đưa những tên lưu manh lên làm tổ trưởng và đề ra mức tiền hằng ngày phải nộp cho từng người, từng tổ, từng nhóm. Các đội viên phải tìm mọi cách để đạt chỉ tiêu, nếu không Phúc “bồ" sẽ cho người đánh, hoặc không cho làm nữa. Bằng cách đó, Phúc “bồ" và Khánh “trắng" thu nhập mỗi tháng hàng trăm triệu đồng.

Phúc “bồ" và Khánh trắng" từng **ng độ nhau rất nhiều lần để dàn xếp lãnh thổ hoạt động của băng nhóm. Nhiều vụ "thanh toán" nhau diễn ra khá tàn bạo. Điển hình là vụ chém nhau giữa hai băng nhóm ở bốt Hàng Đậu mà kết quả là người tình của Phúc “bồ" - đội trưởng đội bốc xếp của thị, đã bị đàn em Khánh “trắng" lấy đi một mắt do bị chúng hắt axít. Sau nhiều lần dàn xếp, cuối cùng khu vực hoạt động của hai băng nhóm được xác lập. Khánh “trắng" cai quản khu vực chợ Đồng Xuân, Phúc “bồ" cai quản ở các khu vực lân cận.

Tồn tại vỏn vẹn 21 tháng, có vẻ như khoảng thời gian ấy là quá ít so với tiếng tăm lưu manh giang hồ nổi khắp Hà Nội của băng nhóm Phúc “bồ". Cuối cùng thì Phúc cùng các đệ tử cũng đã bị pháp luật trừng trị đích đáng. Phúc “bồ" lĩnh án tù 11 năm ở trại 5 Thanh Hóa.

Khi còn bị "lưu kho" tại trại giam số 5 Thanh Hóa, lúc nào Nguyễn Thị Phúc cũng được vài ba chục chị em chăm bẵm từng miếng ăn, giấc ngủ. Ở đâu người đàn bà có nước da trắng, đôi mắt sắc lạnh như sói hoang, với những chiến tích độc nhất vô nhị, cũng được xếp vào vị trí đại ca.

Nhưng tất cả sự cung phụng của các phạm nhân trong buồng giam vẫn không thể khỏa lấp được nỗi nhớ nhà, nhớ chồng, con và cả người tình cùng những ngày tháng coi trời bằng vung của thị. Nhiều lúc Phúc "bồ" như điên dại, hết la hét lại khóc lóc một mình.

Cuối năm 2002 Phúc được ân xá ra tù. Không còn nhà cửa, nghề nghiệp, được sự giúp đỡ của anh trai và cô em gái, chị ta mua được một căn nhà ở phố Trần Khát Chân, mở hàng nước trà chén, sau đó chuyển qua buôn bán mỹ phẩm và điện thoại di động.

Có lẽ cái gì muốn thì người đàn bà này cũng thực hiện được nhờ quá khứ “thở ra khói nói ra lửa” của mình. Duy chỉ có một điều Phúc bất lực, đó là không thể cứu được hai con trai thoát khỏi nàng tiên nâu. Trước kia chuyên đi bắt chẹt người khác, nay Phúc "bồ" lại bị trắng tay bởi chính những đứa con của mình.

Do quá ham làm việc và nghĩ ngợi nhiều, bước sang tuổi 49 (tháng 8- 2005) Phúc đã bị một cơn tai biến mạch máu não. Trong những ngày chị ta vật lộn với cái chết tại bệnh viện, thì ở nhà 2 đứa con nghiện ngập lần lượt mang đồ đạc đi bán. Mặc dù có con nhưng Phúc thường xuyên bị bỏ đói và phải một mình vật lộn với nỗi đau thể xác.

Quá xót em, anh trai và em gái Phúc đã đưa chị ta về ngôi nhà nhỏ trong ngõ 57 Hàng Bồ để chăm sóc. Phúc thêm một lần đau đớn vì 2 đứa con, đứa phải vào trại cai nghiện, đứa thì đã chết trong một lần sốc thuốc. Chị ta đã suy sụp hoàn toàn.

Chúng tôi tìm đến ngõ 57 Hàng Bồ. "Bà trùm" một thời lừng lẫy trong giới giang hồ giờ ngồi bất động giữa chiếc giường sắt đen sì. Khi chúng tôi ngồi xuống cạnh người đàn bà bệnh tật đó cũng không có chút phản ứng nào. Trên khuôn mặt ngơ ngẩn chỉ duy nhất đôi mắt là phảng phất tia sắc lạnh của một thời vùng vẫy.

Thấy khách lạ, chị giúp việc tên Thanh tất tả chạy về. "Các anh có hỏi thì bà Phúc cũng chẳng biết trả lời đâu. Bây giờ bà ấy không nói được gì, chỉ giơ tay ra hiệu thôi. Trước tôi cũng có mấy người chăm sóc bà Phúc nhưng đều không chịu nổi vì bà ấy quá to béo và lại ăn uống nhiều, bài tiết lắm, tính nóng không thích cái gì là ném đi ngay".

Tôi hỏi: “Một ngày bình thường của bà Phúc thế nào? Chị Thanh thật thà liệt kê: "Sáng sớm ngủ dậy phải đưa bà ấy vào nhà vệ sinh tắm rửa, khắc phục hết hậu quả của một đêm tự do bài tiết. Sau đó đi mua đồ ăn sáng đút cho ăn, rồi bật TV để tự ngồi xem, lúc đó tôi quay sang dọn nhà, giặt quần áo. Trưa bà Phúc chỉ ăn phở, đến tối mới ăn cơm. Xưa bà ấy ăn sướng quen, nên bây giờ đồ không ngon là vứt đi ngay.

Tuy không nói được nhưng thi thoảng hễ ai cho tiền là bà ấy giắt luôn vào cạp quần". Chị Thanh nói, ngoài những người thân và hàng xóm chạy qua chạy lại hỏi thăm, thỉnh thoảng cũng có vài người tự nhận là đàn em đến, vội vàng dúi vào tay chị Phúc ít tiền rồi đi ngay, nhưng càng ngày càng thấy thưa dần. Chỉ có mấy anh công an khu vực thì vẫn đều dặn tới thăm hỏi, động viên.

Nhìn người đàn bà đã đờ đẫn cả về thể xác lẫn tinh thần, một mình cô đơn trong góc nhà, bao nhiêu ấn tượng về một Phúc "bồ" giang hồ khét tiếng chợt mờ đi. Chỉ còn lại trong lòng chúng tôi một nỗi buồn. Trong cuộc đời, dù cách này hay cách khác, có lẽ những người có quá khứ như chị ta đều ít nhất phải một lần trả giá...

7. Sơn Bạch Tạng
Giang-ho-dat-Bac--Son-Bach-Tang-2-1512379365-width500height389.jpg
Trong giới giang hồ miền Bắc từ trước đến nay, cái tên Sơn “bạch tạng” được nhắc đến với nhiều câu chuyện thêu dệt về nhân vật “cầm trịch” dân đao búa đất Hà thành.
Không giống như Khánh “trắng”, Phúc "bồ", Vinh "đồng", Dương Tử Anh... hay nhiều anh chị có máu mặt khác thích "trống giong cờ mở", Sơn lặng lẽ thu mình thống lĩnh việc cờ bạc và các hoạt động "đen" khác. "Tảng băng chìm" này của Sơn mang lại rất nhiều lợi nhuận và danh thế...

Là một trong những tay anh chị nổi tiếng nhất trong giang hồ nên Sơn "bạch tạng" luôn được các đơn vị công an "chăm sóc" kỹ lưỡng, đặc biệt là Phòng CSĐT tội phạm về TTXH của Công an TP Hà Nội. Tuy nhiên với sự khôn ngoan của kẻ đã lăn lộn trên giang hồ, Sơn "bạch tạng" vẫn giữ được "chất" của mình và luôn khiến dân đao búa đất Hà thành bái phục.

Trên khắp đất nước, bất kỳ một dân chơi nào cũng đều biết tiếng Trần Quốc Sơn tức Sơn "bạch tạng" như là một ông trùm thực sự của giang hồ Hà Nội. Các đại ca khét tiếng như Cu Nên, Cu Lý, Lâm "già", Minh "xăm", Thành "xăm"... đều phải kiêng nể Sơn trong các cuộc ân oán.

Khi giang hồ vào thời loạn, thế kiềng ba chân Sơn "bạch tạng" - Phúc "bồ" - Khánh "trắng" tan vỡ. Sơn có cơ hội thống lĩnh xã hội đen Hà Nội. Không bỏ qua thời khắc quý giá này, Sơn "chiêu binh mãi mã", xưng hùng xưng bá ở khu vực chợ xe Phùng Hưng và các sòng bạc lớn ở Hà Nội.

Sinh năm 1962, Sơn cầm tinh con hổ. "Chúa sơn lâm" luôn ngồi ghế tiên chỉ của dân đao búa trong mọi cuộc chơi. Tính Sơn nhỏ nhẹ, ít rượu chè, trong thời gian đấu đá với các đối thủ, Sơn lại càng lặng lẽ. Mỗi khi Sơn xuất hiện tại các vũ trường, tất cả những cô đào đẹp nhất phải ra hầu rượu. Mỗi khi Sơn "trót" sa chân vào vòng lao lý, tất cả các phạm nhân đều phải thừa nhận Sơn là "huynh trưởng". Đã nói là làm, đã làm là tới cùng, tính cách ấy thể hiện rõ trong các phi vụ làm ăn cũng như những cuộc thanh trừng bằng máu khiến bọn đàn em vô cùng khiếp sợ.

Khi Khánh "trắng" bị bắt, Sơn đã "lên ngôi" và trở thành "anh cả" tại giang hồ miền Bắc. Thế và lực của Sơn rất lớn bởi tiền và những gã đàn em máu lạnh, sẵn sàng xuống tay dao mỗi khi đại ca ra lệnh.

Cùng lúc đó ở Hải Phòng, Minh "sứt" cùng "tứ đại hộ pháp" của mình là Dũng "Bắc Kạn", Dũng AK, Dũng "đui", Dũng K cũng phô trương thanh thế thống lĩnh giang hồ đất Cảng. Minh đi buôn lậu hàng điện tử, hêrôin, xăng dầu... nên nguồn tài chính của gã hết sức khổng lồ. Đây là sự hậu thuẫn rất lớn cho Minh trong việc phong tỏa giang hồ cả nước. Ngoài ra, "tứ Dũng" của Minh đi đâu cũng vác hàng nóng đi theo nên băng nhóm của Minh ngày càng lừng lẫy thanh thế. Thậm chí chúng còn có cả súng AK đi áp tải hàng lậu.

Ngay từ đầu, Sơn và Minh đã chẳng ưa gì nhau nên mối quan hệ của giới hắc đạo hai thành phố rơi vào tình trạng "chiến tranh lạnh". Ngoài việc buôn ma tuý ra, đàn em của Minh là Dung "hà" mở các sới bạc tại Thuỷ Nguyên, Kiến An... cạnh tranh với Sơn và Thắng trong nghề đỏ đen bịp bợm. Không những thế, Dung còn cậy thế anh mình phong toả "giới tín dụng đen" tại Casino Hải Phòng khiến Hạnh "sự", một người em kết nghĩa của Thắng, mất đất làm ăn...

Quê gốc của Sơn "bạch tạng" ở phường Phương Liệt, Thanh Xuân nhưng sau đó chuyển về phố Ngô Thì Nhậm sinh sống. Là con út trong một gia đình nề nếp nhưng từ nhỏ Sơn đã quậy phá, ngỗ ngược và liên tục bị chính quyền địa phương tập trung cải tạo. Mới 15 tuổi, Sơn đã bị công an quận Hoàn Kiếm bắt vào vì tội móc túi (năm 1977).

Đến ngày 20/3/1978, Sơn tiếp tục bị tra tay vào còng cũng về tội "hai ngón". Ngày 19/1/1979, TAND quận Hoàn Kiếm xử Sơn 8 tháng tù, 12 tháng thử thách. Đến ngày 16/3/1980, Sơn lại tiếp tục bị bắt về tội danh trên. Không những thế, khi còn trẻ, ông trùm này còn rất nổi tiếng vì "máu lạnh" trong những cuộc đánh lộn, đâm chém. Trước những hành vi phạm tội liên tiếp đó của Sơn, chính quyền địa phương buộc phải lập hồ sơ đưa đi cải tạo tại trại Thanh Lâm, Thanh Hoá.

Do đã gây dựng được "số má" ở ngoài đời nên khi vào trại, Sơn được ngồi ghế "đại bàng". Ở đây, ông trùm máu lạnh này thu phục hàng loạt đàn em trong Nam ngoài Bắc để nhân rộng thanh thế. Đặc biệt là những đàn em ở Hải Phòng, Nam định được "đại ca" biệt đãi hơn cả.

Ngoài bản lĩnh do những ân oán giang hồ tạo nên, Sơn còn được đàn em hết sức nể phục vì sự điềm đạm, ăn nói khéo léo nhẹ nhàng và tính cách "nhất ngôn cửu đỉnh". Đã nói là làm và đã làm là hết mình nên Sơn được đàn em nể trọng không kém gì Thắng. Hơn nữa, ít ai thấy Sơn nói tục chửi bậy, uống rượu, không bao giờ sử dụng ma tuý nhưng đã ra tay thì hết sức lạnh lùng.

Sau những phi vụ làm ăn, Sơn bao giờ cũng tỏ ra cưu mang đàn em và không nhận phần nhiều về mình. Thậm chí, khi những cuộc xung đột trong hai giới hắc bạch xảy ra, Sơn cũng đứng ra dàn xếp tránh đổ máu cho đàn em và các băng nhóm khác. Khi cải tạo trong trại, mỗi lần nhận được quà cáp gửi vào, Sơn "bạch tạng" thường chia đều cho đàn em nhưng kẻ nào có ý định vượt mặt thì Sơn không bao giờ bỏ qua.

Không sống một cách vương giả tại Hải Phòng được nữa, mang theo mối hận trong lòng, Dung "hà" vào TPHCM theo hai đàn anh của mình là Minh "sứt" và Thành "chân" lập nghiệp giang hồ. Tuy nhiên, đi đến đâu cũng bị Thắng cản mũi, niềm uất hận của Dung lại càng cháy bỏng. Im hơi lặng tiếng hơn Dung nhưng Ngô Chí Thành tức Thành "chân" là đại ca giang hồ thực sự của Hải Phòng. Thành không thích trống giong cờ mở, phô trương thanh thế nhưng có thực lực trên giang hồ. Cu Lý, Cu Nên, Lâm "già", Dũng "Bắc Kạn", Oanh "hà", Dũng AK, Dũng "đui", Dung "hà" đều sợ Thành "chân" một phép.

Vào thời gian này, tại các vũ trường như Mưa rừng nhiệt đới, Đêm màu hồng, Phi thuyền... hàng đêm, Thành ngồi uống rượu một mình. Hầu hết các dân chơi, bảo kê có số má như Tài "ba đô", Dũng "lợn"... đi qua đều phải cúi chào lễ phép.

Năm 1995, Sơn "bạch tạng" bị phạt thi hành án tại trại tạm giam Thanh Hà (Phú Thọ), tiếng tăm của hắn vang đến tai Năm Cam, lúc đó cũng đang cải tạo tại đây. Hai người làm quen, và nhanh chóng trở thành cạ cứng của nhau. Năm Cam rất quý Sơn "bạch tạng", chúng kết tình huynh đệ. Ra khỏi trại giam, Năm Cam tin tưởng giao cho Sơn quản lý nhiều sòng cá độ ở thành phố, có việc gì quan trọng cũng đều gọi và giao trực tiếp cho người em kết nghĩa này.

Trở thành đàn em thân tín của anh Năm, được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, Sơn trở thành cái gai trong mắt nữ quái Dung Hà.
Trước khi Sơn xuất hiện, Dung Hà được anh Năm sùng ái. Năm Cam từng hứa giúp thị mở sòng bạc tại 17, phố Bùi Thị Xuân, TP HCM. Sòng bạc mở được 3-4 hôm, đang làm ăn thuận lợi, mỗi ngày thu về hơn 70 triệu đồng thì bỗng nhiên vắng khách. Cho đàn em điều tra, Dung Hà biết Thắng "tài dậu" cùng Sơn "bạch tạng" vừa từ Bắc vào, được Năm Cam tin dùng, giao cho quản lý một số sòng. Vì vậy sòng bài của thị bị phong toả, số con bạc lai vãng đến đây ít đi.

Để cứu vãn tình hình bi đát, Dung Hà đến xin được làm ăn cùng Năm Cam tại sòng bạc ở quận 8, nhưng bị từ chối thẳng thừng. Mở sòng thì không có khách, muốn chung sòng cũng không xong, Dung Hà càng nhảy dựng lên khi phát hiện, trong khi từ chối lời đề nghị của thị, Năm Cam lại cho Sơn chung sòng ở quận 8. Hơn nữa, Sơn không phải đóng "thùng tẩy", được hưởng 30% lãi thu được, đây là ngoại lệ trong giới giang hồ TP HCM. Thế là bao nhiêu nỗi cay cú được trút lên đầu Sơn "bạch tạng".

Biết Sơn có việc phải ra Hà Nội, Dung Hà tổ chức đàn em phục kích tại khách sạn Las Vegas ở số 7 Lê Văn Hưu. Nhưng kế hoạch bị đổ bể vì Sơn đã được báo trước nên không xuất hiện.

Về Sài Gòn, Sơn thưa lại mọi chuyện với ông anh kết nghĩa, Năm Cam lập tức cho gọi Dung Hà để hỏi, thị chối đây đẩy. Để làm rõ chuyện, Năm Cam tổ chức buổi đối chất tại nhà hàng Maxim giữa Thắng "tài dậu", Sơn "bạch tạng", Dung Hà cùng hai người nữa. Hà tiếp tục không thừa nhận, vì vậy Năm Cam đưa cho thị 3.000 USD với yêu cầu bỏ qua xích mích, và không quên cảnh cáo Dung Hà nếu muốn lấy mạng Sơn "bạch tạng" thì phải bước qua xác anh Năm.
Khi mâu thuẫn của Dung "hà" và Thắng "tài dậu", Sơn "bạch tạng" lên tới đỉnh điểm, Thành đã khuyên răn cô em đồng bóng của mình rất nhiều. Là kẻ lọc lõi trên giang hồ, Thành hiểu độ nham hiểm và sự tàn bạo của đối thủ. Thấy Dung không nghe, Thành liền bỏ đi Canađa sinh sống...

Khi Sơn "bạch tạng" và Thắng "tài dậu" bị đàn em Dung "hà" săn đuổi thì Hạnh vẫn có những mối quan hệ mật thiết với giang hồ đất Cảng. Còn Sơn bay vào TPHCM để "yểm bùa" đám giang hồ "Ba Ke" đang quấy nhiễu tại các vũ trường, nhà hàng. Vào thời gian này, dân dao búa miền trong rất ngại những tay anh chị từ Nam Định, Hải Phòng, Hà Nội mò vào. Những cái tên như Hưng "mi nhon", Trường "xoăn", Tuấn "tăng", Thuỷ "lẩm", Dũng "heo", Dũng “paléttin"... khiến dân giang hồ miền Nam toát mồ hôi hột.

Những trận huyết hận tương tàn của vài chục tên côn đồ miền Nam cùng lắm chỉ làm đổ máu chút ít. Lâu lâu mới nhỡ tay đao khiến có kẻ vong mạng. Nhưng khi giang hồ miền Bắc đã ra tay thì không tàn phế suốt đời cũng hồn lìa khỏi xác. Với sở trường lạnh lùng như thế, giới hắc đạo miền Nam ngại dân anh chị miền Bắc một vành. Vì vậy, Sơn "bạch tạng", kẻ cầm tinh con hổ lẫy lừng này cũng như hàng chục đàn em trung thành của Sơn luôn là "bức tường thép" lấy le với giới hắc đạo Hải Phòng, Nam Định...

8. Dương Văn Khánh (Khánh Trắng)
khanh_trang.jpg
Khánh "Trắng", tên thật là Dương Văn Khánh, là một nhân vật cầm đầu băng đảng xã hội đen gồm 19 tội phạm khét tiếng Hà Nội trong những năm cuối của thế kỷ 20. Khánh bị bắt, đem ra xét xử, bị lãnh án tử hình năm 1997.

Theo bản án hình sự sơ thẩm và phúc thẩm thì Khánh "Trắng" phạm 4 tội: giết người, cướp tài sản công dân, trốn thuế và che giấu tội phạm. Khánh phải nhận án tử hình và phải nộp cho Nhà nước gần 3,9 tỷ đồng, trong đó có hơn 3,5 tỷ đồng tiền phạt, 350 triệu đồng tiền thuế, tiền án phí, bồi thường cho các bị hại...

Khánh "Trắng" có vẻ ngoài nho nhã, thư sinh song lại được xem là một sát thủ máu lạnh đội lốt một ông đội trưởng bốc xếp. Với vẻ ngoài hào hoa lịch lãm và làm nhiều công tác từ thiện đều là để che mắt thiên hạ .

Tuy nhiên, Khánh "Trắng" từng có lần bị tạt acid cực nặng và vụ này do trùm dao búa Nguyễn Việt Dũng ở Hải Phòng thực hiện. Giới giang hồ đồn đại rằng: theo đơn đặt hàng của trùm Dũng, đàn em của Dung Hà từ Hải Phòng lên Hà Nội tạt acid Khánh Trắng, đội trưởng đội bốc xếp chợ Đồng Xuân. Thế nhưng, sau khi bỏ cả núi tiền chữa sẹo mà không hết, Khánh vẫn không dám dọa hoặc chơi lén lại Dũng .

Thiếu tướng Phạm Xuân Quắc, nguyên Cục trưởng Cục Cảnh sát Điều tra Tội phạm về Trật tự Xã hội (C14), Bộ Công an chính là Trưởng ban chuyên án vụ bắt trùm tội phạm Khánh “trắng” và đồng đảng ở Hà Nội năm 1996. Ông Quắc cho rằng, xét về mặt tổng kết các nghiệp vụ của ngành công an, thì vụ án băng nhóm của Khánh “trắng” vẫn là một cái mốc quan trọng đánh giá sự tiến hóa nguy hiểm của tội phạm hình sự ở Việt Nam, từ chỗ hoạt động theo kiểu các ổ nhóm nhỏ lẻ bắt đầu liên kết với nhau thành những băng nhóm tội phạm quy mô lớn, có tổ chức chặt chẽ với các hoạt động bảo kê, móc nối theo kiểu xã hội đen, đâm thuê chém mướn và đòi nợ thuê.

Năm 1991, ở Hà Nội có một vụ giết người do Dương Văn Khánh (Khánh “trắng”) cầm đầu, thực hiện. Sự việc xảy ra khoảng 12h30 ngày 24/3/1991.

Nguyễn Đức Thắng (tức Đạt) trong băng buôn bán mũ cối giả ở chợ Đồng Xuân xích mích với Trần Đại Dương, đàn em của Khánh “trắng”. Khi Khánh “trắng” cùng các đàn em Trần Đại Dương, Vũ Quốc Dũng, Phạm Gia Chiến, Tống Văn Thắng đi ngang số nhà 44 Hàng Chiếu thì gặp Hưng, anh ruột Đạt. Khánh “trắng” hô đàn em bắt Hưng. Hưng chống cự, bị cả bọn quây lại đánh hội đồng.

Biết anh đang bị đánh, Đạt cướp dao thái thịt của chị Hoa ở đường Nguyễn Thiện Thuật chạy đến đâm Chiến và Dũng bị thương. Đạt bị băng Khánh “trắng” bắt đưa lên xích lô, nhưng khi đến Công an phường Đồng Xuân thì Đạt đã chết... Nguyên nhân chết của Đạt được pháp y Công an Tp. Hà Nội xác định do nhát đâm vào cổ xuyên thấu phổi, mất máu... Dũng bị phạt 1 năm tù giam.

Sau này, ngày 28/1/1996, Ủy ban thẩm phán TAND tối cao xét xử tái thẩm vụ án đã hủy hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm năm 1991 bằng Quyết định 55/UBPT vì lý do Vũ Quốc Dũng không có hành vi giết người...

Cơ quan CSĐT Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) xác định Dương Văn Khánh dàn dựng có bài bản để Dũng “phở” chỉ phải chịu mức án nhẹ nhất. Qua lời khai của Dũng “phở”, Trần Đại Dương, Tống Văn Thắng và các nhân chứng khác, Cơ quan điều tra biết rằng các nhát đâm trên người Đạt đều do một mình Khánh “trắng” thực hiện bằng chính con dao mà Đạt cướp của chị Hoa.

VN-Zoom tổng hợp từ nhiều nguồn
 
Sửa lần cuối:
Trả lời

dammage

Rìu Chiến
trước 1975 sài gòn có "tứ đại thiên vương" đại, tỳ, cái, thế, năm cam chỉ đáng làm đàn em của mấy ông này
còn VN ngày nay có tứ trụ HDST
 

VNZ-ROAD

NEXTVNZ
Đã có phim làm về Năm Ca và Dung Hà, nhưng chưa thấy đã
 

Cloud

Administrator
Vẫn top thịnh hành, hi vọng đạo diễn nào đó có thể chuyển thể thành viên, VN-Z xin slot tài trợ diễn viên {amazed}
 

dongdateh

Gà con
trước 1975 sài gòn có "tứ đại thiên vương" đại, tỳ, cái, thế, năm cam chỉ đáng làm đàn em của mấy ông này
còn VN ngày nay có tứ trụ HDST
Thích nhất câu cuối của bạn {big_smile}. Tuy nhiên đến hiện giờ thì chắc còn mỗi T là hùng cứ tứ phương và trở thành "nhất trụ", HDS thì đã rửa tay chậu vàng, gác kiếm quy ẩn giang hồ từ lâu.{bike}